text
stringlengths
78
4.36M
title
stringlengths
4
2.14k
len
int64
18
943k
gen
stringclasses
1 value
Bài làm 1 Dù đã đi ngược về xuôi, vào Nam ra Bắc, nhưng tôi chưa từng nhìn thấy một cây bàng nào từng trải và to lớn như cây bàng phố tôi. Thân nó to, phải hai, ba vòng tay người lớn mới ôm xuể. Còn tán nó rộng, che kín cả một cái sân lớn diện tích cả trăm mét vuông. Sinh thời bác tôi bảo: Cây bàng lớn này dễ thường đã sống cả trăm năm, đáng được gọi là cây bàng cổ thụ. Tuổi thơ tôi gắn bó với cây bàng cổ thụ. Tôi nhớ những lần trốn nắng, trú mưa trong sự chở che hào phóng của tán bàng, những lần thưởng thức mùi vị ngọt chát hấp dẫn của quả bàng chín, những lần nhấm nháp vị bùi bùi khó tả của nhân quả bàng và nhớ cả những lần đi bắt ve, những lần chơi trốn tìm hớ hênh quanh gốc bàng. Tất cả cho tôi hình dung về một khái niệm bàng của riêng đám trẻ phố tôi. Tôi thích nhất là vào tiết rét lộc vào cữ tháng 2 âm lịch, theo cách phân chia mùa đông của các cụ nhà ta: Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba cộc rét. Vào thời điểm ấy, những lộc bàng râm ran như thể đang mời mọc nhau, mời gọi nhau mọc, mời gọi nhau lớn cho kịp phủ kín cành vào đầu mùa hạ. có thể nói: Lá bàng (cũng giống như một số cây khác thuộc hộ nhà xoan) có biểu hiện rõ nhất về sự chuyển mùa, nếu như có một ai đó chịu khó quan sát sự phát triển và tàn lụi lẫn sự đổi thay màu lá của nó. Có lẽ vì thế mà từ bao đời nay, đám trẻ hay lưu luyến mấy câu trong lời một vầi bài hát: Mùa đông lá đỏ, mùa hạ lá xanh…như một điệp khúc chào đón mùa hè quay trở lại (sau này tôi mới biết đây là phần mở đầu trong ca từ một ca khúc của nhạc sĩ Hoàng Vân viết cho thiếu nhi vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước). Có một nhà thơ, trong khi nhìn ngắm mùa đông, nhìn ngắm màu đỏ của lá bàng mà đã viết được một bài thơ thật xúc động: Vẫn gió bấc căm căm/ Vãn mơ hồ mưa bụi/ Vẫn những lá bàng uốn cong mình mà cháy/ Đỏ như khi phải từ biệt bầu trời/ Anh chẳng biết thế nào để yêu em thêm nữa/ Khi mùa đông tới gần…. Nhưng đến bây giờ thì cây bàng cổ thụ ấy không còn nữa. Vì lấy đất dành cho sự mưu sinh, người ta đã triệt hạ nó. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về đứng trên mảnh đất từng gắn bó với cây bàng cổ thụ mà lòng không khỏi xót xa, tiếc nuối. Trong lòng tôi tự dưng thấy trống trải thiếu thốn… Bây giờ, cứ mỗi khi nhìn thấy lá bàng đỏ rực lên sau khi hoàn tất chức phận của mình, để mà rụng về gốc, trong buổi giao mùa, tôi lại nao nao nhớ cây bàng cổ thụ. Cũng phải, vì nó là một phần kỷ niệm không thể thiếu trong khoảng trời thơ ấu và đáng nhớ của chúng tôi. Bài làm 2 Có rất nhiều loại cây gắn bó với tuổi học trò nhưng loại cây mà tôi thích nhất lại là cây bàng, người bạn đã gắn bó với tôi trong suốt tám nam học qua. Nhìn từ xa, cây bàng như cái ô xanh khổng lồ. Rễ bàng ngoằn nghèo bám sâu vào lòng đất. Thân cây to, sần sùi nứt nẻ vì trải qua bao phong ba bão táp. Tán lá to, xòe rộng, đan xen nhau như tấm thảm khổng lồ, che mát cho chúng tôi vào những ngày hè nóng nực. Hoa bàng mọc trên ngọn cây, cánh hoa mịn màng như nhung, màu trắng ngà, hương thơm không nồng chỉ dịu dàng phảng phất, dễ làm say lòng người. Nhưng thích nhất vẫn là được thưởng thức hương vị bùi bù, ngầy ngậy, thơm thơm của trái bàng chín. Mùa hè, dưới ánh sáng mặt trời chói chang, lũ trẻ chúng tôi vẫn không ngừng đùa ngịch. Hết đã bóng lại chơi trận giả, hết kéo co lại chơi trốn tìm… Khi đã mệt mỏi, mồ hôi đầm đìa khắp người thì đâu sẽ là nơi nghỉ ngơi tốt nhất? Đó chính là dưới bóng mát của cây bàng. Chúng tôi nằm ngồi thoải mái trên những cái rễ gồ lên của gốc cây, vừa thưởng thức làn gió mát rưởi thổi từ Hồ Tây, vừa tán gẫu hoặc thưởng thức một cây kem. Các bạn có biết không, bàng không chỉ che mát cho mọi người, lá bàng dùng để gói xôi sáng. Những chiếc là bàng to, không bị rách được các bà đem về rửa sạch gói xôi bán. Thật tuyệt khi sáng sáng được ăn những gói xôi bằng lá bàng. Cái hương thơm phức của gạo nếp hòa quyện với mùi hương đặc biệt của lá bàng làm gói xôi có một hương vị đặc trưng, đã ngon lại càng ngon hơn. Cây bàng thật đáng yêu và đáng quý phải không các bạn? Trong tôi, cây bàng thật đẹp. Nó đẹp giản dị, mộc mạc chứ không lỗng lẫy như một số loài cây khác. Cây bàng là người bạn tri kỉ thân thiết của tôi, luôn đồng hành cùng tôi trong những năm tháng cắp sách tới trường. Bài làm 3 Nhìn từ xa, cây bàng như một chiếc ô khổng lồ nhiều tầng xoè tán chùm bóng mát cả một khoảng sân trường rộng cho chúng tôi vui chơi giải trí sau mỗi giờ học căng thẳng. Lại gần cây bàng tròn, thẳng mầu nâu sẫm như dãi giầu qua nhiều năm tháng. Cây bàng là một loại cây rất nhậy cảm với sự thay đổi của bốn mùa. Nhìn lá bàng người ta có thể nhận biết chính xác các mùa trong năm. Vào mùa thu, khi tiết trời se lạnh những chiếc lá bàng to như hai bàn tay người lớn vốn mầu xanh đâm chuyển sang mầu vàng gạch quăn dần mép lá rồi vồng lên như hình mo cau. Lúc này nó đó biến sang mầu đỏ tía và khi những chị gió thu tinh nghịch thổi đến nó vội vã bứt ra khỏi cành chao liệng giữa không trung i hệt những cánh tay vẫy chào tạm biệt nơi đã sinh ra mình. Nhìn những chiếc lá bàng nằm trải dài trên sân trường trông mới tuyệt làm sao! Cứ thế, những chiếc lá bàng chuyển dần mầu sắc cho đến khi những cơn gió lạnh buốt từ phương Bắc tràn về thì cây bàng không còn một chiếc lá nào nữa. Còn lại những cành trơ trụi trông có vẻ khẳng khiu gông mình chịu đựng cái rét lạnh buốt của mùa đông nhưng trong những cành khẳng khiu ấy vẫn trần trề nhựa sống. Rồi tiết trời như ấm lại, xuân đã về. Chỉ một tuần thôi thì những trồi non xanh li ti đã điểm hết những cành to, cành nhỏ. Thoáng cái đã thấy mầu xanh non bao phủ lấy toàn thân cây và chuyển dần sang mầu xanh đậm. Những chiếc lá của tầng thấp, tầng cao phát triển nhanh đến kì lạ. Từ bé bằng bàn tay trẻ nhỏ mà nay đã phè phè như cái quạt mo. Cho đến khi mùa hạ về, lá vàng rợp mát cả một khoảng sân và đây là thời điểm mà tụi nhỏ chúng tôi tụm năm tụm bẩy vui đùa nhảy nhót hết sức thỏa mái vào những giờ chơi dưới gốc bàng mát rượi thân yêu này. Bàng còn là nơi gọi chim về tụ hội ca hát nhảy múa trong vòm lá. Càng tô điểm cho cây vẻ đẹp mĩ miều. Tụi nhỏ chúng tôi yêu cây bàng này lắm bởi nó đã gắn bó với ngôi trường tôi. Nó còn là nơi chứng kiến bao kỉ niệm vui buồn của chúng tôi. Dù mai này có phải xa mái trường, xa cây bàng yêu dấu này thì hình ảnh về cây bàng mãi mãi in đâm trong tâm trí tôi.
Thuyết minh về cây bàng
1,394
Thuyết minh về cái bút máy Suốt quãng đời cắp sách đến trường, người học sinh luôn bầu bạn với sách, vở, bút, thước… và coi đó là những vật dụng không thể thiếu được. Trong số những dụng cụ học tập ấy thì tôi yêu quý nhất là cây bút bi, một vật đã gắn bó với tôi nhiều năm và chắc trong tương lai sẽ còn hữu ích với tôi lắm! Hồi còn ở cấp một, tôi dùng bút máy viết mực và chữ tôi khá đẹp, nhưng khi vào cấp hai thì nó lại gây cho tôi khá nhiều phiền toái. Tôi phải vừa viết vừa nghe Thầy, cô giảng bài với tốc độ khá nhanh nên bút máy không thể đáp ứng được yêu cầu này. Chữ viết lộn xộn và lem luốc rất khó coi! Lúc ấy thì Ba mua tặng tôi một chiếc bút bi với lời khuyên: “con hãy thử xài loại bút này xem sao, hy vọng nó có ích với con”. Kể từ đó tôi luôn sử dụng loại bút này để rồi hôm nay có dịp nhìn lại, tìm hiểu đôi điều về nó. Chiếc bút bi đầu tiên, được một nhà báo Hungary làm việc tại Anh tên Laszlo Biro giới thiệu vào năm 1938. điều khiến Ông nghĩ ra việc sáng chế ra loại bút này là vì những cây bút máy luôn gây cho Ông thất vọng, chúng thường xuyên làm rách, bẩn giấy tờ, phải bơm mực và hay hư hỏng… Vào ngày 15 tháng 6 năm 1938 ông Biro được nhận bằng sáng chế Anh quốc. Từ khi bút bi được ra đời nó đã được cải tiến nhiều để phù hợp với người dùng và đã trở nên thông dụng khắp thế giới. Tuy có khác nhau về kiểu dáng như chúng đều có cấu tạo chung giống nhau. Bút bi có ruột là một ống mực đặc, đầu ống được gắn với một viên bi nhỏ có đường kính khoảng từ 0,7 đến 1 milimet, được coi như là ngòi bút. Khi ta viết mực được in lên giấy là nhờ chuyển động lăn của viên bi này và loại mực dùng cho bút khô rất nhanh. Con người thường ít nghĩ đến những gì quen thuộc, thân hữu bên mình. Họ cố công tính toán xem trung bình một đời người đi được bao nhiêu km hay một người có thể nhịn thở tối đa bao nhiêu phút nhưng chắc chưa có thống kê nào về số lượng bút họ dùng trong đời! Một cây bút cũng giống như cơ thể con người vậy, ruột bút là phần bên trong cơ thể, đầu bi chính là trái tim và mực chứa trong bút được ví như máu, giúp nuôi sống cơ thể. Còn vỏ bút giống như đầu, mình, tứ chi vậy… chúng phải cứng cáp thì bút mới bền, hoạt động tốt cũng như tạo cho người sử dụng cảm giác thoải mái. Màu sắc và hình dáng bên ngoài giống như quần áo, làm tăng thêm vẽ đẹp cho bút. Các chi tiết của bút dù quan trọng hay thứ yếu đều góp phần tạo nên một cây bút. Như một kiếp tằm rút ruột nhả tơ, âm thầm giúp ích cho đời để rồi khi cạn mực, chúng bị vứt bỏ một cách lạnh lùng. Mấy ai nhớ đến công lao của chúng! Bước vào năm học mới, các nhà sản xuất bút bi như Bến Nghé, Đông Á, Thiên Long, Hán Sơn… đã lần lượt cho ra đời hàng loạt mẫu mã từ đơn giản cho đến cầu kỳ như bút bấm, bút xoay, bút hai màu, ba màu… đủ chủng loại khác nhau nhằm đáp ứng như cầu người sử dụng. Các cậu nam sinh thì chỉ cần giắt bút lên túi áo đến trường nhưng nhiều bạn gái lại thích “trang điểm” cho bút các hình vẽ, hình dáng xinh xắn lên thân hay đầu bút còn được đính thêm con thú nhỏ ngộ nghĩnh… Thế là những chiếc bút bi lại theo chân trò nhỏ đến trường, giúp các cô, cậu lưu giữ những thông tin, kiến thức vô giá được thầy cô truyền đạt lại với cả tấm lòng! Có cây bút vẻ ngoài mộc mạc, đơn giản song cũng có cây được mạ vàng sáng loáng. Nhìn bút, người ta biết được “đẳng cấp” của nhau, nhưng nhìn vào nét chữ người ta mới đoán được tính cách hay đánh giá được trình độ của nhau. “Một chiếc áo cà sa không làm nên ông thầy tu”, một cây bút tuy tốt, đắt tiền đến cỡ nào cũng chỉ là vật để trang trí nếu vào tay kẻ đầu rỗng mà thôi! Bút là vật vô tri, nên nó không tự làm nên những câu chữ có ý nghĩa nhưng nếu trong tay người chủ chuyên cần, hiếu học nó sẽ cho ra đời những bài văn hay, những trang viết đẹp. Để trở thành người chủ “tài hoa” của những cây bút, người học sinh cần rèn luyện cho mình thói quen vở sạch, chữ đẹp và luôn trau dồi kiến thức học tập… hãy biến chúng thành một người bạn thân thiết, một cánh tay đắc lực trong việc học tập bạn nhé! Cùng với sách, vở… bút bi là dụng cụ học tập quan trọng của người học sinh, vì vậy chúng ta cần phải bảo quản bút cho tốt. dùng xong phải đậy nắp ngay để tránh bút rơi làm hư đầu bi, bộ phận quan trọng nhất của bút. Đặc biệt là luôn để bút ở tư thế nằm ngang giúp mực luôn lưu thông đều, không bị tắc. Một số loại bút bi có thể thay ruột khi hết mực và mình xin mách các bạn một mẹo nhỏ là nếu để bút bi lâu ngày không xài bị khô mực thì đừng vội vứt bỏ mà chỉ cần lấy ruột bút ngâm trong nước nóng độ 15 phút… cây bút của bạn có thể được phục hồi đấy! Có thể nói rằng bút bi là một trong những phát minh quan trọng của con người. Ngày nay cứ 1 giây lại có 57 cây bút bi được bán ra trên thế giới, chứng tỏ tầm ảnh hưởng quan trọng của nó. Khoa học tiến bộ, nhiều công cụ ghi chép tinh vi hơn, chính xác hơn lần lượt xuất hiện nhưng bút bi vẫn được nhiều người sử dụng bởi nó rẻ và tiện lợi. Cầm cây bút bi trên tay, nắn nót từng chữ viết cho người thân yêu, chúng ta mới gửi gắm được trong đó bao nhỉ Thuyết minh về cây bút bi. Bút bi là một dụng cụ học tập quen thuộc của mỗi một học sinh và nó sẽ luôn gắn bó với chúng ta suốt chặng đường tiếp thu học vấn cũng như công việc. “Nét chữ là nết người” – câu thành ngữ ngắn gọn đã đi sâu vào trong tiềm thức của mỗi người dânViệt Nam, nhắc nhở ta về học tập cũng như tầm quan trọng của nét chữ. Bởi học tập là một quá trình đầy khó khăn vất vả để xây dựng những nhân tài phục vụ cho tổ quốc ngày càng tuơi đẹp. Và trong quá trình gian nan đó, đóng góp một công lao không nhỏ chính là cây bút bi. Bút bi được phát minh bởi nhà báo Hungari Lazo Biro vào những năm 1930. Sau thời gian nghiên cứu, tìm hiểu, ông Biro phát hiện ra được một loại mực in giấy rất nhanh khô. Từ đó, ông đầu tư thời gian nghiên cứu và chế tạo ra một loại bút sử dụng loại mực như thế. Bút bi được tạo thành từ 2 bộ phận chính là Vỏ bút và Ruột bút. Ở bộ phận thứ nhất là vỏ bút thường có chất liệu làm bằng nhựa (hay kim loại được phủ sơn) được sử dụng để bào vệ các thiết bị bên trong, đồng thời làm cho cây bút được đẹp và sang trọng hơn. Vỏ bút thường có dạng hình ống trụ tròn dài từ 14-20cm, trên thân bút thường được in tên nhà sản xuất và một vài thông số kỹ thuật (tùy loại bút). Để thu hút người dùng, các nhà sản xuất thường tạo ra nhiều mẫu mã đa dạng và phong phú; hấp dẫn về màu sắc, kết hợp nhiều màu sắc (trắng – xanh – đỏ – vàng – tím – lục – lam…) để tăng tính mỹ thuật và làm đẹp thêm cho cây bút. Để hấp dẫn đối tượng học sinh, bút có thể mang hình dáng quá ngô, hay hình Doremon hoặc in hình các nhân vật truyện tranh, ngôi sao điện ảnh lên thân bút. Để tăng tính sang trọng cho cây bút, phụ vụ người làm việc công sở, kinh doanh, bút có thể được làm bóng óng ánh, mạ màu vàng hay màu bạc sáng chói, nhìn là biết sản phẩm cao cấp, mắc tiền. Về chủng loại, bút bi có hàng nhập nước ngoài (hàng ngoại) và hàng sản xuất trong nước (hàng nội). Có người cho rằng "hàng ngoại nhập là tốt nhất" nhưng thực ra chưa phải là như thế. So về mặt giá cả của loại bút bình thường, bút bi nội có giá trung bình từ 1500 đồng đến 5000 đồng một cây, còn bút ngoại nhập có giá từ 5000 đồng đến 10000 đồng, thậm chí còn lên đến 15000 đồng một cây. Trong khi đó, so sánh về chất lượng, bút bi nội và bút bi ngoại đều có cùng dung tích mực, độ bền như nhau. Chính vì vậy, bút bi nội được các bạn học sinh ưa chuộng và sử dụng nhiều hơn. Ở bộ phận thứ hai là ruột bút có vai trò quan trọng trong số các bộ phận của cây bút vì nó có chứa mực (mực xanh, mực đỏ, mực đen,…), có tác dụng giữ mực để đẩy mực ra ngoài khi chúng ta viết. Trong ruột bút, ở phần đầu có một viên bi nhỏ (lăn tròn khi chúng ta viết) để làm điều hòa lượng mực có trong bút. Ruột bút thường được làm từ nhựa dẻo, rỗng để chứa mực đặc hoặc mực nước. Đặc biệt, để làm nên cây bút bi thì không thể thiếu bộ phận đi kèm như: lò xo, nút bấm, nắp đậy, trên ngoài vỏ có đai để gắn vào túi áo, vở, tạo sự thuận lợi cho người dùng. Cách sử dụng bút bi thì rất đơn giản. Chúng ta chỉ cần vặn nhẹ, hoặc ấn nút hoặc rút nắp bút lên. Sau đó thì dặt bút xuống để viết, khi viết xong, chúng ta cần đậy nắp bút lại cẩn thận, tránh làm rớt bút. Cây bút bi là đồ vật không thể thiếu đối với người học sinh, nó vừa tiện lợi mà cũng rất thông dụng lại hiệu quả cao cho mọi công việc. Không chỉ học sinh mà những người làm văn phòng, làm kinh doanh cũng cần đến, bởi họ luôn phải ghi chép hay kí những hợp đồng hay những công trình nhận thi công. Bút bi có vai trò quan trọng trong học tập và làm việc. Đối với bản thân em, bút bi là dụng cụ học tập quan trọng, giúp em viết nên những nét chữ xinh xắn, tròn đẹp, viết nhanh và vẽ nên những gì em thích. Em không thể thiếu bút bi mỗi ngày đến lớp, vì vậy em rất yêu quý và gìn giữ bút bi mỗi ngày.
Thuyết minh về cây bút bi và bút máy
1,945
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về cây bút bi – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Nguyên 2 Thuyết minh về cây bút bi – Bài làm 2 3 Thuyết minh về cây bút bi – Bài làm 3 4 Thuyết minh về cây bút bi – Bài làm 4 5 Thuyết minh về cây bút bi – Bài làm 5 Thuyết minh về cây bút bi – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Nguyên Trong cuộc sống hiện đại hiện nay, việc sử dụng các loại viết để học tập và làm việc là không thể thiếu nhưng để lựa chọn loại viết phù hợp với thời đại công nghệ thông tin sao cho vừa nhanh, tiện lợi và ít tốn kém cũng là điều vô cùng quan trọng và sự ra đời của bút bi đáp ứng nhu cầu đó. Từ những năm bắt đầu việc học người ta đã biết sử dụng các công cụ để có thể viết chữ. Thô sơ nhất là sử dụng lông vịt, lông ngỗng chấm vào mực, mực được bào chế từ các loại lá, quả, hoa có màu sắc giã nát ra. Nhưng đó là trong những năm còn lạc hậu việc sử dụng viết lông ngỗng để viết rất bất tiện vì lúc nào cũng phải mang theo lọ mực, sử dụng xong lại phải lau sạch và việc cứ phải liên tục chấm đầu lông ngỗng vào mực cũng rất mất thời gian và sau đó một nhà báo người Hungari đã chế tạo ra cây viết mực Lazso Biro. Việc sử dụng bút mực để rèn chữ là một điều rất tốt vì nét chữ sẽ đẹp song giá thành một cây bút máy khá đắt, nặng và khi viết khá chậm. Cho đến những năm gần đây người ta mới phát minh ra bút bi. Nó vừa đáp ứng nhu cầu rẻ, tiện lợi và nhẹ nữa phù hợp với nhiều đối tượng, nhất là học sinh, sinh viên. Cấu tạo bên trong của bút cũng khá là đơn giản: vỏ bút được làm bằng nhựa hoặc bằng các kim loại dẻo trong suốt. Bên trong là ruột bút, ống dẫn mực, ngòi bút, lò xo. Ngòi bút có đường kính từ 0,25mm đến 0,7mm tùy theo nhu cầu của người sử dụng. Còn về việc sử dụng bút cũng khá là dễ dàng, khi cần thiết chỉ cần ấn vào đầu bút ngòi bút sẽ tự động lộ ra để chúng ta có thể sử dụng. Khi không sử dụng nữa ta chỉ cần ấn lại đầu bút, ngòi bút sẽ tự động thụt lại, lúc đó bạn có thể mang bút đi khắp mọi nơi mà vẫn yên tâm tránh được các tác nhân bên ngoài va chạm vào ngòi bút. Hiện nay người ta còn tìm ra cách để chế tạo những bút lạ hơn như bút nhũ, bút nước, bút dạ quang… phù hợp với người tiêu dùng, vừa phù hợp với túi tiền vừa có thể theo học sinh đến trường, theo các nhân viên văn phòng đến cơ quan,… Ngoài ra còn có các phát minh về một số loại viết có thể viết được dưới nước, ở những nơi có áp suất khí quyển thấp. Nói gì thì nói, ta cũng không thể phủ nhận những khuyết điểm còn có ở bút bi là rất khó rèn chữ vì ngòi bút nhỏ, trơn và rất cứng không phù hợp với những học sinh cấp Một đang luyện chữ vì khi nào nét chữ đã cứng và đẹp ta hãy sử dụng, ngoài ra bút còn rất dễ bị tắc nghẽn mực trong khi sử dụng có thể là do lỗi của các nhà sản xuất hoặc cũng có thể do chúng ta làm rơi viết xuống đất và làm ngòi bút va chạm vào các vật cứng. Do vậy, sử dụng bút tuy là đơn giản nhưng chúng ta cũng nên biết cách bảo quản bút sao cho bút có thể sử dụng được lâu và bền hơn như: sau khi sử dụng bút xong thì nên bấm đầu bút thụt lại để không bị rớt xuống đất, khô mực hoặc va chạm vào các vật cứng sẽ dễ làm vỡ vỏ bút hoặc làm bể đầu bi. Một đặc điểm nhỏ mà ít ai nghĩ đến là có thể biến những cây bút bi thành những món quà nhỏ, xinh xắn, dễ thương và vô cùng ý nghĩa để làm món quà tặng người thân, bạn bè, thầy cô. Bút còn là người bạn đồng hành với những anh chiến sĩ ngoài mặt trận, để các anh có thể viết nhật kí, viết thư về cho gia đình. Viết xong, các anh có thể giắt cây bút vào túi áo không sợ rơi mất, khi cần thiết có thể lấy ra dễ dàng và sử dụng ngay. Bút là người bạn nhỏ, luôn sát cánh đồng hành trong công việc, học tập của mọi người, không tốn kém nhiều chi phí lại có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh, điều kiện ở mọi lúc mọi nơi. Chúng ta hãy biết ơn những người đẽ chế tạo ra cây bút để nhở đó chúng ta có sự hỗ trợ đắc lực trong học tập và trong công việc hiện nay vẫn đáp ứng được theo xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Thuyết minh về cây bút bi – Bài làm 2 Đối với tất cả chúng ta thì một đồ dùng không thể thiếu mọi lúc mọi nơi chính là chiếc bút bi. Chiếc bút từ lâu đã trở thành một đồ dùng rất hữu ích đối với chúng ta trong tất cả các công việc để chúng ta có thể ghi chép lại tất cả mọi thứ. Chiếc bút bi đã ra đời với những công dụng cực kì quan trọng như thế. Đầu tiên chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu sơ qua về chiếc bút bi nhé Bút bi hoặc bút nguyên tử, là một công cụ dùng để viết rất phổ biến ngày nay. Bút bi có chứa một ống mực đặc, khi viết, mực được in lên giấy là nhờ chuyển động lăn của một viên bi nhỏ, với đường kính khoảng từ 0,5 đến 1. 2 mm, gắn nơi đầu ống chứa mực. Loại mực dùng cho bút bi khô rất nhanh, ngay sau khi được viết lên giấy. Những chiếc bút bi vừa rẻ tiền, vừa thuận tiện và không cần bảo dưỡng, đã cải tiến cách viết của con người. Lịch sử của chiếc bút bi như thế được ra đời bắt nguồn Một người Mỹ tên là John Loud đã xin cấp bằng sáng chế bút bi vào năm 1888 nhưng không được khai thác thương mại. Cho đến năm 1938, một nhà báo người Hungary mới giới thiệu loại bút bi hiện đại. Vào những năm 1930, László Bíró làm cộng tác viên biên tập cho một tờ báo chí nhỏ. Điều làm ông thất vọng là việc những cây bút máy luôn làm bẩn giấy tờ và thường xuyên bị hỏng. Với sự thông minh và được sự giúp đỡ của anh trai tên George, là một kĩ sư hóa học, Bíró bắt đầu công việc thiết kế ra một loại bút mới. Bíró lắp vào đầu bút một viên bi nhỏ, có thể xoay tự do trong một cái hốc. Khi di chuyển đầu bút trên giấy, viên bi đó xoay tròn, và kéo mực xuống in trên giấy. Bíró nhận bằng sáng chế Anh Quốc vào năm 1938. Có hai loại bút bi chính: loại dùng một lần và loại có thể nạp lại mực. Loại dùng một lần chủ yếu được làm từ nhựa dẻo hay nhựa cứng và bỏ đi khi dùng hết mực. Loại có thể nạp lại mực thường được làm bằng kim loại hoặc nhựa có chất lượng cao và dĩ nhiên giá thành cao hơn. Ống mực của loại nạp lại được gồm ống mực và đầu bi gắn liền với nhau. Khi dùng hết mực thì cần phải thay đổi cả ống mực và đầu bi này. Bút bi có thể có nắp để đậy lại khi không dùng đến, hoặc nó dùng cách kéo đầu bi vào trong khi không dùng. Để đưa đầu bi vào trong cần phải có lò xo để kéo vào. Việc điều khiển đầu bi có thể dùng nhiều cách khác nhau như dùng nút bấm ở đầu, xoay thân bút, hoặc trượt. Bút Space Pens, loại có thể viết được trong trạng thái không trọng lực, được phát minh bởi Fisher, có thiết kế phức tạp hơn. Nó dùng khí nén để dồn mực đổ về phía ngòi bút. Do đó bút này có thể viết khi bút lật ngược lại hoặc trong trạng thái không trọng lượng. Bút bi hiện diện khắp nơi trong đời sống hiện nay. Mặc dù có nhiều dạng bút khác nhau, nhưng bút bi là dạng phổ biến nhất. Do bút bi rẻ và tiện dụng nên nó có thể được tìm thấy trên bàn, trong túi, giỏ xách,. . . và bất kỳ nơi nào có thể cần đến bút. Những năm gần đây, bút bi cũng trở thành phương tiện sáng tác nghệ thuật. Nhiều người cũng dùng bút bi để vẽ hình lên người họ, còn được gọi là hình xăm bằng bút bi. Vì lý do này, cùng với sự phổ biến đối với trẻ nhỏ, mực bút bi phải không độc, và việc sản xuất bút và thành phần mực đã được quy định ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hiện nay ngày càng nhiều những kiểu dáng đẹp và lạ. Rồi cóc cả những loại bút trong điều kiện bình thường và trong những điều kiện khí áp khí quyển thay đổi. Thậm chí còn có những loại bút trong những điều kiện bất thường không trọng lượng hoặc ở dưới nước. Có loại bút chỉ có một ngòi nhưng cũng có loại bút có đến hai ba bốn ngòi với rất nhiều những ngòi màu khác nhau như đỏ đen xanh rất hữu ích cho việc ghi chép và học tập của chúng ta. Tuy đủ màu sắc và kiều dáng phong phú thế nhưng cũng chỉ có hai loại đó là loại dùng một lần rồi bỏ và loại thay ngòi rồi có thể dùng tiếp. Tuy bút bi rất tốt và mang nhiều công dụng thế nhưng đối với những em nhỏ đang tập viết hay chưa cứng khi viết thì không nên sử dụng loại bút này. Chúng ta không nên chỉ vì bút bi có giá thành rẻ hơn mà để cho em nhỏ sử dụng chúng như thế rất không tốt. Bút bi có rất nhiều công dụng và theo thời gian nó vẫn là một dụng cụ không thể thay thế được trong cuộc sống của chúng ta. Bút bi luôn gắn với lứa tuổi học trò trên những trang nhật kí đầy nét bút yêu thương. Thuyết minh về cây bút bi – Bài làm 3 Từ thời xa xưa, con người đã cần đến dụng cụ để viết. Cây bút của người cổ đại rất thô sơ bằng tre, đá và cả bằng lông chim, lông ngỗng. Nhưng để thuận tiện hơn trong việc viết lách, người ta đã phát minh ra bút bi. Cây bút bi tưởng chừng như bé nhỏ nhưng lại là phát minh đóng góp to lớn cho sự hình thành và cách mạng hóa việc viết chữ. Nguồn gốc của cây bút bi là do một người thợ Tây phương sáng chế ra nhưng không được khai thác thương mại. Mãi đến những năm cuối thế kỉ XIX, một nhà báo người Hungary tên là Lazso Biro đã nhận thấy sự bất tiện trong việc viết bằng bút chấm mực. Loại bút mới phát minh này rất lâu khô, dễ lem, rất nặng và đầu bút nhọn. Sau đó, Lazso Biro đã cải tiến cây bút này thành một loại bút có một ống mực và đầu viết có một viên bi lăn. Nhờ sự ma sát giữa viên bi và giấy mà mực được viết ra. Thế nhưng lại một vấn đề mới được đặt ra, loại mực của chiếc bút bi này rất lâu khô và không thích hợp cho nghề báo của ông đặc biệt là phải đi nhiều nơi lấy thông tin và ghi tốc kí. Và Lazso Biro lại cặm cụi tìm cách giải quyết. Ông để ý thấy loại mực dùng để in báo rất mau khô. Ông đã vận dụng sự phát hiện này để hoàn thiện cây bút của mình. Với sự giúp đỡ của anh họ là một nhà nghiên cứu khoa học, ông đã giải quyết được tình trạng của cây bút. Cây bút của ông viết mau khô hơn. Năm 1887, ông nhận bằng sáng chế Anh quốc và từ đó bút bi được sử dụng rộng rãi cho tới ngày nay. Bút bi chúng ta dùng hiện nay có hai loại: bút dùng một lần và bút dùng để bơm mực nhiều lần để dùng lại. Nhưng phần lớn chúng ta hay dùng loại bút dùng một lần, khi dùng hết mực rồi bỏ. Loại bút này có hai phần: ruột bút và vỏ bút. Phần ruột bút là ống nhựa mềm hoặc cứng chứa mực đặc. Lớp trên của mực trong ống được bơm thêm một loại chất trong suốt (hay có màu) để mực không tràn ra ngoài. Một đầu của ống mực gắn ngòi bút. Ngòi bút bi thường làm bằng kim loại có đầu nhọn hở một lỗ nhỏ có gắn viên bi đường kính từ 0,7 – 1mm. Nhờ sự ma sát của viên bi mực bám trên viên bi mà chúng ta có thể viết được. Phần vỏ bút thường làm bằng nhựa cứng hay kim loại quý (tùy theo mẫu mã và thị hiếu của người tiêu dùng). Có loại vỏ bút thiết kế thêm nắp đậy. Trong nắp có một miếng đệm cao su để mực không bị khô và viên bi không bị trầy khi va chạm nhỏ. Có loại vỏ được thiết kế với phần đầu có cái núm bấm lên xuống (đối với loại này thì bút được gắn thêm lò xo). Khi cần dùng, ta chỉ cần bấm ở đầu ngòi bút, ngòi bút sẽ lộ ra để viết, khi không viết nữa, ta chỉ cần bấm thêm lần nữa, ngòi bút lại thụt vào, tránh hư ngòi viết thật tiện dụng. Còn loại bút có thể bơm mực dùng lại thì phức tạp hơn một chút. Ruột của loại bút này làm bằng nhựa hay kim loại. Ở phần đầu ruột bút có một cái nút bằng nhựa gắn chặt vào thành ruột bút. Mỗi khi dùng hết mực ta có thể mua mực bơm thêm (loại mực đặc biệt dành cho bút bi) hay thay ruột bút. Về cấu tạo vỏ thì không khác loại bút dùng một lần ta vừa nêu trên. Trên thị trường hiện nay, có vô số chủng loại bút bi, mẫu mã, màu sắc khá đa dạng. Có loại bút bi đậy nắp, có loại bấm ở đầu bút để ngòi lộ ra, có loại xoay thân bút,có loại trượt,… tùy vào sở thích của người sử dụng. Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều thương hiệu bút bi, trong đó bút của các hãng Thiên Long, Bến Nghé khá uy tín. Giá một cây bút bi khá rẻ, dao động từ 1500 – 4000 đồng một cây. Một số loại bút trang trí hoặc để làm quà tặng thì có giá khá cao, từ mười mấy nghìn đến vài chục nghìn. Riêng bút bi dành cho doanh nhân, vỏ làm bằng kim loại quí thì có giá khá cao từ vài trăm nghìn đến vài triệu đồng một cây. Nói chung, bút bi hợp túi tiền với tất cả mọi người, từ học sinh – sinh viên ít tiền đến các doanh nhân thành đạt. Bút bi là loại bút rất hữu ích cho đời sống con người. Bút bi giúp cho công việc học tập, viết lách trở nên hiệu quả hơn, tiện lợi hơn. Bút bi còn có thể sáng tạo nghệ thuật, Từ chiếc bút bi, người ta có thể vẽ được bức tranh đẹp hay xăm hình nghệ thuật bằng bút bi. Và bút bi còn có thể là một món quà ý nghĩa cho người thân yêu của bạn. hẳn rằng nếu thiếu bút bi thì cuộc sống của con người sẽ khó khăn trong việc viết. Bút bi có rất nhiều công dụng mà chúng ta chưa kể hết. Bút bi đã thay đổi lịch sử về việc viết chữ của loài người. Để bảo quản một cây bút bi không khó khăn lắm. Mỗi lần viết xong ta phải đậy nắp lại hay bấm cho ngòi bút thụt vào để tránh làm bút khô mực và nếu chẳng may va chạm hay rơi xuống đất thì không bị bể bi không dùng được. Nếu bút bị tắc mực, ta có thể dốc ngược bút xuống để mực chảy về phía đầu ngòi bút thì bút sẽ viết được trở lại. Thường khi để lâu ngày, bút dễ bị khô mực, ta có thể ngâm ruột bút trong nước ấm độ 15 phút hoặc hơn thì bút sẽ hết khô mực và viết được. Tóm lại, bút có viết được lâu bền hay không là do cách bảo quản của người sử dụng: “Của bền tại người”. Cây bút bi – một phát minh đóng góp to lớn cho nhân loại, một đồ dùng không thể thiếu được trong cuộc sống hằng ngày. Bút bi là người bạn đồng hành của mọi người, đặc biệt là với học sinh. Bút bi vẫn mãi gắn bó với tuổi học trò đầy thơ mộng và đầy ắp trong những trang nhật kí thơm mùi mực viết. Dù thời gian có đổi thay qua những thăng trầm của cuộc sống, cây bút bi tuy được cải tiến về nhiều mặt và có thêm nhiều công dụng khác nhưng bút bi vẫn làm công việc mà nó vẫn thường làm tô điểm cho đời và hữu ích cho con người. Thuyết minh về cây bút bi – Bài làm 4 Đối với những người lao động trí óc, đặc biệt đối với những thế hệ học sinh thì chiếc bút bi là người bạn thân thiết không thể tách rời. Chiếc bút bi có vai trò quan trọng giúp cho các bạn viết lên những nét chữ, viết nên tương lai tốt đẹp hơn. Đối với những cô cậu học trò còn ngồi trên ghế nhà trường thì việc sở hữu rất nhiều chiếc bút bi là điều bình thường. Vì nếu không có bút bi thì học sinh sẽ không học được, không viết được những bài văn, giải được những bài toán và vẽ được những hình họa tinh nghịch. Không chỉ đối với học sinh mà nhiều người khác cũng cần đến chiếc bút bi khi cần thiết. Dù là ai, làm việc gì thì việc sở hữu một chiếc bút bi là điều không thể thiếu. Đối với những em nhỏ học mẫu giáo, lớp 1 thì vẫn đang làm quen với chiếc bút chì; nhưng khi các em lớn lên sẽ dần làm quen với cách viết và sử dụng bút bi cho phù hợp nhất. Bút bi được phát minh bởi nhà báo Hungari Lazo Biro vào những năm 1930. Sau thời gian nghiên cứu, tìm hiểu, ông Biro phát hiện ra được một loại mực in giấy rất nhanh khô. Từ đó, ông đầu tư thời gian nghiên cứu và chế tạo ra một loại bút sử dụng loại mực như thế. Bút bi có nhiều loại như bút bi Thiên Long, bút bi Bến Nghé,… Mỗi loại bút đều có đặc điểm riêng nhưng chung một công dụng. Bút bi được cấu thành từ hai bộ phận chính là vỏ bút và ruột bút. Bộ phận nào cũng đóng vai trò quan trọng để tạo nên sự trọn vẹn của chiếc bút chúng ta cầm ở trên tay. Bộ phận vỏ bút có thể được làm bằng chất liệu nhựa là phổ biến, hoặc một số loại bút được nhà sản xuất làm bằng kim loại nhẹ. Bộ phận vỏ bút được thiết kế chắc chắn và đẹp, có thể bảo vệ được ruột bút ở bên trong. Vỏ bút được thiết kế theo hình trụ, dài và tròn, có độ dài từ 10-15 cm. Ở trên vỏ bút có thể được sáng tạo bởi nhiều họa tiết đẹp hoặc chỉ đơn giản là có dán tên nhà sản xuất, số lô sản xuất và màu sắc của chiếc bút. Có một số loại bút bi dành cho trẻ em, để thu hút được sức dùng thì nhà sản xuất đã tạo những họa tiết như hình các con vật, hình siêu nhân… Chính điều này sẽ khiến cho các em thích thú khi sử dụng chiếc bút bi xinh đẹp. Màu sắc của vỏ bút cũng đa dạng và phong phú như xanh, đỏ, tím, vàng… Các bạn học sinh hoặc người dùng có thể dựa vào sở thích của mình để chọn mua loại bút thích hợp nhất. Bộ phận thứ hai chính là ruột bút,giữ vai trò quan trọng để tạo nên một chiếc bút hoàn hỏa. Đây là bộ phận chứa mực, giúp mực ra đều để có thể viết được chữa trên mặt giấy. Ruột bút chủ yếu làm bằng nhựa, bên trong rỗng để đựng mực. Ở một đầu có ngòi bút có viên bi nhỏ để tạo nên sự thông thoáng cho mực ra đều hơn. Ở ruột bút có gắn một chiếc lò xo nhỏ có đàn hồi để người viết điều chỉnh được bút trong quá trình đóng bút và mở bút. Ngoài hai bộ phận chính này thì chiếc bút bi còn có nắp bút, nấp bấm, nắp đậy. Tất cả những bộ phận đó đều tạo nên sự hoàn chỉnh của chiếc bút bi bạn đang cầm trên tay. Sử dụng bút bi rất đơn giản, tùy theo cấu tạo của bút mà sử dụng. Đối với loại bút bi bấp thì bạn chỉ cầm bấm nhẹ ở đầu bút thì có thể viết được. Còn đối với dạng bút bi có nắp thì chỉ cần mở nắp ra là viết được. Chiếc bút bi đối với học sinh, với những người lao động trí óc và với cả rất nhiều người khác đều đóng vai trò rất quan trọng. Bút bi viết lên những ước mơ của các cô cậu học trò. Bút bi kí nết nên những bản hợp đồng quan trọng, xây dựng mối quan hệ gắn kết với nhau. Để chiếc bút bi bền và đẹp thì người sử dụng cần bảo quản cẩn thận và không vứt bút linh tinh, tránh tình trạng hỏng bút. Thật vậy, chiếc bút bi có vai trò quan trọng đối với mỗi người. Chúng ta học tập và làm việc đều cần đến bút bi. Nó là người bạn đồng hành đáng tin cậy nhất. Thuyết minh về cây bút bi – Bài làm 5 Suốt quãng đời cắp sách đến trường, người học sinh luôn bầu bạn với sách, vở, bút, thước… và coi đó là những vật dụng không thể thiếu được. Trong số những dụng cụ học tập ấy thì tôi yêu quý nhất là cây bút bi, một vật đã gắn bó với tôi nhiều năm và chắc trong tương lai sẽ còn hữu ích với tôi lắm! Hồi còn ở cấp một, tôi dùng bút máy viết mực và chữ tôi khá đẹp, nhưng khi vào cấp hai thì nó lại gây cho tôi khá nhiều phiền toái. Tôi phải vừa viết vừa nghe Thầy, cô giảng bài với tốc độ khá nhanh nên bút máy không thể đáp ứng được yêu cầu này. Chữ viết lộn xộn và lem luốc rất khó coi! Lúc ấy thì Ba mua tặng tôi một chiếc bút bi với lời khuyên: “con hãy thử xài loại bút này xem sao, hy vọng nó có ích với con”. Kể từ đó tôi luôn sử dụng loại bút này để rồi hôm nay có dịp nhìn lại, tìm hiểu đôi điều về nó. Chiếc bút bi đầu tiên, được một nhà báo Hungary làm việc tại Anh tên Laszlo Biro giới thiệu vào năm 1938. điều khiến Ông nghĩ ra việc sáng chế ra loại bút này là vì những cây bút máy luôn gây cho Ông thất vọng, chúng thường xuyên làm rách, bẩn giấy tờ, phải bơm mực và hay hư hỏng… Vào ngày 15 tháng 6 năm 1938 ông Biro được nhận bằng sáng chế Anh quốc. Từ khi bút bi được ra đời nó đã được cải tiến nhiều để phù hợp với người dùng và đã trở nên thông dụng khắp thế giới. Tuy có khác nhau về kiểu dáng như chúng đều có cấu tạo chung giống nhau. Bút bi có ruột là một ống mực đặc, đầu ống được gắn với một viên bi nhỏ có đường kính khoảng từ 0,7 đến 1 milimet, được coi như là ngòi bút. Khi ta viết mực được in lên giấy là nhờ chuyển động lăn của viên bi này và loại mực dùng cho bút khô rất nhanh. Con người thường ít nghĩ đến những gì quen thuộc, thân hữu bên mình. Họ cố công tính toán xem trung bình một đời người đi được bao nhiêu km hay một người có thể nhịn thở tối đa bao nhiêu phút nhưng chắc chưa có thống kê nào về số lượng bút họ dùng trong đời! Một cây bút cũng giống như cơ thể con người vậy, ruột bút là phần bên trong cơ thể, đầu bi chính là trái tim và mực chứa trong bút được ví như máu, giúp nuôi sống cơ thể. Còn vỏ bút giống như đầu, mình, tứ chi vậy… chúng phải cứng cáp thì bút mới bền, hoạt động tốt cũng như tạo cho người sử dụng cảm giác thoải mái. Màu sắc và hình dáng bên ngoài giống như quần áo, làm tăng thêm vẽ đẹp cho bút. Các chi tiết của bút dù quan trọng hay thứ yếu đều góp phần tạo nên một cây bút. Như một kiếp tằm rút ruột nhả tơ, âm thầm giúp ích cho đời để rồi khi cạn mực, chúng bị vứt bỏ một cách lạnh lùng. Mấy ai nhớ đến công lao của chúng! Bước vào năm học mới, các nhà sản xuất bút bi như Bến Nghé, Đông Á, Thiên Long, Hán Sơn… đã lần lượt cho ra đời hàng loạt mẫu mã từ đơn giản cho đến cầu kỳ như bút bấm, bút xoay, bút hai màu, ba màu… đủ chủng loại khác nhau nhằm đáp ứng như cầu người sử dụng. Các cậu nam sinh thì chỉ cần giắt bút lên túi áo đến trường nhưng nhiều bạn gái lại thích “trang điểm” cho bút các hình vẽ, hình dáng xinh xắn lên thân hay đầu bút còn được đính thêm con thú nhỏ ngộ nghĩnh… Thế là những chiếc bút bi lại theo chân trò nhỏ đến trường, giúp các cô, cậu lưu giữ những thông tin, kiến thức vô giá được thầy cô truyền đạt lại với cả tấm lòng! Có cây bút vẻ ngoài mộc mạc, đơn giản song cũng có cây được mạ vàng sáng loáng. Nhìn bút, người ta biết được “đẳng cấp” của nhau, nhưng nhìn vào nét chữ người ta mới đoán được tính cách hay đánh giá được trình độ của nhau. “Một chiếc áo cà sa không làm nên ông thầy tu”, một cây bút tuy tốt, đắt tiền đến cỡ nào cũng chỉ là vật để trang trí nếu vào tay kẻ đầu rỗng mà thôi! Bút là vật vô tri, nên nó không tự làm nên những câu chữ có ý nghĩa nhưng nếu trong tay người chủ chuyên cần, hiếu học nó sẽ cho ra đời những bài văn hay, những trang viết đẹp. Để trở thành người chủ “tài hoa” của những cây bút, người học sinh cần rèn luyện cho mình thói quen vở sạch, chữ đẹp và luôn trau dồi kiến thức học tập… hãy biến chúng thành một người bạn thân thiết, một cánh tay đắc lực trong việc học tập bạn nhé! Cùng với sách, vở… bút bi là dụng cụ học tập quan trọng của người học sinh, vì vậy chúng ta cần phải bảo quản bút cho tốt. dùng xong phải đậy nắp ngay để tránh bút rơi làm hư đầu bi, bộ phận quan trọng nhất của bút. Đặc biệt là luôn để bút ở tư thế nằm ngang giúp mực luôn lưu thông đều, không bị tắc. Một số loại bút bi có thể thay ruột khi hết mực và mình xin mách các bạn một mẹo nhỏ là nếu để bút bi lâu ngày không xài bị khô mực thì đừng vội vứt bỏ mà chỉ cần lấy ruột bút ngâm trong nước nóng độ 15 phút… cây bút của bạn có thể được phục hồi đấy! Có thể nói rằng bút bi là một trong những phát minh quan trọng của con người. Ngày nay cứ 1 giây lại có 57 cây bút bi được bán ra trên thế giới, chứng tỏ tầm ảnh hưởng quan trọng của nó. Khoa học tiến bộ, nhiều công cụ ghi chép tinh vi hơn, chính xác hơn lần lượt xuất hiện nhưng bút bi vẫn được nhiều người sử dụng bởi nó rẽ và tiện lợi. Cầm cây bút bi trên tay, nắn nót từng chữ viết cho người thân yêu, chúng ta mới gửi gắm được trong đó bao nhỉ.
Thuyết minh về cây bút bi – Văn mẫu lớp 8
5,002
Bài làm 1 Đi khắp các miền quê trên đất nước VN,cũng như cây tre,cây lúa,cây chuối đc trống nhiều và trở thành người bạn thân thiết của người dân bởi nó đem lại nhiều lợi ích cho con người.Có thể nói cây chuối đã trở thành 1 loài cây cung cấp loại quả không thể thiếu trong cả đời sống vật chất lẫn tinh thần của người dân VN từ xưa đến nay. Cây chuối là 1 loài cây dân dã gần gũi quen thuộc với người dân quê.Người ta có thể trống chuối ở bờ ao,trong vườn nhà,ở ruộng,hay những vùng đất bãi phù sa thì càng tốt.Cây chuối trưởng thành từ 2-3m.Thân cây có dáng tròn,thằng màu xanh non trông như 1 cái cột trụ mọng nước,gợi cảm giác mát mẻ,dễ chịu.Thân chuối đc tạo thành bởi lớp bẹ xếp khít vào nhau,bên trong hơi xốp.Lá chuối đc mọc ra từ các bẹ ở thân chuối và giữa ngọn trở ra.Ban đầu những chiếc nõn chuối màu xanh non,sau đó lá xòa dần mọc chìa ra các phía.Ở giữa là 1 đường gân lá,2 bên lá mềm mại rủ xuống khoảng 20cm.Chiều dài của là cũng hơn 1m .Nhìn Những chiếc lá chuối xanh rờn dưới ánh nắng mỗi khi có gió lại vẫy vẫy như những cánh tay trông thật đẹp mắt.Còn lá chuối khô,cành lá đều rủ xuống chuyển nâu thành giòn,còn đường gân giữa dẻo dai như sợi dây.Cây chuối trưởng thành bắt đầu trổ buồng.Mỗi cây chuỗi đều cho 1 buồng,mỗi buồng lại có nhiều nải,mỗi nải lại có nhiều quả.tùy theo từng giống,có giống cho hàng trăm quả 1 buồng,có giống cho đến nghìn quả.nhiều cây quả còn trĩu xuông tận gốc.Buồng chuối cũng mọc từ giữa thân ra.Bắp chuối có màu đỏ,còn gọi là hoa chuối.Hoa chuối giống như ngọn lửa màu hồng,sau đó những chiếc bẹ nở dần ra rụng xuống là lúc những nải chuối non xuất hiện.Quả chuối lớn dần hơi cong hình lưỡi liềm,khi xanh có có màu xanh,khi chín có màu vàng. Có rất nhiều loại chuối khác nhau,người ta gọi tên theo đặc điểm hoặc nguồn gốc suất sứ hay cũng có khi gắn với giai thoại nào đó.Các loại chuối phổ biến như chuối hương,chuối ngự,chuối hột…Mỗi loại chuối đều có đặc điểm,mùi hương thơm ngon riêng,tạo ra nét đặc biệt không thể lẫn với các loại khác,nổi tiếng nhất có lẽ là chuối ngự đc trồng ở nam định.Loại chuối này quả nhỏ chín có màu vàng tươi thơm ngon.Ngày xưa đc dùng vào cung tiến vua Cây chuối có ý nghĩa to lớn trong cả đời sống vật chất và tinh thần.Về giá trị vật chất,quả chuối xanh có thể ăn với thịt dê,ăn gỏi,kho cá hay nấu với ốc,ếch đều rất ngon.Chuối chín có rất nhiều vitamin rất tốt cho sức khỏe.Từ người giàu đến người nghèo,từ già tới trẻ đều thích ăn chuối.Ngày xưa chuối là loại quả quí thường để tiến vua.Ngày nay nó rất thông dụng đc bày trong các mâm cỗ.Chuối còn mang lại giá trị kinh tế cho người nông dân và con phúc vụ xuất khẩu.Đây là 1 trong những loại quả đc sử dụng nhiều nhất ở châu Âu vì nó là loại quả không chỉ ngon mà còn sạch.Thân cây chuối thái ra có thể làm thức ăn cho lợn,trâu bò rất tốt.Thân chuối non có thể dùng gói xôi,bánh nem rất tiện lợi…lá chuối khô có thể dùng lầm chất đốt.Dây chuối dùng để bó rau bó rơm.Hoa chuối có thể dùng làm nộm hoặc để luộc.Củ chuôí cũng có thể làm nộm hoặc nấu lươn,ốc,ếch rất ngon.về gtri tinh thần,quả chuối có gtri to lớn trong đời sống VH của người dân VN.Người ta dùng chuối nguyên nải thắp hương trong các dịp lễ tết hay giỗ để thể hiện lòng tôn kình.Chuối là loại quả không thể thiêu trong mâm ngũ quả để lên tổ tiên,ngày lễ lớn.trong tiềm thức mỗi người cây chuối tượng trưng cho sự thanh bình của làng quê Chuối là loại cây khá dễ sống ưa đất phù sa,đát bãi ven sông.Quá trình sinh trưởng của 1 cây chuối không dài,khoảng 1 năm.Mỗi cây chuối chỉ 1 làn trổ buồng,sau khi thu hoạch người ta chặt cây đào gốc lên để cho cây con phát triển.một cây chuối mẹ có thể đẻ nhiều cây chuối con rồi đẻ nhiều cây chuối cháu,sinh trưởng rất nhanh.Vì dễ trồng lại nhanh cho quả nên chuối đc người nông dân ưa chuộng.nếu không may chuối bị sâu có thể cắt bỏ lá sâu,bắt sâu.Neus chuối ra buồng cần phải chống cho cây khỏi đổ.Khi thu hoạch cần phải nhẹ nhàng tránh rơi gẫy Cây chuối từ lâu đã có 1 vị trí quan trọng trong cuộc sống của người VN.Cho dù cuộc sống có đổi thay hiện đại hơn nhiều,xuất hiện nhiều loại quả ngon nhưng vẫn không thể thay thế đc cây chuối quả chuối trong đời sống vật chất tinh thần của con người bở nó có quá trình gắn bó gần gũi thân thiết trong đời sống con người. Bài làm 2 Nói đến cây chuối, đã là người Việt Nam thì không ai là không biết. Cây chuối đã tồn tại cùng con người như một người bạn thân thiết.Có thể nói, cây chuối đã trở thành một thứ không thể thiếu trong đời sống người Việt Nam xưa và nay. Chuối có tới năm bảy loại, nào là hương chuối, chuối ngự, chuối mường, chuối tiêu… Mỗi loại chuối đều có hương vị thơm ngon riêng, tạo ra nét đặc biệt không thể lẫn với những loại khác. Thế nhưng các loại chuối lại mang một vẻ bề ngoài giống nhau. Thân cây tròn, thấp, trơn bóng, và có cây còn to bằng cả cái cột đình. Lá cây xanh non, to, dài và các gân đối xứng nhau. Thế nhưng lá chuối khô lại có màu nâu, giòn là cứng. Bắp chuối có màu đỏ, thuôn dài, còn gọi là hoa chuối. Nõn chuối xanh non, mịn và mỏng. Mỗi cây chuối trưởng thành đều có thể cho ta một buồn chuối. Tùy theo từng loại, có loại cho ta hàng trăm quả một buồng, có cả loại mỗi buồng cho ta hàng nghìn quả. Nhiều cây còn trĩu trịt quả từ ngọn xuống gốc. Để có được vai trò quan trọng như hiện nay trong đời sống con người Việt Nam, chuối đã "cống hiến" cho đời sống vật chất không biết bao nhiêu. Thân cây thái nhỏ ra có thể làm thức ăn cho lợn hoặc hươu nhà, trâu bò rất tốt. Còn lá cây thì giúp ta trong các việc như là để gói xôi, gói bành rất tiện lợi và dễ kiếm. Lá chuối khô có thể làm chất đốt, để quấn bánh gai hoặc ở nông thôn ta còn thấy là chuối khô còn có thể quấn làm nút chai rượu. Không chỉ thế, hoa chuối còn dùng để làm rau. Món nộm hoa chuối được rất nhiều người ưa thích, đặc biệt sinh viên vì nó vừa ngon lại vừa rẻ. Thái một ít nõn chuối ra cho vào đĩa rau muống xanh mướt là ta đã cso được một đãi rau vừa ngon vừa đẹp mắt. Quả chuối có lẽ là nhiều công dụng nhất. Các chị, các cô, các bà hay ăn chuối vì chủ yếu chuối thường chứa rất nhiều vitamin rất tốt cho một làn da mịn màng. Và chủ yếu chuối thường dùng để ăn nhiều hơn vì nó rất ngon. Người ta còn dùng chuối thắp hương như một lễ vật dâng cho thần linh để thể hiện lòng tôn kính. Chính vì vậy, chuối là một loại cây khá quan trọng, nhất là trong hoàn cảnh kinh tế còn nhiều eo hẹp. Ở nông thôn, mỗi khi chuối chín, người ta thường cắt thành từng nải đem đi bán, những nải chuối đó đều rất rẻ nên nhiều người mua. Còn trong đời sống văn hóa của người Việt, cây chuối cũng như bưởi hay hồng, nóc ũng là một trong năm loại quả dâng lên tổ tiên, nhất là các dịp lễ Tết. Trong tâm thức mỗi người, cây chuối là một loại cây tượng trưng cho sự thanh bình của làng quê, nhất là thời thơ ấu. Cây chuối từ lâu đã chiếm một phần to lớn trong cộc sống của người Vệt Nam. Đối với mỗi người, cây chuối đã trở thành một loại cây vô cùng gần gũi, thân thiết. Bài làm 3 Đất nước Việt Nam ta được thiên nhiên ban tặng cho rất nhiều loại trái cây thơm ngon. Mỗi loài mang một hương vị khác nhau, một hình dáng khác nhau. Và có lẽ về sự dẻo thơm thì chuối là loại quả thơm ngon nhất trong số tất cá các loại hoa quả. Ngoài ra, cây chuối còn rất nhiều tác dụng trong đời sống Việt Nam. Chuối được trồng rất nhiều ở nông thôn và rất ưa nước nên người ta thường trồng bên ao hồ rất nhanh tươi tốt; còn ở rừng, bên những khe suôi hay thung lũng, chuối mọc thành rừng bạt ngàn, vô tận. Chuối phát triển rất nhanh. Chuối có gốc tròn như đầu người, lớn dần theo thời gian, có rễ chùm nằm dưới mặt đất. Thân chuối thuôn, thẳng, có màu xanh rì là do từng lớp lá mọc đè lên nhau thành từng lớp, từng lớp, bao trùm cái ruột rỗng bên trong. Lá chuối mọc thành từng tàu, to bản. Mỗi cây chuối đều cho một buồng chuối. Có buồng chuối trăm quả và nhiều hơn thế. Không thiếu những buồng chuối dài từ ngọn cầy uốn trĩu xuống tận gốccây. Chuối chặt theo nải. Quả chuối có nhiều hình dạng tuỳ thuộc vào từng loại khác nhau. Ví dụ: chuối ta có dáng thuôn dài, vỏ xanh; còn chuối tiêu quả căng tròn, vỏ mỏng, thịt dày, vỏ vàng. Ngoài ra còn có chuối hương, chuối ngự. chuối sứ, chuối mường… Trong đời sống vật chất của con người Việt Nam thì chuối là một loài cây hữu dụng từ thân đến lá, từ gốc đến hoa, quả. Thân chuối rồng nên người xưa hay dùng thay phao, ngoài ra còn làm thức ăn cho gia súc. Lá chuối tươi rửa sạch dùng để gói xôi, bánh giầy, bánh cốm, bánh chưng… và một trò chơi dân gian mà trẻ con hay chơi là cưỡi ngựa. Lá chuối khô cũng dùng để gói bánh gai hay cuộn chặt thay nút chai khá tốt. Bắp chuối thì chẻ ngọn nhỏ làm nộm, tương tự với nõn chuối làm rau sống hay ăn kèm với bún ốc, bún riêu. Trái chuối xanh hay được nấu cùng các thức ăn có vị tanh như ốc, lươn,… vừa khử tanh lại vừa làm cho món ăn thêm ngon, thêm đa dạng. Trái chuối chín là một thức quả được nhiều người ưa chuộng. Cây chuối cho ta thật nhiều công dụng, không chỉ trong đời sống vật chất mà còn ởđời sống tinh thần: cây chuối là biểu tượng cho làng quê Việt Nam. Nải chuối chín không thể thiếu trong các mâm cúng trời, đất, tổ tiên. Cây chuối gắn liền với cuộc sông nông thôn, với đất nước, dân tộc ta. Cây chuối gắn bó từ bao đời nay và đã dâng hiến tất cả cho con người Việt Nam, từ đời sống vật chất cho tới đời sống tinh thần. Cây chuối là niềm tự hào không chỉ của thiên nhiên, của đất mẹ mà còn của nông dân Việt Nam; cây chuối sẽ mãi là hình ảnh đẹp trong lòng mọi người.
Thuyết minh về cây chuối
1,965
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về cây cà phê – Bài làm 1 2 Thuyết minh về cây cà phê – Bài làm 2 3 Thuyết minh về cây cà phê – Dàn ý Thuyết minh về cây cà phê – Bài làm 1 Cà phê là tên một chi thực vật thuộc họ Thiến thảo (Rubiaceae). Họ này bao gồm khoảng 500 chi khác nhau với trên 6.000 loài cây nhiệt đới. Cà phê bao gồm nhiều loài cây lâu năm khác nhau. Tuy nhiên, không phải loài nào cũng chứa caffein trong hạt, một số loài khác xa với những cây cà phê ta thường thấy. Chỉ có hai loài cà phê có ý nghĩa kinh tế. Loài thứ nhất có tên thông thường trong tiếng Việt là cà phê chè (tên khoa học: Coffea arabica), đại diện cho khoảng 61% các sản phẩm cà phê trên thế giới. Loài thứ hai là cà phê vối (tên khoa học: Coffea canephora hay Coffea robusta), chiếm gần 39% các sản phẩm cà phê. Ngoài ra còn có Coffea liberica và Coffea excelsa (ở Việt Nam gọi là cà phê mít) với sản lượng không đáng kể. Cấu tạo và đặc trưng của cây cà phê Cây cà phê có chiều cao từ 6 m tới 10 m. Tuy nhiên, người ta thường phải cắt tỉa để giữ được độ cao từ 2-4 m, thuận lợi cho việc thu hoạch. Thân cây cà phê vối, khi cưa đốn thường được dùng chạm trổ các đồ thủ công mỹ nghệ. Cây cà phê có cành thon dài, lá cuống ngắn, xanh đậm, hình oval. Mặt trên lá có màu xanh thẫm, mặt dưới xanh nhạt hơn. Chiều dài của lá khoảng 8-15 cm, rộng 4-6 cm. Rễ cây cà phê là loại rễ cọc, cắm sâu vào lòng đất từ 1 đến 2,5 m với rất nhiều rễ phụ tỏa ra xung quanh làm nhiệm vụ hút chất dinh dưỡng nuôi cây. Hoa cà phê màu trắng, có năm cánh, thường mọc thành chùm đôi hoặc chùm ba. Màu hoa và hương hoa dễ làm ta liên tưởng tới hoa nhài. Hoa chỉ nở trong vòng 3 đến 4 ngày và thời gian thụ phấn chỉ vài ba tiếng. Một cây cà phê trưởng thành có từ 30.000 đến 40.000 bông hoa. Cà phê là loài cây tự thụ phấn, do đó gió và côn trùng có ảnh hưởng lớn tới quá trình sinh sản của cây. Sau khi thụ phấn từ 7 đến 9 tháng cây sẽ cho quả hình bầu dục, bề ngoài giống như quả anh đào. Trong thời gian chín, màu sắc của quả thay đổi từ xanh sang vàng rồi cuối cùng là đỏ. Quả có màu đen khi đã chín nẫu. Do thời gian đâm hoa kết trái lâu như vậy mà một vụ cà phê kéo dài gần một năm trời và có thể xảy ra trường hợp trên một cây vừa có hoa, vừa có quả. Thông thường một quả cà phê chứa hai hạt. Chúng được bao bọc bởi lớp thịt quả bên ngoài. Hai hạt cà phê nằm ép sát vào nhau. Mặt tiếp xúc giữa chúng là mặt phẳng, mặt hướng ra bên ngoài có hình vòng cung. Mỗi hạt còn được bảo vệ bởi hai lớp màng mỏng: một lớp màu trắng, bám chặt lấy vỏ hạt; một lớp màu vàng rời rạc hơn bọc ở bên ngoài. Hạt có thể có hình tròn hoặc dài, lúc còn tươi có màu xám vàng, xám xanh hoặc xanh. Thỉnh thoảng cũng gặp nhưng quả chỉ có một hạt (do chỉ có một nhân hoặc do hai hạt bị dính lại thành một). Ở Việt Nam, nước hiện đứng đầu thế giới về sản xuất cà phê vối (robusta), niên vụ của cây cà phê được tính từ tháng 10 đến hết tháng 9 năm sau (theo dương lịch). Cà phê được trồng chủ yếu ở các tỉnh Tây Nguyên , có thời gian thu hoạch cà phê thường kéo dài trong 4 tháng, tính từ cuối tháng 10 đến hết tháng 1. Ngay sau thu hoạch là thời gian người trồng cà phê vối bắt đầu tưới nước cho cây và bón phân, chia thành nhiều đợt ngắn. Giai đoạn này kéo dài đến tháng 4 hàng năm. Tác dụng, vai trò của cây cà phê Quả cây cà phê tạo ra một thức uống có nhiều tác dụng tốt như làm cho chúng ta thoải mái và dễ tính hơn, làm tiêu mỡ, làm giảm nguy cơ mắc bệnh hen và chữa được dị ứng, giúp giảm đau, bảo vệ khỏi các bệnh về gan, kích thích hoạt động trí óc, làm tăng sức mạnh của cơ bắp, chống lại bệnh tiểu đường type II. Chính vì vậy, cà phê luôn là một món đồ uống hấp dẫn, đặc biệt là giới trẻ với lối sống hiện đại. Cây cà phê ở Việt Nam luôn là cây thế mạnh, đem lại nguồn lời lớn về kinh tế cho nước nhà. Thuyết minh về cây cà phê – Bài làm 2 Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt nam từ năm 1870, mãi đến đầu thế kỷ 20 mới được phát triển trồng ở một số đồn điền của người Pháp. Năm 1930 ở Việt nam có 5.900 ha. Trong thời kỳ những năm 1960-1970, cây cà phê được phát triển ở một số nông trường quốc doanh ở các tỉnh miền Bắc, khi cao nhất (1964-1966) đã đạt tới 13.000 ha song không bền vững do sâu bệnh ở cà phê Arabica và do các yếu tố tự nhiên không phù hợp với cà phê Robusta nên một số lớn diện tích cà phê phải thanh lý. Cho đến năm 1975, đất nước thống nhất, diện tích cà phê của cả nước có khoảng trên 13.000 ha, cho sản lượng 6.000 tấn. Sau 1975, cà phê ở Việt Nam được phát triển mạnh tại các tỉnh Tây nguyên nhờ có vốn từ các Hiệp định hợp tác liên Chính phủ với các nước: Liên xô cũ, CHDC Đức, Bungary, Tiệp khắc và Ba lan, đến năm 1990 đã có 119.300 ha. Trên cơ sở này, từ 1986 phong trào trồng cà phê phát triển mạnh trong nhân dân, đến nay đã có trên 390.000 ha, đạt sản lượng gần 700.000 tấn. Ngành cà phê nước ta đã có những bước phát triển nhanh vượt bậc. Chỉ trong vòng 15-20 năm trở lại đây chúng ta đã đưa sản lượng cà phê cả nước tăng lên hàng trăm lần. Thành tựu đó được ngành cà phê thế giới ca ngợi và chúng ta cũng đã từng tự hào vì nó. Tuy nhiên trong vài năm lại đây do kích thích mạnh mẽ của giá cả thị trường, cà phê đã từng mang lại cho các nhà sản xuất lợi nhuận siêu ngạch. Tình hình phát triển cà phê đã ra khỏi tầm kiểm soát của ngành cũng như của Nhà nước, và chính vì thế mà sự tăng trưởng nhanh chóng với mức độ lớn đã có tác động quan trọng trong việc góp phần đẩy ngành cà phê thế giới đến thời kỳ khủng hoảng thừa. Giá cà phê giảm liên tục đến mức thấp kỷ lục 30 năm lại đây. Người ta hô hào trữ lại cà phê không bán, người ta chủ trương huỷ bỏ hàng loạt cà phê chất lượng kém… Thời đại hoàng kim của ngành cà phê đã qua đi, ngành cà phê bước vào thời kỳ ảm đạm và có phần hoảng loạn, đài phát thanh và báo chí thường xuyên đưa tin nông dân chặt phá cà phê ở nơi này, nơi khác… Có thể nói đây là tình hình chung của ngành cà phê toàn cầu và nó tác động lớn đến ngành cà phê nước ta, một ngành cà phê đứng thứ nhì thế giới với quy mô sản xuất không ngừng được mở rộng. Tình hình thị trường thế giới tập trung vào những thay đổi then chốt của nền kinh tế cà phê thế giới, cán cân cung cầu và vận động của giá cả thị trường. Ngoài cà phê Robusta hiện đang chiếm gần hết diện tích và sản lượng ra, Việt Nam đang thực hiện một chương trình mở rộng diện tích cà phê arabica, trong đó có cả một chương trình chuyển dịch cơ cấu giống đưa một số diện tích cà phê từ Robusta sang Arabica. Thuyết minh về cây cà phê – Dàn ý I. Mở bài: giới thiệu cây cà phê Một trong những loại cây được trồng nhiều ở Tây nguyên của nước ta là cà phê. Cà phê được trồng nhiều tại Tây Nguyên và mang lại nhiều lợi ích cho người dân. Chúng ta cùng tìm hiểu rõ hơn về cây cà phê. II. Thân bài 1. Nguồn gốc – Họ Thiến thảo – Được trồng nhiều ở vùng Tây Nguyên – Cà phê bắt đầu từ khi pháp xâm lược nước ta – Có nguồn gốc từ Pháp 2. Đặc điểm a. Thân – Thấp nhất 6m, cao nhất 10m – Cành thon dài, lá cuống ngắn, xanh đậm, hình oval – Mặt trên lá có màu xanh thẫm, mặt dưới xanh nhạt hơn – Rễ cây cà phê là loại rễ cọc, cắm sâu vào lòng đất từ 1 đến 2,5 m b. Hoa – Màu trắng – Có 5 cánh, nở thành chùm đôi hoặc chùm ba – Nở trong vòng 3 đến 4 ngày – Mỗi cây thường có từ 30.000 đến 40 000 hoa c. Quả – Sống màu xanh, chín màu đỏ mọng, đen nếu đã chín – Quả cà phê chứa hai hạt – Có lớp thịt quả bọc bên ngoài – Hạt cà phê nằm ép sát vào nhau – Hạt cà phê có hình tròn hoặc dài 3. Chăm sóc cà phê – Rong tỉa cây che bóng kịp thời – Đánh chồi vượt cho cây cà phê – Đào rãnh ép xanh, hoặc cày rạch hàng ép xanh – Làm cỏ, bón phân – Tạo hình, sửa cành – Phòng trừ sâu bệnh 4. Vai trò cây cà phê a. Trong cuộc sống – Là một thức uống – Là một loại thực phẩm – Một loại cây đại diện cho vùng Tây Nguyên Việt Nam – Quảng bá hình ảnh của Việt Nam – Các công dụng khác như: nhuộm tóc, làm đẹp,…. b. Trong kinh tế – Xuất khẩu – Mang lại giá trị kinh tế cao – Mang lại thu nhập cho người dân III. Kết bài: nêu cảm nghĩ về cây cà phê Cà phê là một loại cây có ý nghĩa hết sức quan trọng với con người và đất nước Việt Nam. Chúng ta luôn tự hào về loại cây này. Chúng ta cần chăm sóc và bảo vệ cây cà phê cũng chính là bảo vệ nên văn hóa, nền nông nghiệp của nước nhà.
Thuyết minh về cây cà phê – Văn mẫu lớp 8
1,785
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về cây dừa – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Bến Tre 2 Thuyết minh về cây dừa – Bài làm 2 3 Thuyết minh về cây dừa – Bài làm 3 Thuyết minh về cây dừa – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Bến Tre "Ai đứng như bóng dừa, tóc dài bay trong gió, có phải người còn đó, là con gái của Bến Tre…” Câu hát ngân nga mang đậm hồn quê gợi nhớ về vùng đất Bến Tre, quê hương của đồng khởi. Nhắc đến Bến Tre, người ta liên tưởng đến một vùng quê thanh bình với cây lành trái ngọt. Đặc biệt, có một loài cây gắn bó quanh năm, gắn bó cả cuộc đời với người dân Bến Tre – cây dừa. Đi khắp Bến Tre, nơi đâu ta cũng gặp bóng râm của những hàng dừa mát rượi. Hầu như nhà nào cũng trồng dừa. Cây dừa biểu tưởng của cây trái ở Bến Tre cũng như cây chè của Bảo Lộc, Thái Nguyên, cây cà phê ở Buôn Mê Thuộc hay cây cọ ở vùng quê sông Thao. Khác với cây dừa ở các tỉnh khác được mọc ở vùng đồng bằng, dọc bờ biến hay ven những triền cát trắng, cây dừa Bến Tre mọc dài trên ba cù lao lớn, cù lao Minh, cù lao Bảo và cù lao An Hóa. Vì vậy, cây dừa Bến Tre quanh năm được phù sa của các nhánh sông Tiền, Hàm Luông, Ba Lai, Cổ Chiên bồi đắp nên lúc nào cũng xanh tươi đầy sức sống. Cây dừa Bến Tre có rất nhiều chủng loại. Dừa ta hay còn gọi là dừa bị trái to, cơm dày, dừa xiêm trái nhỏ nước ngọt và thanh, dừa lửa có vỏ bên ngoài vàng cháy, dừa dâu trái thon nhỏ dần ở hai đầu như hình dáng quả dâu. Ngoài ra còn có một số loại khác như: dừa Tam Quan, dừa cỏ, dừa dứa, dừa nhiếm, dưa éo… riêng dừa sáp chỉ mọc được ở Trà Vinh và trở thành đặc sản của vùng đất này. Có lẽ trong tất cả các loại cây trái ở Việt Nam, cây dừa là một loại cây cống hiến cả cuộc đời mình cho con người. Khôntg một chi tiết nào trên thân dừa lại không có chỗ dùng. Rễ dừa dùng để làm chất đốt, có nơi còn làm thuốc nhuộm. Lá dừa dùng để lợp nhà, gói bánh dừa, tàu dừa chặt ngắn lá dùng để trang trí nhà rạp, cổng hoa trong những tiệc cưới ở làng quê. Lá dừa khô được bó lại thành cây làm đuốc soi đường trong những vùng sâu thiếu thốn ánh đèn phố thị. Sống lá dùng để đan những giỏ hoa giỏ đựng trái cây trông rất thanh mảnh và trang trọng. Thân dừa thường dùng để bắc ngang con mương nhỏ làm cầu. Sau khi bào bỏ lớp vỏ bên ngoài, người ta lấy thân làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa…Bông dừa tươi được hái xuống để cắm trang trí vừa thanh nhã vừa lạ mắt. Bông dừa già cắt khúc kết lại với nhau làm thành giỏ hoa, chụp đèn treo tường có giá trị thẩm mỹ cao. Đọt dừa non hay còn gọi là củ hủ dừa là một thứ thức ăn đoc đáo. Có thể làm gỏi, lăn bột, xào.. rất thích hợp với người ăn chay. Tuy nhiên, món này không phải lúc nào cũng có vì mỗi khi đốn một cây dừa, người ta mới lấy được củ hủ để dùng. Thậm chí ngay cả con sâu sống trên cây dừa ( còn gọi là đuông dừa) cũng là một thứ món ăn ngon. Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo múp míp. Người ta chế biến đuông thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng ở các quán ăn trong thành phố. Tuy nhiên, thứ có giá trị nhất vẫn là trái dừa. Trái dừa tươi được chắt ra lấy nưốc giải khát, có công năng hạ nhiệt, giải độc. Ngày xưa, trong chiến trận, thiếu các phương tiện y tế, người ta còn dùng nước dừa thay thế cho dịch truyền. Dừa khô có nhiều công dụng hơn nữa. Nước dừa dùng để kho cá, kho thịt, thắng nước màu, cơm dừa rám dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, nấu dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Gáo dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rấr được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông. Hiện nay, các mặt hàng làm từ cây dừa không chỉ phát triển trong nước mà còn được mở rộng ra các nước khác trên thế giới. Kẹo dừa Bến Tre được xuất khẩu nhiều nhất qua trung Quốc. Đi về Bến Tre, chỉ cần qua khỏi phà Rạch Miễu ta sẽ đi giữa bạt ngàn màu xanh của dừa. Những buổi trưa oi bức, chỉ cần mắc võng học bài dưới gốc dừa, bên cạnh bờ ao, hoặc đưa mắt nhìn bầu trời xanh đung đưa qua kẽ lá, nghe tiếng cá nhảy, đớp mồi dưới ao chúng ta bỗng thấy cuộc đời đẹp biết bao. Cuộc sống của người dân Bến Tre gắn liền với cây dưà từ bao đời nay. Ngôi nhà của họ cũng ẩn hiện dưới bóng râm mát rượi của hàng dừa, lúc khát nước uống trái dừa ngọt lịm … Không biết đã có bao nhà thơ đã dệt nên những vần thơ đẹp về cây dừa ở Bến Tre. Trong đó bài thơ của nhà thơ Kiên Giang làm em thích thú nhất: “ Khi yêu yêu lắm dừa ơi Cả trời cả đất cả người Bến Tre Bóng dừa râm mát lối quê Người ơi! Tôi tưởng lối về cung tiên…” Trong tương lai, cuộc sống ngày một hiện đại hơn. Nhưng những giá trị tinh thần vẫn không bao giờ thay đổi. Cũng như vậy, cây dừa sẽ mãi gắn bó với ngưồi dân Bến Tre như những hạt phù sa mãi mãi gắn liền với các con sông để ngày bồi đắp cho mảnh đất quê hương thêm màu mỡ. Thuyết minh về cây dừa – Bài làm 2 "Ai đứng như bóng dừa Tóc dài bay trong gió…" Từ bao giờ, cây dừa đã đi vào văn thơ, ca nhạc của người Việt Nam ta. Khách phương xa đặt chân về thôn quê nước Việt, đều được một loại dù thiên nhiên che nắng trên mọi nẻo đường: Cây dừa Việt Nam. Đó là một loại cây thông dụng và có nhiều công dụng trên đất nước ta gắn bó suốt đời với bao người dân Việt Nam ta. Tuổi thơ Việt Nam, trẻ em nào cũng có ít nhiều kỉ niệm gắn bó với cây dừa. Các nghệ nhân khéo léo thường lấy lá dừa non màu xanh lá mạ quấn tròn, thuôn thuôn và cong cong trong tay lão nghệ nhân biến thành một con châu chấu khổng lồ chỉ trong nháy mắt. Lá dừa khô làm vách lá, mái lá hoặc chất đốt. Thân dừa ngày xưa thỉnh thoảng được dùng làm bình đựng ấm trà, đến ngày nay đã được làm đũa, muỗng và một số đồ mĩ nghệ xuất khẩu đa dạng. Cây dừa có bao nhiêu loại thì sinh ra biết bao nhiêu loại trái. Có loại như dừa xiêm, dừa dâu, dừa bị. Qủa dừa xiêm có màu canh mát, chấu nước của nó không bằng dừa xêm. Dừa dâu là loại dừa trái nhỏ cũng pha màu lửa nhưng lợi hơn, nhỏ nhơn trái bưởi, cho nước rất ngọt. Dừa bị là dừa nhỏ, lấy cơm vắt nước cất hoặc kho chế biến làm thực phẩm. Đối với người trưởng thành, lá dừa không chỉ làm đồ chơi mà nó cỏ công dụng trong đời sống. Có khi tham gia vào những cổng chào trong đám cưới, có khi lá dừa khô kết thành đuốc. Nước dừa làm mĩ phẩm thiên nhiên của thiếu nữ Nam Bộ. Có lời lưu truyền rằng con gái Bến Tre tắm nước dừa nên da trắng mịn. Các cụ già bị huyết áp cũng uống nước dừa để trị bệnh. Cơm dừa là một thực phẩm chế biến đa dạng. Thành phần hóa học của nó rất nhiều đạm và chất béo nên rất bổ dưỡng. Ở Bến Tre xắt dừa mỏng xào với chuối để làm kẹo chuối. Dừa già thì xay nhuyễn vắt ít nước cốt để làm nhân bánh. Ngày 30 tết chuẩn bị đón giao thừa không ít phụ nữ và trẻ em quây quần bên mẻ nước dừa thơm thơm béo béo pha những mãu trắng tinh, màu hồng phấn, màu xanh lá dừa thật hấp dẫn. Cây dừa là hình ảnh của cứ nhiệt đới ẩm, dáng nó nghiêng thường xõa bóng bên dòng nước. Lá dừa là chiếc lược khổng lồ chải vào bầu trời xanh. Hình ảnh cây dừa đã đi vào ca dao, thơ vãn và ca từ của nhiều nghệ sĩ Việt Nam và nước ngoài. Cây dừa xuất hiện từ bao giờ thì không rõ nhưng nó gắn bó với mọi người trên đất nước Việt Nam: trẻ em, phụ nữ, người già… trong ngày thường cũng như trong ngày cưới, ngày tết. Với tình hình Việt Nam mở cửa đón khách du lịch năm châu, quả dừa xiêm lại trở thành món quà mới mẻ với những người khách ôn đới. Nó đã trở thành một biểu tượng đẹp của sinh thái nước Việt chúng ta. Thuyết minh về cây dừa – Bài làm 3 Dừa là cây thuộc họ cọ, có nguồn gốc ở vùng Đông Nam Á, ở Ma-lai-xi-a. Miền Nam nước ta trồng nhiều dừa; ở Bến Tre dừa trồng thành rừng. Dừa xiêm to quả, dừa lừa nhiều quả. Gốc dừa to, mốc thếch, có nhiều khoanh nhiều ngấn. Tàu dừa uốn cong, lá dài, cứng và bóng, có thể lợp nhà. Hoa dừa trắng phau như hoa cau, mỗi năm có hai lứa. Mỗi cây dừa có nhiều buồng; mỗi buồng dừa có thể trên dưới mười quả. Quả dừa hình tròn, hình trứng hoặc có dáng ba cạnh, quả dài độ 20- 35cm, đường kính có thể từ 20- 25cm. Khi non màu xanh lục, khi già màu cọ vàng đậm; vỏ ngoài mềm, mỏng và nhẵn, có thể bảo vệ quả khi rơi không bị vỡ nát, vỏ giữa là tầng chất xơ, dày và mềm, rấi nhẹ, chịu được ẩm ướt, làm cho quả nổi, không thể bị chìm, vỏ trong cùng (vỏ dừa) có chất sừng rất cứng. Cơm dừa màu trắng nõn, béo ngậy, thơm và bùi. Nước dừa, sữa dừa trong, ngọt, rất bổ, một thứ nước thiên nhiên giải khát tuyệt vời. Dừa có giá trị kinh tế cao. Xơ dừa, vỏ dừa là nguyên liệu quý. Cơm dừa, nước dừa để ăn, để uống, ép thành dầu dừa, làm mứt dừa, kẹo dừa, làm thuốc bổ dưỡng, trị được nhiều thứ bệnh, nhất là bệnh sán dây. Kẹo dừa Bến Tre là hàng đặc sản xuất khẩu nổi tiếng.
Thuyết minh về cây dừa – Văn mẫu lớp 8
1,939
Dừa là cây thuộc họ cọ, có nguồn gốc ở vùng Đông Nam Á, ở Ma-lai-xi-a. Miền Nam nước ta trồng nhiều dừa; ở Bến Tre dừa trồng thành rừng. Dừa xiêm to quả, dừa lừa nhiều quả. Gốc dừa to, mốc thếch, có nhiều khoanh nhiều ngấn. Tàu dừa uốn cong, lá dài, cứng và bóng, có thể lợp nhà. Hoa dừa trắng phau như hoa cau, mỗi năm có hai lứa. Mỗi cây dừa có nhiều buồng; mỗi buồng dừa có thể trên dưới mười quả. Quả dừa hình tròn, hình trứng hoặc có dáng ba cạnh, quả dài độ 20- 35cm, đường kính có thể từ 20- 25cm. Khi non màu xanh lục, khi già màu cọ vàng đậm; vỏ ngoài mềm, mỏng và nhẵn, có thể bảo vệ quả khi rơi không bị vỡ nát, vỏ giữa là tầng chất xơ, dày và mềm, rấi nhẹ, chịu được ẩm ướt, làm cho quả nổi, không thể bị chìm, vỏ trong cùng (vỏ dừa) có chất sừng rất cứng. Cơm dừa màu trắng nõn, béo ngậy, thơm và bùi. Nước dừa, sữa dừa trong, ngọt, rất bổ, một thứ nước thiên nhiên giải khát tuyệt vời. Dừa có giá trị kinh tế cao. Xơ dừa, vỏ dừa là nguyên liệu quý. Cơm dừa, nước dừa để ăn, để uống, ép thành dầu dừa, làm mứt dừa, kẹo dừa, làm thuốc bổ dưỡng, trị được nhiều thứ bệnh, nhất là bệnh sán dây. Kẹo dừa Bến Tre là hàng đặc sản xuất khẩu nổi tiếng.
Thuyết minh về cây dừa
254
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về cây hoa phượng vĩ – Bài làm 1 2 Thuyết minh về cây hoa phượng vĩ – Bài làm 2 Thuyết minh về cây hoa phượng vĩ – Bài làm 1 Hàng năm, đến khi những chú ve cất lên những tiếng hát gọi hè reo vang inh ỏi khắp sân trường …. Tôi lại đựơc nghe các cô cậu học trò nhắc đến tôi qua những câu đối rất đáng yêu và vô cùng ngộ nghĩnh : “Cây gì mọc ở sân trường Cùng em năm tháng thân thương bạn bè Nấp trong cành lá tiếng ve Sắc hoa đỏ rực gọi hè đến mau?” Có lẽ là vậy … sự xuất hiện chúng tôi có lẽ cũng đã gắn bó với ít nhiều với những kỉ niệm đẹp đẽ của các bạn học sinh. Mùa hạ thường đến với những mùa thi, cùng với những nhánh phượng vĩ đỏ ối chúng tôi lấp ló để báo hiệu ngày chia tay mang đẫm những kỉ niệm vui buồn xen lẫn. Đồng hành với màu đỏ rực của chúng tôi có lẽ chẳng có gì khác ngoài những hàng lưu bút, những dòng nhật kí theo năm tháng và là cả những món quà nho nhỏ lưu niệm dành tặng cho nhau của những cô cậu học trò nhí nhố. Chúng tôi cũng duờng như là nhân chứng cho những tình yêu lãng mạn mơ mộng vu vơ của thời học trò áo trắng cắp sách. Chúng tôi đặc biệt là thế đấy, luôn gắn liền với tuổi học trò. Và tôi không biết từ bao giờ, mọi người xem chúng tôi là một biểu hiện của mùa hạ, của một thời học trò. Và cũng tự khi nào … loài phượng vĩ chúng tôi còn có một biêt danh khác, một tên gọi khác: “Hoa học trò”? Lòai phương vĩ chúng tôi cũng có nhiều tên lắm đấy. Ngòai những cái tên độc đáo, đầy ấn tượng như là xoan Tây, điệp tây, hoa nắng, chúng tôi còn có tên khoa học nữa cơ. Tên khoa học của chúng tôi là Delonix regia, thuộc gia đình Caesalpiniaceaẹ, Họ poincianas có cùng một họ với đậu(Leguminosae), giống Delonix. Loài chúng tôi đa số sinh sống và phát triển tốt ở vùng nhiệt đới hay cận nhiệt đới, nhưng vẫn có thể kiên cường chống chọi với điều kiện khô hạn và sống được cả những nơi đất mặn. Tôi nghe cha tôi kể lại rằng, tổ tiên của tôi có nguồn gốc từ Madagascar cơ đấy. Tại đó con người ta tìm thấy tổ tiên chúng tôi trong các cánh rừng ở miền tây Malagasy. Thế là từ đó, dòng họ của tôi đã đuợc tận hưởng một chuyến du lịch đến khắp mọi nhiệt đới trên thế giới, nhất là Đông Nam á và châu mỹ latinh. Có lẽ vì mầu sắc rực rỡ đỏ rực nổI bật trên nền trời, nên chúng tôi được so sánh như những đốm lửa ấm nóng chói chang giữa rừng chăng ? Tôi chỉ được biết rằng, mầu đỏ thắm của chính lòai hoa chúng tôi đã được thổ dân vùng Madagascar cho vào hạng hoàng tộc của thảo mộc, cũng như được công nhận là hoa biểu tượng cho xứ Puerto Rico. Tại Việt Nam, chúng tôi được người Pháp du nhập vào trồng vào những năm cuối thế kỷ 19 tại các thành phố lớn như: Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn và dần được trồng rộng rải từ Bắc vào Nam trên vĩa hè ,công viên ,trường học. Chúng tôi thuộc vào loại thân mộc, có thể cao lên đén từ 5-12 mét với những tán lá xòe rộng và dày đặt như một chiếc dù khổng lồ. Mỗi cành lá dài khỏang 20-40 cm, dày đặc những chiếc lá kép li ti có màu lục hơi nhạt đặc trưng, nhỏ nhỏ xinh xinh như những chiếc lông chim. Những bông hoa màu đỏ thẫm lượn theo những đường cong mềm mại, mỗi cánh có thể dài tới 8 cm , 5 cánh hoa xòe rộng như những chiếc chong chóng sắp quay. Hoa có 4 cánh có màu đỏ thẫm rực rỡ với cánh thứ năm mọc thẳng, hơi quăn góc, lấm chấm những đốm đỏ đậm, lớn hơn một chút và có phần thô hơn 4 cánh kia. Bên trong những chiếc cánh hoa ấy chính là bầu nhụy và có những cành nhị dài có phấn hoa màu vàng với hương thơm thoang thoảng, thư thái, an lành nhưng đượm đầy sự quyến rũ khiến các loài ong bướm mê mẩn. Đến khi hoa tàn, từ những đài hoa nhỏ nhắn đấy lại mọc ra những trái phượng dẹp, dài đến 60cm và rộng chừng 5cm, khi chin có màu đen thẫm và vỏ cứng bao bọc những hạt phượng màu nâu thẫm bên trong. Chính nhờ có được những phẩm chất ngoại hình trời phú như vậy nên lòai phượng vĩ tôi đây vô cùng tự hào vì còn được ví von như là lòai cây nhiều màu sắc nhất trên thế giời. Những bông hoa đỏ rực rỡ sáng chói trong nắng cùng với nhị vàng hòa lẫn với những màu xanh lục của lá cây làm lòai phưọng chúng tôi lộng lẫy một cách giản dị vô cùng mà không thể nhầm với lòai nào khác cả. Đối với các cô cậu học trò, loài phượng chúng tôi cũng đặc biệt lắm chứ. Chúng tôi ghi lại dấu mốc quan trọng của mỗi cô cậu học sinh.Khi chúng tôi bắt đàu chớm nở là thời điểm của mùa thi cuối năm, dù các bạn có thành công hay thất bại thì điều đó vẫn đem lại cho các bạn những bài học vô cùng quý giá khiến các bạn trưởng thành hơn.Những bông hoa của tôi còn đựoc các bạn hái để ép thành những con bứơm vào những trang nhật kí, trang sách; nhị của bông hoa các bạn hái để chơi những trò chơi ngộ nghĩnh như “đá gà”; tán lá giúp che nắng, che mưa cho các cô cậu học trè vào những ngày hè oi bức hay những ngày mưa tầm tả; thân cây chúng tôi để các bạn khắc lên những dấu ấn kỉ niệm thân thuơng lưu đọng theo năm tháng; quả của chúng tôi còn đựơc một số bạn nam tinh nghịch hái để chơi đánh kiếm;… Và khi chúng tôi đã nở rộ thì có lẽ cũng đã đến thời điểm các bạn phải xa lìa nhau. Ôi, mới nghĩ đén thôi tôi cũng đã cảm thấy nao long rồi. Năm nào cũng vậy, tuy đã quen nhưng tôi vẫn không thể nào tránh đựoc cảm giác xao xuyến khi thấy các bạn chia tay. Các bạn cùng tặng nhau những món quà lưu niệm nho nhỏ, trao cho nhau những loìư chúc tốt đẹp và những lời chia tay thấm đẫm những nỗi buồn của các cô cậu học sinh, như không muốn xa lìa. Tuy vậy, đén đầu tháng năm, thời kì chúng tôi ra hoa đẹp nhất, tôi lại đuợc chứng kiến các cô cậu học trò gác qua những nỗi buồn và lục đục cho những ngày hè sôi động đang đón chờ khiến tôi cũng phấn khởi theo. Ngoài ra, trong đời sống con ngừỏi sao có thể thiếu tôi đuợc chứ: quả khô dung để làm củi này, gỗ đuợc dùgn trong xây dựng, đồ gỗ dân dụng, vỏ và rễ còn dung để làm thuốc để chữa một số bệnh, … và còn vô vàn những lợi ích khác. Ở Việt Nam, vào những dịp hè về, nếu có dịp ghé qua Hải Phòng, các bạn sẽ thấy một thành phố mang mác đầy những sắc đỏ của hơn 9000 những người anh em tôi được gieo rải khắp thành phố. Hay mỗi năm vào tháng sáu, miền nam Florida thường tổ chức hội hoa Phượng Vỹ để mọi người cùng thưởng hoa, như người Nhật thường có hội hoa Sakura chăng? Vì cái đẹp của phượng vỹ, và vì sự bền bỉ của cây phượng qua bao nhiêu năm tháng, dù trụi cành giữa mùa đông nhưng xanh tươi trong những tháng ngày còn lại trong năm, và vì tán lá xanh um mở rộng như chiếc dù che nắng mưa, phượng vỹ có lẽ vì thế được ưa chuộng trong những khuôn viên học đường, những công viên, dọc theo hai bên đường phố hầu tạo được bóng mát trên đường, và làm cảnh đẹp mỗi muà phượng nở. Có lẽ chúng tôi sẽ mãi là biểu tượng cho tuổi học trò. Dưới các mái trường thân yêu, không phải ai hết mà chính là chúng tôi cũng đã lần lượt chứng kiến lũ học trò đang dần trưởng thành và rời xa những mái trường. Chúng tôi khắc ghi lại bao nhiêu dấu ấn kỉ niệm buồn vui học trò, từ những ngày tháng vui đùa bên nhau cho đến khi xa lìa, …. Cũng hạnh phúc lắm chứ. Có lẽ vì thế mà biết bao người, từ châu Âu đến châu Á, đã viết biết bao nhiêu mẩu truyện, làm biết bao nhiêu bài thơ, hoạ bao bức tranh, và nhất là phối âm bao nhiêu bản nhạc riêng cho chúng tôi, ví dụ như bản "Poinciana", và có phải vì thế, bao tâm hồn thi sĩ bắt đầu biết nhớ, và biết mong "Sớm Nở Phượng Yêu". Thuyết minh về cây hoa phượng vĩ – Bài làm 2 Phượng vĩ, hay phượng vỹ, xoan tây, điệp tây hoặc hoa nắng (danh pháp khoa học: Delonix regia) (họ Fabaceae), là một loài thực vật có hoa sinh sống ở vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Tên gọi trong tiếng Trung của nó là (phượng hoàng mộc), (kim hoàng). Tên thông dụng trong tiếng Anh là: Flamboyant, Royal poinciana và Mohur tree. Nguồn gốc, đặc điểm Phượng vĩ được miêu tả như là loài cây nhiều màu sắc nhất trên thế giới. Các bông hoa màu đỏ/da cam rực rỡ của nó cũng như các lá màu xanh lục sáng làm cho nó rất dễ nhận thấy. Phượng vĩ có nguồn gốc từ Madagascar, tại đó người ta tìm thấy nó trong các cánh rừng ở miền tây Malagasy. Trong điều kiện hoang dã, nó là loài đang nguy cấp, nhưng nó được con người trồng ở rất nhiều nơi. Ngoài giá trị là cây cảnh, nó còn có tác dụng như một loài cây tạo bóng râm trong điều kiện nhiệt đới, do thông thường nó có thể cao tới một độ cao vừa phải (khoảng 5 m, mặc dù đôi khi có thể cao tới 12 m) nhưng có tán lá tỏa rộng và các tán lá dày dặc của nó tạo ra những bóng mát. Trong những khu vực với mùa khô rõ nét thì nó rụng lá trong thời kỳ khô hạn, nhưng ở những khu vực khác thì nó là loài cây thường xanh. Các hoa của phượng vĩ lớn, với 4 cánh hoa tỏa rộng màu đỏ tươi hay đỏ hơi cam, dài tới 8 cm, còn cánh hoa thứ năm mọc thẳng, cánh hoa này lớn hơn một chút so với 4 cánh kia và lốm đốm màu trắng/vàng hoặc cam/vàng (cũng có khi trắng/đỏ). Thứ flavida nguồn gốc tự nhiên có hoa màu vàng (kim phượng). Quả là loại quả đậu có màu nâu sẫm khi chín, dài tới 60 cm và rộng khoảng 5 cm; tuy nhiên, các hạt riêng rẽ lại nhỏ và cân nặng trung bình chỉ khoảng 0,4 g, hạt to cỡ hai ngón tay út, hạt ăn rất bùi và ngon. Các lá phức có bề ngoài giống như lông chim và có màu lục sáng, nhạt đặc trưng. Nó là loại lá phức lông chim kép: Mỗi lá dài khoảng 30-50 cm và có từ 20 đến 40 cặp lá chét sơ cấp hay lá chét lông chim lớn, và mỗi lá chét lông chim lớn lại được chia tiếp thành 10-20 cặp lá chét thứ cấp hay lá chét con. Phượng vĩ cần khí hậu nhiệt đới hay cận nhiệt đới để phát triển tốt, nhưng nó có thể chịu được các điều kiện khô hạn và đất mặn. Sinh trưởng Cây tái sinh hạt và chồi đều mạnh, có thể phát triển tốt trên mọi loại địa hình: ven biển, đồi núi, trung du. Cây thuộc loại ưa sáng, mọc khoẻ, phát triển nhanh, không kén đất, rất dễ gây trồng. Tuy nhiên, nhược điểm lớn là tuổi thọ không cao: cây trồng trên đường phố chỉ 30 tuổi là đã già cỗi, thân có dấu hiệu mục rỗng. Sâu bệnh, nấm bắt đầu tấn công, cây trồng trong công viên ,trường học có thể có tuổi thọ cao hơn nhưng cũng chỉ đạt 40-50 năm tuổi. Khu vực trồng Phượng vĩ được trồng khá phổ biến tại khu vực Caribe. Tại Hoa Kỳ, nó được trồng ở khu vực Florida, thung lũng Rio Grande ở miền nam Texas, các sa mạc ở Arizona (đến tận Tucson) và California, Hawaii, Puerto Rico, quần đảo Virgin và Guam. Nó là loài cây biểu tượng chính thức của quần đảo Bắc Mariana (CNMI). Phượng vĩ được coi là đã thích nghi với thủy thổ ở nhiều khu vực mà người ta trồng nó, và bị coi là loài xâm hại tại Australia, một phần là do các bóng râm cũng như bộ rễ của nó đã ngăn cản sự phát triển của nhiều loài thực vật bản địa mọc dưới tán lá của nó. Nó cũng được tìm thấy tại Ấn Độ, tại đây người ta gọi nó là gulmohar. Tại Việt Nam, Phượng vĩ được người Pháp du nhập vào trồng vào những năm cuối thế kỷ 19 tại các thành phố lớn như: Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn. Hiện nay Phượng vĩ là loài cây phổ biến của Việt Nam được trồng rộng rải từ Bắc vào Nam trên vĩa hè ,công viên ,trường hoc. Quả phượng vĩ được sử dụng tại khu vực Caribe trong vai trò của bộ gõ âm nhạc với tên gọi: shak-shak hay maraca. Gỗ thuộc loại trung bình, dùng trong xây dựng,đồ gỗ dân dụng, đóng hòm, xẻ ván. Cây cho vỏ và rễ làm thuốc hạ nhiệt,chống sốt. Vỏ cây có thể sắc nước uống trị sốt rét, đầy bụng, tê thấp, giảm huyết áp. Lá trị tê thấp và đầy hơi. Mùa nở hoa Phượng vĩ nở hoa từ khoảng tháng 4 đến tháng 6, tùy theo khu vực. Ý nghĩa tên * Tên "phượng vĩ" là chữ ghép Hán Việt — "phượng vỹ" có nghĩa là đuôi của con chim phượng. Đây có thể là một hình thức đặt tên gọi theo cảm xúc vì các lá phượng vỹ nhất là các lá non trông giống như hình vẽ đuôi của loài chim phượng. Biểu tượng Tại Việt Nam, phượng vĩ là biểu tượng gắn liền với tuổi học trò, do mùa nở hoa của nó trùng với thời điểm kết thúc năm học, mùa chia tay của nhiều thế hệ học trò. Do vậy, nó gắn liền với nhiều kỷ niệm buồn vui của tuổi học trò, và vì thế người ta gắn cho nó tên gọi "hoa học trò". Thành phố Hải Phòng là khu vực trồng rất nhiều phượng vĩ, vì thế thành phố này còn được gọi một cách văn chương là "thành phố Hoa Phượng Đỏ". Nhà thơ Thanh Tùng có bài thơ Thời hoa đỏ đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành bài hát cùng tên, viết về những kỷ niệm của tuổi trẻ với mùa hoa phượng vĩ.
Thuyết minh về cây hoa phượng vĩ – Văn mẫu lớp 8
2,623
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về cây hoa đào – Bài làm 1 2 Thuyết minh về cây hoa đào – Bài làm 2 3 Thuyết minh về cây hoa đào – Bài làm 3 4 Thuyết minh về cây hoa đào – Bài làm 4 Thuyết minh về cây hoa đào – Bài làm 1 Nói đến mùa xuân đất Bắc ta nghĩ ngay đến hoa đào – loại hoa đặc biệt mỗi dịp xuân về. Mùa xuân về trên những cành hoa ửng hồng duyên dáng và đất trời bồi hồi thổn thức, ấy là xuân, ấy là sắc hoa, Cây đào là loại hoa đặc biệt của Tết Nguyên Đán. Nhiều người chuộng chơi hoa đào tết vì hoa đào có màu đỏ sẽ mang lại sự may mắn trong năm. Mặc dù nguồn gốc được cho ở xứ Ba Tư xa xôi nhưng ngày nay hoa đào có mặt khắp nơi trên đất nước ta, đặc biệt là ởmiền Bắc mỗi khi Tết đến Xuân về. Người ta yêu loài hoa này vì những giá trị thẩm mĩ và văn hóa của nó. Nó là một loài cây sớm rụng lá, thân gỗ nhỏ, có thể cao tới 5-10m. Lá của nó có hình mũi mác, dài 7-15cm và rộng 2-3cm. Hoa nở vào đầu mùa xuân, trước khi ra lá, hoa đơn hay có đôi, đường kính 2,5-3cm, màu hồng, ở nước ta đào được quan tâm nhiều đến hoa mỗi độ xuân về. Hoa đào ở Việt Nam có bốn giống thường thấy là: Đào bích có màu hồng thẫm, đào phai hoa màu hồng nhạt, đào phai hoa kép, sắc hồng phảng phất kiêu kì, đào bạch màu trắng ít hoa hơn, tương đối khó trồng; đào thất tốn cây thấp nhỏ, hoa nhỏ và nhiều màu, thường được trồng vào chậu uốn thành các dạng thế. Đào bích là loài hoa đào phổ biến, cành hoa thắm sắc, hoa rải đều khắp các cành, các tán, xen lẫn nụ hoa xinh với những lộc xanh, chen lẫn những cánh hoa xòe tán với những nụ vừa nhú. Bích đào dù được cắm trong lọ để phòng khách, trên bàn tiếp khách hay vài cành nhỏ cắm trên bàn thờ gia tiên cũng đều đẹp. Người chơi công phu thì chọn đào tết từ trước đó cả tháng. Nào thì thế phượng, thế rồng, nào thì đủ lộc đủ tán…còn kẻ mua hoa về cắm Tết cho đúng với khí xuân thì chỉ chăm chăm nhiều nụ nhiều lộc là được. Chọn được cành đào ưng ý mang về, phải có cái bình đẹp, đốt phần cắt cành để giữ lại nhựa mà nuôi sống thân cành, mà đơm cho hết những nụ hoa trên cành. Có nhà cầu kì chơi hoa đào từ sớm, qua Tết hết hoa, lại kiếm cành đào mới mà chơi cho đến tận rằm tháng Giêng. Ấy thế là mùa xuân cứ tưng bừng gần cả tháng trời. Với văn hóa Việt Nam, hình ảnh hoa đào được gắn với hai vị thần Trà và Uất Lũy trú ngụ ở trên cây hoa đào khổng lồ che chở cho dân chúng. Hoa đào còn là hình ảnh những cô gái trẻ, mảnh mai, và yếu đuối, thể hiện qua thành ngữ "liễu yếu đào tơ". Hoa đào còn có mặt trong văn học dân gian gắn bó với tình yêu và duyên nợ của trai gái: "Mưa xuân, lác đác vườn đào Công anh đắp đất, ngăn rào trồng hoa Ai làm gió táp, mưa sa Cho cây anh đổ, cho hoa anh tàn." Hay : "Hoa đào héo nhụy anh thương Anh mong bẻ lá, che sương cho đào." Ta còn bắt gặp hình ảnh hoa đào trong thơ Nguyễn Du, trong thơ Nguyễn Bính, thơ Vũ Đình Liên… và nhiều bài thơ hiện đại, tất cả đều tượng trưng cho mùa xuân, tuổi trẻ và sắc đẹp. Hoa đào còn là một dược phẩm và mĩ phẩm độc đáo của nền y học cổtruyền. Từ xa xưa, sau dịp Tết Nguyên Đán, người ta thường thu hái hoa đào đem phơi khô trong bóng râm (phơi âm can) và bảo quản nơi cao ráo để làm thuốc dùng dần chữa nhiều chứng bệnh nhưng đặc biệt tốt với việc làm đẹp cho phụ nữ. Hoa đào đã trở thành một loài hoa mang theo biểu tượng của mùa xuân.Và mãi mãi hoa đào mang xuân đến, mang niềm vui và may mắn, đồng hành cùng con người Việt Nam, bất chấp sự vô hạn của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Thuyết minh về cây hoa đào – Bài làm 2 Bàn về ngày lễ ở Việt Nam, không thể quên nhắc đến Tết. Nhắc đến Tết không thể quên nồi bánh chưng và cành mai, cành đào. Hình ảnh hoa đào, hoa mai đã trở thành linh hồn của ngày Tết. Nói đến mai là miền Nam rực rỡ sắc vàng, còn đào lại là sắc hồng thắm của miền Bắc. Hoa đào đã trở thành nét riêng của miền Bắc Việt Nam. Trước hết, có thể lí giải vì sao hoa đào là nét riêng của miền Bắc. Miền Bắc có khí hậu khá khác so với miền Nam. Miền Bắc vào mùa đông chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc tràn về nên có nền nhiệt thấp, lạnh. Khi sang xuân, thời tiết ấm áp dễ chịu. Xuân sang cũng là lúc đào nở rộ. Cây đào rất kén nhiệt và nơi sinh sống. Đào không chịu được nhiệt độ quá lạnh, cũng không chịu được quá nóng. Đào cần được trồng ở những nơi nhiều ánh nắng và thông thoáng gió. Ở nhiệt độ quá lạnh, đào sẽ không thể nở hoa và phát triển. Chồi hoa bị chết ở nhiệt độ -15 đến -25 độ C. Sau khi hoa tàn, quả đào sẽ phát triển và chỉ chín được vào mùa hè với nhiệt độ lý tưởng là 20 đến 30 độ C. Quả đào là một loại trái cây được yêu thích. Đào có rất nhiều loại: Đào bích, đào phai, đào bạch… Nhưng phổ biến nhất vẫn là đào bích. Đào bích có nhiều cánh, cánh hoa màu đỏ thắm. Đào phai có màu sắc nhạt hơn, cánh hoa đã chuyển sang màu hồng. Đúng như tên gọi, đào bạch màu trắng, là loài hoa hiếm và khó trồng nhất. Hoa đào được trồng ở hấu hết các tỉnh miền Bắc như Lạng Sơn, Lào Cai, Hà Nội.. Được ưa chuộng nhất vẫn là đào Nhật Tân. Nhật Tân là vườn đào nổi tiếng ở Việt Nam. Nơi đây nằm ở vùng đất ven sông Hồng ở Hà Nội. Vườn đào này nổi tiếng không chỉ bởi quy mô mà còn cả chủng loại và chất lượng đào. Hoa đào rất thích hợp với loại đất ven sông nhiều phù sa nên chất lượng đào ở Nhật Tân được đánh giá cao là vì thế. Cây đào có nguồn gốc từ Trung Quốc, được lựa chọn và lai giống để có màu sắc tươi và rực rỡ hơn. Cây đào khá kén chăm sóc và tưới bón. Nếu không chăm sóc tốt, tưới tiêu phù hợp, đào sẽ không thể nở hoa đẹp hoặc nở đúng thời kỳ. Ngoài ra cũng còn dựa vào khí hậu thời tiết, đào sẽ ra hoa vào lúc nào. Cũng như mai, đào muốn nở hoa, người trồng đào phải tuốt lá trước khoảng hai tuần để nụ hoa đơm ra, hoa nở đúng mùa vụ. Mỗi năm, hoa đào chỉ nở một lần vào mỗi độ sang xuân. Vào hè quả đào sẽ chín. Quả đào thường có vị chua, là loại trái cây yêu thích của nhiều người. Lá đào không giống lá mai. Lá đào dài hơn, có vân là răng cưa, màu xanh lá nhạt không đậm như lá cây mai. Cành đào cũng mảnh và mỏng hơn so với cây mai. Cánh đào tương tự cánh mai, mỏng, nhẹ. Hoa đào có nhiều cánh cứ đan xen vào nhau mang màu hồng thắm hoặc nhạt theo từng giống đào. Hoa đào nở rất nhanh, tàn cũng rất nhanh. Trung bình một bông hoa từ lúc thành nụ đến khi tàn là khoảng 2 đến 3 tuần. Khi đào nở bung chuẩn bị tàn, chỉ cần một làn gió nhẹ thổi qua, cánh hoa đào cũng sẽ rơi xuống hệt như hoa anh đào của Nhật Bản. Tùy theo chủng loại, tuổi đời và cách chăm bón, cây đào có nhiều kích thước khác nhau. Có thể rất nhỏ hoặc rất lớn. Rễ cây đào là rễ cọc, luôn có thân giữa cứng cáp to lớn làm trụ. Trung bình một cây đào cao khoảng 1 mét trở lên. Cây đào có nhiều cành, cành mềm dẻo dễ uốn nắn. Vì thể mà người trồng đào có thể uốn nắn theo từng hình dáng, tướng tá khác nhau phù hợp với thị yếu của người mua. Hoa đào mang rất nhiều ý nghĩa. Trước đây, hoa đào mang tinh thần đuổi ma quỷ trong nhà. Ngày nay, hoa đào mang lại sự ấm cúng cho gia đình, mang lại sự an khang thịnh vượng. Vẻ đẹp đằm thắm, hài hòa và kín đáo của hoa đào mang lại niềm vui, niềm hy vọng mới. Không chỉ thế, hoa đào còn đại diện cho tình bạn thân thiết, của lòng hướng về gia đình. Bởi vậy mà những người con miền Bắc xa quê, những người bạn thân đến thăm nhau vào dịp tết thường chọn cành đào làm quà. Hoa đào ngày nay đã trở thành tinh thần ngày tết, hồn dân tộc Việt. Vì thế, nên những người Việt xa quê, đón Tết tại nơi xứ người, luôn muốn tìm một cành đào để trang trí trong nhà, để họ cảm thấy một cái tết Việt Nam. Sắc hồng thắm nhẹ nhàng của đào là hương vị không thể thiếu của người Việt Nam. Thiếu đào, cái hơi thở của Tết chưa thật sự đúng nghĩa. Hoa đào, hoa mai là hình ảnh của Tết, là linh hồn của ngày Tết quê hương. Đào khoe sắc thắm báo hiệu một năm đã qua, năm mới lại về. Năm mới với những thử thách mới, hi vọng mới, niềm tin mới. Sắc đào rộ lên là lúc báo hiệu thời khắc thiêng liêng của một năm lại tới. Người người ai ai cũng quây quần đoàn tụ với gia đình. Dù ai đi ngược về xuôi vẫn nhớ đến gia đình quê hương mà tìm về vào dịp Tết không quên mang theo cành đào, cành mai về làm quà. Thuyết minh về cây hoa đào – Bài làm 3 Hàng năm mỗi độ tết đến xuân về, tiết trời ấm áp là lúc hoa đào bắt đầu nở rộ. Hoa đào sẽ tô thêm vẻ đẹp cho hương sắc của mùa xuân, khiến cho cái tết của mọi nhà thêm ấm áp. Hầu hết các tỉnh ở Bắc Bộ đều coi hoa đào là đặc trưng trong ngày tết của mình. Đào xuất hiện ở Việt Nam đó từ rất lâu đời. Khi tiết trời báo hiệu mùa xuân sắp đến, chúng ta có thể ghé thăm làng hoa Nhật tân, Ngọc Hà ở Hà Nội…chúng ta sẽ được hưởng một cảm giác vô cùng mới mẻ của rừng đào bạt ngàn. Người ta đã đặt cho đào với tên khoa học là Prunus Persica. Có nhiều giống đào nhưng đào bích được coi là giống đào đẹp nhất. Hoa đào bích có nhiều cánh xếp chồng lên nhau màu hồng thẫm, loại này được trồng để chỉ lấy hoa. Giống thứ hai là giống đào phai, hoa có năm cánh, cánh màu phớt hồng, được trồng để lấy quả. Giống đào bạch hiếm thấy, cây nhỏ ít hoa có màu trắng tinh khiết. Đào thất thốn có hoa màu đỏ thẫm, khó trồng, khó chăm sóc, nên ít được người ta trồng. Mùa xuân đến hoa đào nở rộ, cánh đào mỏng mềm và mịn như nhung, có những năm khi tết đã đến, xuân về nhưng tiết trời lạnh, hoa đào không thể nở được. Đào mọc thành từng bông riêng lẻ chứ không mọc thành chùm. Hoa đào thường nở 4-5 ngày thì tàn. Để cho ra một cây hoa đào đẹp, người trồng đào phải mất rất nhiều thời gian và công sức để trồng đào. Đào trồng để ăn quả thì không phải chăm sóc nhiều. Từ việc đốn cành tỉa lá uốn cây theo các thế khác nhau đều phải rất tỉ mỉ và khéo léo. Trước tết khoảng 15 ngày, người trồng đào phải tuốt lá để đào sai hoa vào đúng dịp Tết. Ngày tết mà có cảnh đào trong nhà, sẽ tạo nên sự ấm cúng, một năm mới đủ đầy của mỗi nhà. Bên cạnh bánh chưng xanh, câu đối đỏ, mâm cỗ tất niên là cành đào nhỏ, góp phần tăng thêm hương vị cho ngày tết. Đào không chỉ góp phần tô đậm thêm cho hương sắc của mùa xuân mà còn là loại cây mang lại giá trị kinh tế cao. Tùy thuộc vào mức độ đẹp và to nhỏ khác nhau mà mỗi cây đào có gía khác nhau, chúng có giá từ vài chục nghìn đến vài triệu đồng. Hoa đào cùng với bánh chưng xanh là thứ không thể thiếu trong dịp lễ tết cổ truyền của dân tộc. Khách du lịch đến Việt Nam coi cành đào là món quà mang giá trị tinh thần lớn, những người con xa xứ khi ngắm cành đào lại nhớ về quê hương, như được sống với không khí tết của quê hương mình. Cây đào không chỉ để làm cảnh, lấy quả mà còn dùng để chế thuốc rất hiệu quả. Hoa đào được chế làm thuốc đắp mặt, đem lại là da mát, mịn màng, hồng hào cho người phụ nữ. Hoa đào còn được chế thành thuốc chữa bệnh thuỹ tũng và bí đại tiện rất hiệu qủa. Xã hội phát triển, con người có nhiều thứ để bày trong ngày tết, nhưng hoa đào vẫn luôn được mọi người yêu thích. Dù có những lễ vật sang trọng đến đâu, người ta vẫn muốn có một cây đào đẹp trong ngôi nhà của mình vào dịp tết. Thuyết minh về cây hoa đào – Bài làm 4 Như một vòng tuần hoàn của cuộc sống, đông qua, xuân đến. Chúa xuân mang đến cho vạn vật những tia nắng ấm áp sau một mùa giá lạnh, thổi vào cuộc sống hương vị ngọt ngào của mùa xuân. Nếu như hoa mai tượng trưng cho một cái Tết sung túc ở phương Nam thì hoa đào là biểu tượng cho một mùa xuân bất diệt ở miền Bắc. Tuy có nguồn gốc xa xôi ở xứ Ba Tư, thế nhưng ngày nay hoa đào có mặt ở khắp nơi trên đất nước Việt Nam đặc biệt là ở miền Bắc và mỗi khi Tết đến Xuân về. Cây đào thuộc họ hoa hồng, thân gỗ nhỏ, cao khoảng từ năm đến mười mét, lá có hình mũi mác. Hoa mọc đơn độc, có màu hồng hoặc màu trắng, năm cánh mềm mại, mịn màng như nhung. Khi cây ra hoa ngắn, hầu như không có cuống, đài có ống hình chuông, thùy hình trứng, có nhiều nhị. Dòng họ của hoa đào rất da dạng và phong phú. Nếu xếp theo số cánh thì có thể chia đào thành hai loại là đào đơn và đào kép. Còn xếp theo màu sắc thỉ có thể chia đào thành đào phai, đào bích, đào bạch, đào thất thốn. Nhưng có lẽ đẹp nhất vẫn là đào bích. Đào bích cánh hoa màu hồng thắm, tán tròn nhiều cành cân đối. Đào phai màu nhạt, hồng tươi, trang nhã mà hấp dẫn như đôi má ửng hồng của người thiếu nữ khi thẹn thùng. Đào bạch ít hoa tương đối khó trồng. Đào thất thốn dáng nhỏ, hoa nhỏ, có màu đỏ thẫm. Hoa đào chỉ trồng được ở miền Bắc và nở đúng vào mùa xuân. Nhưng muốn hoa nở đúng thời vụ thì đòi hỏi nhiều kinh nghiệm ở người trồng hoa. Và thi sĩ Xuân Sách đã dùng những lời thơ để nêu ra cách làm cho hoa nở đúng ngày Tết: "Vặt trụi lá, bè trơ cành Đê cây tức giận nở thành trăm hoa " Vì vậy, muốn có đào chơi vào ngày Tết thì tháng mười một âm lịch người ta thường ngắt hết lá để nhựa cây tích tụ lên thân làm nụ. Rồi tùy theo thời tiết nóng hay rét nhiều mà người trồng đào phải thúc hay hãm hoa. Nếu ở miền Nam, xuân về phải có mai vàng, một biểu tượng cho sự giàu sang, phú quý, hạnh phúc và sum vầy thì ở miền Bắc có hoa đào mới có mùa xuân. Người miền Bắc ưa chuộng chơi đào vào ngày Tết có lẽ vì màu hồng mang lại sự may mắn và phúc lộc đầu năm. Các cụ ngày xưa thường bảo, cắm một cành đào trong nhà là cản được gió độc và đuổi được tà khí. Và sân nhà ai có trồng đào thì đó là sân nhà phú quý. Những nhà có điều kiện thường sắm cả một cây đào ghép ba tầng, những nhà nghèo hơn cũng có mua một vài nhánh đào chưng trong nhà. Đón xuân mà không có hoa đào cũng tẻ nhạt như thiếu bánh chưng xanh, câu đối đó, tràng pháo hồng. Vì vậy, Tết đến, dù bận việc đến mấy thì người dân miền Bẳc cũng phải mua cho gia đình mình một vài nhánh đào. Hoa đào không chỉ mang giá trị thẩm mĩ mà còn mang nét đẹp văn hóa đồng thời còn là một dược phẩm, mĩ phẩm độc đáo. Từ xưa, hình ảnh của hoa đào đã được đưa vào thơ ca làm xúc động lòng người. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du có nhắc đến hình ảnh cùa hoa đào trong sự luyến tiếc khi cảnh cũ còn mà người xưa không thấy: “Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”. Và vẻ đẹp mơn mởn của hoa đào trong ngày Tết còn thể hiện qua câu thơ: “Một đóa đào hoa khoe tốt tươi, Tướng xuân mơn mởn thấy xuân cười”. Mùa xuân năm Kỉ Dậu, vua Quang Trung sau khi đại thắng quân Thanh, đã mang một cành đào từ Thăng Long về Phú Xuân để tặng cho công chúa Ngọc Hân- người vợ yêu quý của người – để báo tin thắng trận. Trong lịch sử y học Á Đông, danh y Tuệ Tĩnh đã ghi lại nhiều phương pháp chăm sóc da mặt cho phụ nữ bằng hoa đào. Cây đào không dễ trồng như cây mai. Nó là một loại cây ưa đất thịt, phân bón vừa phải, cần nhiều ánh sáng, thoáng và thông gió. Ở miền Bắc Việt Nam, người ta trồng đào để lấy hoa chơi Tết, sau ngày Tết, người ta tiếp tục trồng đào trở lại. Xuân về mang đến bao nhiêu điều kì diệu. Đúng là muôn hồng, nghìn tía, cái đẹp đi đến từng người, từng nhà và hoa đào là một món quà mà thiên nhiên ưu ái dành tặng cho con người. Xuân đến rồi xuân đi, hoa đào nở rồi lại tàn, thế nhưng hình ảnh của hoa đào vẫn Còn sống mãi với thời gian như lời thơ của Chế Lan Viên: “Một cành đào ứa nhựa Nặng bàn tay anh cầm, Nghe hương thầm lan tỏa Qua màn sương thời gian ”
Thuyết minh về cây hoa đào – Văn mẫu lớp 8
3,284
Bài làm 1 Ngày Tết được báo hiệu bởi những cơn mưa xuân ấm áp, những lộc non mơm mởn trên những cành cây, nhưng quan trọng nhất là sự xuất hiện của những cành mai, cành đào được bày bán trên vỉa hè của khắp các khu phố. Nếu mai là biểu tượng của mùa xuân phương Nam thì ở xứ Bắc, loài hoa vinh dự được chọn là hoa đào. Ngày xưa, ở phiá Ðông núi Sóc Sơn, Bắc Việt, có một cây đào mọc đã lâu đời. Cành lá đào xum xuê, to lớn khác thường, bóng rậm che phủ cả một vùng rộng. Có hai vị thần tên là Trà và Uất Lũy trú ngụ ở trên cây đào khổng lồ này, tỏa rộng uy quyền che chở cho dân chúng khắp vùng. Quỹ dữ hay ma quái nào bén mãng lui đến ắt khó mà tránh khỏi sự trừng phạt của 2 vị thần linh. Ma quỷ rất khiếp sợ uy vũ sấm sét của hai vị thần, đến nỗi sự luôn cả cây đào. Chỉ cần trông thấy cành đào là bỏ chạy xa bay. Ðến ngày cuối năm, cũng như các thần khác, hai thần Trà và Uất Luỹ phải lên thiên đình chầu Ngọc Hoàng. Trong mấy ngày Tết, 2 thần vắng mặt ở trần gian, ma quỷ hoành hành, tác oai tác quái. Ðể ma quỷ khỏi quấy phá, dân chúng đã đi bẻ cành đào về cắm trong nhạ Ai không bẻ được cành đào thì lấy giấy hồng điều vẽ hình 2 vị thần linh dán ở cột trước nhà, để xua đuổi ma quỷ. Từ đó, hàng năm, cứ mỗi dịp Tết đến, mọi nhà đều cố gắng đi bẻ cành đào về cắm trong nhà trừ ma quỵ Lâu dần, người Việt quên mất ý nghĩa thần bí của tục lệ này, không còn tin mấy ở ma quỷ thần linh như tổ tiên ngày xưa. Ngày nay, hoa đào hoa mai tươi thắm khắp nhà nhà vào dịp Tết, và sắc giấy đỏ hồng điều với câu đối hoà hợp được trang trí mấy ngày Xuân trong không khí vui vẻ, trong sáng. Cây đào (danh pháp khoa học: Prunus persica) là một loài cây có lẽ có nguồn gốc từ Trung Quốc, được trồng để lấy quả hay hoa. Nó là một loài cây sớm rụng lá thân gỗ nhỏ, có thể cao tới 5–10 m. Lá của nó có hình mũi mác, dài 7–15 cm và rộng 2–3 cm. Hoa nở vào đầu mùa xuân, trước khi ra lá; hoa đơn hay có đôi, đường kính 2,5–3 cm, màu hồng với 5 cánh hoa. Quả đào cùng với quả của anh đào, mận, mơ là các loại quả hạch.Quả của nó có một hạt to được bao bọc trong một lớp vỏ gỗ cứng (gọi là “hột”), cùi thịt màu vàng hay ánh trắng, có mùi vị thơm ngon và lớp vỏ có lông tơ mềm như nhung. Tên gọi khoa học persica có lẽ có từ niềm tin ban đầu của người châu Âu cho rằng đào có nguồn gốc ở khu vực Ba Tư (Persia) (hiện nay là Iran). Sự đồng thuận lớn trong giới các nhà thực vật học ngày nay đã cho rằng nó có nguồn gốc từ Trung Quốc và được đưa vào Ba Tư cũng như khu vực Địa Trung Hải theo con đường tơ lụa vào khoảng thời gian ban đầu của lịch sử nhân loại, có lẽ vào khoảng thiên niên kỷ 2 TCN (Huxley và những người khác, 1992). Các giống đào trồng được chia thành hai loại là “hột rời” và “hột dính”, phụ thuộc vào việc hột có dính với cùi thịt hay không; cả hai loại này đều có cùi thịt trắng hay vàng. Quả đào với cùi thịt trắng thông thường có vị rất ngọt và ít vị chua, trong khi loại có cùi thịt màu vàng thông thường có vị chua kèm theo vị ngọt, mặc dù điều này cũng có sự dao động lớn. Cả hai màu thông thường đều có các vệt đỏ trong lớp thịt của chúng. Loại đào cùi trắng, ít chua là phổ biến nhất tại Trung Quốc, Nhật Bản và các quốc gia châu Á xung quanh, trong khi người châu Âu và Bắc Mỹ ưa thích loại có cùi thịt màu vàng và có vị chua hơn. Đào được biết đến tại Trung Quốc và Nhật Bản không chỉ như là một loại quả phổ biến mà còn gắn liền với nhiều truyện dân gian và tín ngưỡng. Momotaro (Đào Thái Lang), một trong những nhân vật bán lịch sử và cao quý nhất tại Nhật Bản, được sinh ra trong một quả đào khổng lồ trôi theo dòng sông. Tại Trung Quốc, quả đào được coi là được các vị tiên ăn do các tính chất huyền bí của nó đối với sự trường thọ dành cho những người ăn nó. Ngọc Hoàng, vị thần cai quản thiên đình, có vợ tên là Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu mời các vị tiên ăn những quả đào trường sinh và như thế đã đảm bảo cho sự tồn tại vĩnh cửu của họ. Các vị tiên được Tây Vương Mẫu thết đãi một bữa tiệc sang trọng tại hội bàn đào. Các vị tiên phải chờ đợi 6.000 năm để có được bữa tiệc sang trọng này; cây đào tiên chỉ ra lá sau mỗi một nghìn năm và cần tới 3.000 năm để làm quả chín. Các bức tượng bằng ngà voi họa lại những người tham dự bữa tiệc của Tây Vương Mẫu thông thường có ba quả đào. Quả đào đóng một vai trò quan trọng trong tín ngưỡng Trung Hoa và là biểu tượng của sự trường thọ. Một ví dụ liên quan đến quả đào là chuyện về Trương Đạo Lăng, được nhiều người cho là người đã sáng lập ra Lão giáo. Trương Quả Lão, một trong số Bát Tiên của người Trung Quốc, thường được họa lại là mang theo quả đào trường sinh. Hoa đào cũng được đánh giá cao trong văn hóa Trung Hoa, tương tự như hoa mai (mơ). Đào là một trong những cây ăn quả quan trọng nhất, sản lượng toàn thế giới hàng năm đạt tới 7 – 8 triệu tấn. Cách đây hơn 300 năm, Đào đã được trồng ở các tính miền Tây Bắc Trung Quốc, hiện nay Đào được trồng nhiều ở các nước: Trung Quốc, Mỹ, Ý, Pháp, Nhật, Achentina… ở nước ta, Đào được trồng nhiều ở các tỉnh: Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Đào cũng được trồng ở vùng núi các tỉnh miền Bắc nhưng hiệu quả kinh tế kém, ở vùng đồng bằng, Đào được trồng chủ yếu để cho hoa là chính. Đào có vị thơm, ngon, giàu chất dinh dưỡng. Trong 100g cùi thịt quả Đào có 0,9g protein, 0,1g lipit, 7g gluxit, 8mg canxi, 20mg phốtpho, 10mg sắt, 2mg caroten, 8,3mg Vitamin B1, 2mg Vitamin B2, 6mg Vitamin C, các axit hữu cơ: xitric, tactric, clorogenic. Đào rất bổ dưỡng nhưng không nên ăn nhiều vì Đào tính ấm, vị ngọt, chua, ăn nhiều dễ sinh bốc hoả, đầy chướng bụng, sinh mụn nhọt. Ngoài thịt quả, các bộ phận khác của cây Đào đều là những vị thuốc quý. Nhân hạt Đào (Đào nhân) vị đắng ngọt, tính bình vào 2 kinh tâm và can, có tác dụng phá huyết tan ứ, làm tan đờm, nhuận tràng, điều hoà chức năng cơ quan hô hấp, giảm ho, chữa bế kinh, đau bụng kinh, cao huyết áp, viêm ruột thừa, tụ huyết sưng đau do chấn thương, điều trị chứng tắc nghẽn mạch máu. Rễ Đào: Dùng ngoài da chữa sưng đau, sắc uống chữa viêm gan vàng da. Nhựa thân cây Đào: Chữa kiết lỵ ra máu, đái tháo đường, viêm phế quản. Cành Đào: Chữa sốt rét. Lá Đào: Có amygdalin, axit tanic, cumarin. Thường dùng lá Đào diệt sâu bọ: Ngâm vào nước tù đọng diệt được bọ gậy, cho vào hố xí diệt được giòi, đun lấy nước chữa lở ngứa, ghẻ, viêm âm đạo. Hoa Đào: Có tác dụng hạ khí, tiêu báng nước, lợi tiểu. Dầu hoa Đào làm kem bôi mặt, da mặt sẽ mịn màng… Bài làm 2 Vào dịp Tết Nguyên Đán, nếu hoa mai là đặc trưng của mùa xuân phương Nam thì hoa đào lại tiêu biểu cho mùa xuân phương Bắc. Tết đến, chắc chắn các bạn sẽ bị cuốn hút bởi vẻ đẹp mê hồn của những cành đào, cây đào được bàn tay con người chăm chút kĩ lưỡng và trân trọng. Cây hoa đào xuất hiện ở nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản… Trước kia, ở Việt Nam, cây đào chỉ trổng được từ vùng Nghệ – Tĩnh trở ra. Làng Nhật Tân, ngoại thành Hà Nội là xứ sở của hoa đào. Ngày nay, ở Đà Lạt (miền Nam) cũng đã trồng được loại đào ghép nhưng không đẹp bằng đào Hà Nội. Cây hoa đào có nhiều giống, phổ biến nhất là đào bích, bông hoa nhiều cánh màu hồng thẫm, phủ từ gốc tới ngọn. Đào phai hoa màu hồng nhạt, đào bạch hoa màu trắng, tương đối khó trồng. Đào thất thốn cây thấp, hoa nhỏ màu độ thắm, thường được trồng vào chậu và uốn thành các dáng thế theo ý muốn. Các giống đào này đều chỉ cho hoa chứ không cho quả. Cây đào ưa đất thịt, đất phù sa, phân mùn và cần nhất là không gian thoáng đãng, nhiều ánh sáng. Cây đào rụng lá hàng năm vào mùa đông, đến mùa xuân lại nảy lộc, ra hoa. Vì vậy, người trồng phải có kinh nghiệm và hiểu biết kĩ thuật để làm cho cây đào nở hoa đúng vào dịp Tết. Giữa tháng Chạp (12 Âm lịch), nụ hoa he hé là vừa. Nếu trời trở gió nồm, thời tiết ấm lên thì hoa có thể nở sớm. Muốn hãm thì phải ngưng tưới để đất hơi khô. Cách Tết độ vài ngày, hoa đào bắt đầu nở lác đác. Những cánh hoa hổng thắm chi chít khắp cành. Từng chùm lá nõn xanh như ngọc bích rung rỉnh trước gió. Sáng mồng Một Tốt, hoa đào nở rộ, hương thơm nhẹ nhàng, thoang thoảng. Một màu hổng rực bao phủ khắp cây đào, tạo nôn vẻ đẹp có sức quyến rũ lạ lùng. Nhìn hoa đào nở, lòng người hân hoan xúc động trước linh hồn của mùa xuân. Trong hàng trăm ngàn loài hoa, hoa nào cũng có vẻ dẹp riêng, nhưng dặc biệt hơn cả là hoa đào mang tới cho con người sức sống rạo rực của mùa xuân. Màu hồng của hoa đào như một lời chúc tốt lành, đem lại sự may mắn trong năm mới. Cùng với hoa mai miền Nam, hoa đào miển Bắc dã góp phần tổ điểm cho sắc xuân tuyệt vời của đất nước Việt Nam yêu dấu. Bài làm 3 Nếu mai là biểu tượng của mùa xuân phương Nam thì ở xứ Bắc, loài hoa vinh dự được chọn là hoa đào. Cây đào có tên khoa học là Prunus persica. Cây đào chỉ có thể sống tốt trong một khu vực tương đối hạn chế, do chúng có các yêu cầu về độ lạnh mà các khu vực cận nhiệt đới khó có thể phù hợp, tuy nhiên chúng cũng chịu rét rất kém. Loài cây này có thể chịu được lạnh từ khoảng -26 °C tới -30 °C. Các chồi hoa thường bị chết đi ở khoảng nhiệt độ từ -15 °C đến -25 °C, phụ thuộc vào khoảng thời gian rét. Một vài giống thì dễ nhạy cảm với lạnh hơn trong khi các giống khác có thể chịu được nhiệt độ thấp hơn (vài độ). Ngoài ra, nó cần nhiều nhiệt trong mùa hè để quả có thể chín được, điều này có nghĩa là nhiệt độ cao nhất trong mùa hè có thể nằm trong khoảng 20 °C – 30 °C. Đào cần được trồng ở nơi có nhiều ánh nắng, với sự thông thoáng gió tốt. Điều này cho phép không khí lạnh bị thổi đi vào những đêm sương giá và giữ cho khu vực được mát mẻ vào mùa hè. Tổ tiên ta thuở bình minh dựng nước trên đất Bắc, khi chọn hoa đào để làm thú tiêu khiển trong ba ngày tết, chắc hẳn đã nghĩ tới màu đỏ thắm rực rỡ của đào giống như viễn ảnh của một năm mới sắp tới cũng trong sáng đẹp đẽ như màu hoa. Sau những ngày đông giá lạnh, sắc hồng của đào như sưởi ấm lòng người và vạn vật. Dưới mưa xuân, những cây đào bích, đào phai càng quyến rũ hơn, giống như khuôn mặt yêu kiều của một cô gái được che phủ mờ mờ bởi một tấm khăn voan mỏng manh. Việc miền Bắc chơi đào, trong khi miền Nam chơi mai trong dịp Tết được giải thích là sau khi mở rộng bờ cõi về phương Nam vốn có khí hậu nóng hơn không thích hợp với việc trồng đào, mỗi khi Tết đến, những người đi mở đất nhớ đến cành đào ngoài Bắc nhưng không thể có được đã chọn mai (một cây hoa rất phổ biến ở trong Nam, đẹp, nhiều hoa lại nở đúng mùa Tết) để thay thế. Nếu ngày Tết mà thiếu hoa đào thì thiếu hẳn hương sắc mùa xuân. Mỗi dịp Tết đến xuân về, đào nở rộ như nhắc chúng ta nghĩ về gia đình, về một năm cũ đã qua… Bài làm 4 Hằng năm khi sắc vàng tươi của hoa mai đó rực rỡ khắp Nam Bộ, trong tiết trời se lạnh của mựa xuõn những cành hoa đào cũng bắt đầu nở rộ. hoa đào từ lâu đó chở thànhloài cõy khụng thể thiếu với mựa xuõn ở Bắc Bộ. Hoa đào có nhiều ở vùng ôn đới khí hậu ôn hoà. Đào xuất hiện ở Việt Nam đó từ rất lõu đời. mùa xuân khi đến thăm làng hoa Nhật tân, Ngọc Hoà ở Hà Nội…bạn sẽ thấy ngút ngàn những hàng đào nở rộ. ở nhiều vùng núi phía bắc có những rừng đào mọc tự nhiên với những gốc đào nở rộ. Tên khoa học của đào là Prunus Persica. Có bốn giống đào chính. Giống đẹp nhất có lẽ là bích đào. Hoa đào bích có nhiều cánh xếp chồng lờn nhau màu hồng thẫm. Bích đào được trồng để lấy hoa. Giống thứ hai là giống đào phai, hoa có năm cánh, cánh màu phớt hồng. Đào phai sai hoa sai quả được trồng để lấy quả. Giống đào bạch hiếm thấy, cây nhỏ ít hoa có màu trắng tinh khiết. Đào thất thốn có hoa màu đỏ thẫm, khó trồng, khó chăm sóc. Hoa đào nở vào cuối mùa đông, đầu xuân khi cái rét mướt đó nhường chỗ cho tiết trời ấm áp. Trong làn mưa phùn lất phất, hoa đào xoè cánh đón lấy cái tinh tuý của trời đất. Cánh đào mỏng mềm và mịn như nhung. Đào mọc thành từng bông riêng lẻ chứ không mọc thành chùm. Hoa đào thường nở 4-5 ngày thỡ tàn. Hao đào rất đẹp nhưng để có được cành đào đẹp trong ngày tết thỡ khụng phải dễ dàng. Đào trồng lấy quả thỡ ớt cụng chăm sóc nhưng đào lấy canh để bỏn thỡ phải chăm bón rất công phu. Từ việc đốn cành tỉa lá uốn cây theo các thế khác nhau đều phải rất tỉ mỉ và khéo léo. trước tột khoảng 15 ngày tên tuôta là để đào sai hoa vào đúng dịp Tết. Hoa đào góp phần tôn lên vẻ đẹp của khu vườn núi rừng và căn nhà nhỏ của bạn trong dịp tết đến xuân về. Bên cạnh bỏnh chưng xanh, câu đối đỏ, mâm cỗ tất niên là cành đào nhỏ đem lại sự ấm cúng cho mỗi gia đỡnh. Đào cũng lại thu nhập cao trong ngày tết cho người trồng cành đào thường có giá từ 30-45 nghỡn đồng, cồn ở các làng hoa mỗi cây có khoảng từ một trăm nghỡn đến một triệu đồng tuỳ từng loại. Hoa đào cũng gắn với thú chơi đào ngày tết của những người chuộng cây cảnh. họ tự tay uốn tỉa cành theo óc thẩm mĩ của riờng mỡnh. Đào là loài hoa thiêng liêng cựng với bánh chưng xanh khụng thể thiếu trong ngày tết cổ truyền của dõn tộc. Khách du lịch đến Việt Nam thường chọn cành đào về làm quà. Những người con xa xứ khi ngắm cành đào lại nhớ về quê hương của mỡnh. Từ xa xưa, đào đó được coi như một thi đề quen thuộc trong thơ ca. những tác phẩm tiêu biểu như truyện Kiêự của nguyễn Du, Ông Đồ của Vũ Đỡnh Liờn….đều có sắc thắm đào đỏ Ngoài ra, đào được sử dụng để chế thuốc rất hiệu quả. Hoa đào được chế làm thuốc đắp mặt, đem lại là da mát, mịn màng, hồng hào cho người phụ nữ. cùng với một số dược liệu khác, đào chế thành thuốc chữa bệnh thuỹ tũng và bí đại tiện rất hiệu quả. Danh y Tuệ tĩnh đó nhắc nhiều về cụng dụng của hoa đào trong cuốn sách y học nổi tiếng của mỡnh. Mùa xuân tiếp nối mùa xuân,thời gian trôi đi không bao giờ trở lại, cuộc sống có vô vàn sự thay đổi nhưng hoa đào vẵn là loài hoa không thể thiếu trong mỗi dịp tết cổ truyền của dân tộc ta.
Thuyết minh về cây hoa đào
2,967
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An 2 Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – Bài làm 2 3 Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – Bài làm 3 4 Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – Bài làm 4 Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Hạt gạo, củ khoai, bắp ngô … là nguồn lương thực chính của nhân dân ta đã bao đời nay. Màu xanh của con gái, màu vàng tươi của cảnh đông lúa chính là hình ảnh thân thuộc của quê hương đất nước chúng ta. Nước ta có nghề trồng lúa đã lâu đời. Hầu như ở miền quê nào cũng có đồng lúa, ruộng lúa, nương rấy trồng lúa. Đồng bằng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long là hai vựa lúa lớn nhất của nước ta. Có hai vụ lúa chính: Vụ chiêm và vụ mùa. Nước ta có hàng trăm giống lúa như: lúa gié, lúa ba giăng, lúa di hương, lúa mộc tuyền, lúa móng chim…Quý nhất là lúa tám xoan, lúa dự, gạo trắng, dẻo và thơm. Cơm tám giò chả, ăn mãi không biết chán. Lúa nếp cũng có nhiều loại: nếp cái, nếp rồng, nếp mỡ, nếp nàng tiên… Nghề trồng lúa là nghề căn bản của nhà nông. Người dân cày cần cù, một nắng hai sương, quanh năm bám lấy ruộng đồng: cày bừa, cấy hái, tát nước, bón phân, làm cỏ: " Trên đồng cạn, dưới đồng sâu, Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa" " Ruộng thấp tát một gàu giai, Ruộng cao thì phải tát hai gàu sòng" (Ca dao) Miền Bắc quen gieo mạ, cấy lúa. Miền Nam lại sạ lúa. Lúa sau khi sạ, mạ sau khi độ mười ngày đã xanh rờn bát ngát. Lúa con gái xanh ngắt một màu. Những cơn mưa rào cuối xuân đầu hè được gọi là cơn mưa vàng, vàng cho đồng lúa tươi tốt bởi: " Lúa chiêm đướng nép đầu bờ, Nghe ba tiếng sấm phất cờ mà lên". Lúa đứng cây rồi lúa có đòng bông. Lúa trổ bông dâng hương thoang thoảng. Hoa lúa trắng nón. Rồi lúa ngậm sữa, lúa uốn câu. Độ nửa tháng sau, đồng lúa ửng vàng, lúa chín rộ.Cánh đồng quê như một tấm lụa mỡ gà khổng lồ căng rộng, trải dài đến tận chân trời xa. Lúa reo rì rào như cất tiếng hát. Đồng que vui náo nức trong mùa gặt . Tiếng xe chở lúa, tiếng máy đập lúa, tiếng hát vang rộn xóm thôn. Những năm bội htu, màu gặt là ngày hội của đồng quê. Cơm gạo mới, mẻ cốm ngọt ngon, đĩa xôi gấc dẻo cứ thơm quyện lấy hồn người. Cây lúa thất quý giá vô cùng, Rạ rơm dùng được bao việc có ích: để lợp nhà, để đun bếp, làm phân bón, làm thức ăn cho trâu bò. Nhà nghèo còn dùng để lót ổ trong mùa đông tháng giá: " No cơm tấm, ấm ổ rơm". Rạ rơm là nguyên liệu để trồng nấm rơm xuất khẩu. Vỏ trấu dùng để ủ bếp, trắc vườn, để độn phân chuồng. Cám để nuôi heo, ép thành dầu cám. Bát cháo cám năm đói 1945 nhiều người già còn nhắc lại. Hạt lúa là hạt vàng. Hạt gạo là hạt ngọc. Gạo để nấu cơm ăn ngày ba bữa: " Ai ơi ưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt, đăng cay muôn phần" (Ca dao) Gạo xay giã thành bột để làm bún, làm bánh đúc, bánh cuốn, bành đa: " Bánh đúc thiếp đổ ra sàn, Thuận thiếp thiếp bán, thuận chàng chàng mua." (Ca dao) Bánh chưng, bánh giầy, bánh ú, bánh gai, bánh xèo, bành rán, bánh cốm, bát chè cốm…trăm thứ bánh, trăm thứ quà đều làm từ hạt gạo dẻo thơm. Hương vị quê nhà mới đậm đà biết bao. Nghề nông ngày một phát triển. Điện, máy , thuốc trừ sâu, phân bón đã về làng, Từ một nước nghèo đói, thiếu ăn, nhiều năm trở lại đây, nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Người nông dân Việt Nam mang bao phẩm chất tốt đẹp: cần cù, kiên nhẫn, dẻo dai, thương người, thương nhà và thương nước, Cây lúa nhân hậu như người dân cày nên lúa không thoái hóa thành cỏ dại. Màu xanh của lúa gợi nên vẻ đẹp ấm áp thanh bình. Hương sắc của lúa tượng trưng cho vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm của người thôn nữa quê ta. Nâng bông lúa, ngắm nhìn đồng lúa mà lòng bâng khuâng. Tình yêu đồng quê dâng lên dào dạt trong lòng ta. Maud xanh của lúa trường tồn trong dòng chảy thời gian với quê hương xứ sở. Câu ca xưa vấn vương mãi hồn người: " Bao giờ cây lúa còn bông, Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn". Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – Bài làm 2 Đôi với mỗi chúng ta, cây lúa đã trở nên quen thuộc. Cây lúa thân nhỏ, có lớp vỏ bên ngoài bao quanh còn bên trong là thân rất bé nhưng khoẻ. Mỗi cây có khoảng năm, sáu lá có màu xanh, nhọn, có một lớp lông hơi rặp. Mỗi cây có một bông lúa với rất nhiều hạt. Mỗi khi lúa lên đòng, mùi sữa trong các hạt lúa ấy toả ra thơm nhè nhẹ. Cây lúa cũng như người Việt Nam, luôn đoàn kết lẫn nhau: mỗi cây lúa ở trong một khóm lúa, mỗi khóm lúa trong một ruộng lúa, ruộng lúa trong một cánh đồng cùng che chở cho nhau. Nếu như nói Cây lúa là loài cây quan trọng nhất trong đời sống Việt Nam thì cũng không sai. Cây lúa là cây lương thực chủ yếu của Việt Nam. Chính cây lương thực này đã làm cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng rất nhanh, đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. Ngoài ra, lúa gạo cũng để làm nguyên liệu chế biến ra những món ăn vừa dân dã vừa đậm đà hương vị dân tộc như bánh chưng, cốm, xôi hoặc các loại bánh… ở nông thôn, người ta còn tận dụng vỏ trấu để đốt hoặc sử dụng trong các lò ấp trứng. Còn cám thì lại để dùng cho gia súc ăn, rất tiện mà hơn thế cám còn giúp cho gia súc tăng trưởng tốt. Còn rơm rạ lại là chất đốt hàng ngày trong cuộc sống ở nông thôn. Nếu quay trở lại ngày xưa, ta còn thấy cha ông ta lợp nhà bằng rơm. Trong xã hội phát triển như bây giờ, những ngôi nhà lợp rơm hầu như không còn nữa. Thế nhưng, những chiếc chổi làm bằng rơm thì vẫn còn tồn tại vì nó rất tiện sử dụng. Ngoài ra, rơm cũng là thành phần quan trọng trong việc trồng nấm, giúp nấm phát triển nhanh. Nói chung, xét trên phương diện vật chất, cây lúa có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của người Việt Nam. Cây lúa cũng là một loài cây có ý nghĩa rất lớn trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Cây lúa tượng trưng cho nền văn minh lúa nước không chỉ của Việt Nam mà còn của cả Đông Nam Á. Cây lúa là biểu tượng cho sự no ấm, đầy đủ. Không chỉ thế, cây lúa còn là'nguyên liệu để làm ra các món ăn ngon, các món ăn để cúng lễ tổ tiên vào dịp lễ Tết như bánh chưng, xôi, bánh giầy… Chính diều này đã tạo ra một nền văn hoá ẩm thực đặc sắc của Việt Nam với các món ăn đầy ý nghĩa như bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh giầy tượng trưng cho trời. Đó là điều khiến cây lúa gắn với con người Việt Nam về vật chất cũng như tinh thần từ bao dời nay. Cây lúa đã trở thành một người bạn gần gũi, thân quen với mọi người dân Việt Nam. Con người Việt Nam nói chung và người nông dân Việt Nam nói riêng đều coi trọng cây lúa và những sản phẩm mà nó đem lại. Chắc chắn rằng, cây lúa sẽ luôn tốn tại và gắn bó với con người Việt Nam từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – Bài làm 3 Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Đất nước Việt Nam – cái nôi của nền văn minh lúa nước, bên mỗi xóm thôn bản làng, những cánh đồng xanh thẳm trải dài tít tận chân mây như dấu hiệu cho mọi du khách nhận ra đất nước nông nghiệp với sự gắn bó của con người cùng cây lúa xanh tươi. Lúa là cách gọi thông thường không biết tự bao giờ trong từ điển Việt Nam, để chỉ loài cây lương thực chính trong ươm mầm từ những hạt thóc vàng căng mẩy. Hạt thóc ngâm nước ủ lên mầm gieo xuống lớp bùn sếch sang trở thành những cây mạ xanh non. Sau khi làm đất cày bừa kĩ, mạ non được bó lại như thằng bé lên ba con còn theo mẹ ra đồng và được cắm xuống bùn sâu qua bàn tay chăm sóc của người nông dân từng ngày, từng giờ lên xanh tươi tốt thành những ruộng lúa mênh mông bờ nối bờ thăm thẳm. Lúa được phát triển theo ba giai đoạn chính: Giai đoạn mẹ non, mảnh mai yếu ớt như em bé sơ sinh run rẩy trước nắng mai hay gió bão lạnh lẽo. Những ngày mùa đông buốt giá, gieo mạ rồi để chuẩn bị cho vụ chiêm xuân, chẳng có người nông dân nào không xuýt xoa thương cho đám mạ con phải chịu cảnh rét buốt, thế là bao túi ni lông che kín bốn xung quanh bờ thửa ngăn cho cái rét không làm lạnh chân mạ. Nắng hửng trời quan, bà già mùa đông mệt mỏi đi nghỉ ngơi nhường chỗ cho chị mùa xuân nhảy múa ca hát cùng lũ chim trên cành, bà con xã viên tưng bừng phấn khởi sau cái tết đón năm mới cùng với mạ non hồi sức vẫn kiên nhẫn vượt qua rét mướt, đã nô nức ra đồng làm việc. Họ đố nhau về bó mạ: Vừa bằng thằng bé lên ba Thắng lưng con cón chạy ra ngoài đồng Thế là người cày người cấy, trâu bò làm bạn với nhà nông, chỉ trong vòng một tuần những cánh đồng đất ải trắng trước đây đã thành những ruộng lúa xanh non. Lúa cứ thế lớn lên dưới bàn tay chăm sóc nâng niu của các bác nông dân, trưởng thành đến thì con gái, đẻ nhánh sinh sôi thành những khóm to chật ruộng. Rì rào rì rào… lúa thì thầm ào ào trong gió như kể chuyện ngàn xưa. Những chiếc lá lúa dài giống hình lưỡi lê nhưng yểu điệu duyên dáng như trăm ngàn cánh tay đùa giỡn với gió, sóng lúa nhấp nhô giữa buổi chiều hạ hay nắng sớm mùa xuân gợi bức tranh đồng quê thi vị mượt mà. Đó là đề tài quen thuộc của thơ và nhạc du dương: Việt Nam đất nước quê hương tôi Mía ngọt chè xanh qua những nương đồi Đồng xanh lúa rập rờn biển cả… Chẳng mấy mốc ba tháng nông nhàn đã qua, lúa vào đòng làm hạt, mùi thơm của lúa nếp, của gạo mới thoang thoảng đâu đây. Khắp cánh đồng người ta chỉ thấy một màu vàng rực tươi rói, những bông lúa hạt đều tăm tắp uốn cong như lưỡi câu báo hiệu một mùa vàng bội thu. Ngày mùa cả làng quê toàn màu vàng, ngoài đồng lúa vàng xuộm, dưới sân rơm và thóc vàng ròn, chú cún vàng nhảy nhót lăng xăng như chia sẻ cùng chủ. Ai mà chẳng vui khi thành quả lao động của mình đến ngày được gặt hái. Cứ thế một hay hai vụ lúa trở thành cây lương thực chính của người nông dân. Vụ chiêm xuân từ tháng giêng đến tháng 4, tháng 5; vụ mùa từ tháng 6 đến tháng 9, tháng 10. Cây lúa đã đem đến cho đất nước một nguồn thu lớn, mỗi hécta cho ba tấn thóc, không chỉ là cung cấp lương thực đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong nước mà nó còn là nguồn xuất khẩu gạo. Chúng ta tự hào có những cánh đồng lúa thóc quê hương như cánh đồng năm tấn ở Thái Bình, Đồng Tháp Mười ở đồng bằng Sông Cửu Long. Năm tháng trôi qua bước sang thế kỉ XXI, Việt Nam đi dần vào xu thế công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng hình ảnh cây lúa và giá trị tiềm năng của nó vẫn là vị trí số một trong quá trình phát triển đất nước chẳng thế mà nó được lấy làm biểu tượng của các nước trong khối ASEAN như một báu vật quý. Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – Bài làm 4 Nước Việt Nam ta hình thành và phát triển từ nền văn minh lúa nước. Khoảng 90% dân số nước ta sống chủ yếu nhờ vào nông nghiệp. Trong đó, cây lúa đóng vai trò chủ yếu. Bao nhiêu thế kỉ đã qua, con người và cây lúa gắn bó với nhau keo sơn bền chặt. Mồ hôi con người rơi đổ xuống từng luống cày mới lật , thấm vào từng tấc đất cho cây lúa ươm mầm vươn lên mượt mà xanh tốt. Đi từ Bắc chí Nam, dọc theo đường quốc lộ hay ven những rặng núi, những dòng sông, bao giờ ta cũng cũng thấy những cánh đồng lúa xanh tận chân trời hoặc vàng thắm một màu trù phú. Cây lúa là người bạn của con người, là biểu tượng của sự no ấm phồn vinh của đất nước. Thế nhưng, có mấy ai trong chúng ta biết rõ về cây lúa? Lúa thuộc loài thân thảo. Thân cây lúa tròn chia thành từng lóng và mắt. Lóng thường rỗng ruột, chỉ có phần mắt là đặc. Lá lúa dài và mỏng, mặt lá nhám, gân lá chạy song song . Rễ của cây lúa không dài lắm, thường mọc với nhau thành chùm bám chặt vào bùn để giữ cho thân lúa thẳng đồng thời hút dưỡng chất nuôi thân cây. Hoa lúa nhỏ nhắn, mọc thành nhiều chùm dài. Điều đặc biệt của cây lúa mà ít ai để ý đến. Hoa lúa cũng chính là quả lúa đồng thời trở thành hạt lúa sau này. Hoa lúa không có cánh hoa, chỉ có những vảy nhỏ bao bọc lấy nhuỵ ở bên trong. Lúc hoa lúa nở, đầu nhuỵ thò ra ngoài, có một chùm lông để quét hạt phấn. Hoa lúa tự thụ phấn rồi biến thành quả. Chất tinh bột trong quả khô đặc lại dần và biến thành hạt lúa chín vàng. Muốn lấy hạt gạo bên trong, con người phải trải qua nhiều công đoạn: gặt lúa, trục lúa về, phơi cho hạt thật khô. Sau đó đổ lúa vào trong cối, dùng chày mà giã liên tục cho lớp vỏ trấu bong tróc ra. Kế tiếp phải sàng sảy để lựa ra hạt gao chắc mẩy… Sau này, máy móc đã thay dần cho sức người, năng suất tăng dần theo thời gian, nhưng ở những vùng cao người ta vẫn dùng chày để giã gạo. Tiếng chày “cụp, cum” văng vẳng trong đêm gợi lên một cuộc sống lao động thanh bình mang đậm bản sắc riêng của người dân Việt. Cây lua ở nước ta có rất nhiều giống nhiều loại. Tuỳ vào đặc điểm địa lý từng vùng, từng miền mà người ta trồng những giống lúa khác nhau. Ở miền Bắc với những đồng chiêm trũng, người ta chọn lúa chiêm thích hợp với nước sâu để cấy trồng, miền Nam đồng cạn phù sa màu mỡ hợp với những giống lúa cạn. Ở những vùng lũ như Tân Châu, Châu Đốc, Mộc Hoá, Long Xuyên người ta chọn loại lúa “trời” hay còn gọi là lúa nổi, lúa nước để gieo trồng. Gọi là lúa “trời” vì việc trồng tỉa người nông dân cứ phó mặc cho trời. Gieo hạt lúa xuống đồng, gặp mùa nước nổi, cây lúa cứ mọc cao dần lên theo con nước. Đến khi nước rút, thân lúa dài nằm ngã rạp trên đồng và bắt đầu trổ hạt. Người dân cứ việc vác liềm ra cắt lúa đem về. Ngày nay, ngành nghiên cứu nuôi trồng phát triển đã cho ra đời nhiều loại lúa ngắn ngày có năng suất cao như NN8, Thần Nông 8, ÔM, IR66…. Theo điều kiện khí hậu và thời tiết nước ta, cây lúa thường được trồng vào các vụ mùa sau: miền Bắc trồng vào các vụ lúa chiêm, lúa xuân, miền Nam chủ yếu là lúa Đông Xuân và lúa Hè Thu. Các loại lúa ngắn ngày thường không bị ảnh hưởng bởi vụ mùa. Cây lúa đã mang đến cho dân ta hai đặc sản quí từ lâu đời. Đó là bánh chưng, bánh giầy và cốm. Bánh chưng bánh giầy xuất hiện từ thời Hùng Vương, biểu tượng cho trời và đất. Người Việt ta dùng hai thứ bánh này dâng cúng tổ tiên và trời đất vào những dịp lễ tết. Nó trở thành đặc sản truyền thống của dân tộc Việt. Cốm, một đặc sản nữa của cây lúa. Chỉ những người chuyên môn mới định được lúc gặt thóc nếp mang về. Qua nhiều chế biến, những cách thức làm có tính gia truyền từ đời này sang đời khác đã biến hạt thóc nếp thành cốm dẻo, thơm và ngon. Nhắc đến cốm, không đâu ngon bằng cốm làng Vòng ở gần Hà Nội.. Tóm lại, cây lúa có tầm quan trọng rất lớn đối với nền kinh tế nước nhà chủ yếu còn dực vào nông nghiệp. Cây lúa bao đời là bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam, không chỉ về mặt vật chất mà còn cả về mặt tinh thần. Mãi mãi vẫn còn nghe mọi người nhắc nhau những vần điệu ca dao thấp thoáng bóng hình con trâu và cây lúa: Bao giờ cây lúa còn bông Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – Văn mẫu lớp 9
3,111
Thuyết minh về cây thước kẻ – Văn mẫu lớp 8 Cuộc đời mỗi con người ai cũng đã từng trải qua thời học sinh. Cái thời cắp sách đến trường đầy kỉ niệm mà mỗi chúng ta khó có thể quên được. Những đồ dùng học tập như: bút, thước, tập, sách,… luôn gắn bó với học sinh như những người bạn thân thiết. Và trong số đó, cây thước là đồ dùng học tập quan trọng được sử dụng rộng rãi. Cây thước có nhiều loại khác nhau như thước thẳng, ê-ke, thước đo độ,… Thước thẳng có dạng hình chữ nhật và độ dài, rộng rất đa dạng. Thường thì nó dài 15cm – 20cm và rộng khoảng 2cm -3cm. Cũng có nhiều loại thước dài tới 30 hay 40cm. Chiều dày của thước cũng khác nhau, như thước gỗ thường dày gần 1cm còn những cây thước mà học sinh dùng chỉ dày 1mm. Khác với thước thẳng, ê-ke có dạng hình tam giác vuông hay tam giác vuông cân. Ê-ke thường có độ dài đáy khoảng mười mấy cm và chiều cao 5cm – 6cm. Độ dày của nó cũng giống thước thẳng, thường là 1mm. Cũng như thước thẳng, độ lớn của ê-ke rất đa dạng. Có những cây ê-ke to hơn gấp 6 – 7 lần cây thước ê-ke thường thấy. Loại này thường dành cho giáo viên hay kĩ sư. Còn một loại thước thông dụng nữa đó là thước đo độ. Thước này thường được học sinh cấp 2, cấp 3 dùng nhiều. Nó có dạng nửa hình tròn hay còn gọi là hình bán nguyệt. Như bao cây thước khác, thước đo độ cũng có nhiều kích thước khác nhau. Thường thì đường kính hình tròn khoảng 10cm. Nhiều loại có đường kính dài hơn. Thước được làm từ nhựa, gỗ, hay kim loại nhưng phổ biến nhất là thước nhựa. Những cây thước bằng nhựa thường nhẹ, bền, dễ sử dụng, giá thành rẻ nhưng dễ gảy. Giá của một cây thước nhựa chỉ từ 2000đ – 5000đ. Vì thế mà thước nhựa được sử dụng rộng rãi đặc biệt là đối với học sinh. Ta dễ dàng mua được một bộ thước nhựa từ 4 đến 5 cây với giá không quá 10.000đ. Hiện nay, còn xuất hiện một loại thước được làm từ nhựa dẻo. Đối với loại thước này, ta có thể bẻ cong thoải mái mà không lo bị gãy. Khác với thước nhựa, thước bằng kim nặng hơn, có giá mắc hơn chút ít nhưng bền hơn, cũng dễ sử dụng, khó gảy. Thước bằng kim loại thì thường được làm bằng nhôm hoặc sắc. Trong các loại, thước gỗ có giá thành mắc nhất. Tuy nhiên, nó cũng rất bền, dễ sử dụng và khó gảy. Thước gỗ còn thể hiện được sự tinh tế và sang trọng. Ngoài ra, còn có nhiều loại thước có khả năng khác như: thước máy tính, thước lược, thước vẽ những đường tròn, những đường cong,… Màu sắc của thước thì rất đa dạng và phong phú, đặc biệt là thước nhựa. Thước dành cho tiểu học thì có màu sắc sặc sỡ, in hình những nhân vật hoạt hình hay truyện tranh nổi tiếng. Các em tiểu học thường chọn màu thước là màu sắc mà mình yêu thích. Các bé gái hay chọn thước màu hồng hay vàng còn các bé trai là màu xanh lá, xanh dương. Học sinh cấp 2 lại chọn thường những cây thước trong suốt, ít hoa văn để dễ dàng sử dụng. Một số khác dùng thước bằng kim loại màu bạc hay bằng gỗ. Còn giáo viên lại dùng những cây thước gỗ màu nâu để kẻ bảng. Hầu hết tất cả cây thước đều có vạch chia cm. Một số khác vừa có vạch chia cm vừa có vạch chia inch. Những cây thước của nhãn hiệu nổi tiếng như Thiên Long hay Win đều in lô-gô của mình trên cây thước. Thước ê-ke có 2 loại. Một là thước hình tam giác vuông cân có một góc 90o, hai góc còn lại 45o. Hai là thước hình tam giác vuông có một góc 90o, một góc 60o và góc còn lại 30o. Thước ê-ke thường có ghi số đo góc cho 2 góc khác 90 độ. Hai cạnh góc vuông của của cây thước thường có vạch chia. Một cạnh góc vuông là vạch chia cm, cạnh còn lại là vạch chia inch. Thước đo độ thường thì đáy có vạch chia cm.Trên mặt thước có những đường thẳng phân độ xuất phát từ tâm hình tròn. Thước được chia độ từ 0 độ đến 180 độ ứng với những đường phân độ. Khoảng cách giữa hai đường phân độ là 10 độ. Dãy số đo độ được ghi từ trái sang phải và ngược lại từ phải sang trái. Do mọi người hay đo góc từ trái sang phải nên dạy số đo độ này được làm to hơn. Thước là một đồ dùng học tập quan trọng và cần thiết, thế nên ta phải sử dụng và bảo quản nó đúng cách. Chỉ nên dùng để kẻ hay đo. Khi dùng xong, phải bỏ vào hộp bút để tránh làm mất thước. Khi thước bị dính bẩn thì ta rửa sạch hoặc dùng khăn sạch lau chùi. Ta phải sử dụng thước một cách nhẹ nhàng, nâng niu. Xem thước như một người bạn đồng hành trong suốt quãng đời học sinh. Không biến thước thành vũ khí để châm chọc bạn bè. Ví dụ như dùng nó để đánh bạn hay đâm đầu nhọn của thước vào bạn. Không nên cứ mỗi lần tức giận là bẻ gảy thước cho hả giận. Ngoài ra, không nên dùng thước để khắc lên bàn, ghế hay thân cây. Không quăng thước lung tung, bừa bãi và giữ gìn thước cẩn thận, tránh bị mờ số. Cây thước rất hữu dụng đối với tất cả mọi người. Thước thẳng giúp ta đo lường và kẻ những đường thẳng. Nó cũng giúp ta vẽ được những đoạn thẳng với độ dài cho trước và gạch chân những điều quan trọng. Thước ê-ke giúp ta kiểm tra góc vuông, dễ dàng vẽ được các hình trong môn hình học. Ngoài ra, nó cũng có thể dùng để đo hay kẻ thẳng. Thước đo độ thì dùng để đo số đo của các góc, vẽ được góc, hình với số đo cho sẵn. Nhờ những cây thước mà chúng ta mới có thể làm được các bài tập thầy cô giao. Giúp ta biết được kích thước của những thứ xung quanh và đặc biệt là vẽ bản vẽ kĩ thuật. Đối với kiến trúc sư thì thước vô cùng quan trọng vì nó giúp vẽ ra được những bản thiết kế chính xác và đẹp mắt. Nhờ những bản thiết kế này mà người ta mới có thể xây dựng những công trình hay nhà ở. Cây thước là người bạn thân thiết đối với học sinh và tôi cũng đã gắn bó với nó suốt nhiều năm qua. Nó như người bạn tri âm, tri kỉ đối với tôi. Nó đồng hành với tôi mỗi ngày. Lâu lâu, nhìn thấy nó thì lòng tôi lại nhớ đến kỉ niệm xưa khi tôi đã dùng thước khắc tên mình lên mặt bàn vào cuối năm lớp 5. Tôi yêu những cây thước mà tôi dùng hằng ngày. Thước chỉ là những thứ vô tri vô giác nhưng với tôi, nó đánh dấu kỉ niệm, là vật mà tôi trân trọng. Những thứ vô tri vô giác này đã giúp tôi ngày càng trưởng thành hơn. Không thể phủ nhận được, cây thước là đồ dùng học tập quan trọng và cần thiết. Thước cũng giống như tập, sách – là những thứ học sinh luôn mang theo khi đến trường. Tôi rất trân trọng những cây thước của tôi. Ôi! Tôi yêu cây thước làm sao.
Thuyết minh về cây thước kẻ – Văn mẫu lớp 8
1,333
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về cây tre – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thanh Hóa 2 Thuyết minh về cây tre – Bài làm 2 3 Thuyết minh về cây tre – Bài làm 3 4 Thuyết minh về cây tre – Bài làm 4 Thuyết minh về cây tre – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thanh Hóa Từ bao đời nay, cây tre là người bạn gần gũi và gắn bó với con người Việt Nam. Đặc biệt với những con người sinh ra từ làng quê thì hình ảnh lũy tre xanh đã ăn sâu vào tiềm thức, tâm hồn. Tre đã cống hiến tất cả sự sống cho con người nên ta phải yêu và bảo vệ cây tre Việt Nam. Chẳng biết cây tre có từ bao giờ, chỉ biết nó có từ xa xưa, đã gắn bó với người dân Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử. Tre xuất hiện cùng bản làng trên khắp đất Việt, đồng bằng hay miền núi. Họ hàng nhà tre rất đa dạng, phong phú về chủng loại Tre nứa, vầu, tre mai, trúc…Nổi tiếng loài tre từ xưa đến nay là trúc Lam Sơn và Tre Điện Biên. Loài tre rất dễ thích nghi với loại đất, đất cằn cỗi cũng như đất tốt tươi tre cũng có thể sống được. Tre không ngại thời tiết khắc nghiệt hay giông bão, tre mọc thành bụi, thành lũy, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, tre già, măng mọc. Rễ tre thuộc loại dễ chùm, mọc rất nông nhưng bám vào lòng đất rất chặt giúp nó chống trọi lại những cơn gió mạnh. Thân tre gầy guộc, thẳng đứng hình ống, rỗng bên trong, chia thành từng đốt. Sắc tre màu xanh thẫm, đầm dần xuống gốc. Thân tre tua tủa rất nhiều gai nhọn, những chiếc gai dùng để bảo vệ tre. Mới đầu, tre là một mầm măng nhỏ, trưởng thành theo thời gian rồi trở thành cây tre đích thực, cứng cáp, dẻo dai. Lá tre màu xanh mát, mỏng với những đường gân lá song song hình lưỡi mác rõ nét. Lá tre non màu xanh nhạt cuộn thành ống nhọn dần về phía đầu. Ban đầu tre chỉ mọc thẳng đứng, chưa mọc lá; đến một thời gian nhất định, từ các mấu tre mọc ra những nhánh connhỏ, từ đó mới mọc lá. Tre cũng có hoa, cả đời tre chỉ ra hoa một lần duy nhất, chúng ta rất hiếm gặp và sau khi có hoa, vòng đời của tre sẽ kết thúc. Chắc ai cũng biết, tre giúp ta trăm công nghìn việc, là cánh tay đắc lực cho người nông dân. Tre làm cày, làm cuốc, làm đòn gánh. Cây tre dùng làm nhà, làm cửa vững chắc, che mưa, che nắng cho con người, tre làm các vật dụng trong gia đình: tre làm đũa, làm rổ, rá, tăm, giường, chõng…Đối với bọn trẻ con nông thôn, tre đã làm nên tuổi thơ hồn nhiên, những trò chơi thú vị như chơi đánh chắt, đánh truyền, những con diều vi vu hay cảnh những em bé ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo. Bóng tre dang rộng, ôm trọn và tỏa bóng mát cho cả bản làng, xóm thôn. Trong vòng tay tre, những chú trâu chậm rãi nhai cỏ, các bác nông dân cũng có chỗ nghỉ ngơi sau một buổi làm việc mệt nhọc. Dưới bóng tre, con người Việt Nam vẫn giữ nết văn hóa truyền thống lâu đời. Tre ăn ở đời đời, kiếp kiếp với con người, giúp con người làm ăn sinh cơ, lập nghiệp. Ngày xưa, xưa lắm, khi Thánh Gióng đánh giặc Ân, vì gãy vũ khí, Ngài đã vươn tay nhổ bụi tre bên đường, ra sức đánh giặc, khiến bọn chúng khiếp sợ mà bỏ chạy tan tác. Rồi đến khi đánh Pháp, đánh Mĩ tre cũng giúp con người. Tre là người bạn, người đồng chí, tre làm gậy, làm chông chống lại sắt thép, súng đạn của quân thù. Tre theo chân các anh bộ đội đi đánh giặc. Lũy tre dày đặc che chắn cho các anh bộ đội khi phải rút lui, cùng các anh lập mưu đánh giặc. Tre giữ làng, giữ nước, bảo vệ nhân dân. Từng lớp lũy tre bao bọc lấy làng, bảo vệ cho làng quê thanh bình. Tre hi sinh thân mình để bảo vệ con người, tre vẫn hiên ngang mặc cho gió bão táp. Tre rất kiên cường. Hiện nay, đồ nhựa và inox xuất hiện thay thế một số đồ dùng bằng tre trong gia đình nhưng không thể thay thế hình bóng cây tre kiên cường, bất khuất trong lòng người dân Việt Nam. Những bộ bàn ghế bằng tre nứa có kiểu cách bắt mắt rất được nhiều người ưa chuộng à trở thành mặt hàng xuất khẩu đắt giá hiện nay. Tre hiện nay, tre ngay thẳng thủy chung với đất Việt như những đức tính của người dân Việt Nam. Thuyết minh về cây tre – Bài làm 2 Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam. Nước Việt Nam xanh tươi với muôn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất là tre nứa. Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi… đâu đâu ta cũng có tre nứa làm bạn. Tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng cùng một mầm măng mọc thẳng. Vào đầu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt. Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị chí khi như người. Nhà thơ đã có lần ca ngợi: Bóng tre trùm mát rượi Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm thôn. Dưới bóng tre của ngàn xưa, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp. Tre, nứa, mai, vầu giúp nghìn công việc khác nhau. Tre là cánh tay của người nông dân. Cánh đồng ta năm đôi ba vụ Tre với người vất vả quanh năm. Tre với người như thế đã mấy nghìn năm. Một thế kỉ “văn minh”, “khai hóa” của thực dân cũng không làm ra được một tấc sắt. Tre vẫn phải còn vất vả mãi với người. Cối tre nặng nề quay, từ nghìn đời nay, xay nắm thóc. Trong mỗi gia đình nông dân Việt Nam, tre là người nhà, tre khăng khít với đời sống hàng ngày. Giang chẻ lạt, buộc mềm, khít chặt như những mối tình quê cái thuở ban đầu thường nỉ non dưới bóng tre, bóng nứa: Lạt này gói bánh chưng xanh Cho mai lấy trúc, cho anh lấy nàng. Tre còn là nguồn vui duy nhất của tuổi thơ. Các em bé còn có đồ chơi gì nữa ngoài mấy que chuyền chắt bằng tre. Tuổi già hút thuốc làm vui. Vớ chiếc điếu cày tre là khoan khoái. Nhớ lại vụ mùa trước, nghĩ đến những mùa sau, hay nghĩ đến một ngày mai sẽ khác… Suốt một đời người, từ thuở lọt lòng trong chiếc nôi tre, đến khi nhắm mắt xuôi tay, nằm tre giường tre, tre với mình, sống có nhau, chết có nhau, chung thủy. Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất. Người xưa có câu: “Trúc dẫu cháy, đốt ngang vẫn thẳng”. Tre là thẳng thắn, bất khuất! Ta kháng chiến, tre lại là đồng chí chiến của ta. Tre vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta mà cùng ta đánh giặc. Buổi đầu, không có một tất sắc trong tay, tre là là vũ khí. Muôn đời biết ơn chiếc gậy tầm vông đã dựng nên thành đồng Tổ quốc ! Và sông Hồng bất khuất có cái chông tre. Gây tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động ! Tre, anh hùng chiến đấu ! (…) Nhạc của trúc, nhạc của tre là khúc nhạc của đồng quê. Nhớ một buổi trưa nào, nồm nam cơn gió thổi, khóm tre làng rung lên man mác khúc nhạc đồng quê. Diều bay, diều lá tre bay lưng trời… Sáo tre, sáo trúc vang lưng trời… Gió đưa tiếng sáo, gió nâng cánh diều. Trời cao lồng lộng, đồng ruộng mênh mông hãy lắng nghe tiếng hát giữa trời cao của trúc, của tre… “Tre già măng mọc”. Măng mọc trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi Việt Nam, lứa măng non của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Các em, các em rồi đây lớn lên, sẽ quen dần với sắt, thép và xi măng cốt sắt. Nhưng nứa, tre sẽ còn mãi với các em, còn mãi với dân tộc Việt Nam, chia bùi sẻ ngọt của những ngày mai tươi mát, còn mãi với chúng ta, vui hạnh phúc, hòa bình. Ngày mai, trên đất nước này, sắt thép có thể nhiều hơn tre, nứa. Nhưng trên đường ta dấn bước, tre xanh vẫn là bóng mát. Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình. Tre sẽ càng tươi những cổng chào thắng lợi. Những chiếc đu tre vẫn dướn lên bay bổng. Tiếng sáo diều tre cao vút mãi. Cây Tre Việt Nam! Cây Tre xanh, nhũn nhặn, ngay thẳng, thủy chung, can đảm. Cây tre mang những đức tính của người hiền là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam. Thuyết minh về cây tre – Bài làm 3 Hình ảnh cây tre xuất hiện từ rất lâu, từ khi Thánh Giongs dùng tre để đánh giặc giữ nước tre đã đi vào lịch sự của dân tộc ta, đã gắn bó son sắt với con người chúng ta. Từ rất lâu đã có câu: Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Với câu này cây tre được ví như một anh hùng oai hùng bất khuất làm sao? Hi sinh mình để bảo vệ cho đất nước về mọi thứ gắn liền với những công việc, những hình ảnh mà người nông dân phải ngày đêm canh tác làm ra. Với câu nói ấy, dừng như tre đã đi vào tiềm thức của mỗi con người, đi vào lịch sữ của dân tộc. Có thể nói cây tre rất có giá trị trong mọi mặc, đầu tiên phải nói trong nền văn hóa. Với cây tre nó gắn liền với những nền văn hóa cỗ xưa, từ rất lâu nó đã trỡ thành một vật gì đó vô cũng hiện hữu trong dân tộc. ngày nay cây tre đã trở thành những món đặc sản đặc sắc trong nên văn hóa nhờ bàn tay khéo léo của những con người nông dân. Trong nền kinh tế, cây tre vẫn đống một vai trò quan trọng. cây tre đã được con người chế tạo thành những thành phẩm vô cũng đáng yêu và có giá trị xuất khẩu. Với vóc dáng nhỏ nhắn mà xinh xắn làm sao, thân cây nhỏ dài được nhiều đốt, mọc thẳn. với vóc dáng của thân cây, con người dúng nó để đan các loại rỗ, rá, cốt, ví, làm tăm… và nhiều đồ dúng có giá trị cao khác. Khi cây tre còn nhỏ còn gọ là măng đây là một loại thức ăn rất có giá trị và được nhiều người ưa chuộng. Lá tre nhỏ với một màu xanh sáng sửa, con người dùng nó để làm thức ăn cho trâu bò. Tre có gai nếu không chú ý thì dể bị gai đâm đó với chi tiết này cho thấy tre rát sắc bén và thể hiện sự son sắc ở đây. Không chỉ có thế, tre được mọc thành bụi, chùm. Những rặng tre rợp bóng ở đường làng, nghiêng xuống nơi bờ ao không còn mấy nữa. Nhiều người quên mất rằng bao đời tổ tiên người Việt khai phá đồng bằng Bắc Bộ được như ngày hôm nay là do đắp đê chống lụt, trị thuỷ. Những triền đê được giữ vững trước nước lụt, bão tố, ngoài phần công sức của người Việt xưa bao đời bồi đắp, thì còn có phần công sức của những bụi tre có tác dụng giữ đất, chống xói lở. Có thể nói, tre có giá trị rất lớn đối với con người Việt Nam. Vì vậy hãy biết nâng niu gìn giữ nhưng gì mà đất nước ta đã, có đừng lãng phí nó một cách vô ích. Nó là một người bạn rất thân thiết của con người. Thuyết minh về cây tre – Bài làm 4 Ai đã từng đọc thơ ca Việt Nam hiện đại, hẳn sẽ nhớ những câu lục bát này: "Tre xanh, xanh tự bao giờ Tự ngàn xưa đã có bờ tre xanh Thân gầy guộc lá mong manh Mà sao lên lũy lên thành tre ơi Ở đâu tre cũng xanh tươi Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu"… Việt Nam có một hệ thực vật phong phú và đa dạng. Một trong những nguồn tài nguyên thực vật phân bố tương đối rộng và gần gũi với cuộc sống hằng ngày của người dân là cây tre, được mệnh danh là "gỗ của người nghèo". Tre là nhóm thực vật đa niên, thân gỗ, là một loại thực vật có hoa, nhưng chỉ nở hoa một lần duy nhất vào lúc cuối đời. Hoa tre có mùi hương hơi nồng và có màu vàng nhạt như màu đất. Tre Việt Nam có 7 loại là: tre mạnh tông, tre gai, tre vàng sọc, tre tàu và trúc. Tre xanh lúc còn sống màu xanh mượt, đốt dài và bóng nhẵn, đường kính của thân tre trưởng thành khoảng từ 6 đến 8cm. Cao không đến 10m. Tre gai kích thước ốm và thấp hơn, lá cũng mỏng manh hơn nhưng ở mỗi đốt tre mọc ra rất nhiều nhánh gai, sắc, nông dân thường trồng thành hàng rào chống trộm. Tre ngà là loại tre có thân sọc vàng xen lẫn với sọc xanh rất đẹp. Người ta thường trồng làm cảnh. Tre rừng, mọc hoang trong rừng nên thường không tươi tốt lắm. Ngược lại, lồ ô, tầm vông là loại tre rừng khổng lồ, bề ngang và bề cao của nó gấp hai, ba lần tre xanh. Nó mọc thành từng bụi, từng hàng như rừng trong vùng đất hoang. Người ta đốn lấy gỗ làm nhà tranh, nhà sàn rất chắc chắn. Lồ ô to lớn bao nhiêu thì trúc lại mảnh mai, yếu ớt bấy nhiêu vì thân rỗng và kích thước nhỏ bé. Có hai loại trúc là trúc xanh và trúc vàng. Gần đây nước ta có nhập thêm một ít trúc kiểng gọi là trúc Nhật. Những cây kiểng này có hình dáng đặc biệt, thân màu vàng óng, lá xanh mượt mà rất được mọi người ưa chuộng, trồng làm cảnh và thường bày ở mái hiên, phòng khách. Tre được sử dụng làm cột kèo để dựng nhà, làm đũa, làm máng nước, rổ rá, làm vật dụng nông nghiệp. Tre trồng làm hàng rào. Tre khô làm củi đun. Thân tre chẻ nhỏ để nhóm bếp rất đượm lửa. Lá tre thường được người miền Nam lấy để gói bánh tro vào dịp lễ giết sau bọ. Lạt tre dùng để cột bánh. Thân tre được dùng để làm đũa. Các thợ thủ công cũng đã tận dụng thân tre để đan thành giỏ tre, rổ tre. Nhân dân ta thường đong dầu, đông nước mắm khhi mua bán bằng ống tre. Thời cách mạng, bộ đội Việt Nam dùng ống tre để đựng nước, nấu cơm. Trong quán ăn ở vùng nông thôn, người ta cũng chẻ thân tre để làm ống tăm cho khách sử dụng sau bữa ăn. Trong chiến tranh, tre được sử dụng làm vũ khí rất lợi hại. Lịch sử có kể về Nguyễn Thiện Thuật sử dụng tre để làm vũ khí chống giặc Pháp. Ngày nay, những bộ salon làm bằng may và tre rất được ưa chuộng và trở thành một món hàng xuất khẩu đắt giá. Năm 2009, nông dân An Giang đã trồng tầm vông để lấy nguyên liệu sản xuất, lãi 120 triệu đồng trên một hecta. Hình ảnh cây tre đã đi vào ca dao, thơ ăn và ca từ. Chẳng hạn như: "Rễ siêng chẳng ngại đất nghèo Tre bao nhiêu lá bấy nhiêu cần cù Nghiêng mình trong gió tre đu Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành…" (Tre Việt Nam – Nguyễn Duy) Ông bà ta có nhiều kinh nghiệm trong việc lựa chọn tre tốt: Trồng tre, trồng trúc, trồng dừa Muốn nên cơ nghiệp thì chừa lang vân. Người ta còn sử dụng tre già hay tre non vào những việc khác nhau: Tháng tám tre non làm nhà Tháng năm tre già làm lạt Người thợ mộc còn so sánh độ bền của tre như sau: Tre già là bà gỗ lim Ngoài ra, ông bà ta còn nhìn cây tre để nghe ngóng về thời tiết: "Lá tre trôi lộc, mùa rét xộc đến". Và từ đó người xưa còn út ra một quy luật sống của thiên nhiên và con người" "Tre già, măng mọc" tre chẻ ra làm nuộc lạt, trở thành một thứ không thể thiếu ở nhiều chỗ: khi gói bánh, bó rau hoặc lợp nhà. Ca dao cũng nhắc đến nuộc lạt: "Bao nhiêu nuộc lạy nhớ ông bà bấy nhiêu". Ai từng đọc truyện Thánh Gióng hẳn không quên bụi tre Đằng Ngà khi Thánh Gióng nhổ tre đánh tan giặc ngoại xâm: "Chẻ tre nghe Gióng". Tre không những đi vào thơ văn mà măng tre còn là một thực phẩm chế biến đa dạng. Các món ăn từ măng tre: măng tươi, măng khô, bún măng vịt, măng xào thịt ba rọi, thịt kho măng, măng luộc chấm mắm tôm, măng chua…. Bún măng vịt là món ăn được nấu với vịt non béo, măng tươi hoặc khô đã được luộc và thay nước nhiều lần, khi ăn người ta cho bún, một ít hành răm và rau sống vào nữa, trở thành một món ăn vừa thơm vừa béo với nước dùng ngọt dịu. Măng tươi đã luộc kĩ, có màu vàng chanh, được xắt miếng xào chung với thịt ba rọi trở thành một món ăn dân dã và rất ngon nếu có thêm một vài lát ớt đỏ thì lại càng hấp dẫn. Thịt heo kho măng cũng là một món ăn "bắt mắt", nấu nhan và để được vài ngày, tiết kiệm được thời gian nấu nướng mà khi chan vào chén cơm nóng thì cũng rất ngon miệng. Măng luộc phải chọn măng trúc non, vào mùa mưa. Sau khi luộc nhiều lần, ta xắt mỏng rồi chấm với mắm tôm hoặc nước mắm ngon ăn kèm với cơm như một món rau. Nó sẽ có một vị vừa ròn vừa mát, kèm theo một vì ngọt dịu của măng tươi. Nói tóm lại thì cây tre luôn là người bạn đồng hành và nó đóng góp tất cả lợi ích của bản thân mình cho con người Việt Nam. Từ bao đời nay, cây tre là người bạn gắn bó và gần gũi với người dân Việt Nam. Hiện nay cuộc sống ngày càng hiện đại và có nhiều đồ dùng là bằng nhựa, inox xuất hiện. Nhưng người ta vẫn có khuynh hướng quay về với thiên nhiên. Ngày nay, nhiều người đã bỏ trồng lúa hoặc cây khoai, đón cây tre để có chỗ xây nhà lầu, nhưng nếu một lúc nào đó, nước ta không còn một bóng tre thì đời sống sẽ khó khăn và buồn tẻ biết mấy! Tre đã cống hiến tất cả sự sống cho con người nên ta phải yêu quý và bảo vệ cây tre Việt Nam.
Thuyết minh về cây tre – Văn mẫu lớp 8
3,366
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về danh lam thắng cảnh chợ Bến Thành – Bài làm 1 2 Thuyết minh về danh lam thắng cảnh chợ Bến Thành – Bài làm 2 Thuyết minh về danh lam thắng cảnh chợ Bến Thành – Bài làm 1 Nằm ở trung tâm thành phố. Chợ Bến Thành ngày nay có hình chữ nhật, trổ bốn cửa ra quảng trường Quách Thị Trang và các con đường: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Lê Thánh Tôn thuộc quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Chợ Bến Thành rất đỗi quen thuộc với người dân Việt và du khách quốc tế khi đến tham quan du lịch thành phố Hồ Chí Minh. Trước khi Pháp xâm chiếm Sài Gòn năm 1859, có một chợ nhỏ nằm ở khu đất đồng lầy kề bên bờ sông Bến Nghé và sát thành Sài Gòn. Từ xuất xứ ấy mà chợ đã mang tên ghép là Bến Thành. Chợ được xây bằng gạch, khung gỗ, lợp tranh. Năm 1870, chợ bị cháy một phần. Năm 1911, chợ cũ bị phá đi, chợ mới được xây khang trang rộng rãi hơn và hoàn thành vào tháng 3/1914. Sau năm 1975, chợ Bến Thành lại được đầu tư nâng cấp to đẹp lên rất nhiều so với trước. Năm 1985, chợ Bến Thành được sửa chữa lại toàn bộ bên trong, bên ngoài, duy chỉ có dáng vẻ phía trước với tháp đồng hồ được giữ lại như xưa. Hình ảnh chợ Bến Thành với tháp đồng hồ thường được dùng làm biểu tượng cho thành phố. Giờ đây chợ Bến Thành là một trung tâm buôn bán lớn không chỉ của TP Hồ Chí Minh mà còn của các tỉnh phía Nam. Chợ Bến Thành được mô tả trong sử cũ như sau: Đó là một "phố chợ nhà cửa trù mật ở dọc theo bến sông. Chỗ đầu bến này có lệ đến đầu mùa xuân gặp ngày tế mạ, có thao diễn thủy binh, nơi bến có đò ngang chở khách buôn ngoài biển lên. Đầu phố phía Bắc là ngòi Sa ngư, có gác cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có dãy phố ngói, tụ tập trăm thứ hàng hóa, dọc bến sông ghe buôn lớn nhỏ đến đậu nối liền". Thời ấy, đất Gia Định là một vùng nông nghiệp trù phú nên chợ Bến Thành đầy hàng hóa, nào gạo, cá khô, tôm khô, cau, đường… bán ra để mua tơ lụa, quả thô, nhang, quạt, trà, đồ sành sứ, thuốc uống, dược thảo… từ nước ngoài mang đến. Sở dĩ có tên là chợ Bến Thành là vì chợ gần bến sông và gần thành. Đây chính là khu vực mà nay dành cho thương cảng Sài Gòn. Sau cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi (1833-1835) phố chợ Bến Thành không còn sầm uất như trước. Chợ được xây bằng gạch, sườn gỗ, lợp tranh. Sau khi đánh chiếm Gia Định, thực dân Pháp đã cho lập một nhà lồng làm chợ ở ngay trên nền đất mà nay là trường Trung học Ngân Hàng 3. Ngôi chợ này bị cháy năm 1870, nhưng đã được trùng tu với sườn sắt. Trước nhà lồng chợ có con kênh rộng chạy đến trước cửa tòa nhà nay là trụ sở của Ủy ban Nhân dân thành phố. Đến năm 1887-1888 thì con kênh này được lấp lại, làm cho khu vực Võ Di Nguy, Tôn Thất Thiệp trở nên náo nhiệt hơn. Đại lộ Nguyễn Huệ trước kia là đường kênh lấp. Chợ Bến Thành được chuyển đến vị trí ngày nay. Nhà lồng chợ được khởi công xây cất trên vùng đất trước đó là một ao sình lầy gọi là ao Boresse. Thế là chợ Bến Thành xưa trở thành Chợ Cũ, còn chợ Bến Thành mới được gọi là Chợ Mới Sài Gòn. Ngôi chợ này được khởi công xây cất từ khoảng năm 1911 và khánh thành vào tháng 3 năm 1914. Ngày khánh thành có khoảng 100.000 người tham dự, có cả dân từ các tỉnh đổ về. Cuộc lễ diễn ra trong ba ngày 28, 29 và 30 tháng 3 năm 1914 với pháo bông, xe hoa. Hai con đường bên hông chợ mãi đến năm 1940 còn là bến xe đò miền Đông và miền Tây. Gần một trăm năm qua, chợ Bến Thành bao giờ cũng là một trung tâm thương mại, trung tâm phồn hoa náo nhiệt của thành phố Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ cũ. Dần dần nó trở thành một chợ lớn, nơi tập trung những mặt hàng quí hiếm của trong nước và nước ngoài. Sau ngày giải phóng, năm 1975, chợ Bến Thành được sắp xếp và cải tạo lại một cách gọn gàng và ngăn nắp hơn. Trong chợ Bến Thành ngày nay chúng ta có thể tìm thấy đủ loại hàng hóa, từ thực phẩm vật dụng hàng ngày, hàng nhập cảng cũng như hàng nội hóa, từ những mặt hàng thông thường đến những hàng xa xỉ phẩm. Năm 1985, Ủy ban Nhân dân thành phố và Quận 1 đã cho chỉnh trang và sửa chữa lớn chợ Bến Thành. Nhà lồng chợ và các gian hàng, sạp hàng được sữa chữa và làm mới, duy chỉ có dáng vẻ phía trước với tháp đồng hồ được giữ lại như xưa. Chợ Bến Thành ngày nay có hơn 3.000 hộ kinh doanh. Chợ Bến Thành ngày nay lại được đầu tư nâng cấp to đẹp lên rất nhiều so với trước, để nó xứng đáng là một trung tâm buôn bán lớn ở phía nam đất nước. Hàng hoá chợ Bến Thành rất phong phú, bao gồm hầu hết các sản vật trong nước – đặc biệt là sản vật ở vùng đồng bằng sông Cửu Long – cùng các mặt hàng công nghệ hiện đại trên thế giới. Thuyết minh về danh lam thắng cảnh chợ Bến Thành – Bài làm 2 Nằm ở khu vực trung tâm thành phố, từ lâu chợ Bến Thành đã trở thành biểu tượng của Sài Gòn. Không chỉ thuần túy là nơi buôn bán, gần một trăm năm qua ngôi chợ này đã trở thành một chứng nhân lịch sử chứng kiến bao đổi thay thăng trầm của thành phố, là bộ mặt kinh tế nói lên sự phát triển của một thành phố thương mại lớn nhất nước và là điểm giao hòa giữa Sài Gòn xưa và nay. Nằm ở khu vực trung tâm thành phố, từ lâu chợ Bến Thành đã trở thành biểu tượng của Sài Gòn. Không chỉ thuần túy là nơi buôn bán, gần một trăm năm qua ngôi chợ này đã trở thành một chứng nhân lịch sử chứng kiến bao đổi thay thăng trầm của thành phố, là bộ mặt kinh tế nói lên sự phát triển của một thành phố thương mại lớn nhất nước và là điểm giao hòa giữa Sài Gòn xưa và nay. Những năm gần đây chợ Bến Thành còn là địa điểm tham quan không thể thiếu cho bất cứ tour du lịch nào đến TP. Hồ Chí Minh. Hẳn nhiên, du khách đến chợ không chỉ đơn thuần để tìm mua những hàng hóa hay quà lưu niệm mà còn tìm ở đó chút hình ảnh riêng, một cá tính đặc trưng thể hiện trong những sinh hoạt đời thường của một thành phố mà chợ chính là nơi bộc lộ rõ nhất. Hình thành từ trước khi người Pháp đặt chân đến vùng đất này, ngôi chợ khởi thủy nằm ven sông Bến Nghé, ở một bến cận thành Quy (thành Gia Định) nên có tên là Bến Thành. Đến năm 1911, chính quyền thuộc địa Pháp quyết định dời chợ về vị trí hiện nay, khi ấy còn là một cái ao sình lầy. Chợ được khởi công từ năm 1912 cho đến cuối tháng 3-1914 mới hoàn tất và hoạt động liên tục kể từ đó cho đến nay. Bến Thành được xem là chợ bán lẻ quy mô nhất theo nghĩa có thể tìm thấy tại nơi này đủ thứ mặt hàng, từ bình dân đến cao cấp, đặc biệt hàng thực phẩm thuộc loại chọn lọc nhất. Ở đây không thiếu một thứ gì, từ củ hành, trái ớt, mớ rau, con cá, đủ loại hoa quả mùa nào thức nấy, cho tới bánh kẹo, vải vóc, giày dép, túi xách, đồ điện, điện tử, hàng lưu niệm… Cổng chính chợ Bến Thành với tháp đồng hồ – biểu tượng của Sài Gòn – đối diện quảng trường Quách Thị Trang. Chợ Bến Thành có tổng diện tích 13.056m², trung bình mỗi ngày đón khoảng 10.000 lượt khách lui tới mua bán và tham quan. Chợ có 1.437 sạp, 6.000 tiểu thương, 11 doanh nghiệp, với bốn cửa chính và 12 cửa phụ tỏa ra bốn hướng. Cửa Nam (nhìn ra quảng trường Quách Thị Trang) với biểu tượng ngôi tháp đồng hồ ba mặt, là cổng chính, bên trong nhà lồng là nơi bày bán các mặt hàng vải vóc và thực phẩm khô. Cửa Bắc (phía đường Lê Thánh Tôn) rực rỡ với những gian hàng hoa tươi và trái cây mời gọi người qua đường. Cửa Ðông (phía đường Phan Bội Châu) hấp dẫn khách hàng bởi các loại mỹ phẩm và bánh kẹo đầy màu sắc. Cửa Tây (phía đường Phan Chu Trinh) lại là nơi thu hút phái đẹp vì sự đa dạng về kiểu dáng và kích cỡ của giày dép, hàng mỹ nghệ, đồ lưu niệm.
Thuyết minh về danh lam thắng cảnh chợ Bến Thành – Văn mẫu lớp 8
1,601
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Đà Lạt – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi ở Đà Lạt 2 Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Đà Lạt – Bài làm 2 Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Đà Lạt – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi ở Đà Lạt Nếu tính từ cái buổi chiều tháng Ba năm 1893, khi Yersin, một bác sĩ trẻ người Pháp mê thám hiểm, người đã đánh thức giấc ngủ triền miên bao thiên kỉ của cao nguyên đất đỏ ba dan đến nay thì Đà Lạt đã hơn trăm tuổi. Theo tiếng của các dân tộc thuộc nhóm Cơho (ngữ hệ Môn-Khơme) thì ‘Đà’ có nghĩa là nguồn nước hay dòng suối. Còn ‘Lạt’ là tên một tộc người sống ở chân núi Lang Bian liền bên thành phố bây giờ. Vậy Đà Lạt tức là dòng suối của người Lạt – cái tên gợi cảm biết bao! ở độ cao chừng 1500m so với mặt biển, với những điều kiện tự nhiên tru ái, Đà Lạt thực sự là một trung tâm du lịch và dưỡng bệnh tuyệt vời. Với nhiệt độ trung bình 19°c và lượng mưa hàng năm khoảng 1500mm, vùng này có thể trồng được nhiều loại cây, rau, hoa, trái miền ôn đới. Ai đó đã gọi Đà Lạt là xứ hoa, quả cũng không ngoa. Vào kì Giáng sinh, các ngả đường thành phố ngỢp sắc anh đào. Rồi suốt ca mùa khô trời xanh mây trắng nắng vàng là mùa của hoa Mimosa đua nở. Lạc bước vào các nhà vườn, khách lại đi như mộng du giữa muôn màu sắc, hương thơm. Nào là các loại cúc, các giống lay ơn, trà mi trắng, trà mi đỏ, đỗ quyên, móng rồng, thu hải đường, nhất chi mai, cẩm tú cầu… rồi cotmot, pensée… và đặc sắc nhất là hoa loa kèn đỏ. Chỉ cố nhớ tên các loài hoa cùng với sắc màu, hình dáng của chúng cũng đủ rối lòng! Đây hoa côcơlicô (hay còn gọi là mỹ nhân thảo), mong manh, đa sắc. Kia hoa souci của ta đơn cánh dịu dàng, còn loại da cam cánh kép này là souci lấy giống từ đảo Phù Tang. Từ Nhật Bản đến đây định cư còn có hoa súng với các màu đẹp, lạ như mỡ gà, phớt hồng, tím thắm. Ở Đà Lạt, khó có thể nói hoa nào đẹp nhất, bởi người yêu hoa cũng thể như người yêu vậy! Tuy nhiên, ở đây, lâu nay nhiều người thường mến mộ hoa hồng. Ngoài những giống hồng quen thuộc. Đà Lạt còn có nhiều giống hồng quí hiếm: hồng vàng Joséphine, hồng phân mang màu áo nữ hoàng tiểu quốc Grance de Monaco hồng Bngitte Bardot – tên của một nữ tài tử danh tiếng một thời, hồng chàm úc Đại Lợi tựa liễu mảnh mai… Và đặc biệt là hồng nhung đại đóa màu đỏ sẫm. Đà Lạt dường như là nơi họp mặt của hàng trăm loài địa lan, phong lan và nhiều cây cảnh quý… Nếu biết khai thác, ươm trồng, chỉ riêng hoa phong lan thôi cũng đã là mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Ai đó đã gọi Đà Lạt là miền thông reo? Những cánh rừng ngút ngàn thông càng làm cho không gian thành phố trong sạch nhờ khí ôzone tỏa ra từ những vòm lá nhọn hình kim. Gần đây, mỗi năm Đà Lạt cho chừng 200 nghìn mét khối gỗ thông, đồng thời lại trồng bù vào đó hàng triệu thông con. ít có thành phố trên cao nào lại có nhiều hồ rộng như Đà Lạt. Ngoài hai hồ lớn là Xuân Hương, Đa Thiện, trong thành phố còn có các hồ Than Thở, Vạn Kiếp, Mê Linh… Xứ này đã lắm hồ lại nhiều thác cách thành phố không xa, có các thác Liên Khương, Pren, Đatanla, CamLy. Xa chút nữa là các thác Pônggua, Guga. Đẹp nhất hồ xanh hay thác trắng? Vừa hái hoa rừng vừa cãi nhau. (ThơCaLê Hiến) Âu là đi chơi cả thác lẫn hồ. Khách du lịch có thể vãn cảnh bằng xe ngựa, một phương tiện đi lại thô sơ, ít nhiều nhắc nhở không khí cổ xưa. Những địa danh gợi cảm như rừng Ái Ân, đập Suôi Vàng, thung lũng Tình Yêu, đồi thông Hai Mộ… như còn lưu giữ những chuyện tình tương tư vơ vẩn… Đến Đà Lạt, ai cũng dễ dàng nhận thấy thành phố hài hòa với cảnh sắc tự nhiên. Thay vì những khách sạn cao ngất, sang trọng, thành phố có hàng nghìn biệt thự xinh xắn một, hai tầng, đầy đủ tiện nghi, xây theo nhiều phong cách kiến trúc, nép trong bóng lá cây vườn. Ngày nay, ít ai còn nhớ là vào thập niên đầu của thế kỉ trước, Đà Lạt mới chỉ có độ ‘mươi nếp nhà tranh với mươi lưu dân Việt Nam’. Vậy mà, đến năm 1939, Đà Lạt đã có 427 biệt thư và hơn chục vạn dân. Tốc độ phát triển mau chóng đó tự nó đã nói lên vị trí của Đà Lạt trong đời sống kinh tế và văn hóa của cả nước. Bạn mới lên thăm Đà Lạt lần đầu? Nếu đi bằng máy bay thì trước khi hạ cánh xuống sân bay Liên Khương bạn sẽ được nhìn ngắm toàn bộ cảnh quan Đà Lạt. Còn theo đường bộ, nếu lúc đi đã theo đường 11 từ Phan Rang ngược dòng Dinh lên thì khi về, nên xuôi đường 20 xuống đồng bằng Nam Bộ. Tình cờ đến Đà Lạt đang giữa mùa mưa thì bạn cũng đừng lấy đó làm buồn. Đà Lạt mùa mưa cũng không kém phần kì thú với mưa đèo vội vã, cảnh vật thoắt ẩn, thoắt hiện trong mây với những vẻ đẹp bất ngờ. Mùa nào cũng được, nếu có điều kiện mời bạn qua thăm Trung tâm Nghiên cứu nguyên tử và Văn khố Đà Lạt là nơi tàng trữ nhiều mộc bản, tài liệu liên quan đến lịch sử nước ta thời cận đại. Người ta gọi Đà Lạt bằng nhiều tên đẹp: thành phố mộng mơ, xứ anh đào, hay thành phố cao nguyên… nhưng hợp hơn cả là thành phố sương mờ? Mai sớm và chiều hôm phố phường lãng đãng sương giăng, vầng mặt trời bồng bềnh trong mù sương khiến cả không gian thành phố như được rọi sáng bằng ánh đèn neon mờ đục. Ai không vân vương khi giã từ Đà Lạt? Ấn tượng khó phai mờ về thành phố xinh đẹp này lại là sương mờ với loài hoa đơn sơ forget me not (đừng quên tôi nhé! ) chăng? Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Đà Lạt – Bài làm 2 Từng được ví như một “tiểu Paris giữa miền nhiệt đới”, Đà Lạt mở lòng mình với du khách bằng những thắng cảnh tuyệt đẹp, bằng các di tích lịch sử ngàn đời còn lưu giữ mãi đến ngày hôm nay. Cứ mỗi lần rời Đà Lạt, người đi lại mang theo một chút lưu luyến, chút âm hưởng, và một cảm giác nao nao… gói gọn vào một góc tâm hồn… HỒ THAN THỞ Hồ Than Thở nằm cách trung tâm Đà lạt khoảng 6km về hướng Đông Nam, trên đường đi Chi Lăng-Thái Phiên. Thoạt đầu nơi đây chỉ là một hồ nhỏ, không rõ từ lúc nào được gọi là Hồ Than Thở. Về sau người Pháp đã làm đập chặn nước tạo thành hồ và đặt tên là Lac des Soupirs, mãi đến năm 1956 hồ mới được gọi lại theo tên cũ. Năm 1975, sau khi hòa bình lập lại, có lẽ cho rằng cái tên Than Thở ủy mị quá, đã có lúc hồ được đổi tên thành Sương Mai. Nhưng trong lòng người dân Đà lạt cũng như du khách đều lưu luyến tên cũ, không gọi Sương Mai nên đến năm 1990, chính quyền địa phương đã cho sử dụng lại tên cũ của hồ. Hồ Than Thở còn là nơi gắn liền với câu chuyện tình điễm lệ làm thổn thức lòng người. Đó là chuyện kể về mối tình của đôi trai gái, thường hẹn hò nhau bên bờ suối. Chàng trai lên đường tòng quân đánh giặc. Nơi quê nhà, cô gái nhận được tin chàng tử trận, liền quyên sinh theo người mình yêu. Không ngờ, chàng trai thắng trận trở về, giữ vẹn lòng chung thủy chàng cũng chết theo cô gái. Từ đó, hồ được mang tên là hồ Than Thở và cái tên ấy đã tồn tại từ 200 năm nay. Ngày nay hồ Than Thở được đầu tư tôn tạo thành một công viên giải trí với những bồn hoa thảm cỏ được chăm tỉa công phu, những trò chơi đu quay, xe đạp nước, cưỡi ngựa… tuy có thay đổi bộ mặt ảm đạm của hồ nhưng cũng vì thế làm mất đi nét trầm mặc huyễn hoặc vốn đã là cái “hồn” của hồ Than Thở. HỒ XUÂN HƯƠNG Nằm ngay trung tâm thành phố, ở độ cao 1477m, Hồ Xuân Hương nguyên là thung lũng có dòng suối Cam Ly chảy qua, nơi quần tụ của các cư dân Lạch buổi ban đầu. Năm 1919, từ sáng kiến của viên công sứ Cunhac, kỹ sư công chánh Labbé đã tiến hành việc ngăn dòng suối làm thành hồ. Đến năm 1923 lại xây thêm một đập nữa ở phía dưới tạo thành hai hồ. Do ảnh hưởng của cơn bão tháng 3 năm 1932, cả hai đập đều bị vỡ. Mãi đến năm 1934-1935 một đập lớn bằng đá mới được kỹ sư Trần Đăng Khoa thiết kế xây dựng phía dưới hai đập cũ tạo thành một hồ lớn – người Pháp gọi là Grand Lac. Đập này nằm trước Dinh Quản Đạo mà vị Quản đạo bấy giờ là Phạm Khắc Hòe vẫn được dân địa phương xưng gọi “ông Đạo” nên khi đập cũng là cầu xây xong, người dân quen gọi là “Cầu Ông Đạo”, còn tồn tại đến ngày nay. Hồ có chu vi 5000m, rộng 25ha với hình dạng trăng lưỡi liềm. Mặt hồ phẳng lặng như tấm gương soi bóng những tán tùng già cỗi, những hàng liễu rũ thướt tha, và sẽ được hơn khi mùa xuân về, lúc những cành anh đào nở rộ một màu hồng rực rỡ khiến mặt hồ bừng lên như đôi má cô gái Đà lạt tuổi xuân thì. Hồ được mang tên Xuân Hương từ năm 1953 như muốn làm sống mãi hình ảnh lãng mạn của nữ sĩ thơ Nôm nổi tiếng Việt Nam thế kỷ thứ 19: Hồ Xuân Hương. HỒ TUYỀN LÂM Theo quốc lộ 20 lên đèo Prenn, qua khỏi thác Datanla một đoạn, du khách rẽ trái rồi đi tiếp khoảng 2km giữa rừng thông trùng điệp, sẽ đối mặt với một hồ nước mênh mông mà từ lâu đã mang một cái tên đầy ấn tượng : Tuyền Lâm. Hồ Tuyền Lâm được tạo thành bởi dòng suối Tía và thượng nguồn sông Đa Tam từ núi Voi đổ về. Trong nổ lực tạo nguồn nước dự trữ và tưới tiêu cho các cánh đồng huyện Đức Trọng, từ năm 1982 Bộ thủy lợi đã tiến hành việc đắp đập ngăn nước tại đây. Công trình xây dựng đến năm 1987 mới hoàn thành đã mở rộng mặt hồ đến 32km2 với độ sâu có nơi trên 30m nối liền các núi đồi tạo thành một cảnh quan thiên nhiên hoành tráng. Du thuyền trên hồ, du khách có dịp chiêm ngưỡng bao điều kỳ diệu của núi đồi Đà lạt mà ở mỗi góc độ luôn cho phép những khám phá mới lạ. Sẽ thú vị hơn khi ghé thác Bảo Đại, du khách có dịp làm quen một gia đình sống đơn lẻ nơi đây trong sự gắn bó lạ lùng với thiên nhiên. Và khi ghé khu dã ngoại Nam Qua, Đá Tiên hay của công ty Du lịch thưởng thức món thịt nướng bên ché rượu cần, trong những căn nhà sàn xinh xắn hoặc thả mình trên bãi cỏ mượt êm giữa thênh thang gió lộng, du khách như bị “say” niềm vui cuộc sống và cảm thấy thỏa lòng trong cái thú viễn du … THÁC PRENN Nằm ngay dưới chân đèo Prenn, trên đoạn đường từ Thành phố Hồ Chí Minh lên Đà Lạt. thác Prenn là một trong những đoạn thác còn giữ được vẻ hoang sơ của núi rừng Tây Nguyên. Đường đến thác phải đi ngang qua một con suối có chiếc cầu nhỏ xinh xinh. Từ độ cao 30m, những hạt thủy tinh nước lấp lánh buông mình xuống mặt hồ tạo thành bức mành nước thiên nhiên tuyệt đẹp. Tiếng nước đổ ầm ào, tiếng chim rừng ríu rít, tiếng vi vu của gió làm xạc xào từng nhánh thông gầy tạo ra những âm thanh sôi động như khúc nhạc vui tươi của nàng xuân đang trỗi lên đón bước chân du khách. Bên dưới chân thác, từng cánh hoa dại lung linh khoe sắc làm cảnh quan càng trở nên quyến rũ hơn. Muốn du ngoạn cùng mây, gió, bạn có thể ngồi lên cabin của hệ thống cáp treo để tìm cho mình cảm giác phiêu bồng khi lướt ngang qua dòng thác. Không những thế, đến thác Prenn du khách còn được tham gia những trò chơi độc đáo của người dân bản xứ: bắn nỏ, bắn tên, uống rượu cần… THÁC CAMLY Thác Camly là thác nằm gần trung tâm thành phố nhất, chỉ cách Đà Lạt khoảng 2km về phía tây. Nhiều người cho rằng, chữ Camly có nghĩa là dòng suối ngọt mát thấm vào lòng người. Cũng có ý kiến cho rằng, Camly là do biến âm của K’Mly, tên một vị tù trưởng của bộ tộc K’Ho, được bộ tộc này chọn làm tên vùng đất từ sau khi ông qua đời để ghi nhớ công lao. Tên Cam Ly thật đẹp và mang âm hưởng Việt Nam nên ông Cunhac đã lầm tưởng đây là tên do người Việt đặt cho. Dù với cách hiểu thế nào thì Camly vẫn luôn là “linh hồn” của Đà Lạt. Thác Cam Ly ngày nay đã được đầu tư tôn tạo với nhiều tiểu cảnh mang đậm dấu ấn Tây Nguyên, những con đường tuy được bê tông hóa nhưng nhờ khéo chọn giải pháp phù hợp đã không phá vỡ những nét hoang dã cố hữu … Thác Cam ly rất thơ mộng vào những mùa mưa có nước lớn. Không ồn ào và rầm réo như những dòng thác hoang sơ khác, thác Camly khiêm tốn và lặng lẽ chảy qua các ghềnh đá hoa cương, nước bắn tung tóe trông đẹp và lấp lánh như những hạt pha lê dưới ánh mặt trời. Là cảnh đẹp tiềm thức của người Đà Lạt nói riêng và du khách nói chung. Camly đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các văn nghệ sĩ… CHÙA LINH PHƯỚC Chùa Linh Phước được xây dựng từ năm 1949 đến năm 1952 thì hoàn thành. Chùa tọa lạc trong một con hẻm ở số 120 Tự Phước – Đà Lạt. Bên trong chùa là ngôi tiền đường bảo tháp cao 27m được chạm khắc khá sắc sảo, điện thờ Phật Bà Quan Âm. Chánh điện khá lớn, rộng hơn 22m và dài 33m, thờ Phật Thích Ca. Trang trí quanh tường là những bức phù điêu được chạm khắc bằng miểng chén sứ với nghệ thuật rất tinh vi kể lại lịch sử Đức Phật. Khuôn viên chùa khá đẹp với những hòn giả sơn, nhiều chậu cây cảnh và hoa phong lan khoe sắc. Đặc biệt, uốn quanh hồ nước là một con rồng có những chiếc vảy sặc sỡ được trang trí bằng phương pháp đắp nổi nhiều mảnh sành sứ, thủy tinh. Bên cạnh những kiến trúc độc đáo ấy, trong tòa tháp cao 7 tầng của chùa Linh Phước còn có một Đại hồng chung khổng lồ cao hơn 4m, trọng lượng 8,5 tấn được đúc năm 1999. THUNG LŨNG TÌNH YÊU Như một nét đặc trưng ở Đà Lạt, Thung lũng tình yêu thực sự là điểm đến của nhiều du khách muốn thưởng ngoạn cảnh trí tuyệt đẹp và thơ mộng của tạo hóa ban tặng cho loài người. Thoạt đầu người Pháp gọi nơi này là Valley d’Amour; đến thời Bảo Đại làm Quốc trưởng được đổi thành thung lũng Hòa Bình. Năm 1953, khi Chủ tịch Hội đồng thị xã lúc bấy giờ là Nguyễn Vỹ đề xuất chuyển đổi tên gọi các danh từ tiếng Pháp sang tiếng Việt nhằm thể hiện tiếng độc lập của dân tộc, thì cái tên Thung lũng Tình yêu đã ngày càng trở nên quen thuộc và in đậm trong tâm thức nhiều người. Nơi đây có những bãi cỏ xanh mướt một màu, hồ nước uốn lượn như chú rồng nhỏ đang cuộn mình ôm lấy những quả đồi nối tiếp nhau rợp mát bóng thông xanh. Trong khu du lịch này, đồi Địa Đàng là địa điểm lý tưởng nhất được tạo nên bởi hồ nước trong vắt bao quanh. Từ đây, bạn có thể ngồi thong thả cần câu và ngắm nhìn mặt nước nhẹ rung mỗi khi có một chú cá ngoi lên đớp mồi… Từ trên đồi cao nhìn xuống, Thung lũng tình yêu hiện ra tựa như bức tranh thủy mặc của người nghệ sỹ tài hoa với những nét chấm phá sắc sảo, những gam màu tươi tắn…làm say đắm lòng người.
Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Đà Lạt – Văn mẫu lớp 9
2,947
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về di tích cố đô Huế – Bài làm 1 2 Thuyết minh về di tích cố đô Huế – Bài làm 2 Thuyết minh về di tích cố đô Huế – Bài làm 1 Huế là một thành phố ở miền Trung Việt Nam và là tỉnh lị của tỉnh Thừa Huế. Là kinh đô cùa Việt Nam dưới triều Nguyễn Huệ nổi tiêng vói những đền chùa, thành quách, lăng tẩm, kiên trúc gắn liền với cảnh quan thiên nhiên. Nghiêng mình bên dòng sông xanh hiền hòa của miền Trung. Huế là một di sàn văn hoá vật thể và tính thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc tuý, một miền văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Năm 1993, Huế đã được UNESSCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Cho đến hôm nay, Huế đã đang, và sẽ mãi mãi được giữ gìn, bảo tồn và phát triển, sánh vai với các kì quan hàng ngàn năm của nhân loại trong danh mục Di sản Văn hoá Thế giới của UNESCO. Quần thế di tích Cố đô Huế hay Quần thể di tích Huế chỉ những di tích lịch sử – văn hoá do triều Nguvễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trên địa bàn kinh đô Huế xưa; nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế Quần thể di tích Cố đô Huế có thể phân chia thành các cụm công trình gồm: Các di tích trong Kinh thành Huế gồm Kinh thành, Hoàng thành, Tử cấm thành. Các di tích bên ngoài Kinh thành Huế gồm các lăng tẩm, chùa chiền, cung điện… Nằm giữa lòng Huế bên bờ Bắc của con sông Hương dùng dằng chảy xuyên qua từ Tây sang Đông, hệ thống kiên trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền nhà Nguyễn vẫn đang sừng sững trước bao biến động của thời gian. Đó là Kinh thành Huế Hoàng thành Huế Tử cấm thành Huế, ba tòa thành lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở đây là một mẫu mực cùng sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiên trúc Đông và Tây. Đó là Kinh thành Huế được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Kinh thành Huế phía nam giáp đường Trần Hưng Đạo; phía tây giáp đường Lê Duẩn; phía bắc giáp đường Tăng Bạt Hổ; phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Kinh thành Huế gồm: Kỳ Đài, Trường Quốc Từ Giám, Điện Long An, Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế Đình Phú Xuân, Hồ Tịnh Tâm, Tàng thư lâu Viện Cơ Mật – Tam Tòa, Đàn Xã Tắc, Cửu vị thần công. Hoàng Thành nằm bên trong Kinh Thành, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn .và bảo vệ Tử Câín Thành – nơi dành riêng cho vua và hoàng gia Hoàng Thành và Tử Cấm Thành thường được gọi chung là Đại Nội. Các di tích trong Hoàng Thành gồm: Ngọ Môn, Điện Thái Hoà và sân Đại Triều Nghi, Triệu Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Cung Diên Thọ, Cung Trường Sanh, Hiển Lâm Các, Cửu Đinh, Điện Phụng Tiên. Hoàng Thành giới hạn bời một vòng tường thành gần vuông với mỗi chiều xấp xi 600m với 4 cổng ra vào độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cố đô: Ngọ Môn, chính là khu vực hành chính tối cao của triều đình Nguyễn. Bên trong Hoàng Thành, hơi dịch về phía sau, là Tử Cấm Thành. Từ Cấm Thành là vòng tường thành thứ ba của Kinh đô Huế giới hạn khu vực làm ăn ở và sinh hoạt của vua và hoàng gia. Các di tích trong Tử Cấm Thành gồm: Tả Vu và Hữu Vu, Vạc đổng, Điện Kiến Trung, Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường. Xuyên suốt cả ba tòa thành, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình những công trình kiến trúc quan yếu nhât của Kinh thành Huế: Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, Điện Cẩn Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiên Trung… Hai bên đường Thần đạo này là hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ bô trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, chập chờn khi ẩn khi hiện giữa những sắc màu thiên nhiên, luôn tạo cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản. Các di tích ngoài kinh thành Huế bao gồm Lăng tẩm và một số di tích khác. Về phía Tây của Kinh thành, nằm hai bên bờ sông Hương, lăng tẩm của các vua Nguyễn bao gồm: Lăng Gia Long – còn gọi là Thiên Thọ Lằng, thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyền. Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng do vua Thiệu Trị cho xây dựng đế chôn cất vua cha Minh Mạng cách cố đô Huế 12 km. Lăng Tự Đức được chính vua Tự Đức cho xây dựng khi còn tại vị, lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng, là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn. Lăng Đồng Khánh còn gọi là Tư Lăng xây dựng để thờ cha, khi Đồng Khánh đột ngột qua đời, Vua Thành Thái (1889 – 1907) kế vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn không thể xây cất lăng tấm cho cha, đành đổi làm Ngưng Hy để thờ vua Đồng Khánh. Lăng Dục Đức tên chữ An Lăng cách trung tâm thành phốchưa đầy 2km; là nơi an táng của 3 vua nhà Nguyễn: Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân. Lăng Khải Định còn gọi là Ứng Lăng tọa lạc trên triền núi Châu Chữ bên ngoài kinh thành Huế được xâv dựng từ năm 1920 ngay sau khi Khải Định lên ngôi, pha trộn kiên trúc Đông Tây Kim cổ lạ thường, với các tác phẩm nghệ thuật ghép tranh sành sứ độc đáo. Lăng Thiệu Trị còn gọi là Xương Lăng là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. So với lăng tẩm các vua tiến nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn. Mỗi lăng vua Nguyễn đều phản ánh cuộc đời và tính cách của vị chủ nhân đang yên nghỉ. Các di tích khác bao gồm: Trấn Bình Đài và cửa Trấn Bình. Trân Bình đài nằm ở vị trí Đông Bắc kinh thành Huế Phu Văn Lâu nằm trên trục chính của Hoàng Thành Huế phía trước Kỳ Đài dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình, hoặc kết quả các kỳ thi do triểu đình tổ chức. Tòa Thương Bạc tọa lạc bên bờ Nam sông Hương, là trụ sở để đón tiếp các sứ thần nước ngoài. Văn Miếu còn gọi là Văn Thánh Miếu là nơi thờ Khổng Tử và dựng bia tiến sĩ. Võ Miêu hay Võ Thánh miêu, là nơi thờ phụng và ghi danh những danh tướng Việt Nam, những tiến sĩ đỗ trong ba khoa thi võ dưới triều Nguyễn. Đán Nam Giao triều Nguyễn là nơi các vua Nguyễn tế trời. Hổ Quyền còn đọc là Hổ Khuyên là một chuồng nuôi hổ và là một đâu trường độc đáo, đây là đấu trường của những cuộc tử chiến giữa voi và hổ nhằm tế thần trong ngày hội và phục vụ nhu cầu giải trí tiêu khiến. Điện Voi Ré để thờ các vị thần bảo vệ và miếu thờ bốn con voi dũng cảm nhất trong chiến trận của triều Nguyễn. Điện Hòn Chén tọa lạc trên núi Ngọc Trán, thuộc làng Ngọc Hồ, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tinh Thừa Thiên – Huế. Ngày xưa người Chàm thờ nử thần PoNagar, sau đó người Việt tiếp tục thờ bà xưng Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía tây, là ngôi chùa cổ nhất của Huế. Trấn Hải Thành (Thành trấn giữ mặt biển) là một thành lũy dùng để bảo vệ kinh đô triều Nguyễn được xây dựng ở cửa Phía Đông, kinh thành Huế. Nghênh Lương Đình hay Nghênh Lương Tạ dùng làm nơi nghi chân của nhà vua trước khi đi xuống bên sông để lên thuyền rồng hoặc làm nơi hóng mát. Cung An Định tọa lạc bên bờ sông An Cựu, là cung điện riêng cùa vua Khái Định từ khi còn là thái từ đến khi làm vua, sau này được Vĩnh Thuỵ thừa kế và từng sống ở đây sau khi thoái vị. Tất cả những công trình kiến trúc trên được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có tự nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phận của Kinh thành Huế – đó là núi Ngự Bình dòng Hương Giang, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh… Nhìn từ phía ngược lại những công trình kiến trúc ở đây như hoà lẫn vào thiên nhiên tạo nên những tiết tấu kỳ diệu khiến người ta quên mất bàn tay con người đã tác động lên nó. Ngày nay, Huế trở thành một thành phố Festival đặc trưng cùa Việt Nam. Cứ hai năm một lần, nhân dân thành phốHuế lại đón chào ngàv lễ hội trọng đại này trong niềm háo hức. Với một di sản văn hoá vật thể và tinh thâdn mang ý nghĩa quốc hồn quốc tuý của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Huế sẽ mãi mãi được giữ gìn – cho Việt Nam và cho thế giới, mãi mãi là niềm tự hào của chúng ta. Huế hấp dẫn và chiếm được tình cảm của nhiều người, trong nước cũng như quốc tế. Thuyết minh về di tích cố đô Huế – Bài làm 2 Tháng 12 – 1993 quần thể di tích cố đô Huế được Unessco công nhận xếp vào danh mục di sản văn hóa thế giới. Huế là trung tâm văn hóa, nghệ thuật lớn của Việt Nam. Huế đẹp về thiên nhiên, thơ mộng về cảnh quan, con người anh hùng sáng tạo. Huế nằm ở miền Trung của đất nước phía Bắc giáp Quảng Trị, phía Nam giáp Đà Nẵng, phía Đông giáp biển đông ( thuộc Thái Bình Dương), phía Tây dựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ. Huế cách Hà Nội 660km, cách thành phố Hồ Chí Minh 1080 km. Huế là từ Hóa trong Thuận Hóa được chệch ra. Đầu thế kỷ XIV Thuận Hóa là một khu dân cư trù phú Phúc Xuân là một làng quê thuộc Thuận Hóa được các chúa Nguyễn đặt làm thủ Phủ vào năm 1687. Nhưng phải hơn 100 năm sau vào 1789 Quang Trung đại phá quân Thanh thì Phú Xuân mới trở thành kinh đô của cả nước. Kinh thành Huế là một hệ thống gồm ba vòng thành: Kinh thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành. Kinh Thành là nơi dân chúng sinh sống. Hoàng Thành là nơi ở của quan lai. Tử Cấm Thành là nơi ở của Vua. Hoàng Thành và Tử Cấm Thành được gọi trung là Đại Nội. Trong Tử Cấm Thành có điện Cần Chánh là nơi vua làm việc hằng ngày có ngai vàng, có sân rồng để các quan dâng sớ có triện Ngọc tiếng chuông cho uy quyền. Còn điện Cán Thành là nơi vua ở. Nơi đây có các cung tần mĩ nữ chỉ hoạn quan mới được tự do đi lại hầu hạ cai quản hậu cung. Kinh Thành Huế là một công trình kiến trúc độc đáo kết hợp nghệ thuật Đông Tây. Mang tên thành phố, thành lũy ngôi sao. Thành được xây theo kiểu van ban hình ngôi sau chủ yếu của Châu Âu kết hợp với nguyên tắc kiến trúc trong kinh dịch và thuật phong thủy khi trọn đất định hướng và sử dụng các yếu tố tự nhiên. Lăng minh mạng được xây dựng 1840 trước khi ông mất một năm. Lăng có nét quyến rũ của vùng đất thiên nhiên núi cẩm khê bên cạnh sông Hương cách kinh đô 12 km. Lăng Tự Đức được xây dựng cách kinh đô Huế 7 km trên núi Vạn Niên. Lăng được xây dựng 1864 hoàn thành 1867 lăng có Hồ nước, rừng cây. Có nơi cho vua ngồi câu cá, có nhà nghỉ dưỡng rất đẹp. Lăng Khải Định bức tranh trên tường vẽ bốn mùa trên nóc là tranh rồng trời. Trong căn phòng có bức tượng Khải Định bằng đồng đúng với khuôn mẫu ngoài đời có lọng tre bằng đồng, hoa văn đường nét hết sức tinh xảo. Sông Hương, nếu không có Sông Hương thì không có Thành Phố thơ và mộng, Sông Hương được hình thành từ các nguồn nước chảy trên dãy Trường Sơn đổ xuống. Nước từ trên nguồn đổ xuống có cây Thạch Xương bồ mùi hương lan tỏa vì thế nước Sông Hương có mùi hương lạ thường nên con sông có cái tên rất thi vị – Hương Giang. Núi ngự cách Sông Hương 30 km về phía nam cao 104 m, dáng núi bằng phẳng uy nghi như hình đại bàng vỗ cánh vì thế nó có tên là Bằng Sơn. Vua Gia Long đã đổi tên thành núi Ngự Bình. Chùa Thiên Mục được xây dựng vào thời chúa Nguyễn Hoàng. Chùa được xây dựng trên đồi Hà Khê bên dòng sông Hương cách kinh thành Huế 4 km về phía Nam. Huế vừa là cố đô vừa là thành phố đẹp của nước ta. Huế đẹp và thơ đã đi vào lịch sử của những con người thành phố anh hùng. Chúng ta hãy cố gắng được đặt chân một lần đến đây để thưởng thức những điều tuyệt vời nhất về cố đô Huế.
Thuyết minh về di tích cố đô Huế
2,472
Từ hàng ngàn năm trước, vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đặt tên thành là Thăng Long. Trải qua bao biến cố lịch sử và sự khắt khe của thời gian, Hà Nội vẫn lưu giữ trong lòng nó những " dấu xưa oai hùng" cùng với những danh lam thắng cảnh. Một trong những nơi đó là Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Nơi đâylà một di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô Thăng Long dưới triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, với quy mô khang trang bề thế nhất, tiêu biểu nhất cho Hà Nội và cũng là nơi được coi là biểu tượng cho văn hóa, lịch sử Việt Nam. Theo Đại Việt sử ký, vào mùa thu năm Canh Tuất – 1070, Vua Lý Thánh Tông đã cho khởi công xây dựng Văn Miếu để thờ các bậc tiên thánh tiên hiền, các bậc nho gia có công với nước, trong đó có thờ Khổng Tử – người sáng lập ra nền nho giáo phương Đông và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Sáu năm sau – năm 1076, Vua Lý Nhân Tông quyết định khởi xây Quốc Tử Giám – một trường Nho học cao cấp nhất hồi bấy giờ nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu sự chọn lựa đầu tiên của triều đình phong kiến Việt Nam về vấn đề giáo dục, đào tạo con người Việt Nam theo mô hình Nho học châu Á. Hiện trong di tích còn có 82 tấm bia đá, trên đó được khắc tên của 1306 vị đã từng đỗ tiến sĩ trong 82 kỳ thi từ giữa năm 1484 và 1780. Cũng trên các tấm bia này đã ghi lại người đỗ tiến sĩ cao tuổi nhất trong lịch sử là ông Bàn Tử Quang. Ông đỗ tiến sĩ khi 82 tuổi. Người trẻ nhất là Nguyễn Hiền, quê Nam Trực (Nam Định), đậu trạng nguyên năm Đinh Mùi niên hiệu Thiên ứng Chính bình thứ 16 ( tức năm 1247) dưới triều Trần Thái Tông khi đó mới 13 tuổi. Từ đó Văn Miếu cùng Quốc Tử Giám – được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam đã tồn tại đến thế kỷ 19. Tọa lạc trên khuôn viên hơn 54.000m2, khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm giữa bốn dãy phố, cổng chính ở đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc giáp đường Nguyễn Thái Học, phía Đông giáp phố Tôn Đức Thắng, phía Tây là phố Văn Miếu. Bên ngoài có tường vây bốn phía, bên trong chia làm 5 khu vực. Khu vực 1 gồm có Văn hồ (hồ văn); Văn Miếu môn, tức cổng tam quan ngoài cùng, cổng có ba cửa, cửa giữa to cao và xây hai tầng, tầng trên có ba chữ Văn Miếu môn. Khu vực thứ hai, từ cổng chính đi thẳng vào cổng thứ hai là Đại Trung môn, bên trái là Thánh Dực môn, bên phải có Đạt Tài môn. Tiếp trong là Khuê Văn Các (được xây dựng vào nǎm 1805). Khu vực 3 là giếng Thiên Quang (Thiên Quang Tỉnh có nghĩa là giếng trời trong sáng). Hồ Văn nằm ở đối diện cổng chính Quốc Tử Giám, đã được trùng tu nhiều năm nay. Đây là một hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát, giữa hồ có gò Kim Châu. Cảnh trí rất yên bình, nên thơ giúp cho các sĩ tử giải tỏa bớt căng thẳng trước giờ thi. Khu nội tự Văn Miếu – Quốc Tử Giám được ngăn cách với vườn Giám và không gian bên ngoài bằng tường gạch vồ, không trát bên ngoài và có bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam. Những lối đi trong Văn Miếu đều được trải sỏi hoặc lát đá sạch sẽ. Từ cổng chính Văn Miếu Môn, vào khu Nhập đạo, theo đường thẳng tới cổng Đại Trung môn. Ở hai khu vực này trồng cây bóng mát gần kín mặt bằng và có bốn hồ nhỏ đăng đối hai bên phải trái. Trong hồ được trồng hoa sen, hoa súng tạo cho cảnh quan càng thêm tươi đẹp. Quanh hồ được xây những bức tường hoa để ngăn cách lối đi với hồ. Nối tiếp tới Khuê Văn Các là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời tỏa tia sáng. Tầng dưới là bốn trụ gạch vuông, chạm trổ hoa văn. Tầng trên làm bằng gỗ sơn màu đỏ có thếp vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái. Khu tiếp theo là bia Tiến sĩ và hồ nước vuông Thiên Quang Tỉnh (giếng soi ánh mặt trời). Sát bờ hồ là lối đi và những dãy bia đá trang nghiêm, cổ kính dựng thành hai khu Đông và Tây. Mỗi khu chứa hai dãy bia đá, tất cả gồm 82 tấm bia ghi tên họ quê quán của những người đã đỗ Tiến sĩ triều Lê. Bia được đặt trên lưng các cụ rùa vì theo quan niệm của ông cha ta, rùa chính là thần Kim Quy, là một vật biểu linh cho tinh thần, sức mạnh, sự yêu thương, đoàn kết của dân tộc. Kế tiếp khu bia tiến sĩ và hồ Thiên Quang Tỉnh là Cửa Đại Thành. Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng hàng nghàn mét vuông, lát gạch Bát Tràng. Đây là nơi xưa kia được dùng làm nơi tổ chức lớp học nghe giảng đạo. Ngày nay là nơi tập trung tổ chức các sự kiện văn hóa lớn của Hà Nội và quốc gia. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn trải suốt chiều rộng của sân. Phía sau và song song với Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện gồm chín gian, tường xây ba phía, mái cong vẩy cá. Thượng điện khi xưa là nơi thờ tự và học hành. Ngày nay chỉ còn là nơi thờ Khổng Tử và các vị danh nhân. Ở gian chính của Thượng điện đặt ngai lớn, bên trong có bài vị và tượng đồng của Khổng Tử. Hai gian bên phải, trái đặt ngai thờ bốn vị Tăng Tử, Mạnh Tử, Nhan Tử và Tử Tư. Ngoài bài vị ra cả 4 vị đều có tượng gỗ sơn thiếp. Hai bên của sân là hai dãy Hữu Vu và Tả Vu, cũng là khu triển lãm, trưng bày, bán đồ lưu niệm cho khách tham quan. Sau Thượng điện là khu Khải Thánh, nơi thờ cha mẹ Khổng Tử. Phần sau cùng là khu Tiền đường và Hậu đường: đây là công trình hoàn toàn mới, nằm trong dự án trùng tu khu Thái Học khởi công xây dựng ngày 13 – 7 – 1999. Tiền đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, văn hoá nghệ thuật dân tộc. Hậu đường là kiến trúc gỗ hai tầng. Tầng một là nơi tôn vinh Danh sư Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An và là nơi trưng bày về Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long và nền giáo dụ Nho học Việt Nam. Tầng hai là nơi tôn thờ các danh nhân đã có công xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám và đóng góp vào sự nghiệp giáo dục Nho học Việt Nam. Đó là vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông. Bên ngoài Hậu đường, còn có nhà chuông, lưu giữ chuông Bích Ung được đúc từ năm 1768, và nhà trống có treo trống lớn màu đỏ. So với trường đại học Bologna ở Italia – ngôi trường đại học cổ nhất còn tồn tại ở châu Âu. Ra đời năm 1088 cho đến nay, trường vẫn giữ được những nét cổ kính với kiến trúc thời Trung cổ. Nổi bật với các dãy nhà màu cam. Mái vòm ở các hành lang được trang trí những họa tiết cầu kỳ. Quần thể Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng dựa trên việc kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Phật Giáo, Nho giáo và văn hóa dân gian Việt Nam. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là khu di tích lịch sử văn hóa đặc biệt quan trọng. Không chỉ có giá trị về các thông tin riêng lẻ, cả vườn bia Tiến sĩ trong khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long còn là biểu tượng lưu dấu quá trình hình thành và phát triển của tầng lớp trí thức Nho học Việt Nam, những người đã tiếp thu và phát huy xuất sắc tinh hoa của các nền văn minh phương Đông để sáng tạo ra cả kho tàng văn hiến Hán Nôm giàu đậm tinh thần yêu nước và bản sắc dân tộc. Trong cuốn sách Văn bia tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long, PGS.TS. Ngô Đức Thọ, các giá trị lịch sử – văn hóa của các bia Tiến sĩ Quốc Tử Giám – Thăng Long đã được khảo cứu, tìm hiểu một cách cụ thể, rõ ràng, từ đó khẳng định được vị trí, vai trò to lớn của những tấm sử đá này. Chủ trương của Lê Thánh Tông về việc dựng bia tôn vinh các nhà trí thức Nho học bậc đại khoa là sáng kiến lớn, được triều đình nhà Lê (cả Lê sơ và Lê Trung hưng) thực hiện một cách trọng thể. Dù không đủ bia cho toàn bộ các khoa và cũng bị mất mát, thất lạc một số, cả vườn bia 82 tấm hiện còn đã trở thành một di tích văn hóa nổi tiếng của cả dân tộc, được các tầng lớp nhân dân ngưỡng mộ, trân trọng. Có thể nói, dù do nhiều người viết trong những năm tháng thuộc nhiều thế hệ khác nhau, nhưng tất cả đều tập trung vào chủ đề nêu cao vai trò của những người trí thức. Và dù mỗi người mỗi vẻ thì 39 tác giả văn bia đều nhấn mạnh ý nghĩa lưu danh đồng thời liên hệ chặt chẽ với vấn đề phẩm giá danh tiết để gửi gắm những lời khuyến khích cao đẹp: “Hãy làm mây lành sao tỏ nếu điềm tốt cho đời, làm ngọc sáng vàng ròng để làm của báu cho nước, làm giáo làm gươm để dẹp trừ tiếm loạn, làm bậc tiên giác như cây kỷ cây tử để vững chắc cột rường… Nếu không được như vậy thì hiền hay không hiền, trung hay tà, phải trái nên hư phân biệt rõ ràng, ngọc có vết không thể che đậy. Người đời sẽ chỉ vào tên mà bàn tán, công luận thật nghiêm buốt, há chẳng đáng sợ lắm sao” (Vũ Duệ, Văn bia Tiến sĩ khoa 1514)… Đó chính là ý nghĩa lưu danh đi đôi với sự khuyến khích cao đẹp, khuyên răn nghiêm nghị của cả hệ thống bia Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Không chỉ mang ý nghĩa lưu danh khuyến khích hiền tài giúp nước, văn bia Văn Miếu – Quốc Tử Giám còn đóng vai trò là sử đá của nền giáo dục khoa cử Việt Nam. Trước hết, đó là bức tranh lớn về quy mô nền giáo dục. Không chỉ là văn bản mang tính chất lưu trữ thông tin, các bài văn ký bia Tiến sĩ ở Văn Miếu còn là những áng văn chữ Hán viết theo thể biền ngẫu, mỗi bài đều có những đóng góp đặc sắc cho di sản văn học nước nhà với tấm lòng chân thành của tác giả văn bia muốn truyền đến cho lớp lớp mai sau những lời khích lệ rất thiết tha và đây thực sự là những tác phẩm văn học truyền đời. Cùng với đó, các tấm bia ở Văn Miếu nói chung được khắc dựng rất công phu, có giá trị về điêu khắc và thư pháp cao, trở thành những tác phẩm nghệ thuật thực sự. Từ những giá trị lịch sử, văn hóa đó mà các bia đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám suốt nhiều thế kỷ nay đã truyền được tinh thần của người xưa gửi gắm trên những phiến đá, từ đó khích lệ lớp hậu sinh vươn lên mà học tập, xứng đáng với người xưa, góp phần dựng xây đất nước. Đó cũng chính là một trong những nguyên nhân để UNESCO quyết định công nhận 82 bia đá các khoa thi triều Lê – Mạc tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám là Di sản Tư liệu thế giới. Vượt không gian, thời gian, Văn Miếu – Quốc Tử Giám ít nhiều thay đổi, nhưng những nét đẹp của nó vấn khá trọn vẹn cho đến giờ. Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về, hình ảnh cổ kính, nét xưa lại hiện về thông qua những ông đồ “bày mực tàu giấy đỏ, bên phố đông người qua". Và việc xin chữ đầu năm đã trở thành nét văn hóa riêng của người Hà Nội. Có thể nói,Văn Miếu – Quốc Tử Giám là biểu tượng của tri thức, văn hóa, khát vọng trong con đường học tập của các sĩ tử nói riêng và con người Việt nam nói chung, là nét son thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế và xứng đáng là khu di tích vǎn hoá hàng đầu và mãi là niềm tự hào của người dân Thủ đô khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn hiến của Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội.
Thuyết minh về di tích Văn miếu quốc tử giám
2,354
Thuyết minh về hoa hướng dương – Bài làm 1 Hướng dương là một loài thực vật chỉ sống một năm thuộc họ Asteraceae với bông hoa lớn . Thân cây hướng dương có thể cao tới 3 mét, với đường kính bông hoa là 30cm. Hoa hướng dương là loài hoa biểu tượng của Kansas và là một trong các loài hoa biểu tượng của thành phố Kitakyushu, Nhật. Hướng dương là loài cây có từ châu Mỹ, và đã được con người nuôi trồng vào khoảng năm 1000 TCN. Francisco Pizarro đã phát hiện những người dân Inca có sự sùng bái hoa hướng dương giống như hình ảnh thần Mặt Trời của họ, và những hình ảnh màu vàng kim của bông hoa cũng giống như những hạt giống đã được mang về châu Âu từ trước thế kỷ 16. Từ Helianthus để chỉ hoa hướng dương có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. * Hình dạng Từ hướng dương cũng được sử dụng để nói về tất cả các loài thực vật thuộc chi Helianthus, rất nhiều trong số đó là thực vật sống lâu năm. Cái gọi là bông hoa này trên thực tế là một cụm hoa dạng đầu, bao gồm những bông hoa con (chiếc hoa) tập hợp cùng nhau. Ở vòng ngoài, những bông hoa con gọi là chiếc hoa tỏa tia. Chúng có thể có màu vàng, nâu sẫm, da cam hoặc các màu khác. Những bông hoa con này không có khả năng sinh sản. Các bông hoa con nối thành một vòng tròn ở bên trong các chiếc hoa toả tia được gọi là chiếc hoa dạng đĩa. Các chiếc hoa trong cụm này được sắp xếp theo kiểu xoắn ốc. Thông thường mỗi chiếc hoa hướng về phía chiếc tiếp theo theo một góc xấp xỉ bằng góc vàng, tạo ra một kiểu các vòng xoắn nối liền với nhau, trong đó số các vòng xoắn trái và số các vòng xoắn phải là các số kế tiếp trong dãy Fibonacci, điển hình là 34 vòng xoắn theo một hướng và 55 theo hướng kia; trên một bông hoa hướng dương rất to người ta có thể thấy 89 vòng xoắn theo một hướng và 144 theo hướng kia. Những bông hoa dạng đĩa khi trưởng thành phát triển thành những cái mà người ta gọi là "hạt hướng dương". Tuy nhiên, các "hạt" đó thực sự là một loại quả (quả bế) của loài cây này, với những hạt thật sự nằm bên trong lớp vỏ không ăn được. * Tính hướng dương Những bông hoa đang ở giai đoạn nụ, chưa trưởng thành thì biểu lộ tập tính hướng dương (hướng theo Mặt Trời) của loài cây này. Khi mặt trời mọc vào buổi sáng, phần lớn hoa hướng về phía đông. Theo hành trình của một ngày, vào những ngày nhiều nắng, các nụ hoa theo hành trình của Mặt Trời di chuyển từ đông sang tây, thời gian buổi đêm nó lại trở về hướng đông. Sự vận động thực hiện bằng những tế bào vận động trong thân, một đoạn mềm dẻo của cuống ở vị trí thấp hơn nụ hoa. Khi giai đoạn chồi kết thúc thì cuống hoa bị cứng lại, và khi hoa nở thì nó không còn tính hướng dương nữa, cho dù nhiều bông hoa quay về hướng đông. Hướng dương hoang dã không quay theo hướng mặt trời. Cụm hoa đầu của nó hướng về bất cứ hướng nào khi trưởng thành. Nhưng những chiếc lá có biểu lộ một số tính hướng dương. * Cách trồng và sử dụng Để phát triển tốt, hoa hướng dương cần đầy đủ ánh mặt trời. Chúng phát triển tốt nhất ở nơi đất phì nhiêu, ẩm ướt. Hạt giống nên trồng cách nhau 45 cm và gieo hạt sâu 2,5 cm. Hạt hướng dương được bán như những loại thức ăn nhanh, đặc biệt là tại Trung Quốc, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, châu Âu, và làm thức ăn cho chim. Những hạt đó cũng được sử dụng để nấu ăn và làm sa lát. Dầu hướng dương, được chiết xuất từ hạt hướng dương, được sử dụng làm dầu ăn (nhưng nó không tốt cho tim mạch như dầu ô liu), và thường được chế biến thành diesel sinh học, chi phí sản xuất dầu hướng dương rẻ hơn dầu ô liu. Phần còn lại của hạt đã được chế biến thành dầu có thể làm thức ăn cho vật nuôi, gia súc. Một số giống gần đây đã được tạo ra với cụm hoa đầu rủ xuống. Các giống đó ít hấp dẫn những người trồng hướng dương làm cây cảnh, nhưng hấp dẫn những người nông dân, bởi vì chúng làm giảm bớt sự phá hại của các loài chim và thiệt hại từ các loại bệnh đối với cây trồng. Hiện nay cũng có những giống hướng dương mới là dạng chuyển đổi gen, vì vậy chúng có sức kháng cự đối với các loại bệnh. Từ cây hướng dương còn sản xuất ra nhựa mủ (latex) và nó là loài cây của các thử nghiệm để cải thiện sự thích hợp của chúng trong vai trò của loại cây thay thế trong sản xuất cao su ít dị ứng. * Ý nghĩa của loài hoa hướng dương: Hướng dương là loài hoa biểu tượng cho niềm tin và hi vọng.
Thuyết minh về hoa hướng dương – Văn mẫu lớp 8
901
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về hoa hồng – Bài làm 1 2 Thuyết minh về hoa hồng – Bài làm 2 3 Thuyết minh về hoa hồng – Bài làm 3 4 Thuyết minh về hoa hồng – Dàn ý Thuyết minh về hoa hồng – Bài làm 1 Hoa hồng được coi là loài hoa đẹp nhất trong các loại hoa bởi nó tượng trưng cho tình yêu mãnh liệt. Hoa hồng như cái tên của nó – rất đẹp, nhưng cũng rất "nhọn". Từ gốc đến ngọn được bao trùm bởi gai nhọn.Lá hoa hồng tròn trịa được viền răng cưa xung quanh. Nụ hồng chúm chím thường được như đôi môi đỏ hồng của các cô thiếu nữ. Dĩ nhiên, Hoa hồng còn đẹp bởi mùi hương quyến rũ, mê hoặc. Hương hoa hồng vô cùng dễ chịu, nồng nàn, lan tỏa… Hoa hồng đỏ được xem là hoa thánh dành riêng cho thần Vệ nữ. Truyền thuyết về hoa hồng gắn liền với truyền thuyết về tình yêu của thần thánh. Hoa hồng không chỉ là nữ hoàng các loài hoa bởi vẻ đẹp kiêu sa và hương thơm quyến rũ, mà còn là một dược phẩm quý của thiên nhiên với những công dụng làm đẹp. "Hoa hồng có gai"vinh dự được gán cho những người đẹp. Trong khi mỗi loài hoa đều có một câu chuyện tuyệt vời để kể, hoa hồng lại riêng biệt với vô vàn truyền thuyết và ý nghĩa. Nhiều đến độ chúng ta không thể không dành cho hoa hồng một cách đối xử ưu ái và một không gian riêng biệt với những biểu tượng phong phú của mình. Được sử dụng từ hàng trăm năm nay để truyền tải thông điệp tình yêu phi ngôn ngữ, hoa hồng là một biểu tượng của niềm tin. Cụm từ tiếng Latinh sub rosa – dưới hoa hồng, ám chỉ một điều đang được giữ trong bí mật. Chưa kể tới màu sắc, vẻ đẹp độc nhất vô nhị của hoa hồng và hương thơm tinh tế của nó khơi gợi niềm vui cho người nhận và sự ganh tỵ từ những người khác. Nếu bạn đang tìm một cách để thêm chút truyền cảm từ nỗi đam mê thầm lặng của mình, chúng ta hãy cùng xem hàng loạt những ý nghĩa được kết hợp với màu sắc của hoa hồng. Thuyết minh về hoa hồng – Bài làm 2 Mỗi khi nhắc đến thế giới loài hoa, thật khó có thể quên được loài hoa hồng kiêu sa, kiều diễm – loài hoa vốn được mệnh danh là “nữ hoàng của các loài hoa”. Đi sâu tìm hiểu về loài hoa này, chúng ta thấy có thật nhiều điều thú vị! Hoa hồng vốn có nguồn gốc từ xứ sở Ba Tư xa xôi. Từ đất nước Ả-rập thần bí này, hoa hồng đến với khắp các quốc gia trên thế giới. Cho đến nay, có lẽ chưa có mảnh đất nào có bóng con người mà hoa hồng chưa đặt chân đến. Nhưng nổi tiếng nhất, có thể nhắc đến hoa hồng của những đất nước Bun-ga-ri. Một nhà thơ Việt nam đã từng thốt lên: Hoa hồng Bun-ga-ri. Ôi! Loài hoa diệu kì! Có lẽ chính vẻ đẹp và những ý nghĩa thiêng liêng của hoa hồng đã tạo nên sức hút diệu kì thu hút và chinh phục hàng triệu trái tim con người. Hoa hồng thuộc giống thân cỏ và có rất nhiều loài. Có loài thân leo, có loài thân thẳng. Có loài không gai, có loài có gai. Tuy nhiên, phổ biếntiếp từ thân cây. Lá hoa thường có ba nhánh hình bầu dục, viền có răng cưa. Ngoài ra, trên thân cây thường có gai sắc, nhọn. Tuy nhiên, cũng có loài được lai ghép nên thân trơn nhẵn khiến người ôm hoa không sợ bị gai đâm. Nụ hoa được đặt trang trọng trên đỉnh của thân cây. Dưới nụ hoa xanh tươi còn có đài hoa nâng đỡ. Đủ ngày đủ tháng, nụ hoa bung nở hàng chục cánh hoa mềm mịn đan xếp vào nhau kiêu sa, quyến rũ. Cánh hoa hồng cũng có hình bầu dục, to hơn xu đồng tiền, cánh hoa rất mịn (“mịn như nhung”, nên có loài hoa hồng tên gọi là hồng nhung) và êm nhẹ. Đặc biệt, cánh hoa hồng thường có rất nhiều màu: màu đỏ, màu hồng, màu vàng, màu cam… Với mỗi màu lại có những sắc độ khác nhau: đỏ tươi, huyết dụ, đỏ nhung,… Hoa có rất nhiều tác dụng trong đời sống hàng ngày. Điều dễ thấy là hoa hồng được dùng để làm cảnh trong nhiều gia đình. Chúng ta trồng hoa hồng trong vườn nhà, chúng ta cắm hoa hồng trong lọ, chúng ta tặng nhau những đoá hoa hồng… Sở dĩ hoa hồng thường được trao tặng nhau một cách trang trọng như thế bởi hoa hồng có nhiều ý nghĩa. Hoa hồng đỏ tượng trưng cho tình yêu cháy bỏng, nồng nàn. Hoa hồng vàng thể hiện tình bạn cao quý, chân thành. Hoa hồng cam thể hiện sự thành đạt, hiển vinh… Số lượng hoa hồng trong mỗi đoá cũng mang những ý nghĩa nhất định thể hiện suy nghĩ của người tặng, đặc biệt là đối với những đoá hồng đỏ. Không chỉ dùng để làm đẹp, hoa hồng còn rất nhiều tác dụng khác. Từ cánh hoa hồng, nhiều quốc gia đã chiết xuất tinh dầu tạo nên những nền công nghiệp nước hoa khổng lồ như Bun-ga-ri, Pháp,… Cũng từ hoa hồng, dân gian ta chế ra những bài thuốc chữa nhiều bệnh thông thường: cảm, đau bụng,… Có nhiều tác dụng như vậy nhưng hoa hồng không hề khó tính chút nào. Hoa có thể nở bốn mùa trong năm để dâng hương sắc cho cuộc đời đầy ý nghĩa này. Ở nước ta, hoa hổng đẹp nổi tiếng nhất là hoa hổng của cao nguyên Đà Lạt. Từ Đà Lạt, hoa hồng chẳng những đi khắp mọi nẻo đường đất nước mà hoa còn đến với bạn bè khắp năm châu. Biết về hoa hồng như vậy, mỗi khi cầm bông hồng trên tay, chúng ta hãy biết trân trọng và yêu quý bông hồng bạn nhé! Thuyết minh về hoa hồng – Bài làm 3 Không biết tự bao giờ, cây hoa hồng đã trở thành một loài hoa tôn quý, vẻ đẹp của nó không thanh cao như hoa mai, không sặc sỡ như hoa ngũ sắc. Nhưng nó mang một vẻ đẹp mềm mại mà nhẹ nhàng, êm đềm như tình cảm của con người. Cây hoa hồng có tên khoa học là Rose, thuộc họ hoa hồng, có xuất xứ ôn đới và á nhiệt đới, vùng bắc bán cầu. Theo các nhà khoa học, thực vật học thì hoa hồng đã xuất hiện trên trái đất khoảng vài chục triệu năm, còn cây hoa hồng được con người thuần chủng đưa vào trồng trọt cũng đã cách nay khoảng vài ngàn năm. Người ta khẳng định hoa hồng đầu tiên ở Trung Quốc và Tiểu Á, sau đó mới du nhập vào châu Âu, nhưng người châu Âu lại có công lai tạo ta giống hoa hồng hiện đại ngày nay. Trên thế giới, mỗi khi nhắc đến đất nước Bungari, người ta lại nhắc đến cây hoa hồng. Nếu như nói Nhật Bản là xứ sở của hoa anh đào thì Bungari lại là xứ sở của hoa hồng. Cây hoa hồng được trồng ở hầu khắp cả nước ta, đặc biệt là Đà Lạt. Hoa Hồng thuộc họ rễ chùm, là loại cây thân gỗ bụi, thân và cành có gai nhọn, đó là một trong những nét đặc trưng của cây hoa hồng. Lá hoa hình bầu dục, rìa lá có răng cưa, gân lá hình mạng. Cánh hoa còn tùy thuộc vào từng loại hoa hồng. Hồng nhung Đà Lạt có thể xem là loại hồng đẹp nhất nước ta, cánh hoa mềm mại, xếp chồng xen kẽ lên nhau, gần như hình trái tim mang một màu đỏ tươi thắm, nó như hội tụ tất cả những tinh túy của đất trời, của cuộc sống, của thế giới các loài hoa. Hoa hồng có ba loại chính, đó là: hoa hồng dại, hoa hồng cổ điển và hoa hồng hiện đại. Hồng dại thường được thấy ở những nơi hoang dã, mọc ngoằn nghèo nên còn gọi là hồng leo. Hồng cổ điển là những giống hồng được thuần chủng, lai tạo từ trước năm 1867. Còn hồng hiện đại là những giống hồng được lai tạo từ sau năm 1867. Ở nước ta, hoa hồng còn được phân loại theo đặc tính của cây như: hồng cứng, hồng thạch, hồng quế, hồng cánh sen, hồng vàng… Cây hoa hồng như một món quà thiên nhiên đã ban tặng cho con người chúng ta, nó làm phong phú thêm đời sống vật chất và tinh thần của con người. Người ta nói, hoa hồng tượng trưng cho tình yêu: tình yêu gia đình, tình mẫu tử, tình thầy trò, tình yêu đôi lứa… Cây hoa hồng như mang trong nó tâm linh của loài người, mỗi cánh hoa như ấp ủ một nỗi niềm, một tình cảm sâu lắng nào đó của con người. Trong ngày lễ "vu lan", vào chùa chúng ta thường thấy những bông hồng cài trên ngực áo thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng, rồi đến ngày Nhà giáo Việt Nam, từng lớp học trò lần lượt mang những canh hồng đỏ thắm dâng tặng lên thầy, cô kính yêu như thể hiện lòng biết ơn. Ngày lễ Valentin, ngày 8/3… chúng ta cũng không quên những bông hồng xinh xắn tặng cho các mẹ, các chị và đặc biệt là người yêu mình. Cứ như thế, cây hoa hồng đi vào thwo ca một cách tự nhiên không biết từ lúc nào, chúng ta thường nghe câu nói dân gian Hoa đẹp là hoa có gai, câu nói đó ám chỉ cây hoa hồng, rồi ta cũng thường nghe bài hát Bông hồng cài áo, đọc tác phẩm Hoa hồng Bungari… Không những phục vụ cho đời sống tinh thần, hoa hồng được phục vụ cho đời sống vật chất của con người. Một phòng họp, một phòng khách, một quán trà… có thêm một cành hồng trên bàn cùng đủ làm cho không gian thêm trang trọng và lãng mạn. Có thể nói rằng hoa hồng có tính trang trí cao. Hương hoa hồng không thơm ngát như hoa lài mà ngược lại rất nhẹ nhàng, dễ chịu. Vì vậy, hoa hồng được nhiều nước chọn nguyên liệu để làm nước hoa, mĩ phẩm, góp phần tôn lên vẻ đẹp của con người. Hoa hồng cũng được trồng kể kinh doanh, thu lợi nhuận. Nhìn chung, hoa hồng ở Việt Nam thích nghi nhiệt độ trung bình từ 18 – 25oC, độ ẩm tối đa 85%, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1000-2000 mm, độ pH từ 5,6 – 6,5. Trong mùa hè, do nhiệt độ lên cao, độ ẩm lớn cây hoa hồng có nguy cơ xuất hiện các loại bênh như gỉ sắt, phấn trắng, rệp. Nếu cây bị nấm phấn trắng trong vụ xuân thì dùng đồng sulfat 1% để tưới, đồng thời phải cắt bỏ những cành bị bệnh nặng và đốt đi. Đất dùng để trồng hoa hồng phải bằng phẳng, tơi xốp. Hoa hồng thường được nhân giống theo ba cách: giâm cành, chiết cành hoặc ghép cành. Như thế, cây hoa hồng là loài hoa tượng trưng cho sắc đẹp và tâm tình, nó không thể thiếu trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của con người. Vì vậy, bảo vệ và phát triển giống hoa hồng là điều cần thiết mà con người cần làm hiện nay. Thuyết minh về hoa hồng – Dàn ý Mở bài: Hoa hồng từ lâu vốn là loài hoa được con người yêu thích và trồng trong vườn nhà. Với vẻ đẹp rực rỡ mà đằm thắm, cánh hoa khép nép dịu dàng, tinh tế làm say mê lòng người, hoa hồng thường được con người tôn vinh là “nữ hoàng các loài hoa”. Ngày nay, hoa hồng trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực ở một vài quốc gia châu Âu. Thân bài: * Nguồn gốc: Hoa hồng (hay còn gọi là hoa hường) là tên gọi chung cho các laoif thực vật có hoa dạng cây bụi hoặc cây leo lâu năm thuộc chi Róa, họ Rosaceae, với hơn 100 loài có màu sắc đa dạng, phân bố từ miền ôn đới đến miền nhiệt đới. Các loài cây này nổi tiếng là vì có hoa màu hồng rất quyến rũ nên thường gọi chung là hoa hồng. Các loài cây này có nguồn gốc bản địa châu Á, số ít có nguồn gốc châu Âu, châu Mỹ và tây Bắc Phi. Theo các mẫu hóa thạch của ngành khảo cổ, hoa hồng đã có mặt trên trái đất cách đây khoảng 35 triệu năm. Cách đây khoảng 5000 năm, người Trung Quốc đã thuần hóa được loài cây này. Họ trồng trong vườn nhà để thưởng thức vẻ đẹp tuyệt vời của nó. Từ đó, hoa hồng đi vào thi ca, trở thành nữ hoàng của các loài hoa trong đời sống con người. * Đặc điểm hình thái cây hoa hồng: Cây hoa hồng thuộc bộ gai leo, thân và cành lá có gai nhọn. Lá hoa hồng là lá kép lông chim mọc cách. Ở cuống có rãnh nhẵn. Mỗi lá có 3-5 lá con. Xung quanh lá con có nhiều răng cưa nhỏ. Điểm nổi bậc nhất của cây hoa hồng là bông hoa với nhiều màu sắc và kích thước khác nhau. Cụm hoa chủ yếu có một hoặc nhiều hoa trên cuống dài cứng và có gai. Mỗi bông hoa thường có khoảng 32 cánh hoa xếp đều trên đài hoa vững chắc. Hoa hồng thuộc loại hoa lưỡng tính. Nhị đực và nhị cái trên cùng một hoa, các nhị đực dính vào nhau bao quanh vòi nhụy. Khi phấn rơi trên đầu nhụy có thể thụ phấn. Đài hoa có màu xanh. Ngày nay, dù đã xuất hiện nhiều giống hoa hồng mới nhờ kĩ thuật lai ghép, màu sắc và số lượng cánh hoa có nhiều thây đổi nhưng các loài hoa hông vẫn giữ được hình dạng ban đầu của nó. Hoa hồng có mùi thơm dịu nhẹ vô cùng quyến rũ. Hoa thường tỏa hương đậm đà vào lúc sáng sớm khi mặt trời đã ấm nắng. Để một chậu hoa hồng trong nhà sẽ làm cho không gian trở nên thơm tho, ấm áp. Hoa hồng rất đa dang về màu sắc. Ta vẫn thường thấy các loài hoa hồng đỏ, hồng trắng, hồng tím, hồng cam, hồng vàng,…Phổ biến nhất là hoa hồng với sắc hồng nguyên bản. Nhờ công nghệ lai tạo, ngày nay hoa hồng còn có nhiều màu sắc độc đáo khác, đáp ứng nhu cầu thưởng thức và sử dụng của con người trên khắp thế giới. * Đặc điểm sinh thái cây hoa hồng: Cây hoa hồng thường phát triển mạnh mẽ ở các vùng có nhiều ánh nắng, nền nhiệt ôn hòa. Nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng tốt của cây hồng là từ 18-25oC. Trồng vào vùng có độ ẩm không khí cao, có mùa đông khá lạnh mới tốt. Hoa hồng cũng chịu mưa nhưng lượng mưa trung bình từ 1500mm-2000mm mới thích hợp. Mưa nhiều và mưa kéo dài, thì hồng càng bị nhiều lọai nấm và sâu bệnh tấn công. Hoa hồng lại không chịu úng ngập, do đó trồng hồng phải khai thông mương rãnh giúp việc thoát nước hữu hiệu. Thân cây hoa hồng rất yếu ớt, chỉ đứng vững trước gió nhẹ, vì vậy hoa hồng thường dựa vào cáu cây khác để vươn lên cao nhò các gai bám. Một vài loài hoa hồng ra hoa quanh năm. Nhưng hầu hết các laoif hoa hồng đều ra hoa vào thời gian từ tháng 11 đến tháng 6 âm lịch. Từ lúc ra nụ đến khoảng một tháng sau là hoa nở. Hoa hồng từ lúc nở đến lúc tàn là khoảng một tháng hoặc có thể lâu hơn, lúc nào hoa cũng tươi sắc làm cho không gian thêm rực rỡ hơn. Người ta thường trồng cây hoa hồng bằng cách giâm cành vô tính. Nhiều nơi người ta trồng hoa hồng bằng hạt. Tuy nhiên, hạt cây hoa hồng thường khó nảy mầm nên tỉ lệ phát triển thành cây con đạt tỉ lệ thấp. Hoa hồng có thể trồng thành vườn để thu hái hoa, hoặc trồng trông chậu kiểng làm đẹp không gian. * Vai trò của hoa hồng trong tự nhiên và đời sống con người: Trong tự nhiên, sự xuất hiện của hoa hồng làm sinh thái trở nên đa dạng và phong phú hơn. Hoa hồng nở với nhiều màu sắc rực rỡ tô thắm không gian. Trong đời sống, hoa hồng trước hết làm đẹp cho không gian sống của con người. Với màu sắc rực rỡ, cánh hoa mềm mại, hương thơm lúc dịu nhự lúc nồng nàn làm say mê lòng người. Từ lâu con người đã biết tinh chiết hoa hồng làm ra các loại nước hoa cao cấp. Ngày nay, nước hoa tinh chất hoa hồng vẫn là loại nước hoa cao cấp nhất, được nhiều phụ nữ khắp thế giới ưa chuộng. Cánh hoa hồng còn được bào chế làm mỹ phẩm làm đẹp. Thân hoa hồng có thể làm thuốc chữ bệnh rất hữu hiệu. Với vẻ đẹp, hình dáng và hương thơm nổi bậc, hoa hồng là loài hoa hay được dùng nhất ở châu Âu. Hoa hồng xuất hiện như một biểu tượng của sự phục sinh huyền bí, là biểu tượng của tình yêu vĩnh hằng và còn hơn thế là sự dâng hiến của tình yêu trong trắng, trinh nguyên. Trong văn hóa Ấn Độ, hoa hồng là biểu tượng cho sự hoàn mĩ trọn vẹn và không còn thiếu sót, biểu tượng của tình yêu bất tử. Ở Việt Nam, hoa hồng không có ý nghĩa biểu trưng. Các ý nghĩa của nó hầu hết xuất phát từ châu Âu và các nền văn hóa khác được ta tiếp thu và vận dụng. Nước ta vẫn trọng hoa sen và hoa mai vàng với ý nghĩa tâm linh và văn hóa đặc sắc. Thế nhưng, ta vẫn xem hoa hồng như một biểu tượng của tình yêu trong sáng, thủy chung; sự đố kị và lòng ghen tuông mãnh liệt. Kết bài: Dù có bao nhiêu loài hoa đẹp đang khoe sắc trong đời sống thẩm mỹ của con người, thế những hoa hồng vị trí độc tôn của mình, xứng đáng với danh hiệu “nữ hoàng các loài hoa”, “nữ hoàng màu sắc”. Với vẻ đẹp rực rỡ mà tinh tế, nồng nàn mà kín đáo, mãnh liệt mà dịu dàng, hoa hỗng vẫn tiếp tục trở thành lựa chọn hàng đầu của những ai đã dành tình yêu mến thiết tha cho loài hoa này.
Thuyết minh về hoa hồng – Văn mẫu lớp 8
3,198
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về hoa phong lan – Bài làm 1 2 Đặc điểm chung của họ nhà Lan 3 Ý nghĩa của hoa lan 4 Thuyết minh về hoa phong lan – Bài làm 2 Thuyết minh về hoa phong lan – Bài làm 1 Nói đến Hoa Phong Lan là nói đến loài hoa với vẻ đẹp cao sang quý phái. Hoa Phong Lan là một loài thuộc họ nhà Lan. Người ta thường gọi lầm tất cả các loại hoa lan là phong lan. Nhưng thực ra hoa lan mọc ở nhiều nơi và chia ra làm 4 loại sau đây: Epiphytes Phong lan bám vào cành hay thân cây. Terestrials Địa lan mọc dưới đất. Lithophytes Thạch lan mọc ở các kẽ đá. Saprophytes Hoại lan mọc trên lớp rêu hay gỗ mục Đặc điểm chung của họ nhà Lan Họ nhà Lan có đặc điểm mà có thể dễ dàng nhận ra mặc dù có rất nhiều giống loài với hàng hàng đặc điểm khác nhau. Phần lớn hoa lan chỉ có 5 cánh bao bọc chung quanh một cái môi = lip, nhưng mỗi thứ hoa lại có những dị biệt khác thường. Hoa lan có loại cánh tròn, có loại cánh dài nhọn hoắt,có loại cụp vào, có loại xoè ra có những đường chun xếp, vòng vèo, uốn éo, có loại có râu, có vòi quấn quýt, có những hoa giống như con bướm, con ong (Ophrys insectifera). Hoa lan có những bông nhỏ như đầu chiếc kim gút nhưng cũng có bụi lan Grammatophylum speciosum ở Phi luật thân cao gần 10 thước, dò hoa dài chừng 2 thước và nặng chừng một tấn. Hương thơm của lan cũng đủ loại những thường có hương thơm ngát, dịu dàng, thoang thoảng, ngọt ngào, thanh cao, vương giả. Hoa lan nếu được giữ đúng nhiệt độ và ẩm độ có thể còn đươc nguyên hương, nguyên sắc từ 2 tuần lễ cho đến hai tháng, có những thứ lâu đến 4 tháng, có những thứ nở hoa liên tiếp quanh năm, nhưng cũng có loại chỉ 1-2 ngày đã tàn phai hương sắc. Mầu sắc của lan cũng hết sức đa dạng nào là thắm tươi, từ trong như ngọc, trắng như ngà, êm mượt như nhung, mịn màng như phấn, tím sậm, đỏ nhạt, nâu, xanh, vàng, tía cho đến chấm phá, loang, sọc, vằn thẩy đều không thiếu. Nhiều người thấy lan thường bám vào các cành cây, hốc đá nên nghĩ rằng lan là một loại tầm gửi (Parasite) nhưng thực ra lan không sống vào nhựa của cây. Lan chỉ bám vào đó mà sống, hấp thụ những tinh chất thiên nhiên do hoa, lá cây đã mục, phân chim và các tinh thể khác do nước mưa và gió vận chuyển tới. Lan mọc ở khắp năm châu, bốn biển, từ miền gió tuyết lạnh lùng cho đến vùng sa mạc nóng bỏng, khô cằn, từ miền núi cao, rừng thẳm cho đến các đồng cỏ của miền bình nguyên và ngay cả các vùng sình lầy đâu đâu cũng có lan. Đa số lan ưa mọc tại các rừng cây nhiệt đới nhất là tại giẫy núi Andes miền Nam Mỹ và giẫy Hy mã lạp sơn thuộc Á châu. Những nơi này, phần đông cao từ 3000 bộ đến 7000 bộ và nhiệt độ thay đổi từ 50 đến 90°F và mỗi tháng mưa ít nhất là 3-4 inches nước. Lan thuộc vào một loài hoa đông đảo với khoảng chừng 750 loài và 30,000 giống nguyên thủy và chừng độ một triệu đã được lai giống nhân tạo hay thiên tạo, hoa lan (Orchidaceae) là một loài hoa đông đảo vào bậc thứ nhì sau hoa cúc (Asteraceae). Sở dĩ chúng tôi phải dùng chữ khoảng chừng vì hiện nay lan còn mọc ở nhiều nơi thâm sơn cùng cốc chưa ai biết đến. Riêng tại Việt Nam, trong những thập niên vưà qua người ta đã tìm thấy mấy cây chưa từng có trong danh mục hoa lan quốc tế. Đó là những cây Christensonia viêtnamica, Renanthera citrina, Paphiopedilum helenae, Paphiopedilum vietnamense và Paphiopedilum hiepii. Ý nghĩa của hoa lan Hoa lan có thể truyền đạt nhiều thông điệp, nhưng lịch sử ý nghĩa của hoa phong lan bao gồm sự giàu có, tình yêu,và vẻ đẹp. Đối với người Hy Lạp cổ đại, hoa lan vinh danh những anh hùng, và sau khi sự gia tăng phổ biến của những bộ sưu tập phong lan ở Anh thời Victoria, ý nghĩa của hoa phong lan chuyển dần dần trở thành biểu tượng của sự sang trọng. Hoa lan cũng đã được cho rằng là một vị thuốc chữa các bệnh khác nhau và phòng bệnh, cho phép con người tránh khỏi bệnh tật. Người Aztec uống một hỗn hợp của hoa phong lan vani và sô-cô-la để cung cấp cho họ quyền lực và sức mạnh, và người Trung Quốc tin rằng hoa lan có thể giúp chữa trị bệnh phổi và ho. Ngày nay, ý nghĩa của hoa phong lan được coi là một biểu tượng của vẻ đẹp hiếm thấy và tinh tế. Hoa lan là loại hoa được trồng để làm đẹp cho ngôi nhà phổ biến nhất, cùng với hoa lily. Sự quyến rũ và huyền bí của hoa lan làm cho những người nhận được hoa lan thích thú, mà các loại hoa khác không có khả năng gây ấn tượng với người nhận theo cách mà hoa phong lan có thể. Trong số các loại hoa được biết, hoa lan chiếm một vị trí đặc biệt như là một trong những loài hoa lôi cuốn và quyến rũ, làm cho chúng trở thành một sự lựa chọn đặc biệt khi bạn muốn thể hiện tình cảm với những người quý giá trong cuộc sống của bạn. Thuyết minh về hoa phong lan – Bài làm 2 Đó là loại hoa có vòi hoa cao, mảnh khảnh với những bông hoa cực kỳ đẹp gồm 3 cánh trong, ba cánh ngòai và một cánh hoa chụm lại (lưỡi) phân biệt với các cánh hoa khác. Phần cuối của môi dưới hoa, kiểu phát hoa, đài hoa – là những tên gọi của những phần kết cấu kỳ diệu như ta thấy. Có thể cho rằng phong lan là loại hoa gây ấn tượng và tao nhã nhất trong các ho hoa đối với con người. Trong hàng triệu năm, họ phong lan phát triển mạnh và tiến hóa lan rộng không ngừng từ Bà Mẹ thiên nhiên, và sự bùng nổ của những loài hoa đối thủ của nó từ con người. Cách đây khoảng 120 triệu năm, thời kỳ khủng long, một cây hoa tráng lệ xuất hiện và hiện hữu- ta gọi là phong lan. Sự tiến hóa dẫn tới việc mất đi nhiều loại cây và thú nhưng đối với phong lan chúng đã nở hoa, phát triển trên các đại lục. Ít nhất có 36.000 loài trên hành tinh chúng ta hiện nay- và có thể còn có những loài chưa được biết đến và hãy còn chờ đợi con người khám phá. Phong lan thu hút sự thụ phấn bằng nhiều cách như: mùi thơm, bắt chước và sự rón rén lén lút. Phong lan với mùi thơm ngọt ngào thường thu hút loài ong-với những cánh có mùi . Phong lan cũng có thể thụ phấn bằng cách bắt chước hình dạng côn trùng như ong, bướm với những phần trên cách hoa của chúng. Cách thụ phấn thứ ba là là lén lút. Lan hài thu hút vậtcon thụ phấn sắp tới mép bao phấn của nó, và rồi côn trùng rơi vào đó, và như thế có những cánh hoa dài sẽ chạm đất. Và những loại côn trùng không đơn độc thụ phấn cho phong lan mà các loại hưu nhũ nhỏ, chim sâu, dơi và gió cũng có thể đóng góp cho sự tồn tại của các giống phong lan. Hàng thế kỷ qua, hoa phong lan đã là biểu tượng cho tình yêu, vẻ đẹp và sự quí phái. Vào thời kỳ Hy Lạp cổ, hoa phong lan đại diện cho tính kiên cường và người Trung Hoa gọi phong lan là “vua của các mùi hương”. Suốt thời kỳ Trung Cổ, phong lan được xem như loại thuốc tăng cường tình dục và được dùng làm bùa yêu. Sự sưu tập nghiêm túc các loài phong lan bắt đầu từ thế kỷ thứ 18, nhưng do sự hiếm có của chúng vào lúc bấy giờ nên chỉ có rất ít nhà thực vật học và những nhà sưu tầm tài tử thưởng thức chúng. Đến năm 1818, William Cattley trở thành người đầu tiên cho phong lan nở hoa (đó là loài Cattleya), sự kiện này đã làm thay đổi thế giới loài hoa. Các khu rừng bị tước đoạt hàng triệu lgio2 phong lan, đưa phong lan vào danh sách các giống loài có nguy cơ bị tuyệt chủng. Một giò phong lan đơn lẻ được bán với giá hàng nghìn đô la Mỹ. Từ thực tế đó, việc khai thác lan đã bị cấm và các giống loài hiện nay được lai tạo và trồng đễ thương mại hóa. Điều gì sẽ mang đến cho phong lan trong tương lai? Đó là thánh thức lớn nhất hiện tại đối với con người. Sự bế tắc môi trường của chúng ta sẽ lấn át hay sự yên nghỉ của phong lan sẽ trở lại, được thử thách qua hàng thiên niên kỷ, tồn tại lâu hơn chúng ta? Sự tồn tại hiển nhiên của phong lan sẽ không mất đi tính thanh lịch và huyền thoại tiền sử trong trí nhớ của những người hâm mộ
Thuyết minh về hoa phong lan – Văn mẫu lớp 8
1,625
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về hoa sen – Bài làm 1 2 Thuyết minh về hoa sen – Bài làm 2 3 Thuyết minh về hoa sen – Bài làm 3 4 Thuyết minh về hoa sen – Dàn ý Thuyết minh về hoa sen – Bài làm 1 Hoa sen khi đọc hai từ nghe yếu ớt lắm nhưng khi cảm nhận nhìn tháy sức sống của nó thì không thể ngờ được nhỏ nhắn mà lại có sức sống mãnh liệt người ta có câu: “ Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Với câu ca dao mộc mạc thế này, nó thể hiện được tâm hồn của con người nhưng với hoa sen nó còn hơn cả tâm hồn, nó tượng trưng cho sức sống mãnh liệt, cho khả năng vươn chồi ươm mần phải nói nó như một thiêng liêng sống. Không chỉ là vậy hoa sen còn được tượng trưng cho Phật giáo, cũng có thể được coi là quốc ngữ của một dân tộc. Nói đến hoa sen là phải nói đến hương hoa của nó, nó có mùi hương trong mát, diệu kỳ làm sao đặc biệt vào buoir trưa nếu mà bạn nghe hương hoa sen thì nhất định bạn bị cuốn vào đó không bao giò mà không ngủ được. Hoa sen có rất nhiều công dụng từ một bộ phận của nó là một công dụng khác nhau và nó có gí trị về kinh tế rất cao. Củ sen hoặc ngó sen chúng ta có hể dùng để làm gỏi, làm nguyên liệu để nấu lẩu… hoa sen gồm có cánh và nhị, đài sen. Cánh sen, nhị sen và đài sen chúng ta co thể dùng nó để làm tra uống. Tra sen dduwwocj bán vơi giá rất mắc và có giá trị kinh tế rất cao không chỉ thể chúng ta còn dùng để xuất khẩu cho nhiều nước. Nói về tác dụng của sen thì ta không thể nào chê được nhưng với một cái mà chưa bào giờ ai nghĩ đó là ý nghĩa của hoa sen. Hoa sen được coi là một quốc ngữ nó tượng trưng cho một dân tộc trong sáng, tươi đẹp với sức sống mãnh liệt của nó có thể nói không thể nào chối từ được. Hoa sen được ca ngợi vì thực sự sen mọc từ bùn lầy mà vẫn tỏa hương thơm ngát, vẫn đẹp rạng ngời giữa một đầm bùn lầy. Người nông dân , người lao động từ bao đời nay thật trong sạch. Nếp sống ấy biểu hiện cho đạo đức nhân cách tốt đẹp của họ. Dù cho xã hội còn đầy rẫy những cái xấu, nhưng con người lao động chân chính vẫn không bị tác động. Hoa sen gắn liền với cuộc sống hằng ngày của con người. với hương hoa trong khiết thanh nhàn như vậy đã làm cho con người xoa đi cái mệt ỏi và hướng tới, đón một một cuộc sống tươi đẹp hơn. Không chỉ có vậy nó còn là tâm hồn cao đẹp, còn là một quốc ngữ tượng trưng cho một dân tộc, tượng trưng cho tâm hồn cao đẹp của con người. Thuyết minh về hoa sen – Bài làm 2 Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bôg trắg lại chen nhị vàng Nhị vàng, bông trắng, lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Là người Việt Nam, hẳn ai cũg biết về bài ca dao trên và loài hoa đc nhắc tới trog bài chính là sen – loài hoa mộc mạc, giản dị và thanh khiết. Cây hoa sen ở nước ta thuộc họ sen có giống màu hồng hoặc đỏ. Còn một loại giống sen cả thân, lá, hoa đều nhỏ gọi là sen tịch thượng (nghĩa là: ngồi trên) vì nó thường được trồng vào chậu nước hay bể cạn. Ngoài ra ở các nước khác như Ấn Độ và Bắc Mĩ còn có giống hoa sen màu vàng. Sen gồm năm phần chính: củ sen, ngó sen, cuốg sen, lá sen và búp sen. Củ sen từ các đốt nối vs nhau tạo thành và có màu trắg. Ngó sen có hình tròn, to cỡ ngón tay, cũg màu trắg và dài khỏag vài chục phân. Cuốg sen hình tròn, bên trog rỗg, màu xanh hơi nâu và có gai li ti mọc bao bọc quanh thân. Sen có lá hình tròn, lòng lá hơi sâu, diềm lá nhúm. Búp sen có màu xanh lục, hình bầu dục. Khi nở, hoa sen màu hồng thắm, xen chút màu trắg. Nhị và nhụy sen màu vàg nằm trog búp tỏa hương thơm ngát. Hoa sen đã thơm thanh khiết lại không có thứ gì trong cây bỏ đi. Ngó sen đc gọi là liên ngẫu – một thứ sen cao cấp; thân cây hoa sen phơi khô rồi đốt và hít thì trừ đc bệnh viêm mũi nhẹ; lá sen là liên diệp dùng để gói hàng tươi, đặc biệt là gói cốm, ngày xưa các cụ cầu kì còn lấy nước mưa đọng trên lá để đun nước pha trà cho trà có mùi thơm tự nhiên; bát sen là liên phòng, nhị sen là liên tụ, nhân sen là liên tâm, đều là những vị thuốc bắc; hạt sen đã thông tâm gọi là liên nhục làm một vị thuốc bổ; chè tâm sen ( phần phôi xanh trog hạt sen) còn có tác dụng chữa bệnh mất ngủ rất tốt. Ở Việt Nam, sen được xếp vào bộ tứ quý ( 4 mùa): Lan, sen, cúc, mai và xếp vào hàng “tứ quân tử” cùng tùng, trúc, cúc. Hoa sen rất thích hợp với môi trường có khí hậu nhiệt đới như nước ta. Từ Bắc vào Nam, nó có mặt khắp mọi nơi, gần gũi và thân thiết với người dân Việt Nam. Trong lòng mỗi người dân Việt, sen là loài hoa tượng trưng cho vẻ đẹp tươi sáng, cao sang và thuần khiết mang tính chất dân tộc. Chính vì thế, hoa sen luôn là nguồn cảm hứng bất tuyệt của thi ca và nghệ thuật. Câu ca dao “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” – sen sống trong bùn nhưng sen vươn lên trên lầy, toả hương thơm ngát. Trong các công trình kiến trúc Phật giáo ở Việt Nam, sen luôn trở thành hình tượng nghệ thuật. Một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu lấy cảm hứng từ hoa sen là chùa Một Cột. Theo truyền thuyết, ngôi chùa này được hình thành từ một giấc mộng đài sen của vị vua Lý Thái Tông. Chùa có hình dáng của hoa sen, mọc lên từ hồ nước, chỉ với “một cột” như một cọng sen. Ở đây, hoa sen là sự giác ngộ, đạt được sự trong sáng và giải thoát khỏi bùn dơ. Hãng hàng không Vietnam – Airline đã chọn hình ảnh bông sen sáu cánh làm biểu tượng, đó cũng là biểu tượng mà người Việt Nam muốn cho bạn bè quốc tế trên khắp năm châu được biết đến. Trong mắt của bạn bè quốc tế, hình ảnh của bông sen chắc hẳn được sẽ in đậm và đọng lại trong tư tưởng của mọi người về đất nước Việt Nam. Chính vì vậy, hoa sen đã được bầu chọn là Quốc hoa của Việt Nam. Hoa sen là một loài hoa đẹp, cao quí, còn có rất nhiều lợi ích gắn bó với con người Việt Nam, nên đc rất nhiều ưa chuộg. Vì vậy, cứ nghĩ đến làng quê Việt Nam, chúng ta sẽ nhớ đến ngay hình ảnh bôg sen nổi trên mặt bùn, tỏa hươg thơm ngát. Dù thời gian đang hằn những bước chân vào tạo hóa nhưng tôi tin bông hoa sen dù có trải qua bao cuộc đổi thay vẫn sẽ giữ được vẻ đẹp thanh khiết, mùi hương dịu dàng giống như con người Việt Nam vẫn luôn vươn lên để tỏa sáng như đóa sen vươn mình đón nắng mai nơi bùn đất. Và rồi một ngày, sắc sen rạng rỡ giữa cuộc sống mến thương. “Sen vẫn thế, âm thầm và lặng lẽ Rồi một mai, bừng sáng giữa khung trời Từ sâu thẳm chốn bùn lầy đất mẹ Ngát hương sen, nét đẹp chẳng phai phôi” Sen thơm, hương lại hữu sắc. Dù trong hoàn cảnh nào sen cũng hàm chứa trong nó sự tinh tế, thuần khiết, cao đẹp. Nó thật sự là biểu trưng tiêu biểu nhất cho văn hoá và cốt cách nhân văn của người Việt Nam. Thuyết minh về hoa sen – Bài làm 3 Sen là một loài thực vật sống dưới nước và chiếm giữ một vị trí cổ xưa . Ở Việt Nam, sen được xếp vào bộ tứ quý: Lan, sen, cúc, mai và xếp hàng theo “tứ quân tử” cùng tùng, trúc, cúc. Hoa sen rất thích hợp với môi trường có khí hậu nhiệt đới như nước ta. Từ Bắc vào Nam, nó có mặt khắp mọi nơi, gần gũi và thân thiết với mọi người như cây tre, cây đa… Nếu ở miền Bắc, hoa sen chỉ nở vào mùa hè, thì ở hầu khắp miền Nam quanh năm đâu đâu cũng thấy sen khoe sắc thắm.Những cánh, nhụy và gương hạt đã tạo nên một bông hoa sen có nét đẹp thanh thóat và màu tươi sáng. Sen được đỡ bằng một cuống hoa dài và đưa sen mọc khỏi trên mặt nước. Lá sen rất xanh có một lớp nhung trắng phủ trên bề mặt khi ánh náng chiếu vào làm lớp nhung trắng đó óng ánh li ti mờ ảo rất đẹp. Gương hạt sen hình phễu, nhẹ, xốp, màu đỏ tía, không có mùi, có tác dụng cầm máu rất hiệu quả lên được chế biến thành nhiều loại thuốc để chữa bệnh băng huyết,cao huyết áp,…và là nguồn càm hứng. Hoa sen mọc trong bùn, sống trong bùn nhưng vượt lên khỏi nó để hướng đến mặt trời mà không hề bị bùn làm ô nhiễm, vấy bẩn. Cũng giống như một người được sinh ra trên thế giới, tồn tại giữa cuộc đời nhưng đã vượt thoát khỏi sự tham lam, sâu hận, dục vọng và không bị vấy bẩn, ô nhiễm bởi dòng đời. Và có lẽ hoa sen đẹp nhất khi được ví với hình tượng Bác Hồ, người cha già dân tộc, vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta: Tháp Mười đẹp nhất bông sen Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ Trong lòng mỗi người dân Việt, sen là loài hoa tượng trưng cho vẻ đẹp tươi sáng, cao sang và thuần khiết mang tính chất dân tộc.Có lẽ, không người Việt Nam nào không thuộc bài ca dao đầy tính triết lý này: Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng Nhụy vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Sen sống trong bùn nhưng sen vươn lên trên lầy, toả hương thơm ngát. Sen có một sức sống mạnh mẽ đến kỳ lạ và tự tính của sen là tinh khiết, vô nhiễm. Tượng trưng cho bản tính thân thiện, phong thái tao nhã, tinh thần “vượt lên” trong mọi nghịch cảnh và giá trị đạo đức. Ngoài ra, kiến trúc tiêu biểu lấy cảm hứng từ hoa sen là chùa Một Cột. Theo truyền thuyết, chùa được hình thành từ một giấc mộng đài sen của vua Lý Thái Tông. Chùa có hình dáng hoa sen, mọc lên từ hồ nước, chỉ với “một cột” như một cọng sen. Cái đẹp là để người ta yêu! Nhưng có người yêu cái đẹp rực rỡ, chói ngời, lại có người yêu cái đẹp giản đơn, mộc mạc. Còn tôi, tôi yêu cái đẹp bình dị nhưng khiến người ta phải ngẫm suy. Phải chăng vì hoa sen cũng thế nên tôi mới cảm nhận được cái đẹp trong loài hoa này? Giữa chốn đầm lầy lạnh lẽo, mầm hoa kiên trì chắt lọc những tinh hoa từ đất mẹ. Thế rồi một sớm mai nắng đẹp, hoa sen vươn lên, xòe cánh đón nắng mai. Từng cánh hoa tinh khôi, thoảng nhẹ chút hương theo gió. Miền đất ngai ngái mùi bùn, ấy mà sen vẫn rạng ngời vươn cao. Bất giác, ta nhớ đến những con người giữa cái nghèo đói vây quanh, tưởng họ sẽ buông tay mặc cho số phận,nhưng không, họ vẫn là chính họ! Và rồi, họ mơ một ngày mai tươi sáng, họ sẽ là đóa sen thơm tỏa ngát giữa cảnh đời chông gai. Sen đã khắc họa vào tim ta chất thanh cao…Sen thầm lặng, hiền hòa nhưng cao quý biết chừng nào. Sen hiện thân cho tính cách, lối sống và tâm hồn người Việt, còn là món quà vô giá từ thiên nhiên, bởi từ sen có thể chế biến những thực phẩm bổ dưỡng, những bài thuốc đặc trị… Hạt sen nhỏ, có màu vàng, vừa là món ăn dân dã quen thuộc, lại là một loại thuốc để chữa bệnh mất ngủ, suy nhược thần kinh. Tâm sen màu xanh, nằm giữa hạt sen, có thể dùng để ướp trà, tạo hương thơm dịu. Lá sen khô nghiền vụn và lá sen tươi, tất cả đều thái nhỏ, hoà với nước uống mỗi ngày còn giúp thanh nhiệt. Ngó sen vừa là một loại thuốc chữa các bệnh về gan, lại vừa là món ăn quen thuộc của người Việt, trong bữa cơm mà có một bát nộm ngó sen, vừa ngon lại giúp dễ tiêu hóa, khó ai có thể từ chối được. Nhớ hồi bé, ngày hè, mẹ thường nấu cho bát chè sen với đường, vừa thơm, ngọt lại mát, đi chơi cả ngày nhưng vẫn yên tâm không sợ bị ốm. Đúng là loại hoa mà thiên nhiên đã ban tặng. Dù thời gian đang hằn những bước chân vào tạo hóa nhưng tôi tin, sen dù có trải qua bao cuộc đổi thay vẫn sẽ giữ được vẻ đẹp thanh khiết, mùi hương dịu dàng giống như con người Việt Nam vẫn luôn vươn lên để tỏa sáng như đóa sen vươn mình, đón nắng mai nơi bùn đất. Và rồi một ngày, sắc sen rạng rỡ giữa cuộc sống mến thương. Thuyết minh về hoa sen – Dàn ý Mở bài: Sen là một loài cây thủy sinh mộc khá phổ biến ở các nước nhiệt đới và rất phổ biến trên các đồng quê Việt Nam. Cây sen gắn bó với con người Việt Nam trong bao đời này. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh cao, tinh khiết và trong sáng trong thế giới hình ảnh của tôn giáo; hình ảnh cây sen, hoa sen hồng đi vào đời sống thực cũng như thế giới tâm linh của con người. Cây sen không những có giá trị nghệ thuật trong đời sống tinh thần mà trong thực tế, cây sen có rất nhiều ý nghĩa. Thân bài: * Nguồn gốc: Sen hồng là một loại cây thủy sinh sống lâu năm, thường phát triển ở nơi có nhiều nước. Trong thời kỳ cổ đại nó đã từng là loại cây mọc phổ biến dọc theo bờ sông Nin ở Ai Cập. Nó cũng có thể là loài cây bản địa ở khu vực Đông Dương. Năm 1787, lần đầu tiên nó được đưa tới Tây Âu. Ngày nay, nó là hiếm hoặc đã tuyệt chủng tại châu Phi nhưng lại phát triển mạnh ở miền nam châu Á và Australia. Hoa sen hồng là quốc hoa của Việt Nam và Ấn Độ. * Phân loại: Cây sen được phân loại dựa trên màu sắc: sen hồng, sen trắng, sen xanh, sen tím, sen vàng; hay xuất xứ: sen Thái, sen cung đình, sen Ai Cập,… Tại Việt Nam phổ biến nhất là giống sen hồng. * Đặc điểm hình dáng và sinh thái của cây sen hồng: Cây sen có thân rễ chìm trong bùn, thường hay mọc bò ngang ở dưới nước, đặc biệt là trong các lớp bùn của ao hay sông, hồ. Chỉ có lá và hoa là nổi lên trên mặt. Lá sen thấp, có hình tỏa tròn giống cái chén với đường kính từ 30 đến 60 cm. Điểm đặc biệt của lá sen là không thấm nước và thường vươn lên cao theo mặt nước. Hoa sen thường mọc trên các thân to, nhô lên cao khỏi mặt nước nhờ có vòi sen (ngó sen). Hoa to có nhiều màu sắc như trắng, trắng hồng đến màu đỏ hồng. Búp sen chưa nở gồm nhiều cánh xếp xen kẽ chồng lên nhau giống hình 2 bàn tay chụm lại cầu nguyên. Khi bông nở ta có thể thấy được đế hoa lồi có hình nón bên trong. Xung quanh đế bông là các nhị vàng. Ngó sen có màu trắng, ngọn có mang chồi hình chóp nhọn. Cây hoa sen có hạt màu trắng, bên trong chứa hai lá mầm trắng và có tâm sen màu xanh. Thân rễ cây hoa sen phình to thành củ, màu vàng nâu, hình dùi trống, gồm nhiều đoạn, thắt lại ở giữa. Củ sen chìm trong bùn sâu. Đây là bộ phận dinh dưỡng và sinh sản của cây sen. Trồng sen chủ yếu là thu hoạch hoa và quả. Người ta còn hái lá sen để gói. Khi đài sen đã chín, hạt sen già người ta cắt nguyên đài sen sau đó bóc tách lấy hạt. hạt sen thường dùng tươi hoặc phơi khô. Hoa sen được cắt hái khi còn búp. Thường hái vào buổi sáng sớm khi hoa chưa kịp nở.sau khi hái, người ta thường buộc hoa sen lại để hoa không nở. * Vai trò, ý nghĩa và lợi ích của câu hoa sen: Hoa sen là loại cây cảnh đẹp, được nhiều người ưu thích. Cây thường được trồng làm cây cảnh ngoại thất, trồng trong ao hồ nhân tạo hay tự nhiên. Hoa sen thường được trồng làm chậu cây thủy sinh, làm cây cảnh trong các hồ cá, hòn non bộ cũng rất đẹp. Hoa sen chưa nở được dùng làm đồ thờ cúng mang ý nghĩa linh thiêng. Người ta cho rằng hành động chắp tay vái lạy mang hình dáng hoa sen là để biểu thị sự trong sạch, tinh khiết khi hướng đến các vị thần linh ban cho phước lành. Hoa, các hạt, lá non và thân rễ ăn được. Tại châu Á, các cánh hoa đôi khi được sử dụng để tô điểm món ăn, trong khi các lá to được dùng để gói thức ăn. Thân rễ (ngó sen) có thể dùng chế biến nhiều món ăn (súp, canh, món xào) và là phần được dùng nhiều nhất. Các cánh hoa, lá non và thân rễ có thể ăn sống. Hạt sen là món ăn thượng hạng trước đây chỉ được sử dụng trong những nhà giàu có. Hạt sen nấu chè, chưng hầm với gà và các vị thuốc bắc có chức năng bồi bổ sức khỏe vô cùng hiệu nghiệm. Các nhị hoa có thể phơi khô và dùng để ướp chè. Các hạt nhỏ lấy ra từ bát sen có nhiều công dụng và có thể ăn tươi khi còn non hoặc sấy khô và cho nổ tương tự như bỏng ngô. Tâm sen nằm trong các hạt sen được lấy ra từ bát sen cũng được sử dụng trong y học truyền thống châu Á như là một loại thuốc có tác dụng an thần và thanh nhiệt. Tâm sen cũng có thể dùng để hãm uống như nước trà. Tuy nhiên, tâm sen rất đắng, thường không dễ uống. Lá sen khi tươi thường mềm và dễ rách nhưng khi để khô rất dai và dẻo. Lá sen thường dùng để gói đồ vật, thức ăn. * Ý nghĩa cây sen trong đời sống tinh thần của người: Cây hoa sen mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp, tượng trưng cho sự trong trắng bởi vì hoa mọc lên từ trong bùn lầy nhưng rất tinh khiết. Ngoài ra, hoa sen còn tượng trưng cho sự thanh cao, thoát tục, giúp con người gỡ bỏ mọi ưu phiền để tĩnh tâm, an hưởng hạnh phúc. Hoa sen xanh được coi là linh thiêng nhất trên vùng đất Ai Cập, là loại hoa tỏa ra hương thơm của cuộc sống thần thánh. Hoa sen với màu sắc trong trắng trên bùn nhơ được hiểu với nghĩa đạo đức. Các cánh hoa đã nở được coi là sự mở rộng của tâm hồn và là biểu tượng của sự thăng hoa tinh thần. Vẻ đẹp của hoa sen tương phản với nguồn gốc từ bùn lầy của nó thể hiện một sức mạnh tinh thần. Đối với người Việt Nam, từ xa xưa, cây sen và hoa sen đã được xem như biểu tượng của sự trong sạch, sức sống trường cửu, mang màu sắc tâm linh, huyền thoại sâu sắc. Hình ảnh hoa sen đi và thơ ca, nhạc họa, phản ánh sâu sắc cuộc sống thanh cao, bình dị của người nông dân Việt Nam gắn bó với đồng ruông. Đặc biệt búp hoa sen gắn với tinh thần phật giáo với ý nghĩa từ bi, bác ái, trí tuệ, hỷ xả. Kết bài: Ngày nay, với giá trị to lớn cây sen đã được trồng khắp nơi trong cả nước. Không những là vật phẩm thờ cúng, là thực phẩm hàng ngày, cây sen còn có giá trị xuất khẩu, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho đất nước.
Thuyết minh về hoa sen – Văn mẫu lớp 8
3,610
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về Hồ Gươm – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An 2 Thuyết minh về Hồ Gươm – Bài làm 2 3 Thuyết minh về Hồ Hoàn Kiếm – Bài làm 3 4 Thuyết minh về Hồ Gươm (hồ Hoàn Kiếm) – Bài làm 4 5 Thuyết minh về Hồ Gươm – Bài làm 5 6 Thuyết minh về Hồ Gươm – Bài làm 6 Thuyết minh về Hồ Gươm – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Đất nước ta được thiên nhiên ưu đãi có rất nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, ở mỗi vùng miền mỗi tỉnh đều có những danh lam nổi tiếng và mang những nét đặc trưng riêng, một trong những danh lam thắng cảnh đẹp của nước ta là Hồ Gươm, bất kì ai đến thành phố Hà Nội du lịch đều không thể bỏ qua Hồ Gươm, Hồ Gươm không chỉ đẹp bởi cảnh vật, có mực nước hồ xanh biếc, bóng liễu thướt tha mà Hồ Gươm còn gắn liền lich sử đấu tranh anh hùng bất khuất của nhân dân ta, là một danh lam thắng cảnh tự hào của người Hà Nội. Điểm đặc biệt của Hồ Gươm ngoài là danh lam thắng cảnh đẹp Hồ Gươm còn là di tích lịch sử của đất nước ta, truyền thuyết kể rằng thời giặc Minh đô hộ nước ta, chúng rất hung ác, gây ra nhiều tội ác với nhân dân ta, làm cho nhân dân sống trong cảnh khổ cực, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, cuộc khởi nghĩa ban đầu lực lượng mỏng, yếu thế nên thường bị thua, Đức Long quân đã quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần để đánh giạc, và từ lúc có gươm thần, Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn đánh đâu thắng tới đó, đánh tan quân sâm lược, giúp nước ta thoát khỏi ách đô hộ của giặc Minh, một năm sau Lê Lợi trả lại gươm thần cho Thần Kim Quy, từ đó hồ Tả Vọng được đổi tên là Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm. Có hai hòn đảo trên hồ là đảo Ngọc và đảo Rùa, đầu thế kỷ 19 người ta đã cho xây dựng một ngôi chùa trên đảo Ngọc, và goi là Chùa Ngọc Sơn, không lâu sau đó Chùa Ngọc Sơn không thờ phật nữa mà chuyển sang thờ thánh Văn Xương và Trần Văn Đạo nên đổi tên là Đền Ngọc Sơn, năm 1864 Tháp Bút được xây dựng trên gò Ngọc Bội đối diện với Đảo Ngọc. Chúng ta sẽ được tận hưởng những không gian cảnh vật thiên nhiên tuyệt đẹp, trong Hồ Gươm có cầu Thê Húc và đền Ngọc Sơn, cầu có một đoạn ngắn, cong cong trông rất đẹp và là lối duy nhất để du khách có thể vào đền Ngọc Sơn. Quanh hồ Hoàn Kiếm những cảnh vật xunh quang cũng rất đẹp, rặng liễu màu xanh rủ xuống hồ, quanh hồ có những ghế đá để du khách ngồi nghĩ ngơi, tiếng chim hót líu lo, mặt hồ xanh biếc, cảnh vật thật đẹp, không chỉ đắm chìm trong không khí hơi thở của lịch sử mà thiên nhiên quanh hồ cũng rất đẹp. Đến Hồ Gươm ta thấy còn thấy những bà lão đứa trẻ ngồi ghế đá nghỉ ngơi, những cặp tình nhân tay trong tay đi dạo phố, những cô bật nhạc tập thể dục… họ đều tận hưởng cảnh đẹp của Gươm theo cách riêng của họ, những hoạt động đó làm cho Hồ Gươm trở lên tấp nập sinh động hơn. Hồ Gươm không chỉ mang những nét đẹp cổ kính mà còn mang nét đẹp hiện đại, là danh lam thắng cảnh đẹp của đất nước ta, trải qua bao chặng đường phát triển của đất nước Hồ Gươm vẫn đẹp và trở thành điểm du lịch hấp dẫn đối với các du khách trong và ngoài nước. Thuyết minh về Hồ Gươm – Bài làm 2 Nhắc đến thủ đô Hà Nội là ta nghĩ ngay đến những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử nổi tiếng như Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Lăng Bác, Chùa Một Cột,… Hồ Gươm là một trong những danh lam thắng cảnh nổi tiếng và nằm ngay giữa trung tâm của thành phố. Bất cứ người khách nào từ xa đến Hà Nội du lịch cũng muốn thăm cảnh hồ. Ngay giữa trung tâm phồn hoa, nhộn nhịp, Hồ Gươm trở thành một thắng cảnh tự hào của người Hà Nội – một lẵng hoa tươi đẹp giữa lòng thủ đô. Hồ Gươm không chỉ đẹp bởi cảnh vật mà còn gắn liền với lịch sử đấu tranh anh hùng bất khuất của nhân dân ta, găn liền với nhiều đau thương mất mát của chiến tranh, gắn với những mốc son không thể xóa nhòa. Từ xưa cho đến tận bây giờ, Hồ Gươm vẫn ở đó, đẹp rạng ngời nét đẹp của quê hương. Cách đây khoảng 6 thế kỉ, dựa theo bản đồn thời Hồng Đức thì phần lớn xung quanh khinh thành khi ấy là nước. Hồ Gươm là một phần lưu của sông Hồng chảy qua vị trí các phố ngày nay như Hàng đào, Hai Bà Trưng, Lí Thường Kiệt, Hàng Chuối. Từ đó đổ ra nhánh chính của sông Hồng. Nơi rộng nhất phân lưu này hình thành nên Hồ Gươm ngày nay. Hồ Gươm là một hồ nước ngọt tự nhiên của Hà Nội, có diện tích khoảng 12 héc-ta với hình dáng như một chiếc gươm bầu dục khổng lồ. Hồ có vị trí kết nối giữa khu phố cổ gồm các phố Hàng Nam, Hàng Đào,… với khu phố Tây do người Pháp quy hoạch là: Bảo Khánh, Nhà Thờ, Tràng Thi, Hàng Bài,.. Trước kia, hồ còn có các tên gọi là: Hồ Lục Thủy (vì nước trong hồ bốn mùa đều xanh ngắt), hồ Thủy Quân (dùng để duyệt thủy binh), hồ Tả Vọng và hồ Hữu Vọng (trong thời Lê Mạt). Tên gọi Hoàn Kiếm xuất hiện vào đầu thế kỉ XV, gắn với truyền thuyết vua Lê Thái Tổ trả gươm báu cho Rùa Thần, ghi lại thắng lợi của cuộc chiến đấu mười năm của nhân dân Việt Nam chống lại quân Minh (1417-1427) dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi. Truyền thuyết kể rằng, khi ấy giặc Minh đô hộ nước ta, chúng gây ra nhiều bạo ngược, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa tại Lam Sơn (Thanh Hóa) nhưng ban đầu yếu thế nên thường bị thua. Đức Long Quân quyết định cho ông mượn gươm thần để giết giặc. Ông cùng người ở trại Mục Sơ là Lên Thận làm bạn keo sơn, Lê Thận ba lần kéo lưới đều gặp một thanh sắt, nhìn kĩ hóa ra là lưỡi gươm. Sau đó ít lâu, Lê Lợi bị giặc đuổi chạy vào rừng, tình cờ bắt được chuôi gươm nạm ngọc trên cây đa, đem tra vào lưỡi gươm ở nhà Lê Thận thì vừa như in nên mới biết đó là gươm thần. Nghĩa quân đánh đâu thắng đấy, cuối cùng đánh tan quân xâm lược. Gươm báu này đã theo Lê Lợi suốt thời gian kháng chiến chống giặc Minh. Khi lên ngôi về đóng đô ở Thăng Long, trong một lần nhà vua đi chơi thuyền trên hồ, bỗng một con rùa xuất hiện, Lê Thái Tổ rút gươm khỏi vỏ, giơ gươm ra thì gươm bay về phía con rùa, rùa ngậm gươm lặn xuống đáy hồ. Từ đó, hồ mới có tên gọi là hồ Hoàn Kiếm hay gọi nôm na là hồ Gươm. Tên hồ được lấy để đặt cho một quận trung tâm của Hà Nội (quận Hoàn Kiếm) và là hồ nước duy nhất của quận này cho đến ngày nay. Hồ Gươm gắn liền với nhiều công trình kiến trúc, di tích nổi tiếng như: Tháp Rùa, Đền Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút,… Tháp Rùa nằm ở trung tâm hồ, được xây dựng khoảng từ giữa năm 1884 đến tháng 4 năm 1886 trên gò rùa và chịu ảnh hưởng của kiến trúc Pháp. Tháp xây trên khuôn đất hình chữ nhật. Tầng một có chiều dài 6,28 mét, chiều rộng 4,54 mét. Hướng Đông và Tây mỗi mặt có ba cửa. Các cửa đều được xây cuốn, đỉnh thon nhọn. Tầng hai có chiều dài 4,8 mét, rộng 3,64 mét và có kiến trúc như tầng một. Tầng ba có chiều dài 2,97 mét, rộng 1,9 mét. Tầng này chỉ có một cửa hình tròn ở phía Đông, đường kính 0,68 mét. Phía trên cửa có ba chữ Quy Sơn Tháp ( Tháp Núi Rùa ). Tầng đỉnh có nét giống một vọng lâu, vuông vức, mỗi bề 2 mét. Đền Ngọc Sơn nằm ở phía Bắc của hồ, xưa có tên là Tượng Nhĩ ( Tai Voi ). Vua Lý Thái Tổ đặt tên là Ngọc Tượng khi rời đô ra Thăng Long và đến đời Trần đảo được đổi tên thành Ngọc Sơn Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, do danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng vào năm 1865. Tên của cầu có nghĩa là : nơi đậu ánh mặt trời buổi sáng sớm. Tháp Bút ở trên bờ hướng Đông Bắc của hồ được xây dựng từ năm 1865, bao gồm năm tầng. Tháp như một cây bút với đỉnh là ngòi bút đối lên trời, phần tháp có khắc ba chữ : Tả Thanh Thiên ( viết lên trời xanh ), thân tầng thứ ba của tháp có khắc một bài Tháp Bút Chí. Đài Nghiên ở trên bờ hướng Đông Bắc của hồ được xây dựng từ năm 1865. Đây là phần không thể thiếu của Tháp Bút. Ba chân nghiên là hình tượng ba con cóc. Rùa Hồ Gươm là di sản vô giá gắn với những truyền thuyết lịch sử và văn hóa linh thiêng từ ngàn năm nay. Rùa Hồ Gươm thuộc diện động vật quý hiếm đang được Nhà nước bảo vệ. Ngày 19 tháng 1 năm 2016, cá thể rùa Hồ Gươm cuối cùng đã chết. Đến với Hồ Gươm, chúng ta không chỉ được ngập chìm trong những di tích lịch sử cha ông mà chúng ta còn được chứng kiến những cảnh đẹp quanh hồ. dải đất viền xung quanh hồ có nhiều cây cho bóng mát, cây cảnh, bồn hoa và được coi như một công viên bao bọc mặt hồ. Cảnh mặt hồ lăn tăn gợn sóng, những cây phượng vĩ nở đỏ rực hay những cành liễu xanh thướt tha soi bóng hoặc những loài hoa đa dạng, độc đáo được trồng và ghép thành hình chữ mang lại cho con người ta sự thanh thản, yên bình, thư giãn giũa nơi phố phường sầm uất, náo nhiệt. Ngày nay, chúng ra thấy rất nhiều du khách nước ngoài cũng như du khách trong nước và người dân Hà Nội đi dạo quanh mặt hồ. Họ bàn tán, chụp hình và họ cảm thấy đễ chịu và vui vẻ,… Chắc chắn là thế! Không chỉ như vậy, còn có các cụ già ngồi chơi cờ, các bác, các cô tập thể dục để có sức khỏe. Những đứa trẻ cũng thường ra đây đùa nghịch, vui chơi, tận hưởng không khí thoáng mát.Từ Hồ Gươm, ta có thể thấy được những địa điểm nổi tiếng như : Bưu điện Hà Nội với chiếc đồng hồ cổ kính được gắn trên đỉnh, các khu phố cổ, tượng đài Lý Thái Tổ,… Đối với người dân Hà Nội, Hồ Gươm không chỉ là điểm đến dừng chân, ngắm cảnh, hóng mát. Hồ Gươm đã cùng với người dân Hà Nội trải qua bao thời kì đổi thay, chuyển mình của đất nước. Nó mang một giá trị tinh thần hết sức to lớn đối với người dân Hà Nội. Nó như một người bạn tri kỉ, một nhân chứng lịch sử quan trọng cũng như cầu Long Biên hay bất kì địa danh nào khác của Hà Nội, Hồ Gươm là dấu ấn riêng của Hà Nội mỗi khi nhớ về. Không chỉ thế, Hồ Gươm còn có vị trí quan trọng, nằm ở trung tâm Thủ đô, hồ càng trở nên quan trọng đối với mảnh đất nơi đây. Bởi vậy mà các sự kiện quan trọng của đất nước thường được tổ chức như: bắn pháo hoa vào đêm giao thừa, tổ chức cuộc thi,… Đặc biệt đây còn là nơi để các bạn trẻ có thể nâng cao trình độ ngoại ngữ, khả năng giao tiếp với người nước ngoài vì ở đây có rất nhiều du khách người nước ngoài. Tuy không phải là hồ lớn nhất của thành phố nhưng Hồ Gươm đã gắn liền với đời sống và tâm tư của nhiều người. Hồ nằm ở trung tâm một quận với những khu phố chật hẹp đã mở ra một khoảng không rộng cho những sinh hoạt văn hóa bản địa. Hồ có rất nhiều cảnh đẹp. Hơn hết, hồ găn với lịch sử, là biểu tượng của sự khát khao hòa bình. Do vậy, nhiều nhà thơ đã lấy hình ảnh hồ làm nguồn cảm hứng sáng tác cho các tác phẩm của mình. Hồ cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều nhiếp ảnh gia nổi tiếng nhất là Võ An Ninh. Trên đà phát triển ngày nay, người ta có thể xây dựng lên nhiều kiệt tác kì vĩ nhưng ta vẫn cảm nhận được đâu đây cái hồn của Thủ đô, tâm hồn người Hà Nội giữa cái hồ nước mênh mang, mơ màng ấy.. Hồ Gươm vừa là danh làm thắng cảnh vừa là di tích lịch sử và cũng là người bạn tri kỉ của người dân Hà Nội. Cho dù đã trải qua bao nhiêu chặng đường phát triển, Hồ Gươm vẫn giữ mãi giá trị của nó. Chính vì vậy, chúng ta cần bảo tồn và phát triển để giá trị của nó còn mãi với thời gian. Thuyết minh về Hồ Hoàn Kiếm – Bài làm 3 Đẹp như một lãng hoa giữa lòng thành phố, Hồ Hoàn Kiếm được bao quanh bởi các đường phố Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ, Hàng Khay dài khoảng 1800m. Mặt nước là tấm gương lớn soi bóng la đà những cây cổ thụ, những rặng liễu thướt tha tóc rủ, những mái đền, chùa cổ kính, tháp cù rêu phong, các tòa nhà mới cao tầng vươn lên trời xanh. Nước hồ xanh ngắt quanh năm nên xưa hồ có tên là hồ Lục Thủy. Truyển thuyết kể rằng : Khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn có tìm được lưỡi kiếm báu. Kiếm theo ông suốt 10 năm dài chống quân Minh xâm lược (thế kỉ XV). Sau khi giành lại được thành Thăng Long, vua Lê có một buổi dạo thuyền chơi trên hồ, gặp rùa vàng nổi lên mặt nước. Vua rút kiếm chỉ cho quân sĩ thấy, thì con rùa đã nhảy lên đớp lấy thanh kiếm rồi lặn mất tăm. Vua cho là điẻm lành, đất nước có giặc, rùa thần cho mượn kiếm, nay đã thanh bình nên lấy lại. Bởi vậy đặt tên hồ là Hồ Hoàn Kiếm (trả gươm), gọi tắt là Hồ Gươm. Rùa là một trong bốn vật linh (long, lân, quy, phượng) trong tâm thức văn hóa dân gian. Giống rùa quý này vẫn còn sinh sống trong lòng hồ, hằng năm, có đòi lần nhô lên mặt nước, thật hạnh phúc cho du khách nào nhìn thấy rùa nổi lên mặt hồ. Trong mặt hồ có hai đảo nổi. Đảo lớn là đảo Ngọc ở phía bắc hồ, gần bờ đông, có cây cầu Thê Húc sắc đỏ uốn cong nối ra đảo. Đảo Rùa nhỏ hơn, trên có ngọn tháp cổ ở phía nam hồ, giữa bốn bể long lanh bóng nước. Hồ Hoàn Kiếm là nơi hội tụ, điểm hẹn của du khách bốn mùa. Mùa xuân đâm đà lễ hội truyền thống và rực rỡ sắc hoa đào. Mùa hạ ùa ra từng cơn gió lồng lộng, quạt đi cái oi bức của phô phường râm ran tiếng ve. Mùa thu với màn sương huyển ảo, dáng liễu mơ hồ như thực, như hư đã làm say đắm bao nhà nhiếp ảnh tài hoa. Mùa đông, đi giữa những cơn mưa lá vàng, chân nhẹ bước lên thảm lá vừa rụng, xuýt xoa với cái rét vùng Đông Nam Á và những giọt mưa phùn lất phất bay. Mùa nào tình nấy, Hồ Gươm mãi mãi là dấu ấn vẻ vang thời giữ nước và khát vọng hòa bình của tổ tiên ta xưa. Thuyết minh về Hồ Gươm (hồ Hoàn Kiếm) – Bài làm 4 Nói đến Thủ đô Hà Nội thân yêu của chúng ta, có thể nhắc đến Chùa Một Cột — dáng sen vươn lên từ bùn lầy nghìn năm Bắc thuộc — tiêu biểu cho ý thức tự cường của dân tộc. Hay Khuê Văn Các — viên ngọc minh châu kết tinh của một nền khoa học ngàn đời. Nhưng chúng ta vẫn nghe nhắc đến Hồ Gươm nhiều hơn cả. Nằm trong lòng Hà Nội, thành phố ngàn năm văn hiến, thành phố vì hòa bình, nơi đây có Tháp Rùa tượng trưng cho khát vọng hòa bình. Đài Nghiên, Tháp Bút nhắc đến nền văn vật lâu đời. Chỉ với ba biểu tượng đó, hồ Hoàn Kiếm đã xứng đáng là trái tim của Thủ đô rồi! Hồ Gươm không chỉ là thắng cảnh tô điểm thêm vẻ xinh tươi, duyên dáng cho Thủ đô, mà còn là một trong những dấu ấn tiêu biểu của lịch sử ngàn năm văn hiến đất kinh kì Tháng Long — Đông Đô – Hà Nội. Để đến tham quan Hồ Gươm, chúng ta có thể đi từ nhiều con đường khác nhau như Hàng Bài, Tràng Thi, Hàng Khay hay các khu phố cổ, Hồ Gươm nằm ở trung tâm quận Hoàn Kiếm, là nơi kết nối giữa các phô" cổ với khu phố Tây do người Pháp quy hoạch lại cách đây hơn một thế kỉ. Chắc hẳn chúng ta đều biết Hồ Gươm chính là một dòng chảy còn sót lại của sông Hồng. Cách đây hàng trăm năm về trước, Hồ Gươm ăn thông với sông Hồng, là một nhánh nhận nước của sông Hồng, chạy dài qua các phô" Hàng Đào, Hai Bà Trưng, Lí Thường Kiệt, Hàng Chuối,.. Từ thê" kỉ XIX, khi nước ta đang bị thực dân Pháp cai trị, do sông Hồng đổi dâng nên Hồ Gươm chỉ còn là một sông nhỏ chạy qua Hàm Cá Mập (bến tàu điện một thời). Vì thê", để qua sông, người Pháp đã bắc một chiếc cầu bằng gỗ và dần dần san đất. Và ngày nay, nơi đó chính là phô" cầu Gỗ mà ai cũng biết. Từ xưa đến nay, Hồ Gươm đã trải qua lịch sử với bao nhiêu tên gọi khác nhau. Cách đây khoảng sáu thê" kỉ, Hồ Gươm gồm hai phần chạy dài từ phô" Hàng Đào, qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, rồi tới phố Hàng Chuối. Nước hồ quanh năm xanh biếc nên trước kia Hồ Gươm được gọi là Hồ Lục Thủy. Sau đó là cái tên Tả Vọng để phân biệt với Hữu Vọng. Sau khi các triều đại chọn Thăng Long làm kinh đô, hồ còn được dùng làm nơi tập luyện của thủy quân. Tương truyền vào thê" kỉ XV, hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng, ghi lại thắng lợi của cuộc chiến đấu chống giặc Minh xâm lược dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi (1427). Truyền thuyết kể rằng khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hóa) có một người đánh cá là Lê Thận (sau khi gia nhập nghĩa quân Lam Sơn) đã kéo được một lưỡi gươm, sau đó Lê Lợi lại nhặt được chuôi gươm ở trên cây, khi ghép chuôi gươm và lưỡi gươm lại thành thanh gươm, đặt tên là "Thuận Thiên" có nghĩa là "thuận theo ý trời". Gươm báu đã theo Lê Lợi trong suốt thời gian kháng chiến chông giặc Minh. Khi lên ngôi về đóng đô ở Thăng Long, trong một lần nhà vua đi chơi thuyền ở hồ Lục Thủy, bỗng một con rùa xuất hiện, nổi lên khỏi mặt nước. Lê Thái Tổ rút gươm khỏi vỏ, giơ gươm ra thì gươm bay về phía con rùa. Rùa ngậm gươm lặn xuống đáy hồ. Chắc hẳn ai cũng biết hồi tháng 5 âm lịch 2010, khi Hà Nội kỉ niệm 583 năm vua Lê chiến thắng giặc Minh, chúng ta đã được chứng kiến hình ảnh Cụ Rùa bò lên mặt nước… Tất cả mọi người đều ngỡ ngàng và càng tin hơn vào sự linh thiêng của Hồ Gươm — viên ngọc xanh giữa lòng Thủ đô này… Hồ Gươm rất đặc biệt. Nó có một màu sắc riêng, khác hẳn các hồ khác. Hồ Gươm xưa kia trong lắm, đẹp lắm, có màu nước xanh biêng biếc… Các bạn có biết màu xanh ấy là do đâu khống? Trong lớp bùn của Hồ Gươm, có sự sinh sông của một loài tảo. Nhờ sự quang hợp của loài tảo đó mà Hồ Gươm có màu xanh như vậy! Đã có lần, các nhà khoa học đã thử lấy thứ tảo ấy đem đi nơi khác trồng nhưng chúng không sống được! Phải chăng Hồ Gươm có một điều đặc biệt khác?… Nhưng bây giờ, màu xanh trong trẻo ấy đã bị ô nhiễm mà nguyên nhân chính là do con người gây ra. Chính những người dân không ý thức, vứt rác bừa bãi xuống hồ và Nhà nước không có biện pháp làm sạch hồ thường xuyên nên đã làm cho nước hồ đục hơn và bên bờ hồ vương vãi những túi rác mà người dân đã vứt xuống. Điều đó sẽ dẫn đôn hậu quả gì? Trước hết, Hồ Gươm đã không còn đẹp như trước nữa mà đã mất đi vẻ tự nhiên của nó. Và hậu quả thứ hai là những Cụ Rùa đã bị tổn thương vì môi trường quá bẩn. Ngày trước, Cụ Rùa chỉ nổi lên vào những dịp lễ, còn thời gian gần đây, Cụ Rùa nổi lên rất thường xuyên và mọi người đã nhìn thấy những vết thương trên thân Cụ Rùa. Có lẽ nào những người vứt rác xuống hồ không thể hiểu được những điều này? Và vài ba năm trước, việc làm sạch Hồ Gươm đã bắt đầu được chú trọng. Tất cả chúng ta đều đã nhận thây một điều rằng, mặc dù Nhà nước và Chính phủ đã đưa ra những biện pháp để giải quyết vấn đề này nhưng thực sự là nước hồ ngày càng bẩn thêm. Vi vậy, điều quan trọng vẫn là ý thức của người dân, chúng ta phải giữ gìn hồ sạch sẽ để không làm mất đi vẻ đẹp của Hồ Gươm nói riêng và vẻ đẹp của Thủ đô Hà Nội và hình ảnh tốt đẹp của con người Việt Nam nói chung. Ở Hồ Gươm, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy Đài Nghiên và Tháp Bút được danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng vào năm 1864. Thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" nghĩa là "Viết lên trời xanh", ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút. Tiếp đến là một cửa cuốn được gọi là Đài Nghiên, trên đó có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, ba chân kê nghiên là hình tượng ba con ếch. Sở dĩ có ba con ếch đội là bởi vì nhà thơ Nguyễn Văn Siêu muốn nhắc chúng ta đừng kiêu căng rồi dẫn đến hậu quả khó lường như trong truyện ngụ ngôn Ech ngồi đáy giếng và Nguyễn Văn Siêu cũng muốn viết lên trời xanh khát vọng hòa bình, truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam. Có một điểm đặc biệt giữa Tháp Bút và Đài Nghiên. Đó là vào những buổi trưa hè, nhìn từ cổng ngoài di vào có hai bức tường đứng hai bên, cả hai bức tường cao quý ấy đều khắc tên những người đỗ đạt, khiến cho các sĩ tử đi qua đều cố gắng học hành. Đi tiếp vào trong ta sẽ thấy cầu Thê Húc. cầu Thê Húc được làm bằng gỗ rất thô sơ và được sơn màu đỏ. cầu được thiết kế cong cong và uốn lượn như hình con tôm. cầu Thê Húc hướng về phía Đông, phía mặt trời mọc để đón được toàn vẹn nguồn dưỡng khí và những tia nắng đầu tiên. Với ý nghĩa ấy, cây cầu mang màu đỏ — màu của sự sống, màu của hạnh phúc, của sự cao quý, của ước vọng truyền đời từ thời cổ đại đến ngày nay – cây cầu Thê Húc — đó chính là biểu tượng của thần Mặt Trời! Tên của cây cầu có nghĩa là "nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng sớm". Đi sâu vào trong, chúng ta sẽ đến với đền Ngọc Sơn linh thiêng. Ngôi đền được xây dựng trên đảo Ngọc. Cả khu đền được lợp ngói đỏ trông tươi tắn với hình ảnh cong cong trạm trổ tinh tế. Đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Văn Xương Đế Xuân — vị thánh trụ trì việc văn chương khoa cử. Ngoài hiên có tủ kính với Cụ Rùa được đặt bên trong khi các nhà khoa học vớt lên vào những thập niên sáu mươi của thế kỉ XX. Cụ Rùa có tuổi thọ khoảng 500 – 600 tuổi. Không chỉ có một Cụ Rùa mà dưới Hồ Gươm còn có vài Cụ Rùa khác. Hồ Gươm được du khách coi là một danh lam thắng cảnh. Quanh hồ là những loài cây trông lộng lẫy như: cây phượng, cây bằng lăng, cây liễu sư. Ngoài ra còn có nhiều loài hoa được trồng và được ghép thành hình chữ ở bên bờ hồ. Ngày nay, chúng ta đều thấy rất nhiều du khách nước ngoài cũng như trong nước và người dân Hà Nội đi dạo quanh hồ. Họ chụp ảnh, họ bàn tán và họ cũng cảm thấy thanh thản… Chắc chắn là như vậy!… Bên Hồ Gươm không chỉ có du khách đi dạo, chúng ta còn thấy cả các cụ già ngồi chơi cờ, còn các bác, các cô thì tập thể dục cho cơ thể săn chắc, khỏe mạnh. Những đứa trẻ cũng thường ra bờ hồ đùa nghịch, vui chơi tận hưởng không khí thoáng mát. Từ Hồ Gươm, chúng ta cũng có thể nhìn được những địa điểm nổi tiếng của Hà Nội như Tượng đài Lý Thái Tể, Bưu điện Hà Nội với đồng hồ cổ kính được đặt ở trên nóc hay những khu phố cổ,… Như vậy, chúng ta có thể thấy được Hồ Gươm đẹp thế nào, phong phú về màu sắc thế nào… Rủ nhau xem cảnh Kiêm Hồ, Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn, Đài Nghiến, Tháp Bút chưa mòn, Hỏi ai gây dựng nên non nước này? Hồ Gươm có thể từ nhiều thế kỉ trước, có thể có nhiều tên gọi nhưng với tôi, Hồ Gươm chỉ mới hơn mười ba tuổi. Dù có thế nào, Hồ Gươm mãi mãi là một phần trong trái tim tôi. Thuyết minh về Hồ Gươm – Bài làm 5 Hà Nội! Không chỉ là thủ đô của nước Việt Nam. Không chỉ là trung tâm chính trị của nước nhà. Nó là một địa danh lịch sử gắn với nhiều đau thương mất mát của chiến tranh, gắn với những mốc son không thể xóa nhòa. Nói đến Hà Nội, người dân Hà Nội, luôn có những hình ảnh đẹp đẽ trong mắt mỗi người dân Việt Nam. Những địa danh, những hình ảnh, những địa điểm tại đất Thăng Long ai ai cũng muốn tham quan, được đi đến. Trong đó có Hồ Gươm. Hồ Gươm không chỉ là danh lam thắng cảnh đẹp của Hà Nội, nó còn là di tích lịch sử của nước ta. Trước hết, Hồ Gươm được gắn với truyền thuyết Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn cùng thần kim quy đã giúp nước ta thoát khỏi ách đô hộ của giặc Minh xâm lược. Sự tích trả gươm rùa thần của Lê Lợi đã làm nên cái tên "Hồ Gươm" hay "Hồ Hoàn Kiếm" ngày nay thay cho tên "Hồ Lục Thủy" ngày xưa. Trên hồ có hai hòn đảo: đảo Ngọc và đảo Rùa. Đầu thế kỷ 19, người ta dựng một ngôi chùa trên đảo Ngọc gọi là chùa Ngọc Sơn. Ít lâu sau chùa không thờ Phật mà thờ thánh Văn Xương và Trần Hưng Đạo nên đổi tên thành Đền Ngọc Sơn. Năm 1864, trên gò Ngọc bội đối diện với đảo Ngọc, Tháp Bút được xây dựng. Hồ Gươm là hồ nước ngọt tự nhiên của Hà Nội. Với diện tích 12 ha, nước hồ quanh năm xanh ngắt. Hồ có vị trí kết nối giữa khu phố cổ gồm các phố: Hàng Ngang, Hàng Đào, Cầu Gỗ… với các khu phố Tây do người Pháp quy hoạch như: Tràng Thi, Bảo Khánh, Nhà Thờ, Đinh Tiên Hoàng, Tràng Tiền, Hàng Khay, Bà Triệu… Đến thăm Hồ Gươm, không thể không thấy hình ảnh tượng trưng của nó. Đó là tháp Rùa. Tháp Rùa được xây dựng nằm ở trung tâm hồ chịu ảnh hưởng của đặc trưng kiến trúc Pháp. Tháp hình chữ nhật, có bốn tầng. Kiến trúc từng tầng khá giống nhau. Các mặt được xây dựng đều có cửa uốn thon gọn. Tháp Rùa được coi là kiến trúc có tính chất lịch sử và thiêng liêng đối với không chỉ người dân Hà Nội mà còn là cả con người Việt Nam. Đặc biệt, đến với Hồ Gươm thì hầu như ai cũng dành chút thời gian để bước chân lên chiếc cầu Thê Húc màu son dẫn vào đền Ngọc Sơn. Sự kết hợp giữa đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm đã tạo thành một tổng thể kiến trúc Thiên – Nhân hợp nhất tạo vẻ đẹp cổ kính hài hòa cho đền và hồ, gợi nên những cảm giác chan hòa giữa con người và thiên nhiên. Ngoài ra, Hồ Gươm còn gắn liền với các địa danh khác như Tháp Bút, Đài Nghiên, Đền thờ vua Lê…. Hồ Gươm đã cùng với thời gian trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử. Biết bao đời vua trị vì đã đến đây để thực hiện những nghi thức long trọng. Cũng bởi giá trị lịch sử của nó đối với Hà Nội và cả đất nước Việt Nam, mà Hồ Gươm đã trở thành điểm đến của biết bao du khách trong và ngoài nước mỗi khi đặt chân đến Thủ đô. Không ai có thể phủ nhận giá trị kiến trúc cũng như giá trị lịch sử của Hồ Gươm. Đối với người dân Hà Nội, Hồ Gươm không chỉ là điểm đến dừng chân, ngắm cảnh hữu tình hay hóng gió. Hồ Gươm đã cùng với người dân Hà Nội trải qua biết bao thời kỳ đổi thay, chuyển mình của đất nước. Nó mang một giá trị tinh thần hết sức to lớn đối với người dân Hà Nội. Nó như một người bạn, một người tri kỉ, một chứng nhân lịch sử quan trọng của người dân Hà Nội. Cũng giống như cầu Long Biên hay bất kỳ một địa danh nào khác của Hà Nội, Hồ Gươm là dấu ấn riêng của Hà Nội mỗi khi nhớ về. Không chỉ bởi lẽ đó, Hồ Gươm còn có một vị trí địa lý hết sức quan trọng đối với Hà Nội. Nằm ở trung tâm Hà Nội lại nối các khu phố quan trọng với nhau đã khiến cho Hồ Gươm càng trở nên quan trọng đối với đất Thủ đô phồn hoa rực rỡ này. Bởi vậy mà các sự kiện quan trọng của đất nước thường được tổ chức và diễn ra tại đây. Chưa hết, do nước hồ trong xanh tạo một cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái mỗi khi hè đến. Ai cũng biết cái nóng của Hà Nội. Nhưng khi dừng chân ở bờ hồ Hoàn Kiếm, mọi cái nắng không thể làm vơi đi sự mát mẻ cũng như thoải mái nơi đây. Đây cũng là lí do vì sao, mỗi khi mùa hè đến, xung quanh Hồ Gươm thường rất đông người. Ngày nay, Hồ Gươm còn là điểm đến lí tưởng của các bạn trẻ đặc biệt là sinh viên. Bởi lẽ, ở đây tập trung rất nhiều du khách nước ngoài. Chính vì thế, các bạn sinh viên năng động ngày nay thường đến đây để nâng cao khả năng giao tiếp với người nước ngoài của bản thân mình. Tóm lại, Hồ Gươm vừa là danh lam thắng cảnh, vừa là di tích lịch sử, vừa là dấu ấn là tri kỉ của Hà Nội, người Hà Nội. Hơn hết, Hồ Gươm còn là địa điểm du lịch, nơi nghỉ ngơi vui chơi học tập của mọi người. Hãy đến với Hồ Gươm, bạn sẽ cảm nhận được tất cả những gì mà tôi nói. Hồ Gươm – một địa điểm tuyệt vời giữa lòng Hà Nội. Thuyết minh về Hồ Gươm – Bài làm 6 Hồ Gươm (Hoàn Kiếm) được coi là hòn ngọc của Thủ đô, hay như du khách nước ngoài gọi là "Lẵng hoa giữa lòng thành phố", nằm lọt giữa lòng Hà Nội. Tuy là một ngôi đền kiến trúc mới xong đền Ngọc Sơn nằm trên đảo Ngọc lại là một điển hình về không gian và tạo tác kiến trúc. Theo các nhà khoa học hồ là một đoạn sót lại của sông Hồng sau khi sông đã chuyển dòng như hiện nay. Sự việc sông nước biến thiên ấy diễn ra cách đây vài nghìn năm. Trước đây hồ có tên là Lục Thủy vì sắc nước bốn mùa xanh. Thế kỉ 15, hồ Lục Thủy đổi tên là hồ Hoàn Kiếm. Cái tên Hoàn Kiếm gắn liền với câu chuyện trả gươm cho rùa vàng của vua Lê Thái Tổ. Đảo Ngọc Sơn xưa được gọi là Tượng Nhĩ (tai voi), vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên là Ngọc Tượng, đến đời Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Tại đây đã có một ngôi đền dựng lên để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Về sau lâu ngày đền ấy sụp đổ, đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 – 1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Thuỵ Khánh và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời Lê, cung Thuỵ Khánh bị Lê Chiêu Thống phá huỷ. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai, nhân nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn. Năm Thiệu Trị thứ ba (1843), chùa lại nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam Thánh. Hội này đã bỏ gác chuông, xây lại các gian điện chính, các dãy phòng hai bên, đưa tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi tên là đền Ngọc Sơn (Văn Xương là nhân vật đời Kiến Vũ, 25 – 55 sau công nguyên bên Trung Quốc, sau khi chết được phong là thần chủ về văn chương khoa cử). Theo sách "Hà Thành linh tích cổ lục" thì ngay từ đời Lê, trên đảo Ngọc Sơn đã có đền thờ Quan Công, người nổi tiếng trung nghĩa đời Tam Quốc (Trung Quốc). Khi vua Lê và chúa Trịnh dùng hồ là nơi duyệt thuỷ quân thì đền được coi như một võ miếu. Dân Hà thành đã đem tượng Đức thánh Trần thờ phối hưởng bên cạnh Quan Công. Nhưng "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" lại cho đó là tượng Lê Lai, công thần khai quốc đời Lê đã xả thân cứu chúa. Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Trên núi Ngọc Bội cũ, ông cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông, thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là tháp Bút. Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Trên nghiên có khắc một bài minh nói về công dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. Người đời sau ca ngợi là: Nhất đài Phương Đình bút. Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành. Tên cầu Thê Húc nghĩa là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời. Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, còn gọi là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) dưới bóng cây đa cổ thụ, ở giữa một vùng cây cối um tùm, trông như từ dưới nước nhô lên. Đền chính gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất về phía Bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Tượng Văn Xương đứng, tay cầm bút được đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1m, hai bên có hai cầu thang bằng đá. Phía Nam có đình Trấn Ba (đình chắn sóng- ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng không lành mạnh trong nền văn hoá đương thời). Đình hình vuông có tám mái, mái hai tầng có 8 cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ. Các nhân vật được thờ trong đền ngoài Văn Xương Đế Quân, Lã Động Tân, Quan Vân Trường, Trần Hưng Đạo, còn thờ cả phật A Di Đà. Điều này thể hiện quan niệm Tam giáo đồng nguyên của người Việt. Sự kết hợp giữa đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm đã tạo thành một tổng thể kiến trúc Thiên – Nhân hợp nhất, tạo vẻ đẹp cổ kính, hài hoà, đăng đối cho đền và hồ, gợi nên những cảm giác chan hoà giữa con người và thiên nhiên. Đền và hồ đã trở thành những chứng tích gợi lại những kỷ niệm xưa về lịch sử dân tộc, thức tỉnh niềm tự hào, yêu nước chính đáng, cũng như tâm linh, ý thức mỗi người Việt Nam trước sự trường tồn của dân tộc. Đối với người Hà Nội, hồ Hoàn Kiếm không chỉ là một nơi hóng gió, một nơi dùng để chơi thuyền mà còn gắn liền với đời sống về nhiều phương diện: đêm giao thừa, người người nô nức du xuân quanh hồ. Xuân về, hồ là nơi gặp gỡ của thiện nam tín nữ đi lễ các đền chùa lân cận. Các đôi uyên ương trong ngày cưới tìm đến bên hồ Gươm chụp ảnh lưu niệm. Hè đến, những buổi chiều oi bức, hồ là địa điểm hóng mát lý tưởng. Ai đã từng một lần ngắm hồ từ trên cao vào đầu hạ sẽ không khỏi thảng thốt trước bức tranh đầy màu sắc và nên thơ của những cây bằng lăng tím rạng rỡ xen giữa những phượng cháy đỏ rực, cơm nguội chín vàng, những tàng cây ngả xuống, vòng tay ôm lấy mặt nước hồ biếc xanh màu ngọc. Mùa thu, hồ Hoàn Kiếm không những chỉ là một thắng cảnh đẹp với những rặng liễu rủ bên bờ, nắng vàng lấp lánh trên mặt nước mà còn là nơi nhân dân thủ đô lui tới để xem pháo hoa nhân những ngày hội lớn của dân tộc như 19/8 và 2/9. Những di tích lịch sử độc đáo: tháp Rùa, tượng vua Lý Thái Tổ, đền Ngọc Sơn, đài Nghiên, tháp Bút, đền Bà Kiệu, chùa Bà Đá… và những công trình kiến trúc hiện đại, mới được xây dựng hoặc tu tạo nhưng luôn đảm bảo kết hợp hài hoà với cảnh quan vốn có quanh hồ. Hồ Gươm với đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc và tháp Rùa lung linh bóng nước là hình ảnh của thủ đô Hà Nội trong mỗi trái tim người Việt Nam.
Thuyết minh về Hồ Gươm – Văn mẫu lớp 8
6,888
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về lăng Bác Hồ – Bài làm 1 2 Thuyết minh về lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh – Bài làm 2 Thuyết minh về lăng Bác Hồ – Bài làm 1 Chiến tranh đă di qua gần nửa thế kỉ nhưng nỗi xót thương và niềm yêu kính của mỗi người dân Việt Nam dành cho Bác Hồ – vị Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam – chưa bao giờ nguôi cạn. Nhớ đến người, nhưng dòng người hướng về lăng Bác tưởng như không bao giờ dừng lại. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và quần thể lăng gồm quảng trường Ba Đình, khu nhà sàn, vườn cây,… sau hai năm xây dựng, ngày 19/8/1975 đã được khánh thành. Mặt chính của lăng nhìn ra hướng đông là Quảng trường Ba Đình. Lăng gồm ba lớp với chiều cao 21,6 mét. Lớp dưới kết cấu bậc nhiều cấp, có lễ đài dành cho đoàn chủ tịch khi mít tinh. Phần giữa là kết cấu trung tâm của lăng, gồm phòng thi hài, hành lang, cầu thang lên xuống. Phần trên là mái lăng được tạo dáng cách điệu bông sen nở. Mặt chính lăng có dòng chữ “Chủ tịch Hồ Chí Minh” bằng đá hồng ngọc màu mận chín. Lăng là nơi lưu giữ thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh, người Cha già dân tộc, người đã được UNESCO tặng danh hiệu Danh nhân Văn hóa thế giới và Anh hùng giải phóng dân tộc nhân kỷ niệm 100 ngày sinh (1890 – 1990). Công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết quả lao động sáng tạo của nhiều nhà khoa học và công nhân hai nước Việt Nam – Liên Xô tỏ lòng tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh và là sản phẩm của tình hữu nghị Việt – Xô. Lăng Bác quay về hướng Đông để đón ánh mặt trời, trước cửa lăng là quảng trường Ba Đình lịch sử, nơi đây, ngày 2 tháng 9 năm 1945 đã chứng kiến những giờ phút thiêng liêng nhất của dân tộc khi Hồ Chí Minh đứng trước quốc dân đồng bào đọc "Tuyên ngôn Độc lập" công bố với thế giới nền độc lập lâu bền của dân tộc Việt Nam ta. Quảng trường Ba Đình dài 320m, rộng 100m, chia thành 240 ô cỏ xanh tươi là hình tượng những chiếc chiếu trải trên sân đình ở các làng quê Việt Nam xưa, là nơi nhân dân đến dự các buổi lễ trọng thể. Phía tây của Quảng trường là khu lưu niệm Hồ Chủ tịch. Tại đây còn có Bảo tàng Hồ Chí Minh, ngôi nhà sàn là nơi ở của Người, hồ cá, vườn cày, rặng dừa, những hàng rào dâm bụt.. Tất cả đã đi vào thơ ca Việt Nam: "Anh dẫn em vào cõi Bác xưa Vườn xoài hoa trắng nắng đu đưa Có hồ nước lặng sôi tôm cá Có bưởi cam thơm mát bóng dừa". (Tố Hữu) Trong khu vườn rộng sau Phủ Chủ tịch, có một con đường hẹp trải sỏi, hai bên trồng xoài dẫn tới một ngôi nhà sàn nhỏ nhắn bình dị, nằm giữa những vòm cây. Hàng rào dâm bụt bao quanh nhà, cổng vào kết bằng cành cây đan xen nhau. Đó là ngôi nhà Bác Hồ ở và làm việc từ ngày 17-5-1958 cho tới khi Người qua đời. Tầng dưới nhà sàn là nơi Bác thường họp với Bộ Chính trị. Tầng trên là hai phòng nhỏ, nơi Bác làm việc và phòng ngủ với những vật dụng đơn sơ giản dị. Trước nhà là ao cá Bác nuôi, bên bờ ao là các loài hoa phong lan nở quanh năm. Sau nhà là vườn quả với hàng trăm loài cây quý do các địa phương đưa về trồng, như cây vú sữa của đồng bào miền Nam gửi biếu Bác nàm 1954, bưởi Phúc Trạch, Biên Hòa, Mê Linh; cam Hải Hưng, Xuân Mai, Vần Du, Xã Đoài; quýt Hương Cần, Lý Nhân; táo Thiện Phiến, Ngọc Hồ, song mai Đông Mỹ; hồng Tiên Điền (quê hương nhà thơ Nguyễn Du). Trong vườn còn có cả những loại cây từ nước ngoài như ngàn hoa, cây bụt mọc quanh ao, cây cau vua gốc từ Caribê… Nhân dân từ mọi miền đất nước cũng như du khách quốc tế đến thủ đô Hà Nội, ai cũng muốn đến viếng lăng, thăm nhà ở của Bác và đi dạo quanh Quảng trường Ba Đình lịch sử. Nhắc đến lăng Bác, lòng người lại rưng rưng trong niềm thương nhớ: "Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dăng bảy mươi chín mùa xuân" ("Viếng lăng Bác" — Viễn Phương) Thuyết minh về lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh – Bài làm 2 Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, hay Lăng Hồ Chủ tịch, Lăng Bác, là nơi đặt thi hài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được chính thức khởi công ngày 2 tháng 9 năm 1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Người đã từng chủ trì các cuộc mít tinh lớn. Lăng được khánh thành vào ngày 29 tháng 8 năm 1975. Lăng gồm 3 lớp với chiều cao 21.6 mét, lớp dưới tạo dáng bậc thềm tam cấp, lớp giữa là kết cấu trung tâm của lăng gồm phòng thi hài và những hành lang, những cầu thang lên xuống. Quanh bốn mặt là những hàng cột vuông bằng đá hoa cương, lớp trên cùng là mái lăng hình tam cấp. Ở mặt chính có dòng chữ: "Chủ tịch Hồ Chí Minh'' bằng đá hồng màu mận chín. Lăng được xây theo kiểu kiến trúc hiện thực – xã hội chủ nghĩa, lấy nguyên bản của Lăng Lênin. Lăng được xây dựng trên nền cũ của toà lễ đài giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì các cuộc mít tinh lớn và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, nhà nước đã chính thức khởi công xây lăng vào 2 tháng 9 năm 1973. Cát được lấy từ suối Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình do người dân tộc Mường đem về: Đá cuội được chuyển từ các con suối vùng Sơn Dương, Chiên Hoá, Ngòi Thia, Tuyên Quang…; đá chọn xây lăng từ khắp các nơi: Đá Nhồi ở Thanh Hoá, đá Hoa (Chùa Thầy), đá nhỏ núi Non Nước…; nhân dân dọc dãy Trường Sơn còn gửi ra 16 loại gỗ quí. Các loài cây từ khắp các miền được mang về đây như: Cây chò nâu ở Đền Hùng, hoa ban ở Điện Biên – Lai Châu, tre từ Cao Bằng… Thanh thiếu niên còn tổ chức buổi tham gia lao động trong việc mài đá, nhổ cỏ, trồng cây. Hệ thống điện phục vụ chiếu sáng, thiết kế xây lăng và bảo quản thi hài Hồ Chí Minh do các chuyên gia Liên Xô đảm nhiệm. Trên đỉnh lăng là hàng chữ "Chủ tịch Hồ Chí Minh" ghép bằng đá ngọc màu đỏ thầm. Cửa lăng làm từ các cây gỗ quý từ Tây Nguyên. Tiền sảnh có dòng chữ "Không có gì quý hơn Độc lập Tự do" và chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh được dát bằng vàng. Hai bên cửa là hai cây hoa đại. Phía trước và phía sau lăng trồng 79 cây hoa vạn tuế tượng trưng cho 79 năm trong cuộc đời của Hồ Chù tịch. Hai bên phía nam và bắc của lăng là hai rặng tre, loại cây biểu tượng cho nước Việt Nam. Trước cửa lăng luôn có hai chiến sĩ canh vệ đứng gác. Chính giữa lăng là thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt trong hòm kính khung bảng gỗ quý điêu khắc hoa văn các đám mây, đặt trên một bục đá. Qua lớp kính trong suốt, thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bộ quần áo ka ki, dưới chân có đặt một đôi dép cao su. Lăng có hình vuông, mỗi cạnh 30m, cửa quay sang phía Đông, hai phía Nam và Bắc có hai lễ đài dài 65m dành cho khách trong những dịp lễ lớn. Trước lăng là Quảng trường Ba Đình với một đường dành cho lễ diễu binh, duyệt binh, và một thảm cỏ dài 380m chia thành 240 ô vuông cỏ xanh tươi suốt bốn mùa. Trước mặt lăng là cột cờ, lá Quốc kỳ được kéo lên vào lúc 6 giờ sáng và hạ xuống lúc 9 giờ tối hàng ngày. Thẳng tiếp qua sân cỏ là đường Bắc Sơn, có trồng hoa hồng đỏ và hoa đào. Tận cùng đường Bắc Sơn là tượng đài Liệt Sỹ. Bên phía tây của quảng trường là khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại đây có Viện bảo tàng Hồ Chí Minh, ngôi nhà sàn nơi Người từng sống và làm việc. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh thường có nhiều đoàn khách ở các tỉnh thành phố và nước ngoài đến thăm viếng. Mỗi tuần có hơn 15.000 người đến viếng thăm Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Rất nhiều cá nhân và đoàn thể đến viếng lăng vào các ngày lễ, các ngày kỷ niệm quan trọng cửa đất nước. Chúng ta có thể cảm nhận được không khí trang nghiêm ở đây và cả sự tồn kính của nhân dân đối với Người khi vào lăng viếng Bác. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh mở cửa 5 ngày một tuần, vào các buổi sáng thứ ba, thứ Tư, thứ Năm, thứ Bảy và Chủ nhật. Mùa nóng từ (1 – 4 đến 31 – 10): Từ 7h30 đến 10h30; mùa lạnh (từ 1 – 11 đến 31 – 3 năm sau): Từ 8h00 đến 11h00; ngày lễ, thứ Bảy, Chủ nhật mở cửa thêm 30 phút. Hàng năm Lăng đóng cửa để làm nhiệm vụ tu bổ định kỳ vào 2 tháng: Tháng 10 và tháng 11. Khách viếng thăm phải tuân theo những yêu cầu như ăn mặc chỉnh tề, không đem máy ảnh, tẳt máy điện thoại di động, các chất gây cháy nổ… để đảm bảo công tác an ninh và giữ trật tự trong lăng. Vào thăm Bác trong lăng, trong lòng luôn chan chứa biết bao cảm xúc. Là con cháu Việt Nam, chúng ta hãy học tập thật tốt để mai sau gìn giữ và phát triển đất nước, xứng đáng là "Cháu ngoan Bác Hồ".
Thuyết minh về lăng Bác Hồ
1,763
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về lễ hội chọi trâu – Thuyết minh về lễ hội chọi trâu Đồ Sơn-Hải Phòng 2 Thuyết minh về lễ hội chọi trâu – Thuyết minh về lễ hội chọi trâu Đồ Sơn-Hải Phòng (Bài 2) 3 Thuyết minh về lễ hội chọi trâu – Thuyết minh về lễ hội chọi trâu Hải Lựu – Vĩnh Phúc Thuyết minh về lễ hội chọi trâu – Thuyết minh về lễ hội chọi trâu Đồ Sơn-Hải Phòng Dù ai buôn đâu bán đâu, Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về, Dù ai buôn bán trăm nghề, Mồng chín tháng tám thì về chọi trâu” Lễ hội chọi trâu có từ bao giờ và bắt đầu từ đâu thì không ai biết, nhưng những truyền thuyết về lễ hội này thì có rất nhiều, mỗi truyền thuyết đều gắn với một sự tích kỳ bí khác nhau nhưng tất cả đều khẳng định: Hội chọi trâu là mỹ tục hào hùng mang đậm tính thượng võ, tính táo bạo và lòng quả cảm rất độc đáo của người Đồ Sơn. Để có những ngày hội náo nức, người dân Đồ Sơn phải chuẩn bị rất công phu trong khoảng 8 tháng trời. Theo người dân Đồ sơn thì điều quan trọng bậc nhất là việc tìm và nuôi dưỡng trâu. thông thường, sau Tết Nguyên đán, các sới chọi đều cử người có nhiều kinh nghiệm đi khắp nơi để mua trâu, có khi họ phải lặn lội hàng tháng trời vào các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định, Thái Bình, thậm chí lên tận tuyên Quang, Bắc Cạn… mới tìm được con trâu vừa ý. Qua nhiều năm lặn lội tìm mua trâu, người Đồ Sơn nhận thấy rằng, những con trâu mua được ở chợ Gồi (Nam Định), Thủy Nguyên(Hải Phòng), Thanh Hà (Hải Dương) thường “giật” giải nhiều hơn. bởi thế, cứ sau Tết âm lịch hằng năm, người Đồ Sơn lại đổ xô đến những địa phương trên lùng mua trâu. Một chủ trâu có nhiều năm kinh nghiệm cho biết: “chọn trâu là một công việc cầu kỳ và tỷ mỉ, trâu đủ tiêu chuẩn phải là những con trâu đực khỏe mạnh, có khả năng chống chịu được đòn của đối phương(nghĩa là phải gan lỳ). Thông thường, những chú trâu da đồng, lông móc,một khoang bốn khoáy, hàm đen, tóc tráp (lông trên đầu cứng, dày để tránh nắng)… là trâu gan. Trâu phải có ức rộng, cổ tròn dài và hơi thu nhỏ về phía đầu, lưng càng dày, càng phẳng càng tốt. Háng trâu phải rộng nhưng thu nhỏ về phía hậu càng nhọn càng quý. Sừng trâu phải đen như mun, đầu sừng vênh lên như hai cánh cung, giữa hai sừng có túm tóc hình chóp trên đỉnh đầu là khoáy tròn. Mắt trâu phải đen, tròng đỏ. mặt trâu giống mặt ngựa là trâu chọi hay…”. Việc chọn mua trâu đã khó khăn, việc chăm sóc, huấn luyện trâu càng khó khăn gấp bội. Những người được giao nhiệm vụ chăm sóc huấn luyện trâu thường là những người có nhiều kinh nghiệm. trâu chọi được nuôi ở chuồng riêng, tách biệt và kín đáo. Điều đặc biệt là không được để cho trâu chọi trông thấy trâu nhà cốt để trâu chọi khôi phục bản năng hoang dã, đơn độc của nó. Trường huấn luyện trâu thường là những bãi đất rộng, có nhiều người đứng xung quanh gõ chiêng trống và hò hét. Khi huấn luyện, người ta còn phủ cờ đỏ lên đầu trâu,mình trâu để cho trâu quen dần với không khí của ngày hội. Người huấn luyện còn dạy cho trâu có những miếng đánh hay, đòn hiểm và độc đáo.Sau khi huấn luyện, trâu nào được chọn làm trâu chọi sẽ được gọi một cách tôn kính là “ông trâu”. Trâu nào đoạt giải nhất, được tôn lên thành “cụ trâu”. Ở Đồ Sơn, phường nào cũng có người mê trâu chọi, có kinh nghiệm tìm mua trâu, chăm sóc, huấn luyện trâu chọi, những người này được coi là nghệ nhân. Trong ngày lễ hội, tên của họ được nhắc đến với tư cách là chủ của “ông trâu”… Mở đầu hội chọi trâu là lễ tế thần Điểm Tước (vị thuỷ thần, và cũng là Thành hoàng làng của cả vùng Đồ Sơn). Lễ tế thần ngày hội chọi trâu là lễ lớn nhất trong năm của người Đồ Sơn. Thời gian gần đây, những thủ tục của phần lễ ngày càng bị xem nhẹ, đơn giản hóa. tuy nhiên, phần hội chọi trâu luôn có sức hấp dẫn lạ kỳ thu hút đông đảo du khách bốn phương đến cổ vũ. Vào hội, ai cũng náo nức, hồi hộp, chờ đợi… Từ hai phía của sới chọi, “ông trâu” được dẫn ra có người che lọng và múa cờ hai bên. Khi hai “ông trâu” cách nhau 20m, người dắt nhanh chóng rút”sẹo” cho trâu rồi khẩn trương thoát ra ngoài sới chọi. Hai trâu lao vào nhau với tốc độ khủng khiếp, hai đôi sừng đập vào nhau kêu chan chát… Cứ thế, hai trâu chọi nhau quyết liệt giữa tiếng hò reo vang dậy của hàng ngàn khán giả. Kết thúc hội chọi trâu là một cuộc rước giải trâu nhất về đình làm lễ tế thần. Cuộc rước này phải có tất cả mọi người dân đồ Sơn (cả chủ trâu thua cuộc) biểu thị sự đoàn kết, vô tư, cùng đồng lòng mừng ngày vui chung. Trâu nhất hàng tổng được phần thưởng là một lá cờ vóc hồng thêu hai chữ “Thượng Đẳng” bằng kim tuyến, một bát hương bằng đá xanh đem theo đám rước trở về. Theo tập tục của địa phương, các trâu tham gia chọi,dù thắng, dù thua, đều phải giết thịt, dân Đồ Sơn lấy một bát tiết cùng một ít lông của trâu (mao huyết) để cúng thần, sau đó đổ xuống ao để tiễn thần… Du khách đến dự lễ hội có thể mua thịt trâu về ăn để cầu may và chúc phúc… Với những nét văn hóa truyền thống độc đáo vốn có, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn đã trở thành một sản phẩm du lịch độc đáo thu hút du khách bốn phương đến với Hải Phòng. Năm 2000, Lễ hội chọi trâu đồ sơn được Nhà nước công nhận là một trong 15 lễ hội lớn của cả nước. Thuyết minh về lễ hội chọi trâu – Thuyết minh về lễ hội chọi trâu Đồ Sơn-Hải Phòng (Bài 2) Theo truyền thuyết và thần tích thì lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn là lễ hội cầu thịnh vượng và hạnh phúc cho người dân địa phương có từ thế kỉ thứ XVIII. Một vùng đất gồm những cư dân nhiều nơi về đây khẩn hoang, sinh cơ lập nghiệp. Lễ hội chọi trâu nhằm tôn vinh Thuỷ thần, diễn ra vào ngày 9 tháng 8 âm lịch hàng năm, tại thị xã Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. Để có những con trâu vào cuộc đấu giành thứ bậc cao (trận chung kết) trong ngày chính hội (9/8 âm lịch), vòng đấu loại phải thực hiện trước đó (tháng 6 âm lịch). Theo tục lệ, ba làng Đồ Sơn, Đồ Hải và Ngọc Xuyên đều có trâu tham gia trận chung kết. Lệ căn cứ vào "suất đinh" trong số 18 giáp ở ba làng để chọn ra số trâu được thi đấu vòng cuối của mỗi làng. Ngày hội chính, nhiều người dân từ Trà cổ (Quảng Ninh) cũng đi thuyền kéo nhau về dự hội, vì Đồ Sơn là đất tổ của họ (Trà cổ có tổ Đồ Sơn). Người dân khắp nơi trong thành phố và nhiều tỉnh thành ở xa tấp nập tới dự hội: Dù ai buôn đâu bán đâu Mồng chín tháng Tám chọi trâu thì về Dù ai buôn bán trăm nghề Mồng chín tháng Tám thì về chọi trâu. Thời gian mở hội đã là bài ca truyền tụng từ lâu đời trong dân gian. Chọi trâu Đồ Sơn diễn ra trong một buổi, ít khi kéo dài tới một ngày! Cuộc đấu có khi chỉ trong khoảnh khắc là quyết định. Khâu chuẩn bị cho giờ phút giao đấu quyết liệt ấy lại rất công phu và vô cùng thận trọng, vì đây là "Sự thần". Địa điểm mở hội là đình tổng Đồ Sơn. Cờ hội giăng giăng trước cửa đình. Cọc phân định mốc giới sới chọi đã được căng dây trên bãi đất rộng chừng 20.000m2. Khán đài dành cho các quan khách được dựng lên và trang trí lộng lẫy. Hai bên sới chọi có dựng các chuồng cho trâu chờ xuất trận. Hai lá cờ hội lớn được cắm ở hai đầu sới. Các trâu chọi của các làng vào Xào Xá. Người rước trâu thần phải tắm rửa sạch sẽ sáo cho thật thanh khiết, mặc áo dài, thắt lưng đỏ; đội nón lá dứa. Trâu thần cũng được trang trí, lưng trùm vải đỏ, sừng buộc những dải lụa điều. Lễ dâng hương mở hội bắt đầu ở đền Nghè thuộc phường Vạn Ninh. Sau đó là lễ rước kiệu bát cống, long đình cờ thần bay phấp phới, rộn rã trong tiếng nhạc bát âm dẫn trâu đi trình thành hoàng làng. Điệu múa khai hội được 24 tráng niên Đồ Sơn chia thành hai hàng trình diễn vừa uyển chuyển, vừa mạnh mẽ. Màu sắc biến hóa linh hoạt và huyền ảo. Tay vung cờ, chân tiến lùi trong tiếng trống trận. Những lá cờ vung lên quật xuống mạnh mẽ, dứt khoát, nhịp nhàng. Có lúc cờ phất tròn như dải lụa quấn lấy thân người. Múa cờ dàn theo hình thế trận, bên tả, bên hữu, lúc như đan chéo vào nhau như hai đội quân đang giao chiến. Hội chọi trâu là một ngày hội gắn với tục thờ cúng thuỷ thần và tục hiến sinh; nhưng bên cạnh những tập tục đó là tinh thần thượng võ của người dân Đồ Sơn, Hải Phòng. Thuyết minh về lễ hội chọi trâu – Thuyết minh về lễ hội chọi trâu Hải Lựu – Vĩnh Phúc Dù ai đi đâu làm đâu Tháng Giêng mười bảy chọi trâu thì về. Dù ai buôn bán trăm nghề Tháng Giêng mười bảy nhớ về chọi trâu. Đó là câu ca dao về Lễ hội Chọi trâu diễn ra hằng năm vào hai ngày 16 và 17 tháng Giêng tại xã Hải Lựu- huyện Sông Lô (Lập Thạch cũ)- tỉnh Vĩnh Phúc. Có lẽ câu ca lục bát này là "anh em" với câu : " Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba. Ai về Phú Thọ cùng ta/ Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười." ? và nó cũng "hao hao" với câu ca của người dân Đồ Sơn – Hải Phòng : "Dù ai buôn đâu bán đâu/ Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về. Dù ai bận rộn trăm nghề/ Mồng chín tháng tám thì về chọi trâu" nhưng có một điều dễ nhận thấy là các câu ca dao đều vần vè dễ nhớ dễ thuộc. Và nội dung luôn vẫy gọi những người con quê hương dù "đi đâu làm đâu" cũng nhớ về quê nhà với những đặc trưng là các lễ hội mang màu sắc của nền văn minh nông nghiệp. Từ thông tin về nguồn gốc thì Lễ hội chọi trâu Hải Lựu có lẽ là lễ hội lâu đời có trước cả lễ hội chọi trâu Đồ Sơn – Hải Phòng vốn được nhiều người biết đến. Truyền thuyết cho rằng: Vào thế kỉ thứ 2 trước Công nguyên (cách ngày nay khoảng 2200 năm) giặc Hán ở phương Bắc lúc đó đem quân đi xâm chiếm lãnh thổ Nam Việt của nhà Triệu. Nước Việt tan giã nhưng tướng Lữ Gia đã cho quân lui về vùng đất trung du Hải Lựu – Vĩnh Phúc để kháng chiến. Trước mỗi trận đánh và khi thắng trận ông đều tổ chức chọi trâu để khích lệ tinh thần quân sĩ sau đó trâu được giết thịt để khao quân. Để tưởng nhớ ông dân làng vùng Hải Lựu tôn thờ ông thành Thành hoàng làng và duy trì lễ hội chọi trâu này. Trải qua thời gian lễ hội chọi trâu Hải Lựu tạm thời bị gián đoạn từ năm 1947 (Thời kì diễn ra cuộc kháng chiến chống Pháp trong đó có chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947 diễn ra dọc sông Lô thuộc Khoan Bộ – Phương Khoan- Sông Lô – Vĩnh Phúc) đến năm 2002 lễ hội được khôi phục. Theo một câu chuyện khác vào một buổi sáng dân làng thấy có hai con trâu trắng đánh nhau rồi chạy xuống sông Lô và biến mất. Từ đó chỗ trâu chạy xuống gọi là bến Ảnh làng đó gọi là làng Bạch Ngưu (trâu trắng). Tuy nhiên cách lí giải của truyền thuyết đầu tiên đáng tin cậy hơn. Lễ hội chọi trâu Hải Lựu cũng giống như nhiều lễ hội khác nó đều bắt nguồn từ một "tích" nào đó như thế. Ở Đồ Sơn – Hải Phòng lễ hội Chọi trâu được thực hiện từ năm 1989 đến nay đã hơn hai mươi năm. Ở Hải Lựu lễ hội mới được khôi phục được gần chục năm. So về độ "nổi tiếng" thì chọi trâu Đồ Sơn được nhiều người biết đến hơn qui mô cũng lớn hơn…Cũng vì có thời gian gấp đôi tổ chức lễ hội nên lễ hội chọi trâu nên chọi trâu Đồ Sơn có nhiều kinh nghiệm tổ chức. Nhân dân Hải Lựu đã từng đến Đồ Sơn học hỏi về những kinh nghiệm đó. Trâu chọi được nhân dân Hải Lựu tuyển lựa hàng năm từ các vùng xuôi như Thái Bình Nam Định Hà Nam…đến vùng ngược như Tuyên Quang Hà Giang Yên Bái Sơn La Lai Châu…Đó là những chú trâu khỏe mạnh vạm vỡ dai sức….với những đặc điểm như lông móc da trê mắt đỏ mình trường móng hến đuôi bẹ dừa sừng khum…Giá của các chú trâu được thường từ hàng chục triệu đồng trở lên. Trâu chọi được nuôi dưỡng với một chế độ đặc biệt. Những gia đình nhóm người được nuôi trâu phải là những gia đình gương mẫu hòa thuận biết làm ăn kinh tế…Trâu được ăn ngô cám khoai cỏ…Ngoài ra còn có thể còn được uống bia và thuốc bổ. Các chú trâu không được gần gũi con cái được tập thể dục hàng ngày được làm quen với tiếng trống thanh la tiếng hò reo …để không bị hốt hoảng khi ra xới chọi. Chú trâu được coi như một thành viên trong gia đình dòng tộc cộng đồng….Có chủ trâu đã khóc khi trâu bị giết thịt dù biết rằng "ông Cầu" sẽ phải hóa kiếp. Điều đó phần nào chứng tỏ họ yêu quí "ông Cầu" của mình như thế nào. Và trong xới chọi các "ông Cầu" cũng "nghe lời" chủ trâu hơn người khác. Dù cho lễ hội ở mỗi nơi có những đặc điểm riêng (như Đồ Sơn – HP Phù Ninh – Phú Thọ…) nhưng đều có một điểm chung dễ nhận thấy: Lễ hội chọi trâu thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc. Và đó cũng là dịp để nhân dân được vui chơi giải trí. Chọi trâu Hải Lựu cũng có hai phần như tên gọi. Phần Lễ có đoàn đại diện sang đền Hùng (Lâm Thao- Phú Thọ) cúng lễ chay. Ngày 15 có phần lễ Thành hoàng làng trong đài Vọng tưởng niệm trong đó có phần trình diễn nghi lễ của các "ông Cầu" (trâu chọi). Ngày 16 có lễ mặn thịt trâu. Cả ngày 16 và sáng ngày 17 là phần Hội diễn ra cuộc giao tranh giữa các cặp trâu. Trận đấu diễn ra trong một xới chọi hình bán nguyệt. Xới được bảo vệ bởi hai vòng tròn bằng rào gỗ có đường kính từ 15-30cm cao trên 2m. Ở hai phía đông tây được bố trí hai cửa "đông tây". Cửa "đông" để dẫn trâu vào xới cửa "tây" là nơi trâu thua chạy ra. Trâu chọi khi thua trận thường chạy vòng quanh xới đến khi tìm được cửa thoát thì chạy ra ngoài cửa "tây". Ngoài cửa này có một cái ao sâu để ngăn các "ông Cầu" truy đuổi nhau quá xa tạo sự dễ dàng cho việc bắt giữ cho các chủ trâu và người trợ giúp. Có năm trâu đuổi nhau quá "máu" ra ngoài cánh đồng làng làm cho các chủ trâu phải "tướt bơ" mới bắt giữ được. Mỗi trận đấu của các "ông Cầu" thường diễn ra từ 10 -20 phút. Cũng có khi mới vào xới có đối thủ đã bỏ chạy. Nhưng cũng có khi trận đấu diễn ra hàng giờ hoặc các "ông Cầu" không chọi mà ngửi nhau nằm ra xới đằm nước …buộc các trọng tài phải phân thắng bại bằng bốc thăm may rủi. "Ngưu quyền" là từ để chỉ các thế đánh miếng đánh của các "ông Cầu" như: trực diện lắc móc cáng ngáng kẹp hất…Miếng đánh trực diện là miếng đánh khi vào xới "ông Cầu" dùng hết sức bình sinh đâm thẳng đầu mình vào đối thủ. Khi hai đầu chạm nhau nghe tiếng "chát" khô khốc kinh khủng. Có đối thủ đã bị đo ván ngay sau đó nếu như không lắc mình né đòn hay là không chủ động chống đỡ. Năm 2008? đã có "ông Cầu" bị vỡ sọ bất đắc kì tử phải đưa ra ngoài bằng máy cẩu. Miếng này thường làm thế đánh bổ trợ để miếng đánh kẹp hất diễn ra. Các "ông Cầu" dùng sức mạnh nhất là đôi sừng húc mạnh làm đối thủ ngã ngửa hay bị kẹp vào bờ rào…lúc đó đôi sừng và đầu sẽ chọn các nách bụng…của đối thủ để tấn công. Có khi bị đánh có "ông Cầu" không gượng dậy được vì bị tấn công liên tiếp…Miếng đánh cáng ngáng là miếng đánh dùng sức mạnh của cổ và sự lợi hại của cặp sừng các "ông Cầu" hạ đầu thấp xuống rồi hất ngược lên nhằm cổ mắt hầu đầu…đối thủ mà tấn công. Miếng đánh này dễ làm đối thủ bị "khóa" nếu như bị móc mắt móc hầu…và "bị điều khiển". Kết quả thường là chảy máu sức tấn công bị hạn chế nhiều…Miếng đánh lắc móc cũng có phần "giống giống" miếng cáng ngáng nhưng các "ông Cầu" thường uy hiếp đối phương bằng sự lì lợm của mình. Với đôi mắt đỏ sục sôi thân hình khỏe mạnh các "ông Cầu" tấn công đối thủ liên tiếp vào đầu vào tai mắt …của đối thủ.v.v… Dù thắng hay thua thì tất cả các "ông Cầu" đều bị luồn một đoạn dây điện tuốt trần vào mũi sau đó cắm vào ổ điện và …sập cầu dao. Ông Cầu nặng hàng tạ đổ xuống như trái núi nghe đánh "ụp" giãy đành đạnh và bị cắt tiết.(có vẻ dã man?) Với giá bán từ 500-700k/1kg cao gấp 2 đến 4 lần so với giá từ 120-200k/1kg thì mỗi chủ trâu vẫn lãi hàng chục triệu đồng sau khi trừ chi phí. Đó là giá cả năm Tân Mão 2011. Năm 2011 có 26 trâu chia làm 13 cặp. Chủ trâu số 15 Đỗ Duy Hạnh giành giải nhất với số tiền thưởng 30 triệu đồng và cúp vô địch của năm. Ngoài số tiền này với mỗi kg thịt trâu của "thương hiệu" trâu giải nhất từ 700k đến 2 triệu đồng/1 kg gia đình chủ trâu có thể lãi hàng trăm triệu đồng. Con trâu là hình ảnh quen thuộc của người dân Việt nhất là người nông dân. Con trâu đã đi vào ca dao một cách thân thiết và gần gũi (Trâu ơi ta bảo trâu này/ Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta. /Cấy cày công việc nông gia/ Ta đây trâu đấy ai mà quản công./ Bao giờ cây lúa còn bông/ Thời còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn) vào tục ngữ (Trâu chậm uống nước đục/ Chậm như trâu/ Ngu như trâu/ Khỏe như trâu/ Ăn trâu uống bò/To như trâu…). Hình ảnh con trâu còn trở thành biểu tượng cho nền văn hóa văn minh lúa nước mà Trâu vàng Seagames do VN đăng cai năm 2003 là một ví dụ. Con trâu đi vào nghệ thuật như thơ ca (Ai thổi sáo gọi trâu đâu đó/ Chiều in nghiêng trên mảng núi xa/ Con trâu trắng dẫn đàn lên núi/ Vểnh đôi tai nghe tiếng sáo trở về..) trong hội họa mà bức tranh "Chăn trâu thổi sáo" của làng tranh Đông Hồ (Bắc Ninh) đã trở nên nổi tiếng với hình ảnh cậu bé ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo trong cảnh thanh bình nơi làng quê. Những ai xuất thân nông thôn hẳn hình ảnh con trâu đã trở nên gần gũi nó đặc trưng cho hồn quê mà dù có "đi đâu làm đâu" cũng nhớ về.
Thuyết minh về lễ hội chọi trâu – Văn mẫu lớp 9
3,539
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về món bánh xèo Nam Bộ – Bài làm 1 2 Thuyết minh về món bánh xèo Nam Bộ – Bài làm 2 3 Thuyết minh về món bánh xèo Nam Bộ – Bài làm 3 4 Thuyết minh về món bánh xèo Nam Bộ – Dàn ý Thuyết minh về món bánh xèo Nam Bộ – Bài làm 1 Bánh xèo có từ rất lâu, không biết nó xuất xứ từ đâu, nhưng bánh xeo hiện nay có mặc ở rất nhiều nơi trên đất nước và ở thế giới nữa. Bánh xèo là một món ăn dân dã, bình dị nhưng bánh xèo nó mang một cái gì đó rất riêng cho dân tộc ta. Bánh xèo thường hay được mọi người làm bán vào mùa mưa, có lẽ nó ăn rất ấm bụng nên mọi ngoài rất thích. Bánh xèo có nhiều vùng làm khác nhau. Ở miền tây thì bánh xèo được làm rất to, miền trung thì vừa và miền bắc thì hơi nhỏ một tí. Mỗi nơi chọn nguyên liệu giống nhau đều là bọt gạo nhưng nhưn và gia vị thì khác nhau. Gia vị nó tượng trưng cho mỗi vùng miền. Nhưng có vùng thì làm bàng tôm thịt bò, thịt heo nạc… có vùng thì làm nấm và giá công với một tí thịt rất ngon. ở mỗi vùng với mỗi gia vị nó tượng trưng tính vung miền và thể hiện được những nét đặc sắc văn hóa của họ. Phải chăng đó là cái sở thích của mỗi vùng không phải mà nó chính là nền văn hóa lịch sữ của họ. Để làm được một chiếc bánh xèo không phải đơn giản tí nào, đó là cả một nghệ thuật. Cách gia bột, trộn bột rất quan trọng nó có thể làm bánh ngon hay dỡ thế nào đều phụ thuộc vào nó. Ta có thể dùng thêm các nguyên liệu khác như nước côt dừ để lấy khuấy bột. Nước dừa này dùng để pha bột nhằm làm tăng độ béo cho bánh. Ta cho khoảng 1 lít nước ấm vào 0,5 kg dừa khô đã nạo, nhào trộn và vắt, lược lấy phần nước cốt để riêng, sau đó cho thêm nước vào phần xác dừa, tiếp tục vắt lấy nước nhì và nước ba. Bước tiếp theo ta khuấy đều bột gạo với một ít nước ấm và tất cả nước dừa ở trên, cho thêm hành lá xắt nhuyễn và bột nghệ để tạo màu vàng đặc trưng cho bánh. Bổ sung thêm gia vị như muối, đường, bột ngọt. Cũng có thể cho thêm trứng gà đã đánh nhuyễn vào bột để bánh dòn và nở hơn hay bổ sung bột mì để tăng độ dòn của bánh. Nhưn thì tùy theo sở thích của mỗi người. tôm bóc vỏ để ráo, thịt thái mỏng và ướt gia vị. Sau đó ta sào sơ qua cho thịt và tôm săn lại, vừa chín tới. bên cạnh đó ta có thể cho thêm giá, nấm rửa để ráo. Tí khi làm bánh, ta cho cho vào lên trên bột. Ăn kèm với bánh gồm có rau sống và nước chấm. Hai món ăn kèm này cũng phải chuẩn bị chu đáo qua việc sơ chế nó. Nước chấm thì ta cho tỏi tươi và ớt được bằm thật nhuyễn, cho vào nước ấm. Thêm đường, nước chanh (hay giấm) và khuấy đều, sau đó cho từ từ nước mắm vào, nêm nếm vừa ăn. Nước chấm ngon cho bánh xèo phải có vị mặn vừa phải của nước mắm hài hòa với vị chua của chanh và vị ngọt của đường. Rau sống gồm có nhiều loại và tùy sử thích của tùng người, mà ta nen chọn các loại rau sau: xà lách, rau thơm, diếp cá, cải xanh, lá lốt, đọt bằng lăng, đọt xoài, sôi nhái. Rau phải được rửa sạch, để ráo và xếp ra mâm. Rau nên ngâm trong nước có muối với nồng độ loãng và ngâm trong thời gian ngắn khoảng 3-5 phút để hạn chế các nguy cơ vi sinh vật. Cách đổ cũng không khó. Ta chỉ cần bắt chảo nóng, cho dàu vào sôi lên ta cho bột vào vào cho nhưn cộng với tí giá và nấm vào úp vung lại để khoảng 2 3 phút ta lấy ra và làm tiếp cá khác. Nếu muốn bánh giòn hơn thì ta để khoảng 5 phút và lấy ra. Cái quan trọng để có chiếc bánh xèo ngon đó là nguyên liệu và cách pha bột. Thế là ta đã có một chiếc bánh xèo thơm ngon và bổ dưỡng. hi vọng mọi người ai cũng thích nó. Thuyết minh về món bánh xèo Nam Bộ – Bài làm 2 Trong các món bánh mặn của Nam bộ, bánh xèo là món phổ biến, được người ăn ưa thích nhất. Ăn bánh xèo có đông người mới vui. vì khi làm bánh phải qua nhiều công đoạn nên cần nhiều người. Người ta phân công nhau bằng những câu vè vui vẻ như: “Người nào xấu xấu xay bột, lật hành. Người nào lanh lanh băm nhân, dò bánh…" Muốn cho bánh ngon pháả chịu khó, chịu cực một chút. Bột bánh là phân quan trọng nhất, bánh cỏ ngon hay không là ở khâu này. Dân nông thôn không chịu loại bột gạo vô bịch sẵn, bày bán ơ chợ vì đó là gạo dơ. ngâm nước cho bã ra. te nhiêu nước rồi gạn lấy bột nên chất bột bị chua và lạt, không còn bổ dưỡng , thơm ngon. Muốn cho bột bánh xèo ngon phải là loại gạo thơm, gạo mới, ngâm trong một buổi hoặc một đêm rồi đem xay nhuyễn. Ngày nay có bột bánh xèo pha chế sẵn cũng tiện dụng nhưng phải trộn thêm theo công thức, một bịch bột bánh xèo pha thêm một bịch bột chiên giòn hoặc bột bắp và nước cốt dừa thì bánh mới béo giòn. Dùng bột gạo tươi thì sau khi lược bột xong, pha thêm một bịch bột chiên giòn, nước cốt dừa, đường, muối sao cho độ béo ngọt theo dung khẩu vị người ăn, bỏ thêm hành lá xắt nhỏ, bột nghệ, trứng gà đánh nhuyễn. Người Nam bộ rất thích nước cốt dừa nên pha đậm đặcc càng ngon (mà vị béo cùa nước cốt dừa không có vị béo nào sánh kịp), bánh khi chín có nước cốt dừa rất dễ lấy ra. Nhân bánh muốn ngon phải có nấm rơm, nấm hương, nấm kim chi hay nấm đông cô, tôm hoặc tép, thịt gà hay thịt vịt băm nhuyễn, giá sống và củ sắn, có người còn bỏ cá cơm dừa xắt sợi, hoặc đậu xanh nấu chín, nhưng hai loại này làm cho dễ ngán không ăn được nhiều. Nấm làm nhân bánh có thể thay đổi theo từng mùa. Mùa nấm rơm thì làm nấm rơm, không có nấm rơm thi hải nấm mèo trên các cây so đũa hoặc mùa mưa thì có bông điên điển… Rau sống và nước mắm là những thành phần quan trọng làm cho bánh thêm ngon. Rau sống phải có đủ họ tộc như: diếp cá, xà lách, tần ô, húng cây, húng lủi, quế. không được thiếu lá cách và cai bẹ xanh (loại cải thân nhỏ). Chén nước mắm nêm nếm cho đủ độ mặn, ngọt, chua, cỏ màu đỏ cua ớt. màu vàng của nước mắm, màu xanh của xoài sống bằm nhuyễn và màu đỏ trắng của dưa của cải. Khi tất cả vật liệu đã sẵn sàng thì người đổ bánh mới bắt đầu nổi lửa. Nếu lượng người ăn đông phải đổ hai chảo mới kịp đãi khách, ở miền quê, các bà nội trợ đổ bánh bằng chảo gang hay chảo bằng vỏ trái bom cắt ra, ớ thành phố có loại chảo không dính tương đối tiện lợi. Khi chảo thật nóng thì đổ thử một vài cái xem mùi vị và độ đặc lỏng của bột vừa hay chưa, sau đó mới đổ thật sự. Lấy miếng mỡ heo cắt hình vuông khoảng 3 em đảo qua chảo một lượt, bỏ tép hoặc tôm và thịt ba rọi xắt sợi nhỏ vào cháo, đảo cho đỏ lên hồng lên, tiếp đó đổ một vá hột lên chảo nghe xèo xèo rồi tráng đều cho tròn cái bánh mới khéo, lần lượt bỏ nấm, thịt gà, giá, củ sắn và đậy nắp lại. Hai phút sau, giở nắp ra, tiếp tục "dần trên lửa “ Bánh chín có màu vàng như mặt trăng rằm. Trên đó, màu đỏ của tôm, màu xanh của hành, màu nâu hoặc trắng của nấm. mùi thơm dậy của nước dừa và hột gà khiến cho chiếc bánh hấp dẫn đặc biệt. Bánh được xếp lại theo hình rẻ quạt, nóng hôi hổi trên chiếc mâm lót lá chuối hay trên chiếc đĩa sứ trang ngà. Ăn bánh xèo nên dùng tay, không cần đùa nĩa gì cả. Dùng tay để cuốn bánh cho gọn và cảm nhận được độ nóng ấm của bánh mới thấy ngon miệng. Ăn bánh nên uống với nước trà nóng hoặc với bia, rượu mới tiêu được mỡ dầu. Vừa ăn. vừa đàm đạo chuyện trò, lúc đói bụng có người dám ăn cà chục bánh, có người ăn trừ cơm cả ngày. ở Huế cùng có loại bánh tương tự nhưng bánh nhỏ hơn, độ giòn và vị béo kém hơn, có lẽ họ không thích nước cốt dừa như người Nam bộ. Thành phố Hồ Chí Minh có những con dượng bày bán bánh xèo sát ngay đại lộ Một vài địa điểm có tiếng như bánh xèo A Phủ, Đinh Công Tráng với giá từ hai chục ngàn đồng đến ba, bốn chục ngàn đồng một bánh nhưng bánh của các nơi này dùng quá nhiều thịt, mỡ nên ăn không được nhiều. Màu sắc đẹp. mùi vị hấp dẫn, chât dinh dưỡng cao. bánh xèo là món bánh độc đáo, đậm đà hương vị Nam bộ. Thuyết minh về món bánh xèo Nam Bộ – Bài làm 3 Từ lâu bánh xèo đã trở thành loại bánh mang tính đặc trưng của vùng quê Việt Nam, đặc biệt ở miền Nam và miền Trung. Hiện nay bánh xèo rất nổi tiếng ở Việt Nam và cộng đồng người Việt trên khắp thế giới. Bánh xèo là một món ăn dân dã, ra đời ở các vùng quê từ khá lâu. Không ai biết thời gian xuất hiện và thuộc miền xứ sở nào vì từ Huế trở vào phía Nam nơi nào cũng có. Cái tên gọi "bánh xèo" cũng làm người ta nghĩ suy "có phải rằng tiếng xèo xèo khi đổ làm nên tên gọi của chiếc bánh". Chiếc bánh ở từng vùng cũng khác nhau về kích cỡ và cách làm nhân: bánh xèo Huế, bánh xèo Phan Thiết thường nhỏ nhưng bánh xèo Nam Bộ lại khác hẳn, to và nhiều nhân. Nhất là ai đã về miền Tây Nam Bộ thưởng thức chiếc bánh xèo giòn rụm với đủ loại rau chắc khó thể nào quên. Bánh xèo Nam Bộ thường thì mùa nào thức nấy, ngày thường bà nội trợ hay dùng giá hoặc củ sắn thái sợi cùng thịt ba chỉ, tép bạc làm nhân. Đến mùa mưa măng mọc, nấm mối rộ trong vườn, bánh xèo được thay nhân mới bằng măng tươi thái sợi, nấm mối xào ngon tuyệt cú mèo, đến mùa nước lên điên điển đơm bông, nhân bánh lại rực một màu vàng. Ngày nay trong các nhà hàng sang trọng bánh xèo được sáng tạo nên nhiều loại nhân khác nhau: nấm kim châm, hải sản, phi lê gà…cũng hấp dẫn không kém. Với chiếc bánh xèo đầy màu sắc lẫn mùi vị đó khi ăn lại được cuốn trong các loại rau xanh và chấm với nước mắm chua ngọt, trong có để cà rốt và củ cải trắng ngâm giấm. Rau xanh đủ loại, đủ thành phần từ trong vườn, dưới ruộng và cả ven sông: đọt lụa, lá cách, lá điều, đọt xoài, đọt cóc, đinh lăng, quế nước, sà lách, cải bẹ xanh, các loại rau thơm: tía tô, quế, húng lũi, húng cây… Ðể được cái bánh xèo cho khéo là cả một nghệ thuật. Bánh có màu đặc trưng là sắc vàng của nghệ, thêm vị béo, hương thơm của nước cốt dừa, mép ngoài của bánh mỏng và giòn. Cái để lại dấu ấn cho bữa ăn bánh xèo chính là các loại lá để ăn với bánh. Từ cái vị chát chát, chua chua của đọt xoài non, bằng lăng, đến cái mùi hăng hăng của cải xanh, diếp cá, rau thơm… Vượt ra khỏi biên giới quốc gia, bánh xèo đã được mang đi giới thiệu ở rất nhiều nơi trên thế giới và đã được rất nhiều người ưa thích không chỉ ở mùi vị đặc trưng của bánh mà còn giá trị dinh dưỡng cao ở những cái bánh xèo nóng hổi. Thuyết minh về món bánh xèo Nam Bộ – Dàn ý I. Mở bài: Bánh xèo là một loại bánh Việt Nam, có bột bên ngoài, bên trong có nhân là tôm, thịt, giá đỗ, được rán màu vàng, nặn hình tròn hoặc bán nguyệt. Tuỳ theo từng địa phương tại Việt Nam mà bánh được thưởng thức với nét đặc trưng riêng. Thường có 2 phong cách : đổ bánh xèo giòn và bánh xèo dai. II. Thân bài: a) Cách làm bánh 1) Đậu xanh ngâm nước nóng ấm khoảng 1 tiếng cho bóc vỏ. Đãi vỏ sạch, hấp/luộc chín sao cho đậu vẫn còn nguyên dạng hạt, không bị bể. 2) Giá rửa sạch để ráo. Hành lá rửa sạch cắt nhỏ. 3) Tôm lột vỏ, làm sạch đường chỉ. Ướp tôm thịt với một tí xíu muối, tiêu, tỏi ép nhỏ khoảng nửa tiếng cho ngấm gia vị. 4) Cho bột gạo, bột bắp, muối, bột nghệ và nước soda vào trộn đều. Cho hành lá vào. Bỏ hỗn hợp vào tủ lạnh khoảng nửa tiếng trước khi làm. 5) Chiên bánh : – Chảo nóng, cho một ít dầu vào. Dầu nóng, cho ít lát thịt heo và vài ba con tôm vào xào chín tái, thơm. Dùng vá tròn to( loại múc canh) múc một vá hỗn hợp bột bánh xèo đổ tròn vào chảo. Vừa đổ vừa quay cán chảo cho bột chạy dàn đều một lớp mỏng khắp đáy chảo. – Rắc một ít đậu xanh đều lên bề mặt, cho giá vào phần nửa cái bánh. Đậy nắp lại, đợi khoảng 2~3 phút cho bánh chín vàng. Dùng vá dẹp bẻ gập bánh lại làm đôi. Lấy bánh ra. – Cứ thế lập lại cho đến khi hết bột và tôm thịt rau. b) Cách thưởng thức bánh – Khi ăn cuốn với rau sà lách hoặc cải cay và rau thơm, chấm với nước mắm pha chua ngọt. – Pha nước chấm bánh xèo sao cho có đủ vị ngọt-chua-cay nhưng rất nhạt, nhạt đến độ có thể húp chén mắm như canh vậy. Tham khảo cách pha nước chấm ở đây. Tuy nhiên, phải gia giảm đường-nước và nước mắm sao cho thoả điều kiện trên. Mình thường pha theo tỉ lệ gồm : 2 phần đường, 1 phần mắm và 4 phần nước. – Vị ngọt của chén nước mắm chấm bánh xèo lấy từ nước dừa tươi và đường (nếu không có dừa tươi thì dùng nước dừa tươi đóng lon/ hoặc không nữa thì phải dùng đường thay thế)- chua của chanh hoặc dấm -cay của ớt- thơm của tỏi. – Nếu không có nước dừa thì phải dùng nước nấu sôi để nguội cũng được nhưng dĩ nhiên là chất lượng sẽ thay đổi – Tại Huế, món ăn này thường được gọi là bánh khoái và thường kèm với thịt nướng, nước chấm là nước lèo gồm tương, gan, lạc. Tại miền Nam Việt Nam, bánh có cho thêm trứng và người ta ăn bánh xèo chấm nước mắm chua ngọt. Tại miền Bắc Việt Nam, nhân bánh xèo ngoài các thành phần như các nơi khác còn thêm củ đậu thái mỏng hoặc khoai môn thái sợi. Các loại rau ăn kèm với bánh xèo cũng rất đa dạng. Cầu kỳ nhất là ở các vùng miền Trung Việt Nam, ngoài rau sống, còn thêm quả vả chát, khế chua .. Bởi vậy, dân sành ăn cứ thấy ngờ ngợ như món này thực sự được bắt nguồn từ Huế. – Bánh xèo Phan Thiết khác với bánh xèo ở những nơi khác là bánh nhỏ chỉ bằng một nửa và không cuốn với rau xà lách mà ăn chung với nước mắm chín (nước mắm đã được giã với tỏi và ớt). III. Kết bài : – Bánh Xèo là một trong những món ăn rất “đậm đà” hương vị của người Việt Nam. Ngày nay, bánh Xèo đã được quảng bá ra bên ngoài không gian nước Việt. Nhiều nghệ nhân làm bánh như cụ Mười Xiềm đã đi Mỹ để thực hiện việc làm món bánh Xèo. – Ngày nay, cuộc sống xuất hiện nhiều thị hiếu ẩm thực đa dạng. Tuy nhiên, món bánh Xèo vẫn được trân trọng. Bánh Xèo vẫn ngon nhờ vào cách phối hợp dinh dưỡng, đa dạng có chất béo, đạm, chất xơ v.v… Món ngon Bánh Xèo góp phần tôn lên vẻ đẹp và tính khoa học của ẩm thực Việt Nam.
Thuyết minh về món bánh xèo Nam Bộ – Văn mẫu lớp 8
2,917
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về món canh chua cá lóc – Bài làm 1 2 Thuyết minh về món canh chua cá lóc – Bài làm 2 3 Thuyết minh về món canh chua cá lóc – Bài làm 3 4 Thuyết minh về món canh chua cá lóc – Bài làm 4 Thuyết minh về món canh chua cá lóc – Bài làm 1 Canh chua dường như đã là một món ăn đậm tính dân tộc của văn hoá ẩm thực Việt Nam từ lâu nay. Món canh tuy dân dã nhưng đầy chất Việt được phân hoá tinh tế và phong phú theo từng vùng miền đặc trưng trải dài cả nước. Ở miền Bắc thì có canh chua sấu, canh chua riêu… Miền Trung thì có canh chua khế, canh chua hến…. Còn miền Nam chắc ai cũng đã từng nghe đến canh chua cá lóc. Một món canh quen thuộc, đậm đà chất Nam Bộ. Canh chua cá lóc “đúng kiểu” của người miền Nam phải vừa có cả vị chua lẫn vị ngọt. Có vị chua nhưng không được chua quá, có vị ngọt nhưng cũng không được ngọt quá, vị chua phải là vị chủ đạo, vị ngọt vừa phải. Hai vị này hòa quyện vào nhau sẽ tạo nên một món canh có hương vị rất lạ và rất ngon. Nguyên liệu để làm món này gồm: cá lóc, cây bạc hà, cà chua, trái đậu bắp, trái thơm, giá, me, rau om, ngò gai, ớt sừng, tỏi, sả bằm. Gia vị: đường, muối, nước mắm, dầu ăn, bột ngọt. Cá lóc rửa sạch ướp với muối, bột ngọt, ớt bằm. Đậu bắp, bạc hà rửa sạch xắt xéo. Cà chua xắt múi. Thơm và ớt xắt lát. Me dầm lấy nửa chén nước,nếu là me chín thường đã tách bỏ vỏ, lấy nạc me, dùng khoảng 200g nấu với chừng một chén nước cho tan me, vớt bỏ xác và hột me. Phụ gia và các loại rau ăn kèm gồm: giá sống rửa sạch để ráo; rau ngổ hay còn gọi là rau om lặt lấy phần non, ngắt khúc ngắn 5cm rửa sạch; đậu bắp cắt bỏ cuống, cắt chéo lát mỏng; bạc hà tước vỏ, cắt xéo khúc ngắn, hành tím lột vỏ, cắt lát mỏng, phi vàng với ít dầu, đừng để hành cháy, vớt ra để ráo dầu, ít hành tươi và rau ngò gai cắt nhỏ, ít rau thơm, xà lách nhặt rửa sạch. Nước chấm cá: Tùy thích chỉ dùng nước mắm nguyên chất với ít giọt chanh và ớt tươi xắt lát hoặc làm nước mắm me: Pha phần nước mắm 3 hoặc 4 phần nước lọc, tùy độ mặn của nước mắm thêm chút đường cho có vị ngọt sau cùng cho vào từng ít một phần nạc me đã nấu hoặc xay cho hỗn hợp có thêm vị chua nhẹ, tùy thích cho thêm ớt hay không. Đun sôi nước với nước me, cho cá vào nấu chín, sau đó thêm đậu bắp, thơm, cà chua, giá, bạc hà vào. Tắt lửa, nêm nếm lại cho vừa ăn. Để làm một tô canh chua dọn trong mâm cơm các bạn chỉ cần múc canh ra tô, rắc rau om, ngò gai, ớt xắt lát và tỏi phi lên trên. Tùy thích ăn canh chua với bún, cơm. Chấm nước mắm, kèm rau sống.Trình bày trên bàn tiệc theo cách dọn lẩu để tùy thực khách dùng cá, rau… ít nhiều tùy ý. Dọn lên bàn một nồi lẩu đã trình bày như một tô canh đồng thời dọn kèm thêm đĩa trẹt đựng nước mắm mặn hoặc nước mắm me để có thể gắp cá bỏ vào đĩa, các thứ phụ gia mỗi thứ một đĩa riêng, rau sống, bún… Chuẩn bị riêng nước dùng chua và cá đã ướp, cần dùng đến đâu châm thêm nước dùng cho sôi và thả cá vào nồi lẩu cho chín. Nếu để phục vụ cho số đông thực khách không nên làm chín cá trong nướcdùng mà hấp cá đã ướp cho chín rồi để riêng, khi cần dùng thả cá đã hấp vào nước dùng sôi để làm nóng lại vì nếu làm chín cá trước với số lượng nhiều trong nước dùng, cá sẽ dễ bị bể vụn, miếng cá sẽ không còn ngon. Đồng bằng Nam Bộ vốn có nhiều các loại rau cho nên ngoài những phụ gia quen thuộc trong món canh chua cá lóc, có người thích dọn kèm một đĩa rau đủ thứ như rau đắng, bông điên điển, rau rút… ai muốn ăn loại nào cứ việc nhúng vào nồi lẩu cá sôi. Món canh chua cá lóc là sự giao hòa của màu sắc – cái sắc vàng thơm ngon của hành phi trên mặt nước, cái sắc đỏ của cà chua, màu vàng của khóm, màu xanh của bạc hà, của rau thơm, của ngò gai, rau quế, màu trắng của giá, của thịt cá v.v… bên cạnh là bát nước mắm nguyên chất vàng thơm và vài lát ớt đỏ tươi, nhìn đã thấy ngon mắt và… thèm. Phải luôn đi kèm một đĩa rau sống với những bông hoa màu vàng ươm là bông điên điển và thêm một ít rau đắng những loại rau đặc trưng cho vùng Nam Bộ. Thế nên khi thưởng thức tô canh chua, thấy sao mà ngon, sao mà đậm đà đến thế… Ăn canh chua, ngon nhất vẫn phải ăn cùng cơm trắng và món thịt kho trứng ngọt thanh vị nước dừa, món cá rô đồng kho tiêu, hay món cá bống bắt được trên sông… Hương vị quê hương dân dã thấm vào từng thớ cá, vào vị chua chua ngòn ngọt của canh… làm nức lòng người thường thức. Ăn canh chua cá lóc, nhấm nháp vị chua đặc trưng của canh hòa lẫn vị thơm thơm bùi bùi của thịt cá, vị thơm ngọt ngào của rau thơm, rau quế, vì mặn mà của nước mắm nguyên chất, vị đăng đắng của rau đắng, bông điên điển… thêm chút vị ngọt thanh nước dừa trong món thịt kho trứng, vị cay cay âm ấm của tiêu, của ớt… dường như cả quê hương Nam Bộ đang rất gần đây. Thuyết minh về món canh chua cá lóc – Bài làm 2 Nền văn hóa của dân tộc Việt Nam ta từ lâu đời đã mang tính “thực vật – sông nước”, tính “thực vật – sông nước” được thể hiện trong các mặt của đời sống con người như ăn, ở, mặc, đi lại…Về mặt ẩm thực, ta có thấy các món ăn truyền thống của dân tộc đều gắn với các loài thực vật, hải sản như “canh rau muống”, “cà dầm tương”: Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương (Ca dao) Hay như món “tép kho” cũng là một món ăn đặc trưng của dân tộc ta từ xa xưa, ngày nay tính “thực vật – sông nước” vẫn được thể hiện rõ ràng và món canh chua cá lóc cũng được xếp vào một trong những món ăn ngon của nền ẩm thực Việt thể hiện được tính chất này. Canh chua cá lóc là một món ăn vốn đã rất quen thuộc với người dân Việt Nam, đặc biệt là ở vùng miền tây Nam Bộ, món canh ngon tuyệt này có thể giúp xua tan đi mọi mệt mỏi trong những ngày hè nắng nóng và đem đến cảm giác ấm lòng vào những ngày mùa đông lạnh giá. Gọi là canh chua nhưng ngoài vị chua đặc trưng ra, món canh này có cả vị ngọt đậm đà nữa. Có rất nhiều cách để nấu được món canh chua cá lóc tuyệt ngon chỉ cần chuẩn bị đủ nguyên liệu để món canh này ngon đúng vị của nó. Nguyên liệu để nấu món này gồm: nguyên liệu nằm ngay ở tên món ăn và quan trọng nhất đó là cá lóc (1con khoảng 700 – 800g); dứa hay có nơi còn gọi là quả thơm (1 phần 4 quả); đậu bắp hay còn gọi là mướp tây (5 quả); cà chua ( 2 quả); giá đỗ (100g); dọc mùng (2 nhánh); me chua chín (50g). Rau thơm để nấu canh chua gồm hành lá, rau ngổ. Gia vị của món này gồm hành khô, tỏi, muối, hạt nêm, bột ngọt, đường, bột ớt, hạt tiêu, nước mắm và dầu ăn. Có thể thấy khâu chuẩn bị nguyên liệu cũng khá là cầu kì để có được một món ăn ngon. Khi đã xong khâu chuẩn bị, ta chuyển sang khâu sơ chế nguyên liệu. Đây là một khâu cũng rot quan trọng, nguyên liệu được sơ chế cẩn thận thì khi nấu mới ngon được. Đầu tiên ta làm sạch và băm nhuyễn hành khô và tỏi. Tiếp đó là cá lóc, ta làm sạch, thái lát, lấy dao khứa nhẹ trên mỗi lát cá để khi ướp với gia vị sẽ dễ thấm. Sau đó ướp cá với một nửa thìa hành tỏi đã được băm nhuyễn, 1 thìa hạt nêm, một nửa thìa nước mắm, nửa thìa bột ngọt, nửa thìa dầu ăn, nửa thìa hạt tiêu rồi để khoảng mười lăm đến hai mươi phút để cá ngấm gia vị. Với quả dứa và đậu bắp ta làm sạch, cắt thành lát dài. Cà chua rửa sạch bổ thành miếng nhỏ như miếng cau, dọc mùng ta tước vỏ, cắt mỏng, bóp qua với một chút muối sau đó rửa sạch và chần nhẹ qua nước sôi rồi để ráo. Đối với giá đỗ ta rửa sạch và để riêng để tránh lẫn với các nguyên liệu khác. Các loại rau thơm ta nhặt rửa sạch và thái nhỏ. Quả me chua chín ta bỏ hạt rồi ngâm nước ấm. Khi đã sơ chế xong, ta thực hiện nấu món canh chua này. Trước hết, người nấu lấy một thìa hành tỏi đã băm nhuyễn phi thơm với dầu ăn và cho thêm nửa thìa bột ớt để tạo màu cho món ăn. Cho cá lóc đã được ướp gia vị vào đảo nhẹ sau đó cho nước vào để nấu canh, cho thêm nước me chua và dứa vào. Đợi đến khi nước sôi, ta dùng lấy thìa vớt hết bọt phía trên để nước canh được trong. Khi cá sắp chín tới, ta cho cà chua, đậu bắp, dọc mùng và giá đỗ vào, cho thêm một phần tư thìa muối, nửa thìa đường, nửa thìa hạt nêm, nửa thìa bột ngọt tùy thuộc vào khẩu vị mặn, nhạt của người ăn. Đợi đến khi cá chín, tắt bếp cho rau thơm và hạt tiêu vào, như vậy là đã hoàn thành xong món canh chua cá lóc thơm ngon rồi mà lại cực kì đơn giản, dễ làm, không yêu cầu tay nghề cao mà vẫn có thể làm được một món ăn tuyệt ngon cho gia đình. Món canh chua ngon có vị ngọt đậm đà, cá vừa chín tới không bị chín quá và cũng không có mùi tanh. Màu sắc của món canh hấp dẫn và có mùi thơm đặc trưng. Đây là một món ăn rất bổ dưỡng làm phong phú thêm bữa ăn của gia đình lại vừa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt. Một số người đã nhầm giữa “cá nóc” và “cá lóc” vì thế cho rằng loài cá này gây độc nhưng theo nghiên cứu của y học thì cá lóc là một loại cá không có độc tính, cá lóc có vị ngọt, thịt ít mỡ, giàu khoáng chất và vitamin được xem là thức ăn bổ dưỡng rất tốt cho sức khỏe có tác dụng thanh nhiệt, giải độc.có tác dụng bổ khí huyết và hỗ trợ chữa được nhiều chứng bệnh khác. Ngoài món canh chua cá lóc thì ta có thể chế biến được nhiều món khác từ loại cá này vừa là món ăn ngon vừa chữa được các bệnh như: mồ hôi trộm, sốt cao, viêm gan, vàng da… Món canh chua cá lóc là một trong những món ăn ngon của dân tộc, mang đậm dấu ấn của quê hương. Món ăn như chất chứa tình cảm của người nấu dành riêng cho những ai yêu hương vị đặc trưng của quê hương mình, món ăn như một sợi dây níu giữ những ai xa quê về với quê hương đất Việt mình. Thuyết minh về món canh chua cá lóc – Bài làm 3 Đã tự bao giờ, cụm từ canh chua cá lóc đã đi liền với nhau như vậy.Một món ăn đặc trưng của con người vùng sông nước đồng bằng sông cửu long.Bất kỳ ai cũng có thể nấu một nồi canh chua trong bữa cơm.Nhưng để nấu một món canh chua cá lóc ra hồn và đúng điệu, đòi hỏi nhiều công phu và cả tấm lòng của người nộ trợ trong từng hương vị của món ăn đậm chất nam bộ này. Muốn nấu nồi canh chua, người nội trợ phải chuẩn bị từ sáng sớm.Cho dù đã có sẵn hay chưa có nguyên liệu, người ta vẫn phải chọn những thứ tươi nhất.Trời vừa tinh mơ, người nội trợ đã xách giỏ ra chợ để mua những cọng rau còn ướt đẫm sương, để cái vị tươi của bạc hà, của cà chua, đậu bắp vẫn còn giữ lại để món canh chua thêm đậm đà.Còn có thêm giá đỗ,rau muống hoặc rau nhúc và khóm.Và khâu quan trọng nhất của việc chọn nguyên liệu chính là con cá lóc.Cá lóc không được nhỏ quá cũng không lớn quá.Thường con cá to hơn cổ tay người lớn một chút là đúng chuẩn.Con cá còn phải tươi, mắt còn trong và khi cầm cảm thấy chất nhớt trên mình con cá.Người ta thích ăn cá đồng vì thịt chắc và không có mùi tanh.Nhưng với tình hình khai thác quá mức hiện nay, người nội trợ thường chỉ có thể mua cá lóc nuôi và bằng kỹ thậut nấu nướng mà khử đi mùi tanh của con cá. Có thể dùng nước muối để rửa hay dùng muối hột xát lên cá hoặc ngâm cá đã làm sạch vào nước lạnh có pha ít giấm, hoặc trộn vào cá một ít hạt tiêu, như vậy con cá sẽ mất đi mùi tanh.Về nhà, người nội trợ đi một vòng quanh hè nhà để hái ít ngò và ớt, những gia vị làm tôn lên sức hấp dẫn của món canh chua.Và cuối cùng trong việc chọn nguyên liệu, đó là nước chua.Tùy một số địa phương ở đồng bằng sông cửu long mà người ta chọn những loại quả làm chua khác nhau.Đó có thể là trái bứa hay xoài phơi khô.Nhưng loại trái phổ biến nhất là trái me, và cũng là hương vị chính để phân biệt với món canh chua của những vùng miền khác.Như miền Bắc,miền Trung thì sử dụng trái sấu, trái khế.Tùy theo hình dạng mà các lọai nguyên liệu được cắt gọn hay để nguyên.Bạc hà tước vỏ cắt khúc dài trong khi đậu bắp thì cắt ngắn hơn,cà chua cắt thành múi còn khóm thì cắt hình tam giác.Khi đã đầy đủ nguyên liệu,người nội trợ sau khi làm sạch con cá cắt ra thành từng khoanh tròn dày khoảng 1,5cm và tẩm ướp mỗi kí-lô cá với 1 muỗng súp nước mắm ngon + 1 muỗng cà phê muối + 1/2 muỗng cà phê tiêu + 1 muỗng súp hành tím băm, trộn đều và để cho cá thấm gia vị.Trong thời gian chờ cá thấm gia vị, người nấu bắc lên bếp một nồi nước cho đến khi sôi.Khi nước sôi nhanh tay lấy một tô (bát) để dầm với me.Vị chua miền Nam phần nhiều xuất thân từ cây trái, nên vừa có chất tươi, vừa đa dạng và nhiều sắc thái. Để tổng hòa vị chua ấy, người nội trợ nêm một chút đường để “dằn” lại. Nấu canh chua kiểu miền Nam mà thiếu đường thì không thể ra đúng chất được.Cho cá đã ướp cũng như nước me vào nồi nứoc đang sôi chỉ vài phút là cá đã chín lại vớt cá ra nguyên liệu vào.Chỉ cho những loại nguyên liệu đó vừa chín là ta tắt bếp nhấc nồi xuống.Cho canh chua vào một tô lớn,rải ngò gai hay ngò ôm lên mặt.Tùy theo sở thích mà ngưới ta cho cá vào chung với tô canh chua hay dĩa nước mắm ớt nguyên chất.Nhìn tô canh chua nghi ngút khói lại nồng nàn hương vị của các loại rau,gắp một miếng cá chấm nước mắm ớt luà cùng cơm trắng thật không thể tả được cảm giác tuyệt vời được tận hưởng đầy đủ hương vị của món canh chua.Chua của me, vị ngọt của khóm,vị cay của ớt, vị đậm đà của cá.Nếu có thêm một nồi cá kho quẹt thì có thể nói đó là bữa cơm không gì sánh bằng. Canh chua cá lóc là món ăn đặc trưng của người Nam bộ,dù là ở quê nhà hay đi xa, món canh chua cá lóc vẫn là người bạn thân thiết trong mỗi bữa ăn, là chiếc cầu nối giữa những thành viên trong gia đình.Hơi ấm gia đình chính là khi cả nhà quây quần bên tô canh chua nghi ngút khói, gắp cho nhau từng miếng bạc hà,kể cho nhau nghe những câu chuyện tầm phào trong bữa ăn cho đến khi nồi canh cũng không còn gì để châm thêm.Đó là nét đặc trưng của bữa cơm gia đình ở Nam bộ. Thuyết minh về món canh chua cá lóc – Bài làm 4 Là người Việt nam không ai là không một lần ăn thử món canh chua cá lóc. Đó là một món ăn dân dã của quê hương Việt Nam. Để làm được món canh chua cá lóc ngon thì phải có nguyên liệu ngon. Người nội trợ phải đi đến chợ chọn mua con cá lóc đồng còn sống, vì phải nấu bằng cá lóc đồng mới ngon, nếu nấu bằng con cá lóc nuôi thì nồi canh sẽ có mùi tanh. Muốn nấu canh chua thì trong nguyên liệu không thể nào thiếu me, khóm, giá, bạc hà, cà chua. Ngoài ra, tùy theo sở thích từng người ta có thể thay nguyên liệu nấu canh chua bằng rau nhúc, rau muống, bông so đũa, bông điên điển…Nhưng thông thường người ta vẫn nấu với giá, khóm, bạc hà. Tất nhiên khi chọn rau non và tươi. Ta cũng không quên mua thêm ít rau nêm canh: ngò gai, cần tàu,… với một loại không thể thiếu cho nồi canh chua là ớt. Cần chuẩn bị thêm đường, bột ngọt, hạt nêm. Đó là tất cả các thứ cần cho nồi canh chua. Chọn nguyên liệu xong ta bắt tay vào việc sơ chế cá lóc. Cá lóc mua về phải đập đầu, đánh vảy còn không thì dùng dao nhọn để lột (có từ nào cùng nghĩa mà hay hay thì thay vào) da cho sạch và dùng kéo cắt vây. Nhớ phải lấy cục máu tanh dưới ức con cá để nồi canh không có mùi tanh. Ta cần móc ruột và lấy mật ra không bị đắng, sau đó ta dùng chanh để khử mùi tanh. Có thể cứa con cá lóc ra thành năm khúc và để ráo. Bạc hà mua về tước bỏ vỏ rửa sạch và xắt xéo. Rau nhúc hoặc rau muống lặt sạch ngắt khúc và để ráo. Giá, cà chua rửa sạch, còn cà chua thì cắt thành muối. Sau khi chuẩn bị sẵn sàng, ta bắt tay vào nấu. Đầu tiên ta bắt một nồi nước khoảng hai lít sau đó vắt me vào nấu. Nếu me không chín thì dùng me xanh. Chờ nước sôi cho me mềm, ta dùng giá vớt me ra tô rồi dầm cho kỹ, lấy hạt, còn nước chua cho vào nồi. Nên nhớ không dùng quá nhiều me vì nếu quá chua thì không ngon. Chờ nước sôi trở lại ta bỏ cá lóc vào nồi và tiếp tục đun một lát đến khi cá chin ta bắt đầu bỏ rau, bạc hà, khóm, giá, cà chua, trong lúc đun nhớ vớt bọt. Sau đó ta nêm vào nồi khoảng hai muỗng nước mắm, hai muỗng đường, một chút bột ngọt. Và cuối cùng ta bỏ thêm rau nêm, vài lát ớt vào nồi canh chua. Thế là sau khoảng một giờ ta đã có một nồi canh chua vừa ngon vừa bổ. Tiêu chuẩn của một nồi canh chua ngon là nước phải trong, chua và có vị ngọt thanh. Cá lóc còn nguyên khứa không bị nát, rau phải còn giữ được màu xanh ban đầu. Nồi canh chua phải có mùi thơm của rau nêm, mùi ca lóc. Canh chua có thể ăn với cơm hoặc bún. Nước mắm dùng ăn với canh chua cá lóc là nước mắm nguyên chất có điển thêm vài lát ớt đỏ. Người đi làm việc hoặc đi học về trưa đói bụng khát nước mà được ăn cơm với canh chua cá lóc chắm với nước mắm ngon thì có lẽ mọi mệt nhọc sẽ tan biến. Đây là món ăn được nhiều người ưa thích vì nó phù hợp khẩu vị cho tất cả mọi người. Từ người dân lao động miệt vườn cho đến người tri thức, thương gia giàu có đều thích món canh chua cá lóc vì nó mộc mạc và đậm đà hương vị làng quê. Ngoài ra ăn canh chua cá lóc rất tốt cho sức khỏe bởi vì nó không có dầu mỡ. Cá lóc cung cấp chất đạm cho cơ thể. Các loại rau như giá, khóm, bạc hà,…cung cấp nhiều nguồn vitamin, muối khoáng quý báu giúp ta tăng cường sức đề kháng cho cơ thể chống bệnh tật. Giúp cơ thể lấy lại năng lượng để tiếp tục học tập và làm việc tốt. Thế đấy chỉ cần bỏ ra một ít công sức vào các món ăn và tình cảm của mình là ta có thể cho người thân thưởng thức mộn món ăn dân tộc rất ngon, rất hấp dẫn. Canh chua cá lóc là một món ăn đậm đà hương vị quê hương. Nó nhắc ta nhớ đến những người dân lao động chân chất một nắng hai sương, những con người dầm mưa dãi nắng mà thật thà. Dù mai này có đi đâu xa thì tôi vẫn sẽ nhớ vể món canh chua có lóc dân dã, bình dân này.
Thuyết minh về món canh chua cá lóc – Văn mẫu lớp 8
3,795
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về món thịt kho tàu – Bài làm 1 2 Thuyết minh về món thịt kho tàu – Bài làm 2 3 Thuyết minh về món thịt kho tàu – Bài làm 3 Thuyết minh về món thịt kho tàu – Bài làm 1 Thịt kho tàu đã trở thành một trong những món ăn không thể thiếu trong bữa cơm ngày tết của người miền Tây nói riêng và Nam bộ nói chung. Dường như đã thành thông lệ cứ đến gần tết người dân Nam bộ lại rủ nhau làm món thịt kho tàu để ăn tết như một phần tất yếu. Ngày nay món ăn bắt cơm này còn hiện diện ngay trong bữa ăn hàng ngày của người dân việt. Để hiểu thêm về món ăn này, chúng ta hãy cùng sơ lược qua cách kho thịt của các vùng miền để thấy được nét đặc trưng của món thịt kho tàu miền Nam nhé. Miền Bắc lạnh giá thì gọi là thịt đông, nấu không có nước dừa và trứng luộc. Nhưng miền Nam nắng ấm lại nấu bằng nước dừa với vị béo ngậy. Và miếng thịt heo được cắt vuông vắn, lớn gấp 3 lần miếng thịt kho bình thường. Nghe qua cái tên của món ăn là thịt kho tàu rất nhiều người sẽ nghĩ đây là món ăn được bắt nguồn từ Trung Hoa, tuy nhiên theo nhiều người Nam bộ xưa kể lại thì chữ “tàu”, ở đây, theo nghĩa của người “miền dưới” là “lạt”, như sông Cái Tàu Thượng, sông Cái Tàu Hạ là hai con sông nước lợ. Như vậy thịt kho tàu không phải là thịt kho của người Trung Hoa, mà chỉ đơn giản là món thịt kho lạt. Cũng có một số giả thuyết khác đặt ra về nguồn gốc của món ăn này tuy nhiên đến nay cũng chưa rõ đâu là giả thuyết đúng nhất. Miếng thịt mềm rục có cả màu đỏ au của thịt nạc, trong trong của mỡ, nâu nâu của bì hầm nhừ, sóng sánh vàng ươm của nước màu chưng đường, kèm vị bùi của nước dừa xiêm, vị mặn của nước mắm đã được làm thanh đi bằng đường, thi thoảng có thêm vị hắc của chút xì dầu, điểm xuyết thêm mấy hột vịt luộc mà nước thịt ngấm đều từ trong lòng đỏ đến lòng trắng. Tất cả đã làm nên hương vị tuyệt vời của món thịt kho tàu. Có thể nói thịt kho tàu hiện nay đã trở thành món ăn thường xuyên xuất hiện trong bữa ăn của nhiều người Việt Nam trên cả nước bởi sức hấp dẫn mà món ăn này mang lại. Cách chế biến không quá khó, các bạn hoàn toàn có thể thử qua để mang đến bữa ăn ấm áp cho gia đình mình sau một ngày làm việc mệt mỏi. Thịt kho tàu món ngon khó chối từ và dường như nó đã trở thành một phần văn hóa ẩm thực của người Nam bộ khi đi so sánh với các vùng miền khác trong cả nước. Hy vọng đây sẽ là lựa chọn hàng đầu của các bạn mỗi khi tự tay nấu món ăn cho gia đình trong mỗi bữa tối. Thịt kho tàu món ngon đúng vị không thể chối từ. Thuyết minh về món thịt kho tàu – Bài làm 2 Rất nhiều người Việt nghe nói đến kho tàu” thì đều nghĩ, món ăn này được bắt nguồn từ Trung Quốc. Tuy nhiên người Hoa lại rất ít người ăn món này. Theo nhà văn người nam bộ Bình Nguyên Lộc, chữ "tàu", ở đây, theo nghĩa của người "miền dưới" là "lạt", như sông Cái Tàu Thượng, sông Cái Tàu Hạ là hai con sông nước lợ. Như vậy thịt kho tàu không phải là thịt kho của người Trung Hoa, mà chỉ đơn giản là món thịt kho lạt. Cũng có thuyết rằng, món thịt kho bên Tàu từ cái ông tể tướng Vương An Thạch đời Tống nghĩ ra, nhưng xem lại thì cái món thịt kho của ông, chẳng giống gì cái cách mà chúng ta thấy ở miếng thịt kho tàu xứ Việt. Vậy hóa ra cái món thịt kho mà được cả miền Nam hâm mộ ấy, đúng như lời giáo sư Trần Văn Khê nói: món thịt kho "tàu" hóa ra lại là "ta" hoàn toàn, món Việt trăm phần trăm. Thịt kho tàu, cùng với bánh tét, dưa hấu, canh khổ qua dồn thịt, đã trở thành món không thể thiếu trong thực đơn ngày Tết của người Nam Bộ. Miếng thịt mềm rục có cả màu đỏ au của thịt nạc, trong trong của mỡ, nâu nâu của bì hầm nhừ, sóng sánh vàng ươm của nước màu chưng đường, kèm vị bùi của nước dừa xiêm, vị mặn của nước mắm đã được làm thanh đi bằng đường, thi thoảng có thêm vị hắc của chút xì dầu, điểm xuyết thêm mấy hột vịt luộc mà nước thịt ngấm đều từ trong lòng đỏ đến lòng trắng, đặt cạnh bát cơm trắng thơm nức trên bàn thờ ông bà, bên cạnh đĩa dưa chua, dường như đã thành truyền thống trong mâm cơm cúng tưởng nhớ ông bà tổ tiên. Thịt kho tàu cũng như bao món kho khác, được nấu như món ăn để lưu trữ dài ngày vào dịp Tết. Nấu thịt kho tàu không khó, nhưng để nấu ngon, cũng không dễ chút nào. Miếng thịt mềm nhừ mà không nát, không bị quắt lại, màu thịt đỏ au ánh lên màu cánh gián, trứng vịt thấm đẫm nước thịt mà không đen, nước thịt vàng trong, không quá nhiều nước nhưng cũng không quá cạn làm khô miếng thịt. Mỗi lần ăn có thể mang ra đun lại, càng nhiều lửa, thịt càng rục, càng mềm, càng ngon. Thịt kho tàu có thể được ăn với nhiều món, cơm trắng, dưa kiệu, dưa giá nhưng có lẽ phổ biến nhất là ăn kèm với dưa cải chua. Có lẽ vì mặn, vị ngọt, vị bùi béo của thịt kho tàu kết hợp với vị chua xen lẫn cay cay của dưa cải muối xối, tạo nên hương vị quyến rũ đến bất ngờ. Thuyết minh về món thịt kho tàu – Bài làm 3 “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.” Tết đến, Xuân sang cuốn theo bao hi vọng, niềm vui và hạnh phúc. Trong dịp Tết cổ truyền ấy, các món ăn như bánh chưng, bánh dày hay dưa món, củ kiệu,… là những món không thể thiếu. Một trong số những món ăn quen thuộc vào ngày Tết mà hầu như nhà nào cũng có chính là món thịt kho tàu. Nghe cái tên “thịt kho tàu”, chắc hẳn nhiều người nghĩ rằng món ăn này bắt nguồn từ Trung Quốc, là của người Tàu nhưng sự thật không phải vậy. Vì người Tàu rất ít khi ăn món này, mà nguyên liệu để làm món thịt kho tàu là thịt ba rọi, cái loại thịt có có nạc, có mỡ, có bì, xếp từng lớp khéo léo cứ như người ta cố tình tạo ra nó, thì chắc chắn chỉ có dân Việt Nam. Theo nhà văn Nam Bộ Bình Nguyên Lộc, chữ “tàu”, ở đây, theo nghĩa của người “miền dưới” là “lạt. Như vậy, thịt kho tàu không phải là thịt kho của người Trung Hoa, mà chỉ đơn giản là món thịt kho lạt và hoàn toàn là của người Việt nghĩ ra. Và giáo sư Trần Văn Khê đã nói: món thịt kho “tàu” hóa ra lại là “ta” hoàn toàn, món Việt trăm phần trăm. Nguyên liệu để làm món thịt kho tàu rất đơn giản: chỉ gồm có thịt ba rọi, trứng vịt, hành, tỏi và nước dừa xiêm cùng với các gia vị thông dụng. Nhưng phải biết cách chọn thực phẩm cũng như bí quyết nấu ăn thì mới có thể làm cho món ăn này trở nên ngon miệng, hấp dẫn. Muốn nấu món thịt kho tàu ngon thì nên lựa thịt ba rọi có 3 phần mỡ, 7 phần nạc và chọn thịt nạc thăng. Còn trứng thì tuyệt đối không mua trứng ung, bị ôi, thiu. Không nên chọn trứng có quầng đen ở đáy vì đó là trứng hư, bị lõm. Theo quan niệm, trứng trong món thịt kho tàu phải tròn, hông bị nứt nẻ thì công việc làm ăn mới thuận lợi, gặp nhiều may mắn. Khi đã chuẩn bị đầy đủ nguyên liệu, ta bắt tay vào việc chế biến. Đầu tiên, thịt sau khi mua về thì cạo rửa sạch, để ráo nước. Sau đó cắt khúc, vuông khoảng 4-5cm, nêm nếm gia vị vừa ăn rồi để hai giờ cho thịt thấm đều. Sau đó, Phi hành, tỏi rồi xào thịt cho săn lại. Trứng vịt đem đi luộc chín. Lưu ý, khi luộc trứng nên cho vào nồi một ít muối ăn vì nó sẽ làm tróc vỏ trứng. Luộc xong để vào nước lạnh, trứng sẽ dễ dàng bóc vỏ và không bị nứt. Khi vừa cho vào nước lạnh, phải bóc vỏ liền, tuyệt đối không để trứng nguội đi rồi mới bóc vỏ. Sau khi bóc vỏ xong, lấy tăm đâm vào trứng rồi đem đi chiên qua dầu để có màu vàng đẹp, thoát hơi tốt. Ngoài ra, ta còn có thể thay thế trứng vịt bằng trứng cút. Thịt sau khi xào thăn, cho 1/2 thìa cà phê nước màu, 1/2 chén nước mắm. Nấu cho đến khi sôi lên thì đổ nước dừa xiêm vào ngang mặt thịt. Cuối cùng cho trứng vịt đã chiên vàng vào khi nước sôi và nấu cho sôi 2-3 lần. Ngoài ra, ta có thể thay thế nước dừa bằng nước ngọt có gas. Thịt nhanh mềm hơn và vàng óng rất đều, theo đúng màu cánh gián rất đẹp mắt. Món thịt kho tàu sau khi nấu chín thì toàn bộ trứng phải nổi lên mặt nước. Có màu vàng óng như màu mật ong. Trứng có màu đỏ au, trông đẹp mắt. Món ăn vừa miệng, không quá măn hoặc quá nhạt. Chú ý, nấu lần đầu tiên ta nên nêm nhạt vì khi hâm lại nhiều lần thì vị sẽ đậm đà, mặn mà hơn. Thưởng thức món thịt kho tàu có nhiều cách khác nhau. Nhưng phổ biến nhất là dùng với cơm. Chỉ cần bới một tô cơm nóng, chan một ít nước thịt, cắt trứng ra, bỏ thịt và trứng vào và dùng chung với dưa giá hoặc củ kiệu thì đã thưởng thức trọn vẹn hương vị của món thịt kho tàu. Cách thứ hai là ăn thịt kho tàu cùng với bánh tráng. Đây vừa là món ăn chơi, nhưng khi kèm với thịt kho tàu, nó trở thành món chính từ lúc nào. Miếng bánh tráng trụng qua nước, gói với rau thơm, đồ chua, kèm thịt và trứng đã cắt nhỏ. Rồi chấm một ít nước thịt thì còn gì ngon bằng. Đây là món ăn để lưu trữ nhiều ngày trong dịp Tết. Thế nên ta phải bảo quản nó đúng cách để luôn thưởng thức trọn hương vị của món ăn hấp dẫn này. Thường thì khi hết ngày, nhiều người cất nồi thịt vào tủ lạnh nhưng cách này sẽ làm dở nồi thịt. Ta chỉ cần để ở ngoài là được. Đặc biệt khi múc thịt, nên múc một bên và múc xong thì đậy nắp lại ngay tránh hôi gió. Nếu bỏ muỗng vào nồi hay quậy nồi thịt thì nó sẽ mau hư. Mỗi lần hâm lại thịt cần vớt cho sạch bọt. Khi nước cạn, ta cho thêm nước vào rồi nêm nếm lại cho vừa ăn. Như thế, ta đã có thể bảo quản tốt món thịt kho tàu và mỗi lần thưởng thức, hương vị của nó sẽ không hề giảm đi. Thịt kho Tàu là món ăn thân quen đối với người miền Nam ta. Trứng có hình tròn, thịt có hình vuông như sự hòa quyện giữa trời và đất làm hòa quyện không khí Tết, gắn bó với các thành viên trong gia đình từ bé đến lớn, khiến mọi người dễ dàng cảm nhận không khí hòa thuận, sum vầy. Đó cũng là dấu hiệu của một năm mới thuận lợi, thành công. Đây là món ăn truyền thống của người Việt Nam trong những ngày Tết. Cái hương vị mặn mặn, ngọt ngọt, vừa bùi vừa béo của thịt kho tàu đã làm xao xuyến biết bao người dân Việt. Nó trở thành một món ăn truyền thống, một nét đẹp văn hóa của dân tộc và đóng góp vào kho tàng ẩm thực phong phú của Việt Nam. Như các món ăn truyền thống khác, món thịt kho tàu không chỉ là một kiệt tác của những người nấu mà còn là niềm vui tinh thần trong những ngày Tết. Nó giúp gắn kết những mối dây tình cảm ruột thịt, gắn kết gia đình cùng tình làng nghĩa xóm. Không những thế, nó còn là một nét đẹp truyền thống của người dân Việt Nam.
Thuyết minh về món thịt kho tàu – Văn mẫu lớp 8
2,206
Những con dê non thường nô đùa, “dọa dẫm” bạn bằng các động tác húc nhau, nhưng chúng không hề gây gổ và dùng sức mạnh. Khi cần tự vệ, chúng cúi đầu giơ sừng, giơ chân trước, hạ thấp nửa thân trước. Dê con còn hay “doạ nạt” bằng những điệu nhảy xung quanh và đâm bổ về phía bạn cùng chơi. Những bầy dê nuôi thả trong rừng ưa chạy nhảy, thích đùa trên những vách đá cheo leo dựng đứng và những “cú” nhảy liều mạng đôi khi dẫn đến tai nạn cho những con dê dại dột. Người ta nhận thấy nhiều dê con không có một nguyên do nào mà cũng phóng như bay theo một đường tròn khá rộng, có khi theo một vòng cung, thường là chạy quanh một vật chuẩn nào đó. Rồi bỗng nhiên, nó dừng lại đột ngột và không hiểu vì sao, con vật lại chạy thật nhanh như tên bắn, nhảy theo một phía. Tất cả những vận động đó đều dược dê thực hiện bằng kiểu “phi nước đại”, bằng những bước nhảy cóc đặc trưng cho loài, cũng có lúc nó nhảy chụm cả bốn vó bật đi rất xa. Dê sống ở vùng núi thích chơi trò “leo núi cao”. Mỗi con dê đều cố leo lên cao hơn “địch thủ”. Chúng húc đầu, cụng trán và có khi dùng cả móng để doạ nhau. Một hiện tượng thú vị là nếu một con dê giành được thắng lợi, chiếm được chỗ cao nhất, thì các con khác liền bỏ trò chơi đó chuyển sang trò khác, hoặc khi không bảo vệ được “ngôi bá chủ” nữa, thì con “bá chủ” lại lao từ đỉnh cao thống trị xuống dưới và “chan hoà” với đám bạn bè. Dê sống ở vùng núi khi vui đùa thường húc nhau bằng trán, đẩy bằng lưng hoặc vai, ôm nhau xoay tại chỗ, húc vào sườn, nhưng ít khi đá nhau bằng móng. Thông thường, một trong hai con dê đông vui đùa gác vào gáy hoặc cổ bạn và muốn bằng cách này quật ngã hoặc đè bạn xuống đất. Trong những trường hợp khác, một con luồn đầu và cổ, có khi cả nửa thân trước, vào dưới ngực của con kia, rồi “nhấc” bạn của mình lên, nhưng không bao giờ làm bạn bị thương. Người ta đã nhìn thấy dê nghịch một đoạn thân cây sắn dây dài khoảng 0,5m dùng làm “dây thừng”, một con dê ngậm chặt dây sắn và vung vẩy trước mặt một con dê khác. Con dê này liền chạy lại và ngậm lấy một đầu của dây và sau đó bắt đầu cuộc “kéo co”. Dê cũng biết nghịch ngợm như trẻ cơn. Người chăn dê định đi hướng này, nó lại tự ý chạy theo hướng khác. Chủ nó vỗ về, nó trở nên ngoan ngoãn. Nhưng nếu đánh oan, dê “bê” ầm ĩ để phản đối.
Thuyết minh về một con vật nuôi mà em yêu thích – Con dê
495
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về một cảnh quan của đất nước – Thuyết minh về chùa Hương – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An 2 Thuyết minh về một cảnh quan của đất nước – Vịnh Bái Tử Long 3 Thuyết minh về một cảnh quan của đất nước – Chùa Dơi Sóc Trăng Thuyết minh về một cảnh quan của đất nước – Thuyết minh về chùa Hương – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Chắc hẳn ai cũng biết đến chùa Hương một danh lam thắng cảnh của Viêt Nam. Hăng năm cư đến mùng sáu tháng giêng sau tết Nguyên Đán nơi đây lại tổ chức lễ hội chua Hương. Khách hành hương tư khắp mọi miền đất nước, việt kiều, du khách nước ngoài nườm nượp đổ về đây vừa để cầu mong môt diều tốt lành vừ để đăm minh trong khung cảnh thần tiên của Hương Sơn. Chùa Hương thuôc huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây, cách thủ đô Hà Nội khoảng 70 km về phía tây nam. Từ đây đi ô tô qua thị xã Hà Đông, Vân Đình, thẳng đến bến đục thì dừng. Du khách xuống đò, lướt theo dòng xuối Yến Vĩ trong xanh giữa hai bên là cánh đồng lúa. Trước mắt là những dãy núi trung điệp đẹp vô cùng! Có thể nói cái đẹp của Hương Sơn đc tạo nên từ bàn tay khéo léo kì công của con người và sự ban tàng của mẹ thiên nhiên. Các ngôi chùa đc xây rải rác trên triền núi đá vôi, thấp thoáng bên dưới là những rừng cây xanh thẳm. Từ chân núi đi ngược lên hàng ngàn bâc đá cheo leo,hành khách sẽ thắp nhang ở chùa ngoài rồi vào chùa trong, lên chùa Giải Oan, chùa Thiên Mụ,với đọng hinh bồng, đọng Hương Tích. Chùa nào cũng cổ kính uy nghi ẩn hiện trong làn mờ mờ ảo ảo, tạo nên một bầu ko khí huyền bí linh thiêng.Mỗi người đến đây đều mang theo một riêng nhưng tất cả mọi người đều cảm thấy trút bỏ đươc vướng bận hằng ngày, tất cả đều lâng thoải mái. Trên con đường đóc quanh co, dòng người nối đuôi nhau, già trẻ, gái trai đủ mọi lứa tuổi, miền quê. Tất cả mọi người đều có được sự thân quen như người trong nhà trước câu “Nam mô A Di Đà Phật ”. Hương Sơn có rất nhiều động nhưng lớn nhất, kì thú nhất phải nói đến động Hương Tích. Lên đến đây, mọi mệt nhọc đều tan biến hết, trong lòng lâng lâng niềm hứng khởi. nơi đây hoa mơ nở trắng như tuyết điểm, hương thơm thoang thoảng trong gió. Tiếng chim ríu rít, tiếng suối roc rách lúc gần lúc xa. Đưng s tên cửa động, du khách hít căng lồng ngực không khí thơm, trong lành. Được chúa Trịnh Xâm ca ngợi là “Nam Thiên đệ nhất động”. Từ bên ngoài, cửa động như miêng một con rồng khổng lồ ăn sâu vào trong lòng núi. Đáy rộng và phẳng có thể chứa được mấy trăm người. Ánh đèn nến lung linh huyền ảo. Những nhũ đá, cột muôn hình vạn trạng, lấp lánh bảy sắc cầu vồng. Muốn tham quan được hết chùa Hương phải mất máy ngày mới thăm hêt được. Ngồi trong động Hinh Bồng, lắng tai nghe tiếng gió tạo thành tiếng nhạc du dương trầm bổng ta sẽ được đắm mình vào trong cõi mộng. Trên đỉnh núi co một tảng đá lớn tương truyền dó là bàn cờ tiên. Mỗi năm một lần nơi đây các vị tiên ông thương hay đánh cờ đọ tài cao thấp ở đó. Còn có biết bao những sự tích, huyền thoại gắn liền với chùa Hương, tạo thêm cho vẻ kì bí linh thiêng của chốn phong cảnh hữu tình này. Khi đi về, trong tay ai cũng đều mang về một thư gì đó làm kỉ niệm. Du khách lên xe mà long bâng khuâng lưu luyến, không ai bảo ai mỗi người đều quay lại ngắm nhìn để in đậm những kỉ niệm về chùa Hương càng thêm tự hào về giang sơn gấm vóc mong sớm đến năm sau để lại có dịp tới thăm chùa Hương một lần nữa. Thuyết minh về một cảnh quan của đất nước – Vịnh Bái Tử Long Cùng với vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long là một thắng cảnh tuyệt vời của đất nước ta. Nằm ở vùng Đông bĂc, cách thủ đô Hà Nội gần 200km, vịnh Bái Tử Long, Quảng Ninh cho đến nay chưa được nhiều người biết đến. Vịnh Bái Tử Long có hàng trăm đảo nhấp nhô trên mặt nước xanh biếc với hàng trăm cây số bờ biển với những bãi cát trắng mịn ở Minh Châu, Quan Lạn, Ngọc Vừng… Nơi đây có bao huyền tích, huyền thoại gắn liền với các đảo gần, đảo xa. Một số đền, chùa cổ được xây dựng từ thời nhà Lý. Vườn Quốc gia Bái Tử Long có nhiều loài chim, loài thú quý hiếm. GIếng nước ngọt Nàng Tiên nước xanh ngăn ngắt ở Cái Làng- một làng Việt cổ trên đảo Minh Châu. Hang Thông Thiên đẹp mô hồn, nhũ đá long lanh. Đảo Phất Cờ huyền diệu với dải san hô lấp lánh. Những vẹt rừng sú, rừng vẹt chắn sòng như những dải lụa xanh viền quanh các đảo. Đảo Bản Sen có thứ trà trăm tuổi ngát hương đậm đà. Bãi biển Uyên Ương cát trắng phau, nước trong như pha lê, ai đã một lần tắm mát và bơi lội ở đấy sẽ không bao giờ quên. Du khách đến thăm thú vịnh Bái Tử Long nên đến thăm quan đền Cửa Ông, đi chơi cảng Vạn Hoa, đi xuyên rừng hay đi thuyền thăm các bản làng của người Tày, người Dao Đỏ, Người Sán Dìu mộc mạc mà mến khách. Hương vị biển có nhiều loại hải sản tươi ngon như cá song, cá giò, cá sùng, tu hài, cù kì…sẽ làm cho ta nhớ mãi. Cá giò được chế biến thành 12 món ăn tuyệt ngon như chiên, hấp , nướng, lòng cá xào, da cá chiên giòn, và tuyệt nhất là ăn gỏi cá với mù tạt. Chính gỏi cá giò này mà cô gái làng đen giòn ngày xửa ngày xưa đã từng làm đắm đuối Tiên ông. Những đêm thu biển xanh óng ánh trăng vàng, đảo gần đảo xa trên vịnh Bái Tử Long như đàn rồng vẫy đuôi nô nức vũ hội. Ánh trăng sao càng làm cho Bái Tử Long thêm huyền ảo mênh mông. Tiếng sóng vỗ, tiếng cá đớp mồi hay tiềng đuôi rồng cuồn cuộn sóng nghe lao xao, rì rầm bất tận. Thuyết minh về một cảnh quan của đất nước – Chùa Dơi Sóc Trăng Nếu có dịp ghé Sóc Trăng, các bạn nên đến với Chùa Dơi – một địa chỉ du lịch độc đáo nổi tiếng của vùng này. Nằm cách thị xã Sóc Trăng 3km về phía Nam, Chùa Dơi mà tiếng Khơ Me gọi là Serâytécbômabatúp, có nghĩa là do phúc đức tạo nên. Chùa Dơi ra đời cách đây gần 400 năm (chùa có tên là chùa Mã Tộc hay chùa Ma Ha Túc). – Chùa nằm cách thị xã Sóc Trăng 2km là một trong những điểm thu hút nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế. Chùa Dơi độc đáo bởi hàng ngàn tượng phật, tượng tứ linh (Long, ly, quy, phượng…) đều nặn từ đất sét cùng với vẻ đẹp kỳ thú do dơi và quạ tạo nên. Không ai nhớ nổi Chùa này ra đời khi nào và do ai trụ trì đầu tiên. Song điều đó cũng không phải là sự đặc biệt gì. Nét độc đáo của Chùa này chính là nơi hội tụ của hằng hà sa số Dơi. Bao bọc quanh chùa là cả một cánh rừng với đủ lại cây, song nhiều nhất vẫn là Sao và Dầu. Có hàng vạn con Dơi tá túc ở cánh rừng này. Có những con lớn đến mức sải cánh dài cả mét treo đen kịt trên các nhánh cây. Cả ngày chúng tớn tác kiếm ăn đâu không rõ, cứ chiều đến, từ khắp nơi hàng vạn con Dơi lại trở về sân chùa. Khách du lịch đến thăm Chùa thú nhất là được ngắm nhìn đàn dơi bay kín cả bầu trời mỗi khi hoàng hôn. Trong cái tĩnh mịch của ngôi chùa cổ giữa rừng, tiếng vỗ cánh của đàn Dơi có thể làm những ai yếu bóng vía phải hãi hùng. Cứ đến mùa mưa (tháng 5, tháng 6) là mùa sinh sản của Dơi. Hầu hết Dơi ở chùa đều đẻ mỗi lứa mỗi con, song số lượng Dơi thì không hề tăng thêm mà đang có nguy cơ tụt giảm bởi rất nhiều người đến đây bắt dơi bằng cách chăng lưới hoặc dùng lồng chụp. Mỗi ngày như thế, đám người này có thể bắt hàng ngàn con. Thịt dơi cũng là món khoái khẩu của mấy bợm nhậu. Nghe bảo nó thơm và ngon như thịt gà. Các vị sư ở đây rất tích cực bảo vệ đám dơi bởi họ cho rằng cái sự dơi đổ về chùa chính là phúc lành nhà phật cho ngôi chùa này. Bên sự độc đáo kỳ lạ kia, du khách cũng có thể thoả mãn với nét kiến trúc của ngôi chùa cổ này trong sự hoà đồng của nền văn hoá Việt – Miên thể hiện ở điêu khắc Ăng-co với nhiều phù điêu và hoa văn trên làng loạt cột đài nơi chính điện. Nếu có biện pháp tốt để trùng tu ngôi chùa (hiện đang bị đổ nát khá nhiều) và bảo vệ được đàn dơi – ngôi chùa này chắc chắn sẽ là một điểm du lịch kỳ thú của miền sông nước Sóc Trăng.
Thuyết minh về một cảnh quan của đất nước – Văn mẫu lớp 9
1,672
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Quốc Tử Giám 2 Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Hồ Gươm 3 Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Chùa Thầy 4 Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Dinh Độc Lập 5 Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Đền Hùng 6 Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Chùa Trăm Gian 7 Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Địa đạo Củ Chi 8 Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Kiếp Bạc và lễ hội Kiếp Bạc Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Quốc Tử Giám Trong số hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, hơn 500 di tích đã được xếp hạng, thì Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô Thăng Long dưới triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, với quy mô khang trang bề thế nhất, tiêu biểu nhất cho Hà Nội và cũng là nơi được coi là biểu tượng cho văn hóa, lịch sử Việt Nam. Từ hàng ngàn năm trước, vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đặt tên thành là Thăng Long. Trải qua bao biến cố của thời gian và lịch sử, Hà Nội vẫn lưu giữ trong lòng nó những ” dấu xưa oai hùng” cùng với những danh lam thắng cảnh. Một trong những nơi đó là Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Văn Miếu – Quốc Tử Giám được nhà Lý xây dựng vào thế kỉ 11, với mục đích chính là dạy học cho các hoàng tử và những người tài trong thiên hạ. Đây còn là nơi thờ các danh nhân có công trong nền giáo dục nước nhà, tổ chức các kì thi của quốc gia, cao nhất là kì thi tiến sĩ. Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam thành Thăng Long xưa. Nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Ở vị trí đắc địa, bốn mặt đều là những con phố đông vui, nhưng không vì thế mà Văn Miếu mất đi vẻ yên tĩnh, cổ kính vốn có. Quần thể kiến trúc này nằm trên diện tích 54331m² bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám. Hồ Văn nằm ở đối diện cổng chính Quốc Tử Giám, đã được trùng tu nhiều năm nay. Đây là một hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát, giữa hồ có gò Kim Châu. Cảnh trí rất yên bình, nên thơ giúp cho các sĩ tử giải tỏa bớt căng thẳng trước giờ thi. Khu nội tự Văn Miếu – Quốc Tử Giám được ngăn cách với vườn Giám và không gian bên ngoài bằng tường gạch vồ, không trát bên ngoài và có bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam. Những lối đi trong Văn Miếu đều được trải sỏi hoặc lát đá sạch sẽ. Từ cổng chính Văn Miếu Môn, vào khu Nhập đạo, theo đường thẳng tới cổng Đại Trung môn. Ở hai khu vực này trồng cây bóng mát gần kín mặt bằng và có bốn hồ nhỏ đăng đối hai bên phải trái. Trong hồ được trồng hoa sen, hoa súng tạo cho cảnh quan càng thêm tươi đẹp. Quanh hồ được xây những bức tường hoa để ngăn cách lối đi với hồ. Nối tiếp tới Khuê Văn Các là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời tỏa tia sáng. Tầng dưới là bốn trụ gạch vuông, chạm trổ hoa văn. Tầng trên làm bằng gỗ sơn màu đỏ có thếp vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái. Khu tiếp theo là bia Tiến sĩ và hồ nước vuông Thiên Quang Tỉnh (giếng soi ánh mặt trời). Sát bờ hồ là lối đi và những dãy bia đá trang nghiêm, cổ kính dựng thành hai khu Đông và Tây. Mỗi khu chứa hai dãy bia đá, tất cả gồm 82 tấm bia ghi tên họ quê quán của những người đã đỗ Tiến sĩ triều Lê. Bia được đặt trên lưng các cụ rùa vì theo quan niệm của ông cha ta, rùa chính là thần Kim Quy, là một vật biểu linh cho tinh thần, sức mạnh, sự yêu thương, đoàn kết của dân tộc. Kế tiếp khu bia tiến sĩ và hồ Thiên Quang Tỉnh là Cửa Đại Thành. Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng hàng nghàn mét vuông, lát gạch Bát Tràng. Đây là nơi xưa kia được dùng làm nơi tổ chức lớp học nghe giảng đạo. Ngày nay là nơi tập trung tổ chức các sự kiện văn hóa lớn của Hà Nội và quốc gia. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn trải suốt chiều rộng của sân. Phía sau và song song với Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện gồm chín gian, tường xây ba phía, mái cong vẩy cá. Thượng điện khi xưa là nơi thờ tự và học hành. Ngày nay chỉ còn là nơi thờ Khổng Tử và các vị danh nhân. Ở gian chính của Thượng điện đặt ngai lớn, bên trong có bài vị và tượng đồng của Khổng Tử. Hai gian bên phải, trái đặt ngai thờ bốn vị Tăng Tử, Mạnh Tử, Nhan Tử và Tử Tư. Ngoài bài vị ra cả 4 vị đều có tượng gỗ sơn thiếp. Hai bên của sân là hai dãy Hữu Vu và Tả Vu, cũng là khu triển lãm, trưng bày, bán đồ lưu niệm cho khách tham quan. Sau Thượng điện là khu Khải Thánh, nơi thờ cha mẹ Khổng Tử. Phần sau cùng là khu Tiền đường và Hậu đường: đây là công trình hoàn toàn mới, nằm trong dự án trùng tu khu Thái Học khởi công xây dựng ngày 13 – 7 – 1999. Tiền đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, văn hoá nghệ thuật dân tộc. Hậu đường là kiến trúc gỗ hai tầng. Tầng một là nơi tôn vinh Danh sư Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An và là nơi trưng bày về Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long và nền giáo dụ Nho học Việt Nam. Tầng hai là nơi tôn thờ các danh nhân đã có công xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám và đóng góp vào sự nghiệp giáo dục Nho học Việt Nam. Đó là vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông. Bên ngoài Hậu đường, còn có nhà chuông, lưu giữ chuông Bích Ung được đúc từ năm 1768, và nhà trống có treo trống lớn màu đỏ. So với trường đại học Bologna ở Italia – ngôi trường đại học cổ nhất còn tồn tại ở châu Âu. Ra đời năm 1088 cho đến nay, trường vẫn giữ được những nét cổ kính với kiến trúc thời Trung cổ. Nổi bật với các dãy nhà màu cam. Mái vòm ở các hành lang được trang trí những họa tiết cầu kỳ. Quần thể Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng dựa trên việc kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Phật Giáo, Nho giáo và văn hóa dân gian Việt Nam. Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về, hình ảnh cổ kính, nét xưa lại hiện về thông qua những ông đồ “bày mực tàu giấy đỏ, bên phố đông người qua”. Và việc xin chữ đầu năm đã trở thành nét văn hóa riêng của người Hà Nội. Có thể nói,Văn Miếu – Quốc Tử Giám là biểu tượng của tri thức, văn hóa, khát vọng trong con đường học tập của các sĩ tử nói riêng và con người Việt nam nói chung, là nét son thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế. Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Hồ Gươm Đất nước ta được thiên nhiên ưu đãi có rất nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, ở mỗi vùng miền mỗi tỉnh đều có những danh lam nổi tiếng và mang những nét đặc trưng riêng, một trong những danh lam thắng cảnh đẹp của nước ta là Hồ Gươm, bất kì ai đến thành phố Hà Nội du lịch đều không thể bỏ qua Hồ Gươm, Hồ Gươm không chỉ đẹp bởi cảnh vật, có mực nước hồ xanh biếc, bóng liễu thướt tha mà Hồ Gươm còn gắn liền lich sử đấu tranh anh hùng bất khuất của nhân dân ta, là một danh lam thắng cảnh tự hào của người Hà Nội. Điểm đặc biệt của Hồ Gươm ngoài là danh lam thắng cảnh đẹp Hồ Gươm còn là di tích lịch sử của đất nước ta, truyền thuyết kể rằng thời giặc Minh đô hộ nước ta, chúng rất hung ác, gây ra nhiều tội ác với nhân dân ta, làm cho nhân dân sống trong cảnh khổ cực, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, cuộc khởi nghĩa ban đầu lực lượng mỏng, yếu thế nên thường bị thua, Đức Long quân đã quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần để đánh giạc, và từ lúc có gươm thần, Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn đánh đâu thắng tới đó, đánh tan quân sâm lược, giúp nước ta thoát khỏi ách đô hộ của giặc Minh, một năm sau Lê Lợi trả lại gươm thần cho Thần Kim Quy, từ đó hồ Tả Vọng được đổi tên là Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm. Có hai hòn đảo trên hồ là đảo Ngọc và đảo Rùa, đầu thế kỷ 19 người ta đã cho xây dựng một ngôi chùa trên đảo Ngọc, và goi là Chùa Ngọc Sơn, không lâu sau đó Chùa Ngọc Sơn không thờ phật nữa mà chuyển sang thờ thánh Văn Xương và Trần Văn Đạo nên đổi tên là Đền Ngọc Sơn, năm 1864 Tháp Bút được xây dựng trên gò Ngọc Bội đối diện với Đảo Ngọc. Chúng ta sẽ được tận hưởng những không gian cảnh vật thiên nhiên tuyệt đẹp, trong Hồ Gươm có cầu Thê Húc và đền Ngọc Sơn, cầu có một đoạn ngắn, cong cong trông rất đẹp và là lối duy nhất để du khách có thể vào đền Ngọc Sơn. Quanh hồ Hoàn Kiếm những cảnh vật xunh quang cũng rất đẹp, rặng liễu màu xanh rủ xuống hồ, quanh hồ có những ghế đá để du khách ngồi nghĩ ngơi, tiếng chim hót líu lo, mặt hồ xanh biếc, cảnh vật thật đẹp, không chỉ đắm chìm trong không khí hơi thở của lịch sử mà thiên nhiên quanh hồ cũng rất đẹp. Đến Hồ Gươm ta thấy còn thấy những bà lão đứa trẻ ngồi ghế đá nghỉ ngơi, những cặp tình nhân tay trong tay đi dạo phố, những cô bật nhạc tập thể dục… họ đều tận hưởng cảnh đẹp của Gươm theo cách riêng của họ, những hoạt động đó làm cho Hồ Gươm trở lên tấp nập sinh động hơn. Hồ Gươm không chỉ mang những nét đẹp cổ kính mà còn mang nét đẹp hiện đại, là danh lam thắng cảnh đẹp của đất nước ta, trải qua bao chặng đường phát triển của đất nước Hồ Gươm vẫn đẹp và trở thành điểm du lịch hấp dẫn đối với các du khách trong và ngoài nước. Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Chùa Thầy Chùa Thầy là một cổ tự rất nổi tiếng trên miền Bắc Việt Nam thuộc Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc Hà Nội. Chùa Thầy được xây dựng từ thời vua Lý Nhân Tông (1072 – 1127) gắn liền với huyền tích và công đức của Thiền sư Từ Đạo Hành. Thời gian đầu chỉ là cái am nhỏ ẩn mình bên hang núi. Sau nhiều lần tu tạo, chùa Thầy ngày một thêm kì vĩ. Khu chính điện của chùa tọa lạc trên một khuôn viên hình chữ nhật, dài 60m, rộng 40m, gồm ba toàn nhà to, dài xây song song hình chữ tam. Hai bên tòa chính điện là gác chuông và gác trống nhô cao. Chùa Thầy có hàng trăm pho tượng sơn son thếp vàng, khói hương nghi ngút suốt đêm ngày. Chùa Thượng có tượng Di Đà Tam Tôn, Bách hoa Đài (bệ đá trăm hoa), ngjt oàn thân Thiền sư Từ Đạo Hạnh nhập định trên toàn sen vàng. Chùa Trung thờ Tam Bảo. Chùa Hạ chỉ để niệm Phật, lễ bái,cầu siêu, giảng đạo. Rời chùa Cả, du khách, Phật tư đi qua Nguyệt Tiên Kiều và cổng Bất nhi Pháp môn để lên núi Sài Sơn. Du khách leo qua nhiều bậc đá, đi vào chùa Cao thắp hương, đến hang Thánh Hóa, nơi Từ Đạo Hạnh hóa Phật. Đến thăm hang Các Cớ: " Ở chùa Thầy có hang Cắc Cớ Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy." (Ca dao) Dân gian tin rằng trai tơ, gái tơ có vào thăm hang Cắc Cớ một lần thì mới có thể tìm được tình duyên đẹp, hạnh phúc ấm êm. Đứng trên đỉnh núi Sài Sơn nhìn ra bốn phía là thôn xóm lớp lớp gần xa, là màu xanh bát ngát của đồng lúa, là màu trắng lấp lánh của sông Đáy hiền hòa uốn khúc… Cảnh vật sầm uất, dạt dào sức sống của một miền quê thanh bình. Chùa Thầy còn có Chợ Trời (chợ cõi âm) , nơi cầu may, cầu lộc cho người trần. Bài thơ " Chợ Trời Sài Sơn" được nhiều người truyền tụng: Hóa công xây đắp đã bao đời, Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời. Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng, Ban chiều mây họp, tối trăng chơi. Bày hàng hoa quả, tư mùa sẵn, Mở phố giang sơn, bốn mặt ngồi. Bán lợi mua danh nào những kẻ, Chẳng lên mặc cả một đôi lời. Hồ Xuân Hương. Phong cảnh chùa Thầy rất đẹp, có sơn thủy hữu tình, gắn liền với nhiều huyền tích, huyền thoại. Lễ hội chùa Thầy là một lễ hội dân gian lớn nhất, đông vui nhất trong mùa xuân trên miền Bắc nước ta. Dân gian vẫn lưu luyến câu ca, câu hát : " Nhớ ngày mùng Bảy tháng Ba, Trở vào hội Láng, trở ra hội Thầy" Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Dinh Độc Lập Đố ai tìm được khắp chân trời góc bể Một thành phố trẻ măng nhưng lịch sử rất lạ lùng! (Hưởng Triều) Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh rất trẻ, nhưng có bề dày lịch sử kỳ lạ, hào hùng. Chỉ hơn 312 năm (tính từ 1698) Thành phố đã có biết bao sự kiện, nhân vật làm nên lịch sử. Con người thì hữu hạn, nhưng có những công trình là chứng nhân suốt mấy trăm năm. Dinh Độc Lập (DĐL) là một trong những công trình đặc trưng như vậy. Dinh Thống Đốc (Dinh Độc Lập hiện nay) làm bằng gỗ giữa bạt ngàn cây xanh, được xây dựng bề thế vào năm 1863 (1858 Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng). Năm 1868, chiếm xong Nam Kỳ Lục Tỉnh, Thực dân Pháp cho xây lại Dinh Thống Đốc (theo đồ án tòa thị sảnh Hồng Kông) và đặt tên là Dinh Norodom (Quốc Vương của Combodia bây giờ – ông nội của Thái Thượng Hoàng Sihanouk của Cambodia hiện nay). Gần như mọi vật liệu xây dựng được chở từ Pháp sang. Từ năm 1887, là Dinh Toàn Quyền Đông Dương. Tháng 3/1945, là nơi làm việc của Phát Xít Nhật tại Việt Nam. 6 tháng sau, người Pháp tái chiếm Nam Bộ. Năm 1954 là cơ quan đầu não của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa với tên gọi Dinh Độc Lập là nơi ở và làm việc của Tổng Thống nên có người gọi là Dinh Tổng Thống” cho đến 30.4.1975. Từ tháng 11.1975 có tên gọi mới là Hội trường Thống nhất Thành phố Hồ Chí Minh (Dinh Độc lập) – được xếp hạng là Di Tích Quốc Gia đặc biệt. Công trình hiện nay được khởi công vào năm 1962 theo đồ án thiết kế của Khôi Nguyên La Mã – Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ và hoàn thành năm 1966. Công trình cao 26m, có diện tích xây dựng 4.500m2 , diện tích sử dụng 20.000m2 gồm 3 tầng chính, 1 sân thượng, 2 gác lửng, tầng nền, 2 tầng hầm và 1 sân thượng làm sân bay trực thăng. Hơn 100 phòng họp – phòng làm việc khác nhau của Tổng Thống, Phó Tổng Thống và các cộng sự. Riêng phòng Đại Yến có sức chứa trên 500 người, cửa có kính chống đạn dày hơn 2cm. Tổng Hành Dinh ngầm dưới mặt đất là một khối hầm bêtông, bọc thép chịu đựng được bom lớn và đạn pháo, đáp ứng mục tiêu phòng thủ quân sự hiện đại nhất thời bấy giờ. Chi phí xây dựng vào thời điểm đó là 150.000 lượng vàng! Khuôn viên DĐL rộng 12ha với gần 2.000 cây xanh của 99 loài khác nhau. Nhiều cây cổ thụ trên trăm tuổi; nhiều cây quí như Trắc, Gõ Đỏ, Gõ Mật, Giáng Hương, Cẩm Lai, Sao Đen, Kim Giao… Phía trước là 2 công viên cây xanh. Từ trên máy bay, DĐL là một tổng thể kiến trúc độc đáo; hài hòa, có thể nói là đẹp nhất Việt Nam. Các chậu kiểng cổ hơn thế kỷ như Tùng La Hán, Mai Chiếu Thủy, Nguyệt Quới, Thiên Tuế, Sung, Duối, Cằng Thăng, Xương Cá…với nhiều thế uốn kỳ công. Tam Cương Ngũ Thường, Ngũ Phúc, Trực Liên Chi, Quần Thụ, Thất Hiền, Phụ Tử Giao Chi, Mẫu Tử Tương Tùy, Thiết Quan Âm Qua Cầu, Chùa Một Cột…Cả cây xanh và cây kiểng ở DĐL hình như cũng có linh hồn, biết buồn vui cùng thế cuộc? Tổng thể DĐL hình chữ CÁT (): tốt lành, may mắn. Trung tâm là phòng Trình Quốc Thư, Lầu Thượng là Tứ Phương Vô Sự hình chữ KHẨU () – đề cao giáo dục, tự do ngôn luận; có cột cờ chính giữa thành chữ TRUNG (): trung kiên. Mái hiên lầu Tứ Phương, bao lơn Danh Dự, và mái hiên tiền sảnh hình chữ TAM (): Viết Nhân, Viết Minh, Viết Võ; cộng nét sổ dọc thành chữ VƯƠNG (): trên có kỳ đài thành chữ CHỦ (): chủ quyền Tổ Quốc. Mặt trước có hình chữ HƯNG (): hưng thịnh…Vẫn còn đó hầu như nguyên vẹn nội thất tại nơi ở và làm việc của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa cũ với 4.000 ngọn đèn các loại; hàng chục tác phẩm mỹ thuật quí, thảm, rèm, bàn ghế, vật dụng hạng nhất; những bức tranh sơn dầu, sơn mài kích cỡ lớn, nhiều khi chiếm trọn cả một mảng tường… Đặc biệt là trong phòng Trình Quốc Thư nằm ở vị trí trung tâm lầu nghi lễ tầng 2, các vật dụng từ bàn ghế đến tranh trang trí đều bằng chất liệu sơn mài truyền thống. Xen giữa các đường nét kiến trúc hiện đại bằng bêtông và sắt thép là những môtíp trang trí gợi nhớ các họa tiết cổ truyền trong nhà cửa, đền chùa, cung điện Việt Nam. Từ bức rèm hoa đá đồ sộ ngoài mặt tiền, gồm các tấm lam đứng hình lóng trúc nhắc nhở cửa bàn khoa” cung điện xứ Huế, cho đến những phù điêu, tượng đắp nổi, chạm trổ trên gỗ, thép uốn, tay nắm con triện, tay vịn cầu thang… đều mang dáng Việt. Mọi sự xếp đặt từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới đều tuân thủ nghiêm nhặt triết lý Phương Đông và cá tính của dân tộc, một sự kết hợp hài hòa hiện đại và truyền thống đến mẫu mực. Đến với DĐL là tìm về nguồi cội của thành phố với những bước thăng trầm. Nhiều hiện vật quí hiếm cả trăm năm, chứng kiến bao sự kiện lịch sử. Bộ sưu tập cây xanh, cây kiểng và tặng phẩm độc đáo; không gian lý tưởng và tầm vóc kiến trúc đặc sắc…Tất cả tạo nên cho DĐL dáng dấp của một Bảo Tàng – Chứng Nhân Lịch Sử cực kỳ sống động., có một không hai ở nước ta. Nhiều du khách trong nước và quốc tế tới đây đều khẳng định: Đến Sài Gòn mà bỏ qua Dinh Độc Lập coi như chưa đến Thành phố Hồ Chí Minh”. Sẽ thật thiếu sót nếu bạn là công dân Thành phố Hồ Chí Minh mà chưa một lần đến DĐL – Bảo Tàng – Chứng Nhân Lịch Sử. Bao điều kỳ thú, hấp dẫn đang chờ bạn tìm hiểu, để yêu và tự hào thêm Thành phố Hồ Chí Minh, để giới thiệu với bạn bè gần xa. Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Đền Hùng Trên đất nước Việt Nam yêu dấu có rất nhiều cảnh đẹp. Nhưng cảnh đẹp mà tôi tự hào nhất là Đền Hùng – nơi thờ các Vua Hùng thời xưa đã có công dựng nước. Đền Hùng là một thắng cảnh đẹp, một di tích lịch sử có ý nghĩa nhất đôi với người Việt Nam vì đó là nơi thờ cúng, tưởng niệm của vua Hùng, tổ tiên chung của cả dân tộc. Đền Hùng nằm ở phía tây bắc Hà Nội, cách Thủ đô chưa đầy 90km. Đền Hùng được xây dựng trên núi Hùng hay còn được gọi là núi Cả, núi Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hi Cương, Hi Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiêu Sơn,…). Núi có độ cao 175m so với mặt nước biển. Tục truyền rằng, núi Hùng là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam, mình rồng uốn khúc thành núi Vặn, núi Trọc, núi Pheo. Núi Vặn cao 170m, xấp xỉ núi Hùng. Núi Trọc nằm giữa núi Hùng và núi Vặn, cao 145m. Theo truyền thuyết, ba đỉnh núi này là ba đỉnh “Tam sơn cấm địa” được dân gian thờ từ rất lâu đời. Phong cảnh nơi đây mới hùng vĩ làm sao! Ở đó núi non trùng điệp, rừng cây bạt ngàn xanh tốt. Vào những ngày đẹp trời, ta có thể nhìn thây dòng sống Lô hiền hoà, trong vắt, những xóm làng ẩn hiện trong vườn cây trái như một bức tranh đầy màu sắc. Từ núi Nghĩa Lĩnh có thế’ quan sát được cả một vùng rất rộng của trung tâm Bắc Bộ với ngã ba Hạ, nơi sông Lô đổ nước vào sống Hồng, với các dãy núi Tam Đảo, Ba Vì và các dãy đồi lượn sóng xen kẽ giữa những cánh đồng tốt tươi, những vùng quê trù phú của vùng trung du. Toàn bộ khu di tích gồm 4 đền, 1 chùa và một lăng hài hòa trong phong cảnh thiên nhiên, có địa thế cao rất đẹp mắt. Cao nhất là Đền Thượng, thấp nhất là Đền Giếng. Các Đền được xây dựng theo một kiến trúc cổ kính. Sau khi qua cổng chính của khu di tích, qua 225 bậc đá, là lên đến đền Hạ. Ở khu vực Đền Hạ có chùa Thiên Quang và cây Thiên Tuế 700 tuổi; gần đó có đền Ngọc và giếng Ngọc. Từ Đền Hạ theo 168 bậc đá nữa là Đền Trung và lên tiếp 102 bận nữa thì lên Đền Thượng và có lăng vua Hùng, tượng trưng cho mộ Tổ. Cổng đền được xây theo kiểu vòm cuốn. Tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột trụ cổng tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, bốn góc tầng mái trang trí rồng, đắp nổi hai con nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sĩ; giữa tầng một có đề bức đại tự: “Cao sơn cảnh-hành” (lên núi cao nhìn xa rộng). Mặt sau cổng đắp hai con hố là hiện thân vật canh giữ thần. Qua cổng chính là Đền Hạ. Tương truyền nơi đây, Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai, nguồn gốc “đồng bào” (cùng bọc) được bắt nguồn từ đây. Ngay chân Đền Hạ là nhà bia, trên đỉnh có đắp hình, nậm rượu. Nơi đây đặt bia đá ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19/9/1945: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Gần Đền Hạ có ngôi chùa Thiên Quang thiền tự. Trước cửa chùa có cây thiên tuế là nơi Bác Hồ ngồi nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ. Chùa có một gác chuông được xây dựng vào thế kỉ XVII. Tiếp đến là Đền Trung. Tương truyền đây là nơi các vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Đây cũng là nơi vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu – người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh dày. Đền Thượng được đặt trên đỉnh núi Hùng. Tương truyền rằng thời Hùng Vương, Vua Hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để cử hành những buổi lễ thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt. Tục truyền đây còn là nơi vua Hùng thứ 6 lập đàn cầu trời ban cho người tài ra giúp nước đánh giặc Ân. Sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc và bay về trời, vua Hùng cho lập đền thờ vọng trên đỉnh núi, về sau, nhân dân đặt thêm bài vị vua Hùng vào thờ cúng. Tiếp đến là Lăng Hùng Vương, tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng hình vuông, tầng dưới bốn góc đắp bốn con rồng tư thế bò, tầng trên đắp rồng uốn ngược, đỉnh lăng đắp hình “quả ngọc”. Ba mặt Tây, Đông, Nam đều có cửa vòm, hai bén cửa đều đắp kì lân, xung quanh có tường bao quanh, trang trí hoa, chất liệu bàng đá. Trong lãng có mộ Vua Hùng. Mộ xây hình hộp chữ nhật dài, có mái mui luyện. Từ Đền Thượng, đi tham quan một đoạn nữa là đến Đền Giếng (tên chữ là Ngọc Tỉnh), tương truyền là nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa (con gái của Vua Hùng thứ 18) thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lí qua vùng này. Hai bà có công dạy dân trồng lúa nước và trị thuỷ nên dược nhân dân lập đền thờ phụng muôn đời, cổng Đền Giếng có kiểu dáng gần giống cổng chính nhưng nhỏ và thấp hơn. Đền Tổ Mẫu Âu Cơ được xây dựng trên núi Ốc Sơn (núi Vặn). Trong đền có tượng thờ Mẹ Âu Cơ và hai Lạc hầu, Lạc tướng. Đường đi lên đền được xây bằng 553 bậc đá Hải Lựu. Ngay dưới chân núi là Bảo tàng Hùng Vương. Trong Bảo tàng có nhiều hiện vật, tranh ảnh, tượng lớn khắc hoạ chủ đề: “Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên mảnh đất Phong Châu lịch sử”. Vào những ngày giỗ Tổ Hùng Vương, cờ, hoa, biểu ngữ được trang hoàng khắp mọi nơi. Cờ bay đỏ những cành cây, đỏ những mặt hồ. Trong những ngày lễ, Đền Hùng càng đông khách thập phương đến tham quan và thắp hương, tưởng nhớ ghi dấu công ơn của các vua Hùng. Đền Hùng vừa là thắng cảnh đẹp, vừa là một di tích lịch sử — văn hóa đặc biệt quan trọng đối với người Việt Nam. Về với Đền Hùng là về với cội nguồn dân tộc, để tự hào về dòng giống tiên rồng đang chảy trong huyết mạch của mỗi người dân Việt Nam! Trẩy hội Đền Hùng là truyền thống văn hóa đẹp của người Việt Nam. Trong rất nhiều những ngày hội được tổ chức trên khắp đất nước, hội đền Hùng vẫn được coi là hội linh thiêng nhất bởi đó là nơi mỗi người Việt Nam nhớ về cội nguồn và truyền thống oai hùng, hiển hách của cha ông. Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Chùa Trăm Gian Chùa Trăm Gian còn được gọi là chùa Sở, được xây dựng từ đời vua Lý Cao Tông (1185). Chùa tọa lạc trên một quả đồi cao chứng 50m, thuộc dãy núi Tiên Lữ (còn gọi là Mã Sơn) , xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc Hà Nội. Cảnh quan của chùa Trăm Gian rất u tích, mái chùa che rợp bởi nhiều lớp, nhiều tầng tán là xanh sum suê của hàng trăm cây cổ thụ, cây gỗ quý như cây lim, cây trắc… Đặc biệt có gần 30 cây thông xanh tốt được trồng hàng trăm năm nay. Chùa Trăm Gian được làm theo kiểu kiến trúc thời Lý – Trần trong thế kỉ 12. Quy mô đồ sộ, rất độc đáo : cứ bốn cột là một gian ; chùa có cả thảy 100 gian. Phía ngoài có bốn cột trụ và hai quá dùng làm nơi đánh cờ tướng trong ngày hội. Nhà Giá Ngự nhìn ra ao sen. Tam quan còn gọi là gác chuông, kiến trúc theo kiểu hai tầng chồng diêm tám mái bằng gỗ quý, cao khoảng 8m. Trên gác chuông treo một quả chuông cao 1,4m, đường kính 0,6m, đúc năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794). Đi sâu vào là chùa chính. Hai vị Hộ Pháp (Ông Thiện, Ông Ác) vô cùng đồ sộ, oai nghiêm đứng trấn giữ. Gần đấy có Tòa Thiêu Hương. Trong cùng là hai lớp thượng điện thờ Phật. Nối tiếp nhà Tổ là một ngôi nhà 16 cột làm theo kiểu bốn mái, đao cong với hình tượng linh vật rướn cánh tung bay lên trời xanh. Ở đây có treo một cái trống to, mặt trống có đường kính 1m, tang trống màu son, một chiếc khánh đồng dài 1,2m , cao 0,6m, đúc năm Cảnh Hưng thứ mười (1750). Chùa Trăm Gian hiện còn trên 100 tượng Phật bằng gỗ hoặc bằng vàng tâm, hoặc bằng đất sơn son thếp vàng. Có những pho tượng quý hiếm như tượng Tuyết Sơn, 18 vị La Hán, Phật Quan Thế Âm. Còn có tượng Quan Đô (Đô đốc Đông) – vị anh hùng một thời Tây Sơn đã tiêu diệt hàng vạn giặc Thanh xâm lược (1789) ở Đống Đa. Chùa Trăm Gian gắn liền với bao huyền tích huyền thoại. Chùa từng bị giặc Minh đốt phá tan hoang, đã được trùng tu tôn tạo nhiều lần. Chùa Trăm Gian là một chùa cổ, một danh lam thắng cảnh của xứ Đoài, một di tích văn hóa – lịch sử của dân tộc. Ngày Mồng 4 tháng Giêng hằng năm là ngày lễ hội chùa Trăm Gian kéo dài trong 10 ngày, có hàng nghìn hằng vạn Phật tử và du khách gần xa kéo về dự lễ hội. Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Địa đạo Củ Chi Nằm cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh 70km về phía tây bắc, địa đạo Củ Chi sẽ dưa du khách trở về với những tháng năm gian khổ nhưng cũng đầy hào hùng của dân tộc. Dù du khách đã nghe nhiều về địa đạo nhưng phải đến tận nơi, mắt thấy, tai nghe mới thấy hết sự thú vị, độc đáo của vùng đất thép thành đồng này. Địa đạo Củ Chi không mang vóc dáng vẻ kì vĩ của những kì quan tồn tại hàng bao thế kỉ như Kim Tự Tháp, vườn treo Babilon, Angkovát… nhưng đây là một công trình vĩ đại với trên 200km đường hầm tỏa rộng như mạng nhện trong lòng đất. Nơi đây quả là một kì quan đánh giặc độc đáo có một không hai. Nó mang chiều sâu thăm thẳm của lòng căm thù và ý chí kiên cường, bất khuất của “vùng đất thép”, một trong những biểu tượng rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Việt Nam. Nhưng sự tích có thật từ địa đạo đã quá sức tưởng tượng của con người. Chỉ cần chui xuống một đoạn đường hầm, bạn sẽ hiểu vì sao nước Việt Nam nhỏ bé lại chiến thắng kẻ thù là một nước lớn và giàu có vào bậc nhất thế giới. Đến đây ta mới hiểu vì sao Củ Chi, mảnh đất nghèo khó lại có thể đương đầu ròng rã suốt 21 năm với một đạo quân đông hơn gấp bội, thiện chiến, được trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, tối tân. Trong cuộc đọ sức tưởng chừng không cân sức này, nhân dân Củ Chi đã chiến thắng oanh liệt. Rời địa đạo, bạn sẽ đến đền Bến Dược. Ngắm cổng tam quan, nhà văn bia, tháp 9 tầng và ngôi điện chính với kiến trúc truyền thống rất đẹp, hài hòa cùng thiên nhiên. Đặc biệt là khu Đền tưởng niệm chiến sĩ và đồng bào với một quần thể kiến trúc mang tính đặc thù dân tộc, hiện đại trang nghiêm. Trong Đền tưởng niệm có ghi đầy đủ họ tên của 44.357 liệt sĩ hi sinh trên chiến trường Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định trong các cuộc kháng chiến giải phóng bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, trên 632 tấm đá hoa cương. Trước đền có bài văn bia khắc đá của nhà thơ Viễn Phương. Đền tưởng niệm Bến Dược là công trình độc đáo của khu di tích, được xây dựng lên từ nguyện vọng tha thiết của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân cả nước, thề hiện đạo 11 “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Với giá trị và tầm vóc chiến công được đúc kết bằng xương máu, công sức của hàng vạn chiến sĩ, đồng bào, khu căn cứ địa đạo Củ chi đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia. Không chỉ tham quan khu di tích, bạn có thể tập bắn súng, thưởng thức những món ăn đặc sản của Củ Chi tại nhà hàng Địa đạo Củ Chi với khung cảnh thoáng mát, bên dòng sông Sài Gòn thơ mộng. Rời địa đạo Củ Chi, chắc chắn trong lòng bạn sẽ đọng lại rất nhiều cảm xúc. Đó chính là lòng cảm phục sự thông minh, linh hoạt và sáng tạo của người dân Củ Chi khi thiết kế ra hệ thống địa đạo; là cảm giác thích thú khi được làm một chú bộ đội, được bắn súng thật và hơn thế là niềm xúc động khi nghiêng mình tưởng nhớ những anh hùng đã ngã xuống cho độc lập, tự do hôm nay… Đó là những giá trị lịch sử sẽ in đậm trong lòng những ai đã từng một lần đến với địa đạo Củ Chi. Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Thuyết minh về Kiếp Bạc và lễ hội Kiếp Bạc Về thời Lý – Trần , Kiếp Bạc thuộc hương Vạn Kiếp, lộ Lạng Giang, nay thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Kiếp Bạc là một địa bàn, một vùng chiến lược trọng yếu của Đại Việt trong ba lần đánh thắng giặc Nguyên- Mông xâm lược. Là một vùng thắng địa, sông ngòi chằng chịt, núi non trập trùng. Có núi Rồng hình tay ngai. Phía Đông Nam là vùng núi Phả Lại, núi Phượng Hoàng, Côn Sơn. Có vụng Trần Xá, tháng 11 năm 1282 họp Hội nghị Vương hầu bàn kế sách đánh giặc Nguyên – Mông. Phía Tây Vạn Kiếp giáp sông Thương, một nhánh của sông Lục Đầu mà thời Trần gọi là sông Bình Than. Giữa sông có Cồn Kiếm; phía bắc có thung lũng Vạn Yên và sông Vang. Gần đấy là núi Rồng, núi Nam Tào, núi Bắc Đẩu. Địa thế hiểm trở, có thể hội sư hàng chục hàng vạn tinh binh, hàng ngàn chiến thuyền. Từ Kiếp Bạc có 6 đường sông và đường bộ tỏa về các phía như Thanh Long, Bạch Đằng, Vân Đồn, Hàm Tử, Chương Dương, ải Nam Quan….Kiếp Bạc là vùng trọng yếu về quân sự, tiến có thể công, thoái có thể thủ. Từ Kiếp Bạc, Thương tướng Trần Quang Khải mới cấp tốc hành binh lập nên chiến công Hàm Tử chám đầu Toa Đô. Từ Kiếp Bạc, Phiêu kị tướng quân Trần Khánh Dư mới kéo thẳng ra Vân Đồn đánh tan đội binh lương chiến thuyền Trương Văn Hổ. Và cũng từ Kiếp Bạc, Trần Quốc Tuấn mới kéo đại binh thẳng tiến đến sông Bạch Đằng, bắt sống tướng Ô Mã Nhi, tiêu diệt hàng vạn giặc. Đền Kiếp Bạc là nới an giấc ngàn thu của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Ngày 20 tháng 8 năm Hưng Long thứ tám (1300), ngài đã quy tiên. Đền Kiếp Bạc là một di tích văn hóa – lịch sử của Đại Việt. Câu đối, hoành phi, tượng thờ sơn son thếp vàng chói lọi. Hàng chữ lớn " Vạn cổ thử giang sơn" . Đôi câu đối chói lọi : " Hào khí Đông A" : Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí; Lục Đầu vô thủy bất thu thanh. (Vạn Kiếp núi lồng hình kiếm dựng; Lục Đầu vang dậy tiếng quân reo.) Lễ hội Kiếp Bạc từ 16 đến 20 tháng 8 âm lịch hàng năm. Hàng vạn người đã nô nức kéo về Kiếp Bạc, để tưởng niệm người anh hùng thưở Bình Nguyên, cũng để nêu cao tinh thần: "Sát Thát".
Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta – Văn mẫu lớp 9
6,508
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về một giống vật nuôi – Thuyết minh về con gà 2 Thuyết minh về một giống vật nuôi – Thuyết minh về con mèo 3 Thuyết minh về một giống vật nuôi – Thuyết minh về con trâu 4 Thuyết minh về một giống vật nuôi – Thuyết minh về con chó nhà em 5 Thuyết minh về một giống vật nuôi – Thuyết minh về con lợn 6 Thuyết minh về một giống vật nuôi – Thuyết minh về con tằm Thuyết minh về một giống vật nuôi – Thuyết minh về con gà Con gà là vật nuôi gắn bó với đời sống của con người đã lâu đời, được nhân dân ta xếp vào loại lục súc, gia cầm. Nhà nông dùng chuồng để nuôi gà, lót ổ rơm cho gài mái đẻ, chăn thả tự nhiên. Trông một đàn gà, gà trống và gà mái chiếm tỉ lệ khoảng 50%. Gà trống có bộ lông sặc sỡ, đủ bốn đến năm màu (đỏ, tía, nâu, xanh biếc, đen, vàng chanh …) gà trống có màu đỏ thắm, mắt màu vàng than, mỏ sắc như mũi giáo bằng thép, chân có lớp vảy cứng bao bọc, móng chân sắc như những chiếc vuốt. Cựa gà trống nhọn hoắt như mũi dùi, là vũ khí rất lợi hại. Con gà trống nào cũng có một đồng hồ sinh học rất chính xác để gáy sang canh, gáy dồn báo sáng vang rộn cả xóm làng. Gà trống gáy là cái đồng hồ báo thức cho nhà nông ra đồng cày cấy: " Lao xao gà gáy rạng ngày Vai vác cái cày, tay dắt con trâu Bước chân xuống cánh đồng sâu Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu ra cày" (Ca dao) Gà trống để phối giống. Các nhà gi cầm học cho biết một chú gà trống có thể cặp kè với 20 ả gà mái ; vòng đời 3, 4 năm, nó có một đại gia tộc gồm hàng trăm con, cháu, chắt, chút, chít. Thịt gà trống ngọt đậm, gà thiến bèo, to con. Chọi gà là một trò chơi dân gian được tổ chức trong một số lễ hội. Gà mái đẻ trứng, ấp và nuôi con, tượng trưng cho sự tần tảo, đức hi sinh của bà mẹ. Một gà mái có thể đẻ trứng và ấp, nuôi con bốn lứa/năm. Thịt gà mái ghẹ là ngon nhất. Câu tục ngữ: "Cơm gà cá gỡ" cho biết món thịt gà là món đầu vị trong mâm cỗ, giỗ, Tết của nhân dân ta xưa nay. Trong nền kinh tế thị trường, nhiều trại gà công nghiệp nuôi đến hàng nghìn, hàng vạn con. Thịt gà công nghiệp, trứng gà công nghiệp không ngon bằng thịt gà ta, trứng gà ta. Gà Đông Tảo, gà Hồ … là hai giống gà nổi tiếng nhất ở nước ta, thịt thơm ngon, có giá trị kinh tế cao. Nghe gà gáy mà man mác nhớ đến truyện cổ tích Sọ Dừa. Nghe gà gáy sáng, kẻ tha hương vương vấn tình quê vơi đầy. Nuôi gà chăn thả tự nhiên là nguồn thu nhập khá của không ít gia đình ở mọi miền quê trên đất nước ta. Thuyết minh về một giống vật nuôi – Thuyết minh về con mèo Có rất nhiều loài vật đã được con người thuần hoá, nuôi dưỡng và trở thành "thú cưng" trong mỗi giã đình. Nhưng trong số đó, có thể nói mèo là loài vật được yêu chiều, nâng niu nhất. Mèo nhà là một phần loài trong họ mèo (trong họ mèo còn có báo, linh miêu..). Theo những căn cứ khoa học đáng tin cậy thì chúng đã sống gần gũi với loài người trong khoảng từ 3.500 năm đến 8.000 năm. Có rất nhiều các giống mèo khác nhau, một số không có lông hoặc không có đuôi. Các màu lông mèo rất đa dạng: màu trắng, màu vàng, màu xám tro… Có những chú mèo mang nhiều màu lông nên có những tên gọi như mèo tam thể (có ba màu lông), mèo vằn (hai màu lông chạy xen nhau), mèo đốm,… Mèo con từ 1 tháng tuổi trở lên đã được mèo mẹ dạy các động tác săn bắt mồi như chạy, nhảy, leo trèo, rình và vồ mồi. Mèo 4 tháng tuổi có thể bắt được chuột, gián, thạch sùng… Chúng giao tiếp bằng cách kêu "meo”, "mi-ao", "gừ-gừ", rít, gầm gừ và ngôn ngữ cơ thể. Mèo trong các bầy đàn sử dụng cả âm thanh lẫn ngôn ngữ cơ thể để giao tiếp với nhau. Thông thường mèo nặng từ 2,5 kg đến 7 kg. Cá biệt, một số chú mèo từng đạt tới trọng lượng 23 kg vì được cho ăn quá nhiều. Trái lại, cũng có những chú mèo rất nhỏ (chưa tới 1,8 kg), ở tình trạng nuôi trong nhà, mèo thường sống được từ 14 năm tới 20 năm. Chú mèo già nhất từng biết đến trên thế giới đã sống 36 năm. Mèo giữ năng lượng bằng cách ngủ nhiều hơn đa số các loài động vật khác, đặc biệt khi chúng già đi. Thời gian ngủ hàng ngày có khác nhau, thường là 12 giờ đến 16 giờ, mức trung bình 13 giờ đến 14 giờ. Một số chú mèo có thể ngủ 20 giờ trong ngày. Vì thường chỉ hoạt động nhiều lúc mặt trời lặn, mèo rất hiếu động và hay đùa nghịch vào buổi tối và sáng sớm. Mèo là những "vận động viên điền kinh" tài giỏi có thể chạy rất nhanh và nhảy xuống đất từ độ cao lớn. Có điều đó vì chúng có cấu tạo cơ thể rất đặc biệt. Mèo có bốn chân, mỗi bàn chân đều có vuốt và đệm thịt ở phần tiếp xúc với mặt đất. Giống như mọi thành viên khác của họ mèo, vuốt của mèo thu lại được. Bình thường, ở vị trí nghỉ các vuốt được thu lại trong da và lông quanh đệm ngón. Điều này giữ vuốt luôn sắc bởi chúng không tiếp xúc với mặt đất cũng như cho phép mèo đi nhẹ nhàng rình mồi. Các vuốt chân trước thường sắc hơn so với phía sau. Mèo có thể giương một hay nhiều vuốt ra tùy theo nhu cầu. Khi rơi từ trên cao xuống, mèo có thể sử dụng cảm giác thăng bằng sắc bén và khả năng phản xạ của nó tự xoay thân tới vị trí thích hợp. Khả năng này được gọi là "phản xạ thăng bằng." Nó luôn chỉnh lại thăng bằng cơ thể theo một cách, khiến chúng luôn có đủ thời gian thực hiện phản xạ này khi rơi. Giống như chó, mèo là loài vật đi trên đầu ngón chân: chúng bước trực tiếp trên các ngón, các xương bàn chân của chúng tạo thành phần thấp nhìn thấy được của cẳng chân. Mèo có thể bước rất chính xác, bởi vì khi đi, chúng đặt bàn chân sau (hầu như) trực tiếp lên đầu của bàn chân trước, giảm thiểu tiếng ồn và dấu vết để lại. Điều này cũng giúp chúng có vị trí đặt chân sau tốt khi bước đi trên bề mặt ghồ ghề. Hỗ trợ đắc lực cho mèo trong quá trình di chuyển, ngoài chân ra còn có đuôi. Đuôi mèo dài và uyển chuyển, chúng được dùng để xua đuổi ruồi muỗi. Nhưng chức năng chủ yếu là giữ thăng bằng khi chạy nhảy leo trèo. Tai mèo khá thính. Đa số mèo có tai thẳng vểnh cao. Nhờ tính năng động cao của cơ tai mà mèo có thể quay người về một hướng và vểnh tai theo hướng khác. Mắt mèo cũng là một bộ phận khá đặc hiệt. Nghiên cứu cho thấy tầm nhìn của mèo tốt nhất vào ban đêm so với người, và kém nhất vào ban ngày. Màu mắt của mèo khá đa dạng: màu vàng, màu đen, màu nâu, màu xanh… về thính giác, con người và mèo có tầm thính giác ở mức thấp tương tự như nhau, nhưng mèo có thể nghe được những âm thanh ở độ cao lớn hơn, thậm chí tốt hơn cả chó. Khi nghe âm thanh nào đó, tai mèo sẽ xoay về hướng đó; mỗi vành tai mèo có thể quay độc lập về hướng nguồn âm thanh. Khứu giác của mèo cũng rất phát triển. Nó mạnh gấp 14 lần so với của con người. Số lượng tế bào khứu giác ở mũi của chúng cũng nhiều gấp đôi, do dó mèo có thể ngửi thấy những mùi mà chúng ta không nhận thấy được. Mèo là động vật ăn thịt thế nên đối tượng để nó săn mồi cho nhu cầu sinh tồn là những loài vật nhỏ như: chuột, rắn, cóc nhái, cá… Vũ khí để săn mồi là móng vuốt. Khi gặp con mồi, nó thường đứng từ xa cách con mồi khoảng chừng 5 đến 6 mét. Sau đó nó nằm bẹp hạ cơ thể xuống sát đất, mắt chăm chăm nhìn không nháy mắt đến đối tượng đồng thời bước tới con mồi cần săn rất nhẹ nhàng. Khi đến gần khoảng cách mà nó cảm thấy ăn chắc, loài mèo tung ra sức mạnh cuối cùng bằng cách đẩy mạnh 2 chân sau và đồng thời phóng mạnh toàn cơ thể tới phía trước và dùng móng sắc nhọn duỗi thẳng ra và chụp lấy con mồi. Ngày nay, loài mèo luôn sống với người qua nhiều thế hệ con cháu. Cho nên, thức ăn của loài mèo là cơm hoặc thức ăn sẵn. Nhưng thức ăn ưa thích nhất của loài mèo vẫn là món cá. Mèo thường tránh nơi ẩm ướt và ở rất sạch sẽ. Để làm vệ sinh cho cơ thể, nó thường thè lưỡi ra, tiết nước bọt vào chân của nó rồi bôi lên mặt và toàn thân thể. Hành động này cho thấy mục đích nó muốn xóa sạch các vết bẩn, ngay cả hơi tay của con người vừa mới bồng hay vuốt ve nó. Loài mèo luôn tự làm lấy vệ sinh cho cơ thể nhiều lần trong ngày, thường là lúc nó mới ngủ dậy hay đi đâu đó về. Hành động đó đã trở thành thói quen thường thấy ở loài mèo ngay cả khi cơ thể của nó không có vết bẩn nào cả. Trải qua một thời gian dài được con người thuần dưỡng, ngày nay, mèo đã trở thành một loài vật cưng trong nhiều gia đình, đặc biệt là các em nhỏ. Mèo không chỉ là một "người bảo vệ", một "dũng sĩ diệt chuột" mà còn là một loài vật cảnh hết sức dễ thương. Có lẽ bởi vậy, tinh cảm giữa con người và loài mèo sẽ ngày càng gắn bó hơn. Thuyết minh về một giống vật nuôi – Thuyết minh về con trâu Con trâu là hình ảnh gắn liền với làng quê Việt Nam, với những khóm tre, với đồng ruộng và với người nông dân chân lấm tay bùn. Từ bao đời nay, khi nhắc đến hình ảnh con trâu chúng ta lại nghĩ đến vai trò to lớn của nó đối với nông nghiệp Việt Nam, đó là biểu tượng của sự cần cù, chăm chỉ, chất phác của con người Việt Nam. Cha ông ta vẫn truyền tai nhau rằng “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. ĐỐi với những người nông dân quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời thì con trâu chính là gia tài đáng giá hơn cả. Về nguồn gốc xuất xứ của trâu tại Việt Nam có rất nhiều tài liệu, tuy nhiên chưa có một tài liệu nào chính xác nói đến sự ra đời của trâu là như thế nào. Tùy vào điều kiện thiên nhiên địa lí mà trâu ở mỗi vùng miền lại có những đặc tính sinh trưởng khác nhau. Ở Việt Nam khí hậu nhiệt đới gió mùa nên trâu có nguồn gốc là trâu rừng thuần hóa, hay còn gọi là trâu đầm lầy. Trâu có hai loại :trâu đực và trâu cái. Chúng có đặc tính giống nhau nhưng về hình dáng, kích thước thì khác nhau một chút, tuy nhiên không đáng kể. Trâu đực thường to và cao hơn trâu cái, sừng to và dày hơn, đôi chân chắc nịch, lúc chạy rất nhanh. Đầu của trâu đực nó hơn trâu cái một chút. Tuy với những sự khác nhau như vậy nhưng đặc tính của trâu là hiền lành, chậm chạp, nặng nề. Mỗi con trâu trưởng thành có khối lượng từ 200kg đến 500kg tùy vào sức khỏe của mỗi con. Một đặc điểm rất dễ nhận dạng của trâu chính là không có hàm răng trên. TRâu thuộc động vật nhai lại, sức nhai của trâu rất bền. Sừng của trâu dài và cong cong, rất chắc chắn nhưng cấu tạo bên trong đều rỗng tuếch. Chân của trâu rất chắc, ngắn, mập, lúc bước đi thường chệnh choạng ra hai bên. Sức chịu đựng của trâu rất dẻo dai, nó có thể chở được rất nhiều đồ đạc. Tấm thân của trâu dường như rất chắc chắn, da của nó rất dai. Ngày xưa cha ông ta vẫn làm áo bằng da trâu. Thường thì longo trâu thường có màu đen, nhưng có một số con trâu có màu vàng nhạt, đó là do giống lai. Trâu là người bạn thân thiết của nhà nông, từ công việc cày bừa, kéo lúa, kéo ngô, chở hoa màu…đều đến “lượt” của nó. Sức trâu rất dẻo dai, nó có thể làm quần quật cả ngày không biết mệt. Nhưng sức ăn của nó cũng rất nhiều, ăn cỏ, ăn cám…và đặc biệt khi uống nước thì trâu uống rất nhiều. Thời tiết thay đổi cũng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của trâu nên vào mùa hè người nông dân thường cho trâu ra ao tắm tầm 30 phút hằng ngày, vào mùa đông thì giữ ấm cho trâu bằng việc lót rơm rạ ở chuồng cho trâu nằm. Trâu là động vật sinh con và nuôi con bằng sữa, mỗi năm nó sẽ sinh ra một con nghé con. Đối với người nông dân thì con trâu chính là cơ ngơi mà họ có nên việc chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ là cực kì cần thiết. Người nông dân nếu thiếu đi con trâu thì sẽ không làm được gì vì nó có sức kéo, sức cày bừa, sinh đẻ…Bên cạnh đó trâu còn là con vật linh thiêng trong các lễ hội chọi trâu lớn. Thịt trâu ăn rất ngon, thơm và bổ dưỡng. Sừng trâu, da trâu còn dùng để làm các trang sức, quần áo cho con người. Đặc biệt sự xuất hiện của trâu trong Seagame 22 tại Việt Nam thực sự là biểu tượng, là niềm tự hào của nhân dân việt nam. Nó mang ý nghĩa biểu trưng cho sự cần cù, chăm chỉ, cần mẫn, hiền lành của người nông dân. Một hình đáng đáng trân trọng. Trâu cũng gắn liền với nhiều kỉ niệm tuổi thơ của trẻ em nông thôn, theo các em lớn lên từng ngày. Thật vậy, mặc dù hiện nay xuất hiện nhiều loại máy móc, phương tiện hiện đại nhưng trâu vẫn luôn là hình ảnh không thế thay thế được của người nông dân. Nó luôn là người bạn đáng tin cậy và hiền lành nhất. Hơn hết nó chính là nét đẹp của con người việt nam. Thuyết minh về một giống vật nuôi – Thuyết minh về con chó nhà em Chó là một loài động vật rất có ích cho con người. Nó trung thành, dễ gần và là bạn của con người. Cũng có thể vì thế mà người ta gọi nó là “linh cẩu”. Chó có rất nhiều loại và từ đó người ta đặt tên cho chúng. Cho là một trong số những loài động vật được thuần dưỡng sớm nhất. Trung bình chó có trọng lượng là từ một đến tám mươi ki-lô-gam. Chó là giống vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 12.000 năm vào thời kỳ đồ đá. Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói (một loài động vật có vú gần giống như chồn sinh sống ở các hốc cây vào khoảng 400 triệu năm trước). Còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ, màu xám. Lúc mới ra đời, chó con không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loài thú này là 42 chiếc. Mắt chó có đến 3 mí: một mí trên, một mí dưới và mí thứ ba nằm ở giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khỏi bụi bẩn. Tai của chúng thì cực thính, chúng có thể nhận được 35.000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất tuyệt vời. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi. Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế thị giác của chúng rất kém. Ta có thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay đuôi che lấy cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cho mình. Chó có đến 2 lớp lông: lớp bên ngoài như chúng ta đã thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong nhũng ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức. Chó là loài động vật có bốn chân, mỗi bàn chân đều có móng vuốt sắc nhưng khi đi thì cụp vào. Chó có bộ não rất phát triển, xương quai hàm cứng. Đặc biệt, tai và mắt chó rất thính và tinh vào ban đêm. Chó vẫy đuôi để biểu hiện tình cảm. Chó là loài động vật có bộ phận tiêu hóa rất tốt. Chó có đặc tính là chạy rất nhanh bằng bốn chân, tốc độ lao về phía trước khoảng từ bảy mươi đến tám mươi km một giờ. Hơn nữa, chó cũng có khả năng đánh hơi rất tài. Hiện nay chó hoang dã vẫn còn tồn tại, nhưng chó được thuần dưỡng như chó nhà, chó cảnh thì phổ biến hơn. Chó thuần dưỡng có nhiệm vụ trông, giữ nhà và thường nặng từ mười lăm đến hai mươi ki-lô-gam, có tuổi thọ trung bình từ mười sáu đến mười tám năm. Loại chó bắt được tội phạm được gọi là chó nghiệp vụ, trinh thám, và thường rất to, cao, tai vểnh, hoạt động nhanh nhẹn, linh hoạt và thông minh. Chúng được nuôi rất công phu. Một số loại chó khác như chó săn thường rất khôn. Chó cứu hộ được dùng trong việc cứu nước ở các bến cảng, sân bay,… nơi xảy ra sự cố. Ở một số nước trên thế giới, chó còn chuyên để kéo xe. Nhưng không hẳn là chỉ có ích, nó còn rất dễ bị bệnh, đó là bệnh “dại”. Thường là thời gian đầu chó rất bình thường, ít người phát hiện ra để đề phòng. Khi bị chó dại cắn, lúc bấy giờ mới thấy rõ việc nguy hiểm đến tính mạng con người. Vì vậy cần phải tiêm phòng cho chó thường xuyên theo định kì để tránh bị mắc bệnh. Chó là loài động vật rất có ích trong mọi lĩnh vực. Chó còn là bạn của con người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó được coi là loài động vật rất quan trọng và giúp việc đắc lực cho con người. Con chó luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết lấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được. Thuyết minh về một giống vật nuôi – Thuyết minh về con lợn Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao nhiêu con vật có ích nào là trâu, chó, gà, bò…thế nhưng chúng ta cũng không thể nào không nhắc đến con lợn. Có thể nói lợn là một con vật rất gần gũi với cuộc sống của chúng ta. Nó không chỉ là một con vật nuôi cung cấp nguồn thực phẩm cho con người mà nó còn có nhiều vai trò khác nữa. Trước hết là về đặc điểm ngoại hình cua nó thì lợn thường có da màu khoang trắng đen hoặc màu trắng. Lợn khi còn bé thì có màu hồng nhạt rất dễ thương và đáng yêu. Bụng của chúng rất là to cái đuôi thì soắn vào, bốn cái chân ngắn, móng to. Lông thường rất thưa và dài có màu trắng. Đôi mắt của nó thì rất tròn to đen lắm. Cái miệng mà người ta hay gọi là mõm thì dài khi ăn thức ăn thì nó sục mõm cho nước rơi vào cả mũi nhưng vẫn ăn được. Về thức ăn thì lợn là một con vật ăn tạp và thức ăn chủ yêu của nó là cái loại rau xanh và cám, gạo, cám ngô. Người thường cho nó ăn vào một cái máng dài. Về phân loại thì lợn được chia ra làm hai loại lợn cơ bản đó là lợn sề và lợn cỏ. Lơn sề có màu khoang trắng đen kích cỡ to hơn và thịt thường dai hơn thịt lợn bình thường không tạo nên sự hấp dẫn cho con người. Chính vì thế mà trên thị trường thịt lợn sề bào giờ cũng dẻ hơn thịt lợn bình thường. Những con lợn khác thì có màu trắng bình thường. Về sinh sản thì mỗi một lứa lợn sẽ đẻ ra gần mười con lợn con. Khi mới đẻ những con lợn ấy phải được tiến hành bẻ răng nanh không thì sẽ cắn mẹ nó khi bú. Lợn con sinh ra màu hồng hào trông rất đẹp và sạch sẽ. Không chỉ thế lợn là một con vật có ích bởi vì nó có công dụng rất lớn trong đời sống của chúng ta. Thứ nhất là trong kinh tế và đời sống thực phẩm hàng ngày. Ngày nay chúng ta đi ra chợ món thịt lợn là món mà mọi người thường hay mua nhiều nhất. Chính bởi thịt lợn rất ngon và dễ ăn số lượng lại nhiều nên giá cả phải chăng khiến cho nhà ai cũng có thể ăn chứ không như thịt bò đắt. Vậy nên những người nhà không có điều kiện cũng có thể mua về ăn trong bữa cơm hàng ngày. Còn những người bán háng thì lại có thu nhập đều đều. Trong đời sống thì chúng ta có thể thấy được đó là thịt lợn có thể chế biến thành nhiều món ngon đẹp mắt như : thịt kho tàu, thịt rang, thịt xào xả ớt, thịt băm…Nói tóm lại lợn cung cấp thực phẩm cần thiết cho con người. Vai trò thứ hai đó là lợn trở thành nhiều biểu tượng cho con người và còn trở thành cả biểu tượng nghệ thuật. Lợn vô cùng may mắn khi lọt vào top mười hai con giáp để chỉ cho số phận con người. Những người sinh năm lợn được người ta phán rằng có một cuộc sống sung sướng bởi dựa theo đặc tính của con vật này thì cả ngày chỉ có ăn với nằm mà thôi. Đói thì lại kêu no thì lại ngủ. Vì thế những người sinh năm hợi đều mang số phận sướng. Không những thế mà hẳn những con người Việt nam chúng ta không quên được hình ảnh của những bức tranh Đông Hồ với đàn lợn dưới hình một cây khoai nước. Đó là nghệ thuật của nước ta mà cụ thể là ở Bắc Ninh. Như vậy có thể thấy được vai trò và những đặc điểm cơ bản của con lợn trong cuộc sống của con người chúng ta. Có lẽ chính vì những vai tro to lớn từ vật chất cho đến tinh thần ấy đã khiến cho lợn trở thành một con vật có ích. Thuyết minh về một giống vật nuôi – Thuyết minh về con tằm Có hàng nghìn, hàng vạn loài bướm. Có nhiều giống bướm rất đẹp. Có không ít giống bướm đang làm hại cây trồng. Riêng con tằm, cũng là sâu của một loài bướm, được gọi là con ngài lại được con người nuôi nấng, chăm sóc, quý trọng. Ngài đẻ trứng, trứng nở thành sâu tằm, Sâu tằm ăn là dâu, phải để nới kín gió, phòng ruồi nhặng, thạch sùng….Sau nhiều lần lột xác, sâu tằm lớn lên và làm kén. Khi tằm" chín" bụng vàng óng căng tròn để chuẩn bị làm tổ, làm kén. Kén tằm hình trứng, bằng đốt ngón tay búp măng, dài độ 1,5 – 2 cm. Kén tằm là một cái tổ, một "cung cấm" được bao bọc, được dệt bằng những gợi tơ, sợi tơ ấy hình thành từ tuyến nước bọt.Tằm nhả chất nước bọt lỏng qua lỗ nhả tơ ở môi dưới. Tằm cứ nhả nước bọt và tự quây tròn; gặp không khí, nước bọt đông lại tạo thành tơ. Chỉ từ 24- 36 giờ, tằm dệt xong kén, tằng lột xác lần nữa và hóa nhộng sau ba, bốn ngày. Nhờ có kén tơ, nhộng nằm ngủ và được bảo vệ tránh những điều kiện bất lợi trong môi trường. Chính thời điểm này, người nuôi tằm phải kịp thời ươm tơ, mới có tơ loại một để dệt lụa. Nhộng nằm ngủ trong kén, qua từ 7- 10 ngày, nó biến thành con bướm, được gọi là con ngài, ngài cắn kén chui ra. Con ngài vỗ cánh rối rít. Ngài đực và ngài cái giao phối với nhau. Sau đó, ngài đực chết, ngài cái đẻ khoảng 500-1000 trứng, rồi chết theo. Trứng lại nở thành sâu tằm, và vòng đời lại tiếp tục. Vòng đời của con tằm chỉ độ 4-5 tuần (30-36 ngày). Cùng với nghề trồng bông dệt vải, nhân dân ta từ xa xưa đã biết trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Nhộng tằm là một thức ăn béo ngậy, giàu chất đạm, được nhiều người ưa thích. Ở Sơn Tây, ở Huế, ở Đại Lộc, Quảng Nam … có nhiều làng nghề nuôi tằm, dệt lụa nổi tiếng. Thăng Long xưa có lụa Trúc Bạch. Làng Vạn Phúc có nghề dệt dụa nức tiếng gần xa. "Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng" … "Một nong tằm là năm nong kén" … "Nong tằm, ao cá, nương dâu/ Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò" … những câu ca ấy với màu xanh bát ngát hương dâu mãi mãi là hồn quê, tình quê.
Thuyết minh về một giống vật nuôi – Văn mẫu lớp 9
4,556
Nội dung bài viết1 Thuyết minh con vịt 2 Thuyết minh con mèo Thuyết minh con vịt Vịt là loài gia cầm được người nông dân chăn nuôi từ lâu đời bởi nó mang lại rất nhiều lợi ích. Hình ảnh từng đàn vịt khoảng vài chục con thong dong bơi lội trên mặt ao, mặt đầm hay hàng ngàn con sục sạo kiếm mồi, kêu ồn ã cả một quãng đồng là hình ảnh quen thuộc ở làng quê. Các giống vịt chủ yếu của nước ta gồm vịt đàn hay còn gọi là vịt tàu, vịt cỏ. Loại này thân nhỏ, đầu và mỏ thanh tú, lông có nhiều màu: đen, nâu, xám, xanh đen pha trắng… trọng lượng chỉ độ 1 kg đến 1,5 kg. Vịt đàn thường được nuôi thành từng đàn lớn, hàng trăm hay hàng ngàn con. Chúng có sức chịu đựng kham khổ và ít mắc bệnh, kiếm mồi rất giỏi trên đồng ruộng. Vịt đàn đẻ nhiều, trứng nhỏ nhưng ngon. Thịt vịt đàn được nhiều người ưa thích vì có vị ngọt đậm và thơm. Nông dân ở các vùng đồng bằng miền Bắc, miền Nam thường nuôi vịt đàn theo lối chăn thả tự nhiên từ trước đến nay. Bên cạnh giống vịt đàn còn có giống vịt bầu. Vịt bầu lớn con hơn vịt đàn, cổ ngắn, chân thấp, lông nhiều màu, dáng đi lạch bạch. Thịt vịt bầu cũng mềm và ngọt nhưng nhiều mỡ hơn vịt đàn. Các gia đình nuôi vịt bầu vừa phục vụ cho nhu cầu sử dụng ngày giỗ, ngày Tết, vừa bán để tạo nguồn thu nhập quanh năm. Đồng bào miền Nam trước đây nuôi rất nhiều giống vịt cổ lùn, có những đặc điểm tương tự như vịt bầu ngoài Bắc, để tận dụng nguồn thức ăn phong phú từ kênh rạch và đồng ruộng. Hiện nay, các trại chăn nuôi quốc doanh và tư nhân đầu tư khá lớn về mặt vật chất để nuôi giống vịt nhập từ nước ngoài vào, gọi là vịt siêu thịt. Vịt siêu thịt được nuôi theo kiểu công nghiệp trong chuồng trại, ăn cám hỗn hợp, được theo dõi và tiêm chủng thường xuyên. Trọng lượng của giống vịt này khá lớn, sau 3 tháng có thể đạt tới trên 3 kg một con. Đặc điểm vượt trội của nó là chất lượng thịt đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu, chế biến thành nhiều món ăn cao cấp. Để việc chăn nuôi vịt ngày càng phát triển, đem lại hiệu quả cao, người nông dân phải nắm vững kĩ thuật chăm sóc, từ khâu chọn giống đến chế độ dinh dưỡng, chuồng trại, vệ sinh phòng bệnh… Vịt là loài thủy cầm ăn tạp. Thức ăn của chúng gồm nhiều loại. Loại cung cấp prô-tê-in có thóc, ngô, khoai, sắn, cám… Loại cung cấp chất khoáng có bột vỏ sò, bột xương… Thức ăn đầy đủ chất dinh dưỡng sẽ giúp cho vịt khỏe mạnh, tăng trưởng nhanh, đẻ nhiều và chất lượng thịt cao. Trong giai đoạn hiện nay, ngành chăn nuôi trong đó có chăn nuôi vịt đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế chung của cả nước. Vịt là loài gia cầm đem lại nhiều lợi ích cho đời sống của con người, là nguồn thu nhập thường xuyên của nông dân. Thuyết minh con mèo Trong chúng ta, chắc chẳng có ai không biết đến mèo, loài vật đáng yêu được nuôi rộng rãi trong gia đình. Nhưng các bạn có chắc là mình hiểu rõ về loài mèo chưa ? Nếu chưa, mời các bạn cùng tôi đến trò chuyện với chị mèo Thông Thái đằng kia Sau khi chào tôi, chị mèo hào hứng kể rằng họ mèo nhà chị có nguồn gốc từ mèo rừng. Mèo bắt đầu được thuần hóa và nuôi ở Ai Cập sau đó lan nhanh sang châu Âu và các khu vực khác trên thế giới. Riêng ở Việt Nam, mèo bắt đầu được nuôi từ khoảng hai nghìn năm trước đây. Quả đúng như chị mèo Thông Thái nói, họ nhà chị ai ai cũng có vẻ ngoài nhanh nhẹn, tràn đầy sức sống. Đầu mèo tròn, nhỏ và ở phía trước hơi nhô ra, đó là mõm mèo. Trông mèo nhỏ bé thế nhưng hàm răng nó lại có tới ba mươi chiếc. Trong số này, ngoài bốn chiếc răng nanh sắc nhọn thì hầu hết đều nhỏ xíu. Kỳ lạ nhất là đôi mắt mèo, đôi mắt trong veo như hai hòn bi ve. Đồng tử mèo có khả năng co dãn cực tốt. Ban ngày, đồng tử thu nhỏ đến đêm mới dãn ra. Thế là mèo ta có thể nhìn rõ trong đêm tối. Thân hình nhỏ bé của mèo được nâng đỡ bởi bốn chân chắc khỏe. Vì nằm trong nhóm động vật bậc thấp nên mèo vẫn có một cái đuôi dài. Mỗi chân mèo đều có bốn ngón, dưới những ngón chân có vuốt cực sắc này là đệm thịt giúp mèo đi lại nhẹ nhàng. Chắc chẳng có em bé nào mà lại không biết đến câu hát : “Meo meo meo, rửa mặt như mèo…” hay “mèo con ra bể nước, bàn chân nó vuốt vuốt, xoa mấy sợi râu cước…”. Hình ảnh chú mèo liếm láp lòng bàn chân trước bên phải của mình cho thật sạch rồi lấy chính chân đó cọ cọ vào mặt mình đã khắc sâu vào tâm trí trẻ thơ. Một tập tính nữa mà ai cũng biết ở mèo đấy là bắt chuột. Bọn chuột xấu xí chuyên đi ăn vụng mỗi khi nghe thấy tiếng “meo meo” của mèo là hồn vía chạy đi đâu hết cả, chỉ còn biết bạt mạng chạy. Cộng thêm với đôi râu và đôi tai nhạy như ra đa mà trời đã ban cho, mèo lại càng bắt được nhiều chuột. Nghe chị mèo nói đến đây, tôi đã thấy khoái loài mèo lắm rồi, bèn giục : “Chị ơi, chị kể cho em nghe về sự sinh trưởng của mèo đi”. Chị mèo mỉm cười rồi tiếp : “Mèo con được một tháng tuổi đã được mẹ dạy cho những kỹ năng bắt chuột cơ bản như chạy, nhảy, rình mồi, vồ mồi. Trong thời kỳ này, mèo mẹ sẽ dẫn mèo con đi quanh nhà để chúng “tìm hiểu” mọi thứ. Lớn hơn một chút, khoảng từ bốn đến năm tháng tuổi là có thể tự săn mồi. Mèo từ mười đến mười hai tháng tuổi là có thể sinh sản được. Lúc này, mèo cái có bộ lông mới mượt hơn, dày hơn bình thường. Cơ thể mèo lúc này phát ra một mùi đặc biệt và có tiếng kêu khác thường để hấp dẫn các chàng mèo đực. Sau khi giao phối, mèo cái lại sống đơn độc như trước và tự nuôi con. Mỗi lứa, mèo mẹ đẻ khoảng hai đến sáu con. Mèo con mới đẻ mắt nhắm nghiền, khoảng một tuần sau mới mở mắt”. Rồi chị đố chúng tôi kể được tên thật nhiều loài mèo. Hừm, để xem nào. Mèo mun lông đen tuyền từ đầu tới gót này. Mèo mướp với bộ lông xám tro, mèo vàng lông vàng óng nữa. Có lẽ giống mèo đông đúc nhất, được nuôi phổ biến nhất là mèo tam thể. Loài này lông có màu đen, vàng, trắng pha lẫn với nhau. Nghe chúng tôi kể, chị gật gù : “Họ nhà người cũng am hiểu về họ nhà mèo ghê”. Chị còn kể cho chúng tôi về nỗi kinh hoàng của họ nhà chị. Xưa, người ta dùng ruột mèo để căng dây vợt tennis (Nói đến đây, mặt chị hơi nhăn lại). Và bây giờ người ta còn ăn thịt mèo nữa. Nghe đâu, Chính phủ đã cấm bán và ăn thịt mèo. Song mấy người bạn chị bảo ở dưới Thái Bình, số quán nhậu “tiểu hổ” vẫn ở mức hàng trăm. Và cứ mỗi ngày, lại có hơn một ngàn anh chị em cô bác mèo “ra đi” tại đây. Chị lắc đầu “Cứ đà này, chẳng mấy chốc, bọn chuột dưới đó lại nổi loạn cho xem”. Vì mèo là “khắc tinh” của chuột mà. Các bạn có muốn góp tay ngăn chặn nạn chuột không ? Hãy nuôi một chú mèo trong nhà nhé. Theo kinh nghiệm của chị mèo Thông Thái thì mèo con dưới hai tháng tuổi nên cho ở với mẹ. Khi lớn lên thì cho tập ăn cơm trộn cá, trộn thịt hoặc thậm chí cả rau nữa. Mèo là loại động vật có xuất xứ từ sa mạc nên rất ưa hơi ấm. Chính vì thế nên mèo rất hay trườn mình cọ vào chân người. Lúc đó, bạn hãy ôm mèo vào lòng, ủ ấm cho nó hoặc mang nó ra nắng sưởi ấm nhé ! Thấy chưa, mèo ta đã lim dim đôi mắt và grừ grừ khoan khoái rồi kìa. Mèo cũng rất thích chơi với các em bé từ bốn tuổi trở lên. Đây là thời kỳ hình thành nhân cách của các em nên nếu trong gia đình nuôi một chú mèo thì trẻ nhỏ sẽ sớm biết yêu động vật. Thật đáng tiếc nếu bạn bị dị ứng với lông mèo vì khi đó bạn chỉ có thể ngắm nó từ xa chứ đừng nuôi mà cũng đừng âu yếm vuốt ve nó. À, các bạn nhớ đem mèo đi tiêm phòng mỗi năm một lần và thường xuyên tắm hoặc bắt rận cho mèo nhé. Để mèo luôn khỏe mạnh và sạch sẽ mà. Ối, vì trời nắng ấm quá nên chị mèo Thông Thái đã ngủ quên mất rồi. Thôi, chúng ta sẽ để yên cho chị ấy ngủ nhé. Tôi chắc rằng lần sau chị ấy sẽ kể cho chúng ta rất nhiều chuyện thú vị về loài mèo đấy. Vì loài mèo là bạn tốt của con người mà ! Tạm biệt !
Thuyết minh về một giống vật nuôi
1,670
Dừa là loại cây dễ trồng ở nước ta. Xu hướng dùng hàng thủ công mĩ nghệ từ cây dừa ngày càng được ưa chuộng trên thế giới. Các sản phẩm từ dừa đang có tiềm năng xuất khẩu rất lớn, đem nhiều ngoại tệ về cho đất nước. Dừa được trồng rải rác khắp các làng quê Nam Bộ, nhiều nhất là ở tỉnh Bến Tre, Bình Định. Tiềm năng sản xuất và xuất khẩu của cây dừa rất lớn, đã hình thành cả công nghệ chế biến: ngâm tẩm chống mối, tạo dáng, đánh bóng, phủ lớp nhựa Pư chống thấm lên bề mặt sản phẩm. Xu hướng dùng hàng thủ công mĩ nghệ từ cây dừa: giỏ xách, dĩa, chén, bình, tách, đũa, khay, hộp,… Ở các nước phương Tây ngày càng được ưa chuộng. Từ dừa có thể làm vô vàn thứ: cọng dừa tước bỏ lá, đan giỏ xách, làm chổi; gáo dừa làm than hoạt tính, làm chén, dĩa, tô,…; thân dừa lão làm đũa, làm cột nhà, vỏ dừa làm dây buộc… Mùa nắng nước dừa là một thứ giải khát tuyệt chiêu vừa sạch vừa bổ. Cơm dừa già làm nguyên liệu chế biến các món ăn và thức uống, nấu dầu dừa và chê biến xà phòng. Nước ta chê biến được nhiều sản phẩm như: bánh dừa, kẹo dừa, các loại mứt dừa và còn nhiều món ăn truyền thống dân tộc chế biến từ dừa: bánh tét, chuối nướng,… Đặc biệt, nước dừa được tạo thành sản phẩm thông qua quy trình công nghệ sinh học. Nước dừa nuôi nấm men Saccharomyces Fragilis tạo ra prô-tê-in đơn bào bổ sung nguồn đạm thực vật dùng cho người. Giấm ăn hoặc các sản phẩm nước uống lên men từ nước dừa như nước giải khát đóng chai, nước dừa có ga. Nước dừa còn chế biến thành rượu có hương vị đặc trưng. Nước cốt dừa tạo sữa dừa đóng hộp, sản phẩm chiết từ cơm dừa nạo chế biến sữa đặc có đường,… Gần đây các nhà khoa học còn dùng vi khuẩn Acetobacter Xylinum tạo ra thạch dừa. Thạch dừa là đặc sản ăn vừa dai, vừa giòn, góp phần tăng cường các chất xơ giúp cơ thể bài tiết, kích thích tiêu hóa, gây cảm giác khoái khẩu. Doanh nghiệp Trường Ngân ở Bến Tre đã thành công trong việc tìm được thị trường riêng cho sản phẩm của mình bằng hàng trăm mặt hàng gia dụng như: giỏ xách đi chợ, giỏ đựng hoa (lẵng hoa) và đựng quà cáp, rổ rá, bình hoa, cùng nhiều chủng loại: tách, chén, dĩa, khay trà và đồ dùng trang trí nội thất khác như: voi khỉ, ngựa, gà,… và các tranh treo tường. Sản phẩm dừa của Trường Ngân đã có mặt tại một số cửa hàng lớn ở Đài Loan, Nhật, Mĩ, Ca-na-đa,… từ những dụng cụ bếp núc, đồ gia dụng: hộp đựng hành, tỏi, khay đựng trái cây, bộ bàn ghế nhỏ,… đến những dụng cụ văn phòng: hộp đựng viết, khay đựng giấy tờ, hộp đựng danh thiếp, kệ đựng sách báo, kệ đựng đĩa nhạc CD,… Mỗi tháng cơ sở Trường Ngân xuất xưởng ít nhất là 30 sản phẩm từ cây dừa lão, chào hàng khách nước ngoài thu về một khoản tiền lớn.
Thuyết minh về một loài cây ở quê em – Cây dừa
555
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về một lễ hội dân gian – Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng 2 Thuyết minh về một lễ hội dân gian – Tết Nguyên Đán 3 Thuyết minh về một lễ hội dân gian – Thuyết minh về hội Lim 4 Thuyết minh về một lễ hội dân gian – Thuyết minh về hội bơi trải Việt Trì, Bạch Hạc ( Phú Thọ ) Thuyết minh về một lễ hội dân gian – Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng 10 tháng 3 Khắp miền truyền mãi câu ca Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm. Từ nhiều đời nay, trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, đã luôn hướng tới một điểm tựa của tinh thần văn hoá – đó là lễ hội Đền Hùng và Giỗ Tổ Hùng Vương, được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Hàng năm, lễ hội Giỗ Tổ vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Vào những năm chẵn (5 năm một lần), Giỗ Tổ được tổ chức theo nghi lễ quốc gia, năm lẻ do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Việc tổ chức lễ hội Giỗ Tổ rất chặt chẽ, bao gồm hai phần: lễ và hội. Lễ hội Rước Kiệu được duy trì trang nghiêm trong các đền, chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương hoa của các đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ, các địa phương trong toàn quốc,… được tổ chức long trọng tại đền Thượng. Từ chiều ngày mồng 9, làng nào được Ban tổ chức lễ hội cho phép rước kiệu dâng lễ đã tập trung tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu đặt lễ vật. Sáng sớm ngày mồng 10, các đoàn đại biểu tập trung ở một địa điểm tại thành phố Việt Trì, có xe tiêu binh rước vòng hoa dẫn đầu, diễu hành tới chân núi Hùng. Các đoàn đại biểu xếp hàng chỉnh tề đi sau kiệu lễ, lần lượt lên đền theo tiếng nhạc của phường bát âm và đội múa sinh tiền. Tới trước thềm của “Điện Kính Thiên”, đoàn dừng lại, kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền Thượng. Một đồng chí lãnh đạo tỉnh (năm chẵn là nguyên thủ quốc gia hoặc đại biểu đại diện Bộ Văn hoá), thay mặt cho tỉnh và nhân dân cả nước đọc chúc căn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được hệ thống báo chí, phát thanh truyền hình đưa tin hoặc tường thuật trực tiếp để đồng bào cả nước có thể theo dõi lễ hội. Đồng bào dâng lễ trong các đền, chùa trên núi, ai cũng có tâm nguyện cầu mong tổ tiên chứng giám, phù hộ độ trì cho con cháu. Lễ Dâng Hương sẽ được diễn ra tưng bừng, náo nhiệt xung quanh các đền, chùa và dưới chân núi Hùng. Lễ hội ngày nay có nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá hơn xưa. Các hình thức văn hoá truyền thống và hiện đại được đan xen nhau. Trong khu vực của hội, nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, văn hoá phẩm, các cửa hàng dịch vụ ăn uống, các khu văn thể,… được tổ chức và duy trì một cách trật tự, quy củ. Tại khu văn thể, các trò chơi văn hoá dân gian được bảo lưu có chọn lọc như: đu quay, đấu vật, chọi gà, bắn nỏ, rước kiệu, kéo lửa nấu cơm thi, đánh cờ tướng (cờ người)…. Có năm còn diễn trò “Bách nghệ khôi hài”, “Rước chúa gái”, “Rước lúa thần” và trò “Trám” tại khu vực hội. Cạnh đó là sân khấu của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp: chèo, kịch nói, hát quan họ,… Hội ngày nay chính là nơi để thi tuyển và giao lưu văn hoá giữa các vùng. các nghệ nhân người Mường mang đến lễ hội thanh âm của tiếng trống đồng một thời dóng trên đỉnh núi Hùng, gọi mặt trời làm mưa, làm nắng thuận hoà, cho mùa màng tốt tươi, muôn dân hạnh phúc. Những làn điệu Xoan – Ghẹo với lời ca tinh tế, mượt mà đã đem tới cho lễ hội đền Hùng một nét đặc trưng, thấm đượm văn hoá vùng Trung du Đất Tổ. Một điểm quan trọng nằm ở giữa trung tâm lễ hội là nhà bảo tàng Hùng Vương, ở đây lưu giữ vô số những cổ vật đích thực của thời đại các Vua Hùng. Thời đại của chúng ta ngày nay đang ngày càng góp sức tô điểm và phát huy sự cao đẹp của lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương. Hàng năm, ý nghĩa tâm linh của cuộc trẩy hội về Đền Hùng đã trở thành nếp nghĩ, nếp sinh hoạt truyền thống không thể thiếu trong đời sống văn hoá tinh thần tín ngưỡng của người Việt Nam. Không phân biệt già trẻ, không phân biệt tuổi tác, không phân biệt tôn giáo…. Tất cả những người con đang sống trên mọi miền Tổ quốc, những người con xa xứ đều bình đẳng về mộ Tổ, thăm đền và dự lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương. Thuyết minh về một lễ hội dân gian – Tết Nguyên Đán Ở các nước trên thế giới đặc biệt là những nước phương Tây có truyền thống đón năm mới từ mùng 1 tháng một dương lịch .Không khí của năm mới đã lan tràn khắp nơi ngay từ 24-25(tức Nô-en).Nhưng thật đặc biệt,ở Việt Nam,Triều Tiên,Mông Cổ,Tây Tạng,Nepal,Butan, H'mông Trung Quốc cũng tổ chức Tết âm lịch và nghỉ lễ chính thức. Trước đây Nhật Bản cũng cử hành Tết âm lịch, nhưng từ năm Minh Trị thứ 6 (1873) họ đã chuyển sang dùng dương lịch cho các ngày lễ tương ứng trong âm lịch. ết Nguyên Đán là khoảng thời gian nước ta chính thức đón năm mới,còn được gọi là Tết Ta,Tết âm lịch,Tết cổ truyền hoặc Tết.Nhưng cách gọi thông dụng nhất vẫn là Tết Nguyên Đán.Nguyên tức là sơ khai,ban đầu.Đán tức là buổi sang sớm.Nếu trong một ngày buổi sớm là khởi đầu một ngày mới thì Nguyên Đán ở đây tức là khoảng thời gian giống như buổi sớm,khởi đầu một năm mới.Đón Tết là phong tục của các nước chịu ảnh hưởng từ nền văn hoá Trung Hoa.Tết đựơc đọc chệch đi từ Tiết,tức Tiết Xuân hay Xuân Tiết,Tân Niên hoặc Nông lịch tân niên.Trung Quốc(và một số nước “ngoại biên” của nền văn minh này) dùng lịch pháp theo chu kì vận hành của Mặt Trăng nên Tết luôn chậm hơn Tết dương lịch(Tết Tây).Thường thì rơi vào cuồi tháng 1 đến giữa tháng 2 dương lịch và kéo dài trong4-6 ngày.Trong tâm niệm người dân Việt,Tết mang rất nhiều ý nghĩa linh thiêng nhưng quan trọng nhất vẫn là thời gian người Việt nhớ về cội nguồn,ông bà tổ tiên.Tết cũng là sự khởi đầu mới cho những điều tốt đẹp,rũ bỏ những điều xấu của năm đã qua.Người Việt đón Tết với nhiều hoài bão,hy vọng thịnh vượng cho năm mới. Dù ông bà ta có câu “ 30 chưa phải là Tết” nhưng thực tế,không khí Tết đã sớm la tràn từ 27,28 tháng 12 âm lịch.Mọi người quan niệm rằng,Tết phải là sự khởi đầu tốt đẹp nhất,may mắn nhất để những điều lành đó sẽ theo họ đến hết cả một năm.Vì thế,cứ gần đến Tết là mọi người tất bật chuẩn bị để đón năm mới.Từ trước đây,người dân Việt luôn làm mới nhà cửa để đón Tết,họ quét lại sơn tường từ mươi ngày trước Tết.Đến bây giờ,mọi người đã không còn quét lại sơn vào dịp này như trước đây nữa nhưng laị chú ý hơn đến dọn dẹp và trang hoàng nhà cửa.Họ đi mua những vật dụng ,đồ dung cần thiết mới để trưng bày trong ngày Tết. ết diễn ra từ ngày giáp tết đến hết mùng 5-6 âm lịch.Trước đây ngừơi ta có quan niệm “ăn Tết”-là khoảng thời gian được ăn uống no đủ,gia đình quây quần,hạnh phúc – Tết kéo dài đến tận mùng 8-9 nhưng ngày nay do đời sống kinh tế bận rộn nên Tết chỉ kéo dài đến mùng 5 và quan niệm thời nay từ “ăn Tết” đã chuyển sang “chơi” Tết vì đới sống đã no đủ,khấm khá rất nhiều so với trước.Tết Nguyên Đán chia làm ba giai đoạn.Đầu tiên là thời gian giáp Tết,thường từ 23 tháng Chạp(ngày ông câu ông Táo).Gần đến Tết,mọi đơn vị đều được nghỉ làm, học sinh đựơc nghỉ từ 27-28 âm lịch.Tiếp theo là ngày 30 hay còn gọi là Tất Niên.Ngày này mọi người tảo mộ ông bà hay những người thân trong gia đình đã khuất.Quan trọng nhất,vào tối 30,mọi người đều chuẩn bị đón giao thừa-thời khắc đặc biệt chuyển từ năm cũ sang năm mới-đón một khởi đầu mới.Từ xưa,phong tục của người dân Việt là đêm Tất Niên phải ở nhà làm mâm cơm cúng trời đất,ông bà tổ tiên và có tục lệ xông đất-tức người đầu tiên bước vào nhà sau 12 giờ đêm sẽ là người mang lại may mắn hay xui xẻo cho năm sau.Nhưng ngày nay,tục lệ đó đã phần nào bị lu mờ.Mọi người thường ra ngoài đón giao thừa:ở công viên hay nơi công cộng có thể ngăm pháo hoa rõ nhất.Quan niệm người xông đất cũng đã không còn nguyên vẹn.Theo tục xưa người xông đất phải là người không ở trong gia đình nhưng ngày nay khi người ta đi chơi đêm tất niên về đều tự coi là xông đất cho nhà mình.Ngày mùng 1 là ngày đầu tiên của năm mới,là ngày bắt đầu dịp lễ cổ truyền long trọng nhất của người Việt.Đây là dịp hội hè,vui chơi và là thời điêmr cho những người tha hương tìm về với quê hương,gia đình,tưởng nhớ tổ tiên.Tết đến,mọi người kiêng kị nóng giận,cãi cọ,quét nhà sợ mang lại điềm gở,mất tài mất lộc vào năm mới.Đây là dịp để mọi người tha thứ,hàn gắn,chuộc lỗi cho những điều không may đã xảy ra vào năm cũ.Trẻ em thì được lì xì phong bao đỏ để lấy hên.Trong ngày Tết,gam đỏ chiếm màu chủ đạo vì theo quan niệm,màu đỏ đem lại điềm lành,sự may mắnháo đỏ,câu đồi đỏ,tranh Tết……tất cả đều có sắc đỏ. “Thịt mỡ ,dưa hành,câu đối đỏ Cây nêu,tràng pháo,bánh trưng xanh” Nhắc đển Tết không thể không nhắc đến giò,chả,vây bong,thịt mỡ,dưa hành và đặc biệt là bánh trưng xanh : biểu tượng đặc trưng Tết Việt,không thể thiếu.Bánh trưng xanh vuông vắn biểu tượng cho trời đất đang độ vào xuân, tràn đấy sức sống.Kế đến là mồng 2-tức Tết ngoại.Ngày này mọi người thường về quê ngoại thăm ông bà họ hang bên đấy.Mồng 3 là Tết nội-ngày mọi người về quê nội thăm hỏi đằng nội.Đấy là trên lí thuyết,còn ngày nay mọi người cũng không còn phân biệt Tết nội-ngoại mà thăm hỏi luôn vào cùng ngày mùng 1.Nhưng dù có đón Tết theo cách cổ truyền hay như hiện nay thì ý nghĩa của ngày Tết đều không thay đổi. Đón Tết từ xưa đến nay vốn là nét đẹp của dân tộc,dù là người dân xa xứ hay người đang sống trên đất nước Việt Nam thì cứ đến ngày Tết là tất cả đều hướng về chào đón.Ngay cả những du khách nước ngoài khi du lịch tại Việt Nam cũng rất thích thú khi tham gia cách đón năm mới của Việt Nam.Vậy tại sao là những người con Việt chúng ta lại không góp phần bảo vệ và duy trì nét đẹp truyền thống này chứ? Thuyết minh về một lễ hội dân gian – Thuyết minh về hội Lim Tháng giêng là tháng ăn chơi… và cũng là mùa lễ hội. Suốt một dải làng quê từ bắc sông Hồng vắt ngang sông Đuống lần lượt mở hội làng. Từ xa, đã có thể thấy thấp thoáng bóng cờ đuôi nheo ngũ sắc và vẳng nghe tiếng trống giục giã, khi khoan, lúc đổ dồn. Hấp dẫn hơn cả vẫn là hội làng Lũng Sơn – hội Lim. Từ trong Tết, người ta đã rục rịch sắm sửa mũ áo, cờ quạt, mời bạn gần bạn xa, nhất là bạn quan họ. Cả một vùng như ngâm men say, như cuống lên vì hội Lim. Võng, lọng, kiệu, áo… vừa trang nghiêm vừa xúng xính gợi nhớ một quá vãng vàng son đã rất xa, Một cô bạn Nhật đang học tiếng Việt ở trường Tổng hợp Hà Nội đã đến hội từ ba hôm nay, cười và kéo chúng tôi đi theo. Cô thạo đường làng như dân gốc Lim. Thì ra cô và các bạn tập kết ở nhà một anh hai quan họ và đã thức trọn hai đêm với hai anh quan họ mà theo cô ‘thật tuyệt vời’… Hội Lim mở suốt ba ngày ba đêm. Cùng với cây đu, ván cờ người, thi vật… quan họ qua bao thăng trầm, mất mát của chiến tranh vẫn giữ nguyên nét duyên dáng, tình tứ, say lòng người. Khách thập phương và người làng, kim và cổ, tục và thanh đan xen, trộn lẫn, la đà trong men say của các làn điệu, dải thắt lưng xanh và làn môi cắn chỉ của những liền chị… Chẳng cần đến câu hát người ở đừng về, thì cũng chẳng ai muốn về. Mà có về thì cũng mong ‘đến hẹn lại lên’. Thuyết minh về một lễ hội dân gian – Thuyết minh về hội bơi trải Việt Trì, Bạch Hạc ( Phú Thọ ) Bạch Hạc, Việt Trì thuộc tỉnh Phú Thọ, một vùng quê sông nước mênh mông, đồng lúa bát ngát. Đó cũng là một vùng quê có lễ hội bơi trải, đua trải kéo dài trong hai tháng, tháng 5 và tháng 6 âm lịch hàng năm, và được gọi là "tiệc bơi". Bơi trải gắn liền với hội làng, để tế thần cầu mong mưa thuận gió hòa, được mùa, an cư lạc nghiệp, thanh bình. Đào Xá thờ Lý Bôn, Kẻ Rau thờ Tam Giang Đại Vương, Thổ Lệnh, Kẻ Hạc cũng thờ Tam Giang Đại Vương là thủy thần Ngã ba sông. Còn Kẻ Me lại thờ Đăng Đạo Song Nga và Đức Thánh Tản Viên, Đức Bác thờ Bát Nàn công chúa, An Đạo thờ Long Xà Đại Vương và Út Soi Đại Vương … . Chỉ có xã Đào Xá tổ chức bơi trải vào ban đêm: "Mồng chín có Tiệc anh ơi, Mồng mười hạ trải xuống bơi thờ thần. Trai thanh tân bước vào đòn kiệu Trống kiệu vào là trống canh ba Trải bơi ra, ngọn cờ phe phấy Trải bơi vào, cờ phất trống rung …" (Dân ca) Các làng khác đều thi bơi trải vào ban ngày. Con thuyền đua rất dài, thọn nhỏ, chia thành 24 khoang, có 48 chèo (24×2), một người cầm lái ngồi ở đuôi thuyền, một người đứng giữa thuyền phất cờ điều và đánh trống. Các tay chèo là trai tân ( chưa vợ), rất lực lưỡng, cường tráng. Ở Lương Nha bơi trải có năm thuyền con trai đua với năm thuyền con gái, vui đáo để. Vùng Ngã ba Bạch Hạc có bài ca nói về các hội bơi trải trong vùng: "Rau gác, Hạc bơi, Hạc gác, Me bơi, Me gác, Đức Bác bơi, Đức Bác gác, Dạng bơi …" Hội bơi trải ở làng này vừa rã đám,thì hội bơi trải ở làng khác lại cờ mở trống rung. Mùa lễ hội dân gian diễn ra tưng bừng náo nhiệt. Ở Phú Thọ, hội bơi trải Kẻ Hạc và Kẻ Mơ là đông vui nhất, năm nào cũng có hàng vạn người gần xa kéo về dự hội Sau Kẻ Rau là đến hội trải Kẻ Hạc, diễn ra vào ngày 20 tháng 5 âm lịch. Kẻ Hạc có bốn giáp, mỗi giáp một màu cờ sắc áo riêng: màu trải, màu mái chèo, mũ, áo quần các tay chèo phải cùng màu theo luật lệ quy định: Trải Tiên Hạc màu xanh, trải Thần Trúc màu đỏ, trải Đồng Nam màu trắng, và trải Bộ Đầu màu vàng. Buổi sáng ngày tiệc tế, các nam phụ lão ấu nhất là các thôn nữ mặc quần áo đẹp kéo ra đứng đông nghịt trên bờ, tiếng chiêng trống nổi lên vang dội xóm làng. Khi các tay chèo đã ngồi vào khoang, tay nắm mái chèo sẵn sàng, các trải dàn hàng ngang đều tăm tắp, thì một hồi trống rung lên, cuộc thi bắt đầu. Trống mõ thúc liên hồi kì trận. Hàng ngàn hàng vạn người reo hò. Các tay trải cúi rạp người chém mái chèo xuống nước, cánh tay hối hả, miệng hô: " Dô huỵch! Hồ huỵch !" Những con trải lướt băng băng, như những múi tên lướt về phía trước. Các trải xuất phát từ đình Hạc qua bến Gút đến Tiên Cát cầu Việt Trì, quay trở lại bến Gút về đỗ trước bến Hạc giữa tiếng trống , tiếng hò như sấm dậy. Ánh mắt các thiếu nữ sáng ngời lên … Hội bơi trải Kẻ Me diễn ra ba ngày sau đó, từ 25 đến 27 tháng 5 âm lịch. Kẻ Me có 3 giáp : Phù Yên, Bồ Thôn và Hạc Đình. Mỗi thôn có một thuyền rồng bằng gỗ chò, hai đầu sơn đỏ, giữa sơn đen. Mỗi thuyền chỉ có 40 người, 38 tay chèo, 1 bẻ lái, 1 cầm cờ. Ngày 24 hạ trải ở sông Phó Đáy, sáng 25 đua trải từ đình tới làng Diệm Xuân, chiều 26 bơi tới bến Cả làng Nghĩa Yên, sáng 27 đua tới đình làng Hội Chữ. Chiều 26, cuộc thi bơi " cướp cờ" là háo hức, sôi động nhất. Chiều 27 bơi rước kiệu về Ngã Ba Chạ để " tiễn thánh về". Hội bơi trải ở vùng Bạch Hạc, Việt Trì đã có hàng nghìn năm nay. Một lễ hội dân gian đậm đà màu sắc văn hóa- văn minh sông Hồng, cái nôi của nền văn minh Lạc – Việt.
Thuyết minh về một lễ hội dân gian – Văn mẫu lớp 9
3,031
Bún Huế được các nhà hàng liệt kê trong thực đơn là Vermiceiie de Hue – Hue Vermicelli. Điều này khẳng định xứng đáng vị trí thương hiệu hàng đầu, giữa vô số bún này bún nọ. Gọi tên đấy đủ phải là: Bún bò – giò chả Huế. Sợi bún làm bằng bột gạo pha thêm bột lọc, men hèm(?). Sợi bún lớn bằng hai sợi miến. Huế có 2 làng Tuần và Vân Cù (ở thượng nguồn sông Hương và hạ lưu sông Bồ) chuyên làm bún. Bún Vân Cù truyền thống có nhiều loại: bún lá (rải bún trên tấm lá chuối tròn bằng cái bánh tráng); bún con (cuộn như cuộn len), bún cảo (rời từng sợi đựng trong cảo tre). Dân làng gánh, chở bún trên xe đạp, xe máy bỏ mối khắp nội, ngoại thành. Mùa gặt, mùa cá, họ tìm đến tận nơi vừa bán vừa đổi nông sản, hải sản. Bún bò Huế đâu cũng có nhưng nổi tiếng chỉ có quanh quẩn trong thành phố và ba vùng ven An Cựu, Vĩ Dạ, Kim Long. Sớm tinh mơ, đã thấy rất nhiều hàng bún bò bốc khói thơm lừng, gánh đi trên đường Hùng Vương. Đó là hàng bún của các mẹ, các chị An Cựu. Qua cầu Vĩ Dạ, Đập Đá lên phô" là hàng bún Vĩ Dạ, cồn Hến, Lại Thế. Đòn gánh tre kĩu kịt quảy một nồi nhôm tròn, đặt trên bếp lò ủ lửa liu riu. Đầu kia lỉnh kỉnh: rổ bún trắng tinh, rau sống, gia vị, chén, bát, đũa, muỗng… Nồi nước dùng nóng hổi đủ cả xương heo, huyết, đu đủ, mộc nhĩ, cà rốt, gừng, tỏi, hành phi… rau thơm mơn mởn, bắp chuôi, sợi giá tươi rói. Học nghề bún bò ba đời như bà Bồng ở Vĩ Dạ mới làm nổi nồi bún bò nổi – heo chìm và bò teo – heo nở. Thịt heo cỏ (heo ăn rau, chuối cây, cám nên thịt chắc, giáp nạc (nhiều nạc, ít mỡ). Thịt bò mua về, qua đêm khử mùi bằng ướp sả khúc giữa (bỏ ngọn, bỏ gốc vì làm nước dùng xanh lè, đắng chát). Gia vị nêm nấu phải chọn đúng thứ ruôc biển, nước mắm nguyên châ"t, tuyệt đôi không dùng muôi. Các hàng bún Huế lâu đời nhất chỉ có ở chợ Gia Lạc (Phú Thượng, Phú Vang). Gia Lạc là chợ Tết do Định Viễn quận vương (1797- 1863), con vua Gia Long) tổ chức, họp chợ từ ngày 1 – 3 Tết. Trong chợ có thi tài làm bún bò, nàng nào giật giải được nhận biển vàng đề 4 chữ: Thập toàn – Ngủ đắc. Thập toàn là: thơm ngon, ngọt ngào, đậm đà, ngon lành, bắt mắt, tinh khiết, bổ dưỡng, giỏi chọn, rành nấu, khéo bày. Ngũ đắc là: Ai cũng biết, cũng mua, cũng ăn, cũng chế biến được và nguyên liệu tại chỗ. Ngày nay, đáng tiếc nhiều hàng bún bò lừng danh đều đã giải nghệ.
Thuyết minh về một món ăn – Món bún Huế
506
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về trò chơi dân gian thả diều – Bài làm 1 2 Thuyết minh về trò chơi dân gian thả diều – Bài làm 2 3 Thuyết minh về trò chơi dân gian thả diều – Bài làm 3 Thuyết minh về trò chơi dân gian thả diều – Bài làm 1 Thả diều không chỉ là thú vui của trẻ con mà của nhiều người thuộc các lứa tuổi khác nhau. Một mảng trời mùa hạ sẽ là không gian rộng lớn cho những cánh diều mặc sức vút lên cao. Chỉ mười đến mười lăm nghìn là ta sẽ có một chiếc diều khá đẹp. Nhưng bay bổng lên trời cao bằng chính sự khéo léo của đôi tay mới thật sự là thú vui của người chơi thả diều. Muốn có một chiếc diều tốt do chính tay mình làm, ta cần có: Tre, phải là tre tươi, dẻo, cứng; Giấy: tùy thuộc vào kích cỡ diều ta định làm, nhưng cứ chuẩn bị càng nhiều càng tiện; Dây: nếu là diều to phải có dây to, nếu không sẽ bị đứt dây nửa chừng lúc đang thả diều, dây cũng phải hai ba cuộn mới đủ cho một chiếc diều cỡ thường; Hồ dán; Sáo (chỉ cần khi làm sáo diều to). Diều có rất nhiều loại: hình hộp, hình vuông, hình rồng, hình chim, hình người… Nhưng để bay cao và vững chắc là diều quạ. Vì thế ta hãy tự làm cho mình một chiếc diều hình quạ là tốt nhất. Đầu tiên ta phải làm khung cánh bằng tre nứa. Có lẽ ta nên chuẩn bị hai thanh tre dài 90 cm thì vừa. Ta phải buộc vào thanh tre ở trên, đầu kia là thanh ở dưới sao cho thật thang bằng hai bên cánh. Thanh tre này ta nên để dài khoảng 22, 23cm thì đẹp. Nhưng như thế là chưa đủ, ta phải làm cho hai bên cánh cong lên bằng cách buộc hai đầu vào thanh trục ở giữa (buộc vào trung điểm của thanh trục). Nhưng đững có uốn cong quá kẻo gãy. Thường thì hai cánh sẽ không cong đều như đường tròn và cong tụ lại ở một chỗ, như thế cũng không sao. Thế là ta đã có được đôi cánh của con quạ giấy rồi. Tiếp theo là phần đầu và đuôi rất đơn giản: Đầu: Ta chuẩn bị hai thanh tre nhỏ, ngắn khoảng 9-10cm, buộc vào sát cái trục rồi buộc tiếp vào đầu kia thành mũi nhọn. Đuôi: cũng là hai thanh tre nhưng dài hơn, khoảng từ 20-30cm, buộc thành hình tam giác. Nhưng một đầu nhọn của tam giác là gắn chặt với thanh trục (ở khoảng 1/3 trục), góc nhọn khoảng 70 độ thì vừa. Khi đã có khung cả rồi thì ta mới dán giấy. Nếu giấy nhỏ thì ta phải dán từng đoạn của cánh và phải kín. Giấy được phủ lên cánh diều, vuốt một nếp theo đường dây, kéo cho phẳng rồi dán mép giấy vào xung quanh thanh tre. Đầu và đuôi cũng tương tự. Cuối cùng là phần buộc dây (lèo). Ta phải đục hai lỗ nhỏ trên giấy sát thanh tre ở trên của cánh (hai lỗ nhỏ cân giữa trục, từ trục đến một lỗ khoảng 10-15cm), buộc hai đầu của sợi dây khoảng 3cm vào hai lỗ ta được một phần của lèo. Tiếp theo lấy một đoạn dây khoảng 30cm buộc vào trung điểm của đoạn dây trước, đầu kia buộc vao đuôi cảu trục. Và đoạn dây nối với cuộn dây của ta sẽ buộc vào đoạn thứ hai ấy, buộc thật chắc nhưng vẫn di chuyển được trên dây thứ hai để chỉnh. Phần chính này khoảng từ 3-5cm (trên đoạn dây thứ hai tính từ phần buộc với dây thứ nhất). Như thế là ta đã có một con quạ giấy rồi. Trò chơi thả diều sẽ mãi mãi là thú vui của nhiều người trong những ngày hè oi ả. Những ngày gió to, ta đem diều ra ngoài đồng hoặc nơi không bị vướng nhà cửa, dây điện mà đưa diều lên trời cao. Đảm bảo sẽ có những giây phút bình yên cùng một cánh chim và một mảng trời xanh biêng biếc. Thuyết minh về trò chơi dân gian thả diều – Bài làm 2 Chẳng biết có từ khi nào nữa mà những trò chơi dân gian cứ dần dần rồi dần dần trở thành những trò chơi không thể thiếu đối với tất cả những đứa trẻ không chỉ ở thôn quê mà còn ở thành thị nữa. Những trò chơi dân gian chẳng phải chỉ dành cho trẻ em mà nó dành cho tất cả mọi lứa tuổi. Nói đến những trò chơi dân gian ta không thể không nhắc đến một trò choi gắn liền đối với chúng ta đó là trờ chơi thả diều. Diều được làm từ rất nhiều chất liệu khác nhau như bằng giấy, vải hay bằng ni lon. Nhưng được ưa chuộng nhất là ni lon bởi là bằng vật liệu này diều không những có thể làm được những màu sắc hình dạng rất đẹp mà còn rất biền sử dụng được thời gian lâu. Tùy vào màu sắc và hình dạng ta có thể chọn rất nhiều loại diều với những hình dạng phong phú, người chơi có thể chọn được tùy theo ý thích của mình. Đó là đối với những loại diều dùng để sản xuất bán cho người chơi không thể chuẩn bị được hay không làm được. Ưu điểm của những loại diều này chính là mẫu mã rất đẹp lại phong phú đa dạng rất hợp mắt người choi. Nhưng đối với những trẻ em ở quê thi lựa chọn số một vẫn là diều làm bằng giấy. Đối với loại diều này thì chất liêu làm ra rất đơn giản hợp với môi trường và sẵn có. Các em có thể tận dụng tất cả những giấy vở đã không dùng nữa để làm. Đối với những em nhỏ ở quê thì diều giấy không thể thiếu được khi mỗi mùa hè đến. Những cánh diều giấy nhẹ nhàng vút cao lên đến tận mây xanh khiến cho chúng ta như đang được bay lên cao cùng diều cùng với gió mấy thật thú vị biết nhường nào. Thả diều là trò chơi dân gian dựa theo sức nâng của gió bởi thế để thực hiện được trò này trước tiên chúng ta cần phải chọn được địa điểm thích hợp. Đó là một bãi đất rộng thoáng không vướng cây côi hay vật chắn nào đó xa lối đi và phải có gió nhẹ. Và chúng ta cũng đừng quên những người bạn để cùng nhau thả diều thì mới vui. Những cánh diều thi nhau bay lên không trùn sẽ tạo cho chúng ta những cảm giác thăng hoa rất sảng khoái. Khi có gió thả diều thì một người cầm diều một người thả dây hoặc chúng ta có thể làm cả hai việc đó được mà không cần ai khác. Khi thả diều ta chọn đúng hướng gió, khi có gió ta ta thả diều thật nhẹ cho thật cân. Cánh diều thường có hình trăng hoặc hình lưỡi liềm hay còn gọi là diều quạ. Khung diều thì thường được làm bằng cật tre bánh tẻ chuốt tròn và nối với nhau. Giu khung diều là một xương sống bằng tre cứng to bản to nhô ra bên Hai bên cánh diều cong lên tạo thành khung diều hình lưỡi liềm. Chiều cong của cánh diều phải thật cân đối, khung diều phải chắc chắn và nhẹ. Diều được phất bằng giấy bản, bồi thành nhiều lớp bằng hồ dán. Sáo được xâu lại bằng một thanh tre đặt chéo góc ước chừng ba mươi độ với xương sống diều. Sáo thường làm bằng ống nứa, chia làm hai khoang, đầu gắn nắp hình vòm xẻ rãnh để gió lùa vào tạo nên âm thanh. Diều sáo trông đơn giản nhưng phải khéo tay mới làm được. Ngày trước chưa có loại dây dù, ni lon nên dây neo thường là dây mây, sợi nhỏ được đập dập, xoắn lại rồi thắt nối thành sợi dây dài chừng dăm bảy trăm mét. Chẳng may dây neo mà đứt, cánh diều theo gió cuốn xa, thật xa, mang theo cả niềm tiếc nuối của người thả diều. Ngày nay, trước sự phát triển của nhịp sống hiện đại, các nhà máy, các dự án khu công nghiệp, dịch vụ thi nhau mọc lên. Những không gian thoáng đãng, lộng gió ở các vùng nông thôn đang dần bị thu hẹp, thú chơi thả diều cũng vì thế mà bị mai một. Bên cạnh đó, sự lấn át của các phương tiện giải trí hiện đại như: trò chơi điện tử, internet đã khiến cho không ít trẻ em không còn mặn mà với những cánh diều truyền thống. Song cánh diều ngày xưa của tuổi thơ hồn nhiên đầy ước vọng ngày thơ sẽ mãi vẹn nguyên trong tâm thức chẳng thể phai mờ. Trò chơi thả diều sẽ mãi là một trò chơi là thú vui của nhiều người trong những ngày hè oi ả. Những ngày gió to ta đem diều ra thả chúng ta sẽ có những phút giây thật thú vị bình yên cùng cánh chim va một mảng xanh biêng biếc của bầu trời. Thuyết minh về trò chơi dân gian thả diều – Bài làm 3 Nhắc đến trò chơi dân gian của Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc đến thả diều. Một trò chơi xuất hiện từ rất lâu rồi nhưng vẫn còn tồn tại đến tận ngày hôm nay. Trò chơi thả diều đã có từ ngàn xưa, được hình thành trong quá trình sinh hoạt và lao động của người Việt Nam Ở Việt Nam. Với tuổi thơ của rất nhiều người, hình ảnh những cánh diều trên cánh đồng quê đã trở nên vô cùng quen thuộc. Hay hình ảnh những chú bé chăn trâu ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thả diều đã trở thành một biểu tượng của làng quê Việt Nam. Cánh diều thường có hình trăng lưỡi liềm. Khung diều làm bằng cật tre mềm, khi nâng lên phải nhẹ nhưng vẫn giữ được độ chắc chắn. Cánh diều có hình dáng cong cong, nhìn từ xa giống như là hình lưỡi liềm. Nguyên liệu chính dùng để làm diều là giấy bản. Cách làm diều trông có vẻ đơn giản nhưng vẫn đòi hỏi sự khéo léo mới có thể làm được. Diều sáo là một loại hình diều được ưa chuộng bởi khi lên cao, tiếng gió thổi vào cây sáo sẽ tạo thành âm thanh du dương, tha thiết. Thả diều là một trò chơi dân gian thú vị, hấp dẫn của mọi lứa tuổi. Người chơi sẽ dựa vào sức gió của thiên nhiên để đưa diều lên cao qua một sợi dây dài. Gió không mạnh quá và không được nhẹ quá. Thời điểm thích hợp nhất là buổi chiều gió lộng. Hình ảnh những đứa trẻ tụ tập trên những khu đất trống cùng nhau hò hét, chạy theo cánh diều đã là hình ảnh quen thuộc ở làng quê Việt Na, Ngày nay, diều vẫn nhận được sự yêu thích của mọi tầng lớp thế hệ qua những hình dáng, màu sắc đầy sáng tạo. Các cuộc thi thả diều lớn được tổ chức thường niên và nhận được nhiều sự quan tâm của mọi người
Thuyết minh về trò chơi dân gian thả diều – Văn mẫu lớp 8
1,935
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du – Bài làm 1 2 Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du – Bài làm 2 3 Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du – Bài làm 3 4 Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du – Dàn ý Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du – Bài làm 1 Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tức ngày 3/1/1766 ở kinh thành Thăng Long trong một gia đình quý tộc lớn. Thân sinh ông là Hoàng Giáp Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), làm quan đến tham tụng (tể tướng) tước Xuân quận công triều Lê. Mẹ ông là bà Trần Thị Tần, quê Kinh Bắc, đẹp nổi tiếng. 13 tuổi lại mồ côi mẹ, ông phải ở với người anh là Nguyễn Khản. Đời sống của người anh tài hoa phong nhã, lớn hơn ông 31 tuổi này rất có ảnh hưởng tới nhà thơ. Sự thăng tiến trên đường làm quan của Nguyễn Du khá thành đạt. Nhưng ông không màng để tâm đến công danh. Trái tim ông đau xót, buồn thương, phẫn nộ trước “những điều trông thấy” khi sống lưu lạc, gần gũi với tầng lớp dân đen và ngay cả khi sống giữa quan trường. Ông dốc cả máu xương mình vào văn chương, thi ca. Thơ ông là tiếng nói trong trái tim mình. Đấy là tình cảm sâu sắc của ông đối với một kiếp người lầm lũi cơ hàn, là thái độ bất bình rõ ràng của ông đối với các số phận con người. Xuất thân trong gia đình quý tộc, sống trong không khí văn chương bác học, nhưng ông có cách nói riêng, bình dân, giản dị, dễ hiểu, thấm đượm chất dân ca xứ Nghệ. Về văn thơ nôm, các sáng tác của ông có thể chia thành 3 giai đoạn. Thời gian sống ở Tiên Điền – Nghi Xuân đến 1802, ông viết “Thác lời trai phường nón Văn tế sống 2 cô gái Trường Lưu”. Đây là 2 bản tình ca thể hiện rất rõ tâm tính của ông, sự hoà biểu tâm hồn tác giả với thiên nhiên, với con người. Ba tập thơ chữ Hán thì "Thanh hiên thi tập" gồm 78 bài, viết lúc ở Quỳnh Côi và những năm mới về Tiên Điền, là lời trăn trở chốn long đong, là tâm sự, là thái độ của nhà thơ trước cảnh đời loạn lạc. Sau 1809, những sáng tác thơ của ông tập hợp trong tập “Nam Trung Tạp Ngâm” gồm 40 bài đầy cảm hứng, của tâm sự, nỗi niềm u uất. Truyện Kiều được Nguyễn Du chuyển dịch, sáng tạo từ cuốn tiểu thuyết “Truyện Kim Vân Kiều" của Thanh Tâm Tài Nhân, tên thật là Tử Văn Trường, quê ở huyện Sơn Am, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc. Truyện Kiều đã được nhân dân ta đón nhận một cách say sưa, có nhiều lúc đã trở thành vấn đề xã hội, tiêu biểu là cuộc tranh luận xung quanh luận đề "Chánh học và tà thuyết" giữa cụ Nghè Ngô Đức Kế và ông Phạm Quỳnh thu hút rất nhiều người của 2 phía cùng luận chiến. Không chỉ ảnh hưởng sâu sắc trong tầng lớp thị dân, Truyện Kiều còn được tầng lớp trên say mê đọc, luận. Vua Minh Mạng là người đầu tiên đứng ra chủ trì mở văn đàn ngâm vịnh truyện Kiều và sai các quan ở Hàn Lâm Viện chép lại cho đời sau. Đến đời Tự Đức, nhà vua thường triệu tập các vị khoa bảng trong triều đến viết và vịnh Truyện Kiều ở văn đàn, ở Khu Văn Lâu. Ngày nay, Truyện Kiều vẫn đang được các nhà xuất bản in với số lượng lớn, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đánh giá cao Truyện Kiều. Dịch giả người Pháp Rơ-Ne-Crir-Sắc khi dịch Truyện Kiều đã viết bài nghiên cứu dài 96 trang, có đoạn viết: "Kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh một cách xứng đáng với kiệt tác của bất kỳ quốc gia nào, thời đại nào”. Ông so sánh với văn học Pháp: “Trong tất cả các nền văn chương Pháp không một tác phẩm nào được phổ thông, được toàn dân sùng kính và yêu chuộng bằng quyển truyện này ở Việt Nam". Và ông kết luận: "Sung sướng thay bậc thi sĩ với một tác phẩm độc nhất vô nhị đã làm rung động và ca vang tất cả tâm hồn của một dân tộc". Năm 1965 được Hội đồng Hoà bình thế giới chọn làm năm kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du. Nguyễn Du là nhà thơ sống hết mình, tư tưởng, tình cảm, tài năng nghệ thuật của ông xuyên suốt các tác phẩm của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể hiện rõ nhất qua áng văn chương tuyệt vời là Truyện Kiều. Đọc Truyện Kiều ta thấy xã hội, thấy đồng tiền và thấy một Nguyễn Du hàm ẩn trong từng chữ, từng ý. Một Nguyễn Du thâm thuý, trải đời, một Nguyễn Du chan chứa nhân ái, hiểu mình, hiểu đời, một Nguyễn Du nóng bỏng khát khao cuộc sống bình yên cho dân tộc, cho nhân dân. Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du – Bài làm 2 Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân). Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ất Dậu) trong một gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới triều Lê, Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài xướng ca. Quê hương Nguyễn Du là vùng đất địa linh, nhân kiệt, hiếu học và trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có truyền thống học vấn uyên bác, có nhiều tài năng văn học. Gia đình và quê hương chính là “mảnh đất phì nhiêu” nuôi dưỡng thiên tài Nguyễn Du. Thời thơ ấu, Nguyễn Du sống trong nhung lụa. Lên 10 tuổi lần lượt mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu gặp những sóng gió trong cơn quốc biến ba đào: sống nhờ Nguyễn Khản (anh cùng cha khác mẹ làm Thừa tướng phủ chúa Trịnh) thì Nguyễn Khản bị giam, bị Kiêu binh phá nhà phải chạy trốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường rồi làm một chức quan ở tận Thái Nguyên. Chẳng bao lâu nhà Lê sụp đổ (1789) Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình rồi vợ mất, ông lại về quê cha, có lúc lên Bắc Ninh quê mẹ, nhiều nhất là thời gian ông sống không nhà ở kinh thành Thăng Long. Hơn mười năm chìm nổi long đong ngoài đất Bắc, Nguyễn Du sống gần gũi nhân dân và thấm thìa biết bao nỗi ấm lạnh kiếp người, đặc biệt là người dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày… những con người “dưới đáy” xã hội. Chính nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du – nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Miễn cưỡng trước lời mời của nhà Nguyễn, Nguyễn Du ra làm quan. Năm 1813 được thăng chức Học sĩ điện cần Chánh và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Năm 1820, ông lại được cử đi lần thứ hai nhưng chưa kịp đi thì mất đột ngột ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18-9-1820). Suốt thời gian làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du sống trầm lặng, ít nói, có nhiều tâm sự không biết tỏ cùng ai. Tư tưởng Nguyễn Du khá phức tạp và có những mâu thuẫn: trung thành với nhà Lê, không hợp tác với nhà Tây Sơn, bất đắc dĩ làm quan cho nhà Nguyễn. Ông là một người có lí tưởng, có hoài bão nhưng trươc cuộc đời gió bụi lại buồn chán, Nguyễn Du coi mọi chuyện (tu Phật, tu tiên, đi câu, đi săn, hành lạc…) đều là chuyện hão nhưng lại rơi lệ đoạn trường trước những cuộc bể dâu. Nguyễn Du đã đứng giữa giông tố cuộc đời trong một giai đoạn lịch sử đầy bi kịch. Đó là bi kịch của đời ông nhưng chính điều đó lại khiến tác phẩm của ông chứa đựng chiều sâu chưa từng có trong thơ văn Việt Nam. Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán là: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, tổng cộng 250 bài thơ Nôm, Nguyễn Du có kiệt tác Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và một số sáng tác đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; vè Thác lèn trai phường nón. Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du tâm sự: “Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Chính “những điều trông thấy" khiến tác phẩm của Nguyễn Du có khuynh hướng hiện thực sâu sắc. Còn nỗi “đau đớn lòng” đã khiến Nguyễn Du trở thành một nhà thơ nhân đạo lỗi lạc. Nguyễn Du là nhà thơ “đứng trong lao khổ mà mở hồn ra đón lấy tất cả những vang vọng của cuộc đời” (Nam Cao). Thơ chữ Hán của Nguyễ Du giống những trang nhật kí đời sống, nhật kí tâm hồn vậy. Nào là cảnh sống lay lắt, nào là ốm đau, bệnh tật cho đến cảnh thực tại của lịch sử… đều được Nguyễn Du ghi lại một cách chân thực (Đêm thu: Tình cờ làm thơ; Ngồi dèm…). Nguyễn Du vạch ra sự đối lập giữa giàu – nghèo trong Sở kiến hành hay Thái Bình mại giả ca… Nguyễn Du chống lại việc gọi hồn Khuất Nguyên về nước Sở của Tống Ngọc là bởi nước Sở “cát bụi lấm cả áo người” toàn bọ "vuốt nanh”, “nọc độc”, “xé thịt người nhai ngọt xớt”… Nước Sở cùa Khuất Nguyên hay nước Việt của Tố Như cũng chỉ là một hiện thực: cái ác hoành hành khắp nơi, người tốt không chốn dung thân. Truyện Kiều mượn bôi cảnh đời Minh (Trung Quốc) nhưng trước hết là bản cáo trạng đanh thép ghi lại “những điều trông thấy” của Nguyễn Du về thời đại nhà thơ đang sống. Phản ánh với thái độ phê phán quyết liệt, đó là khuynh hướng hiện thực sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du. Sáng tác của Nguyễn Du bao trùm tư tưởng nhân đạo, trước hết và trên hết là niềm quan tâm sâu sắc tới thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là bản cáo trạng mà còn là khúc ca tình yêu tự do trong sáng, là giấc mơ tự do công lí “tháo cũi sổ lồng”. Nhưng toàn bộ Truyện Kiều chủ yếu là tiếng khóc xé ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ. “Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Không chỉ Truyện Kiều mà hầu hết các sáng tác của Nguyễn Du đều bao trùm cảm hứng xót thương, đau đớn: từ Đọc Tiểu Thanh kí đến Người ca nữ đất Long Thành, từ Sở kiến hành đến Văn tế thập loại chúng sinh… thậm chí Nguyễn Du còn vượt cả cột mốc biên giới, vượt cả ranh giới ta – địch và vượt cả sự cách trở âm dương để xót thương cho những kẻ chết trận, phơi “xương trắng” nơi “quỉ môn quan”. Không chỉ xót thương, Nguyễn Du còn trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, cùng những khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du đã vượt qua một số ràng buộc của ý thức hệ phong kiến và tôn giáo để vươn tới khẳng định giá trị tự thân của con người. Đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông đem lại cho văn học Việt Nam trong thời đại ông. Nguyễn Du đã đóng góp lớn về mặt tư tưởng, đồng thời có những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển. Nguyễn Du đóng góp rất lớn, rất quan trọng cho sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học Tiếng Việt: tỉ lệ từ Hán – Việt giảm hẳn, câu thơ tiếng Việt vừa thông tục, vừa trang nhã, diễm lệ nhờ vần luật chỉnh tề, ngắt nhịp đa dạng, tiểu đối phong phú, biến hóa. Thơ Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của tiếng Việt văn học Trung Đại. Đặc biệt Truyện Kiều cùa Nguyễn Du là “tập đại thành” về ngôn ngữ văn học dân tộc. Xin được mượn những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu tri âm cùng Tố Như để thay cho lời kết: “Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời ngàn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”. Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du – Bài làm 3 Hiệu là Tố Như, Thanh Hiên, con Nguyễn Nghiễm, làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (Nghệ Tĩnh) văn chương vượt hẳn bạn bè, nhưng học vị chỉ là tam trường (tú tài). Nguyễn Du gặp nhiều khó khăn hồi con thanh niên. Mười một tuổi mồ côi cha, mười ba tuổi mất mẹ, suốt đời trai trẻ ăn nhờ ở đâu: hoặc ở nhà anh ruột (Nguyễn Khản), nhà anh vợ (Đoàn Nguyễn Tuấn), có lúc làm con nuôi một võ quan họ Hà, và nhận chức nhỏ: chánh thủ hiệu uý. Do tình hình đất nước biến động, chính quyền Lê Trình sụp đổ, Tây Sơn quét sạch giặc Thanh, họ Nguyễn Tiên Điền cũng sa sút tiêu điều: "Hồng Linh vô gia, huynh đệ tán". Nguyễn Du trải qua 10 năm gió bụi. Năm 1802, ra làm quan với triều Nguyễn được thăng thưởng rất nhanh, từ tri huyện lên đến tham tri (1815), có được cử làm chánh sứ sang Tàu (1813). Ông mất vì bệnh thời khí (dịch tả), không trối trăng gì, đúng vào lúc sắp sửa làm chánh sứ sang nhà Thanh lần thứ hai. Nguyễn Du có nhiều tác phẩm. Thơ chữ Hán như Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. Cả ba tập này, nay mới góp được 249 bài nhờ công sức sưu tầm của nhiều người. Lời thơ điêu luyện, nhiều bài phản ánh hiện thực bất công trong xã hội, biểu lộ tình thương xót đối với các nạn nhân, phê phán các nhân vật chính diện và phản diện trong lịch sử Trung Quốc, một cách sắc sảo. Một số bài như Phản chiêu hồn, Thái Bình mại ca giả, Long thành cầm giả ca đã thể hiện rõ rệt lòng ưu ái trước vận mệnh con người. Những bài viết về Thăng Long, về quê hương và cảnh vật ở những nơi Nguyễn Du đã đi qua đều toát lên nỗi ngậm ngùi dâu bể. Nguyễn Du cũng có gắn bó với cuộc sống nông thôn, khi với phường săn thì tự xưng là Hồng Sơn liệp hộ, khi với phường chài thì tự xưng là Nam Hải điếu đồ. Ông có những bài ca dân ca như Thác lời con trai phường nón, bài văn tế như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, chứng tỏ ông đã tham gia sinh hoạt văn nghệ dân gian với các phường vải, phường thủ công ở Nghệ Tĩnh. Tác phẩm tiêu biểu cho thiên tài Nguyễn Du là Đoạn trường tân thanh và Văn tế thập loại chúng sinh, đều viết bằng quốc âm. Đoạn trường tân thanh được gọi phổ biến là Truyện Kiều, là một truyện thơ lục bát. Cả hai tác phẩm đều xuất sắc, tràn trề tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, phản ánh sinh động xã hội bất công, cuộc đời dâu bể. Tác phẩm cũng cho thấy một trình độ nghệ thuật bậc thầy. Truyện Kiềuđóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hoá Việt Nam. Nhiều nhân vật trong Truyện Kiều trở thành điển hình cho những mẫu người trong xã hội cũ, mang những tính cách tiêu biểu Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải, và đều đi vào thành ngữ Việt Nam. Khả năng khái quát của nhiều cảnh tình, ngôn ngữ, trong tác phẩm khiến cho quần chúng tìm đến Truyện Kiều, như tìm một điều dự báo. Bói Kiều rất phổ biến trong quần chúng ngày xưa. Ca nhạc dân gian có dạng Lẩy Kiều. Sân khấu dân gian có trò Kiều. Hội họa có nhiều tranh Kiều. Thơ vịnh Kiều nhiều không kể xiết. Giai thoại xung quanhi cũng rất phong phú. Tuồng Kiều, cải lương Kiều, phim Kiều cũng ra đời. Nhiều câu, nhiều ngữ trong Truyện Kiều đã lẫn vào kho tàng ca dao, tục ngữ. Từ xưa đến nay, Truyện Kiềuđã là đầu đề cho nhiều công trình nghiên cứu, bình luận và những cuộc bút chiến. Ngay khi Truyện Kiều được công bố (đầu thế kỷ XIX) ở nhiều trường học của các nho sĩ, nhiều văn đàn, thi xã đã có trao đổi về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Đầu thế kỷ XX, cuộc tranh luận về Truyện Kiều càng sôi nổi, quan trọng nhất là cuộc phê phán của các nhà chí sĩ Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng phản đối phong trào cổ xuý Truyện Kiều do Phạm Quỳnh đề xướng (1924). Năm 1965, Nguyễn Du chính thức được nhà nước làm lễ kỷ niệm, Hội đồng hoà bình thế giới ghi tên ông trong danh sách những nhà văn hoá thế giới. Nhà lưu niệm Nguyễn Du được xây dựng ở làng quê ông xã Tiên Điền. Trường viết văn để đào tạo những cây bút mới mang tên ông. Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du – Dàn ý Mở bài: Nguyễn Du là một nhà thơ, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời nhiều tác phẩm bất hủ, trong đó nổi bậc nhất là Truyện Kiều – một bộ đại thành kinh điển của nền văn học Việt Nam từ cổ chí kim. Có thể nói tên tuổi và thành tựu văn học của Nguyễn Du rợp bóng cả thế kỉ XVIII. Thân bài: Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên, quê tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong gia đình đại quý tộc có truyền thống khoa bảng, nhiều đời làm quan lớn và là dòng tộc có truyền thống sáng tạo nghệ thuật. Hoàn cảnh gia đình tác động sâu sắc đến cuộc đời Nguyễn Du, tài năng văn học của ông vì thế có điều kiện nảy nở và phát triển sớm. Tuổi thơ Nguyễn Du hạnh phúc trong giàu sang phú quý. Cha ông là tể tướng trong triều, các anh cũng làm quan to cấp thượng công, gia đình tột cùng giàu sang. Lúc nhỏ, Nguyễn Du thường theo cha và anh vào chơi và học tập cùng các công nương quý tử trong triều nên sớm có được học thức cao đẹp. Thế nhưng, thời hoàng kim ấy tồn tại không được bao lâu. Loạn lạc xảy ra, gia đình ly tán, Nguyễn Du sớm phải gánh chịu nhiều mất mát. Lên 11 tuổi, Nguyễn Du mất cha. Hai năm sau, mẹ ông cũng qua đời. Từ đó, Nguyễn Du lưu lạc khắp nơi trong nhân gian. Lúc thì theo anh Nguyễn Khản, lúc về quê mẹ, lúc tại về thành Thăng Long. Cuộc đời gian nan, lận đận, phải gánh chịu không biết bao nhiêu cực khổ. Khi phong trào Tây Sơn thất bại, nhà Nguyễn phực hưng, Nguyễn Du có ra làm quan nhưng không mấy ưng ý. Những xung đột trong tư tưởng khiến ông có nhiều mâu thuẫn với thời cuộc. Nguyễn Du là người có hiểu biết sâu rộng, vốn sống vô cùng phong phú, thông thuộc kinh sách cổ kim, tầm chương trích cú cũng vô cùng xuất sắc. Ông đã từng sống nhiều năm lưu lạc tiếp xúc với nhiều cảnh đời và thân phận con người trong thời đại loạn lạc, dâu bể. Khi làm quan bất đắc dĩ dưới triều Nguyễn, ông đã từng đi sứ sang Trung Quốc, qua nhiều vùng đất rộng lớn, tiếp xúc với nền văn hóa rực rỡ ở Trung Hoa. Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng lớn đến sáng tác của Nguyễn Du. Ông là người có một trái tim giàu tình yêu thương, tấm lòng trắc ẩn, suy tư trước vận mệnh con người trước thời đại. Sống trong thời đại với nhiều biến động dữ dội, cộng với tấm lòng thương người vô hạn khiến cho cuộc đời Nguyễn Du quay cuồng như một cơn bão tố. Ông vừa muốn tận trung với triều đình theo lí tưởng nho gia, vừa hướng về những số phận đau thương, bất hạnh; vừa muốn bảo vệ quyền lực phong kiến lại vừa muốn thực thi công lí ở đời. Thế nhưng, lí tưởng lúc nào cũng mẫu thuẫn với thực tại, nhiều lúc ông rơi vào bế tắc cùng cực. Quan trường đối với ông là một chốn ô nhục, với quá nhiều điều trái tai gai mắt thật đáng khinh bỉ. Việc ra làm quan đối với ông là một việc bất đắc dĩ phải làm. Bởi thế, nhiều lần ông cáo lão về quê, được ân chuẩn rồi lại bị triệu hồi. Tuy được nhà vua trọng dụng, giao cho nhiều trọng trách, song ông không lấy làm vui vẻ. Ông dự định, sau chuyến đi xứ Trung Quốc lần 2, ông sẽ xin từ quan, tránh mọi phiền phức. Thật không may, ông đã mất trước chuyến đi, tại kinh thành Huế, hưởng thọ 55 tuổi. * Sự nghiệp văn học: Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn chương bất hủ bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Ở lĩnh vực nào, Nguyễn Du cũng đạt nhiều thành tựu xuất sắc. Sáng tác chữ Hán, bao gồm: – Thanh Hiên thi tập (gồm 78 bài), viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn. – Nam trung tạp ngâm (gồm 40 bài thơ), làm từ năm 1805 đến cuối năm 1812, ông viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh. – Bắc hành tạp lục (Ghi chép trong chuyến đi sang phương Bắc, gồm 131 bài thơ), viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc. Sáng tác chữ Nôm, gồm có: – Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột), tức Truyện Kiều, gồm 3254 câu thơ theo thể lục bát. – Văn chiêu hồn (nguyên có tên là Văn tế thập loại chúng sinh, nghĩa là Văn tế mười loại người), là một ngâm khúc gồm 184 câu viết theo thể song thất lục bát. – Thác lời trai phường nón (gồm 48 câu), cũng được viết bằng thể lục bát, nội dung thay lời người con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải. – Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ ()gồm 98 câu, viết theo lối văn tế… * Đánh giá: Nguyễn Du nổi bậc giữa bầu trời văn chương như một ngôi sao rực rỡ với ánh sáng lạ thường. Có hể nói, ông đã đem đến cho nền văn học thế kỉ 18 và nền văn học dân tộc những tiếng nói thấm đẫm tình người, được bao bọc trong hình thức nghệ thuật tuyệt đẹp chưa từng có. Xét về nội dung, nét nổi bậc trong sáng tác Nguyễn Du chính là sự đề cao xúc cảm, dạt dào tình người. Nét nổi bậc nhất là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh. Ông tập trung thể hiện sự trân trọng và đề cao con người trong chính cuộc sống của họ. Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là một nhà nhân đạo xuất sắc của thế kỉ 18, 19 và nền văn học dân tộc. Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Du tỏ ra uyên bác và thâm thúy cả những thể loại thơ cổ Trung Quốc lẫn thơ dân tộc. Ở thể loại nào ông cũng tỏ ra xuất sắc, thông thạo tuyệt vời. Thơ Nguyễn Du luôn nhịp nhàng âm thanh, bừng lên sắc màu của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của bức tranh hiện thực đa dạng. Và trong bộn bề âm thanh, sắc màu, đường nét vô cùng phong phú ấy, Nguyễn Du hiện ra vừa dạt dào yêu thương, vừa trầm tư, nghiêm khắc. Đó là do bản lĩnh của một đại Nho, luôn hết lòng vì con người, khiến cho tác phẩm của ông có sức sống diệu kì trong trái tim con người. Với những đóng góp trên Nguyễn Du xứng đáng là Đại Thi Hào của dân tộc. Sáng tác của Nguyễn Du không thật đồ sộ về khối lượng, nhưng có vị trí đặc biệt quan trọng trong di sản văn học và văn hóa dân tộc. Từ Truyện Kiều đã nảy sinh biết bao những hình thức sáng tạo văn học và văn hóa khác nhau: thơ ca về Kiều, các phóng tác Truyện Kiều bằng văn học, sân khấu, điện ảnh; rồi rất nhiều những dạng thức của nghệ thuật dân gian: đố Kiều, giảng Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều… Đặc biệt là số lượng rất lớn những bài bình luận, những công trình phê bình, nghiên cứu. Truyện Kiều và sự nghiệp văn học đã tốn không ít giấy mực của các nhà nghiên cứu và phê bình xưa và nay. Nguyễn Du Mộng Liên Đường Chủ Nhân khi đọc truyện Kiều đã từng nhận xét: “Ta nhân lúc đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy…” Học giả Phạm Quỳnh cũng đã đánh giá rất cao Truyện Kiều: “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn”. Truyện Kiều được xem là kiệt tác có giá trị và tầm ảnh hường lớn nhất của nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Truyện Kiều đã được dịch ra hơn 20 ngôn ngữ khác nhau với rất nhiều bản dịch, càng khẳng định mạnh mẽ vị trí của Nguyễn Du trong lòng đọc giả trên toàn thế giới. Để tôn vinh và tưởng niệm Nguyễn Du, ngày 25/10/2013, hội đồng Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc đã chính thức vinh danh Đại thi hào Nguyễn Du cùng với 107 danh nhân văn hóa trên toàn thế giới.
Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du
4,637
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về Văn Miếu – Quốc Tử Giám – Bài làm 1 2 Thuyết minh về Văn Miếu – Quốc Tử Giám – Bài làm 2 3 Thuyết minh về Văn Miếu – Quốc Tử Giám – Bài làm 3 4 Thuyết minh về Văn Miếu – Quốc Tử Giám – Bài làm 4 Thuyết minh về Văn Miếu – Quốc Tử Giám – Bài làm 1 Văn Miếu – Quốc Tử Giám được coi là trường đại học cổ nhất Việt Nam, biểu tượng cho truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam. Cũng có thể coi là một trong những trường đại học đầu tiên trên thế giới, một quần thể di tích đệ nhất Hà thành. Trải qua nhiều biến động của lịch sử và tự nhiên, đến nay Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn giữ được dáng vẻ cổ kính với nhiều công trình kiến trúc có giá trị cao. Đó là Khuê văn các, điện Đại Thành và các hiện vật làm chứng tích của nghìn năm văn hiến như: tượng thờ, rồng đá, nghiên đá, bia tiến sĩ và những cây đa, cây đại cổthụ đã chứng kiến việc học hành, thi cử qua các triều đại lí, Trần, Lê… Các giá trị văn hóa tinh thần (phi vật thể) ẩn chứa trong văn hóa vật thểở mảnh đất địa linh nhân kiệt làm nên truyền thống tôn sư trọng đạo, tôn trọng nhân tài, hiếu học và học giỏi của dân tộc. Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long thời nhà Lí. Văn Miếu – Quốc Tử Giám gồm hai di tích chính: Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo, Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam và Quốc Tử Giám trường Quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam. Với hơn 700 năm hoạt động (1076 – 1802) đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn MiếuQuốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến "cầu may" trước mỗi kì thi. Sử sách có chép Văn Miếu được xây dựng vào tháng 10 – 1070, (đời vua Lí Thánh Tông). Đến năm 1076, vua Lí Nhân Tông cho lập Quốc Tử Giám, kề sau Văn Miếu, ban đầu là nơi học của các hoàng tử, sau mở rộng thu nhận cả các học trò giỏi trong thiên hạ. Toàn bộ khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám ngày nay có diện tích 54.331 m2, bao gồm: Hồ Văn, vườn Giám và nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ. Bên trong (nội tự) có những lớp tường ngăn ra làm năm khu. Khu thứ nhất bắt đầu với cổng chính đến cổng Đại Trung. Trên cổng chính có chữ Văn Miếu Môn. Đây là một kiến trúc cổng tam quan hai tầng, phía ngoài cổng có đôi rồng đá cách điệu thời Lê, bên trong cỏ đôi rồng đá thời Nguyễn. Cổng Đại Trung ba gian lợp ngói, hai bên là hai cổng nhỏ Thành Đức và Đạt Tài. Khu thứ hai: Nổi bật với Khuê Văn Các – một công trình kiến trúc độc đáo được xây dựng năm 1805 (triều Nguyễn), gồm 2 tầng, 8 mái, bốn mặt đều có cửa sổtròn với những con tiện tỏa ra bốn phía tượng trưng cho hình ảnh sao Khuê tỏa sáng. Hai bên (phải và trái) Khuê Văn là hai cổng Bí Văn và Súc Văn. Khuê Văn Các thường là nơi tổchức bình các bài văn thơ hay của các sĩ tử. Ngày nay, Khuê Văn Các còn được lấy làm biểu tượng của Thủ đô Hà Nội. Khu thử ba là từ gác Khuê Văn tới Đại Thành Môn, ở giữa khu này có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tĩnh (giếng trời trong sáng) có tường bao quanh. Hai bên hồ là hai khu vườn bia, tức nơi lưu giữ 82 bia tiến sĩ dựng từ năm 1484 – 1780, ghi tên, quê quán của các vị tiến sĩ của 82 khoa thi. Tại đây, ta cóthể tìm thấy tên một số nhà chính trị, văn học, sử học nỗi tiếng như Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Nhậm, Lê quý Đôn, nhà toán học Lương Thế Vinh, ông tổ nghề in Lương NhưHộc… Đây chính là những di vật rất quý của khu di tích. Qua cửa Đại thành thì đến khu thứ tư, hay là Bái đường Văn Miếu. Đó là một cái sân rộng, lát gạch bát. Hai bên là hai dãy nhà tả vu, hữu vu trước đây thờ bài vị của 72 học trò xuất sắc của Khổng Tử và Tư nghiệp Quốc Tử Giám cùng các danh nhân văn hóa Việt Nam nổi tiếng thời Trần. Cuối sân là nhà Đại bái và hậu cung. Tại đây có một số hiện vật quý: bên trái treo "Bích Ung đại chuông" (chuông lớn của nhà Giám), bên phải có một chiếc khánh đá. Chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiễm đứng ra đúc năm 1768. Tấm khánh mặt trong có hai chữ Thọ Xương, mặt ngoài khắc bài minh viết kiểu chữ lệ nói về công dụng loại nhạc khí này. Khu thứ năm là Trường Quốc TửGiám cũ (nay là nhà Thái học). Tại đây, những triều đại coi "hiền tài là nguyên khí của quốc gia" đã tuyển chọn nhiều người tài giỏi, đỗ đạt cao, bỗ sung vào các chức thị độc, thị giảng, hữu tư giảng, tả tư giảng, thiếu phó, thiếu bảo để chăm lo việc giảng dạy, giải đáp, vừa giúp vua nâng cao tri thức mọi mặt. Nhiều "người một đời, thầy muôn đời" như Bùi Quốc Khải, Nguyễn Trù, Chu Văn An… đã từng vang tiếng giảng ở Quốc Tử Giám. Đầu thế kỉ XIX, khi nhà Nguyễn dời trường này vào Huế thì nơi đây chuyển làm đền Khải Thánh. Năm 1946 – 1947, giặc Pháp đã đốt trụi khu này. Năm 2000, công trình nhà Thái học được hoàn thành để chào mừng kỉ niệm 990 năm Thăng Long – Hà Nội. Đây là nơi tôn vinh truyền thống văn hóa giáo dục của dân tộc, đặt tượng tưởng niệm ba vua Lí Thánh Tông, Lí Nhân Tông, Lê Thánh Tông và thầy Chu Văn An là những danh nhân có công lập Văn Miếu – Quốc Tử Giám, phát triển nền giáo dục Nho học Việt Nam. Ấn tượng về Văn Miếu – Quốc Tử Giám còn là ở loại vật liệu xây dựng rất “Việt Nam”, đó là gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi hài mang đậm nét nghệ thuật của các triều Lê, Nguyễn. Kiến trúc cỗ xưa độc đáo ấy được ẩn dưới những tán cây cổ thụ hàng trăm năm mang đậm “chất thơ” lãng mạn, Văn Miếu-Quốc Tử Giám có thể xem như một chiếc cầu nối giữa Hà Nội xưa và nay. Góp phần làm giàu thêm cho kho tàng văn hóa của dân tộc là điểm đến hấp dẫn với khách du lịch trong nước và quốc tế. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một trong những biểu tượng của nền văn hiến Việt Nam, tinh hoa của văn hóa dân tộc, niềm tự hào của chúng ta hôm nay và mai sau, là tài sản quý giá của quốc gia, được Nhà nước công nhận để lưu giữ, tu bổ, tôn tạo và phát huy tác dụng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thuyết minh về Văn Miếu – Quốc Tử Giám – Bài làm 2 Trong số hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, hơn 500 di tích đã được xếp hạng, thì Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô Thăng Long dưới triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, với quy mô khang trang bề thế nhất, tiêu biểu nhất cho Hà Nội và cũng là nơi được coi là biểu tượng cho văn hóa, lịch sử Việt Nam. Theo Đại Việt sử ký, vào mùa thu năm Canh Tuất – 1070, Vua Lý Thánh Tông đã cho khởi công xây dựng Văn Miếu để thờ các bậc tiên thánh tiên hiền, các bậc nho gia có công với nước, trong đó có thờ Khổng Tử – người sáng lập ra nền nho giáo phương Đông và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Sáu năm sau – năm 1076, Vua Lý Nhân Tông quyết định khởi xây Quốc Tử Giám – một trường Nho học cao cấp nhất hồi bấy giờ nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu sự chọn lựa đầu tiên của triều đình phong kiến Việt Nam về vấn đề giáo dục, đào tạo con người Việt Nam theo mô hình Nho học châu Á. Hiện trong di tích còn có 82 tấm bia đá, trên đó được khắc tên của 1306 vị đã từng đỗ tiến sĩ trong 82 kỳ thi từ giữa năm 1484 và 1780. Cũng trên các tấm bia này đã ghi lại người đỗ tiến sĩ cao tuổi nhất trong lịch sử là ông Bàn Tử Quang. Ông đỗ tiến sĩ khi 82 tuổi. Người trẻ nhất là Nguyễn Hiền, quê Nam Trực (Nam Định), đậu trạng nguyên năm Đinh Mùi niên hiệu Thiên ứng Chính bình thứ 16 ( tức năm 1247) dưới triều Trần Thái Tông khi đó mới 13 tuổi. Từ đó Văn Miếu cùng Quốc Tử Giám – được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam đã tồn tại đến thế kỷ 19. Tọa lạc trên khuôn viên hơn 54.000m2, khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm giữa bốn dãy phố, cổng chính ở đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc giáp đường Nguyễn Thái Học, phía Đông giáp phố Tôn Đức Thắng, phía Tây là phố Văn Miếu. Bên ngoài có tường vây bốn phía, bên trong chia làm 5 khu vực. Khu vực 1 gồm có Văn hồ (hồ văn); Văn Miếu môn, tức cổng tam quan ngoài cùng, cổng có ba cửa, cửa giữa to cao và xây hai tầng, tầng trên có ba chữ Văn Miếu môn. Khu vực thứ hai, từ cổng chính đi thẳng vào cổng thứ hai là Đại Trung môn, bên trái là Thánh Dực môn, bên phải có Đạt Tài môn. Tiếp trong là Khuê Văn Các (được xây dựng vào nǎm 1805). Khu vực 3 là giếng Thiên Quang (Thiên Quang Tỉnh có nghĩa là giếng trời trong sáng). Tại khu vực này có 82 bia Tiến sĩ dựng thành hai hàng, mặt bia quay về giếng, là một di tích thật sự có giá trị. Qua cửa Đại Thành là vào khu vực thứ 4, cửa Đại Thành cũng mở đầu cho những kiến trúc chính như hai dãy Tả Vu và Hữu Vu, chính giữa là Toà Đại Bái đường, tạo thành một cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và truyền thống. Xưa, đây là nơi thờ những vị Tổ đạo Nho. Khu trong cùng là nơi giảng dạy của trường Quốc Tử Giám thời Lê, nhiều thế hệ nhân tài "nguyên khí của nước nhà" đã được rèn giũa tại đây. Khi nhà Nguyễn dời trường Quốc học vào Huế, nơi đây dùng làm đền thờ Khi Thánh (cha mẹ Khổng Tử), nhưng ngôi đền này đã bị hư hỏng hoàn toàn trong chiến tranh… Điều đáng mừng là trong nǎm 2000, Chính phủ Việt Nam đã quyết định khởi công xây dựng Thái học đường với giá trị 22 tỷ đồng. Dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2003 nhằm làm cho khu di tích Vǎn Miếu – Quốc Tử Giám ngày càng hoàn chỉnh hơn, đúng với tầm cỡ và vị trí của di tích. Công trình này mang tính yêu cầu của thời đại, đó là công trình mới nhằm tôn vinh nền văn hoá của dân tộc. Những người đời sau đến đây có được những giây phút tưởng niệm những người đã có công sáng lập và xây dựng nền giáo dục Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm và những biến cố của lịch sử, Văn Miếu – Quốc Tử Giám không còn nguyên vẹn như xưa. Những công trình thời Lý, thời Lê hầu như không còn nữa. Song Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn giữ nguyên được những nét tôn nghiêm cổ kính của một trường đại học có từ gần 1000 năm trước của Hà Nội, xứng đáng là khu di tích vǎn hoá hàng đầu và mãi là niềm tự hào của người dân Thủ đô khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn hiến của Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội. Thuyết minh về Văn Miếu – Quốc Tử Giám – Bài làm 3 Văn miếu Quốc Tử Giám là một trong số những di tích có ý nghĩa lịch sự quan trọng,gắn liền với sự kiện lịch sự có ý nghĩa như sự thành lập kinh đô Thăng Long. Không những vậy, đây là nơi có niên đại hàng nghìn năm lịch sử, qui mô lớn, được xem là trường đại học đầu tiên của Việt Nam, cho tới tận bây giờ, Văn Miếu- Quốc Tử Giám trở thành một địa điểm cho khách du lịch tham quan và hiểu thêm về văn hóa lịch sử của Việt Nam. Hà nội là thủ đô của đất nước Việt Nam, ở đây còn lưu giữ những nét văn hóa và cả kiến trúc cảu thời xưa để lại.mang một vẻ đẹp vừa cổ kính lại hiện đại , Hà Nội ngày càng trở thành một điểm hội tụ nhiều nét đẹp văn hóa đặc sắc. Một trong số đó có Văn Miếu Quốc Tử Giám dù trải qua bao thăng trầm vẫn mang những vẻ đẹp mà không thể nào phủ nhận được. Văn Miếu – Quốc Tử Giám được nhà Lý xây dựng vào thế kỉ 11,nơi đây nhanh chóng trở thành nơi dạy học cho các hoàng tử và những người tài trong thiên hạ,không những thế đây còn là nơi thờ phụng những bậc hiền tài có công với nền giáo dục của đất nước và cũng là địa điểm tổ chức các kì thi của quốc gia, cao nhất là kì thi tiến sĩ. Hiện tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam thành Thăng Long xưa, thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Dù cuộc sống hiện đại có nhiều thứ thay đổi nhưng Văn Miếu không làm mất đi vẻ yên tĩnh, cổ kính vốn có. Quần thể kiến trúc của Văn Miếu với diện tích 54331m² bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám.Hồ Văn nằm ở đối diện cổng chính Quốc Tử Giám, là một hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát, giữa hồ có gò Kim Châu, khung cảnh rất yên bình, nên thơ giúp cho các sĩ tử giải tỏa bớt căng thẳng trước giờ thi. Dù trải qua nhiều lần bị phá hủy do chiến tranh..nhưng nó đã được trùng tu và khang trang hơn. Tường gạch vồ là nơi để ngăn cách khu nội tự Văn Miếu – Quốc Tử Giám với vườn Giám.lối đi trong Văn Miếu được trải sỏi hoặc lát đá sạch sẽ tạo nên những con đường nhã nhặn. Từ cổng chính Văn Miếu Môn, vào khu Nhập đạo, theo đường thẳng tới cổng Đại Trung môn. Khu vực này người ta trồng cây cổ thụ nhằm che bóng mát gần kín mặt bằng và có bốn hồ nhỏ đăng đối hai bên phải trái. Trong hồ được trồng hoa sen, hoa súng tạo cho cảnh quan càng thêm tươi đẹp và thanh tịnh. Quanh hồ là những bức tường hoa để ngăn cách lối đi với hồ. Nổi bật và cũng là nơi mà được mọi người chú ý nhất là bia Tiến sĩ và hồ nước vuông Thiên Quang .Sát bờ hồ là lối đi và những dãy bia đá trang nghiêm, cổ kính dựng thành hai khu Đông và Tây. Trong Văn Miếu có tất cả gồm 82 tấm bia ghi tên họ quê quán của những người đã đỗ Tiến sĩ triều Lê. Những bia này được đặt trên lưng rùa- chính là thần Kim Quy, là một vật biểu linh cho tinh thần, sức mạnh, sự yêu thương, đoàn kết của dân tộc. Kế tiếp khu Cửa Đại Thành và qua đây là tới một sân rộng hàng ngàn mét vuông, lát gạch Bát Tràng. Ngày xưa đây chính là nơi mà các hoàng tử và những người tài trong thiên hạ được tổ chức lớp học nghe giảng đạo. Ngày nay đây chính là nơi tập trung tổ chức các sự kiện văn hóa lớn của Hà Nội và quốc gia. Ở gian chính của Thượng điện đặt ngai lớn, bên trong có bài vị và tượng đồng của Khổng Tử. Hai gian bên phải, trái đặt ngai thờ bốn vị Tăng Tử, Mạnh Tử, Nhan Tử và Tử Tư. Hai bên của sân là hai dãy Hữu Vu và Tả Vu, cũng là khu triển lãm, trưng bày, bán đồ lưu niệm cho khách tham quan. Tiền đường và Hậu đường là phần cuối của Văn Miếu Quốc Tử Giám,nổi bật với công trình hoàn toàn mới được khởi công xây dựng ngày 13 – 7 – 1999. Đây là nơi trưng bày truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, văn hoá nghệ thuật dân tộc. Không những thế hậu đường là kiến trúc gỗ hai tầng, đây là nơi tôn vinh Danh sư Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An và là nơi trưng bày về Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long và nền giáo dụ Nho học Việt Nam. Trên tầng hai ,đây là nơi dành cho nơi tôn thờ các danh nhân đã có công xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám và đóng góp vào sự nghiệp giáo dục Nho học Việt Nam bao gồm vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông. Quần thể Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng dựa trên việc kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Phật Giáo, Nho giáo và văn hóa dân gian Việt Nam. Những nét đặc trưng của Văn Miếu càng khiến nó có một sức hút kì lạ. Đây vừa là biểu tượng của tri thức, văn hóa, khát vọng trong con đường học tập của các sĩ tử nói riêng và con người Việt nam nói chung, vừa là nét son thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế. Thuyết minh về Văn Miếu – Quốc Tử Giám – Bài làm 4 Văn Miếu Quốc Tử Giám được tọa lạc giữa lòng thủ đô Hà Nội, nơi đây được xem là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Từ những năm tháng đầu tiên, ngôi trường này đã tụ họp được rất nhiều nhân tài, đóng góp không nhỏ vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Ngày nay, Văn Miếu tại thủ đô Hà Nội đang là điểm đến lý tưởng của nhiều du khách mỗi khi ghé thăm Hà Nội, bởi kiến trúc độc đáo, ấn tượng và những ý nghĩa lịch sử của nó. Văn Miếu Quốc Tử Giám cũng đã trải qua biết bao nhiêu là biến động, là thăng trầm của lịch sử. Thế nhưng nó vẫn giữ nguyên được những nét đẹp truyền thống người Hà Nội. Đó chính là những giá trị tinh thần cao đẹp, được mọi người cùng gìn giữ từ bao nhiêu đời nay. Văn Miếu được đặt ở phía Nam kinh thành Thăng long thời Lí, bắt đầu hoạt động trong khoảng thời gian từ năm 1076 cho đến năm 1820, nơi đây đã đào tạo ra biết bao nhân tài cho đất nước. Văn miếu gồm hai di tích chính đó là: Văn Miếu thờ Khổng Tử, thờ các bậc hiền triết và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An. Ông là người thầy đầu tiên của ngôi trường này. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử nhưng Văn Miếu vẫn luôn giữ được những nét đẹp cổ kính năm xưa. Vào thời kỳ đầu, Văn Miếu là nơi học tập dành cho các hoàng tử. Sau này mới bắt đầu mở rộng ra cho những người tài, trí thức trong cả nước. Diện tích Văn Miêus vào khoảng 54.331 m2, bao gồm: vườn Giám, hồ Văn và nội tự. Bao quanh là hàng rào tường gạch vồ. Cho tới ngày nay, Văn Miếu vẫn giữ được những kiến trúc thiết kế từ thời xa xưa, cùng với biết bao nhiêu dấu vết thăng trầm của thời gian, cùng những đổi thay của đất nước. Bước Văn Miếu, du khách sẽ gặp đầu tiên là cổng chính. Trên cổng chính là dòng chữ Văn Miếu Môn. Ngoài cổng là đôi rồng đá thời Lê, còn phía bên trong là rồng đá thời Nguyễn. Tiếp đến chính là Khuê Văn Các, được xây dựng vào năm 1805 bao gồm 2 tầng, và 8 mái rất rộng rãi. Đây là nơi thời xưa thường tổ chức bình các bài thơ, văn hay của các sĩ tử. Khu thứ ba của Văn Miếu bắt đầu từ gác Khuê Văn đi tới Đại Thành Môn. Ở giữa có một cái hồ vuông được gọi là Thiên Quang Tĩnh. Hai bên hồ hiện nay là nơi lưu giữ 82 tấm bia tiến sĩ với tên họ, quê quán, chức tước của những người nổi tiếng bao đời như: Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn… Phía cuối sân là nhà Đại bái và hậu cung, nơi những hiện vật quý hiếm được lưu truyền cho các thế hệ sau từ bao đời nay. Chẳng hạn như: chuông Bích Ung được đúc bởi Nguyễn Nghiêm vào năm 1768. Được xem là chiếc chuông lớn nhất cùng với giá trị lịch sử, văn hóa lâu đời. Tấm khánh mặt bên trong có hai chữ “Thọ Xương”, mặt ngoài khắc theo kiểu chữ lệ để nói về công dụng của loại nhạc cụ này. Khu thứ 5 cũng chính là Trường Quốc Tử Giám, đây là nơi dạy học và tuyển chọn người tài, những người đỗ đạt cao để giúp cho vua nâng cao trí thức, trị vì đất nước. Có rất nhiều người cũng từ ngôi trường này đã tạo ra những tiếng vang lớn đến tận ngày nay như: Chu Văn An, Bùi Quốc Khải… Văn Miếu Quốc Tử Giám đã được xây dựng chủ yếu từ vật liệu gỗ lim, gạch đất nung, cùng với những viên ngói mũi hàng mang đậm nét nghệ thuật của triều Lê, Nguyễn. Nét kiến trúc cổ kính, độc đáo ấy được xây dựng nên từ những đôi bàn tay khéo léo của những nghệ nhân xưa. Cho tới mãi ngày nay, Văn Miếu Quốc Tử Giám vẫn luôn là một địa điểm du lịch hấp dẫn đối với rất nhiều người. Vừa để nhớ về cội nguồn, cũng vừa là nơi khấn bái, và tìm hiểu về lịch sử của ông cha ta. Nơi đây được xem là tâm điểm của Hà Nội, của thủ đô ngàn năm văn hiến.
Thuyết minh về Văn Miếu – Quốc Tử Giám
3,983
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về Vịnh Hạ Long – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định 2 Thuyết minh về Vịnh Hạ Long – Bài làm 2 3 Thuyết minh về Vịnh Hạ Long – Bài làm 3 Thuyết minh về Vịnh Hạ Long – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định Nhắc đến danh lam thắng cảnh, những chốn có non nước hữu tình trên đất nước Việt nam ta khó lòng không nhắc đến vịnh Hạ Long. Cái tên ấy ai là người Việt nam cũng biết đến. Nó không chỉ đẹp trong hiện tại hay tương lai mà nó còn đẹp từ thời xưa trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: "Con gà, con cóc quê hương cũng biến Hạ Long thành thắng cảnh". Mới đây vịnh Hạ Long còn dược UNESCO công nhận là một trong bảy kì quan đẹp nhất thế giới. Vậy không biết rằng Hạ Long có những gì mà lại được tôn vinh đến như vậy? Vịnh Hạ Long còn có truyền thuyết đó là Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa thiêu cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành bức tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan, chặn đứng bước tiến của ngoại bang. Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ con dân Đại Việt. Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long và đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay, với bãi cát dài trên 15 km). Lại có truyền thuyết khác nói rằng vào thời kỳ nọ khi đất nước có giặc ngoại xâm, một con rồng đã bay theo dọc sông xuôi về phía biển và hạ cánh xuống ở vùng ven biển Đông Bắc làm thành bức tường thành chắn bước tiến của thủy quân giặc. Chỗ rồng đáp xuống che chở cho đất nước được gọi là Hạ Long. Trước hết về vị trí của vịnh Hạ Long thì nó nằm ở vùng Ðông Bắc Việt Nam, vịnh Hạ Long là một phần vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Ðồn. Phía tây nam Vịnh giáp đảo Cát Bà, phía đông là biển, phần còn lại giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km, được giới hạn từ 106o58′ – 107o22′ kinh độ Ðông và 20o45′ – 20o50′ vĩ độ Bắc với tổng diện tích 1553 km2. Tiếp nữa là về đảo ở đây thì có 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Đảo nơi đây gồm có hai dạng đó là đảo đá vôi và đảo phiến thạch tập trung ở Bái tử long và vinh Hạ Long. Ở đây thì chúng ta thấy được hàng loạt những hang động đẹp và nổi tiếng. Vùng Di sản thiên nhiên được thế giới công nhận có diện tích 434 km2 bao gồm 775 đảo, như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Ðầu Gỗ (phía tây), hồ Ba Hầm (phía nam), đảo Cống Tây (phía đông) vùng kế bên là khu vực đệm và di tích danh thắng quốc gia được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng năm 1962. Đến với Hạ Long thì người ta không thể nào rời mắt khỏi những cảnh vật nơi đây. Nào là núi, nào là nước với những hang động thật sự hấp dẫn người ta muốn đi tới tận cùng để tìm thấy cái hữu hạn trong cái vô hạn của trời nước, núi non ấy. chúng ta cứ ngỡ rằng ngọn núi kia giống như những người khổng lồ vậy, ngồi trong thuyền mà ngước lên để đo tầm cao của những ngọn núi ấy thật sự là mỏi mắt. Đến đây ta mới biết hết thế nào là sự hùng vĩ, thế nào là sự hữu tình giữa nước và non. Làn nước biển mặn mà vị xa xăm của muối. Hang động với những nhũ đá như sắp rơi xuống nhưng thật chất lại là không rơi. Nó cứ tua tủa như muôn ngàn giọt ngọc dạng lỏng lấp lánh dính vào nhau nhưng không rơi xuống. Con người nơi đây cũng thật sự là rất đáng yêu đáng quý. Họ không những mến khách mà còn như một người hướng dẫn viên du lịch vừa nói giới thiệu tả cảnh vừa vững tay chèo đẩy lái đến nơi khách muốn qua. Những con người ở đây nồng nhiệt mỗi khi có khách đến và khi khách đi thì để lại những ấn tượng khó phai về những con người miền non nước hữu tình với những tình cảm mặn mà như là muối biển vậy. Qua đây ta thấy vịnh Hạ Long rất xứng đáng là một trong bảy kì quan của thế giới. Nếu những ai đã được đặt chân đến đây thì chắc hẳn rất ấn tượng bởi cảnh đẹp và con người nơi đây. Còn những ai chưa đến thì hãy nhanh chóng đến mà tận hưởng những gì là tạo hóa ban tặng, những gì là mẹ thiên nhiên. Thuyết minh về Vịnh Hạ Long – Bài làm 2 Theo truyền thuyết xa xưa, một vài gia đình rồng nhà trời, đứng đầu là con rồng mẹ hay tới vùng Long Đồ (rốn rồng) thuộc phường Hà Khẩu ở Đông Đô. Được ngày lành tháng tốt, gia đình nhà rồng bay cả lên bầu trời, ca ngợi cảnh thái bình và phồn vinh. Rồi rồng bay xuống vịnh Hạ Long là nơi đắc địa, có phong cảnh diệu kì. Ở đây, rồng thiên phun ra châu ngọc và sinh ra nhiều rồng con. Những viên châu ngọc đó trở nên những hòn đảo trong vịnh. Vịnh nhỏ Bái Tử Long là vịnh của những đàn rồng con chầu về mẹ rồng. Vịnh biển rộng l.500km2, rải rác chừng 3000 ngàn hòn đảo lớn, nhỏ. Chúng còn gọi là đỉnh, là hòn, ngọn, núi… Người ta nhìn hình tượng chúng mà đặt tên như: gà chọi, con cóc, con chó, con rùa, đỉnh hương, phẩm oản, nải chuối, ẵm em, yên ngựa, ông cụ, chờ chồng… Hang động trong các đảo đá ở vịnh Hạ Long cũng la liệt phô bày. Có hang lại nửa nổi nửa chìm. Các thuyền nhỏ có thể luồn lách vào tận bên trong, xuyên qua mấy đảo núi như thế vào mê cung nước biển vô tận. Có hang lại đi xuyên qua gan ruột một quả núi, tạo thành một đường hầm có hai cửa. Đó là hang Trống, hang Đầu Gỗ, hang Trinh Nữ có dáng đá giống hệt người đàn bà xòa tóc đẻ ra những câu chuyện kể thương tâm, bi hùng về một người con gái nhan sắc, đã làm xúc động biết bao nhiêu đời người. Mỗi hòn đá, một nhóm cây ở đây đều gắn liền với những câu chuyện. Chúng có cuộc sống và tâm hồn riêng. Thôi thì đủ chuyện: chuyện những vụ đắm tàu, những toán cướp biển, những chàng trai anh hùng, những nàng tiên cá, những cuộc yêu đương mà hai bên trai gái đều đâm đầu xuống biển để sống với nhau ở thế giới bên kia, những chuyện ma quỷ rùng rợn, những chuyện thần tiên đủ cả. Ngay sát vịnh là quê hương của những mỏ than lộ thiên – chủ yếu là mỏ Hòn Gai với nhiều đàn tàu nước ngoài đến “ăn than” tấp nập, khẩn trương. Bãi tắm Bãi Cháy, Bãi Tử Long, Cô Tô. Bãi cắm ở đảo Ba Mùn, Ngọc Vừng, Quan Lan, Minh Châu, Trà Cổ… là những bãi tắm xanh, sạch, đẹp. Cát chỗ nào cũng mịn màng, trắng phau… Đảo Ba Mùn là một hòn đảo có rừng nguyên sinh, xanh ngợp cây đại ngàn. Nơi đây không hiếm các loại cây, cỏ làm thuốc quý như ngũ gia bì, đằng đằng, ngưu tất, tam thất… Trên các đảo của vịnh có đủ các loại sơn cầm, dã thú như vượn, khí, sơn dương, kì đà, bói cá, hươu sao, sóc bay, đại bàng, cò lửa, chim xanh, chim gõ mõ… Bãi Cháy là dải bờ biển nằm phía Tây Bắc vịnh Hạ Long, là một bãi tắm trải dài, uốn khúc. Nơi đây mọc lên nhiều khách sạn, nhà hàng, nhà nghỉ. Các cửa hàng buôn bán sầm uất ngay bên cạnh bãi biển. Đi phà chừng 15 phút, sẽ tới thành phố Hạ Long có mùi cá và mùi than. Đi về phía bên trái một chút là đến đảo Khỉ. Khách có thể đến thăm nơi sinh sống của gần 2000 con khỉ. Chúng kéo nhau đi nhận phần cơm khi có tiếng kẻng báo giờ ăn. Chúng bồng con bế cái, đùa giỡn, chọc ghẹo nhau, cũng vui, giận, yêu, ghen… Về việc vịnh Hạ Long của ta dược UNESCO công nhận và ghi vào danh sách di Sản văn hóa thế giới, là danh thắng của thế giới là cả một quá trình kéo dài nhiều năm gửi công văn đi và nhận công văn về. Việc này đã qua nhiều cuộc bàn luận quốc tế, qua nhiều lần khảo sát thực địa, trình bày, phân tích. Những cuộc khảo sát khoa học và văn hóa về vịnh Hạ Long do các đoàn chuyên viên cao cấp của UNESCO tiến hành rất tỉ mỉ. Để được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, phải có những cứ liệu cụ thể, những lí luận vững để bảo vệ. Được UNESCO ra văn bản công nhận di sản văn hóa thế giới là niềm phấn khởi đầy tự hào, nhưng cũng là một nhiệm vụ nặng nề đối với chúng ta trong việc giữ gìn, xây dựng, tránh ô nhiễm để vịnh Hạ Long càng ngày càng đẹp hơn và có ích hơn cho cả cộng đồng quốc tế. Thuyết minh về Vịnh Hạ Long – Bài làm 3 Nước ta có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Trong số đó không thể không kể đến Hạ Long. Đó là một kiệt tác của thiên nhiên, được công nhận là một di sản văn hóa thế giới. Người Việt Nam ta tự hào vì được sở hữu một danh lam thắng cảnh đẹp như vậy. Vịnh Hạ Long là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ Tây vịnh Bắc Bộ tại khu vực biển Đông Bắc Việt Nam, thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh. Vịnh Hạ long được hình thành do sự vận động của đá và nước, là một tác phẩm nghệ thuật địa lí được hoàn thành sau hàng triệu năm biến đổi của địa chất. Vịnh Hạ Long giới hạn trong diện tích khoảng 1.553km² bao gồm 1.960 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là đảo đá vôi. Nói đến vịnh Hạ Long, trước hết phải nói đến vẻ đẹp thần tiên của non nước mây trời nơi đây. Từ trên cao nhìn xuống, vịnh Hạ Long như một bức tranh thuỷ mặc khổng lồ vô cùng sống động. Đó là những tác phẩm tạo hình tuyệt mỹ, tài hoa của tạo hoá, của thiên nhiên biến hàng ngàn đảo đá vô tri tĩnh lặng kia trở nên những tác phẩm điêu khắc, hội họa hoàn mỹ với muôn hình dáng vẻ yêu kiều. Hàng ngàn đảo đá nhấp nhô trên sóng nước lung linh huyền ảo, vừa khoẻ khoắn hoành tráng nhưng cũng rất mềm mại duyên dáng, sống động. Đi giữa Hạ Long với muôn ngàn đảo đá, ta ngỡ như lạc vào một thế giới cổ tích bị hoá đá nơi đây. Đảo thì giống hình ai đó đang hướng về đất liền – hòn Đầu Người; đảo thì giống như một con rồng đang bay lượn trên mặt nước – Hòn Rồng; đảo thì lại giống như một ông lão đang ngồi câu cá – hòn Lã Vọng; và kia hai cánh buồm nâu lực lưỡng đang rẽ sóng nước ra khơi – hòn Cánh Buồm; rồi hai con gà đang âu yếm vờn nhau trên sóng nước – hòn Trống Mái; đứng giữa biển nước bao la một lư hương khổng lồ như một vật cúng tế trời đất – hòn Lư Hương… Tất cả đều rất thực, thực đến kinh ngạc. Những đảo đá diệu kỳ ấy biến hoá khôn lường theo thời gian và góc nhìn. Tới đây ta mới nhận ra tất cả chúng không phải là những hòn đảo vô tri tĩnh lặng mà như có hồn và đều sống động. Tiềm ẩn trong lòng các đảo đá ấy là những hang động tuyệt đẹp như động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, động Sửng Sốt, hang Trinh Nữ, động Tam Cung… Đó thực sự là những lâu đài của tạo hoá giữa chốn trần gian. Từ xưa, Hạ Long đã được đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi mệnh danh là "kỳ quan đất dựng giữa trời cao". Du khách từ khắp năm châu khi đặt chân đến đây đều cảm thấy vô cùng thích thú trước vẻ đẹp kỳ vĩ của Hạ Long. Biển ở đây còn mang một vẻ đẹp rất riêng khi hoàng hôn buông xuống. Mặt vịnh lúc này được nhuộm một sắc màu đỏ rực của những tia nắng cuối cùng. Cảnh sắc quyện lại dệt nên những gam màu tuyệt diệu. Khi màn đêm buông xuống, vào những đêm trăng, mặt nước như được dát bạc quyện với màu sẫm của những đảo đá mờ xa khiến cho vịnh Hạ Long trở nên huyền ảo như thật như mơ. Hùng vĩ và bí ẩn, đầy cảm hứng và vô cùng độc đáo , vịnh Hạ Long thật xứng đáng là một trong những kỳ quan thiên nhiên đẹp nhất. Những hòn đảo nhỏ như được chấm lên trên nền xanh ngọc của biển, cùng theo đó là những hang động kỳ bí được tạo nên bởi sóng và gió, những cánh rừng xanh biếc rộn rã tiếng chim hót, thật kỳ ảo. Sương mù có thể làm cho tầm nhìn bị hạn chế nhưng lại góp phần làm cho vịnh Hạ Long thêm lung linh kỳ ảo. Ta đang ngỡ ngàng trước cảnh vật thơ mộng này, thoắt đã hiện lên cảnh vật khác, mới lạ và đầy vẻ quyến rũ. Các ngõ ngách lúc khép, lúc mở, lúc là hành lang thẳng tắp lung linh nước trời, lúc uốn lượn dưới chân những quả núi cao vút đổ bóng râm huyền bí xuống mặt nước yên ắng. Có khi thuyền ta đang đi, bỗng nhiên một dãy đảo sừng sững vụt hiện lên trước mặt, chắn ngang lạch nước, ngỡ đã cùng đường. Như­ng không, khi thuyền ta l­ướt tới, dãy đảo như­ né mình, mở ra các lối ngoặt bất ngờ dẫn ta đi sâu vào rừng đảo vừa quen thuộc lại vừa xa lạ. Cảnh vật của biển đảo Hạ long thoắt ẩn,thoắt hiện, với sự biến đổi chừng như­ giây lát đã làm cho biết bao du khách ngạc nhiên, say đắm. Hạ Long cũng là nơi gắn liền với những trang sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc Việt Nam với những địa danh nổi tiếng như Vân Đồn – nơi có thương cảng cổ sầm uất vào thế kỷ thứ 12; có núi Bài Thơ lịch sử; cách đó không xa dòng sông Bạch Đằng – là chứng tích của hai trận thuỷ chiến lẫy lừng của các thế hệ ông cha chống giặc ngoại xâm. Không chỉ có vậy, Hạ Long còn là một trong những cái nôi của con người với nền Văn hoá Hạ Long huy hoàng thời Hậu kỳ đồ đá mới tại những địa danh khảo cổ học nổi tiếng như Đồng Mang, Xích Thổ, Soi Nhụ, Thoi Giếng… Hạ Long cũng là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với những hệ sinh thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái san hô, hệ sinh thái tùng áng, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới… Với hàng ngàn loài động thực vật vô cùng phong phú, đa dạng như tôm, cá, mực… Có những loài đặc biệt quý hiếm chỉ có ở nơi đây. Với các giá trị ngoại hạng về cảnh quan và địa chất, địa mạo vịnh Hạ Long hội tụ những điều kiện thuận lợi để phát triển ngành kinh tế du lịch với loại hình đa dạng. Đến vịnh Hạ Long, chúng ta có thể tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, tham quan ngắm cảnh, tắm biển, bơi thuyền, thả dù, lặn khám phá rặng san hô, câu cá giải trí… Vùng vịnh thích hợp cho việc nuôi trồng và đánh bắt hải sản do có các điều kiện thuận lợi: khí hậu tốt, diện tích bãi triều lớn, nước trong, ngư trường ven bờ và ngoài khơi có trữ lượng hải sản cao và đa dạng với cá song, cá giò, sò, tôm, bào ngư, trai ngọc các loại. Hiện nay, vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới . Hạ Long là một điểm du lịch hấp dẫn vì cảnh quan nơi đây thật đẹp và hữu tình. Phong cảnh Hạ Long không bao giờ bị tẻ nhạt, mỗi một mùa lại mang đến cho Hạ Long một sắc thái riêng đầy ấn tượng. Mùa xuân giữa sóng nước mênh mông trong làn sương bạc che phủ, những đảo đá trở nên uyển chuyển mềm mại, bồng bềnh trên sóng nước. Mùa hè đến, ánh bình minh ló rạng nơi chân trời, những đảo đá như vươn dậy, từ mặt nước bao la. Toàn vịnh mang một màu đỏ rực chuyển dần sang màu xanh lam. Những gợn sóng lăn tăn ánh bạc đua nhau lướt trên mặt vịnh xô vào bờ. Vịnh Hạ Long là một di sản văn hóa đáng tự hào của dân tộc. Ngày nay, vịnh Hạ Long vẫn đang thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, mang lại nhiều lợi ích cho nước nhà, chúng ta cần ra sức bảo vệ và giữ gìn vịnh Hạ Long để vịnh ngày càng xanh tươi hơn, mãi mãi là niềm tự hào của đất nước.
Thuyết minh về Vịnh Hạ Long – Văn mẫu lớp 8
3,152
Nội dung bài viết1 Thuyết minh về đôi dép lốp trong kháng chiến – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình 2 Thuyết minh về đôi dép lốp trong kháng chiến – Bài làm 2 3 Thuyết minh về đôi dép lốp trong kháng chiến – Bài làm 3 4 Thuyết minh về đôi dép lốp trong kháng chiến – Bài làm 4 Thuyết minh về đôi dép lốp trong kháng chiến – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình Hồi chiến tranh, miền Bắc nghèo lắm. Tất cả các loại dép tạm gọi là "thời trang" thời đó như dép nhựa Tiền Phong, dép Thái Lan (mà sau này ở miền Nam gọi là dép Lào)… đều không thể trang bị cho quân đội được, một phần vì đắt, một phần vì cấu trúc không phù hợp. Dép gì có thể đạt được cả 3 yêu cầu: rẻ, khá chắc chắn và dễ sử dụng? Hồi ấy, lốp (vỏ) xe ô tô cũ thải ra rất nhiều mà không thể sử dụng vào việc gì khác (ngoài việc làm đệm chống va cho tàu thủy), thế là có một sáng kiến phát sinh: cắt lốp cũ làm để, săm (ruột) ô tô cũ làm quai. Đôi dép lốp ra đời từ đấy. Loại dép này trong Nam gọi là "dép rầu". Đôi dép lốp chỉ là một phần rất nhỏ được cắt từ chiếc lốp ô tô quân sự của thực dân Pháp bị ruân và dân ta phục kích tiêu diệt tại một vùng căn cứ địa Việt Bắc năm xưa. Nó được đo cắt rất khéo, không dày cũng không mỏng, quai trước bản to bản, kiểu quai dép xăng – đan, rất chắc chắn. Dép lốp nhìn không bóng bẩy như giày, nhưng đạt yêu cầu: rẻ, dễ sử dụng và bền. Nhược điểm là đế quá cứng (dễ phồng chân) hay tuột quai, nên thời đó, trong sâu chìa khóa của mỗi người thường có thêm cái "rút quai dép". Tuy nhiên nó đã được trang bị cho quân đội cách mạng trong một thời gian dài. Về sau này, khoảng đầu thập niên 1970, bộ đội mới được trang bị dép "đúc". Nó có cấu trúc giống dép lốp, nhưng đế bằng cao su đúc nên mềm, nhẹ và nhẵn (láng) hơn, quai chắc chắn hơn, người sử dụng thấy dễ chịu hơn. Điều đáng ngạc nhiên là đôi dép lốp đã trở thành đề tài, nguồn cảm hứng sáng tác của rất nhiều giới nhà văn, nghệ sĩ cả trong nước và ngoài nước. Đôi dép lốp không chỉ bên cạnh các chiến sĩ trong cuộc sống thường nhật mà còn cùng Bác đi khắp mọi miền của Tổ quốc thân yêu và đến với bầu bạn xa gần trên thế giới. Trong cả bốn mùa: xuân, hạ, thu đông, đều có thể sử dụng đôi dép lốp; riêng vào mùa đông, Bác Hồ thường đi thêm đôi tất cải để giữ ấm cho chân. Khi tới thăm đồng bào, đặc biệt thăm hỏi động viên bà con nông dân, Bác Hồ cũng đi dép lốp, mặc bộ quần áo nâu chàm, trông rất giản dị và gần gũi. Có khi Bác còn tháo dép xách tay, xắn quần đi trên đồng nước bùn lầy cùng với bà con. Đôi dép của Người lúc nào cũng sạch sẽ và đen bóng. Ở bất kì nơi đâu, nhân dân cũng nói về đôi dép của Bác như một báu vật mà họ muốn chiêm ngưỡng. Đặc biệt là các cháu thiếu nhi, khi Bác tới thăm, chúng đã tìm mọi cách để được sờ tận tay và được tận mắt ngắm nhìn đôi dép của Bác. Rồi đến những chiến sĩ ngoài đảo xa, có dịp Bác về thăm cũng tranh nhau được sửa sang lại chiếc dép cho Bác được chắc chắn hơn. Đặc biệt, một lần đến thăm Thủ đô Niu Đêli – Ấn Độ, câu chuyện về đôi dép lốp của Bác càng có thêm nhiều điều ngạc nhiên thú vị. Khi Bác tiếp các quan chức cấp cao trong Chính phủ Ấn Độ, họ đều chú ý nhìn vào đôi dép dưới chân Người, họ luôn liếc nhìn với vẻ lạ lùng và rất đỗi trân trọng. Báo chí đặc biệt bài nào cũng nói với về đôi dép cao su của Bác như một chuyện lạ, một huyền thoại về một con người tuyệt vời của thế kỉ lúc bấy giờ. Người dân Ấn Độ đã tỏ rõ lòng ngưỡng mộ đến kì lạ về đôi dép lốp này. Khi Bác Hồ tới thăm một ngôi đền lớn và cổ kính của Ấn Độ thì có một chuyện lạ xảy ra. Lúc Bác bước vào trong đền, để lại đôi dép bên ngoài thì bất ngờ có hàng trăm phóng viên báo chí, nhiếp ảnh, quay phim ập đến vây kín đôi dép cao su của Bác. Họ như phục sẵn từ rất lâu rồi, một số phóng viên còn cúi xuống dùng tay sờ, nắn đôi dép tỏ vẻ lạ lùng và trịnh trọng. Sau đó họ vội vàng ghi chép lại những gì mình vừa thấy. Từ những góc độ, cự ly khác nhau, các phóng viên thi nhau bấm máy, họ chen nhau để có được những vị trí thuần lợi. Rồi tiếp theo đó là cảnh đám đông dân chúng kéo đến từ các ngả, ùa vào để được ngắm nghía đôi dép. Có những tấm ảnh chụp đặc tả về đôi dép cao su này với những suy ngẫm khác nhau. Đôi dép đã cùng Bác vào sinh ra tử, nó chất chứa bao kỉ niệm sâu sắc và cảm động không thể nào quên. Kể cả khi đôi dép đã cũ, Bác cũng kiên quyết giữ lại để dùng, không muốn đổi đôi mới. Đức hy sinh cao cả của Bác đã được thể hiện qua câu nói: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho đất nước được tự do, độc lập, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành." Có thể nói, đôi dép lốp có một chiều dài lịch sử – qua bao năm tháng – đã gắn bó cùng nhân dân và các chiến sĩ cách mạng từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ cho tới ngày thống nhất, xây dựng đất nước hòa bình… Đôi dép cao su không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đời Bác mà với cả dân tộc Việt Nam. Qua hình ảnh đôi dép cao su, cũng cho ta thấy được đức tính giản dị, tiết kiệm đáng quý của người lính cách mạng. Không chỉ có vây, nó còn chứa đựng bài học bổ ích là bài học làm người, sống sao cho có ích cho xã hội, cho đất nước, luôn biết quý trọng sức lao động, mồ hôi, nước mắt của người dân. Phải luôn quan tâm tới bản chất bên trong chứ không chỉ chú trọng hình thức bên ngoài, cũng như đôi dép cao su tuy cũ nhưng mãi bền vững theo thời gian. Đôi dép lốp có ý nghĩa vô cùng lớn lao và nhắc nhở chúng ta phải luôn biết nâng niu, trân trọng những giá trị của cuộc sống. Hình ảnh người chiến sĩ bước đi ung dung, thư thái với đôi dép lốp giản dị mà vẫn toát lên uy nghiêm lạ thường, lúc nào cũng khiến chúng ta ngưỡng mộ. Thuyết minh về đôi dép lốp trong kháng chiến – Bài làm 2 Đôi dép lốp còn mang một cái tên khác: đôi dép Bình – Trị – Thiên. Đôi dép lốp là một trong những thứ quân trang quan trọng của anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, là vật dụng cần thiết trong cuộc sống của công nông. Ai là người đầu tiên đã sáng tạo ra đôi dép lốp thô sơ, bình dị và tiện lợi này Đế dép được cắt ra từ chiếc lốp ô tô đã tàng, đã hỏng. Quai dép dược cát ra từ chiếc săm lốp; phần lớn là màu đen, chiều dài tuỳ theo khổ chân to hay nhỏ; mỗi chiếc dép rộng bản độ l,5cm Mỗi chiếc dép có bốn quai. Quai dép dược luồn qua đế bằng những lỗ đục; nhờ tính đàn hồi của cao su mà các quai dép được cố định, được giữ chặt lại. Người đi dép lốp bao giờ cũng có một cái dip bằng sắt hay bằng tre để luồn quai dép. Chẳng tốn kém gì mà lại được việc, thật tài tình. Người đi dép lốp có thể băng đèo, lội suối, hai ba năm mà đế dép chỉ lì ra, trơ ra; có thế chỉ phải thay quai dép mà thôi. Dép lốp sau khi thay quai lại bén, lại chắc như trước, tha hồ hành quân, tha hồ cuốc bộ. Thời chống Mĩ, anh chiến sĩ Giải phóng quân được trang bị tăng, võng, mũ tai bèo, đôi dép lốp – loại dép đúc rất đẹp rất bền, dùng hai ba năm cũng không phải thay quai. Ông ngoại của em hiện còn giữ lại đôi dép -lốp đúc, hầu như còn nguyên vẹn. Ông dặn con cháu: “Nhớ bỏ vào quan tài khi ông về lão để ông có cái mà gặp Diêm Vương”. Bác Hồ lúc sống và hoạt động ở chiến khu Việt Bắc thời kháng chiến, sống ở ngôi nhà sàn giữa Thủ đô Hà Nội, Bác vẫn đi đôi dép cao su. Một số văn, nhà thơ đã nói về đôi dép ấy. Đến thăm Bảo tàng cách mạng, khách tham quan còn nhìn thấy đôi dép cũ để trong tủ kính cùng với bao vật dụng khác của Người: "Còn đôi dép cũ, mòn quai gót, Bác vần thường đi giữa thế gian". (Theo chân Bác – Tố Hữu) Đôi dép lốp đã đi vào lịch sử. Ngày nay, bộ đội, cán bộ, nhân dân ta chỉ đi giầy đi dép da, dép nhựa. Học sinh đến trường đều đi giầy, đi dép rất sạch sẽ, văn minh. Những đôi dép lốp mãi mãi là một kỉ vật nhắc nhở các thế hệ trẻ hôm nay nhớ lại một thời gian khổ mà oanh liệt của ông cha đã trải qua để tự hào và sống một cách xứng đáng. Thuyết minh về đôi dép lốp trong kháng chiến – Bài làm 3 Trong cái tủ kính sang trọng trong để các đồ kỉ niệm có đôi dép lốp cao su cũ của ông tôi từ thời kì kháng chiến chống Pháp. Đã mây lần năn nỉ ông tôi mới mở tủ lấy ra cho tôi xem. Một đôi dép lốp đã cũ mòn mà theo ông tôi kể lại ‘Nó là người bạn đường của ông trong khoảng 10 năm trong kháng chiến, đã ba lần thay quai còn đế vẫn nhưcũ’ Đôi dép lốp này có 2 bộ phận đế và quai.Đế déplà miếng cao su cắt ra từ cái lốp xe ô tô đã hỏng, nó đen xì và dầy bằng nửa đốt tay. cầm lên tay thấy nặng nhưng đi vào chân thì tất êm. Do ông tôi đi nhiều nên dưới đế không còn dâu vết gì của cái lốp xe mà chỉ như một miếng cao su hơi cong cong được cắt lượn rất khéo theo hình bàn chân. Quai dép:Cũng được cắt ra từ cái xăm xe (còn gọi là ruột) chiều ngang chỉ bằng chiều ngang ngón tay còn chiều dài thì theo kích cỡ bàn chân to, nhỏ nên dài hay ngắn. Điều rất thú vị là loại dép này không cần may khâu gì cả. Người ta chỉ dùng một díp sắt kẹp lấy đầu quai rút vào một lỗ đục sấn. Nhờ sự đàn hồi của cao su nên nó dính rất chặt vào nhau, đến nỗi đi vấp ngã mà vẫn không bật ra được. Theo những người phục vụ Bác Hồ, thì Bác thường chỉ đi dép lốp. Người ta kể rằng Bác có đôi dép đi khá lâu đã mấy lần thay quai, đế dép đã mỏng đi rất nhiều và có dấu cả ngón chân trên mặt đế. Mấy người bàn nhau thay cho Bác đôi dép mới. Thấy mất đôi dép Bác biết các chú cần vụ đã giấu đi. Bác đi dép mới mấy ngày rồi gọi các chú lên bảo ‘thôi các chú trả cho Bác đôi dép cũ, đôi này đi đau chân lắm’. Mọi người thương Bác quá, đành phải trả lại đôi dép cũ cho Bác đi. Thế đấy, đôi dép cao su đã đi vào đời sống chiến đấu của một dân tộc, đầu tiên là các anh vệ quốc quân, sau đó toàn dân đi kháng chiến đều dùng. Đôi dép lốp đã đi vào lịch sử, đi vào thơ ca. Nhà thơ Trần Hữu Thung đã viết trong bài ‘Thăm lúa’: ‘Lúa níu anh trật dép’ Câu thơ miêu tả hình ảnh người chồng chị nông dân ra đi trên bờ ruộng lúa tốt. Những bông lúa quấn lấy chần chứ làm sao mà trật được dép! Thuyết minh về đôi dép lốp trong kháng chiến – Bài làm 4 Dép lốp là dép của quân giải phóng trong thời kỳ chiến tranh việt nam , do miền bắc việt lúc này kinh tế khó khăn ko đủ nguyên liệu để sản xuất giày dép cho quân đội nên đã sử dụng lốp xe tải xe hơi các loại cắt ra làm thành dép cho binh sĩ mang hành quân nên gọi là dép lốp vừa rẻ vừa hợp với cách chiến đấu của quân đội du kích gọn nhẹ là chính dép lốp xuất hiện từ những năm 50 hình dạng đôi dép cong làm từ vỏ lốp ô tô, còn quai là những dây cao su được xỏ qua các khe hẹp trên đế dép. Bốn cái quai cao su, hai cái chéo bên trên, hai cái song song bên dưới ,đủ chưa đó là dép lốp đó .Xuất hiện từ những năm 80 xin lỗi ai nói cho bạn biết vậy hay bạn đoán đối với cựu binh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thì dép lốp với cây gậy trường sơn là biểu tượng những năm chiến đấu của họ. Đôi dép lốp là hình tượng gắn với ký ức tuổi thơ của các chàng trai cô gái thế hệ 5x, 6x, 7x chúng tôi. Những đôi dép cong làm từ vỏ lốp ô tô, còn quai là những dây cao su được xỏ qua các khe hẹp trên đế dép. Bốn cái quai cao su, hai cái chéo bên trên, hai cái song song bên dưới, đơn giản! thế mà bền chắc ra phết. Đã đi dép lốp trong túi thế nào chả găm sẵn cái rút dép – làm bằng một miếng sắt dẹt hình chữ I dài gập đôi lại. Mỗi khi dép tụt quai là mắm môi mắm lợi mà rút. Cái dép cô bạn cùng trường tụt quai … cũng là một cơ hôi là một cơ hội làm quen thật tuyệt. Dép lốp cùng chúng tôi đi học, đi làm, thậm chí đi chơi cũng vẫn là dép lốp. Cái dép tụt ra cho bạn một cái, mình một cái cùng kê dưới ngồi xem phim chiếu giữa trời. Dép lốp không chỉ là vật đi ở chân, nó đã trở thành biểu tượng của những năm tháng dài cuộc sống vất vả mà tươi đẹp bởi đầy tình thương mến giữa con người với con người cùng nhau vượt qua khó khăn để sống để làm việc. Chúng tôi đã trải qua những năm tháng bom đạn ở hậu phương rồi chiến trường. Những kỷ niệm hãi hùng của chiến tranh…với đôi dép lốp ở chiến trường. Giờ đây chiến tranh đã qua đi, chúng tôi và con cháu chúng tôi không còn phải đi những đôi dép lốp. Mong sao những ngày tháng gian khổ qua đi vĩnh viễn và chiến tranh không bao giờ trở lại trên đất nước này, để những đôi dép lốp chỉ còn là những kỷ niệm về quá khứ, cho ta thêm yêu quý cuộc sống hôm nay.
Thuyết minh về đôi dép lốp trong kháng chiến – Văn mẫu lớp 8
2,710
Thuyết trình về mâm ngũ quả của lớp em Bài làm Kính thưa các thầy cô giáo, các bậc cha mẹ học sinh và các bạn học sinh thân mến! Việt Nam cùng các nước ở Đông Á đón Tết trông trăng. Cùng với một ý nghĩa đoàn viên, mang hạnh phúc, vui vẻ cho trẻ em, tết trông trăng của người Việt còn mang riêng màu sắc, hồn cốt quê hương với chiếc đèn ông sao, ông tiến sĩ giấy… và đặc biệt không thể thiếu mâm quả đêm rằm. Tết trung thu, trái cây mùa thu đang vào vụ, mâm ngũ quả mang đậm hương sắc trái chín mùa thu. Đó là nải chuối chín vàng thơm lừng, là trái hồng đỏ mang hi vọng, là trái na nhiều hạt đen nhánh mang ước nguyện lộc nở, sinh sôi, là trái bưởi mang những điều mát lành và trái lựu chứa đựng bên trong những ngọt ngào, may mắn. Mâm quả có xanh, có chín, như quan niệm của người xưa, màu xanh của hoa quả mang tính âm, trái chín mang tính dương. Mâm ngũ quả là tượng trưng cho luật cân bằng âm dương của vũ trụ. Còn nhìn qua lăng kính của tuổi thần tiên thì: bên trên nải chuối thơm lừng đó, là quả bưởi căng tròn tựa như ánh trăng đêm rằm sáng tỏa, luôn chiếu sáng dõi theo từng bước đi của chúng em. Từ thuở bé chập chững những bước đi đầu đời, không biết đã bao lần vấp ngã, nhưng ánh trăng đó vẫn luôn luôn soi bước cho chúng em đứng vững trước bão giông của cuộc sống, để chúng em được học tập và phát triển có nhiều thành quả lớn như ngày hôm nay. Khi được quận tròn mình trong vòng tay ấm áp của nải chuối kia, cùng ánh trăng sáng tỏa soi bước đi…chúng em tựa như những trái hồng đỏ mọng, luôn tràn trề sức sống; tựa như những trái lê, trái táo, trái nho luôn luôn nở nụ cười hồn nhiên hạnh phúc. Qua đây chúng em muốn nói lên sự đoàn kết, gắn bó một lòng của tập thể học sinh khối 5 nói riêng và trường Tiểu NBN nói chung. Chúng em xin hứa sẽ cố gắng phấn đấu, vươn lên trở thành người con ngoan, trò giỏi mà thầy cô, cha mẹ mong đợi. Cuối cùng, em xin kính chúc quý thầy cô giáo, các bậc cha mẹ HS và các bạn học sinh có một tết trung thu đầy ý nghĩa, tràn ngập niềm vui và hạnh phúc.
Thuyết trình về mâm ngũ quả của lớp em
432
Phan Thiết, ngày… tháng… năm… Hoàng Hải nhớ nhiều! Từ ngày theo gia đình chuyển về Nha Trang đến nay mình không nhận được tin tức gì của Hải cả, mình nhớ Hải lắm. Sáng nay, ngồi xem ti vi thây đài thông báo khu vực Quảng Nam, Quảng Ngãi bị lũ lụt và bão lớn. Mình viết thư cho Hải đây. Điều đầu tiên mà mình muôn biết sự thực ở quê Hải và cũng là quê mình trước đây, bão lụt đã tàn phá đến mức nào. Nghe nói sập hai ngôi trường và gần một trăm nóc nhà bị lũ cuốn trôi cùng với gia cầm gia súc của người dân. Quê mình vốn đã nghèo rồi, lại bị lũ lụt tàn phá nữa, khổ rồi lại càng khổ hơn. Mình thương các bạn nhiều lắm. Hải ơi! Ngôi trường của mình có sao không? Có ai bị gì không? Ngồi ở Nha Trang mà bụng mình nóng như lửa đôt. Chẳng rổ bạn bè có đứa nào bị gì không? Thầy cô trong trường ra sao? Đến giờ đã ổn định trường lớp chưa? Bao nhiêu câu hỏi cứ tới tấp hiện lên trong đầu mình. Cái xứ của mình sao mà khổ đến thế không biết? Mới hôm qua đây, mình vừa nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Thương về miền Trung, mình lại càng xúc động mạnh. Không biết đến bao giờ “ông trời không đọa đày dân miền Trung” của mình nữa? Hải ơi! Nhớ hồi âm cho mình sớm nhé. Mình rất mong đấy. Kể thật tỉ mỉ vào đừng giâu giếm điều gì đó, nghe! Cuối thư, mình gửi lời chúc sức khỏe đến tất cả bạn bè trong lớp. Hè này, mình sẽ về thăm các bạn. Mong thư Hải nhiều.
Thư gửi bạn khi nghe tin quê bạn bị bão lớn
299
Thầy (cô) giáo chủ nhiệm phân công em báo cáo kinh nghiệm học tập tại Hội nghị học tốt của trường. Em hãy xây dựng bản báo cáo của mình để đọc trước Hội nghị – Văn mẫu lớp 7 Kính thưa thầy cô giáo cùng toàn thể các bạn học sinh! Em tên là Nguyễn Quốc Trung, học sinh lớp 7A, trường Trung học cơ sở Hoàng Văn Thụ, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Em xin gửi đến quý vị đại biểu , các thầy cô giáo và các bạn lời chào trân trọng nhất! Em rất tự hào và xúc động khi được thay mặt tập thể lớp báo cáo kinh nghiệm học tập trước Hội nghị. Quá trình phấn đấu trong học tập của bản thân em gặp không ít khó khăn nhưng nhờ sự dạy dỗ và giúp đỡ tận tình của thầy cô và các bạn, em đã có nhiều tiến bộ. Từ một học sinh trung bình cuối năm lớp 6, giờ đây, em đã đạt được danh hiêu Học sinh xuất sắc. Kính thưa Hội nghị! Sinh ra và lớn lên trong một gia đình mà bố mẹ đều là công nhân nên em không có được các điều kiện thuận lợi như nhiều bạn khác. Tuy thế, em không hè nản chí. Từ chỗ hiểu rõ hoàn cảnh của mình, em đã suy nghĩ để tìm ra cách học tốt nhất. Trước khi đến lớp, em đã học bài, làm bài đầy đủ và đọc trước bài mới theo hướng dẫn của thầy cô. Trong giờ học, em cố gắng tập trung tư tưởng để nghe thầy cô giảng để hiểu bài ngay tại lớp. Sự kết hợp chặt chẽ giữa mắt nhìn, tai nghe, tay ghi và óc suy nghĩ khi nghe giảng theo em là rất có hiệu quả. Chỗ nào chưa hiểu, em xem lại những bài vừa học. Làm như vậy em hiểu bài kĩ hơn và nhớ lâu hơn. Các môn tự nhiên như Toán, Lí,… yêu cầu học sinh ngoài việc nắm vững lí thuyết còn phải có kĩ năng thực hành. Em thường xuyên xung phong lên bảng giải bài tập để được thầy cô và các bạn góp ý cho. Riêng môn Toán là môn yêu thích hơn cả thì em hay nghĩ đến những cách giải khác nhau, đem trao đổi với bạn bè, xin ý kiến của thầy cô để tìm ra cách giải ngắn gọn nhất, chính xác nhất. Nhờ vậy mà các bài kiểm tra em thường đạt điểm cao. Riêng đối với các môn xã hội cần rất nhiều thời gian học bài, em cũng có cách học riêng. Vừa làm việc nhà, em vừa tranh thủ học. Trước tiên, em tóm tắt bài thành những ý lớn. Học thuộc dàn ý rồi mới học thuộc nội dung cụ thể của từng đoạn, cuối cùng ráp lại nội dung toàn bì. Sau đó tự kiểm tra, chỗ nào chưa hiểu, chưa thuộc phải học lại ngay. Em xác định rằng không được học tủ, học lệch, học đối phó vì quá trình học tậ ở trường là quá trình rèn luyện sức nhớ, sức hiểu, sức cảm nhận và sáng tạo để sau này trở thành con người toàn diện, hữu ích cho gia đình và xã hội. Kính thưa Hội nghị! Điều đáng mừng đối với em là vừa qua, em đã được nhận một suất học bổng dành cho học sinh nghèo hiếu học và vượt khó do Thành Đoàn trao tặng. Đây là một phần thưởng quý giá, là nguồn động viên rất lớn để em tiếp tục phấn đấu và rèn luyện, vượt qua mọi gian nan, thử thách. Nhờ sự dạy dỗ tận tình của thầy cô, gia đình và sự giúp đỡ của bạn bè, em đã tự tin hơn rất nhiều vào bản thân. Em rất thích lời dạy của Lê-nin: Học! Học nữa! học mãi! và hiểu rằng tri thức chính là chiếc khóa vàng để mở mọi cánh cửa trong cuộc đời. Học ở trường, học trong sách vở… chưa đủ, em còn phải học rất nhiều điều ở cuộc sống xung quanh để bổ sung cho mình những hiểu biết cần thiết, làm cho vốn thực tế ngày thêm phong phú. Theo em, cuộc đời cũng là một trường học lớn để on người tôi luyện và trưởng thành. Năm học vừa qua, em đã được một số thành tích nhất định: danh hiệu Học sinh xuất sắc, đạt huy chương vàng trong môn chạy cự li 1000 mét của Hội khỏe Phù Đổng dành cho học sinh Trung học cơ sở của Quận… Có được những thành tích đó, trước hêt là nhờ công ơn dạy dỗ của thầy cô, nhờ sự nuôi dưỡng, giáo dục, động viên của cha mẹ, bè bạn và sự cố gắng của bản thân. Cuối cùng, em xin gửi tới mọi người lời cảm ơn chân thành nhất và xin hứa sẽ quyết tâm phấn đấu không ngừng để đạt được những thành tích cao hơn nữa! Kính chúc Hội nghị thành công tốt đẹp!
Thầy (cô) giáo chủ nhiệm phân công em báo cáo kinh nghiệm học tập tại Hội nghị học tốt của trường. Em hãy xây dựng bản báo cáo của mình để đọc trước Hội nghị – Văn mẫu lớp 7
851
Trong thiên truyện “Những đứa con trong gia đình” của nhà văn Nguyễn Thi có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy. Anh chị hãy làm sáng tỏ vẻ đẹp của dòng sông truyền thông ấy qua các nhân vật chính trong tác phẩm. Bài làm Nguyễn Thi là một cây bút văn xuôi tiêu biểu cho nền văn học chống Mỹ. “Những đứa con trong gia đình” là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của ông. Tác phẩm kể về một gia đình Nam Bộ anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng thể hiện được một hiện tượng lịch sử: Sự tiếp nối truyền thống yêu nước và cách mạng của các thể hệ người Việt Nam trong chiến tranh. Quy luật đó được làm rõ bởi hình ảnh dòng sông truyền thống gia đình lấp lánh chảy trong tác phẩm. Những người con trong dòng sông truyền thống gia đình là những con người yêu nước, căm thù giặc, gan góc, dũng cảm và khao khat được chiến đấu giết giặc, mang đậm tính cách Nam Bộ. Chú Năm – “khúc thượng nguồn” trong dòng sông gia đình – là người thân gần nhất và lớn nhất còn lại của gia đình Việt. Trong hồi tưởng của Việt, chú Năm hiện lên là một người luôn có ý thức gìn giữ và vun đắp cho truyền thống yêu nước, căm thù giặc của gia đình, chuyên vui, buồn , chiến công của người thân hay tội ác của kẻ thù… chú đều ghi lại và dặn dò con cháu phải ghi nhớ “dòng sông gia đình ta”, là người chất phác, giàu tình cảm, hay hát, hay hò, mỗi khi hò “gân cổ chú nổi đỏ lên, tay chú đặt lên vai Việt, đôi mắt chú mở to, đọng nước…”. Chú Năm phân xử chuyện trẻ con giữa Chiến và Việt, dặn dò chu đáo các cháu lúc bước ra “chân trời mặt biển”, gánh vác phần việc còn lại của gia đình. Tiếp đến là Má Việt – “khúc trung nguồn” trong dòng sông gia đình. Nếu chú Năm là người luôn có ý thức gìn giữ và vun đắp cho truyền thống của cả gia đình, thì má Việt lại là hiện thân của truyền thống ấy. Là một người vợ, người mẹ, má Việt là người giàu tình thương chồng, thương con, suốt đời đảm đang, tháo vát, lam lũ, chịu nhiều vất vả, đau thương nhưng luôn giấu nỗi đau để nuôi con, đánh giăc. Với kẻ thù, má Việt là một người phụ nữ gan góc ngoan cường, căm thù giặc cao độ, đi đấu tranh mỗi lần bọn lính bắn dọa, “mắt má lại sắc ánh lên nhìn bọn lính, đôi mắt của người đã vượt sông, vượt biển”. Cuối cùng là Chiến và Việt – “khúc hạ nguồn” trong dòng sông truyền thống gia đình. Ở cả hai nhân vật này, Nguyễn Thi khắc họa lên những nét tính cách chung của hai chị em. Cùng sinh ra trong một gia đình chịu nhiều mất mát, đau thương, cùng chứng kiến cái chết đau thương của ba má do bọn Mỹ gây nên. Hai chị em căm thù giặc sâu sắc nên có cùng ý chí là trả thù cho bá má, cho quê hương và có cùng nguyện vọng được cầm súng đánh giặc. Tình yêu thương là vẻ đẹp tâm hồn của hai chị em tình cảm này được thể hiện sâu sắc và cảm động nhất trong cái đêm chị em chuẩn bị lên đường nhập ngũ. Cả hai chị em đều là những chiến sĩ gan góc, dũng cảm. Đánh giặc là niềm say mê lớn nhất của hai chị em và cũng là của tuổi trẻ miền Nam. Với những nét ngây thơ , thậm chí có phần trẻ con “giành nhau bắt ếch, giành nhau thành tích bắn tàu chiến giặc, giành nhau ghi tên tòng quân…” . Không chỉ dừng lại ở những điểm chung, ở mỗi nhân vật, cá nhân họ đều toát lên một vẻ rất riêng của mình. Chiến – hơn Việt một tuổi nhưng Chiến người lớn hơn hẳn. Chiến mang hình dáng và tính cách của má Việt “thân người to và chắc nịch – thân hình của người sinh ra để gách vác, chống chọi, để chịu đựng và chiến thắng, biết lo liệu , toán tính việc nhà y hệt má”. Biết nhường nhịn em, hồn nhiên, trẻ trung, thích làm duyên, làm dáng, vào bộ đội, Chiến mang theo chiếc gương soi. Còn Việt – nhân vật được nhà văn tập trung khắc họa rõ nét nhất từ tâm hồn , tính cách đến hành động. Việt có nhiều nét dễ thương của cậu bé mới lớn: lộc ngộc vô tư, hồn nhiên, ngây thơ và hiếu động. Ở nhà luôn tranh phần hơn với chị, khi vào bộ đội, được anh em xem như em út “giấu chị như giấu của riêng” vì sợ mất chị. Trong đánh giặc, Việt luôn tỏ ra gan góc, dũng cảm, khi bị thương, nằm một mình giữa chiến trường, Việt vẫn luôn trong tư thế chờ giặc đến “Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mây, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày…”. Qua chi tiết này, có thể nói, lòng yêu nước – căm thù giặc luôn là thước đo quan trọng nhất về phẩm giá con người ở tất cả các nhân vật của Nguyễn Thi. Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha, cho đến đời chị em Chiến, Việt . Sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.Nguyễn Thi đã sử dụng bút pháp nghệ thuật già dặn , điêu luyện được thể hiện ở giọng trần thuật qua hồi tưởng của nhân vật, miêu tả tâm lí, tính cách sắc sảo, ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam Bộ để lại trong lòng độc giả nhiều xúc cảm.
Trong thiên truyện Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy
1,073
Nội dung bài viết1 Trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn. Nhiều bạn vì mải chơi mà sao nhãng học tập và còn phạm những sai lầm khác. Hãy nêu ý kiến của em về hiện tượng đó – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An 2 Trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn. Nhiều bạn vì mải chơi mà sao nhãng học tập và còn phạm những sai lầm khác. Hãy nêu ý kiến cùa em về hiện tượng đó – Bài làm 2 3 Trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn. Nhiều bạn vì mải chơi mà sao nhãng học tập và còn phạm những sai lầm khác. Hãy nêu ý kiến cùa em về hiện tượng đó – Bài làm 3 Trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn. Nhiều bạn vì mải chơi mà sao nhãng học tập và còn phạm những sai lầm khác. Hãy nêu ý kiến của em về hiện tượng đó – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An Cuộc sống hiện đại ngày nay đã khiến con người nhìn vào cuộc sống của mình bằng một con mắt khác. Họ đòi .hỏi ở cuộc sống nhiều hơn, và một trong những nhu cầu lớn nhất là giải trí. Bàn về vấn đề này có người nói 'Trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn. Nhiều bạn vì quá mải chơi mà sao nhãng việc học tập và còn phạm nhiều sai lầm khác?" Theo bạn, bạn có đồng tình với ý kiến trên không? Đã xa rồi những trò chơi dân gian xưa: chọi gà, chọi dế, đánh trận giả… Tấtcả dường như bị lãng quên, nó đã lùi vào cổ tích. Thay vào đó là những trò chơi tiêu khiển mới lạ, hấp dẫn. Một trong những trò chơi được liệt kê vào loại trò tiêu khiển hấp dẫn là điện tử. Bước chân vào các quán game ta mới thấy được có rất nhiều trò chơi thu hút mọi người đặc biệt là các bạn nam như: đá bóng, đua xe, đế chế… Tất cả đều được gọi cái tên chung là điện tử. Các trò chơi điện tử muốn chinh phục được nó đòi hỏi người chơi phải có óc sáng tạo, sự kiên trì, một chút khéo léo và đặc biệt nó kích thíchtính tò mò. Có lẽ vì vậy mà điện tử được gọi là "món tiêu khiển hấp dẫn". Nhưng trò chơi nào cũng có ít nhiều điều tiêu cực. Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi thế hệ trẻ phải có trí thức nên việc quan trọng nhất của chúng ta là học tập. Nhưng thực tế hiện nay không ít bạn vì quá đam mê "món tiêu khiển hấp dẫn – điện tử" mà đã sao nhãng việc học tập, quên đi mất nhiệm vụ chính cùa mình. Kết quả học tập giảm sút, gia đình phiền lòng. Việc làm ấy làm mất đi sự tự tin của chính bản thân và còn biết bao những sai lầm khác không đáng có nữa mà chúng ta không thể ngờ tới được… Nói về vấn đề kinh tế: chơi điện tử tác hại vô cùng ngay cả với gia đình kinh tế được xem là dư dật. Lại còn khi quá đam mê không có tiền để chơi, lúc đó họ sẽ làm gì? Nói dối bố mẹ để lấy tiền đi chơi, vay tiền người khác hay trộm cắp? Đó là một thực trạng đang nổi lên trong xã hội hiện nay. Vậy tại sao chúng ta không biết chọn lựa những trò chơi giải trí phù hợp và bổ ích cho mình thay vào việc đi chơi điện tử, tại sao chúng không tham gia ởcác câu lạc bộ thể thao, đọc sách, tham gia chiến dịch mùa hè xanh, thanh niên tình nguyện và còn biết bao hình thức giải trí khác. Tại sao chúng ta không tham gia? Vì nó không là món tiêu khiển hấp dẫn hay vì chúng ta chưa quan tâm tới? Còn rất nhiều sai lầm của người chơi diện tử mà ta không thể không nêu ra được hết nhưng tôi xin chắc rằng chỉ khi người chơi tự nhận ra tác hại của việc chơi điện tử thì lúc ấy họ mới thực sự thấy thấm thía. Sự thất bại lúc ấymới thực sự là hồi chuông cảnh tỉnh cho họ. Biết đến bao giờ tất cả bố mẹ chúng ta mới có thể. rạng rỡ nụ cười trên khuôn mặt dãi nắng dầm sương vì có những đứa con ngoan ngoãn. Điều đó là tuỳ thuộc vào chính chúng ta đấy các bạn ạ! Xã hội càng văn minh thì tệ nạn xã hội càng hay rình rập. Nó đòi hỏi ờ chúng ta sự tự chủ và kiên cường. Đừng để lúc nào chúng ta bị sa đà vào các trò tiêu khiển không bổ ích. Hãy nhớ một điều: điện tử là trò tiêu khiển hấp dẫn nhưng đừng vì nó mà làm bản thân phải sai lầm không đáng có để cha mẹ, thầy cô phải phiền lòng, để bạn bè xa lánh. Trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn. Nhiều bạn vì mải chơi mà sao nhãng học tập và còn phạm những sai lầm khác. Hãy nêu ý kiến cùa em về hiện tượng đó – Bài làm 2 Hiện nay, vấn đề về lồi sống, đạo đức của giới trẻ đang đuợc cả xã hội quan tâm. Đất nuớc ta ngày càng hội nhập vào quốc tế và internet đang trở nên phổ biến. Thế nhưng, cùng với internet thì game online cũng phát triển nhanh chóng, dẫn đến một bộ phận học sinh vì mãi chơi mà xao nhãng việc học tập và còn phạm phải những sai lầm khác. Game online hay trò chơi điện tử là một hình thức giải trí hấp dẫn. Đó là một phần mềm đuợc cài vào máy tính, nhà sản xất đã khéo léo phối hợp, giữa hình ảnh và âm thanh để tạo độ chân thực sắc nét, để lôi cuốn nguời chơi. Trò chơi điện tử mang tính kích thích cao, mới lạ và bí ẩn nên phù hợp với sở thích của giới trẻ, đặc biệt là học sinh. Theo một kết quả nghiên cứu cho thấy, trong số những nguời sử dụng mạng internet thì có tới 61.4% là để chơi game. Một bộ bộ phận nguời chơi đã trở thành những “game thủ” và bị nghiện game. Đây đang là vấn đề đuợc cả xã hội quan tâm. Công bằng mà nói, những trò chơi điện tử lành mạnh không hề gây hại cho nguời chơi nếu ta biết chơi một cách điều độ. Trái lại nó còn giúp ta thư giãn ,giảm stress, luyện phản ứng nhanh,… Tuy nhiên, vì lợi nhuận mà các nhà sản xuất đã tìm đủ mọi cách để lôi cuốn nguời chơi, ngay cả việc đưa vào game những hình ảnh “mát mẻ” thiếu lành mạnh, biến game online trở thành thứ độc địa giết đi đầu óc trong sáng của học sinh. Học sinh là đối tượng chính của game online. Với hình ảnh sắc nét, âm thanh sống động cùng với những thay đổi không ngừng,game online đã trở thành thú tiêu khiển hấp dẫn của học sinh. Một số bạn vì quá mải mê với trò chơi điện tử dẫn đến “nghiện game”. Nhiều bạn có thể chơi liên tục 4 – 5 tiếng đồng hồ mà không cần nghỉ ngơi, cá biệt, có nhiều bạn có thể chơi đến 12 tiếng một ngày! Đối với các bạn nghiện game thì việc chơi game được để lên hàng đầu, xao nhãng việc học, quên cả sức khoẻ bản thân, quên cả cuộc sống xung quanh. Thậm chí có bạn vì cần tiền đi chơi mà sẵn sàng làm trái pháp luật. Gần đây rộ lên những vụ án cướp của, giết người mà thủ phạm là những trẻ vị thành niên bị nghiện game online. Những vụ án ấy đa thổi lên một hồi còi báo động cho xã hội về thực trạng nghiện game online của giới trẻ ngày nay. Như đã nói ở trên, game online có tính khích thích cao, dễ nghiện và một khi đã nghiện thì sẽ dẫn đến những hậu quả, tác hại khôn lường cho người chơi, gia đình và xã hội. Trước hết là những tác hại cho sức khoẻ người chơi. Khi chơi game không điều độ dễ đẫn đến một số bệnh lí liên quan đến mắt như cận thị, loạn thị,… Không chỉ thế, ngồi chơi game liên tục còn đưa đến tình trạng ảnh hưởng đến cột sống do tư thế ngồi sai hoặc ngồi quá lâu trước màn hình vi tính. Khi người chơi game quá mê chơi bỏ ăn uống thì có thể dẫn đến việc sụt cân nhanh chóng, sức đề kháng của cơ thể trở nên yếu ớt. Ở Đài Loan đã có trường hợp một anh thanh niên hai mươi lăm tuổi chết do kiệt sức vì chơi game suốt 24 tiếng đồng hồ không nghỉ ngơi! Không chỉ có vấn đề về sức khoẻ nghiện game còn khiến người chơi quá đắm trong thế giới “ảo” mà quên đi thế giới thực. Người chơi còn bỏ ra quá nhiều thời gian để chơi điện tử mà quên mất công việc, gia đình. Từ đó dễ dẫn đến sự sa sút trong công việc, trong học tập. Không dừng lại ở đó, game online gây ảnh hưởng đến nhân cách người chơi, đặc biệt là học sinh. Game dễ dẫn đến các bạn ảo tưởng về cuộc sống, những hình ảnh bạo lực như chém giết lẫn nhau dễ gây ảnh hưởng tới tâm sinh lý còn non nớt của học sinh, khiến cho các bạn coi thường luật pháp và dễ vi phạm pháp luật. Nghiện game cũng gây nguy hại như nghiện ma túy. Ở nước ta, game online phát triển nhanh chóng vì có điều kiện thuận lợi. Việc học sinh nghiện game có rất nhiều nguyên nhân khách quan. Để đáp ứng nhu cầu chơi game của giới trẻ, hiện nay nhiều tiệm net mọc lên nhanh chóng và lúc nào cũng xôm tụ, gây sự ham thích cho người chơi. Gia đình còn chưa thực sự quan tâm đến con em do guồng quay vội vàng của cuộc sống. Nhiều bạn bị nghiện game đã lâu mà gia đình không biết, cứ tưởng con mình đang học bài, đến khi xảy ra chyện mới tá hỏa, ân hận thì đã muộn. Ở lứa tuổi học sinh,nhu cầu hoạt động vui chơi là rất cao. Đó là một nhu cầu rấtchính đáng. Thế nhưng, nước ta lại thiếu sân chơi cho thanh thiếu niên, nhà trường còn quá chú trọng vào dạy chữ mà quên dạy người, không dạy cho học sinh những kĩ năng cần thiết để chống lại những cám dỗ trong cuộc sống, không tổ chức các hoạt động vui chơi lành mạnh cho học sinh. Như một điều tất yếu, học sinh tìm đến game online để giải trí. Về yếu tố chủ quan, nghiện game còn là do chính bản thân học sinh. Do các bạn đang ở tuổi dậy thì, tâm sinh lí chưa phát triển đầy đủ, nhận thức còn non nớt nên khó cưỡng lại sức hấp dẫn của game online. Hơn nữ, các bạn còn chơi game để khẳng định bản thân mình, xem trò chơi chơi điện tử như một nơi thể hiện “đẳng cấp”, cá tính riêng của mình. Một bộ phận học sinh còn chơi game online vì đua đòi, không muốn thua kém các bạn, số khác là do bị chấn thương tâm lý, bị coi thường ngoài cuộc sống, bị cô lập,… tìm đến game như để giải toả tâm lý. Có rất nhiều nguyên dẫn đến nghiện game, do đó, muốn xoá hẳn thực trạng nghiện game ta phải giải quyết cho thấu đáo những nguyên nhân trên. Nhưng trước hết là về gia đình và xã hội. Gia đình phải có sự quan tâm đặc biệt cho con em mình, kiểm soát giờ chơi của các bạn . Gia đình còn phải hướng dẫn các bạn chơi sao cho lành mạnh . Xã hội phải tạo điều kện cho các bạn học sinh tham gia vào cáchoạt động tập thể, các hoạt động văn hoá – xã hội. Nhà nước cần kiểm soát các trò chơi điện tử và tiệm net, không để cho các trò chơi thiếu lành mạnh lưu hành trên thị trường. và đương nhiên phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường – xã hội để tạo môi trường tốt nhất cho học sinh. Và riêng bản thân học sinh cần phải có ý thức, không sa đà vào game, tham gia tích cực các hoạt động văn hoá – xã hội để rèn luyện bản thân, không vì game mà xao nhãng học tập và cuộc sống. Tóm lại, game online là một thói tiêu khiển rất hấp dẫn, nhưng đừng vì mê chơi game mà xao nhãng học tập cuộc sống. Nghiện game cũng như nghiện ma túy, gây ra những tác hại khôn lường. Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình nhà trường và xã hội để đẩy lùi thực trạng nghiện game. Riêng học sinh phải có tinh thần trách nhiệm, có trách nhiệm với bản thân, gia đìh và xã hội để tự rèn luyện mình thành người có ích cho xã hội. Dẹp bỏ nạn nghiện game cũng chính là mở đường cho xã hội phát triển tốt đẹp hơn. Trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn. Nhiều bạn vì mải chơi mà sao nhãng học tập và còn phạm những sai lầm khác. Hãy nêu ý kiến cùa em về hiện tượng đó – Bài làm 3 Trò chơi điện tử vốn là một trò giải trí lành mạnh song hiện tượng đam mê trò chơi này mà sao nhãng học hành và gây nhiều hậu quả tại hại đã trở thành một vấn đề bức xúc ở lứa tuổi học sinh. Có thể thấy ở khắp các phố phường và các nẻo đường thôn ngõ xóm những quán Intenet. Học sinh đến đó không phải để truy cập thông tin phục vụ cho việc học mà để chơi điện tử . Nhiều bạn ngồi hàng giờ , hàng ngày trước màn hình vi tính, mê mẩn với những trò chơi trên máy ,quên thời gian thậm chí bỏ học để chơi ,trong đầu lúc nào cũng chỉ nghĩ đến các trò chơi và ham muốn chinh phục khám phá nó khiến gương mặt ngơ ngẩn như mất hồn… Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đó .Do bố mẹ không quan tâm , do buồn , do bạn bè rủ rê , do không tự chủ được bản thân …Song dù lý do nào đi nữa , ham mê trò chơi điện tử cũng là một điều tai hại . Trước hết ngồi quá gần màn hình vi tính trong một thời gian dài có thể làm cho mắt bị cận thị , người mệt mỏi, sức khoẻ bị tổn hại . Không chỉ có thế , ham mê trò chơi điện tử còn dẫn đến sao nhãng nhiệm vụ chính của người học sinh là học tập . Mải chơi , bỏ tiết, trốn học, không hiểu bài , không làm bài tập , học tập sút kém dẫn đến chán học . Như vậy vô tình sự ham chơi nhất thời có thể tự huỷ hoại tương lai của chính bản thân mình .Trò chơi điện tử còn khiến tâm hồn bị đầu độc bởi bạo lực , chém giết , bắn phá , cuốn con người vào một thế giới ảo đầy những mưu mô , thủ đoạn . Hơn nữa ham chơi điện tử còn tiêu tốn tiền bạc một cách vô ích , có khi còn làm thay đổi nhân cách con người . Để có tiền chơi điện tử nhiều thói hư tật xấu bắt đầu nảy sinh như dối trá , thủ đoạn , trộm cắp tiền bạc, tài sản của gia đình , bạn bè …Và không ai có thể lường trước được những hậu quả tai hại khác nếu niềm đam mê kia vẫn còn tiếp diễn. Trò chơi điện tử tai hại như vậy , làm thế nào để ngăn chặn nó ?Đây thực sự là một việc khó song không phải là không làm được.Quan trọng nhất là bản thân phải xác định nhiệm vụ chính của mình là học tập ,rèn luyện ,tu dưỡng,không lãng phí thời gian,sức lực, tiền bạc vào những việc vô bổ ,thậm chí là có hại .Chỉ coi trò chơi điện tử như một trò giải trí ,tiếp xúc với nó có chừng mực , biết chế ngự và làm chủ bản thân, không để bản thân bị tác động bởi những trò chơi và sự rủ rê của những người bạn xấu. Bên cạnh đó cũng cần có sự quan tâm thường xuyên và sự quản lý chặt chẽ của gia đình nhằm giúp con em mình tránh xa những đam mê tai hại .Nhà trường và xã hội cũng cần có sự phối hợp giáo dục thế hệ trẻ, tạo ra những hoạt động bổ ích ,những sân chơi vui tươi lành mạnh để mọi học sinh đều được tham gia .Có như vậy vấn nạn học sinh say mê trò chơi điện tử mới được giải quyết triệt để. Ham chơi điện tử – Ham muốn nhất thời mà tác hại không lường hết được.Bởi vậy vì tương lai của chính mình,chúng ta đừng để bản thân vướng vào đam mê chết người đó.
Trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn. Nhiều bạn vì mải chơi mà sao nhãng học tập và còn phạm những sai lầm khác. Hãy nêu ý kiến của em về hiện tượng đó – Văn mẫu lớp 8
3,015
Nội dung bài viết1 Tuổi trẻ và tương lai đất nước – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình 2 Tuổi trẻ và tương lai đất nước – Bài làm 2 3 Tuổi trẻ và tương lai đất nước – Bài làm 3 Tuổi trẻ và tương lai đất nước – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình Mỗi người trong chúng ta ai cũng từng đi qua tuổi trẻ – tuổi của sức mạnh phi thường với sự căng tràn bầu nhiệt huyết, tuổi không chịu khuất phục trước khó khăn, và sẵn sàng chấp nhận hi sinh vì đạo nghĩa. Tuổi trẻ mọi thời đại chính là niềm tự hào và sức mạnh của dân tộc. Thuở xưa mỗi khi đất nước lâm nguy thì lại xuất hiện những anh hùng trẻ tuổi dũng cảm, tài trí. Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng đất nước tuổi trẻ Việt Nam cũng không kém cha anh xưa. Thuở xưa tuổi trẻ Việt Nam đã làm cả thế giới phải nghiêng mình khâm phục một Việt Nam anh hùng thì nay cả thế giới cũng đang biết đến một Việt Nam năng động qua thế hệ trẻ. Điều đó cho thấy tuổi trẻ Việt Nam luôn suy nghĩ, lo lắng và quan tâm đến vận mệnh của dân tộc và luôn phát huy truyền thống dân tộc. Mỗi người trong chúng ta ai cũng từng đi qua tuổi trẻ – tuổi của sức mạnh phi thường với sự căng tràn bầu nhiệt huyết, tuổi không chịu khuất phục trước khó khăn, và sẵn sàng chấp nhận hi sinh vì đạo nghĩa. Sức mạnh vô song của tuổi trẻ khiến “sông kia sông phải chuyển, núi kia núi phải dời”. Tuổi trẻ cả nhân loại đang ra sức tìm kiếm và xây dựng những thứ tưởng chừng như viễn tưởng nhưng nay lại trở thành hiện thực, như những thành tựu trong ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, v.v… Họ có đủ điều kiện để phát huy hết khả năng nội lực của chính mình, họ có tự do trong suy nghĩ và hành động, họ có sự dân chủ trong mọi ý tưởng và lí tường, họ có được sự tôn trọng về thực quyền sáng tạo. Vậy thì tiềm năng và tương lai phát triển của mỗi quốc gia đều mong đợi và đều đặt niềm tin vào tuổi trẻ. Tuổi trẻ Việt Nam ngày nay có nhiều cơ hội để phát triển tài năng và cống hiến cho đất nước vì các bạn đang được sống trong hoà bình, được Đảng và Nhà nước tạo mọi điều kiện để học tập, làm việc và thể hiện năng lực của mình. Các bạn đã và đang khẳng định được sức mạnh của chính minh trong mọi lĩnh vực như: kinh tế, khoa học kĩ thuật, giáo dục, v.v… Ngày càng xuất hiện nhiều nhà kinh doanh trẻ năng động; những nhà khoa học tài năng; đặc biệt là những thành tích của học sinh, sinh viên Việt Nam tham dự các kì thi Olimpic khu vực và quốc tế. Với sức mạnh nội lực của con người và tuổi trẻ Việt Nam, với sự ưu đãi của thiên nhiên, Việt Nam hoàn toàn đủ khả năng khẳng định và vươn lên trở thành một quốc gia hùng mạnh. Tuy nhiên trên thực tế chúng ta vẫn bị xếp vào những nước đang phát triển, còn nghèo nàn và lạc hậu. Tuy nhiên các bạn cũng đang chịu nhiều thách thức trước nhiều áp lực trong cuộc sống, trước nguy cơ bị tụt hậu trước sự phát triển mạnh mẽ của thế giới. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Bác Hồ thiết tha căn dặn: "Non sông Việt Nam có trởnên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần ở công học tập của các em". Lời dạy của Bác giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vai trò của tuổi trẻ đối với tương lai của đất nước. Thế kỉ XXI, thế kỉ của sự phát triển, nâng cao không ngừng của văn hóa, kinh tế, đất nước. Để có thểbắt kịp đà phát triển của những nước lớn mạnh thì cần sự chung sức, đồng lòng của tất cả mọi người, mà lực lượng chủ yếu chính là tuổi trẻ. Bởi tuổi trẻ là lực lượng nòng cốt, là chủ nhân tương lai, là nhân vật chính góp phần tạo nên cái thế, cái dáng đứng cho Tổquốc Việt Nam. Sinh ra ở đời, ai trong chúng ta cũng khao kháthơn là một lí tưởng sống. Và nhất là tuổi trẻ hiện nay, những người nắm trong tay vận mệnh của đất nước phảixác định được cho mình một lí tưởng sống đúng đắn. Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tuổi trẻ chúng ta được đặt ra câu hỏi: sống như thế nào để có ích cho xã hội? Tuổi trẻ là nhân tố quyết định sự tồn vong của đất nước, vì thế lí tưởng sống của chúng ta là xây dựng đất nước, xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, nối tiếp cha ông bảo vệ Tổ quốc và đi lên vì sự tiến bộ của nhân loại. Tuổi trẻ là những người chủ tương lai của đất nước, là chủ của thế giới, động lực giúp cho xã hội phát triển. Chính vì vậy mà các bạn thanh thiếu niên cần phải sống có lí tường cao đẹp. Hãy nhớ rằng lời nhắn nhủ thiêng liêng của Bác phải được thực hiện bởi các bạn biết đấy cả tuổi trẻ của mình Bác đãsống cho dân tộc. Chúng ta không có quyền để những hi sinh của Bác thành vô nghĩa. Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng, Bác đã để lại lời căn dặn trong bản di chúc: "Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ, Đảng phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng Chủ nghĩa xã hội vừa "Hồng" vừa "Chuyên". Bồi dưỡng cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết…". Đảng và Bác Hồ kính yêu đã đặt trọn niềm tin vào thế hệ trẻ. Những đóng góp của thanh niên vào thành quả của những năm đổi mới đã khẳng định quyết tâm của thế hệ trẻ Việt Nam là ra sức lao động, học tập, rèn luyện và tuyệt đối trung thành với sự nghiệp đổi mới của Đảng, quyết tâm đưa nước ta trở thành nước giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh như mong muốn của Bác lúc sinh thời. Tuổi trẻ và tương lai đất nước – Bài làm 2 Người Việt nam thường nói: “tre già măng mọc”, “con hơn cha là nhà có phúc”. Vấn đề truyền thống là mạch ngầm trong lòng dân tộc, là sức sống diệu kì trong hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Cha ông ta trao cho con cháu ngọn lửa thiêng liêng của nền văn hóa, văn hiến và hơn ai hết tuổi trẻ của thế hệ hôm nay phải có sứ mệnh thắp sáng hơn, đưa ngọn lửa thiêng liêng ấy đến đài vinh quang trong tương lai. Thời kì nào cũng vậy, dân tộc nào cũng vậy, tuổi trẻ là nguồn tài nguyên vô giá và là nhân vật chính tạo nên cái thế, cái dáng đứng cho Tổ quốc, cho dân tộc. Tuổi trẻ là thế hệ măng đã sắp thành tre, là những con người đủ điều kiện, đủ ý thức để nhận thức vị trí của mình trong cuộc đời đối với chính mình và xã hội. Tuổi trẻ của đất nước hôm nay là , là bạn, là những anh chị hơn mình tuổi tác đang có mặt trong các giảng đường Đại học, Cao đẳng, đang hoạt động bằng tâm huyết của mình để cống hiến nhiều nhất sức trẻ với sự đam mê, hăng say, nhiệt tình bốc lửa. Nhiệm vụ của tuổi trẻ thời nào cũng có những mục đích rất cụ thể. Thời kì chống Pháp, chống Mĩ, hàng triệu thanh niên đã ngã xuống, đem lại độc lập, tự do cho đất nước. Giờ đây, hàng triệu Thanh niên Việt Nam cần phải thấm nhuần lời dạy của Bác là phải: “Học tập tốt, lao động tốt”. Hơn bao giờ hết chúng ta cần suy ngẫm tới những lời nói vàng ngọc xuất phát tự đáy lòng của Bác trong “Thư gửi học sinh Việt Nam” nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm Châu được hay không, chính là nhờ một phần vào công học tập của các cháu”. Ngay những ngày đầu mở nước, Bác đã quan tâm diệt giặc dốt. Bác coi loại giặc này còn nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Với kinh nghiệm từng trãi, với việc chứng kiến nhiều nền văn minh khác nhau trên thế giới Bác đã hiểu rằng: “Một dân tộc dốt nát, dân trí thấp thì trước sau cũng chỉ là nô lệ cho thế lực bên ngoài”. Nói đến tuổi trẻ hôm nay là nói tới việc học hành. Tuy nhiên, có người coi chuyện học hành như một việc khổ sai. Việc học là sự thúc ép của cha mẹ, của thầy cô. Việc học không tự giác đã dẫn tới lười biếng, cẩu thả. Chính mình tự đầu độc mình bằng…học. Người ta coi học tập là ngày hội, thì một số người coi học tập là nỗi nhọc nhằn phải chịu đựng. Kiến thức các bộ môn cứ y như cỏ rơm mà con người phải nhai lại vậy. Có người coi chuyện học tập, chuyện thi cử chỉ là hình thức. Bởi họ cần bằng cấp không cần kiến thức. Có bằng cấp họ lại được “sắp”, “xếp” vào những vị trí như mong muốn của bản thân, thậm chí theo như ý của các ông bố, bà mẹ. Vị trí của họ sớm đã được xác định nên dẫn tới một bộ phận thanh niên không đem hết tài sức để phấn đấu. Thật nguy hại cho lối học cơ hội này bởi lối học đó sẽ tạo nên những nhân cách cơ hội, phương cách làm giàu “kiểu chụp dật may rủi” chúng chẳng những không đưa nước ta sánh vai với các cường quốc mà ngược lại chúng làm dân tộc ta tụt hậu, lụn bại… Thời đại của tri thức, của khoa học công nghệ. Ai nắm được tri thức công nghệ, người ấy sẽ nắm chiếc đũa thần để tạo bước đi thần diệu cho đất nước. Nhiệm vụ của tuổi trẻ phải có chiếc đũa thần ấy. Bất cứ ai ở tuổi ăn học, phải tạo mọi điều kiện, tiếp cận với tri thức. Chỉ có tri thức dồi dào, đạo đức nhân tâm trong sáng, khát vọng sống, lao động cống hiến mãnh liệt trong tầng lớp tuổi trẻ thì tương lai của dân tộc mới sáng lạn, lấp lánh hào quang. Tuổi trẻ Việt Nam không phải không có nhân tài. Nhưng tất cả tuổi trẻ Việt Nam phải biết hóa thân cho “dáng hình xứ sở”. Mọi người phải là anh vệ quốc quân, anh giải phóng quân ngày nào. “Đoàn vệ quốc quân một ngày ra đi Nào có sá chi đâu ngày trở về Ra đi ra đi bảo tồn sông núi…” Chúng ta phải học tập với tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Phải coi chuyện học tập hằng ngày của chúng ta là những chiến công. Nói như Đại tướng Võ Nguyên Giáp là thanh niên ta hiện nay cần phải lập những Điện Biên Phủ mới để đưa đất nước bước vào kỉ nguyên huy hoàng, ấm no, hạnh phúc… “Thành công là do 99% tài năng và 1% may mắn”. Tôi, bạn và những người lắng nghe dòng tâm sự này hãy cố gắng nỗ lực hết mình để Việt Nam mãi trường tồn với thời thời gian,vĩnh cửu trên thế giới. Tuổi trẻ và tương lai đất nước – Bài làm 3 Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng biết rằng tuổi trẻ là một thành phần, yếu tố quan trọng , ảnh hưởng đến tương lai đất nước, vì thế mà Bác đã căn dặn: “ Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt nam có bước đến đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần ở công học tập của các em”. Chúng ta cùng tìm hiểu vai trò của tuổi trẻ với tương lai đất nước. Tuổi trẻ là những công dân ở lứa thành niên, thanh niên… là thế hệ măng đã sắp thành tre, là người đã đủ điều kiện, đủ ý thức để nhận biết vai trò của mình đối với bản thân, xã hội. Tuổi trẻ của mỗi thời đại là niềm tự hào dân tộc, là lớp người tiên phong trong công cuộc xây dựng, đổi mới, phát triển đất nước. Tương lai đất nước là vận mệnh, là số phận của đất nước mà mỗi công dân sẽ góp phần xây dựng, phát triển, trong đó quan trọng nhất là thế hệ trẻ. Thế kỉ 21, thế kỉ của sự phát triển, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá kinh tế, đất nước. Để có thể bắt kịp đà phát triển của những nước lớn mạnh thì đòi hỏi sự chung sức đồng lòng của tất cả mọi người mà lực lượng chủ yếu là tuổi trẻ. Bởi đó là lực lượng nồng cốt, là chủ nhân tương lai, là nhân vật chính góp phần tạo nên cái thế, cái dáng đứng cho non sông Tổ quốc. Tuổi trẻ hôm nay là tôi, là bạn, là những anh chị đang có mặt trên giảng đường đại học,đang hoạt động bằng cả tâm huyết để cống hiến sức trẻ với những đam mê cùng lòng nhiệt tình bốc lửa. Tuổi trẻ tốt thì xã hội tốt, còn xã hội tốt sẽ tạo điều kiện cho tầng lớp trẻ phát triển toàn diện, sinh ra những người con có ích cho đất nước, đó là điều tất yếu, hiển nhiên mà ai cũng biết. Mỗi người chúng ta cũng đi qua thời tuổi trẻ- tuổi của sức mạnh phi thường, của cái tuổi không chịu khuất phục trước khó khăn và sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Sức mạnh vô sông của tuổi trẻ “ sông kia phải chuyển, núi kia phải dời”. Chúng ta chỉ có một lần trong đời là tuổi trẻ vì vậy cần phải nắm bắt, cần đóng góp sức lực cho đất nước. Việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của mọi người, mọi công dân chứ không phải của riêng ai. Nhưng với số lượng đông đảo hàng chục triệu người thì lẽ nào tuổi trẻ lại không thể xây dựng đất nước. Chẳng lẽ chúng ta để cho những cụ già đi khuân vác, lao động nặng, những phụ nữ phải ngày đêm làm việc trong các nhà xưởng đầy khói bụi, những trẻ em phải phụ giúp gia đình ngay còn nhỏ mà “quên” đi việc học hành, lúc đó chúng ta sẽ “làm” gì? Chẳng lẽ ngồi không như một “người bị liệt”. Vì vậy chúng ta phải cố gắng xây dựng đất nứơc như lời dặn của Bác: “ Các vua Hùng đã có công dựng nước, thì Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Sinh ra ở đời ai cũng khao khát được sống hạnh phúc, sung sướng. Mỗi người luôn tìm cho mình một lẽ sống hay nói đúng hơn là lý tưởng sống. Là chủ nhân tương lai thì chúng ta phải xác định cho mình lý tưởng sống phù hợp, đúng đắn. Trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá như hiện nay thì tuổi trẻ chúng ta lại đứng trước một câu hỏi lớn : “ Sống như thế nào là đúng đắn là có ích cho xã hội?” Vì lý tưởng sống của chúng ta là động lực thúc đẩy đất nước phát triển. Và thời nào cũng vậy, thế hệ trẻ luôn là lực lượng tiên phong, xong pha vào những nơi gian khổ mà không ngại khó.Điều đó đã được thể hiện rất rõ trong thời kì kháng chiến. Những người con đất nước như: Kim Đồng, Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám… đã hiến dâng cả tuổi trẻ của mình cho Tổ quốc.Đây là những thanh niên của hơn 40 năm trước còn lớp thanh niên ngày nay thì sao? Vâng. Cách bạn ạ! Chúng ta nên biết một điều: những thế hệ trước đã dâng hiến xương máu để ngày sau độc lập thì chúng ta phải biết “ cùng nhau giữ nước” và nối tiếp , kế thừa truyền thống cao đẹp đó. Và một điều quan trọng là các bạn đừng nghĩ đó là nghĩa vụ để rồi miễn cưỡng thực hiện. Chúng ta phải hiểu rằng: được sinh ra là một hạnh phúc và sống tự do, no đủ là một món quà quý báu, vô giá mà quê hương xã hội đã ban tặng. Hạnh phúc không tự nhiên mà có mà đó xương máu, tâm huyết của biết bao người con của đất nước.Mỗi thời đại, mỗi hoàn cảnh lịch sử mà thanh niên nuôi dưỡng những ước vọng, suy nghĩ riêng. Chúng ta không được bác bỏ, phũ nhận quá khứ hay công sức của những anh hùng dân tộc. Đơn giản là vì mỗi thế hệ đều có sứ mệnh riêng, nhận thức riêng mà chúng ta không nên so bì, tính toán. Vì vậy: “Không có chuyện lớp trẻ ngày nay quay lưng với quá khứ” (như tổng bí thư Đỗ Mười nói) Nhưng tuổi trẻ chúng ta có điều kiện gì để xây dựng đất nước? Vâng, đó chính là học tập. Nói đến tuổi trẻ hôm nay là nói đến việc học hành.. Trong cuộc sống ta gặp không ít trường hợp xem việc học là việc khổ sai chỉ do cha mẹ, thầy cô thúc ép, chứ không ham học. Họ xem đi học như một hình thúc giải khuây cho vui nên không cần học tập, coi học học tập là một nỗi nhọc nhằn.Có người lại coi việc học là để ứng phó với đời, để không xấu hổ với mọi người, để có “bằng cấp” mà hãnh diện với đời, dù đó chỉ là “hàng giả” mà thực lực không làm được.Chúng chẳng những không đưa nước ta “sánh kịp với cường quốc năm châu” mà còn đưa nước ta về lạc hậu, lụn bại. Cách duy nhất là phải học chân chính, học bằng khả năng của mình.Bước vào thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì ai nắm được tri thức thì mới có thể xây dựng đất nước, lèo lái chiếc thuyền số phận của non sông Tổ quốc.Và nhiệm vụ của chúng ta phải học, học nũa, học mãi. Nhà nước phải tạo mọi điều kiện để chúng ta dễ dàng tiếp cận tri thức thì tương lai dân tộc mới sáng lạn, lấp lánh hào quang. Tóm lại, tuổi trẻ là người sẽ quyết định tương lai đất nước sau này.Tuổi trẻ nước ta đầy rẫy nhân tài sẽ góp phần cho dáng hình sứ sở. Ngay từ hôm nay, tôi, bạn và tất cả mọi người phải cố gắng học tập để sau này có thể giúp nước ta tiến nhanh trên con đường xây dựng và phát triển nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh.
Tuổi trẻ và tương lai đất nước – Văn mẫu lớp 8
3,364
Nội dung bài viết1 Tóm tắt Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy – Bài làm 1 2 Tóm tắt Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy – Bài làm 2 3 Tóm tắt Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy – Bài làm 3 Tóm tắt Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy – Bài làm 1 Trọng Thủy là con trai Triệu Đà. Triệu Đà mấy lần cất quân sang đánh Âu Lạc đều bị thua, bèn lấy cớ hòa hiếu, đưa con trai mình sang cầu hôn Mị Châu, con gái An Dương Vương, để dò thám bí mật của kẻ thù. Khi lấy được lòng tin yêu của Mị Châu. Trọng Thủy lừa nàng để đánh tráo nỏ thần đem về nước cho vua cha. Lúc từ biệt, Trọng Thủy còn hỏi vợ, nếu có binh biến giữa hai nước thì phải làm sao. Mị Châu bảo sẽ rắc lông ngỗng để tìm nhau. Triệu Đà nhờ có nỏ thần, đã đánh bại quân An Dương Vương. Khi Mị Châu cùng cha chạy trốn ra Biển Đông, Trọng Thủy đã tìm dấu lông ngỗng để đuổi theo. Thấy xác Mị Châu trước biển, Trọng Thủy ôm về an tang. Lúc tắm, Trọng Thủy nhìn thấy bóng Mị Châu dưới giếng nước, bèn lao đầu xuống giếng rồi chết. Tương truyền, khi người đời sau lấy ngọc do máu của Mị Châu hóa thành, đem rửa vào nước giếng đó thì ngọc trở nên sáng đẹp vô cùng. Tóm tắt Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy – Bài làm 2 An Dương Vương xây thành, hễ đắp tới đâu là lở tới đó. Vua phải nhờ tới sự giúp đỡ của Rùa Vàng mới xây xong. Trước khi từ biệt ra về, Rùa Vàng còn tặng cho nhà vua cái móng vuốt để làm lẫy nỏ, có thể bắn trăm phát trăm trúng. Nhờ có lẫy nỏ mà mấy lần Triệu Đà cử đại binh sang xâm lược, An Dương Vương đều chiến thắng vẻ vang. Một thời gian sau, Đà cầu hôn Mị Châu là con gái của An Dương Vương cho con trai mình là Trọng Thủy. An Dương Vươn bằng lòng mà không nghi ngờ gì. Trọng Thủy bảo Mị Châu lấy cho mình xem nỏ thần rồi đánh tráo, đem về nước cho cha. Triệu Đà lại cất quân sang xâm lược. Mất nỏ thần, An Dương Vương thua trận, bèn cùng Mị Châu chạy về biển Đông. Nhà vua cầu cứu Rùa Vàng, Rùa Vàng bảo: “Giặc sau lưng nhà vua đó”. An Dương Vương hiểu ra, tuốt kiếm chém đầu Mị Châu rồi cùng Rùa Vàng rẽ nước xuống biển Đông. Tóm tắt Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy – Bài làm 3 ADV là vua nước Âu Lạc, ông xây thành nhưng xây đến đâu đổ đến đo, sau đó nhờ sự giúp đỡ của Rùa Vàng thì đã xây xong. Khi trở về, Rùa Vàng còn cho vua một cái móng vuốt để làm nỏ thần. Khi Triệu Dà đến xâm lược, thì đã bị nỏ thần của ADV tiêu diệt. Sau đó, Triệu đà xin cầu hòa và đã sang cầu hôn con gái của ADV là Mị Châu cho con trai của ông ta là Trọng Thủy. ADV đồng ý và đã cho Trọng Thủy ở rể. Trong thời gian ở rể thì Trọng Thiuỷ đã lừa Mị Châu để lây nỏ thần và trở về nước. Sau đó, Triệu Đà đem quân sang xâm lược Âu Lạc lần thứ hai, ADV ỷ có nỏ thần vẫn ngang nhiên ngồi đánh cờ, và kết quả là bị mất nước, ADV đem Mị Châu chạy ra biển, ra đến biển thì Rùa Vàng hiện lên nói “kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó”. ADV nghe vậy liền rút gươm ra đâm chết Mị Châu. Còn ông thì xuống biển. Về sau thì Xác Mị Châu biến thành ngọc, còn Trọng Thủy thương tiếc vợ nên đã nhảy xuống giếng tự tử. sau này, khi lấy nước giếng đó rửa với ngọc thì sẽ rất sáng.
Tóm tắt Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy
697
Nội dung bài viết1 Tóm tắt truyện cổ tích Tấm Cám – Bài làm 1 2 Tóm tắt truyện cổ tích Tấm Cám – Bài làm 2 3 Tóm tắt truyện cổ tích Tấm Cám – Bài làm 3 Tóm tắt truyện cổ tích Tấm Cám – Bài làm 1 Truyện cổ tích Tấm Cám kể rằng,.. Tấm sớm mồ côi cả mẹ và cha,và phải sống chung với Dì ghẻ và đứa em cùng cha khác mẹ tên là Cám. Từ đó, cuộc đời cô vô cùng cực khổ, làm việc vất vả suốt ngày, gánh vác tất cả các công việc trong nhà, trong khi mẹ con Cám chỉ lo rong chơi. Tấm bị mẹ con Cám bắt nạt và bị đối xử tệ bạc. Một hôm, Gì ghẻ giao cho Tấm và Cám hai cái giỏ bảo đi hớt tép, ai hớt được nhiều hơn sẽ được tặng yếm đó. Tấm nghe lời, cố gắng hớt được đầy giở tép, còn Cám mãi rong chơi nên không hớt được con nào. Vì thế Cám đã lừa trút hết giỏ tép của Tấm. Tấm khóc, thì ông Bụt hiện lên tặng Tấm một chú cá bống. Tấm đưa cá về nuôi trong giếng, hằng ngày đều mang cơm cho cá ăn. Mẹ con Cám biết được liền âm mưu cho Tấm đi xa để ở nhà giết cá bống. Tấm về chỉ thấy còn lại những mẫu xương cá, Tấm khóc, Bụt lại hiện lên và bảo Tấm chôn xương cá vào bốn cái lọ đem chôn dưới chân giường của nàng. Ngày hội làng, dì ghẻ không muốn cho Tấm đi liền trộn gạo lẫn thóc, bắt Tấm phải ở nhà nhặt xong mới được đi xem. Tấm ngồi khóc. Bụt hiện lên sai chim sẻ nhặt thóc giúp Tấm rồi bảo Tấm đào bốn cái lọ dưới chân giường lên để láy quần áo đẹp đi xem hội và một cọn ngựa để cưỡi. Khi Tấm đi qua cầu, chẳng may làm rơi một chiếc giày xuống nước, nàng tìm mãi không được. Khi đoàn của vua đi qua thì nhặt được một chiếc giày xinh đẹp của Tấm. Vua truyền lệnh ai ướm vừa sẽ cưới làm vợ. Mẹ con Cám và mọi người đều thi nhau ướm thử nhưng không ai vừa, đến lượt Tấm nàng mang vừa như in. Từ đó Tấm trở thành Hoàng Hậu. Nhân ngày giỗ bố, mẹ con Cám bảo Tấm về làm giỗ. Dì ghẻ bảo Tấm trèo lên cây cau, ở dưới hai mẹ con Cám đốn cây khiến Tấm ngã chết. Sau đó, Cám vào cung thay Tấm. Tấm chết hóa thành chim vàng anh, ngày nào cũng ở bên vua,Mẹ con Cám tức giận liền giết chết chim vàng anh và bỏ lông vào góc vườn, Nơi đó liền mọc lên hai cây xoan đào, vua rất thích hai cây xoan đó, liền mắc võng nằm ngủ. Mẹ con Cám thấy thế liền chặt cây xoan đóng thành khung cửi. Lúc Cám dệt vải, khung cửi kêu lên tiếng của Tấm. Cám sợ hãi liền đót khung cửi rồi rắc tro ở một nơi thật xa. Không lâu sau, ở đó mọc lên một cây thi xanh tốt nhưng chỉ có một quả duy nhất ở tít trên cao. Bà cụ đi chợ qua, liền bảo thị về ở với bà. Quả thị rơi vào túi bà, bà đem về nhà. Hằng ngày Tấm từ trong quả thị bước ra giúp bà cơm nước, dọn dẹp, thấy lạ bà liền núp và rình bắt được Tấm. Từ đó nàng ở với bà như hai mẹ con. Một hôm, nhà vua đi qua vào nhà bà cụ thì thấy trầu được têm giống của Tấm ngày xưa liền gọi hỏi và nhận ra Tấm. Vua liền rước Tấm về cung. Mẹ con Cám bị vua xử phạt thích đáng. Tóm tắt truyện cổ tích Tấm Cám – Bài làm 2 Tấm là chị em cùng cha khác mẹ với Cám. Khi cha và mẹ qua đời, Tấm ở với mẹ con dì ghẻ. Hai mẹ con gì đối xử với Tấm rất cay nghiệt. Một hôm dì bảo Tấm và Cám đi bắt cá, ai bắt được nhiều sẽ được thưởng yếm đỏ. Tấm bắt được một giỏ cá đầy nhưng bị Cám lừa trút vào giỏ của mình. Tấm khóc. Bụt hiện ra bảo Tấm đem con cá bống còn sót lại về nuôi. Khi cá lớn, mẹ con Cám rình bắt cá làm thịt ăn. Tấm lại khóc. Bụt bảo đem xương cá bỏ vào bốn lọ rồi chôn dưới chân giường. Đến ngày vua mở hội, Bụt bảo Tấm đào bốn lọ ấy lên để lấy quần áo đẹp đi dự hội. Tấm nghe lời, quả nhiên có quần áo, ngựa đẹp và cả đôi giày thêu xinh xắn. Trên đường đi hội Tấm làm rơi một chiếc giày. Vua nhặt được, liền đem chiếc giày đó cho mọi người ướm thử, bảo rằng ai ướm vừa chân sẽ được vua lấy làm vợ. Mọi người nô nức chen nhau thử, nhưng chẳng ai ướm vừa chân cả. Đến lượt mình, Tấm mang vừa như in, liền được vua rước vào cung làm vợ. Ngày giỗ cha, Tấm về nhà soạn cỗ cúng. Mẹ con Cám lừa Tấm leo lên cây cau rồi đốn ngã cây làm Tấm chết, rồi Cám vào cung thay Tấm. Tấm chết hóa thành chim vàng anh, suốt ngày quanh quẩn bên vua, Cám liền bắt chim làm thịt ăn. Lông chim vàng anh biến thành cây xoan đào, Cám liền đốn cây xoan đào, lấy gỗ làm khung cửi. Lại đốt khung cửi rồi đem tro đổ thật xa. Từ đống tro ấy mọc lên một cây thị, trên cây có một quả thật to. Một bà lão đem quả thị đó về nhà, nâng niu vô cùng. Từ trong quả thị, Tấm chui ra, giúp đỡ bà cụ làm việc nhà. Bà cụ rình thấy, liền chạy vào ôm chầm Tấm và xé bỏ vỏ quả thị. Từ đó hai bà cháu sống với nhau rất đầm ấm. Một hôm vua vào quán nước của bà cụ, nhìn thấy miếng trầu do Tấm têm mà nhận ra vợ. Tấm theo vua trở về cung, trừng phạt mẹ con Cám, rồi sống hạnh phúc trong cung. Tóm tắt truyện cổ tích Tấm Cám – Bài làm 3 Tấm là một cô gái hiền lành, xinh đẹp, mồ côi mẹ, sống với dì ghẻ và cô em cùng bố khác mẹ tên là cám. Tấm bị mẹ con cám ghen ghét, ngược đãi. Đi hớt tép, tấm bị cám đánh lừa trút hết giỏ tép. Tấm nuôi con cá bống, mẹ con cám giết chết con cá bống. Ngày hội, dì ghẻ trộn gạo lẫn thóc, bắt tấm ở nhà nhặt xong mới được di xem. Mỗilần bị mẹ con cám gây chuyện ngược đãi, đau khổ như vậy, tấm đều được bụt hiện lên an ủi, giúp đỡ. Bụt bảo tấm nuôi cá bống cho có bạn, bụt sai chim sẻ nhặt giúp tấm mớ gạo trộn lẫn thóc. Bụt chỉ cho tấm cách chôn xương cá bống để đến ngày hội tấm có quần áo, khăn, giày đẹp. Tấm đi xem hội, đến chỗ lội, đánh rơi một chiếc giày xuống nước. Nhờ chiếc giày bị rơi ấy, tấm được vua biết đến và lấy làm vợ. Mẹ con cám lập mưu giết chết tấm rồi đưa cám vào thế chân tấm. Tấm chết hóa thành chim vàng anh. Chim vàng anh bị cám giết chết lại hóa thành cây xoan đào. Cám chặt cây xoan đào, đóng khung cửi, khi ngồi vào dệt vải, con ác bằng gỗ trên khung cửi kêu: "cót ca cót két, mày tranh chồng chị, chị khoét mắt ra". Cám đốt khung cửi, đồ tro ở một nơi xa cung vua. Từ đông tromọc lên một cây thị lớn, chỉ có một quả thật to. Một bà cụ bán hàng nước được quả thị ấy, mang về để ở nhà. Mỗi khi bà cụ vắng nhà, từ quả thị, một cô gái – tức tấm chui ra quét dọn, nấu ăn giúp bà cụ. Một hôm, vua đến uống nước, ăn trầu ở hàng bà cụ, thấy có miếng trầu do tấm têm, đã nhận ra vợ. Tấm trở lại cuộc sống hạnh phúc bên vua. Còn mẹ con cám thì bị trừng phạt thích đáng: cám bị giội nước sôi chết, xác nó đem làm mắm gửi cho mẹ nó ăn. Ăn hết chình mắm, trông thấy đầu lâu đứa con gái ở đấy chình, mụ dì ghẻ ngã vật ra chết.
Tóm tắt truyện cổ tích Tấm Cám
1,446
Nội dung bài viết1 Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O. Henri – Bài làm 1 2 Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O. Henri – Bài làm 2 3 Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O. Henri – Bài làm 3 Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O. Henri – Bài làm 1 Xiu và Giôn-xi là hai nữ hoạ sĩ trẻ sống trong một khu nhà trọ. Cụ Bơ- men, một hoạ sĩ già cũng sống ở đó với họ, cả đời cụ khao khát vẽ một kiệt tác nhưng chưa thoả ý. Chẳng may, mùa đông năm ấy, Giôn-xi bị bệnh sưng phổi rất nặng. Bệnh tật khiến cô tuyệt vọng và nghĩ rằng khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống là sẽ là lúc mình lìa đời. Xiu vô cùng lo lắng và hết lòng chạy chữa cho bạn nhưng vô Ích, Giôn-xi vẫn bi quan như vậy. Cô gái tội nghiệp âm thầm đếm từng chiếc lá. Biết được ý nghĩ điên rồ đó của Giôn-xi, cụ Bơ-men ban đau mắng um lên nhưng sau đó lại âm thầm thức suốt đêm mưa gió bão bùng để vẽ chiếc lá thường xuân. Chiếc lá cuối cùng giống như thật. Nó đã không rụng trong đêm bão lớn khiến Giôn-xi suy nghĩ lại, cô hi vọng và muốn được sống, được sáng tạo. Giôn-xi từ cõi chết trở về nhưng cụ Bơ-men lại chết vì bệnh sưng phổi sau đêm sáng tạo kiệt tác chiếc lá cuối cùng để cứu Giôn-xi. Xiu lặng lẽ đến bên Giôn-xi báo cho bạn về cái chết của cụ Bơ-men và bí mật của chiếc lá cuối cùng. Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O. Henri – Bài làm 2 Ở một khu phố tồi tàn tại Oa-sinh-tơn, có một xưởng vẽ chung của hai người bạn là Xiu và Giôn-xi có cùng sở thích về nghệ thuật và hợp nhau về nhiều mặt. Giôn-xi bị chững viêm phổi và cuộc sống chỉ còn được tính từng ngày. Bác sĩ chỉ còn bó tay và Xiu cũng vô cùng thương xót, cố động viên cô ăn uống và vui vẻ. Giôn-xi nhìn ra cửa sổ- khi ấy là mùa đông- đếm từng chiếc lá rơi. Cô tin rằng có khi chiếc lá cuối cùng trên cây leo già cỗi rụng xuống là cô sẽ vĩnh biệt cuộc đời. Chỉ còn một chiếc lá cuối cùng, Giôn-xi muốn nhìn thấy nó lìa cành trước khi trời tối và cô cũng sẽ đi xa. Thầm hiểu, thương bạn, Xiu đến nhờ bác họa sĩ già ở tầng dưới, ông họa sĩ đã hai mươi lăm năm cầm bút vẽ nhưng chưa có tác phẩm nào ưng ý – Kiệt tác mà ông mơ ước. Ông tự coi mình là con chó loại đặc biệt luôn sẵn sàng bảo vệ cho hai nữ nghệ sĩ trẻ ở xưởng vẽ tầng trên. Biết được Giôn-xi sắp sửa đang tuyệt vọng, ông buồn bã vô cùng. Trong một đêm mưa gió bão bùng, người nghệ sĩ già tuổi ngoài năm mươi lại bị lao ấy, đã vẽ nên Chiếc lá cuối cùng trên bức tường – kiệt tác của mình. Ông mất hai ngày sau đó nhưng Giôn-xi đã khỏe mạnh lại và đã sống với con người mà trước đó chưa có. Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O. Henri – Bài làm 3 Giôn – xi và Xiu là hai họa sĩ trẻ sống trong một khu phố nghèo. Giôn – xi đang ốm nặng và có thể qua đời vì viêm phổi. Cô nhìn thấy những chiếc lá rơi từ một cây thường xuân bên ngoài cửa sổ căn phòng của mình. Cô nghĩ rằng khi chiếc lá cuối cùng rơi thì cô cũng sẽ chết. Trong khi đó Xiu cố gắng ngăn bạn mình có những suy nghĩ như vậy. Một nghệ sĩ già không thành đạt tên Bơ – men sống ở tầng dưới của Giôn – xi và Xiu. Ông có mơ ước sẽ vẽ một kiệt tác. Xiu gặp ông và kể rằng bạn mình sắp chết vì viêm phổi và Giôn – xi luôn cho rằng khi chiếc lá cuối cùng rời khỏi cây trường xuân ngoài cửa sổ thì cô sẽ chết. Bơ – men cười nhạo ý tưởng ngốc nghếch này, nhưng, như ông tự cho rằng mình là người bảo vệ của hai nghệ sĩ trẻ, ông quyết định lên xem Giôn – xi và cây trường xuân. Đêm hôm đó, có một cơn bão lớn và gió thổi, mưa đập vào cửa sổ. Xiu đóng rèm cửa và nói với Giôn – xi đi ngủ, mặc dù chỉ còn có một chiếc lá trên cây. Giôn – xi không muốn đóng cửa nhưng Xiu quyết làm vậy bởi cô không muốn Giôn – xi xem chiếc lá cuối cùng. Vào sáng hôm sau, Giôn – xi muốn nhìn thấy cây trường xuân để chắc rằng tất cả các lá đã rụng, nhưng trước sự ngạc nhiên của họ, vẫn còn lại một chiếc lá trên cây. Dù ngạc nhiên khi chiếc lá vẫn còn đó, Giôn – xi chắc mẩm rằng nó sẽ rơi ngày hôm đó. Nhưng đến tận đêm và qua ngày hôm sau nó vẫn còn trên cành. Giôn – xi tin rằng chiếc lá còn lại để chứng tỏ sự nhẫn tâm của cô và cô có tội khi muốn chết. Cô lấy lại niềm khao khát sống và hồi phục nhanh chóng. Vào buổi chiều, một bác sĩ nói chuyện với Xiu. Bác sĩ kể rằng ông Bơ – men đã qua đời vì viêm phổi và không thể giúp gì được. Ông được đưa đến bệnh viện để có được sự thoải mái trong giờ phút cuối cùng. Một người gác cổng đã thấy ông quằn quại đau đớn, với đôi giày và quần áo ướt và lạnh như đá. Người gác cổng không thể xác định được ông đã ở đâu trong đêm giông bão đó, dù tìm thấy một chiếc đèn bão còn sáng, một chiếc thang đã bị chuyển khỏi chỗ, mấy chiếc bút lông vương vãi và một bảng pha màu xanh vàng trộn lẫn, "Và… nhìn ra cửa sổ kia, bạn, chỗ chiếc lá trường xuân cuối cùng ấy. Bạn không ngạc nhiên tại sao nó chẳng hề rung rinh hay di chuyển khi gió thổi? Ồ, bạn ơi, đấy là kiệt tác của bác Bơ – men… Bác vẽ nó vào cái đêm chiếc lá cuối cùng rơi".
Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O. Henri
1,096
Nội dung bài viết1 Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 1 2 Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 2 3 Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 3 4 Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 4 5 Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 5 6 Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 6 Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 1 Truyện kể về gia đình anh Sáu – một cán bộ kháng chiến. Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc bé Thu, con gái anh, chưa đầy một tuổi. Tám năm sau, anh mới có dịp trở về thăm nhà, thăm con. Nỗi vui mừng, niềm phấn khởi sắp được gặp lại con gái yêu khiến anh sung sướng vô cùng. Nhưng trớ trêu thay, bé Thu không chịu nhận anh là cha, một mực cự tuyệt dù mọi người đã hết lời giải thích. Nguyên nhân là do vết sẹo trên mặt anh Sáu khiến anh không giống với bức hình mà bé Thu đã giữ từ lâu. Nhờ bé Thu tâm sự với ngoại điều ấy mà mọi việc mới vỡ lẽ ra. Cha con nhận ra nhau cũng là lúc anh Sáu phải trở về chiến khu. Buổi sáng chia tay trên bến sông thật cảm động. Bé Thu ôm chặt anh Sáu không muốn rời. Dù rất yêu con nhưng vì nhiệm vụ chiến đấu, anh Sáu phải lên đường. Anh Sáu hứa sẽ trở về và tặng con một chiếc lược. Trên chiến khu, anh Sáu ngày đêm mong nhớ con. Anh dành hết tình yêu con vào việc làm chiếc lược ngà. Mỗi chiếc răng lược chất chứa muôn vạn nỗi nhớ và tình yêu mến con. Thật không may, trong một trận càn ác liệt của địch, anh Sáu đã hi sinh. Trước lúc ra di, anh kịp gửi lại chiếc lược cho người đồng đội và nhờ trao lại cho con bé. Câu chuyện còn tiếp tục khi mười mấy năm sau, trong một chuyến đi công tác, người đồng đội của anh Sáu năm xưa bất ngờ gặp được bé Thu. Ông đã trao lại cây lược và kể về anh Sáu cho bé Thu nghe khiến bé Thu vô cùng xúc động. Tình cha con được gắn kết trong niềm hạnh phúc lẫn đau thương vô tận. Truyện “Chiếc lược ngà” đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Truyện còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thương, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Nhà văn đã rất thành công khi xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí; cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp; miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé Thu. Ngôn ngữ truyện mang đậm chất địa phương Nam Bộ. Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 2 Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến từ khi con gái anh vừa tròn tuổi. Sau hiệp định kí kết lập lại hoà bình cho đất nước anh được về phép thăm con gái và gia đình. Với lòng mong mỏi được gặp con của mình, anh khát khao được nhận con gái. Nhưng bé Thu, con gái anh không nhận anh là cha chỉ vì vết sẹo trên mặt không giống với bức ảnh anh chụp với vợ anh lúc cưới. Không những thế, bé Thu còn đối xử với anh như ngưòi xa lạ, luôn xa lánh anh Sáu. Anh khổ tâm vô cùng. Trong suốt ba ngày nghỉ phép, anh không đi chơi đâu, chỉ quanh quẩn ở nhà chăm sóc con, mong được gần gũi và được con gái mình gọi một tiếng cha thiêng liêng ý nghĩa. Cho đến tận giây phút cuối cùng chia tay mọi ngưòi để anh trở lại chiến khu, thì bất ngờ bé Thu thét gọi cha mình trong niềm xúc động mãnh liệt. Trở lại chiến trường anh mang theo lời hứa sẽ mua cho con chiếc lược. Tháng ngày ở chiến khu, với lòng nhớ con khôn nguôi, anh dồn toàn bộ tâm sức, tình thương của mình vào việc khắc tặng con một chiếc lược bằng ngà voi, mong ngày chiến thắng trở về yêu tặng con mình. Nhưng thật không may, trong một trận càn của địch, ông Sáu bị thương nặng. Trước lúc nhắm mắt, ông chỉ kịp trao lại cho ngưòi bạn của mình là ông Ba chiếc lược với lời nhắn hãy trao tận tay con gái bé bỏng của ông món quà thiêng thiêng này. Thực hiện nguyện ước của bạn mình như đã hứa, ông Ba đã trao tận tay bé Thu chiếc lược khi cô đã là cô giao liên giỏi giang, dũng cảm mưu trí. Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 3 Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc đứa con chưa đầy một tuổi, tám năm sau mới có dịp về thăm nhà. Tâm trạng anh biết bao háo hức khi gặp đứa con gái thân yêu. Nhưng bé Thu đã không nhận ra cha vì vết thẹo trên mặt làm cho anh không giống với người ba trong ảnh mà Thu đã quen thuộc. Bé đối xử với cha như với người xa lạ khiến cho anh Sáu rất buồn. Sau khi nghe bà giải thích nguyên nhân vết thẹo, bé Thu mới nhận cha. Tình cha con trào dâng mãnh liệt, nhưng đó cũng là lúc biệt li. Người cha phải lên đường trởlại đơn vị. Giây phút cuối cùng bé Thu dặn khi nào ba về sẽ mua cho em một chiếc lược. Ở căn cứ, anh Sáu cố công tìm được một khúc ngà, rồi tì mỉ lấy vỏ đạn làm một chiếc cưa, và hầu như tất cả thời gian anh chỉ làm hai việc: chiến đấu và cưa chiếc lược ngà. Một ngày được một vài răng, không bao lâu cây lược hoàn thành. Anh gò lưng, tẩn mẩn khắc lên đó dòng chữ: "Yêu nhớ tặng Thu con của ba". Anh mong mỏi có ngày về thăm quê mang chiếc lược cho con. Nhưng không may, anh đã hi sinh mà không tự tay thực hiện được niềm khát khao cháy bỏng của mình. Anh Sáu chỉ nhắm được mắt khi anh Ba, bạn anh hứa trao tận tay con anh chiếc lược. Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 4 Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. mãi đến khi con gái lên tám tuổi, , ông mới có địp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra ba vì vết sẹo trên mặt làm ba em không còn giống với người trong bức ảnh chụp mà em đã biết. em đối xử với ba như người xa lạ. đến lúc Thu nhận ra ba thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. ở không căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quí , nhớ thương đứa con vào việc là chiếc lược ngà để tặng cô con gái bé nhỏ. Trong một trận càn, ông hy sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược cho người bạn. Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 5 Sau nhiều năm xa cách vợ con,ông Sáu được về nghỉ phép.Thế nhưng con gái ông là bé Thu lại không nhận ra cha mình vì vết sẹo trên mặt khiến ông không giống như trong ảnh.Trong ba ngày nghỉ phép ngắn ngủi đó,ông ở nhà suốt để vỗ về con và cho con cái cảm giác có cha ở bên.Thế nhưng bé Thu không chịu nhận cha,càng ngày càng ương bướng,thậm chí lúc được cha gắp cho cái trứng cá,bé đã hất ra.Ông Sáu nổi giận đánh cho.Bé buồn chạy sang nhà bà,kể hết mọi chuyện cho bà nghe.Được bà giải thích bé hiểu ra và trong giây phút cuối cùng trước khi cha trở lại chiến trường ,bé đã nhận cha trong sự xúc động của mọi người và bé đã đòi cha mua cho một chiếc lược.Ngày ngày ông đưa chiếc lược ra ngắm cho đỡ nhớ con.Trong một trận càn ông hi sinh và trước khi nhắm mắt ông chỉ kịp đưa chiếc lược cho đồng đội nhờ gửi cho con.Chiếc lược ngà ấy được đồng đội trao lại cho Thu một cách tình cờ,khi cô làm giao liên dẫn đường cho đồng chí ấy trong kháng chiến chống Mĩ. Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – Bài làm 6 Truyện kể về một lần anh Sáu về thăm phép nhà trước khi đi tập kết. Con gái anh 8 tuổi ko nhận anh là cha vì lúc anh đi kháng chiến nó chưa đầy một tuổi. Suốt 3 ngày phép, anh luôn ở nhà tìm cách vỗ về con nhưng nó ngày càng cự tuyệt. Trong bữa cơm nó đã hất cái trứng cá anh gắp cho. Vì tức giận, anh tát con và nó bỏ sang bà ngoại. Sáng hôm sau anh phải lên đường.Con bé đã trở về trong phút chia tay, nó đã kêu thét lên tiếng '' ba'' và chạy đến ôm trầm lấy anh, ko cho anh đi nữa. Nó ko nhận ra ba chính vì vết thẹo dài trên má anh nhưng anh vẫn phải chia tay con trở lại miền Đông với lời hứa làm cho con một chiếc lược. Anh đã bỏ thời gian, công sức, dồn tất cả tình yêu thương của người cha vào làm chiếc lược ngà tặng con. Nhưng người cha ấy đã hy sinh chỉ còn lại chiếc lược, gửi tặng con như một biểu tượng bất tử về tình cha con sâu nặng.
Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng
1,720
Nội dung bài viết1 Tóm tắt truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao – Bài làm 1 2 Tóm tắt truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao – Bài làm 2 3 Tóm tắt truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao – Bài làm 3 Tóm tắt truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao – Bài làm 1 Chí Phèo vốn là đứa con hoang bị bỏ rơi khi vừa lọt lòng trong một lò gạch cũ bỏ không. Được người ta nhặt về nuôi, lớn lên đi ở hết nhà này sang nhà khác. Năm 20 tuổi, hắn làm canh điền cho nhà Lí Kiến. Lí Kiến ghen với anh canh điền trẻ lại được bà ba kêu bóp chân xoa bụng… gì đấy. Thế là một hôm, hắn bị giải lên huyện và phải đi tù. Sau bảy tám năm biệt tích, hắn trở về, bộ dạng khác hẳn ngày trước. Vừa về say khướt, cầm vỏ chai đến nhà Bá Kiến – bây giờ Lí Kiến đã là Bá Hộ, Nghị Viên, tiên chỉ làng Vũ Đại – chửi bới, rạch mặt ăn vạ. Lão Bá Kiến không róc đời đã xử nhũn với hắn. Với những kẻ cố cùng liều thân "trị không được thì dung", "dùng thằng đầu bò trị những thằng đầu bò". Thế chỉ là một bữa rượu, một đồng bạc, Chí Phèo hả hê ra về và trở thành "chỗ đày tớ tay chân" của lão để khi cần chỉ cho hắn năm hào uống rượu, là có thể sai nó đến tác hại bất cứ anh nào không nghe mình. Từ đó, Chí Phèo luôn say. "Hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm" và trở thành "con quỹ dữ của làng Vũ Đại để tác oai tác quái cho bao nhiêu dân làng". Cuộc đời hắn cứ thế trôi đi… Một đêm trăng rười rượi, trong một cơn say, Chí Phèo gặp Thị Nợ, người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn bị mọi người hắt hủi. Họ ân ái với nhau. Nửa đêm Chí Phèo đau bụng và nôn mửa. Sáng hôm sau, tỉnh dậy thì hắn bâng khuâng buồn. Tiếng chim hót, tiếng gõ mái chèo đuỗi cá,tiếng nói chuyện của mấy người đi chợ về… làm hắn nhớ lại "có một thời hắn đã ước ao, có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…". Hắn thấm thía nhận ra tình cảnh trơ trỏi khốn khổ của mình. Hắn cảm động vì đây là lần đầu tiên được chăm sóc bởi một tay đàn bà. Nhớ lại khi xưa, những lần cái bà quỷ quái gọi hắn lên bóp chân, "Hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì!". Hắn bỗng thấy "thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn". Nhưng khi Thị Nở về xin ý kiến của bà cô Thị, bà gào lên: "Ai lại đi lấy thằng Chí Phèo", "thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ!". Bị từ chối, Chí Phèo lại uống rượu và ôm mặt khóc rưng rức, rồi như mọi lần, lại xách dao ra đi, vừa đi vừa chửi. Cuối cùng, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến, chỉ tay vào mặt lão: "Tao muốn làm người lương thiện (…) Ai cho tao lương thiện (…) Tao không thể làm người lương thiện nữa! (…) chỉ còn một cách…" và hắn rút dao đâm chết Bá Kiến, sau đó dùng dao đâm cổ tự sát… Tóm tắt truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao – Bài làm 2 Tác phẩm Chí Phèo kể về nhân vật Chí Phèo , hắn vốn là một đứa trẻ bị bỏ hoang trong một lò gạch cũ và được nhặt về nuôi. Khi lớn lên Chí Phèo đi ở hết nhà này nhà khác để nuôi thân. Đến năm Phèo 20 tuổi, hắn là canh điền cho nhà Bá Kiến, và tấm bi kịch cuộc đời hắn từ diễn ra từ đây. Vì bị Bá Kiến ghen nên hắn bị giải lên huyện và bị bắt bỏ tù. Hắn ở tù bày tám năm, sau khi trở về, hắn xuất hiện với bộ dạng khắc hẳn ngày xưa, với nhiều hình xăm trên mình. Hắn lúc nào cũng say và cứ say là hắn lại đến nhà Lí Kiến để chửi bới, rạch mặt ăn vạ. Và Bá Kiến đã biến Chí Phèo thành kẻ tay sai chuyên đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến. Trong tình trạng luôn say mèm,ai cho tiền sai gì hắn cũng làm, hắn trở thành một con quỷ dữ của làng Vụ đại luôn làm những trò tác quái phá làng, phá xóm, khiến người dân ai ai cũng khiếp sợ. Cuộc đời hắn không lúc nào tỉnh và một đêm trăng, Phèo say nằm ngủ thì gặp Thị Nở. Đêm đó, họ ăn nằm với nhau. Phèo nửa đêm đau bụng, nôn mửa, sáng hôm sau, Thị cho hắn một bát cháo hành. Cũng từ đó hắn khao khát trở về cuộc sống lương thiện và được sống cùng Thị Nở. Nhưng một lần nữa hắn bị đạp xuống vực vì bà cô của Thị không đồng ý. Phèo tuyệt vọng, lại uống và lại xách dao ra đi, vừa đi hắn vừa chửi rủa sự đời. Hắn cầm dao đến nhà Bá Kiến đòi trả lương thiện cho hắn. Hắn đâm chết Bá Kiến rồi tự tử. Thị Nở chứng kiến cảnh đó, nhìn xuống bụng và nghĩ đến lò gạch. Tóm tắt truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao – Bài làm 3 Ở làng Vũ Đại. Một sáng tinh sương, anh thả ống lươn nhặt được đứa bé mới đẻ xám ngắt đùm trong cái váy đụp vứt ở lò gạch cũ. Anh ta rước lấy đem về cho người đàn bà góa mù, bà này bán lại cho bác phó cối. Khi bác phó cối chết, hắn bơ vơ, mãi năm 18 tuổi hắn làm canh điền cho Bá Kiến. Vợ ba Bá Kiến bắt Chí xoa bụng đấm lưng gì đó. Bỗng một hôm Chí Phèo bị người ta giải huyện… Đi tù bảy, tám năm sau hắn trở lại làng, mặt mày trông khác hẳn, gớm chết! Về hôm trước thì chiều hôm hắn xách vỏ chai đến thẳng nhà Bá Kiến gây sự. Xô xát với Lý Cường, hắn đập vỏ chai, rạch mặt kêu trời ăn vạ. Sau cái vụ Năm Thọ, Binh chức, cụ Bá róc đời xử nhũn với Chí Phèo. Cụ mời hắn vào nhà, giết gà đãi rượu, lúc hắn ra về còn đãi một đống bạc uống thuốc. Bốn hôm sau, Chí Phèo đốt quán bà bán rượu… Hắn mang theo một con dao nhọn đến xin Cụ Bá đi ở tù. Chỉ một câu nói khích, cụ đã sai được Chí Phèo đến nhà đội Tảo đòi 50 đồng bạc nợ cho cụ. Chẳng phải giao tranh đổ máu, hắn đã đòi được nợ đem về. Cụ bá cho hắn 5 đồng và bán cho hắn 5 sào vườn ngoài bãi sông mới cắm thuế của một người làng. Năm đó Chí 27 hay 28 tuổi, hắn bỗng thành có nhà. Hắn trở thành anh đầy tớ chân tay mới của Bá Kiến, chuyên đâm thuê chém mướn, rạch mặt ăn vạ. Hắn đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say mãi, say vô tận. Hắn chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi con mẹ chết tiệt nào đẻ ra hắn cho hắn khổ. Năm đó hắn ngoài 40, cái mặt như mặt một con vật lạ. Cả làng Vũ Đại đều sợ hắn một khi hắn đi qua trước mặt. Tình cờ một đêm trăng, Chí Phèo lần vô nhà Tự Lãng, tên hoạn lợn kiêm nghề thầy cúng, hai đứa uống hết cả 3 chai rượu. Ngứa ngáy quá, Chí lảo đảo đi về lều. Hắn gặp Thị Nở đang há hốc mồm ngủ dưới trăng, hắn ôm chầm lấy thị mà làm tình. Gần sáng Chí bị cảm, hắn được thị Nở người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn cho ăn cháo hành. Cũng là lần đầu tiên hắn được ăn cháo hành lại do bàn tay một người đàn bà cho. Hắn bâng khuâng nhớ lại một thời trai trẻ, hắn muốn cùng thị làm thành một cặp rất xứng đôi. Chí Phèo thèm lương thiện. Và hắn say thị lắm. Nhưng đến hôm thứ 6, thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã. Thị Nở bị bà cô xỉa xói vào mặt. Thị ton ton chạy sang lều trút tất cả giận dữ lên mặt nhân ngãi. Chí Phèo ngẩn mặt ra, chạy theo Thị Nở, hắn đã bị nhân tình giúi cho một cái ngã lăn khoèo xuống đất. Hắn toan đập đầu ăn vạ nhưng hắn chưa thật say. Và hắn uống, uống thêm chai nữa, càng uống càng tỉnh. Hắn đi đến nhà Bá Kiến với con dao ở thắt lưng để đòi lương thiện. Chém chết Bá Kiến, hắn đâm cổ tự sát. Cả làng Vũ đại xôn xao kéo đến xem 2 con quỷ giết nhau. Bà cô chì chiết Thị Nở. Thị nhìn nhanh xuống bụng mình, và thoáng chợt thấy một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua…
Tóm tắt truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
1,584
Nội dung bài viết1 Tóm tắt truyện ngắn Cô bé bán diêm của An-déc-xen – Bài làm 1 2 Tóm tắt truyện ngắn Cô bé bán diêm của An-déc-xen – Bài làm 2 3 Tóm tắt truyện ngắn Cô bé bán diêm của An-déc-xen – Bài làm 3 4 Tóm tắt truyện ngắn Cô bé bán diêm của An-déc-xen – Bài làm 4 Tóm tắt truyện ngắn Cô bé bán diêm của An-déc-xen – Bài làm 1 ‘Cô bé bán diêm’ là chuyện kể về số phận của một em bé nghèo khổ, phải đi bán diêm để sống. Vào một đêm giao thừa tuyết rơi, bầu trời tối tăm, em bé phải đi chân đất trên tuyết lạnh, chân em đỏ ửng tồi tím bầm lại. Em cố tìm nơi nhiều người qua lại để bán diêm, nhưng mọi người chẳng ai đoái hoài đến em, họ vội vã về nhà để tránh cái lạnh ghê người. Vừa đói, vừa rét, nhưng không thể trở về khi không bán được bao diêm nào vì em sợ bố đánh. Mệt mỏi quá, em đành ngồi tựa vào góc tường cạnh ngôi nhà sáng rực ánh đèn có mùi ngỗng quay thơm nức! Đói, rét, em bé nảy ra ước mơ, mộng tưởng qua mỗi lần quẹt diêm. Trong ánh sáng của que diêm, những giấc mơ của em thật đẹp, nhưng cũng thật mong manh vì một que diêm phỏng cháy được bao lâu? Cuối cùng khi tất lửa thì mọi thứ đẹp đẽ (chẳng qua là ảo ảnh) đều vụt tan biến đi ngay. Và cuối cùng em bé đã chết dưới lớp tuyết dày khi mơ thấy bà nội cầm tay em bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét đau buồn đe doạ nữa. Tác giả như muốn đối chiếu cảnh đói rét khôn cùng của em bé bán diêm với cảnh sống sung túc, hoan hỉ của mọi nhà vào đêm giao thừa. Dường như tất cả đều quay lưng lại, thờ ơ với cuộc đời của em. Em đã thực sự bị bỏ rơi giữa cuộc đời no đủ, giàu sang. Đó là ý nghĩa nhân đạo của tác phẩm, là tấm lòng của An-đec-xen với những cuộc đời khốn cùng khổ đau. Tóm tắt truyện ngắn Cô bé bán diêm của An-déc-xen – Bài làm 2 Trong đêm giao thừa, trời rét mướt, có một cô bé đầu trần, chân đi đất, bụng đói đang rầu rĩ đi bán diêm trong bóng tối. Cô bé bán diêm ấy đã mồ côi mẹ và cũng đã mất đi người thương yêu em nhất là bà nội. Em không dám về nhà vì sợ bố sẽ đánh em. Vừa lạnh vừa đói, cô bé ngồj nép vào một góc tường rồi khẽ quẹt một que diêm để sưởi ấm. Que diêm thứ nhất cho em có cảm giác ấm áp như ngồi bên lò sưởi. Em vội quẹt que diêm thứ hai, em được thấy một bàn ăn thịnh soạn hiện lên. Rồi em quẹt que diêm thứ ba và được thấy cây thông Nô-en. Quẹt que diêm thứ tư: bà nội hiền từ của em hiện lên đẹp đẽ, gần gũi và phúc hậu biết mấy. Nhưng ảo ảnh đó nhanh chóng tan đi sau sự vụt tắt của que diêm. Em vội vàng quẹt hết cả bao diêm để mong níu bà nội lại. Cô bé bán diêm đã chết trong giá rét khi mơ cùng bà bay lên cao mãi. Tóm tắt truyện ngắn Cô bé bán diêm của An-déc-xen – Bài làm 3 Cô bé bán diêm có hoàn cảnh rất nghèo khó. Mẹ mất, bà đã qua đời, sống chui rúc ở một xó tối tăm, em luôn phải lắng nghe những tiếng chửi rủa của bố. Vào đêm giao thừa, trời rét mướt, tuyết phủ trắng xóa, em một mình đi bán diêm giữa đường phố vắng, em ngồi nép trong một góc tường, em có quẹt que diêm để sưởi ấm. Cô bé đã ngồi và quẹt các que diêm lên và trước mắt cô lần lượt hiện lên cái lò sưởi, bàn ăn với một con ngỗng quay, cây thông Nô-en rồi em nhìn thấy bà em, hai bà cháu bay vút lên cao về chầu thượng đế. Mỗi lần que diêm tắt, thực tế lại hiện ra trước mắt, lần lượt em nghĩ đến cha sẽ mắng vì không bán được diêm, phố xá vắng teo lạnh buốt tuyết rơi, gió bấc vi vu và những người khách qua đường vội vàng thờ ơ trước sự đáng thương của cô bé. Sáng hôm sau, cô bé đã chết trong đêm giao thừa. Tóm tắt truyện ngắn Cô bé bán diêm của An-déc-xen – Bài làm 4 Truyện kể về một cô bé bán diêm trong đêm giao thừa. Cô bé có một hoàn cảnh khó khăn mẹ và bà đều đã mất em phải sống với một người bố độc ác trong một căn nhà tồi tàn. Vào đêm giao thừa em đi bán diêm với một bộ quần áo mỏng manh rách rưới và cái bụng không có gì ăn. Nhưng em không dám về nhà vì sợ rằng về nhà bố sẽ đánh khi chưa bán được bao diêm nào cả. Em rét quá không thể tiếp tục đi được nữa nên đã ngồi vào một xó nhỏ giữa hai bức tường. Em quẹt diêm để sưởi ấm. Và khi những que diêm được quẹt lên bao mộng tưởng trong đầu em xuất hiện. Đến khi em quẹt que diêm thứ tư thì người bà hiền từ hiện lên. Em cầu khẩn bà hãy cho em được đi cùng bà. Cuối cùng thì hai bà cháu đã cùng cầm tay nhau bay lên thiên đường nơi mẹ đang ở đó chờ.
Tóm tắt truyện ngắn Cô bé bán diêm của An-déc-xen
960
Nội dung bài viết1 Tóm tắt truyện ngắn Cố Hương của Lỗ Tấn – Bài làm 1 2 Tóm tắt truyện ngắn Cố Hương của Lỗ Tấn – Bài làm 2 3 Tóm tắt truyện ngắn Cố Hương của Lỗ Tấn – Bài làm 3 Tóm tắt truyện ngắn Cố Hương của Lỗ Tấn – Bài làm 1 Truyện kể lại chuyến về quê lần cuối cùng của nhân vật người kể chuyện (tôi) để dọn nhà đi nơi khác làm ăn sinh sống. Nhân vật tôi đau xót nhạn ra những thay đổi ghê gớm của làng quê, đặc biệt là sự tàn tạ, đần độn của Nhuận Thổ, người bạn thân thiết của “tôi” thời thơ ấu. Từ đó, người kể chuyện đã lật xới lên những vấn đề bức xúc của xã hội Trung Hoa trì trệ lúc bấy giờ. Từ đó, ông chỉ cho mọi người thấy xã hội phân chia giai cấp là do con người tạo ra. Để không còn thảm cảnh ấy nữa nhất thiết phải xây dựng một xã hội mới, trong đó con người với con người là bình đẳng. Khi cùng gia đình tạm biệt làng quê cũ, nhân vật tôi hi vọng mọi người sẽ có một tương lai sáng sủa hơn. Tóm tắt truyện ngắn Cố Hương của Lỗ Tấn – Bài làm 2 Chuyến về thăm quê sau 20 năm xa cách của nhân vật “tôi” để bán nhà, đưa gia đình đi nơi khác sinh sống. Đó là vào một buổi chiều ảm đạm. Ngồi trên thuyền, nhân vật “tôi” nhận ra một điều rất đáng buồn là quê hương mình đã đổi thay quá nhiều so với 20 năm trước. Nhưng đó là sự đổi thay khiến người ta đau lòng. Làng quê giờ đây xơ xác, tiêu điều. Con người già đi, xấu thêm và trở nên đần độn hoặc chua ngoa đanh đá ( như Nhuận Thổ và thím Hai Dương). Đem theo gia đình, nhân vật “ tôi” rời quê hương trong một buổi chiều muộn với niềm hi vọng và tin tưởng vào thế hệ tương lai:“ Kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi.” Tóm tắt truyện ngắn Cố Hương của Lỗ Tấn – Bài làm 3 Nhân vật tôi về thăm quê cũ sau hơn 20 năm xa cách. Mục đích là chuyến về quê cuối cùng để chuyển nhà đi nơi khác. Nhìn cảnh vật thay đổi, không còn được như xưa, nhân vật tôi rất buồn. Ông nhớ lại những kỉ niệm về quá khứ với Nhuận Thổ. Gặp lại Nhuận Thổ, anh ta tàn tạ, mụ mị đến đau lòng. Mọi người ở quê đều bị cái nghèo đói làm cho khổ sở hơn trước. "Tôi" ra đi mà không luyến tiếc với hy vọng về một tương lai tươi sáng cho quê hương.
Tóm tắt truyện ngắn Cố Hương của Lỗ Tấn
476
Nội dung bài viết1 Tóm tắt truyện ngắn lão Hạc của Nam Cao – Bài làm 1 2 Tóm tắt truyện ngắn lão Hạc của Nam Cao – Bài làm 2 3 Tóm tắt truyện ngắn lão Hạc của Nam Cao – Bài làm 3 4 Tóm tắt truyện ngắn lão Hạc của Nam Cao – Bài làm 4 Tóm tắt truyện ngắn lão Hạc của Nam Cao – Bài làm 1 Lão Hạc là một người nông dân nghèo, vợ mất sớm, chỉ có một mảnh vườn và người con trai. Vì không có tiền cưới vợ, con trai lão Hạc sinh phẫn chí đi lên đồn điền cao su với lời thề khi nào kiếm được bạc trăm mới trở về. Từ đó, lão Hạc sống thui thủi một mình với con chó Vàng làm bạn, bòn vườn sống qua ngày. Sau trận ốm dai đẳng, lão không còn sức đi làm thuê được nữa. Rồi lại bão mất mùa, lão rơi vào hoàn cảnh khó khăn, cơ cực bội phần. Vì muốn giữ lại mảnh vườn cho con trai về có cái sinh sống, Lão Hạc dằn vặt lương tâm mình khi quyết định bán đi con chó Vàng. Lão nhờ ông giáo trông hộ mảnh vườn cho con trai và gửi tiền làm ma để không phiền hàng xóm. Lão Hạc xin ít bã chó của Binh Tư. Biết được chuyện này, ông giáo rất buồn vì nghĩ rằng con người như lão Hạc chỉ vì cái nghèo đói mà cũng bị tha hoá. Rồi lão chết đột ngột, dữ dội và đau đớn. Không ai biết vì sao lão chết trừ Ông Giáo và Binh Tư. Tóm tắt truyện ngắn lão Hạc của Nam Cao – Bài làm 2 Lão Hạc có một hoàn cảnh gia đình bất hạnh: vợ lão mất sớm, còn một người con trai thì anh ta vì phẫn chí mà bỏ đi cao su. Lão Hạc còn lại một mình với một mảnh vườn và một con chó vàng. Con chó ấy là của anh con trai để lại, lão cưng chiều nó như con, luôn miệng gọi “cậu Vàng”. Nhưng cuộc sống khốn khó, lão bán chó để dành mảnh vườn cho con dù vô cùng đau khổ, dằn vặt. Lão mang tiền dành dụm được gửi ông giáo và nhờ ông trông coi mảnh vườn. Không muốn phiền đến mọi người, lão từ chối hết thảy sự giúp đỡ của ông giáo. Một hôm, lão xin Binh Tư một ít bả chó nói là muốn bẫy một con chó lạc. Ông giáo rất thất vọng khi nghe chuyện ấy. Nhưng rồi lão Hạc bỗng nhiên chết – cái chết thật dữ dội, đau đớn. Ông giáo hiểu ra tất cả, vô cùng đau đớn nghĩ về cái chết của lão Hạc và chiêm nghiệm về cuộc đời. Tóm tắt truyện ngắn lão Hạc của Nam Cao – Bài làm 3 Lão Hạc là một người nông dân nghèo, sống cô độc, chỉ có con chó Vàng làm bạn. Con trai lão vì nghèo ko lấy được vợ, đã phẫn chí bỏ làng đi làm ăn xa. Lão Hạc ở nhà chờ con về, làm ăn thuê để kiếm sống. Sau một trận ốm dai dẳng, lão ko còn sức đi làm thuê nữa. Ko còn đường sinh sống, lão Hạc lặng lẽ đi đến một quyết định quan trọng. Lão bán con chó Vàng mà lão rất mực yêu thương, mang hết số tiền dành dụm được và cả mảnh vườn gửi cho ông Giáo trông coi hộ. Lão chịu đói, chỉ ăn khoai và sau đó ” lão chế tạo được món gì, ăn món nấy “. Ông Giáo ngấm ngầm giúp đỡ nhưng lão tìm cách từ chối. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó, nói để đánh bả chó làm thịt và rủ Binh Tư uống rượu. Ông Giáo rất buồn khi nghe Binh Tư kể chuyện ấy. Lão Hạc bỗng nhiên chết – một cái chết thật dữ dội. Cả làng ko ai hiểu vì sao lão chết, chỉ có Binh Tư và ông Giáo hiểu lão ăn bả chó để tử tự. Tóm tắt truyện ngắn lão Hạc của Nam Cao – Bài làm 4 Lão Hạc là một người nông dân nghèo, vợ mất sớm. Lão chỉ có một đứa con trai nhưng vì hoàn cảnh nghèo khó, Lão Hạc không đủ tiền để lo cho đứa con việc cưới xin. Không lấy được vợ, người con trai quẫn trí bỏ làng đi làm đồn điền cao su, với một ước muốn viển vông ” tiền trăm thì mới về”. Trước khi đi người con trai đã đưa cho Lão Hạc vài đồng bạc và một con chó làm kỉ niệm. Người cha mất con, ngày đêm mong nhớ về con, lão coi con chó của con tặng như là người con của mình, lão yêu thương, quý mến con chó, đặt tên cho nó cái tên gần gũi ” Cậu Vàng”. Lão Hạc thường đi bày tỏ tâm sự với ông Giáo- người hàng xóm thân cận. Trước mặt ông Giáo, lão Hạc luôn nhắc đến người con trai của mình và lão đang băn khoăn, phân vân việc bán cậu Vàng với ông Giáo, đã bao lần nói đến việc bán chó nhưng lão chỉ nói để đó thôi khiến ông Giáo cũng cảm thấy nhàm chán. Nhưng Lão Hạc đã ốm một trận kéo dài, mất mùa, đói kém thường xuyên khiến lão gầy rạc đi, việc trong làng không còn thuê Lão Hạc làm nữa. Cuối cùng lão Hạc cũng quyết định bán cậu Vàng. Hôm sau, lão Hạc chạy sang nhà ông Giáo với tâm trạng đau đớn, dằn vặt. Lão kể cho ông Giáo nghe việc bán chó, lão cố tỏ ra vui vẻ, nhưng lão cười như mếu, đôi mắt ầng ậc nước. Lúc này ông Giáo không còn thương tiếc mấy quyển sách mà ông yêu quý, quyết giữ để lưu lại những kỉ niệm trong thời cắp sách nhưng cuối cùng ông giáo cũng bán đi. Mặt lão Hạc co rúm lại, những vết nhăn xô vào nhau ép cho nước mắt chảy ra. Lão hu hu khóc, lão kể cho ông giáo việc thằng Binh Tư bắt cậu vàng. Trong liên tưởng của Lão, khi cậu Vàng bị bắt, cậu đã nhìn lão Hạc bằng con mắt như trách móc, giận giữ. Ông giáo cũng thương xót, động viên lão Hạc và nói với lão là giết cậu Vàng là thay kiếp cho nó, lão Hạc là người có nhiều kinh nghiệm sống nên lão hiểu và nhận ra việc đổi kiếp. Mấy hôm sau, lão lại sang nhà ông giáo gửi tiền và nhờ ông giáo trông nom hộ mấy sào vườn cho đứa con trai. Lão đưa cho ông giáo số tiền để làm ma chay cho lão, không muốn làm phiền đến hàng xóm. Lão chấp nhận cuộc sống nghèo khổ để bảo toàn căn nhà, mảnh vườn số tiền cho con. Hôm thì lão ăn quả chuối, củ khoai, hôm thì lão ăn củ ráy, sung lược, kiếm được gì thì lão ăn lấy và từ chối sự giúp đỡ của ông giáo. Đi vào bế tắc, lão đã chọn cái chết. Lão sang nhà Binh Tư xin bả chó. Ông giáo nghe Binh Tư kể việc ấy, ông giáo rất buồn và nghĩ” cuộc đời ngày một thêm đáng buồn”, ông giáo không còn tin tưởng những phẩm chất tốt đẹp của lão, nhưng qua cái chết của Lão Hạc, ông giáo và Binh Tư mới hiểu ra, lão Hạc đã chết thật kinh hoàng bằng cách ăn bả chó, người lão giật mạnh, hai mắt long sòng sọc, quần áo xộc xệch,, đầu tóc rũ rượi, xùi bọt mép. Lão Hạc đã chết để bảo toàn được tương lai cho đứa con của mình, ông giáo thương xót và tự hứa với lòng mình sẽ quyết giữ mảnh vườn lão Hạc gửi đợi con trai lão Hạc về mà trao lại cho hắn.
Tóm tắt truyện ngắn lão Hạc của Nam Cao
1,342
Nội dung bài viết1 Tóm tắt tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 1 2 Tóm tắt tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 2 3 Tóm tắt tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 3 4 Tóm tắt tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 4 Tóm tắt tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 1 Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng Nguyên đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng phải tìm chụp bổ sung một cảnh biển buổi sáng có sương mù. Kết hợp đi thăm Đẩu-người bạn chiến đấu năm xưa giờ đang là chánh án toà án huyện- Phùng đi đến môt vùng biển miền Trung, đây từng là nơi anh đã chiến đấu thời đánh Mĩ. Phùng đã “phục kích mấy buổi sáng mà chưa chụp được bức ảnh nào. Sau gần một tuần suy nghĩ, tìm kiếm, anh quyết định chụp cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh. Phùng vô cùng mãn nguyện vì đã chụp dược một bức ảnh nghệ thuật toàn bích. Nhưng thật bất ngờ, từ chiếc thuyền thật đẹp ấy, lại bước xuống một đôi vợ chồng nhà chài thô kệch, rồi lão đàn ông dùng chiếc thắt lưng lính nguỵ thẳng tay quật vợ trong khi người vợ cam chịu, không hé răng, không né tránh. Phùng chưa kịp xông ra ngăn cản thì thằng Phác- con họ- đã lao tới giật chiếc thắt lưng, quất vào người cha để bênh mẹ. Cặp vợ chồng lại lặng lẽ trở lại thuyền. Biết Phùng đã chứng kiến sự tàn bạo của cha mình, thằng Phác đâm ra căm ghét anh. Ba hôm sau, cũng trong làn sương sớm, Phùng lại chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ, và cảnh cô chị gái tước con dao găm mà thằng em định dùng làm vũ khí để bảo vệ mẹ. Không thể nén chịu thêm được nữa, Phùng xông ra buộc lão phải chấm dứt hành động vũ phu, độc ác và bị lão đánh trả để tự vệ. Phùng bị thương và được đưa về trạm y tế của toà án huyện để điều trị Người đàn bà được mời đến và chánh án Đẩu thuyết phục chị ly hôn với người chồng vũ phu, độc ác. Nhưng cả Đẩu lẫn Phùng đều ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước sự lựa chọn dứt khoát của người đàn bà này: kiên quyết không chịu ly hôn. Theo chị , người chồng trước đây là một thanh niên cục tính nhưng hiền lành. Chỉ vì cuộc sống quá quẫn bách nên đánh vợ để giải toả nỗi uất ức, bực dọc của mình. Vả lại, gia đình họ cũng có lúc vui vẻ, nhất là lúc nhìn đàn con được ăn no. Hai người cố thuyết phục nhưng người đàn bà vẫn không hề thay đổi ý kiến. Cuối cùng họ đã hiểu ra người đàn bà ấy dù có bị đánh đập tàn bạo đến mấy vẫn cần có người chồng, cần một người đàn ông sức vóc trên thuyền để có thể ra khơi kiếm sống và nuôi đàn con đông đúc. Câu chuyện thương tâm của người đàn bà nhà chài đã khiến Phùng đi từ ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến cảm thông và thấm thía: Không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận mọi hiện tương của cuộc đời. Tóm tắt tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 2 Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung (cũng là nơi anh từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã ngạc nhiên đến sững sờ khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh người chồng vũ phu đánh đập vợ một cách dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp . . . Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng) người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người đàn bà ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ bước ra từ tấm ảnh. Tóm tắt tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 3 Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng anh đã từng tham gia chiến tranh chống Mỹ, được trưởng phòng cử xuống vùng biển để chụp ảnh biển buổi sáng . Anh đã chụp được cảnh “đắt” trời cho. Nhưng ngay lúc ấy, Phùng phát hiện ra một bức tranh khác của cuộc sống. Một người chồng đã đánh đập vợ một cách dã man và đưa con vì bênh vực cho mẹ đã lao vào đánh bố. Oái ăm thay, sự thật nghiệt ngã đó lại xuất phát từ chiếc thuyền mà chỉ vài phút trước đây, là bức ảnh trong mơ của anh. Anh kể câu chuyện với Đẩu, bạn anh, chánh án tòa án huyện. Hai người đồng ý cách giải quyết của Đẩu: khuyên li hôn. Nhưng tại tòa án huyện, khi lắng nghe lời cầu xin không bỏ chồng và lời tâm sự của người đàn bà, anh và bạn anh hiểu rằng, không phải bất cứ chuyện gì cũng có thể giải quyết bằng luật pháp. Cuối truyện Đẩu đi gặp người đàn ông đánh vợ, Phùng xuống chỗ thuyền gặp Phác. Sau đó, anh trở về phòng văn hóa, suy nghĩ về bức ảnh chụp in trong lốc lịch. * Chủ đề: Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện tấm lòng tha thiết đối với những cảnh đời, thân phận trớ trêu của con người và gửi gắm chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải luôn gắn với cuộc đời và vì cuộc đời, người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách giản đơn, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều. Tóm tắt tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 4 Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, theo lời đề nghị của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi tới một vùng biển đã từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mỹ. Sau mấy buổi sáng “phục kích”, anh đã “chộp” được một cảnh “đắt” trời cho: cảnh một chiếc thuyền ngoài xa trong làn sương sớm, đẹp như một bức tranh mực tàu. Thế nhưng ngay sau đó, Phùng lại chứng kiến một cảnh bạo lực gia đình. Những ngày sau, cảnh bạo lực đó lại tiếp diễn. Không thể nén chịu được, Phùng đã xông ra ngăn cản người đàn ông, bị lão đánh trả nên anh bị thương. Ở tòa án huyện, người đàn bà hàng chài được Đẩu- chánh án huyện -mời đến, anh khuyên người đàn bà bỏ chồng để khỏi bị hành hạ. Nhưng khi nghe câu chuyện và những lý lẽ của người đàn bà hàng chài thì Phùng và Đẩu đã vỡ lẽ ra nhiều điều. Những tấm ảnh Phùng chụp đã được chọn cho bộ lịch nghệ thuật. Mỗi lần ngắm bức ảnh ấy, Phùng lại thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai và người đàn bà hàng chài thô kệch.
Tóm tắt tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
1,423
Nội dung bài viết1 Tóm tắt tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam – Bài làm 1 2 Tóm tắt tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam – Bài làm 2 Tóm tắt tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam – Bài làm 1 Chị em Liên và An là hai đứa trẻ được mẹ giao trông coi một cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu tại một phố huyện nghèo bên cạnh ga xe lửa, để giúp gia đình vốn đã lao đao: cha mất việc, cả nhà phải bỏ Hà Nội chuyển về sinh sống ở quê. Cũng như nhiều người dân lam lũ tại phố huyện, hai chị em Liên, An vừa bán hàng vừa trông chờ chuyến tàu đêm từ Hà Nội về, ầm ầm lăn bánh qua phố huyện rồi khuất dạng, im tiếng trong trời đêm sâu thẳm. Lúc đó người buôn bán ở phố huyện mới dọn hàng sau một tối ế ẩm để trở về nhà. Còn hai đứa trẻ dần dần chìm vào giấc ngủ yên tĩnh. Tóm tắt tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam – Bài làm 2 Hai đứa trẻ là câu truyện về hai đứa trẻ Liên và An . Liên và An đã từng có một cuộc sống đầy đủ vui vẻ ở Hà Nội. Do gia đình sa sút, hai đứa trẻ phải về sống nơi phố huyện – một cuộc sống nghèo khổ, đơn diệu. Liên cảm thấy nơi đây buồn tẻ trong một buổi chiều tà nhìn thấy những đứa trẻ con đi nhặt nhạnh những đồ thừa. Chung quanh chúng là cuộc sống tàn lụi của chị Tí, bác Siêu, bác Xẩm…. Thế nhưng chừng ấy người sống trong bóng tối vẫn hy vọng cái gì đó tươi sáng hơn. Mong ước ấy vẫn được thể hiện qua thao tác chờ chuyến tàu đêm chạy qua phố huyện.
Tóm tắt tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam
312
Nội dung bài viết1 Tóm tắt tác phẩm Những đứa con trong gia đình – Bài làm 1 2 Tóm tắt tác phẩm Những đứa con trong gia đình – Bài làm 2 3 Tóm tắt tác phẩm Những đứa con trong gia đình – Bài làm 3 Tóm tắt tác phẩm Những đứa con trong gia đình – Bài làm 1 Những đứa con trong gia đình là câu chuyện kể về hai chị em Chiền và Việt, họ sống trong một gia đình chứa đựng nhiều mất mát và đau thương: cha thì bị Pháp chặt đầu hồi chín tuổi, mẹ thì vừa bị đại bác Mỹ bắn chết. Hai chị em trở thành mồ côi, cả hai đùm bọc nhau mà sống. Họ trưởng thành và cả Chiến- Việt đều tong quân dưới sự ủng hộ của Chú Năm, cả hai đều được nhập ngũ trở thành những chiến sĩ sẵn sàng ra trận chống giặc Tham gia trận đánh tại một khu rừng cao su, Việt đã không sợ hi sinh, không ngại sự ác liệt, anh dũng chiến đấu dù đã lạc mất đồng đội và đã diệt được một xe bọc thép và sáu tên lính Mỹ, nhưng anh đã bị thương nặng, một mình tại chiến trường đầy bom đạn và chết chóc. Anh lúc đó nữa tỉnh, nữa mê, nhiều lần ngất đi. Trong đầu Việt hồi tưởng lại về gia đình, về mẹ, chú Năm, chị Chiến,…những người thân yêu của anh.Lần tỉnh lại thứ tư của Việt, tuy mắt anh không thấy gì, chân tay tê cứng, đau buốt vì vết thương, nhưng niềm tin và vì phải sống,vì phải chiến đấu, Việt cố gắng lê từng tí từng tí một về phía tiếng súng của quân ta. Anh cứ chầm chậm như thế, trong đầu anh lại nhớ về ngày má mất, nhớ lại ngày cả hai chị em đăng kí tòng quân, lúc đó chị Chiến giành đi trước vì cho rằng Việt chưa tròn 18 tuổi. Nhưng đến hôm đăng kí, Việt đã nhanh nhảu ghi tên mình trước, nhưng chị Chiến cố tình bật mí chuyện Việt chưa tròn 18 tuổi. Và phải nhờ đến chú Năm đứng ra xin giúp, Việt mới được đi. Đêm trước ngày nhập ngũ, hai chị em ngồi bạn bạc mọi chuyện trong nhà, Việt nghe theo mọi sự sắp đặt của chị và thấy hình ảnh chị Chiến và lời nói sao giống má quá. Sáng hôm sau, cả hai chị em khiêng bàn thơ má sang gửi nhà chú Nam. Trong lòng Việt lúc đó cảm thấy thương chị thấy lạ. Sau ba ngày đêm sống cùng vết thương, Việt đã được đồng đội tìm thấy, được điều trị tại bệnh viện dã chiến, sức khỏe Việt ngày càng phục hồi và tốt hơn. Lúc đó, anh Tánh giục Việt viết thư kể cho chị nghe. Dù rất nhớ chị nhưng Việt không biết viết như thế nào, bắt đầu từ đâu. Và thật sự Việt cảm thấy chiến công của mình không đáng gì so với những thành tích của đơn vị và chưa thấm gì so với mong ước của má. Tóm tắt tác phẩm Những đứa con trong gia đình – Bài làm 2 Chuyện kể về hai chị em Chiến – Việt, những đứa con trong một gia đình có nhiều mất mát, đau thương: cha bị Pháp chặt đầu hồi chín năm, mẹ vừa bị đại bác Mĩ bắn chết. Khi hai chị em Chiến – Việt trưởng thành, cả hai đều giành nhau tòng quân. Nhờ sự đồng tình của chú Năm, cả hai đều được nhập ngũ và ra trận. Trong trận đánh ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt diệt được một xe bọc thép đầy Mĩ và sáu tên Mĩ lẻ nhưng anh cũng bị thương nặng, lạc đồng đội, một mình nằm lại chiến trường khi còn ngổn ngang dấu vết của đạn bom và chết chóc. Việt ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, Việt hồi tưởng về gia đình, về những người thân yêu như mẹ, chú Năm, chị Chiến… . Đoạn trích thể hiện lần tỉnh dậy thứ tư của Việt trong đêm thứ hai. Tuy mắt không nhìn thấy gì, tay chân đau buốt, tê cứng nhưng Việt vẫn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và cố gắng từng tí một lê về phía có tiếng súng của quân ta vì phía đó "là sự sống". Việt hồi tưởng lại những sự việc xảy ra từ sau ngày má mất. Cả hai chị em đều háo hức tòng quân, nhưng chị Chiến nhất định giành đi trước vì cho rằng Việt chưa đủ 18 tuổi. Đến đêm mít tin, Việt nhanh nhảu ghi tên mình trước. Chị Chiến chậm chân và "bật mí" chuyện Việt chưa đầy 18 tuổi. Nhờ chú Năm đứng ra xin giúp, Việt mới được tòng quân. Đêm hôm ấy, chị Chiến bàn bạc với Việt về mọi việc trong nhà. Việt răm rắp chấp nhận mọi sự sắp đặt của chị Chiến, vì Việt thấy chị Chiến nói giống má quá chừng. Sáng hôm sau, hai chị em khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm. Việt cảm thấy lòng mình "thương chị lạ". Sau ba ngày đêm, đơn vị đã tìm thấy Việt. Anh được đưa về điều trị tại một bệnh viện dã chiến; sức khoẻ hồi phục dần. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị kể lại chiến công của mình. Việt rất nhớ chị, muốn viết thư nhưng không biết viết như thế nào vì Việt cảm thấy chiến công của mình chưa thấm gì so với thành tích của đơn vị và mong ước của má. Tóm tắt tác phẩm Những đứa con trong gia đình – Bài làm 3 Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân trẻ. Anh xuất thân từ một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống cách mạng vẻ vang nhưng chịu nhiều tổn thất nặng nề do tội ác của Mỹ – ngụy: ông nội, bố và mẹ Việt đều bị giặc giết. Gia đình chỉ còn lại Việt, chị Chiến, thằng Út em, chú Năm và một người chị nuôi lấy chồng xa. Việt và Chiến hăng hái tòng quân giết giặc. Anh chiến đấu ngoan cường, quyết lập nhiều chiến công để cùng chị trả thù cho ba má. Trong một trận chiến đấu ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt đã diệt được một xe bọc thép của địch, nhưng anh bị thương nặng, phải nằm lại chiến trường và bị lạc đồng đội. Khắp người đau nhức nhưng Việt vẫn cố bò đi tìm đồng đội và lúc nào cũng ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Anh ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Trong những lần tỉnh lại ấy, dòng hồi ức đã đưa anh trở lại với những kỉ niệm thân thiết về người thân: kỉ niệm về má, chị Chiến, chú Năm, về đồng đội và anh Tánh, đặc biệt là kỉ niệm về đêm hai chị em xung phong tòng quân. Anh Tánh và tiểu đội đã gặp được Việt sau ba ngày tìm kiếm và đưa Việt về điều trị tại một bệnh viện dã chiến. Sức khỏe Việt dần hồi phục. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị Chiến nhưng Việt còn chần chừ vì thấy chiến công của mình chưa thấm gì với thành tích của đơn vị và chưa đáp ứng được nguyện vọng của má.
Tóm tắt tác phẩm Những đứa con trong gia đình
1,251
Nội dung bài viết1 Tóm tắt tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 1 2 Tóm tắt tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 2 3 Tóm tắt tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 3 4 Tóm tắt tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 4 5 Tóm tắt tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 5 Tóm tắt tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 1 Truyện kể về một làng ở Tây Nguyên- làng Xô Man- nằm giữa cánh rừng xà nu bạt ngàn, đang từng ngày hứng chịu những trận những trận đại bác của đồn giặc. Chuyện chính thức bắt đầu bằng việc sau ba năm đi bộ đội, Tnú trở về thăm làng Xô Man ẩn sau ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn và thấy làng mình đã trở thành làng kháng chiến, những đứa trẻ trong làng như Dít và Bé Heng đã trở thành du kích. Đêm ấy, cả làng tụ họp, Dít kiểm tra giấy phép xong, cụ Mết tự hào kể lại cho mọi người nghe trang sử đấu tranh đồng khởi của làng, gắn bó sâu sắc với cuộc đời Tnú. Cha mẹ chết sớm,Tnú được dân làng Xô Man chăm sóc và nuôi dưỡng. Hồi ấy, Mỹ- Diệm khủng bố dữ dội, nhưng làng vẫn bí mật nuôi giấu cán bộ (anh Quyết). Tuy còn nhỏ tuổi, Tnú và Mai được giao làm liên lạc cho anh Quyết, rồi được anh Quyết dạy chữ. Một lần, trong chuyến đưa thư của anh Quyết lên huyện Tnú bị giặc bắt và tra tấn dã man nhưng vẫn không khai. Ba năm sau,Tnú vượt ngục trở về thì anh Quyết đã hi sinh. Tnú cưới Mai và cùng dân làng chuẩn bị chiến đấu. Hay tin làng Xô Man chuẩn bị vũ khí chờ thời cơ nổi dậy đến tai giặc. Thằng Dục đưa lính đến lùng sục vây ráp. Cụ Mết, Tnú, cùng thanh niên lánh vào rừng. Không bắt được Tnú, bọn giặc bắt Mai với đứa con nhỏ chưa đầy tháng của hai người đánh đập dã man cho đến chết. Tnú xông ra nhưng không cứu được vợ con mà còn bị chúng bắt trói và tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay để khủng bố tinh thần dân làng. Thế nhưng,cũng ngay đêm ấy,khi Tnú bị Bắt, Cụ Mết đã dẫn thanh niên vào rừng lấy giáo mác cất giấu đem về và bất ngờ đồng loạt xông vào giết hết lũ giặc. Làng Xô Man đồng khởi thắng lợi. Tnú gia nhập Giải phóng quân. Anh dũng cảm lập chiến công, được cấp chỉ huy cho về phép thăm làng một đêm. Sáng hôm sau, Tnú lại chia tay dân làng về đơn vị. Cụ Mết và Dít tiễn Tnú. Ba người nhìn ra xa thấy đồi xà nu xanh ngút ngàn trải dài tới tận chân trời. Họ chia tay nhau ở đồi xà nu, cạnh con nước lớn. Tóm tắt tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 2 Tác phẩm viết về làng Xô Man và núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sau ba năm xa làng đi bộ đội giải phóng, Tnú trở về thăm quê, làng Xô Man bất khuất kiên cường nằm giữa rừng xà nu bạt ngàn của Tây Nguyên. Trong một buổi tối sum họp của làng, cụ Mết đã kể lại cho dân làng nghe về một trang sử bi thương mà hùng tráng của làng nó gắn với cuộc đời Tnú. Làng Xô Man trong những năm đen tối của Cách Mạng, là một căn cứ bí mật vững chắc nuôi dấu cán bộ. Lúc ấy, Tnú và Mai còn nhỏ nhưng đã góp phần tích cực vào việc chở che nuôi dấu cán bộ. Lớn lên, hai người thành vợ chồng. Tnú trở thành người lãnh đạo dân làng đánh giặc. Tin làng Xô Man “mài giáo mác chuẩn bị khởi nghĩa bay đến tai quân giặc”, chúng cho quân đến vây quét. Cụ Mết và Tnú, cùng thanh niên rút ra ngoài rừng. Giặc dùng mọi cách khủng bố uy hiếp tinh thần dân chúng. Để hòng dụ dỗ Tnú đầu hàng, chúng bắt vợ và con anh hành hạ. Núp trong rừng, chứng kiến cảnh vợ con bị đánh đập dã man, Tnú sôi sục căm thù đến mức không còn tỉnh táo được nữa, đã nhảy xổ ra chém giết lũ giặc. Nhưng anh cũng không cứu được vợ con mình. Anh bị giặc bắt trói, tẩm nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay trước mắt dân làng, hòng uy hiếp “ mộng cầm giáo mác” của họ. Tnú kiên cường, cắn răng chịu đựng không hề khuất phục. Căm thù tột độ, cả khối người đã vùng lên đánh gục kẻ thù “Cả làng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng”. Câu chuyện khép lại bằng cảnh cụ Mết và Dít tiễn đưa Tnú trở lại đơn vị ở nơi cửa rừng xà nu tràn trề sức sống vượt lên trên sự huỷ diệt của bom đạn như làng Xô Man bất khuất kiên trung. Tóm tắt tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 3 Rừng Xà Nu kể về làng Man, một làng ở Tây Nguyên, làng nằm giữa những cánh rừng Xà nu bạt ngàn, đang ngày đêm gánh chịu mưa bom, bão đạn. Và tại đó, có chàng T nú là người dân tộc S trá. T nú tham gia cách mạng. Quân. giặc biết được, bắt vợ con anh, hành hạ đánh đạp giã man để dụ anh ra. Chứng kiến cảnh vợ con cùng khổ, anh không chịu được xông ra giữa vòng vây địch để cứu Mai và con. Nhưng anh không cứu được, mẹ con Mai chết, còn anh thì bị giặc bắt đốt trụi mười đầu ngón tay. T nú được dân làng cứu thoát. T nú tìm đến quân giải phóng, tham gia chiến đấu chống lại bọn giặc. Sau ba năm, anh trở lại lành Man thăm làng vào mọi người. Đêm hôm đó, cả làng ngồi nghe cụ Mết kể lại những chiến công của T nú, chuyện anh bị địch bắt bị tra tấn nhưng vẫn kiên quyết không khai báo, chuyện anh bị đốt 10 đầu ngón tay, chuyện anh cùng làng Man nhất tề thắng bọn giặc…..nhằm giúp dân làng nâng cao tinh thần truyền thống anh hùng bất khuất. Sáng hôm sau, T nú được cụ Mết, bé Heng, Dít, tiễn anh lên đường tiếp tục đánh đuổi giặc ngoại xâm. Họ chia tay nhau ở đồi Xà nu. Tóm tắt tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 4 Sau ba năm tham gia lực lượng Giải phóng quân, Tnú trở về thăm làng. Làng Xô Man, ở Tây Nguyên, nằm giữa cánh rừng xà nu bạt ngàn, đang từng ngày hứng chịu những trận đại bác của đồn giặc. Thằng bé Heng gặp ở con nước lớn, đã dẫn đường cho Tnú. Đêm đó, cụ Mết tập trung dân làng lại và kể cho mọi người nghe trang sử đấu tranh của làng, trang sử đó gắn với cuộc đời Tnú. Hồi ấy Mỹ Diệm kéo tới làng lùng sục, khủng bố dữ dội, nhưng làng vẫn bí mật nuôi giấu cán bộ (anh Quyết). Giặc giết anh Xút, bà Nhan, Tnú và Mai đảm nhiệm việc tiếp tế và giao liên cho anh Quyết, được anh Quyết dạy chữ. Một lần, trong chuyến đưa thư của anh Quyết lên huyện, Tnú bị địch phục bắt. Chúng thẳng tay tra tấn nhưng Tnú không khai và bị chúng bỏ tù. Sau ba năm. Anh vượt ngục, trở về làng thay anh Quyết lãnh đạo buôn làng tích cực chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Tin làng Xô Man chuẩn bị vũ khí chờ thời cơ nổi dậy đến tai giặc, khi đứa con Tnú chưa đầy tháng, thằng Dục đưa lính đến lùng sục vây ráp quyết bắt kỳ được Tnú. Cụ Mết, Tnú cùng thanh niên lánh vào rừng. Bất lực, bọn giặc bắt Mai cùng với đứa con nhỏ đánh đập dã man. Từ vị trí ẩn nấp, Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị giặc hành hạ. Sôi sục căm thù, Tnú nhảy xổ vào bọn giặc và anh bị bắt. Mai và đứa con đã chết. Bọn giặc trói anh và tẩm nhựa Xà nu đốt mười đầu ngón tay anh trước mặt dân làng. Tnú kiên cường chịu đựng quyết không kêu la. Tnú thét lên một tiếng, dân làng đồng thanh, nhất tề nổi dậy, thằng Dục và tiểu đội ác ôn đã bị giết trước lưỡi mác, lưỡi rựa, của cụ Mết và thanh niên. Làng Xô Man đã đồng khởi. Tnú gia nhập Giải phóng quân. Anh dũng cảm lập chiến công, được cấp chỉ huy cho về phép thăm làng một đêm. Sáng hôm sau, Cụ Mết, Dít tiến anh lên đường. Họ chia tay nhau ở đồi xà nu, cạnh con nước lớn. Tóm tắt tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 5 – Sau 3 năm đi “lực lượng”, Tnú về thăm làng. Trên đường dẫn Tnú về làng, bé Heng kể lại những đổi thay sau khi Tnú đi vắng. Tnú chợt nhớ đến những kỉ niệm về Mai, người vợ đã bị giặc giết hại. Về đến làng, anh được mọi người đón tiếp nồng nhiệt. Trong đêm mừng Tnú trở về, bên bếp lửa nhà rông, cụ Mết- già làng- đã kể lại chuyện cuộc đời Tnú cho dân làng nghe. – Từ nhỏ, Tnú đã mồ côi bố mẹ, anh lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng XôMan. Còn bé, Tnú và Mai đã góp phần tích cực trong việc nuôi giấu cán bộ Đảng- anh Quyết. Anh Quyết dạy Tnú học chữ. Tnú học hay quên nhưng đi rừng làm liên lạc thì sáng lạ lùng. Một lần Tnú vượt thác Đắc Năng thì bị giặc bắt , bị tra tấn, bị giam vào ngục. – Tnú vượt ngục trở về làng. Anh Quyết đã hi sinh. Thực hiện lời dặn dò của anh Quyết trước lúc mất, Tnú lãnh đạo thanh niên trong làng mài giáo chuẩn bị chiến đấu. Nghe tin đó, thằng Dục dẫn một tiểu đội đến vây ráp làng. Quyết bắt cho bằng được Tnú, bọn giặc đã tra tấn mẹ con Mai đến chết. Tay không ra cứu vợ con, Tnú bị giặc bắt, bị đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa xà nu nhưng anh nghiến răng không thèm kêu van. Trước sự tàn bạo của giặc, cụ Mết đã cùng thanh niên trong làng với rựa, mác… xông ra tiêu diệt bọn giặc. Sau đó, Tnú đi “lực lượng”. – Sau đêm về thăm làng, sáng hôm sau, cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường trở về đơn vị.
Tóm tắt tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
1,851
Nội dung bài viết1 Tóm tắt tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Bài làm 1 2 Tóm tắt tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Bài làm 2 3 Tóm tắt tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Bài làm 3 4 Tóm tắt tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Bài làm 4 Tóm tắt tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Bài làm 1 Vợ nhặt là tác phẩm kể về nhân vật Tràng sống trong nạn đói năm 1945, một thời kì khủng khiếp, người chết chất đống còn người sống thì như những bóng ma. Tràng, một người nông dân nghèo, xấu xí, ế vợ lại dở hơi, làm nghề kéo xe bò thuê và nuôi một người mẹ già. Một hôm, Tràng dẫn về nhà một người phụ nữ đang lâm vào hoàn cảnh đói rách cùng đường. Tràng có vợ vô cùng đột ngột và bất ngời, chỉ từ một câu nói đùa, và bữa ăn là bốn bán bánh đúc, người phụ nữ đó đã ưng thuận theo Tràng về mà không cần bất kì cái gì. Mẹ Tràng- bà cụ Tứ và cả cái xóm ngu cư vô cùng ngặc nhiên. Bà cú Tứ đón nhận người con dâu với một tâm trạng buồn có, lo có nhưng cũng vừa vui, vừa hi vọng, chấp nhận mà không một lời trách hay tỏ thái độ chê bai người phụ nữ đó. Buổi sáng đầu tiên đón con dâu, bà cụ Tứ chuẩn bị một bữa cháo kèm theo là nồi chè cám nhưng trong đó là cả một tấm lòng của người mẹ già. Nhìn cảnh người phụ và mẹ dọn dẹp, quét tước và bữa cơm gia đình, Tràng như trở thành một người đàn ông có trách nhiệm hơn và thấy gắn bó với gia đình hơn. Tiếng trống thúc thuế vang lên, cùng lời kể về Việt Minh của vợ, trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh người người cùng nhau, kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, và lá cờ đỏ bay phất phới khắp nơi. Tóm tắt tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Bài làm 2 Chuyện kẻ về số phận của một chàng trai với cái tên là Tràng. Trong thời buổi loạn lạc, nạn đói hoành hành, đó là thời điểm của những năm 1945 đã làm hơn 2 triệu người chết, đâu đâu cũng là sự chết chóc. Trong hoàn cảnh như vậy mà chàng trai tên là Tràng lại cưới vợ ( hay nói đúng hơn là nhặt được vợ). Nhân vật Tràng ở đây được tác giả miêu tả là một anh chàng rất xấu trai, ăn nói cộc lốc, thô kệch, ấy thế mà lại lấy được vợ. Khi nghe tin anh Tràng cưới vợ thì cả xóm nơi Tràng ở đều ngạc nhiên và lo lắng cho anh, đặc biệt là mẹ của anh mà mọi người gọi “bà là bà cụ Tứ” lúc này lúc vui lúc buồn không biết tại sao? Khi con trai của Bà cưới vợ mà Bà chẳng có gì hơn ngoài lời chúc đến vợ chồng anh là hãy sống tốt. Bữa cơm ăn mừng cho sự xuất hiện của nàng dâu mới, Bà cụ kể toàn những chuyện vui, Bà hy vọng rằng tương lai của hai dứa con mình sẽ tươi sáng, với “nồi chè khoán” do chính tay Bà nấu, tuy chát đắng nhưng thể hiện được sự quan tâm của Bà tới hạnh phúc của con. Đang trong cuộc vui của gia đình mừng nàng dâu mới thì có tiếng trống thúc thuế dồn dập, trong đầu Tràng nghĩ tới lá cờ Việt Nam bay phất phơ và cùng nhiều người đi cướp kho thóc của giặc để chia cho dân nghèo. Đó là tinh thần đoàn kết của người dân cùng khổ trong chiến tranh và họ vẵn luôn hy vọng rằng sẽ có một tương lai tươi sáng hơn đang chờ đón họ phía trước. Tóm tắt tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Bài làm 3 Năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra lan tràn khắp nơi trên cả nước, người chết như rạ, người sống cũng dật dờ như những bóng ma. Tràng là chàng trai xấu xí thô kệch, ế vợ, Tràng sống ở xóm ngụ cư. Anh làm nghề kéo xe bò thuê và sống cùng người mẹ già. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh Tràng đã quen với môt cô gái. Vài ngày sau gặp lại, Tràng không còn nhận ra cô gái ấy, bởi vẻ tiều tụy, đói rách làm cô đã khác đi rất nhiều. Tràng đã mời cô gái một bữa ăn, cô gái liền ăn một lúc bốn bát bánh đúc. Sau một câu nói nửa thật, nửa đùa, cô gái đã theo anh về nhà làm vợ. Việc Tràng nhặt được vợ đã làm cả xóm ngu cư ngạc nhiên, nhất là bà Cụ Tứ ( mẹ của Tràng) cũng không nổi bàng hoàng ngạc nhiên và lo lắng nhưng rồi bà cụ cũng đã hiểu ra và chấp nhận người con dâu ấy. Trong bữa cơm” đón nàng dâu mới, họ chỉ với một bữa cháo kèm theo là nồi cháo cám bà cụ tứ dành cho nàng dâu nhân bữa cơm đón nàng dâu mới với tấm lòng độ lượng, bao dung. Tác phẩm kết thúc ở chi tiết vào buổi sáng hôm sau tiếng trống thúc thuế dồn dập, quạ đen bay vù như mây đen. Thị nói về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật và Tràng nhớ lại hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới hôm nào. Tóm tắt tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân – Bài làm 4 Truyện kể về chuyện nhặt vợ của Tràng giữa những ngày tao loạn, thảm khốc thê lương bởi nạn đói: – Tràng là một người lao động nghèo, xấu trai, ở xóm ngụ cư, chỉ nhờ 4 bát bánh đúc và một vài câu nói đùa mà anh nhặt được vợ. – Anh đưa người vợ về nhà để ra mắt người mẹ già cơ cực. Bà cụ Tứ sau phút ngỡ ngàng, lo lắng, buồn tủi đã chấp nhận người con dâu với lòng thương cảm. – Ngay sáng đầu tiên Tràng có vợ, bà cụ Tứ cùng con dâu dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng, Trước cảnh ấy, Tràng đã cảm động và thấy gắn bó, có trách nhiệm với ngôi nhà của mình. – Giữa tiếng khóc hờ của những gia đình có người chết, tiếng trống thúc thuế nhưng trong bữa cơm ngày đói cả gia đình vẫn nhen nhúm lên một tia hi vọng cuộc đời sẽ đổi khác, trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới.
Tóm tắt tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân
1,131
Tóm tắt văn bản Hai cây phong Làng Ku-ku-rêu nằm ven chân núi , một cao nguyên , phía dưới là thung lũng Vàng. Phía trên làng , giữa một ngọn đồi , hai cây phong to lớn , hai cây phong hùng vĩ như những ngọn hải đăng trên núi , như biểu tượng của tiếng nói riêng , như tâm hồn riêng của làng . Vào năm học cuối , bọn trẻ chạy ào lên đấy phá tổ chim , leo lên hai cây phong cao vút để thấy hiện ra trước mắt chúng biết bao vùng đất chưa từng biết và những con sông chưa từng nghe . Thuở ấy , nhân vât "tôi" chỉ cảm nhận sự gắn bó tuổi thơ mình với hai cây phong , tìm đến nó để tìm đến âm thanh kì diệu , những kí ức gắn liền suốt tuổi thơ , và " tôi " cũng ko biết vì sao ở đó được gọi là " Trường Đuy-sen" . Tình cảm yêu mến hai cây phong của “tôi”, của “chúng tôi”, của những người dân làng Ku-ku-rêu khiến chúng ta trân trọng chính là vì hai cây phong ấy gắn với câu chuyện về một con người cao đẹp, người thầy giáo không có bằng sư phạm nhưng đã vun trồng bao ước mơ, hi vọng cho những trò nhỏ của mình.
Tóm tắt văn bản Hai cây phong
228
Nội dung bài viết1 Tóm tắt đoạn trích chiến thắng Mtao Mxây – Bài làm 1 2 Tóm tắt đoạn trích chiến thắng Mtao Mxây – Bài làm 2 Tóm tắt đoạn trích chiến thắng Mtao Mxây – Bài làm 1 Đam Săn kéo quân đến tận làng Mtao Mxây. Sau khi chúng phá tan hàng rào sắt, Đam Săn gọi Mtao Mxây thách đấu. Mtao Mxây bảo là hắn "đang còn bận ôm vú vợ hai chúng ta". Đăm Săn nói nếu ngươi không muốn thì ta sẽ bổ đôi cái sàn hiên, chẻ cái cầu thang ra kéo lửa, hun cái nhà của ngươi cho mà xem. Mtao Mxây lại sở Đam Săn đâm khi đang xuống cầu thang, nhưng Đam Săn đã bảo con lợn nái của nhà ngươi ở dưới đất con trâu của nhà ngươi ở trong chuồng, ta không thèm đâm thì sao ta lại đâm ngươi khi đang xuống nhỉ. Mtao đi ra với cái khiên tròn như đầu cú, gươm óng ánh như cái cầu vồng, đóng một cái khố sọc gấp bỏ múi, mặc một cái áo dày nút. Hắn dữ tợn như một vị thần. Nhưng hắn tần ngần do dự mỗi bước đắn đo. Đăm Săn và Mtao Mxây thách nhau múa khiên. Mtao Mxây múa trước, khiên kêu lạch xạch như quả mướp khô. Nghe Đăm Săn hỏi miếng múa ấy ngươi học ai vậy, thì Mtao Mxây bảo là đã học cậu, học bác, học Thần Rông; ta là một tướng đã quen đi đánh thiên hạ, bắt tù binh, đã quen đi xéo nát đất đai thiên hạ thế nhà ngươi không biết hay sao? Đăm San rung khiên múa, xốc tới vượt một đồi tranh, vượt một đồi lô ô, vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây. Mtao Mxây bước cao bước thấp chạy đuổi theo hết bãi tây sang bãi đông, rồi vung dao chém phập một cái nhưng chỉ trúng cái chão cột trâu. Hơ Nhị quăng cho hắn một miếng trầu nhưng bị Đăm Săn cướp mất. Đam Săn nhai trầu, sức chàng tăng lên gấp bội. Đăm Săn múa khiên, chàng mùa trên cao như gió bão, chàng múa dưới thấp vang lên tiếng đĩa khiên đồng, chàng múa chạy nước kiệu, ba quả núi rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ tung bay. Đam Săn thấm mệt, vừa chảy vừa ngủ, mộng thấy ông Trời. Nghe Trời bảo, Đam Săn lấy cái chày mòn ném trúng vành tai của kẻ địch. Mtao Mxây bỏ chạy, quanh chuồng lợn, chuồng trâu. Bị Đam Săn đuổi đánh, cuối cùng hắn ngã lăn quay ra đất. Đam San đâm phập một cái, cắt đầu Mtao Mxây đem bêu ngoài đường. Như nghìn chim sẻ, vạn chim ngói, cả dân làng Mtao Mxây đi theo Đam Săn. Đoàn quân kéo về đông như bầy cà tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiến như mối. Tôi tớ mang theo của cải về nhiều như ong đi chuyển nước, vò vẽ đi chuyển hoa. Đam Săn thêm giàu có, chiêng lắm la nhiều. Đam Săn truyền lệnh giết bảy trâu, mổ bảy lợn thiến, đem bảy chén rượu để dâng thần, để cầu được bình yên. Tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng chũm chọe vang lên. Thịt trâu, thì bò treo đen nhà. Nhà Đam Săn đông nghịt khách; các tù trưởng từ xa đến. Tiệc tùng linh đình suốt cả mùa khô. Danh tiếng Đam Săn vang đến thần, lừng khắp núi, một tù trưởng đầu đội khăn nhiễu, vai mang nải hoa, đánh đâu đập tan đó, vây đâu phá nát đó. Tóm tắt đoạn trích chiến thắng Mtao Mxây – Bài làm 2 Trong khi Đăm Săn cùng nô lệ lên rấy,Mtao Mxây đã đến nhà chàng và bắt Hơ Nhị về làm vợ.Đăm Săn đến nhà Mtao Mxây để đòi lại vợ của mình.Chàng thách hắn đọ dao nhưng hắn từ chối với vẻ sợ hãi và hèn nhát.Chàng dọa sẽ đốt nhà hắn thì hắn mới chịu xuống.Mtao Mxây cầm một cái khiên tròn như đầu cú,gươn hắn óng ánh như một cái cầu vồng,trông hắn thật dữ tơn.Đăm Săn đứng yên xem Mtao Mxay múa.Hăn rung cái khien lên thì khiên hắn kêu lạch xạch như quả mướp khô.Đến lượt Đăm Săn múa,một lần sốc tới,chàng vượt một đồi tranh,một lần sốc tới nữa,chàng vượt một đồi lồ ô.Chàng chạy vun vút qua phía Đông,vun vút qua phía Tây.Còn Mtao Mxay bước cao bước thấp chạy hết bãi Tây sang bãi Đông.Hăn vung dao chém Đăm Săn nhưng chỉ trúng cái chão cột trâu.Hăn bảo Hơ Nhị quăng cho hắn miếng trầu nhưng Đăm Săn đón được. Chàng nhai trầu và sức lực của chàng tăng lên gấp bội.Đăm Săn lại múa.Chàng múa trên cao gió như bão,múa dưới thâp cây cối chết rụi.3 lần quả núi rạn nứt,3 lần đồi tranh bật rễ tung bay.Chang đâm Mtao Mxay trúng nhưng không thủng được áo giáp của hắn.Chàng được ông Trời chỉ cho cách thắng Mtao Mxay.Đăm Săn lấy một cái chày mòn ném trúng vành tai của kẻ đichk.Mtao Mxay lăn đùng ra đất.Đăm Săn cắt đầu của hán đem bêu ra ngoài đường.Chàng kêu gọi tôi tớ của Mtao Mxay theo mình trở về.Đoàn ngươif đông như bày cà tong,mang theo rất nhiều của cải về như vò vẽ đi chuyển hoa.Đăm Săn trỏ về trong chiến thắng tưng bừng.Tiệc mừng của Đăm Săn kéo dài suốt tận mua khô và danh tiếng của chàng thì vang đến cả thần linh.
Tóm tắt đoạn trích chiến thắng Mtao Mxây
924
Nội dung bài viết1 Tóm tắt đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió trích Đôn Ki-hô-tê của Xéc-van-téc – Bài làm 1 2 Tóm tắt đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió trích Đôn Ki-hô-lê của Xéc-van-téc – Bài làm 2 3 Tóm tắt đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió trích Đôn Ki-hô-lê của Xéc-van-téc – Bài làm 2 4 Tóm tắt đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió trích Đôn Ki-hô-lê của Xéc-van-téc – Bài làm 3 Tóm tắt đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió trích Đôn Ki-hô-tê của Xéc-van-téc – Bài làm 1 Hai thầy trò Đôn Ki-hô-tê và Xan-chô đang trên đường đi tìm những chiến công thì chợt phát hiện thấy ba bốn chục chiếc cối xay gió giữa đồng. Đôn Ki-hô-tê liền chỉ cho người giám mã của mình thấy rằng đó là những tên khổng lồ và bày tỏ ý định giao chiến. Xan-chô biết ông chủ của mình nhầm đã hết sức can ngăn nhưng không thành. Đôn Ki-hô-tê hăng hái cầm giáo, thúc con ngựa gầy gò lao vào. Bỗng lúc đó gió nổi lên, cối xay gió bắt đầu chuyển động và Đôn Ki-hô-tê ngã lăn kềnh. Giáo gãy, ngựa và người văng ra, Đôn Ki-hô-tê bị đau như trời giáng. Nhưng dẫu bị thương rất nặng như thế, anh chàng hiệp sĩ mộng mơ vẫn quyết không kêu đau vì nghĩ rằng: "các hiệp sĩ giang hồ có bị thương thế nào cũng không được rên rỉ". Đã vậy, chàng còn kiên quyết không ăn uống, chỉ nghĩ đến tình nương đã đủ no rồi! Xan -chô thấy vậy bèn bỏ rượu thịt ra đánh chén no nê một mình. Bác giám mã cảm thấy cái nghề đi tìm kiếm chuyện phiêu lưu này kể ra cũng chẳng vất vả gì. Đôn Ki-hô-tê suốt đêm không ngủ và chỉ tiếp tục miên man nghĩ đến tình nương. Hôm sau, hai thầy trò đi về phía cảng La-pi-xê, vì Đôn Ki-hô-tê nghĩ: "con đường này có lắm người qua lại chẳng thể nào không gặp nhiều chuyện phiêu lưu khác nhau". Tóm tắt đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió trích Đôn Ki-hô-lê của Xéc-van-téc – Bài làm 2 Đôn-ki-hô-tê là một lão quý tộc nghèo vì quá say mê truyện hiệp sĩ nên muốn trở thành hiệp sĩ giang hồ, cùng đi với lão là giám mã Xan-chô-pan-xa. Một lần, hai thầy trò đi trên một cánh đồng. Đôn-ki-hô-tê nhìn thấy ba bốn chục chiếc cối xay gió lại tưởng là ba bốn chục tên khổng lồ. Lão thúc ngựa Rô-xi-nan-tê xông lên chẳng thèm để ý đến giám mã Xan-chô-pan-xa đang hét bảo lão đừng xông vào đánh nhau với cối xay gió. Gió thổi mạnh làm cánh quạt quay kéo theo ngựa và người lão văng ra xa. Xan-chô-pan-xa thúc lừa đến đỡ Đôn-ki-hô-tê. Tuy vậy, dù đau đến cỡ nào nhưng lão cũng không rên rỉ, không ăn uống gì và đêm đến thì thức trắng vì nghĩ đến tình nương. Còn Xan-chi-pan-xa hơi đau một tí là rên rỉ, ăn ngon lành vừa đi vừa chè chén, đêm đến, bác lăn ra ngủ một mạch đến sáng. Tóm tắt đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió trích Đôn Ki-hô-lê của Xéc-van-téc – Bài làm 2 Đôn Ki-hô-te mong muốn trở thành hiệp sĩ nên đã cùng Xan-chô Pan-xa đi phiêu lưu khắp nơi, trừ gian diệt ác.Trên đường đi,đến cánh đồng Môn–ti–en, hai thầy trò gặp những chiếc cối xay gió.Mặc cho Xan- chô khuyên can, xong Đôn –ki-hô -tê vẫn cho rằng trước mặt là những tên khổng lồ xấu xa. Đôn –ki –hô -tê lăm lăm ngọn giáo, cầu xin tình nương trợ giúp, một mình một ngựa xông vào chiếc cối xay gió gần nhất, phóng giáo đâm vào cánh quạt. vừa lúc gió nổi lên, cánh quạt hất chàng hiệp sĩ ngã lộn xuống đất, ngọn giáo gẫy tan tành. Xan- cho chạy đến cứu chủ. Đôn–ki-hô -tê rất đau nhưng không hé răng kêu ca vì sách viết rằng không được phép rên la. Đôn ki-hô -tê giải thhích lí do bại trận của mình là do pháp sư Phơ-re-xtôn thù nghịch gây ra nhưng vẫn tự tin mình sẽ chiến thắng. Hai thầy trò tiếp tục lên đường tìm kiếm những cuộc phiêu lưu mới. Tóm tắt đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió trích Đôn Ki-hô-lê của Xéc-van-téc – Bài làm 3 Trên đường đi tìm những chiến công mới, hai người gặp những chiếc cối xay gió, Đôn Ki-hô-tê tưởng rằng chúng là những tên khổng lồ một mắt nên xông vào đánh, Xan-chô Pan-xa chỉ dám đứng ngoài can ngăn. Kết quả Đôn Ki-hô-tê bị thương nhưng ko kêu la gì cả. Suốt đường đi, Xan-chô Pan-xa ăn uống no say, Đôn Ki-hô-tê không ăn gì cả. Tối hôm đó, Xan-chô Pan-xa ngủ say còn Đôn Ki-hô-tê không ngủ để nghĩ đến tình nương của mình. Sáng hôm sau, hai người tiếp tục cuộc hành trình.
Tóm tắt đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió trích Đôn Ki-hô-tê của Xéc-van-téc
833
Nội dung bài viết1 Tôi thấy mình đã khôn lớn – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Nguyên 2 Tôi thấy mình đã khôn lớn – Bài làm 2 3 Tôi thấy mình đã khôn lớn – Bài làm 3 Tôi thấy mình đã khôn lớn – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Nguyên Trong cuộc sống,bất cứ ai trưởng thành cũng đều trải qua tuổi ấu thơ,tôi cũng không ngoại lệ. Ngày ấy tôi thật hạnh phúc , may mắn khi được sống trong một gia đình ấm êm, dược cha mẹ yêu thương , hạng phúc tràn đầy.Và bây giờ, cho đến năm nay, mười ba tuổi tôi đã có thể làm được nhiều việc. Tôi thấy mình đã khôn lớn. Hằng năm, mỗi khi đi học tôi thường được ba mẹ chở đến trường.Thế nhưng năm nay tôi đã tự đạp xe đến trường. Ngày ngày, tôi cùng ”anh chàng” Martin do ba tặng nhân dịp sinh nhật tôi tròn mười ba tuổi đến trường.hai niên học trước, con đường từ nhà đến trường rất quen khi tôi ngồi trên chiếc xe máy để ba chở đi học . Ngược lại niên học này đối với tôi,cảnh vật hai bên đường thay đổi đến lạ thường . Một mình trên chiếc xe đạp đợi chờ một cơn gió nhẹ hôn thoáng qua đôi má và để lại cảm giác mát mẻ của ngày nắng. Tôi thích nhất mỗi khi trời đổ mưa, được đạp xe dưới những giọt nước trời, hơn nữa những hạt mưa hắt vào mặt.Mỗi lần như thế tôi thấy đôi chân mình săn chắc hơn. Trước đây ba chở, xe lao nhanh về phía trước không có được giây phút ngắm nhìn cảnh vật. Thành phố nơi tôi ở, thành phố công nghiệp, nhịp sống rất nhộn nhịp mỗi khi học sinh tan học, hoặc công nhân ra về.Lúc đó con đường chíng dẫn vào thành phố, dòng người xe cộ nườm nượp , ngược xuôi. Từ trên cao nhìn xuống họ như lũ kiến vỡ tổ bò loạn xạ, không còn làm tôi e ngại như trước nữa. Thời gian theo ngày tháng trôi qua, tôi thấy mình như hòa vào nhịp sống thành phố. Hơn nữa là tôi lại thấy mình đã lớn hơn trong suy nghĩ lẫn hành động. Mỗi buổi sáng thức dậy , không còn để mẹ đánh thức dậy mà tự biết xuống giường tự xếp mùng mền gọn gàng, và phụ mẹ bữa ăn sáng. Sau khi ăn sáng tôi tự biết rửa chén bát của mình. Ngày đó, khi chuẩn bị đến lớp, tôi thường xuyên quên dụng cụ học tập vì sau khi hoc xong tôi lên giường ngủ ngay. Còn bây giờ, mỗi ngày sau khi học xong tôi cẩn thận xem thời khóa biểu và soạn sách vở vào cặp. Đầu niên học năm nay, tôi chẳng còn quên hay bị ba mẹ nhắc nhở.Nhiều lần bạn bè trong lớp rủ tôi đi chơi.Tôi mạnh dạn từ chối.Vì tôi sợ bị mất bài hôm nay, sẽ dẫn đến không hiểu bài. Hơn nữa là, ba mẹ buồn, thầy cô trách mắng, tôi đã chiến thắng bản thân.Tôi dần nhận thấy mình có nhiều thay đổi từ biết sắp xếp giờ học, không vội vã,cẩn thận với mọi việc làm có trách nhiệm.Trong sinh hoạt hằng ngày ngại làm phiền ba mẹ, anh chị. Từng ngày trôi qua tôi biết quan tâm đến người thân. Tôi biết dạy em học; biết đọc báo cho ông bà nghe; và chia sẻ với mọi người mỗi khi họ có niềm vui và nỗi buồn. Theo dòng thời gian tôi thấy mình khôn lớn hơn. Tin vào bản thân và gia đình, nghĩ về tương lai về nghề nghiệp vững chắc. Ước mong giúp ích cho gia đình và xã hội. Hơn hết là được cống hiến cho đất nước. Tôi thấy mình đã khôn lớn – Bài làm 2 Gần đây, có một sự kiện đã làm thay đổi con người và suy nghĩ của tôi. Tôi tự thấy mình đã khôn lớn. Dạo này, tôi thấy mình rất lạ: Tôi hay soi gương và nhìn chăm chú cái thằng tôi trong gương – việc mà trước đây tôi chúa ghét và cho rằng chỉ có bọn con gái mới điệu đàng trước gương như thế. Ôi chao, sao mà trông tôi lạ thế! Những hàng ria mép không mong đợi xuất hiện lún phún đen mướt xung quanh miệng tôi. Những cái mụn trứng cá cứ thi nhau nở rộ. Còn nữa, giọng nói của tôi vỡ ra ồm ồm như là vịt đực. Tôi cao phỏng phao lên, bộ đồng phục mẹ mua cho đầu năm lớp bảy đã ngắn và chật. Tôi đã ra dáng một chàng trai. Tôi nhận ra mình đã lớn. Tôi rất vui sướng và tự hào về điều này. Những lúc bố đi công tác vắng nhà tôi đã có thể giúp mẹ những việc nặng nhọc của đàn ông “sức dài vai rộng”: khi thì leo lên m ắc giúp mẹ cái bóng đèn, lúc thì dịch chuyển cái tủ đi nơi khác theo ý của mẹ. Những lúc đứng cạnh mẹ tôi phát hiện mình đã cao hơn mẹ và trong tôi có một cảm giác rất lạ: ước ao được chở che, bảo vệ cho mẹ. Tôi thủ thỉ điều này với mẹ, mẹ âu yếm nhìn tôi vì tôi đã “thỏa thuận” với mẹ là tôi đã lớn và mẹ đừng ôm ấp vuốt ve như lúc tôi còn bé và nói: “Ôi chàng trai của mẹ, con đã lớn thật rồi”. Còn bố đối xử với tôi cũng khác hơn xưa, bố con tôi hay ngồi tranh luận về đề tài thể thao, thời sự, sôi nổi. Bố còn nói với tôi về những vấn đề thật tế nhị, “rất đàn ông”. Bố bảo: “Con đã lớn, sắp là chàng trai rồi phải hiểu biết nhiều hơn”. Những vấn đề lớn của gia đình như mua sắm một món đồ đắt tiền, hay chọn thời điểm sửa chữa lại căn nhà,bố mẹ cũng cho tôi tham gia ý kiến. Còn nhiều việc về cá nhân bố cũng để cho tôi tự quyết định. Bố bảo để tôi tập làm quen với những quyết định và học cách chịu trách nhiệm về nó. Tôi nhận thấy mình đã lớn qua việc phục vụ cho cá nhân. Tôi còn nhớ, trước đây, tất cả sinh hoạt cá nhân của mình tôi phải nhờ mẹ làm hoặc nhắc nhở. Buổi sáng mẹ phải gọi tôi năm bảy lần tôi mới dậy. Mẹ hay than phiền: “Sao gọi con thức giấc giống người ta gọi đò quá!”. Tôi nhớ có lần bố giận quá phải quất roi vào mông tôi mới chịu dậy. Còn việc học của tôi thì ba mẹ phải kiêm luôn là “gia sư” của tôi. Bố mẹ phải theo dõi lịch học, thi, kiểm tra để nhắc nhở tôi. Bây giờ nhớ lại tôi thấy thật xấu hổ. Tôi bây giờ như một người hoàn toàn khác. Sinh hoạt rất ngăn nắp và có giờ giấc. Từ việc học đến các sinh hoạt cá nhân tôi đều sắp xếp thời gian biểu hợp lí và thực hiện rất nghiêm túc. Chủ nhật vừa rồi bố mẹ có việc về quê đột xuất và phải sáng thứ hai mới về. Trước khi đi, bố mẹ dặn dò tôi rất tỉ mỉ: “Bố mẹ về quê có việc hai ngày mới lên. Con ở nhà trông nhà cẩn thận. Đưa đón em đi học, lo cho em ăn uống đàng hoàng. Thức ăn có sẵn trong tủ. Mẹ sẽ thường xuyên gọi điện thoại về cho con. Nếu có việc gì bất ổn con gọi điện thoại cho ba mẹ hoặc chạy qua nhờ bác Liên hàng xóm nhé”. Bố mẹ tôi chưa bao giờ vắng nhà qua đêm để anh em tôi ở nhà một mình mà không có người lớn. Có lẽ những biểu hiện gần đây của tôi đã khiến bố mẹ tôi yên tâm chăng? Bố mẹ ra khỏi nhà tôi bắt đầu thực hiện vai trò là người “chủ gia đình bất đắc dĩ” của mình. Việc đầu tiên tôi gọi cô em gái đang học lớp bốn của mình dậy, nhắc em làm vệ sinh cá nhân và đi mua đồ ăn sáng cho hai anh em. Sau đó, tôi lau dọn nhà cửa, dạy em học và tranh thủ ôn bài chuẩn bị cho buổi học đầu tuần. Buổi trưa, tôi cũng bắt chước mẹ làm bếp, bữa cơm của hai anh em khi mẹ vắng nhà cũng ổn dù không được ngon như mẹ nấu (dĩ nhiên rồi). Buổi chiều cũng trôi qua êm xuôi. Buổi tối mới đáng lo. Anh em tôi chưa bao giờ phải ngủ một mình không có người lớn. Căn nhà vốn đã rộng, đêm bố mẹ vắng nhà càng như rộng hơn. Tôi đóng tất cả cửa lớn nhỏ một cách cẩn thận và trong lòng cũng sợ lắm, không biết cụ thể là sợ điều gì (bóng tối, sợ ma, trộm…)? Nhưng bạn có biết tôi phải gồng mình lên ra vẻ can đảm để trấn tĩnh tinh thần cô em gái vốn nhút nhát của mình. Một đêm không mong đợi với nhiều nỗi lo sợ rồi cũng trôi qua bình yên. Sáng hôm sau tôi thức em dậy sớm, hai anh em ăn sáng rồi cùng đến trường. Buổi trưa về đã thấy bố mẹ ở trong nhà. Tôi nhận ra chưa bao giờ mình lại mong ba mẹ về đến thế. Sau khi hỏi han mọi việc, bố xoa đầu tôi nói: “Vậy là con trai của bố đã lớn khôn rồi đấy”. Mẹ nhìn tôi âu yếm đầy vẻ tự hào. Tôi thấy mình đã khôn lớn – Bài làm 3 Để chuẩn bị cho ngày kiểm tra chất lượng đầu năm học, hôm nay, mẹ bảo em: "Con ạ, đã gần đến ngày kiểm tra rồi, con soạn lại góc học tập cho chu đáo đi con ạ! Con gái của mẹ đã lớn rồi! Năm nay con thử sắp xếp một mình xem sao!" Nghe lời mẹ, em hí hoáy bắt tay vào soạn cặp, chợt rơi ra một tấm ảnh cũ của em năm lớp năm! Nhìn tấm ảnh, em ngạc nhiên vô cùng. Trời ơi, bây giờ em đã khác xưa nhiều quá, bồi hồi, em ngồi trước gương soi để so sánh mình bây giờ và mình ngày xưa ấy! Nhớ năm học lớp năm, em còn là một cô bé đang sún vì thay răng sữa, mà răng mới không kịp mọc, vẫn phải đi chụp hình gấp để làm hồ sơ chuẩn bị thi tốt nghiệp cấp một. Tấm ảnh trên tay em là một cô bé có đôi mắt ngơ ngác rụt rè, pha chút ngái ngủ hay sượng sùng. Mái tóc ngắn ôm lấy hai má bầu bĩnh, trông em hệt như búp bê nhà trẻ! Mà thật sự hôm đi chụp hình ấy, em cứ lúng túng không biết làm cách nào để che đi cái răng sún, trong khi tính em lại hay cười. Lúc ấy mỉm môi lại thì cũng không được, cuối cùng… là một tấm ảnh ngộ nghĩnh này đây! Thế mà bây giờ trong gương lại hiện ra một cô gái trẻ, mái tóc buông dài, bóng mướt, đôi môi hồng hồng vểnh lên như sắp cười với mọi người, làm cho mỗi lần gặp ai xa lạ, em lại phải mím môi lại cho có vẻ thật nghiêm trang! Đã vậy, tay chân em vụt dài ra, làm cho đôi khi bước chân em cứ có cảm giác như là sắp ngã. Quần áo thì hệt như chú bé làng Gióng, mỗi cái áo mẹ mới may cho, em mặc chỉ được vài tháng đã sứt chỉ vị chật chội. Đang ngồi nghĩ ngợi mông lung thì tiếng chuông điện thoại reo vang, mẹ am nhấc máy lên nghe, rồi nói: – Con ơi, cô chủ nhiệm muốn gặp con bàn công tác đấy, con ạ! Em bồi hồi cầm điện thoại từ tay mẹ trao lại. Cô nói: – "Ngọc ạ! Cô rất tin tưởng em về sức học, tính cách tự chủ, tính kỉ luật và lòng nhiệt tình công tác, giúp bạn. Vậy em hãy cố gắng giúp bạn Loan vượt qua kì ôn tập này, em nhé! Loan hiện nay cũng còn chưa khỏe sau khi cắt ruột thừa, em ạ! Nếu em đồng ý nhận công tác này, cô cũng xin phép mẹ, cho em về học trễ, mỗi ngày 30 phút trong tuần tới, em nhé! Trước niềm tin tưởng của cô, em cảm động nói: – Vâng ạ, em sẽ giúp bạn hết lòng, để không phụ lòng tin tưởng của cô! Sau khi nhận lời, cô dặn dò em vài điều nữa rồi mới bảo em: "Cô cần gặp mẹ để trao đổi thêm!" Nói xong, cô bảo em trao điện thoại cho mẹ, em chuyển máy cho mẹ mà thấy lòng mình vui sướng vô cùng khi nhận được sự tin tưởng của cô giáo chủ nhiệm. Mẹ em trò chuyện với cô xong, lại gần bên em vuốt tóc em nói: – Đấy! Con đã lớn rồi, cô giáo giao cho con công tác là một vinh dự, và cũng là thử thách đấy! Hãy cố gắng lên, con nhé! Em vui vẻ cúi xuống "dạ" một tiếng rồi chẩy sân, sao mà cuộc sống tươi đẹp và đầy bí ẩn bất ngờ thế nhỉ! Loay hoay, đôi chân em đi nhầm một chiếc giày của mẹ, làm cho đôi chân em khập khiễng thật buồn cười!
Tôi thấy mình đã khôn lớn – Văn mẫu lớp 8
2,297
Chủ nhật vừa rồi em cùng với bố mẹ về quê thăm bà ngoại. Đó là nơi có cánh đồng lúa xanh mướt, chỉ ngửi thôi, cũng đã thấy dễ chịu vô cùng. Sau một thời gian thi cử mệt mỏi, cuối cùng em cũng đã được xả hơi. Quê ngoại là nơi em luôn mong được về chơi. Em rất nhớ ngoại, nhớ anh chị , cô chú ở đó. Quê ngoại em là một miền quê yên bình, tĩnh lặng , không ồn ào như thành phố Hà Nội. Suốt chặng đường đi, em luôn háo hức, mong chờ. Cũng lâu lắm rồi em mới được về thăm ngoại. Hai bên đường về nhà ngoại lúa xanh mướt, thoang thoảng mùi thơm của lúa lúc trổ đòng! Xa xa là bóng hình những chú bò, trâu đang chăm chỉ gặm cỏ. Các chú rất khoái món cỏ bởi cỏ cũng xanh và "ngon" như lúa vậy! Các bác nông dân đang ngồi nghỉ bên bờ, ai cũng nở nụ cười rất tươi dù trên trán vẫn lấm tấm những giọt mồ hôi. Gặp ai bố em cũng chào rất nhiệt tình. Mọi người dường như đều là người quê, người làng người nước nên thân thiết ghê! Về tới nhà ngoại, em đã thấy ngoại đón sẵn ở cổng. Ngoại lo em và bố mẹ mệt nên chuẩn bị sẵn chiếc chiếu ngoài hiên để cả nhà ngồi nghỉ. Nhưng em không thấy mệt tí nào, dù đường có hơi xa một chút, em vẫn cảm thấy "sung sức" lắm! Nhìn ngoại ngày một già đi, em thương ngoại lắm! Mái tóc ngoại bạc hết rồi, chỉ còn lưa thưa vài sợi đen. Ngoại vuốt tóc em, hỏi em súc khoẻ, học tập và dặn dò em rất ân cần. Nghỉ một lát, em vội phụ ngoại ra vườn hái hoa quả. Chà, vườn nhà ngoại nhiều quả tươi ngon ghê! Nào là na, nào là ổi, là khế,….. Rất nhiều quả cho em lựa chọn. Em phụ ngoại hái mỗi loại một ít đem về ăn. Quả do tay ngoại trồng có khác. Ngon và mát vô cùng! Ngoại có nuôi một chú mèo rất dễ thương. Em chơi với chú mãi mà không thấy chán. Buổi tối em phụ ngoại nhặt rau nấu cơm. Bữa cơm tối hôm đó, cả nhà em quây quần bên nhau. Thấy ngoại cười hạnh phúc, lòng em cũng tràn ngập xúc động. Em thương ngoại lắm, năn nỉ ngoại lên ở cùng gia đình mà không được. Ngoại nói ngoại ở quê quen rồi, ngoại không muốn đi ở nơi khác. Hôm sau tạm biệt ngoại mà trong lòng em buồn rười rượi. Chỉ mong hè tới thật nhanh để em có thể về thăm ngoại được lâu hơn.
Tưởng tượng và kể về một chuyến thăm quê
463
Nội dung bài viết1 Tả anh trai yêu quý của em – Bài làm 1 2 Tả anh trai yêu quý của em – Bài làm 2 3 Tả anh trai yêu quý của em – Bài làm 3 Tả anh trai yêu quý của em – Bài làm 1 Anh Lợi là học sinh lớp 9 Trường Trung học cơ sở Yên Hoà. Năm nay anh 15 tuổi, anh ăn rất khoẻ, học rất chăm. Mẹ em hay đùa: ‘‘Nhà ta có ông Trạng Cơm”. Anh chỉ cười khì. Tóc anh cắt ngắn, vầng trán cao, cặp mắt đen lay láy, lúc nào cũng mở to. Anh có nước da trắng hồng, rất đẹp. Anh ham đọc sách, rất giỏi Toán và giỏi Tiếng Anh. Tủ sách của anh có hơn 200 quyển, anh xếp cẩn thận, giữ gìn, nâng niu từng cuốn một. Anh đang tích cực học và ỏn luyện để thi vào lớp 10 chuyên Toán trường Trung học phổ thông Chu Văn An. Tối nào anh cũng học đến 11 giờ. Sáng nào anh cũng dậy lúc 6 giờ. Hễ chuông đồng hồ báo thức reo lên là anh dậy gấp chăn màn, tập thể dục rồi ôn bài,.. chuẩn bị đi học. Anh có một số bạn tâm giao, học giỏi. Tiếng ồ ồ nhưng anh lại hay hát. Anh bảo luyện giọng để thi đơn ca toàn quốc! Mẹ và em cùng cười khi nghe anh nói thế. Em rất yêu quý người anh trai của mình. Tả anh trai yêu quý của em – Bài làm 2 Anh trai của em tên là Quang Hoà, 9 tuổi, học lớp ba. Anh có nước da trắng, tóc rễ tre. Cặp mắt to và sáng, vầng trán cao. Anh học giỏi toàn diện: giỏi Toán, giỏi Tiếng Việt, thi Vở sạch chữ đẹp được giải Nhì toàn huyện. Anh mơ ước sau này trở thành một thuyền trưởng tàu viễn dương. Anh rất khéo tay, biết làm diều giấy, làm nhiều đồ chơi khác. Anh vẽ bức tranh đàn gà bằng bút màu tặng em gái nhân ngày sinh nhật. Bàn học của anh lúc nào cũng ngăn nắp. Sách vở, đồ dùng học tập,.. thứ nào cũng được sắp xếp thứ tự, giữ gìn cẩn thận. Bà nội rất yêu quý anh Hoà. Bà khen anh hiếu thảo và thông minh. Tả anh trai yêu quý của em – Bài làm 3 Anh trai của em là Mai Văn Ninh, sinh viên trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Da hơi đen, mắt sáng, trán cao, bạn bè gọi anh là “Hội hom”, nhưng anh học giỏi. Anh là một trong mười sinh viên được điểm cao nhất trong kì thi Đại học năm 2015 của trường Đại học Bách Khoa. Tính anh điềm đạm, ít nói, học hành chăm chỉ, rất khéo tay, giúp đỡ được nhiều công việc cho bố mẹ. Ông bà và bố mẹ em rất yêu quý anh. Nhà nghèo, nhưng anh gom tiền lại mua sách để đọc và tự học. Áo quần mộc mạc giản dị nhưng tủ sách của anh có trên trăm quyển; quyển nào anh cũng kí tên và ghi rõ ngày, tháng mua và đã đọc. Anh rất hiếu thảo. Anh thường hay quan tâm, săn sóc ông bà. Mỗi lần mẹ bị cảm ốm, anh thao thức, lo lắng. Anh nấu nước hương nhu, bạch đàn cho mẹ xông. Anh mua thuốc cho mẹ uống. Anh kính trọng chị Phương, anh săn sóc đứa em út. Anh mua tặng em cái cặp sách rất đẹp và cuốn sách Những tấm lòng cao cả. Em rất yêu quý anh Hội, người anh trai thân thương của em.
Tả anh trai yêu quý của em – Văn mẫu lớp 2
607
Nội dung bài viết1 Tả buổi học cuối cùng dưới mái trường tiểu học – Bài làm 1 2 Tả buổi học cuối cùng dưới mái trường tiểu học – Bài làm 2 3 Tả buổi học cuối cùng dưới mái trường tiểu học – Bài làm 3 4 Tả buổi học cuối cùng dưới mái trường tiểu học – Bài làm 4 Tả buổi học cuối cùng dưới mái trường tiểu học – Bài làm 1 Thời gian trôi đi nhanh thật đấy, mới ngày nào đó em vừa bỡ ngỡ nép sau lưng mẹ bước vào mái trường tiểu học thân yêu. Vậy mà hôm nay đã là buổi học cuối cùng em được ngồi bên cạnh bạn bè, được lắng nghe cô giảng bài, được là học sinh của mái trường này. Buổi học cuối cùng này, có lẽ không chỉ riêng em mà rất nhiều bạn khác nữa đều có cảm xúc xốn xang khó tả. Một sáng mùa hè trong veo và yên ả, những tia nắng đang rọi xuống từng vòm cây xanh mượt mà. Cảnh sân trường buổi sáng mai tĩnh lặng đến lạ kì, có lẽ vì do các bạn học sinh chưa đến hết. Hôm nay em đến trường sớm hơn mọi ngày vì đây là buổi học cuối cùng của cấp học tiểu học. Đi giữa sân trường, em thấy mình nhỏ bé và lạc lõng với môi trường đã thân thuộc suốt 5 năm qua. Lát nữa thôi, chúng em sẽ ngồi ngay ngắn vào bàn và làm đứa học sinh lớp 5 cuối cùng, chia tay bạn bè, chia tay thầy cô. Buổi học hôm ấy nhẹ nhàng, không ồn ào, vội vã, các bạn cũng không tranh cãi, nói chuyện riêng, tiếng cô trầm bổng, lớp học rơi vào tĩnh lặng. Bởi ai cũng biết đó là buổi học chia tay của khối học sinh lớp 5. Nhìn gương mặt bạn nào cũng thoáng chút buồn và nuối tiếc. Chúng em đã có với nhau biết bao nhiêu kỉ niệm với những thứ thuộc về nơi đây, nhưng chúng em lại sắp phải nói lời tạm biệt. Tạm biệt để bước sang trang mới, cấp học mới và nhiều thứ mới mẻ hơn nữa. Ngoài kia, nắng vẫn đu mình trên cây. Gió rít trên từng cây phương đang buông sắc đỏ. từng chú chim nhảy nhót hót líu lo tạo nên bản hợp xướng tuyệt vời. Tuy nhiên nó vẫn không khiến cho sân trường náo động lên. Hôm nay chỉ có các bạn học sinh khối lóp 5 đi học nên tâm trạng của mọi người đều như nhau, nuối tiếc và đầy lưu luyến. Ánh mắt cô giáo hôm nay cũng buồn và nhẹ nhàng biết bao. Cô nhìn một loạt các bạn học sinh, mắt rơm lệ, và nhắn nhủ chúng em phải cố gắng để trở thành học trò ngoan và giỏi ở cấp học mới. Chúng em ai cũng cúi đầu vâng dạ, không dám nhìn ai, vì thực sự cảm xúc đang vỡ òa. Những năm tháng cùng ngồi chung bàn, học chung lớp, nghịch ngợm, nô đùa chẳng mấy chốc sẽ thành dòng kỉ niệm mà thôi. Có lẽ sau này ai cũng sẽ nhớ về những năm tháng đầy ắp niềm vui như ở dưới mái trường tiểu học này. Chúng em lặng lẽ nhìn nhau, nhìn lại mọi thứ sắp cũ, nhìn cô giáo rồi ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Đây là buổi học cuối cùng ở trường tiểu học. Tả buổi học cuối cùng dưới mái trường tiểu học – Bài làm 2 Thời gian thấm thoát thoi đưa thật nhanh. Thế là năm năm học đã dần chôi qua. Tôi lại sắp phải xa mái trường. Càng đến những buổi học cuối, tôi lại càng thấy yêu ngôi trường này hơn vì mỗi góc sân, mỗi hàng cây đã gắn với tôi bao nhiêu kỉ niệm. Sáng nay, tôi đến trường sớm hơn mọi ngày để được ngắm cảnh trường được nhiều hơn. Ôi chao, cảnh trường lúc này mới tuyệt làm sao! Dù cho lúc này còn khá sớm. Bác mặt trời vừa tỉnh giấc, mật đỏ như quả cầu lửa bẽn lẽn nấp sau lũy tre làng. Một dải sương mờ còn phảng phất trong vòm cây. Ấy thế mà bác cổng trưởng đã dậy từ lúc nào, dang tay đón chúng tôi vào lớp. Tôi lững thững một bước vào sân trường, trong lòng chào dâng một cảm xúc khó tả. Bất giác một làn gió thoảng qua, mang theo hương thơm của bồn hoa chúng như mời gọi tôi nói lời tạm biệt. Tôi bước lại gần nhìn những bông hoa hồn nhiên trước gió mà mà muốn mình cũng được như những bông hoa đó. Tôi ngồi xuống gốc bàng ngước nhìn bầu trời xanh mướt, trong đầu lại hiện về bao kỉ niệm. Cũng dưới gốc bàng này chúng tôi có bao nhiêu trò chơi lí thú. Lúc này, bác mặt trời vẫn tươi cười, ban phát những tia nắng vàng tươi làm cho màn sương mỏng tanh vội vã chốn biệt chỉ để lại những hạt sương long lanh còn đọng trên lá cây, ngọn cỏ. Cảnh trường lúc này hiện ra rõ mồn một, rực rỡ sắc mầu. Bác phượng già như trở lại tuổi đôi mươi rực rỡ trong tấm áo đỏ rực cả một góc trời. Chỉ cần một làn gió nhẹ thoảng qua thì những cánh hoa dung dinh như muôn ngàn con bướm thắm vỗ cánh bay lên. Bên kia, bác bàng trông thật cườm tráng với tấm áo mầu xanh mượt. Những ánh nắng xuyên qua kẽ lá thật tinh nghịch như đang chơi trò chốn tìm. Tất cả như không hề biết tôi đang sắp phải xa ngôi trường này. Tôi bước về đứng trước cửa lớp của mình, ôi sao mà thân thương quá! Trước mắt tôi như hiện ra hai mươi tám gương mặt trìu mến thân thương của các bạn đang nói cười, đang say sưa học bài. Tôi như thấy giọng nói thân thương, ấm áp của cô. Tất cả như đang bên cạnh tôi. Lòng tôi sao xuyến, bâng khuâng quá. Tôi chỉ muốn tổ ấm 5B cùng người mẹ hiền yêu dấu này mãi mãi không dời xa. Ôi quang cảnh trường lúc đó thật tươi đẹp nhưng sao lòng tôi bỗng thấy chống trải. Tôi biết dù không muốn nhưng cũng chỉ mai đây thôi, tôi phải xa tất cả những gì tôi đã gắn bó năm năm qua. Ước gì thời gian quay trở lại để tôi mãi là cô bé bỡ ngỡ ngày nào. Đã từ lâu, mái trường đã trở thành ngôi nhà thứ hai của tôi. Ở đó có thầy cô hiền như mẹ, bạn bè thân thiết như anh em. Dù biết rằng tôi phải chia tay nó song có lẽ hình ảnh ngôi trường tiểu học thân thương cùng thầy cô với bạn bè sẽ mãi mãi in đâm trong tâm trí tôi Tả buổi học cuối cùng dưới mái trường tiểu học – Bài làm 3 "Ve ve! Ve ve…" Bản nhạc mùa hè của những chú ve đã ngân lên rộn rã. Ở một góc sân trường, phượng vĩ thắp đèn đỏ rực trên những tán lá xanh như báo hiệu một mùa chia tay sắp đến… Có cái gì nghèn nghẹn nơi lồng ngực không thể nói ra bằng lời. Thời gian sao trôi nhanh quá! Ngày mới bước vào trường THCS mang tên vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, chúng em còn là những cô cậu học trò nhỏ bé với bao điều bỡ ngỡ, mới lạ. Khi đó, như những chú chim non từ khắp nơi bay về tụ hội tại ngôi trường này, chúng em còn rụt rè, ngơ ngác trong ngày khai giảng đầu tiên giữa ngôi trường rộng lớn, xa lạ, nhưng cũng chính ngày đầu tiên đó, ánh mắt trìu mến của thầy cô làm cảm giác gần gũi, ấm áp chợt dấy lên trong lòng chúng em. Lặng lẽ như những dòng sông đem phù sa bồi đắp cho cuộc đời, nghiêm khắc mà bao dung vị tha, thầy cô dạy cho những tâm hồn thơ ngây, non nớt của chúng em bài học làm người “ Tiên học lễ, hậu học văn”, cho chúng em cơ hội tự sửa đổi mình để trở thành con ngoan trò giỏi, thầy cô đã chắp cánh cho chúng em bay vào bầu trời tri thức. 5 năm đã đi qua, chúng em thấy mình lớn lên từng ngày. Công lao của thầy cô, em luôn tạc dạ ghi tâm. Em biết mình không thể báo đáp hết công ơn cao cả ấy, nên tự nhủ với lòng phải cố gắng đạt kết quả tốt nhất trong kì thi sắp tới. Đó là đóa hoa đẹp nhất mà chúng em dành tặng thầy cô. Ve ơi đừng kêu nữa! Đừng ngân lên khúc nhạc du dương đẫm buồn ấy nữa! Bởi lẽ, khi khúc nhạc ấy vang lên thì cũng là lúc giây phút chia tay đã đến. Thầy cô ơi! Giờ đây, chúng em phải xa thầy cô thật rồi. Không còn nghe giọng ấm áp của thầy, lời thiết tha, trìu mến của cô mỗi lúc giảng bài. Mặc dù vậy, chúng em sẽ không bao giờ quên công lao thầy cô. Và em xin hứa sẽ luôn cố gắng phấn đấu học tập để không phụ lòng thầy cô bao năm qua đã dày công dạy dỗ. Em xin chúc thầy cô sẽ luôn mạnh khỏe, sẽ mãi là người soi sáng con đường ước mơ và hoài bão cho những thế hệ đàn em sau này. Tả buổi học cuối cùng dưới mái trường tiểu học – Bài làm 4 5 năm vừa qua là khoảng thời gian mà chúng em được sống dưới mái nhà Nguyễn Huệ, nhận được sự yêu thương, đùm bọc của cha mẹ là thầy cô. Ngay từ khi còn là một cô cậu học trò nhỏ bỡ ngỡ bước chân vào trường, chúng em đã cảm nhận được sự che chở của cô thầy và giờ đây, khi sắp phải xa mái trường dấu yêu này cảm giác đó vẫn không hề thay đổi. Ngày khai giảng của bốn năm về trước, chúng em đã lo lắng và hồi hộp biết bao. Xung quanh chúng em có bao nhiêu điều mới lạ khiến chúng em trở nên rụt rè, khép nép như những chú sẻ nhỏ phải rời xa tổ để đến với một môi trường khác xa lạ. Và rồi chính thầy cô đã truyền cho chúng em hơi ấm và sức mạnh. Chúng em đã phần nào tự tin trên mỗi bước chân mình. Thầy cô là người cha, người mẹ thứ hai của chúng em, người đã dìu dắt chúng em bao tháng ngày qua, người răn dạy, thương yêu chúng em hết mực đồng thời là người truyền cho chúng em sự tự tin, trao tặng hành trang để chúng em vững bước vào đời. Công ơn thầy cô không thể dùng từ nào diễn tả cho hết được, chúng em chẳng biết nói gì ngoài lời cảm ơn thầy cô. Thời gian thấm thoát trôi qua! Những kỉ niệm vẫn còn đó, những cảm xúc bồi hồi xúc động vẫn vẹn nguyên vậy mà giờ đây chúng em đã phải sắp xa thầy cô. Phải rời xa mái nhà ấm cúng này chúng em vô cùng nuối tiếc. Có thể chúng em sẽ gặp trở ngại, sẽ vấp ngã trên đường đời nhưng chúng em tin rằng thầy cô luôn đứng đó, trong sân trường dõi theo từng bước chân, tiếp cho chúng em niềm tin và sức mạnh. Cho dù có đi hết chặng đường dài của cuộc đời chúng em vẫn chưa đáp ứng hết những điều thầy cô mong mỏi nhưng chúng em biết chắc rằng dù ở nơi đâu, làm bất cứ việc gì thì ngôi trường này mãi là tổ ấm luôn dang rộng đôi tay chào đón chúng em trở về. Chắc chắn là như vậy!
Tả buổi học cuối cùng dưới mái trường tiểu học – Văn mẫu lớp 6
2,015
Nội dung bài viết1 Tả bà ngoại yêu quý của em – Bài làm 1 2 Tả bà ngoại yêu quý của em – Bài làm 2 3 Tả bà ngoại yêu quý của em – Bài làm 3 Tả bà ngoại yêu quý của em – Bài làm 1 Em chỉ còn bà ngoại. Năm nay, bà em vừa tròn 60 tuổi. Bà là y sĩ bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội, về hưu đã được 9 năm. Lúc vui, bà vẫn nhắc: "Cháu Hoa ra đời thì bà nhận sổ hưu". Mái tóc bạc quá nửa, mắt bà vẫn tinh anh, bà làm gì cũng nhanh và khéo. Bà rất hiền từ. Tối nào bà cũng kèm em học. Chữ bà rất đẹp. Em rất yêu bà em. Em chỉ mong bà khỏe, vui sống đến trăm tuổi cùng con cháu. Tả bà ngoại yêu quý của em – Bài làm 2 Bà ngoại của em năm nay đã ngoài sáu mươi tuổi. Trước đây bà làm nghề giáo viên. Dáng người của bà thon thả, khuôn mặt của bà đôn hậu. Bà thường mặc những bộ quần áo bà ba trông rất thướt tha. Bây giờ bà đã nghỉ hưu. Hàng ngày bà thường đi chợ mua thức ăn cho mọi người trong gia đình em. Bà nấu ăn rất ngon. Em nhớ ngày em còn bé, mẹ em nấu cháo em không ăn , bà ngoài nấu thì em mới ăn. Em cảm ơn và yêu quý bà rất nhiều. Em mong bà sống thật lâu với em. Tả bà ngoại yêu quý của em – Bài làm 3 Bà em năm nay bảy mươi ba tuổi. Tuy đã có tuổi nhưng trông bà vẫn còn khỏe mạnh và nhanh nhẹn lắm. Trước kia, bà làm giáo viên, nay bà đã nghĩ hưu. Bà rất yêu quý em. Bà thường kể chuyện cổ tích cho em nghe. Mỗi khi em mắc lỗi, bà không mắng mà bà bảo ban em nhẹ nhàng. Có gì ăn, bà cũng để dành phần cho em. Em rất kính trọng và biết ơn bà. Em mong bà sống lâu trăm tuổi để dạy bảo em những điều hay, lẽ phải.
Tả bà ngoại yêu quý của em – Văn mẫu lớp 2
359
Nội dung bài viết1 Tả bà nội yêu quý của em – Bài làm 1 2 Tả bà nội yêu quý của em – Bài làm 2 3 Tả bà nội yêu quý của em – Bài làm 3 4 Tả bà nội yêu quý của em – Bài làm 4 Tả bà nội yêu quý của em – Bài làm 1 Trong gia đình, người dành cho em nhiều tình thương nhất là bà. Bà em đã cao tuổi nhưng vẫn còn khỏe mạnh, nhanh nhẹn. Mắt bà vẫn còn tinh trả phải đeo kính mỗi khi làm việc. Mái tóc bà đã điểm bạc. Khuôn mặt phúc hậu đã có nhiều nếp nhăn. Bà nghiêm khắc khi em bị điểm kém. Tối bà đưa em đến với những câu chuyện cổ tích. Đến bữa ăn, bà ăn rất ít để dành phần ngon cho con cháu. Ngày chủ nhật bà đưa em đi chơi. Em thật hạnh phúc khi có bà ở bên, em sẽ cố gắng học thật giỏi và dành những bông hoa điểm mười dành tặng cho bà. Tả bà nội yêu quý của em – Bài làm 2 Bà em năm nay bảy mươi ba tuổi. Tuy đã có tuổi nhưng trông bà vẫn còn khỏe mạnh và nhanh nhẹn lắm. Trước kia, bà làm giáo viên, nay bà đã nghĩ hưu. Bà rất yêu quý em. Bà thường kể chuyện cổ tích cho em nghe. Mỗi khi em mắc lỗi, bà không mắng mà bà bảo ban em nhẹ nhàng. Có gì ăn, bà cũng để dành phần cho em. Em rất kính trọng và biết ơn bà. Em mong bà sống lâu trăm tuổi để dạy bảo em những điều hay, lẽ phải. Tả bà nội yêu quý của em – Bài làm 3 Bà nội của em là giáo viên đã về hưu. Tuy đã sáu mươi tuổi nhưng bà rất nhanh nhẹn và khỏe mạnh. Hàng ngày, bà đi chợ, nấu ăn, làm việc nhà, đưa đón các cháu đi học rất tận tụy và cần mẫn. Bà có mái tóc ngắn lượn sóng, khuôn mặt phúc hậu, đôi mắt lúc nào cũng như cười. Thức ăn bà làm rất ngon nên cả nhà đều thích về nhà ăn cơm bà nấu. Bà còn kể chuyện rất hay nên các cháu luôn đòi bà kể chuyện mỗi đêm trước khi đi ngủ. Con cháu, nếu ai mắc lỗi, bà nghiêm khắc nhắc nhở, nhưng tất cả rất yêu quý và kính trọng bà. Tả bà nội yêu quý của em – Bài làm 4 Bà ngoại em năm nay sáu mươi tuổi rồi, nhưng trông bà vẫn còn khỏe lắm. Trước đây, bà làm nghề cô giáo, nay đã nghỉ hưu. Bà ngoại rất yêu quí em vì khi đi đâu xa về bà thường cho em quà. Còn em rất yêu quý bà vì khi em còn nhỏ bà đã chăm sóc em.
Tả bà nội yêu quý của em – Văn mẫu lớp 2
479
Nội dung bài viết1 Tả bác bảo vệ trường em – Bài làm 1 2 Tả bác bảo vệ trường em – Bài làm 2 3 Tả bác bảo vệ trường em – Bài làm 3 Tả bác bảo vệ trường em – Bài làm 1 Mỗi buổi sáng đến trường, em đều nhìn thấy chú bảo vệ. Chú là người đã canh gác ngày đêm để bảo vệ ngôi trường này. Cứ khoảng đến sáu giờ đúng là chú xách chiếc ghế gỗ và cầm một tờ báo ra đằng trước cổng ngồi khiến em dễ quan sát chú hơn. Chú Bảo là người bảo vệ của trường em cũng khá lâu rồi. Chú năm nay đã bước qua tuổi năm mươi nhưng chú vẫn mạnh khoẻ. Dáng người không cao, vừa người, chỉ có cái lưng còng , lom khom khiến việc di chuyển cũng khá bất tiện. Da tay sần sùi, rám nắng không còn mềm mại như trước kia vì những tháng ngày, buổi trưa nóng bức mà chú phải ngồi gác khuôn viên trường. Đôi mắt một mí, đen, có những vết chân chim bên hai mí mắt. Lông mày tướng to đen, ở sau đã bị hoa râm một chút. Vầng trán cao, mỗi lần chú cười hay nhíu mày thì xuất hiện rõ những nếp nhăn đầy trên trán. Đôi môi thâm, khô, nứt nẻ, để lộ hàm răng ố vàng vì nhiều lần chú hút thuốc. Hai bên má gầy gò xuất hiện hai đồng tiền hột điếu lún sâu ở phần má. Làn da sần sùi, đen, có những dấu đồi mồi xuất hiện. Cách ăn mặc của chú trong trường rất đơn giản – mặc đồng phục bảo vệ đúng quy định. Mặc dù công việc này khá phức tạp và khó khăn nhưng chú vẫn kiên cường đạt đuổi theo ước mơ. Buổi sáng, chú dậy rất sớm mở cổng cho học sinh. Còn buổi tối chú phải canh gác trường em. Cứ khoảng bảy giờ tối là chú lại đi kiểm tra hết dãy lớp học này đến dãy lớp học khác. Cứ mỗi khi có gió thổi qua , những chiếc lá bàng rơi khắp sân trường. Chú sẵn sàng cầm chổi quét tất cả lá bàng vào một góc rồi hốt bỏ vào thùng rác. Thấy học sinh nào xả rác bừa bãi, chú ân cần nhắc nhở mà không la mắng, trách phạt gì. Phải canh một ngày trời mệt nhọc mà chú không hề than thở. Mồ hôi ướt đẫm trên lưng nhưng chú vẫn kiên cường quyết tâm đạt được mục tiêu. Chú Bảo rất thân thiện và yêu mếm học sinh trong trường như con cháu của chú. Nên trong trường ai cũng quý mến chú. Em thầm biết ơn chú Bảo vì nhờ chú mà khuôn viên trường luôn sạch đẹp. Tả bác bảo vệ trường em – Bài làm 2 Trường tôi không rộng lắm nên chỉ có một bác bảo vệ trông coi. Ngày nào bác cũng làm những công việc giống nhau, trông nom trường học và giúp đờ học trò, vì vậy mà chúng tôi ai cũng yêu quí bác. Bác bảo vệ năm nay đã hơn sáu mươi tuổi. Trước đây, bác là bộ đội ở biên giới, lập được rất nhiều chiến công. Vì thế, chúng tôi thường gọi bác là dũng sĩ. Sau chiến tranh, bác trở về phục vụ quê hương. Mấy năm nay, bác vào làm bảo vệ ở trường tôi. Điều ấn tượng đầu tiên với tôi và mọi người là làn da đặc biệt của bác. Làn da bị cháy đen, có chỗ loang lổ nhưng vết sạm. Nhìn da bác, người ta như thấy được cả cái nắng, cái mưa khắc nghiệt của núi rừng bao năm tháng phá huỷ con người. Bác có gương mặt cương trực, nghiêm nghị mà lúc đầu nhìn thấy chúng tôi sợ lắm. Tuy đã nhiều tuổi nhưng đôi mát bác vẫn sáng và tinh nhanh. Tôn thêm cho khuôn mặt là đôi lông mày dày rậm, toát lên vẽ mạnh mẽ. Bác bảo vệ đậm người, không cao mà cũng không thấp. Bác còn khoẻ mạnh, vững chắc lắm. Những bắp tay cuồn cuộn như một lực sĩ. Duy có đôi chân của bác không còn lành lặn nữa, một bên là chiếc chân gỗ. Trong chiến dịch năm xưa bác bị thương nặng nên muốn giữ tính mạng bác đã phải cưa mất một bên chân. Nhưng nhìn bác đi, khó ai có thể đoán được đấy không phải là chân thật. Bác đã quen lắm rồi, cái chân gỗ này đã là tri kỉ, nó đã thành máu thịt của bác từ bao giờ không biết. Bác bảo vệ có nhiều thói quen mà ở ngôi trường này không học sinh nào là không biết. Thoáng nhìn qua là nhận ra ngay bác. Dường như ngày nào, tháng nào bác cũng mặc những chiếc áo bộ đội đã cũ và bạc màu. Trên cầu vai có một mảnh vá nhỏ. Nhưng với bác, chiếc áo ấy là kỉ niệm cả một thời đạn bom oanh liệt. Nom bác mặc chiếc áo thật oai hùng. Nhất là những ngày lễ lớn, bác mặc nguyên một bộ quân phục nghiêm trang, đẹp đẽ. Sáng nào bác cũng dậy từ rất sớm. Từ khi ông mặt trời vẫn còn đang ngái ngủ, bác đã dậy làm việc rồi. Bác đi kiểm tra một vòng, cẩn thận từng phòng, từng ngóc ngách, thấy cái gì hỏng bác liền sửa ngay. Rồi bác chăm vườn cây sau trường, chăm chút tỉ mỉ như đứa con của mình. Xong việc đâu đấy, bác ra mở rộng cánh cổng sắt, mỉm cười chào đón chúng tôi. Thoạt nhìn thấy bác bảo vệ khó tính, nghiêm khắc và khó gần. Nhưng khi chuyện trò, tiếp xúc rồi thấy bác là cả một kho tàng, một thế giới. Nghe những câu chuyện về chiến tranh mà chúng tôi như nhìn thấy cả dân tộc qua bác. Không chỉ thế, bác còn thuộc rất nhiều dân ca, ca dao, hò vè, thuộc nhiều thơ văn cổ… Bác hát chèo rất hay nữa. Thỉnh thoảng rảnh rỗi, bác hát một trích đoạn cho học trò nghe. Chúng tôi nghe thích thú, say sưa quên cả về nhà… Bác bảo vệ của chúng tôi không có một gia đình riêng. Bác coi ngôi trường này là nhà, coi các thầy cô giáo là anh chị em, coi học trò chúng tôi là con cháu… Bác đã hi sinh cả đời mình cho dân tộc, quê hương và giờ đây bác lại cống hiến sức lực còn lại cho thế hệ tương lai. Hình ảnh bác bảo vệ đã quá thân quen và gần gũi với mỗi học sinh của nhà trường. Nhìn bác, chiều chiều lầm lũi một mình chúng tôi thầm hỏi, trên đất nước Việt Nam ta còn bao nhiêu con người như thế. Tả bác bảo vệ trường em – Bài làm 3 Bác Chính là bảo vệ trường em. Bác công tác ở trường em đã trên mười năm, chị em bảo thế. Bác là thương binh, mất một cánh tay trái, tại chiến trường biên giới Hà Giang năm 1980. Người bác cao, gầy. Bụng và mông bác còn nhiều mảnh đạn. Tóc cắt ngắn, cặp mắt sâu, cái mũi cao hơi đỏ. Bác nói nhẹ nhàng, cử chỉ lịch thiệp, hay cười. Bác vui tính nên ai cũng mến. Các thầy cô giáo trong trường đều thân mật kính trọng gọi là: "Chú”, "Chú Chính”. Khách đến trường, các vị phụ huynh đều gọi là "Bác". Bác đã 45 tuổi, rất nhanh nhẹn. Học sinh cần gì, các thầy cô giáo cần gì, bác nhiệt tình giúp đỡ ngay. Bác đánh trống báo giờ học, báo giờ ra chơi không bao giờ sai một phút. Trong bộ quân phục bạc màu, ống áo trái dắt vai, trông bác vừa nghiêm trang vừa binh dị. Một bọn cờ bạc bịp dến cổng trường giở trò móc túi trẻ con, bác nhẹ nhàng nói, chỉ một lúc sau, chúng đều đi thẳng. Có một tay "thiện xạ" ăn mặc rất bảnh, nghe nói là "con ông cháu cha" ngang nhiên xách súng vào bắn chào mào trên các ngọn cây bàng. Chẳng cần to tiếng gì cả, chàng "thiện xạ" đã hứa với bác là không bao giờ đến bắn chim trong trường nữa. Thằng Quý, thằng Phương vào trộm bàng chiều chủ nhật. Bác bắt được khi đang leo trên ngọn cây. Bác gọi xuống và ôn tồn nhắc: "Cứ từ từ, kẻo ngã…". Hai cu cậu phải viết vào một tờ giấy chỉ có ba chữ: "Cháu xin chừa", với chữ kí kèm theo. Bác chẳng báo cáo với ai, thế mà hai bạn ấy không leo bàng nữa. Mỗi lần có học sinh bị ốm đau, bác giúp đỡ tận tình, coi như con cháu trong gia đình. Bác có hai ngựời con anh Linh là sinh viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, chị Diệu học Trường Cao đẳng Sư phạm. Vợ bác làm hộ lí ở khoa sản. Gia đình bác là "Gia đình văn hóa mới''.
Tả bác bảo vệ trường em – Văn mẫu lớp 5
1,526
Tả bác Tổ trưởng tổ dân phố – Bài làm 1 "Anh Hải ơi, tối nay họp lúc bảy giờ tại nhà tôi nha."Tiếng gọi ba em vừa dứt, em biết ngay người ấy là bác Thành. Được mọi người trong tổ yêu thương và tín nhiệm, bác Thành là tổ trưởng nơi em ở đã chục năm nay. Bác Thành đã bốn mươi bốn tuổi, bằng tuổi ba em. Vóc dáng cao ráo, dáng đi nhanh nhẹn chẳng xứng với mái tóc muối nhiều hơn tiêu, bác rất năng nổ trong việc xóm giềng. Bác ấy có khuôn mặt chữ điền biểu hiện của một người nhiều nghị lực, đôi mắt sáng, tinh anh nói lên lòng nhiệt tình, luôn quan tâm đến mọi người. Ngoài giờ làm việc tại một phân xưởng sản xuất, bác Thành thường lui tới thăm nom những gia đình neo đơn như nhà cụ Hơn, cụ Chiên, chú Hiệu v.v… Đó là các gia đình thương binh liệt sĩ. Công việc của bác rất cụ thể và luôn đạt hiệu quả cao. Năm ngoái, nhờ sự can thiệp và lòng kiên trì của bác Thành mà má Năm, người mẹ liệt sĩ đã có được căn nhà tình nghĩa khang trang cùng một số tiết kiệm do ủy ban quận tặng. Đầu trên xóm dưới, ai có việc gì cần, gia đình nào gặp khó khăn, bất hòa đều nhờ một tay bác giúp đỡ và giải quyết thỏa đáng. Lành đạo phường, nhất là chú Sơn, công an khu vực rất nể và quý bác. Mọi người đang chuẩn bị một buổi lễ Tuyên dương gương điển hình cho bác. Bọn nhỏ chúng em hay đòi bác kể chuyện chiến đấu ngày xưa của bác ở chiến trường Tây Nam. Bác Thành là một tâm gương để mọi người noi theo. Có tổ trưởng tốt, mọi người rất vui và an tâm với công việc của mình. Tình làng nghĩa xóm ngày càng bền chặt. Tả bác Tổ trưởng tổ dân phố em – Bài làm 2 Bác Khách là tổ trưởng dân phố khu phố gia đình mình ở. Năm nay, bác khoảng 50 tuổi. Mình cũng không biết nên bắt đầu từ đâu khi kể về bác cho các bạn nghe. Thôi thì mình thấy sao, nghĩ sao thì kể cho các bạn nghe như vậy nhé. Khi mình học lớp Một, mình đã thấy bác làm tổ trưởng dân phố rồi. Bởi vì mình thường thấy bác đi đến các nhà trong khu phố, khi thì thu tiền đóng góp cho những hoạt động công cộng. Khi thì bác mời bà con khu phố ra tổng vệ sinh. Thấy bác lúc nào cũng bận rộn với công việc của khu phố, mẹ mình thường nói làm tổ trưởng dân phố công việc thì nhiều mà chẳng có quyền lợi gì đâu. Những người làm tổ tưởng dân phố là phải nhiệt tình lắm, có trách nhiệm với bà con lối xóm lắm mới làm được lâu như bác ấy. Quả thực, cứ thứ 7 hàng tuần, bác đến từng nhắc nhở mọi nhà ra làm vệ sinh nên lúc nào đường phố cũng sạch đẹp. Một số người không có ý thức đổ nước ra đường làm ảnh hưởng đến bà con khu phố, bác đến nhắc nhở rất nhiều lần. Một bóng điện đường hỏng, bác thay ngay để đảm bảo ánh sáng cho mọi người đi đường. Có mấy nhà bán vật liệu xây dựng đổ bừa bãi ra đường, bác đến yêu cầu họ dọn dẹp lại ngay. Trong khu phố còn một vài nhà gặp khó khăn, bác đã vận động bà con trong khu phố đóng góp ít nhiều tùy khả năng để giúp họ có thể vượt qua những khó khăn ấy. Bà con khu phố rất quý trọng bác. Ba mẹ mình rất kính trọng và cảm phục bác. Ba mẹ mình nói bác là người có nhiều đóng góp trong việc đưa khu phố mình trở thành khu phố Văn hóa. Mình quý bác lắm. Thỉnh thoảng mình giúp bác đi mời bà con khu phố ra làm tổng vệ sinh hoặc giúp bác mời bà con đi họp. Chuyện về bác tổ trưởng dân phố của mình là như vậy đấy. Mình chờ nghe chuyện về bác tổ trưởng dân phố của các bạn đấy.
Tả bác Tổ trưởng tổ dân phố – Văn mẫu lớp 5
727
Tả bến cá làng chài quê hương – Văn mẫu lớp 5 Làng tôi ở ven biển. Bãi cát vàng chạy dài hơn hai cây số. Có hơn 200 hộ sống bằng nghề chài lưới và nuôi trồng hải sản. Hàng vạn cây phi lao xanh thẫm, chạy dài như một bức tường thành ôm lấy, bao bọc lấy làng chài. Rừng sú, vẹt ngăn sóng cứ lấn dần ra biển với một màu xanh bển bỉ, dẻo dai. Trải bao năm tháng, rừng ngập mặn vẫn hiên ngang trụ vững trước thủy triều và bão tố. Đêm trăng nghe biển ru, biển hát. Lúc gà gáy nghe sóng vỗ rì rầm. Bình minh trên đường đi học, tôi thường dừng lại ngắm cảnh biển bao la. Mặt biển xanh gợn sóng vàng lấp lánh. Chim hải âu như hàng trãm chiếc tàu lượn mốc xám chao nghiêng. Bến cá làng tôi thật đáng yêu. Sáng sớm có hàng trăm con thuyền lướt sóng ra khơi đánh cá. Chiều tà, bến cá đông vui như hội. Cả làng chài đổ ra bến đón thuyền từ biển xa lướt sóng đổ về. Cá đầy khoang. Cảnh chuyển cá lên bến rậm rịch cho đến khuya. Tiếng cười nói xôn xao. Gió biển, sóng biển quyện mùi tanh của tôm cá, nhưng đó là hương vị ấm no, hạnh phúc của làng chài thân yêu. Con trai làng chài ngực nở căng tròn, tay chân vạm vỡ. Con gái làng chài đen giòn, mắt sắc tựa dao cau. Bến cá tấp nập đông vui. Những con thuyền, các chàng trai, cô gái làng chài đã làm cho bến cá thêm đẹp, vẻ đẹp của sức sống dồi dào. Vẻ đẹp ấy đã làm cho tôi thêm yêu quý làng chài tha thiết.
Tả bến cá làng chài quê hương – Văn mẫu lớp 5
295
Nội dung bài viết1 Tả bộ quần áo em mặc đến lớp hôm nay – Bài làm 1 2 Tả bộ quần áo em mặc đến lớp hôm nay – Bài làm 2 3 Tả bộ quần áo em mặc đến lớp hôm nay – Bài làm 3 4 Tả bộ quần áo em mặc đến lớp hôm nay – Bài làm 4 Tả bộ quần áo em mặc đến lớp hôm nay – Bài làm 1 Sáng nay, trời mùa đông sương giá lạnh lẽo. Em đi giày vải, mặc bộ quần áo ấm đi học. Mọi thứ đều cũ, nhưng rất sạch sẽ. Cái quần âu dài bằng vải ka-ki xanh công nhân. Cái áo sơ mi màu xám, kẻ sọc. Chiếc áo len dài tay màu xanh biếc. Bên ngoài cùng là chiếc áo khoác màu vàng thẫm có hai lớp vải khá dày. Chiếc áo khoác còn mới, mẹ mới mua cho em vào đầu vụ rét. Áo có phéc-mơ-tuya bằng nhựa, có hai túi to ở hai bên hông, có thể đút tay vào cho ấm. Phía trong còn có hai túi phụ, có thể bỏ được nhiều thứ khác. Mặc áo khoác vào, em thấy mình lớn hẳn lên, gần bằng các anh học sinh lớp ba, lớp bốn. Mẹ đã lấy số tiền trợ cấp thương binh của bố để mua chiếc áo khoác này cho cậu con trai bé bỏng của mẹ. Với em, chiếc áo ấm em mặc đến lớp hôm nay là chiếc áo mang nặng tình thương, nó nhắc em phải hiếu thảo, phải chăm ngoan, học giỏi. Tả bộ quần áo em mặc đến lớp hôm nay – Bài làm 2 Chiếc áo đồng phục này em mới được nhà trường phát cho từ tuần trước. Khác hẳn với chiếc áo hồi lớp ba của em, chiếc áo này lại có màu rắng và màu xanh lam trông rất mát mắt. Tay áo dài, màu xanh, rất vừa với tay em. Phía trên cánh tay còn có một phù hiệu in biểu tượng quen thuộc của trường, ở đó có hình trang vở, cây bút viết, tên trường, số điện thoại. Chạy dọc theo cánh tay áo là ba đường vải may màu trắng, chúng chỉ rộng khoảng một cm nhưng trông thật nổi bật trên nền vải xanh. Phần cổ tay được may bằng ba lớp chun liên tiếp nhau, có thể co giãn được và vừa khít với tay em nên khi trời lạnh, gió không thể luồn qua được. Thân áo rộng, được may bằng vải màu xanh, phía trên màu trắng, giáp giữa là hai đường vải nhỏ chạy song song với nhau trông rất đẹp. Chiếc áo khoác nhỏ nhắn, màu trắng nằm ngay sát mép vạt áo. Khi nào trời lạnh em kéo khoá áo lên kín cổ, cổ áo hiện lên màu hoa lay-ơn trắng muốt nhưng thật ấm áp. Còn khi nào trời hơi se lạnh thì em kéo đến ngang cổ rồi bẻ cổ áo ra hai bên, lúc đó, cổ áo lại là một màu xanh biếc như màu của nước biển. Thân áo còn có hai chiếc túi xinh xinh ở hai bên nhưng cũng rất rộng, em co thể đút vừa cả hai bàn tay của mình. Bên trong của áo được may bằng lớp vải màu trắng, ở giữa có lót thêm một lớp bông. Nhờ có lớp bông này mà áo phồng lên thật to, thật đẹp và khi mặc vào lại cũng thật là ấm. Em rất yêu quý chiếc áo đồng phục của mình. Tả bộ quần áo em mặc đến lớp hôm nay – Bài làm 3 Sáng thứ hai hằng tuần, trường em tổ chức lễ chào cờ, thầy Hiệu trưởng quy định học sinh đi học phải mặc đồng phục. Hôm nay, chúng em mặc đồng phục hè – thu. Em cũng như các bạn lớp Một, lớp Hai, đều mặc bộ đồng phục: áo sơ mi trắng, váy xanh, đầu thắt nơ hoặc cài nơ màu. Nữ sinh chúng em đều mới lên 7 tuổi, 8 tuổi. Bộ đồng phục đã làm tôn vẻ đẹp ngây thơ, hồn nhiên, trong trắng của chúng em. Cô giáo Huệ nói: “Các em mặc đồng phục đẹp lắm. Cô có cảm tưởng được ngắm bầy thiên nga đang múa lượn giữa sân trường”. Mặc bộ đồng phục, em thấy mình lớn lên, sáng sủa hơn, chững chạc hơn. Trong lễ chào cờ, trong các giờ học hôm thứ hai, em thấy cảnh tượng trường học, lớp học trông thật đẹp. Tả bộ quần áo em mặc đến lớp hôm nay – Bài làm 4 Trường tôi quy định: thứ 2, thứ 4, thứ 6 học sinh đến lớp phải mặc đồng phục; thứ 3, thứ 5, thứ 7 mặc tự do. Hôm nay là ngày thứ 7, tôi mặc bộ quần áo bình dị như nhiều bạn khác. Cha mẹ tôi là công nhân, không giàu có. Tôi sống quen nếp nhà nên ăn mặc giản dị. Tết đến mới có bộ quần áo mới hàng may sẵn. Áo quần tôi mặc phần lớn do chị Tâm để lại. Chị hơn tôi 4 tuổi đang học lớp 8. Cái quần âu bằng vải ka-ki xanh, cái áo màu hoa cà. Áo quần tuy cũ nhưng được mẹ giặt sạch, là ủi rất phẳng, mặc vào dễ coi. Cái cổ áo viền tròn rất xinh, nước da tôi trắng nên khá nổi. Mẹ vẫn nói: "Cái cổ áo rất hợp với cái lúm đồng tiền của con gái rượu của mẹ". Trên phía ngực trái áo có thêu một bông sen hồng, hai lá sen xanh, một con cò trắng đang lò dò kiếm mồi. Mỗi lần tôi mặc chiếc áo này đến trường là cái Lan, cái Hương, thằng Cường… bạn tôi lại đọc như hát bài ca dao để chế tôi: "Cái cò, cái vạc, cái nông, Sao mày giẫm…lúa nhà ông hỡi cò?" Thích nhất là cái áo có 2 chiếc túi may hình quả trám rất xinh. Hai cái kho báu của tôi đấy. Có lúc tôi đựng cái nơ, cái cặp tóc. Có lúc tôi đựng tờ giấy gấp 8. Lúc bỏ cái kẹo cao su. Đôi lúc có một hai nghìn đồng bạc, tiền mẹ cho uống nước. Hàng cúc trắng như những ngôi sao. Đặc biệt cái áo tỏa ra một mùi thơm dễ chịu. Không phải là mùi thơm của nước hoa. Mà là hương thơm của tình chị em. Cái áo đã thấm mồ hôi của hai chị em. Cái áo đã thấm hương thơm tình nghĩa. Chị Tâm học giỏi, tính chị hiền thảo, dịu dàng. Mỗi lần mặc áo đến trường, tôi thấy sung sướng, cảm thấy chị gái đã truyền cho tôi bao nghị lực và tình thương mến. Cái áo tôi mặc đến lớp hôm nay đã cũ nhưng rất đậm đà, thật đáng yêu.
Tả bộ quần áo em mặc đến lớp hôm nay – Văn mẫu lớp 5
1,137
Nội dung bài viết1 Tả bộ ấm chén uống nước của ông em hay của bố em – Bài làm 1 2 Tả bộ ấm chén uống nước của ông em hay của bố em – Bài làm 2 3 Tả bộ ấm chén uống nước của ông em hay của bố em – Bài làm 3 Tả bộ ấm chén uống nước của ông em hay của bố em – Bài làm 1 Bộ ấm chén đặt trên bàn nơi phòng khách nhà em là của ông nội em để lại. Ông nội em là sĩ quan về hưu, anh em đồng đội trong sư đoàn tặng ông nhiều thứ, trong đó có bộ ấm chén pha trà. Đó không phải là đồ cổ đắt tiền mà chỉ là đồ gốm Bát Tràng. Ngày còn sống, có lần ông cho biết đó là bộ “quân ấm”, “hội ấm” dùng để tiếp khách ba bốn người. Chiếc ấm hình trái bần, toàn bộ một gam màu gan gà. Lưng ấm phình ra. Nắp ấm có núm xinh xắn. Chiếc vòi chĩa ra từ bụng ấm, bầu bĩnh như một con chim non trong tổ ló đầu ra. Ấm được đặt trên một chiếc đĩa rất đẹp. Bốn chiếc chén bằng quả hồng ngâm đặt trong một cái đĩa tròn to có thành cao độ ba cen-ti-mét. Cả bốn mẹ con em đều uống nước lọc đun sôi để nguội mà anh Việt gọi là “thanh thủy”. Chỉ có ông và bố mới uống trà. Khi ông em còn sống, lúc nào mẹ cũng chuẩn bị sẵn cho ông một phích nước sôi. Ông uống trà vào sang sớm và sau bữa cơm trưa. Ông thiết khách bằng bộ ấm chén ấy. Anh Việt lên Hà Nội học đại học, em vào học lớp 6, mẹ mới phân công cho em lau bàn ghế, rửa ấm chén. Mẹ dặn đi dặn lại:”Con phải làm cẩn thận kẻo vỡ mất bộ ấm chén của ông nội. Nó là vật quý lắm đấy”. Em rất thích thú công việc này. Em cũng học được cách pha trà đãi khách. Cứ mỗi lần lau xong bộ bàn ghế trong phòng khách, rửa sạch bộ ấm chén đặt trang trọng lên giữa bàn, em lại như thấy hình ảnh của ông ngồi thảnh thơi, ung dung uống nước. Bộ ấm chén đã được mười hai năm. Nó mang theo nhiều kỉ niệm sâu sắc khó quên. Ông mất đã bốn năm rồi, nhưng bộ ấm trà của ông vẫn còn đó. Tả bộ ấm chén uống nước của ông em hay của bố em – Bài làm 2 Bố em thích uống trà, trà loại 1 Thái Nguyên. Bộ ấm trà của bố em không phải là men sứ cổ mà chỉ là loại đồ sứ Bát Tràng. Một cái đĩa to, có vành cao đặt 6 cái chén. Một cái đĩa nhỏ bày chiếc ấm. Chiếc chén nào cũng có hai vành xanh da trời vẽ đàn cò trắng đang bay. Lòng chén trắng tinh, hình quả trứng cắt ngang. Đáy chén lõm thành vòng tròn có gờ thấp. Cái ấm rành quả hồng to hơn nắm tay người lớn. Bụng ấm phình ra, lúc nào cũng căng no tròn. Thân ấm vẽ hoa lá và một vài con vật ngộ nghĩnh: bầy nai đầu có gạc. Cái vòi ấm như một mầm cây non hay mỏ một chim non trong tổ ló cổ ra ngoài. Nắp bình xinh xinh, có nhiều đường chỉ xanh viền tròn ôm lấy đỉnh ấm, tựa như cái nụ hoa bằng đầu ngón tay út. Bộ ấm chén được đặt trên mặt bàn bộ xa-lông trong phòng khách. Bố em chỉ uống trà vào mỗi sáng trước khi đi làm, hay pha trà lúc tiếp khách. Nhiều hôm hết trà, mẹ chưa mua kịp, bố em lại dùng thanh thủy, uống bằng cốc thủy tinh! Hôm ấy, trông cái ấm nằm chơ vơ, thầm lặng. Tả bộ ấm chén uống nước của ông em hay của bố em – Bài làm 3 Vào một phiên chợ Tết, bố tôi mua về từ một cửa hàng gốm sứ cao cấp ở Thiên Hương một hộp đồ được gói giấy bóng cẩn thận. Tôi mở ra và thốt lên “Ôi! Bộ ấm chén đẹp quá!” Bộ ấm chén của gia đình tôi trông rất bắt mắt. Bố tôi cẩn thận đặt nó trong tủ kính giữa nhà. Tôi chưa nhìn thấy ở nhà bạn bè hay người thân có bộ ấm chén như thế cả. Bố tôi tuy là đàn ông nhưng lại có mắt nhìn thật tinh tế và rất thẩm mĩ. Ngay từ hình dáng, bộ ấm chén cũng đã toát lên một vẻ đẹp hơn hẳn những bộ ấm chén khác. Vì được làm bằng sứ cao cấp nên cả ấm lẫn chén đều dày dặn, bền và chịu va đập rất tốt. Có sáu chén con và một ấm, đĩa dùng để ám và chén. Cái nào cũng mới toanh và có cách trang trí giống nhau. Ai đến nhà tôi cũng đều tấm tắc khen bộ ấm chén đẹp. Gia đình ấm chén có sáu cái chén con thật đáng yêu. Quanh thân chén được trang trí bằng những họa tiết hình cái quạt đang xòe nối vào nhau. Gần miệng chén được vẽ một đường cong mềm mại màu trắng với một chấm đen ở giữa thật duyên dáng. Các đĩa đựng chén như mặt trăng vào ngày rằm, to hơn thân chén một chút. Viền xung quanh đĩa dưới bàn tay khéo léo của các nghệ nhân nhìn giống như những làn sóng ngoài biển. Được quan tâm nhiều nhất vẫn là cái ấm pha trà. Nó có hình dáng thật độc đáo, phình to ở giữa và thu nhỏ ở phần đáy. Miệng ấm được tráng một lớp men màu vàng kim. Tay cầm ấm cong cong như hình dấu hỏi. Cái miệng cong và dài như chiếc vòi voi. Nắp ấm màu trắng đục, có cái núm tròn tròn như viên bi để dễ dàng nhấc nắp ầm lên. Tôi rất yêu bộ ấm chén này. Dù có nhiều bộ ấm chén còn quý giá hơn nhưng tôi quý bộ ấm chén này hơn tất thảy. Mỗi ngày tôi thường tắm rửa cho mẹ con gia đình ấm chén. Mỗi khi nhà có khách, bộ ấm chén luôn vinh dự được bố tôi mang ra tiếp khách.
Tả bộ ấm chén uống nước của ông em hay của bố em – Văn mẫu lớp 4
1,066
Đó là bức ảnh chụp phong cảnh Vịnh Hạ Long một thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng của Việt Nam, một kì quan của thế giới. Em biết được như vậy là vì phía dưới bức ảnh ấy là hai hàng chữ tiếng Việt và tiếng Anh giới thiệu tên của bức ảnh. Bao trùm lên toàn cảnh là những hòn núi đá to, nhỏ mọc lên giữa biển nước xanh mênh mông với những hình thù khác nhau. Hòn cao nhất giống như một chú gà trống đang ngẩng cao đầu để gáy, gọi là “hòn Trống”. Phía bên phải có hai hòn chồng gối lên nhau, trông thật chông chênh nguy hiểm. Xa xa là một cửa hang rộng với những dòng thạch nhũ chảy từ trên cao xuống, tạo cho cửa hang có những hình thù kì dị, lạ mắt. Xung quanh là biển nước xanh mênh mông. Một chiếc tàu du lịch đang rẽ sóng tiến vào một cửa động. Phong cảnh vịnh Hạ Long quả thật là đẹp và hấp dẫn. Lớn lên, nhất định em sẽ thực hiện một chuyến tham quan du lịch đến với Hạ Long.
Tả bức tranh vẽ Vịnh Hạ Long
192
Sinh nhật chính là dịp tôi trở thành nhân vật chính trong buổi tối sinh nhật của mình, và háo hức nhắm mặt lại, ước ao và chờ để được thổi nến. Buổi sinh nhật tròn 11 tuổi, bao nhiêu bạn bè tới tham dự và chúc tôi sinh nhật thêm tuổi mới và vui vẻ. Gia đình tôi có ba chị em, tôi là con thứ hai nên cũng được bố mẹ chiều chuộng. Chị Lan là chị cả thì luôn là người vất vả nhất và hay bị cha mẹ sai vặt nhiều nhất.Hôm sinh nhật tôi, căn phòng được trang trí bao nhiêu ruy băng, bong bóng đủ màu sắc Mẹ có nhiệm vụ làm đủ các loại bánh trái và cắt tỉa hoa quả. Tôi được nhận nhiệm vụ đặc biệt, viết thiệp sinh nhật và ăn mặc thật đẹp cùng với bố tôi, chào đón các bạn tới. Bình hoa hồng được đặt lên bàn với nhiều màu sắc rực rỡ, màu đỏ, vàng, hồng, có cả hoa hồng tỉ muội mà tôi thích. Buổi tối sinh nhật mong chờ cũng đã đến, bạn bè xúm xít ngồi quanh tôi, không khí trở nên ồn ào náo nhiệt. Đột nhiên, đèn điện tự lúc nào , tắt phụt một cái. Bắt dầu xung quanh tôi, không ai bảo ai, hát lên bài chúc mừng sinh nhật. Cha và mẹ cầm trên tay bánh sinh nhật với những ngọn nến lung linh, đi tới gần tôi. Thế là tôi há hốc mồm đi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác. Chiếc bánh sinh nhật có 3 tầng, xung quanh được trang trí bởi những bông hoa bằng kem. Tầng trên cùng có hình một chú heo màu hồng và một dòng chữ thật đẹp “ happy birthday Nhật Linh” Rồi tôi rưng rưng, còn bạn bè tôi thì xung quanh hét lên, thổi nên đi. Tôi nhắm mắt lại, ước những gì tôi ấp ủ bấy lâu rồi thổi nến, tất cả vỗ tay đồng loạt và lần lượt hát chúc mừng.trong suốt buổi sinh nhật ai cũng hát tặng tôi, rồi bày ra đủ trò chơi để cùng nhau pha trò. Cứ thế tận đến muộn buổi sinh nhật mới tan. Các bạn về hết, tôi và mẹ cùng chị gái dọn dẹp mọi thứ. Mẹ xoa đầu tôi bảo, con gái hôm nay thêm một tuổi có khác, chị liếc mắt sang nhìn rồi hỏi lại thế còn con thì sao hả mẹ rồi tủm tỉm cười. Buổi tối sinh nhật khiến tôi cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết. Nhớ lại những khoảnh khắc bạn bè hát, những lười chúc tốt đẹp, những món quà ý nghĩa, tôi lại mỉm cười một mình. Đây là sinh nhật đặc biệt nhất, nến và hoa lung linh,khuôn mặt mọi người hồ hởi xuất hiện ra trong tâm trí của tôi, tôi đã trở thành một cô bé lớp 6, tinh nghịch nhưng cũng đầy ước mơ.
Tả bữa tiệc sinh nhật
500
Năm em mới vào lớp 1, để kỷ niệm những ngày đầu tiên em đi học, bố em đã đóng cho em một chiếc bàn học thật đẹp. Chiếc bàn học bố đóng cho em chất chứa bao nhiêu tình cảm của bố dành cho em. Bố nói với em: “ Con phải học thật giỏi và đạt thật nhiều điểm cao từ chính chiếc bàn này nhé, con gái của bố!” Chiếc bàn học bố đóng cho em có hai phần chính, một là chiếc bàn để giúp em học tập và phía bên trên là giá sách giúp em có thể để sách vở viết lên trên đó. Mặt bàn rất rộng, bố em thiết kế sao cho em có thể ngồi học một cách thoải mái nhất. Bàn có chiề dài khoảng 200cm và chiều ngang khoảng 80 cm. Chiếc bàn của em khác so với những chiếc bàn được bày bán ngoài cửa hàng, mặt bàn không nằm ngang mà nằm hơi soải về phía em, tạo cảm giác rất thoải mái. Trên giá sách, bố em làm 4 ngăn để em để đồ dùng học tập. Ngăn to nhất em để sách giáo khoa và vở bài tập. Ngăn thứ hai em để vở ghi, ngăn thứ ba em để đồ dùng học tập: hộp bút, ống đựng bút, hộp mực,… Còn ngăn cuối cùng em bày một số đồ lưu niệm mà em yêu thích nhất vào cho gọn gang, ngăn nắp. Giá sách được bố em sơn màu vàng rất đẹp. Còn trên mặt bàn, em chỉ để chiếc đèn bàn học màu hồng tươi của em vào đó, trông rất đẹp và phù hợp với chiếc bàn của em. Bên cạnh bàn phía bên tay trái, bố em còn làm một chiếc móc treo để em có thể treo cặp sách mỗi khi đi học về. Bố em bảo, con phải treo cặp lên chiếc móc này nhé, để cho bàn học đỡ bừa bãi và trông gọn gàng hơn. Phía dưới của bàn học, có một chiếc tủ nhỏ, để em có thể để những đồ dùng cho cần thiết xuống đó. Những quyển sách giáo khoa nào hay những quyển vở nào chưa dùng đến em cũng để vào trong đó. Chiếc bàn học đã gắn bó với em từ suốt năm học lớp 1 cho đến bây giờ. Em luôn gìn giữ chiếc bàn thật cẩn thận, để không có xảy ra sự hỏng hóc gì cả. Em yêu chiếc bàn học của em lắm vì đó là chiếc bàn học mà bố em đã dồn hết tâm sức để làm cho em. Em hứa sẽ cố gắng học tập thật tốt để trở thành một người con ngoan, trò giỏi để bố mẹ và thầy cô vui lòng.
Tả chiếc bàn học của em
465
Nội dung bài viết1 Tả chiếc cặp sách của em – Bài làm 1 2 Tả chiếc cặp sách của em – Bài làm 2 3 Tả chiếc cặp sách của em – Bài làm 3 4 Tả chiếc cặp sách của em – Bài làm 4 Tả chiếc cặp sách của em – Bài làm 1 Năm học mới đã đến rồi, lòng em cứ xốn xang chờ đợi ngày tựu trường. Hai tháng hè xa bạn bè, thầy cô em nhớ lắm! áng nay, em dậy thật sớm sửa soạn sách vở, đồ dùng học tập, cẩn thận bỏ các thứ vào chiếc cặp mà mẹ đã mua cho em tại hiệu sách Minh Trí ở cố đô Huế trong dịp mẹ đi học ở ngoài ấy. Chiếc cặp chưa lần nào đến lớp nhưng đã trở thành người bạn thân thiết của em từ lâu rồi. Hôm cầm chiếc cặp trong tay, em thầm cám ơn mẹ đã lo lắng chu toàn cho đứa con gái út của mẹ trước lúc vào lớp Bốn. Mẹ đã chọn chiếc cặp thật hợp với sở thích của em, vừa vặn và xinh xắn. Nó được làm bằng chất liệu ni lông tổng hợp, màu xanh rêu, sợi tơ óng ánh như pha kim tuyến. Sờ vào, ai cũng cảm giác mát lạnh và mềm mềm như làn da của một dứa trẻ ba tuổi. Có lẽ chiếc cặp to bằng sổ ghi điểm của cô giáo, không cồng kềnh như cặp của bạn Thúy ngồi cạnh em. Phía trên là một quai xách được bện bằng sợi ni lông bền và rất chắc. Đằng sau có hai quai đeo được mắc vào những cái khóa sắt xi sáng loáng, dùng để điều chỉnh cho vừa quai đeo. Phía trước mặt có một bức tranh màu, vẽ hình một chú ếch đang ngôi trên lá sen du ngoạn ở trong đầm. Xung quanh là những đóa hoa sen hồng đang xòe cánh đón sắc nắng vàng mùa hạ. Bức tranh được lồng vào trong một ngăn bằng giấy mê ca mỏng, có khóa kéo đi, kéo lại. Ngăn này em dùng đựng tấm áo mưa. Muốn mở cặp, em chỉ cần bấm nhẹ vào hai chiếc khóa ở nắp cặp, nó tự động mở ra nhờ một bộ phận quan trọng làm băng hệ thống lò xo, gắn giấu vào phía trong nắp cặp. Cặp có hai ngăn chủ yếu. Ngăn lớn, em dùng để những quyển sách vở trong buổi học. Còn ngăn kia nhỏ hơn, em để các đồ dùng học tập như: bảng con, tập giấy kiểm tra và hộp đựng bút cùng một số vật dụng khác. Thấy chiếc cặp của em vừa xinh, vừa gọn nhẹ lại tiện lợi nữa nên bạn nào cũng hỏi mua ở cửa hàng nào để về xin bố mẹ mua cho. Em cũng nói thật với các bạn là ở đây không có. Mải nghĩ về chiếc cặp mà suýt nữa trễ giờ đi học, em khoác vội chiếc cặp vào vai rồi chào bố và chị Hai rảo bước đến trường trong lòng rộn lên một niềm vui khó tả. Tả chiếc cặp sách của em – Bài làm 2 Kỉ niệm về những giờ phút đầu có chiếc cặp in đậm mãi trong em. Đó là ngày tựu trường năm học mới. Chiếc cặp mà mẹ em gửi bằng đường bưu điện từ cô' đô Huế về cho em đúng vào dịp khai trường. Chao ôi! Một chiếc cặp mà em hằng ao ước bấy lâu. Đó là một chiếc cặp giả da, màu đen huyền như tóc của thiếu nữ mới lớn. Chiếc cặp to hơn sổ ghi điểm của cô em một chút xíu. Nó vừa có quai đeo vào hai vai, lại vừa có quai xách như của Na của Mận ngồi cạnh em. Mặt cặp không trơn bóng như bao chiếc cặp bằng vải mủ mà nó nham nhám như hình ngói lợp hoặc na ná như vảy rồng, vảy cá. Trông từ xa, những chiếc vảy rồng nổi lên, tạo thành những đường vân đều đặn như một mái chùa lợp ngói cổ kính. Phía trước mặt cặp là một ngăn làm bằng tấm mê ca, trên có dây kéo. Ngăn này em dùng đựng phong kì kiểm tra và bên ngoài là bức tranh lụa in hình chùa Thiên Mụ với cái tháp bảy tầng. Xung quanh cặp được viền bằng một đường chỉ khâu màu hồng nhạt rất đẹp. Phía giữa hai quai cặp là một đường dây kéo nối hai mặt cặp lại với nhau. Mỗi lần mở cặp, em chỉ cần cầm núm khóa kéo một đường từ “đầu sông đến cuối sông” thì hai mặt cặp mở ra như hai bờ của một dòng sông, đồng thời nó phát ra một âm thanh đục như tiếng xé vải. Phía trong có haỉ ngăn, được lót bằng thứ vải lụa màu xanh lục. Ngăn lớn, em đựng sách giáo khoa, các quyển vơ học trong ngày. Còn ngăn kia, em đựng các đồ dùng học tập và chiếc áo mưa trong những ngày thời tiết âm u. Tất cả đều được xếp gọn gàng ngăn nắp. Vậy là ngay từ đầu năm học lớp Bốn nàỵ, em đã có một chiếc cặp sách mới như của Na của Mận rồi. Chiếc cặp mới sẽ cùng em đến lớp vui niềm vui của ngày hội khai trường. Tả chiếc cặp sách của em – Bài làm 3 Bước vào năm học mới, bố mua cho em một chiếc cặp sách ở quấy đồ dùng thiếu nhi. Từ buôi đầu khai giảng, chiếc cặp đã là người bạn nhỏ đáng yêu của em. Chiếc cặp của em hình chữ nhật, chiều dài của cặp khoảng hai gang tay người lớn, chiều ngang của cặp khoảng một gang rười, đáy cặp rộng đến gần một gang tay của em. Cặp của em là loại cặp học sinh làm bằng giả da màu xanh da trời. Mỗi lần xoa tay lên mặt cặp mịn và láng bóng ấy, em cảm thấy mát và trơn, thích thú vô cùng. Đường khâu xung quanh cặp làm bằng chỉ dù màu đỏ, mũi khâu đều và thẳng. Các góc cặp lượn tròn có viền ni lông màu trắng táng thêm vẻ duyên dáng cho chiếc cặp. Phía trên có một quai xách to bằng nửa cổ tay em, cong cong hình cầu vồng được đính chặt bằng hai chiếc đinh dẹp. Quai đeo ở sau lưng được may bằng vải ni lông to bản trơn như loại dây dù, rất chắc chắn. Em thử đeo chiếc cặp lên vai, đứng trước gương ngắm nghía, trông em thật chững chạc và khỏe mạnh. Mặt trước của cặp là một cái ngăn bằng tấm mê ca mỏng, phía trong là bức tranh hai chú gấu Misa đang dắt tay nhau đi trên hò phố tấp nập người qua lại. Em dùng tay ấn lên hai chiếc khóa bằng mạ kền sáng loáng như đôi mắt long lanh đang chăm chú nhìn em. “Tách! Tách!” Âm thanh phát ra từ ổ khóa nghẹ thật vui tai. Nắp cặp được mở, lộ ra hai ngăn được lót bằng những mảnh vái nỉ mềm, mỏng với những đường sọc vằn như những nét hoa văn trang nhã. Ngăn cặp thử nhất, em đựng sách vở. Ngăn thứ hai, em đựng các đồ dùng học tập như: hộp bút, thước kẻ, ê ke đo độ, bảng con, bông bảng, tập giấy kiếm tra in sẵn… Hàng ngày, cặp theo bước chân em tung tăng đến trường, đến lớp và ngồi yên lặng trong ngăn bàn theo dõi em học tập. Về đến nhà, em nâng niu chiếc cặp một lúc rồi mới để vào chỗ quy định. Em coi chiếc cặp như người bạn thân thiết của mình. Em giữ gìn chiếc cặp rất cẩn thận, không để bụi bẩn bám vào và thường xuyên lau chùi bằng một chiếc khăn mùi soa mềm để giữ cặp được bền. Tả chiếc cặp sách của em – Bài làm 4 Mỗi khi mùa tựu trường sắp bắt đầu, mẹ đều chuẩn bị sách vở và cặp sách mới tinh tươm để em đến trường. Năm nào cũng vậy, một năm mẹ sẽ sắm cho em một chiếc cặp theo ý thích của em. Năm nay cũng vậy, mẹ dẫn em đi chợ và tùy em lựa chọn. Em đã chọn cho mình môt chiếc cặp màu xanh nước biển có hình dãy núi và con sông nhỏ chạy qua. Trên dòng sông có một chiếc thuyền nhấp nhô và một người phụ nữ đang cầm tay lái. Chiếc cặp của em có một chiếc khóa để nắp cặp khi mang ở phía sau lung. Có hai dây đeo màu xanh dương, bản to vằng hai đốt tay khép lại với nhau để khi đeo em không bị đau lung. Chiếc dây làm chắc chắn, có xốp ở bên trong nên đeo rất em vai. Mẹ bảo khi chọn cặp phải chọn những chiếc cặp không quá cứng để em có thể bỏ nhiều sách vở mà không quá nặng. Ở hai bên chiếc cặp có hai cái túi nhỏ nhỏ bằng lưới để em có thể để khẩu trang và giẻ lau bảng con. Em cũng có thể bỏ vào đó chiếc lọ đựng phấn xinh xinh, khi lấy ra rất dễ dàng. Chiếc cặp sách của em có hai ngăn to và một ngăn nhỏ có kéo khóa. Em sẽ phân ra một ngăn để vở viết và một ngăn để sách giáo khoa. Ngăn kéo khóa em sẽ để hộp đựng bút, bảng con, bút chì màu và một số vật dụng khác. Trong cặp nhiều khi em còn mang theo đồ chơi như bi, vòng thổi để khi ra chơi có thể vui chơi với bạn bè. Nhìn tồng thể chiếc cặp của em có chiều dài 40cm, chiều rộng gần 30 cm. Mẹ bảo khi em đeo cặp ở sau lung thì chiếc cặp dường như to hơn người em. Đối với mỗi bạn học sinh thì chiếc cặp là người bạn than thiết nhất mỗi khi đến trường. Dù nắng hay mưa, dù nhiều sách vở hay ít sách vở thì chiếc cặp vẫn không bao giờ than thở nhọc nhằn. Em rất yêu quý chiếc cặp của mình.
Tả chiếc cặp sách của em – Văn mẫu lớp 4
1,724
Nội dung bài viết1 Tả chiếc mũ vải của em – Bài làm 1 2 Tả chiếc mũ vải của em – Bài làm 2 Tả chiếc mũ vải của em – Bài làm 1 Em lên học lớp 4, món quà chị Mai tặng em là chiếc mũ vải rất đẹp, rất xinh. Đó là món quà chị đi công tác Sài Gòn mua về. Chiếc mũ vải được may hằng lụa hồng viền tím, hiệu Mỹ Á. Vành mũ xòe ra như lá sen mềm mại ôm lấy chóp mũ và thân mũ. Hai bên thành mũ được thêu bằng chùm hoa cúc nở xòe vàng tươi có con chuồn chuồn và đôi bướm bay lượn. Lần đầu đội mũ đến lớp, bạn em đều tấm tắc khen đẹp, chúng chuyền tay nhau ngắm nghía và đội thử lên đầu. Em hãnh diện lắm. Ngày nắng cũng như ngày mưa, em vẫn đội mũ, vai khoác cặp sách đến lớp. Hôm nào mát trời, em cất chiếc mũ trong cặp. Mẹ bảo: “Con gái mẹ đội mũ vải đi học trông xinh xắn lắm, đáng yêu lắm!”. Em chỉ cười, ôm lấy mẹ và khẽ cất tiếng gọi: “Mẹ ơi!…”. Hai tuần một lần, em giặt mũ vào ngày chủ nhật. Chỉ cần phơi nắng, độ 2 tiếng đồng hồ thì mũ đã khô. Chiếc mũ sạch bóng, màu hồng tươi lên, trông rất đẹp mắt. Cái Thu, cái Huệ vẫn dùng mũ làm quạt những hôm nóng bức. Có đứa còn ngồi lên mũ lúc xem đá bóng, đá cầu. Em không làm như thế vì em nghĩ: “Có mũ đội lên đầu, đâu có phải là cái ghế”. Em rất quý trọng, nâng niu cái mũ vải của mình. Nó là vật che nắng, che mưa. Nó cùng em đến trường, đến lớp. Nó là vật trang sức làm đẹp mái tóc thiếu nữ. Nó còn là vật kỉ niệm mang nặng tình thương của chị gái. Các bạn nữ lớp 4E, ai cũng có một chiếc mũ vải. Đủ màu sắc rực rỡ. Trên đường đến trường trong nắng mai, có lúc em tưởng như các bạn và em đội hoa đi học. Lúc ấy, em càng thấy rõ chiếc mũ vải tuổi thơ bình dị mà thân yêu vô cùng. Tả chiếc mũ vải của em – Bài làm 2 Các bạn gái lớp em, trường em hầu như bạn nào cũng đội mũ vải đi học. To nhỏ khác nhau, màu sắc khác nhau, nhưng chiếc mũ vải nào trông cũng xinh xắn, rất bắt mắt, ưa nhìn. Chiếc mũ vải có ba phần. Chóp mũ hình xoáy trôn ốc. Thân mũ có nhiều hình tam giác cân, cũng có thể gồm nhiều vành, nhiều vòng to nhỏ khác nhau. Vành mũ xoè rộng ra hình tròn hoặc hình vẹt. Mũ được may bằng lụa hoặc thứ vải cứng pha ni-lông. Màu sắc thật đa dạng, phong phú. Có mũ vải trắng nõn hoặc xanh lơ một màu. Các cô lớp năm, lốp sáu hay đội loại mũ này. Có mũ vải màu hồng hoặc phối hợp các màu xanh, trắng, đỏ, tím, vàng… Học sinh lớp Hai, lớp Ba thích đội mũ nhiều màu. Phải tùy theo khuôn mặt, nước da, mái tóc mà chọn kiểu mũ thì lúc đội mũ mới đẹp. Em có nước da trắng hồng nên mẹ chọn cho chiếc mũ vải màu xanh da trời có thêm cành hoa hồng và đôi bướm trắng. Cái Lụa bạn em lại đội mũ màu hồng có thêu đôi chim bồ câu trắng, xanh. Chiều nào tan học, hàng trăm học sinh từ cổng trường toả về các nẻo đường, lưng đeo ba-lô cóc, đầu đội mũ vải, tựa những chiếc nấm màu xinh xắn biết chuyển động. Đến lớp, em để cái mũ vải vào ba-lô sách. Đi học về đến nhà, chiếc mũ vải được treo lên tường. Chiếc mũ vải của em đã cùng em đi học gần được hai năm rồi. Nó vẫn sạch và đẹp. Mẹ nói: “Lên lớp Ba, mẹ sẽ mua cho con gái út của mẹ một cái mũ thật đẹp!”. Em mừng lắm.
Tả chiếc mũ vải của em – Văn mẫu lớp 4
685
Nội dung bài viết1 Tả chiếc mũ vải của em – Bài làm 1 2 Tả chiếc mũ vải của em – Bài làm 2 Tả chiếc mũ vải của em – Bài làm 1 Các bạn gái lớp em, trường em hầu như bạn nào cũng đội mũ vải đi học. To nhỏ khác nhau, màu sắc khác nhau, nhưng chiếc mũ vải nào trông cũng xinh xắn, rất bắt mắt, ưa nhìn. Chiếc mũ vải có ba phần. Chóp mũ hình xoáy trôn ốc. Thân mũ có nhiều hình tam giác cân, cũng có thể gồm nhiều vành, nhiều vòng to nhỏ khác nhau. Vành mũ xoè rộng ra hình tròn hoặc hình vẹt. Mũ được may bằng lụa hoặc thứ vải cứng pha ni-lông. Màu sắc thật đa dạng, phong phú. Có mũ vải trắng nõn hoặc xanh lơ một màu. Các cô lớp năm, lốp sáu hay đội loại mũ này. Có mũ vải màu hồng hoặc phối hợp các màu xanh, trắng, đỏ, tím, vàng… Học sinh lớp Hai, lớp Ba thích đội mũ nhiều màu. Phải tùy theo khuôn mặt, nước da, mái tóc mà chọn kiểu mũ thì lúc đội mũ mới đẹp. Em có nước da trắng hồng nên mẹ chọn cho chiếc mũ vải màu xanh da trời có thêm cành hoa hồng và đôi bướm trắng. Cái Lụa bạn em lại đội mũ màu hồng có thêu đôi chim bồ câu trắng, xanh. Chiều nào tan học, hàng trăm học sinh từ cổng trường toả về các nẻo đường, lưng đeo ba-lô cóc, đầu đội mũ vải, tựa những chiếc nấm màu xinh xắn biết chuyển động. Đến lớp, em để cái mũ vải vào ba-lô sách. Đi học về đến nhà, chiếc mũ vải được treo lên tường. Chiếc mũ vải của em đã cùng em đi học gần được hai năm rồi. Nó vẫn sạch và đẹp. Mẹ nói: “Lên lớp Ba, mẹ sẽ mua cho con gái út của mẹ một cái mũ thật đẹp!”. Em mừng lắm. Tả chiếc mũ vải của em – Bài làm 2 Em lên học lớp 4, món quà chị Mai tặng em là chiếc mũ vải rất đẹp, rất xinh. Đó là món quà chị đi công tác Sài Gòn mua về. Chiếc mũ vải được may hằng lụa hồng viền tím, hiệu Mỹ Á. Vành mũ xòe ra như lá sen mềm mại ôm lấy chóp mũ và thân mũ. Hai bên thành mũ được thêu bằng chùm hoa cúc nở xòe vàng tươi có con chuồn chuồn và đôi bướm bay lượn. Lần đầu đội mũ đến lớp, bạn em đều tấm tắc khen đẹp, chúng chuyền tay nhau ngắm nghía và đội thử lên đầu. Em hãnh diện lắm. Ngày nắng cũng như ngày mưa, em vẫn đội mũ, vai khoác cặp sách đến lớp. Hôm nào mát trời, em cất chiếc mũ trong cặp. Mẹ bảo: “Con gái mẹ đội mũ vải đi học trông xinh xắn lắm, đáng yêu lắm!”. Em chỉ cười, ôm lấy mẹ và khẽ cất tiếng gọi: “Mẹ ơi!…”. Hai tuần một lần, em giặt mũ vào ngày chủ nhật. Chỉ cần phơi nắng, độ 2 tiếng đồng hồ thì mũ đã khô. Chiếc mũ sạch bóng, màu hồng tươi lên, trông rất đẹp mắt. Cái Thu, cái Huệ vẫn dùng mũ làm quạt những hôm nóng bức. Có đứa còn ngồi lên mũ lúc xem đá bóng, đá cầu. Em không làm như thế vì em nghĩ: “Có mũ đội lên đầu, đâu có phải là cái ghế”. Em rất quý trọng, nâng niu cái mũ vải của mình. Nó là vật che nắng, che mưa. Nó cùng em đến trường, đến lớp. Nó là vật trang sức làm đẹp mái tóc thiếu nữ. Nó còn là vật kỉ niệm mang nặng tình thương của chị gái. Các bạn nữ lớp 4E, ai cũng có một chiếc mũ vải. Đủ màu sắc rực rỡ. Trên đường đến trường trong nắng mai, có lúc em tưởng như các bạn và em đội hoa đi học. Lúc ấy, em càng thấy rõ chiếc mũ vải tuổi thơ bình dị mà thân yêu vô cùng.
Tả chiếc mũ vải của em – Văn mẫu lớp 5
685
Tả chiếc ô tô đồ chơi của em – Văn mẫu lớp 4 Em có rất nhiều thứ đồ chơi do bố mẹ mua cho, nhưng thứ em thích nhất là món đồ chơi mà anh của em vừa làm tặng em hôm chủ nhật vừa rồi. Đó là một chiếc xe ô tô được làm bằng vỏ hộp sữa. Chỉ bằng vài thứ vật liệu đơn giản, anh của em đã làm ra một chiếc ô tô giống hệt như thật, màu sắc rực rỡ và ngộ nghĩnh. Cũng đầy đủ thùng xe, bánh xe, mui xe, đèn xe và cũng chạy được hẳn hoi. Thân xe được làm bằng vỏ một hộp sữa, cắt mặt trên gập lại làm thành mui xe. Ở mặt bên sườn của vỏ hộp có dùi hai lỗ nhỏ từ sườn bên này sang bên kia. Hai que tre xuyên qua hai lỗ ấy làm thành trục bánh xe. Bốn bánh xe được làm bằng bốn nút chai. Nút chai được đục lỗ ở giữa bánh xe khỏi rơi ra ngoài. Hai nút chai nhỏ hơn được gắn ở phía trước làm thành đèn. Cuối cùng, một sợi dây được gắn vào đầu xe để có thể kéo xe chạy được. Cuối cùng thì em cũng có được một chiếc xe như xe thật. Chiếc ô tô đồ chơi đó không có gì là quý nhưng em lại rất thích vì đó là món quà do chính anh trai làm tặng em. Em thật sự khâm phục bàn tay khéo léo của anh trai, chỉ với vài ba thứ đồ bỏ đi mà anh ấy lại có thể làm thành một thứ đò chơi xinh xắn như vậy.
Tả chiếc ô tô đồ chơi của em – Văn mẫu lớp 4
282
Nội dung bài viết1 Tả chiếc đồng hồ báo thức ở nhà em – Bài làm 1 2 Tả chiếc đồng hồ báo thức ở nhà em – Bài làm 2 3 Tả chiếc đồng hồ báo thức ở nhà em – Bài làm 3 4 Tả chiếc đồng hồ để bàn báo thức ở nhà em – Bài làm 4 5 Tả chiếc đồng hồ báo thức ở nhà em – Bài làm 5 Tả chiếc đồng hồ báo thức ở nhà em – Bài làm 1 Để giúp mọi người đi làm và em đi học đúng giờ, ba đi công tác về mua cho gia đình em một chiếc đồng hồ báo thức. Đây là chiếc đồng hồ của Nhật còn mới tinh. Nó được để trong một chiếc hộp vuông xinh xắn. Loại đồng hồ chạy bằng pin, hiệu Sony. Cả đồng hồ là một khối tròn, đường kính khoảng mười lăm xăng-ti-mét. Vỏ đồng hồ được bọc một lớp mạ kền sáng loáng. Phía trên có quai xách cong cong rất tiện cho việc di chuyển. Sau tấm mi ka trắng là mặt đồng hồ. Mặt đồng hồ được phân định ra thành mười hai vạch chia đều cho các con số: mười hai, chín, sáu và ba. Riêng con số mười hai được ghi bằng màu đỏ. Các số khác màu đen. Giáp tâm đồng hồ có một ô nhỏ hình chữ nhật ghi ngày, tháng. Trên mặt đồng hồ có ba kim dài ngắn, to nhỏ, di chuyển nhanh chậm khác nhau. Kim nhỏ nhất, mảnh mai, màu đỏ là cô em út có tên gọi là kim giây, chạy nhiều và nhanh nhất. Nhìn vào, em thấy cô bé này quay liên tục không biết mệt mỏi. To và ngắn hơn là anh kim phút, lâu lâu anh ta mới nhích một chút. Chị kim giờ thấp người hơn anh kim phút, dường như đứng tại chỗ, nhưng thực ra, chị ta quay rất chậm, từ tốn như bước đi của một bà già ngoài bảy mươi tuổi. Mặt sau đồng hồ có hai cái núm tròn cũng được mạ kền sáng bóng. Một núm để điều chỉnh giờ, núm kia là hẹn báo thức để gọi em dậy đi học. Hằng ngày, tiếng “tích tắc! tích tắc!” của đồng hồ đều đặn vang lên. Trong nhà, ai cần biết giờ chỉ cần chạy ra nhìn nó là biết ngay. Sáng sớm, lúc năm giờ, đồng hồ vang lên một hồi chuông dài và tiếp sau là tiếng “cạp, cạp” của chú vịt Đô-nan khiến mọi người bừng tỉnh giấc. Em rất thích chiếc đồng hồ này, nó không những giúp em đi học đúng giờ mà còn nhắc nhở em chuyên cần hơn nữa trong học tập. Em sẽ cố gắng làm bài và sinh hoạt đúng giờ, biết giữ gìn đồng hồ và quý trọng thời gian. Tả chiếc đồng hồ báo thức ở nhà em – Bài làm 2 Ngoài mẹ gọi em thức dậy mỗi sáng mai thì còn có một người bạn làm nhiệm vụ “báo thức”. Đó chính là chiếc đồng hồ xinh đẹp nằm im lìm trên mặt bàn. Đây là người bạn tốt đã giúp em thức dậy đúng giờ hơn hằng ngày trước khi đến trường. Chiếc đồng hồ báo thức này là món quà đầu năm học mới mẹ mua cho em. Nó giúp em biết được giờ giấc đồng thời hẹn giờ để em tỉnh dậy. Đồng hồ có màu xanh da trời là chủ đạo. Còn mặt đồng hồ hình tròn, màu trắng nhìn rất hài hòa và bắt mắt. Những con số trên chiếc đồng hồ được đánh dấu bằng chữ số la mã để em biết được lúc này là mấy giờ, mấy phút. Những con số này có màu đen đậm, kể cả những bạn cận thị thì vẫn có thể nhìn thật rõ. Chiếc đồng hồ này được làm bằng nhựa cứng rất chắc chắn. Nhưng nếu để bị rơi có thể nó sẽ hỏng. Bởi vậy mà em bảo quản, giữ gìn chiếc đồng hồ cẩn thận và không để bị rơi. Tả chiếc đồng hồ báo thức ở nhà em – Bài làm 3 Người bạn giúp em luôn thức dậy đúng giờ đi học mỗi buổi sáng chính là chiếc đồng hồ báo thức. Nó là món quà xinh đẹp mà ông nội đã tặng em nhân ngày em tròn 10 tuổi. Chiếc đồng hồ của em mang hình dáng của chú méo máy Doremon tinh nghịch, đáng yêu. Chiếc đồng hồ khoác lên mình màu xanh da trời thật đẹp mắt. Bên trong là các chữ số từ một đến mười hai được xếp thành vòng tròn xinh xắn, đúng thứ tự. Khi bác pin đồng hồ thức dậy thì cũng là lúc cuộc chạy đua của ba anh em nhà kim bắt đầu. Anh kim giờ lớn tuổi nhất, mập mạp nhất nên chạy chậm nhất. Anh hai kim phút nhỏ hơn anh cả kim giờ một chút nên tốc độ nhanh hơn. Nhưng người thắng cuộc luôn là em kim giây nhanh nhẹn. Ba anh em nhà kim còn có thêm một người bạn hàng xóm đó là bạn kim báo thức. Bạn kim này giúp em luôn không bị muộn giờ đến lớp. Đằng sau lưng chú Doremon là hai nút bấm điều khiển. Một nút đặt báo thức, một nút điều chỉnh giờ. Mỗi khi bác pin không chịu làm việc, em lại nhờ bố mở chiếc nắp nhỏ sau lưng chú mèo máy để thay cho bác pin người bạn mới. Cứ cuối tuần được nghỉ là em lại mang chiếc đồng hồ ra lau chùi sạch sẽ. Em sẽ giữ gìn chiếc đồng hồ thật cẩn thận để nó mãi là người bạn tốt, đồng hành cùng em trên con đường học tập. Tả chiếc đồng hồ để bàn báo thức ở nhà em – Bài làm 4 Cả nhà em chỉ có một chiếc đồng hồ và đấy là chiếc đồng hồ để bàn. Từ mấy măn nay nó vẫn đứng ở một góc bàn nước, phía trước chân thờ, ngay gian giữa của ngôi nhà ba gian 2 trái bằng gỗ. Chiếc đồng hồ đó do Việt Nam sản xuất, dài và dày mình, cầm hơi nặng tay. Bố em mua nó trong một lần về họp ở Hà Nội, cách đây đã hơn ba năm. Vỏ đồng hồ bằng nhựa trắng, mép ngoài mạ vàng. Phần nhựa ít trầy xước nhưng phần mạ vàng đã bị hoen, tróc. Nó đứng bằng ba chân, hai chân trước mạ vàng còn chân sau bằng nhựa. Sau tấm kính trắng là mặt đồng hồ. Bên phải một ô vuông mạ vàng có bảng số chỉ ngày. Quanh ô vuông là trang trí mạ bạc. Bên trái là phần chính , lớn hơn,gồm một vòng 12 con số, từ số 1 đến số 12. Ba chiếc kim có độ dài ngắn khác nhau,và tốc đọ di chuyển khác nhau. Kim giây mảnh mai, màu đỏ quay liên tục Kim phút to hơn nhưng ngắn hơn, lúc lúc mới nhích một bước ngắn. Kim giờ tưởng như không chạy nhưng vẫn thầm lặng quay chậm chạp. Bác đồng hồ đứng đấy, im lặng theo dõi mọi người, im lặng ngắm nhìn căn nhà. Tiếng tích tắc đều đặn lúc vắng vẻ nghe rất rõ, lúc đông người tèo chuyện thì hầu như bị chìm đi. Thế nhưng lúc nào cũng vậy dù ngày hay đêm, bác vẫn cần mẫn làm việc. Ai cần đến bác thì có mặt ngay. Mỗi sáng, vào lúc 6 giờ, bác reng reng một hồi dài gọi cả nhà thức dậy, tiếng bácđnah gọn, thanh thoát, hối hả thúc giục … Mỗi ngày bác chỉ cần lên giây một lần , vào một giờ nhất định. Em thường xuyên lo công việc đó và hầu như không bao giờ quên. Có bác đồng hồ, em đi học đúng giờ, bố đi làm đúng giờ còn mẹ em biết lúc nào cần thổi cơm..Cả nhà đều quý bác và giữ gìn bác cẩn thận. Tả chiếc đồng hồ báo thức ở nhà em – Bài làm 5 Vào lần sinh nhật thứ chín, em được mẹ tặng cho em một thứ giúp em không bao giờ đi học trễ. Đó là một chiếc đồng hồ báo thức để bàn. Chiếc đồng hồ một phủ một lớp sơn màu xám xanh, trông thật bắt mắt, được chia làm hai nữa: một nữa dính với đồng hồ, nữa kia để làm chân đứng cho đồng hồ, còn là tấm chắn bảo vệ khi rơi sẽ không làm bể mặt kiếng đồng hồ. mặt đồng hồ được phủ một lớp nhựa trong suốt, có thể thấy bốn cây kim đang tổ chức một cuộc chạy ma-ra-tông toàn đồng hồ và các con số mà các thí sinh kim đã vược qua. Thật hấp dẫn. Cây kim mặc áo đen chạy chậm chạp, chạy một cách nặng nề đó là bác kim giờ. Cây kim mặt áo màu hồng thon thả chạy trước bác kim giờ thì đó chính là chị kim phút còn cô bé loắt choắt chạy nhanh thoăn thoắt đó là em kim giây. Hình như chỉ có anh kim đồng hồ báo thức là lười biếng nhất. chỉ khi có người giục anh ta mới chạy, còn không thì cứ đứng lì ra đó như trời trồng. Viền quanh mặt đồng hồ là các con số từ 1 – 12 màu đen, to, rõ được in trên mặt giấy trắng. phía sau mặt đồng hồ là hai núm nhựa có thể xoay sang trái hoặc sang phải để chỉnh phút và hẹn giờ. Bên dưới là một chỗ lõm vào để đặt một cục pin tiểu! đúng là món quà tuyệt vời! Nhờ có chiếc đồng hồ mà mà em không bao giờ bị muộn học. em hứa là sẽ giữ gìn nó cẩn thẩn, không làm cho nó bị rơi rớt.
Tả chiếc đồng hồ báo thức ở nhà em – Văn mẫu lớp 5
1,654
Nội dung bài viết1 Tả chiếc đồng hồ treo tường nhà em – Bài làm 1 2 Viết đoạn văn tả chiếc đồng hồ treo tường nhà em – Bài làm 2 Tả chiếc đồng hồ treo tường nhà em – Bài làm 1 Mặc dù bố mẹ em đều có đồng hồ đeo tay, nhưng mẹ vẫn mua về một chiếc đồng hồ treo tường GIMIKO kiểu mới rất đẹp. Mẹ bảo chiếc đồng hồ này sẽ giúp con biết giờ giấc mà học tập, lao động và nghỉ ngơi. Em thích quá, tiến sát lại ngắm thật kỹ chiếc đồng hồ. Đồng hồ có hình chữ nhật đứng. Trông nó to như tờ lịch có hình Diễm Hương đang cầm một bó hoa treo trên tường nhà em. Ở mép ngoài được mạ bằng bạc óng ánh trông rất đẹp. Bên trong mép ngoài có một lớp khảm trai đủ màu sắc. Lượng khảm trai ở hai bên và trên ít hơn lượng khảm trai ở dưới. Giữa lượng khảm tai có mười báy sao vàng. Xung quanh sao vàng có bốn mảng khảm trai giống nhau giống như bốn vệ sỹ bảo vệ. Nhìn qua lớp kính dày và trong suốt là mười hai số màu đen gồm các số từ một đến mười hai. Số mười hai ở chính giữa phía trên đồng hồ. Số sáu ở chính giữa phía dưới. Bên phải số sáu và số mười hai là các số từ một dến số năm. Bên trái số sáu và số mười hai có các số từ bảy đến mười một. Phía trên các số có những ô vuông màu xanh ngọc. Nếu trời tối ta tắt điện thì những ô vuông đó sẽ tỏa ra dạ quang giúp ta trông thấy tất cả các số.Ở các góc của đồng hồ có các hoa văn tinh vi và đẹp đẽ. Chính giữa tâm đồng hồ đó chính là nơi hội tụ của ba anh em họ kim đang cần mẫn chạy để kéo thời gian trôi đi. Trông anh Giây đầu bé tí hon, còn ở dưới chân lại hơi phình ra giống như mũi tên. Nhưng anh ấy chạy rất nhanh, anh Giây chạy được sáu mươi bước thì anh phút mới chạy được một bước. Anh phút trông như thanh kiếm. Còn anh Giờ thì béo ục ịch và lùn tìn tịt trông như con dao găm, chạy thì chậm như sên. Anh Phút chạy được sáu mươi bước thì anh giờ mới chạy được năm bước. Nhưng đừng chê anh ấy. Anh Giờ chạy được năm bước là đã kéo được một giờ đấy. Lúc ấy anh Giây sẽ gặp anh Phút và cũng là lúc chú Chuông vui sướng reo lên một hồi chuông. Lạ hơn thế, cứ lúc mười hai giờ là ba anh em nhà kim lại gặp nhau khíên cho chú Chuông đổ một hồi thật dài và hay. Trên nơi hội tụ của ba anh em họ kim là chữ GIMIKO và con ngựa màu đỏ đang giơ chân lên định đập xuống trông thật là ngộ nghĩnh. Quanh đó có các chữ tiếng Anh mà em chưa học tới. Em rất thích chiếc đồng hồ này vì nó đẹp và nó còn báo cho em đi học, bố mẹ em đi làm. Nó còn giúp em biết đã đến giờ học ở nhà chưa. Viết đoạn văn tả chiếc đồng hồ treo tường nhà em – Bài làm 2 Nhà em có rất nhiều đồng hồ, nhưng em thích nhất là chiếc đồng hồ ba treo tuờng ngay phía giữa gian nhà. Mẹ bảo chiếc đồng hồ treo ngay phòng khách sẽ giúp con biết giờ mà học tập, lao động và nghỉ ngơi. Đó là một chiếc đồng hồ tròn hàng nội, loại lên dây. Ba em mua nó trong lần chuyển nhà cách đây hơn năm năm. Cả đồng hồ là một hình bầu dục rộng độ hai mươi phân và cao độ mười phân. Vỏ đồng hồ được làm bằng gỗ, trên đầu là hình tròn mái nhà. Thân duới chứa quả lắc mỗi dây trôi qua tích tắc tích tắc, kim đồng hồ xoay vòng, đến giờ đúng là có hồi nhạc ngắn nghe rất vui tai. Kim giờ duờng như chỉ nhúc nhích như con rùa bò nặng nhọc. Chưa có lần nào đồng hồ bê trễ công việc nếu như mỗi ngày cho dù ai trong chúng ta đều ít nhất quên 1 vài công việc trong ngày. Đồng hồ là thứ không thể thiếu trong gia đình em, em rất yêu quý và trân trọng đồng hồ cũng như thời gian trôi qua hàng ngày.
Tả chiếc đồng hồ treo tường nhà em – Văn mẫu lớp 5
775
Nội dung bài viết1 Tả chị bán hàng đang làm việc ở cửa hàng bách hoá lúc đông khách – Bài làm 1 2 Tả chị bán hàng đang làm việc ở cửa hàng bách hoá lúc đông khách – Bài làm 2 3 Tả chị bán hàng đang làm việc ở cửa hàng bách hoá lúc đông khách – Bài làm 3 4 Tả chị bán hàng đang làm việc ở cửa hàng bách hoá lúc đông khách – Bài làm 4 Tả chị bán hàng đang làm việc ở cửa hàng bách hoá lúc đông khách – Bài làm 1 Cứ mỗi lần cần mua gì là em hay ghé qua gian hàng dụng cụ học sinh của cửa hàng bách hoá tổng hợp trên đường đi học. Chắng phải nơi đây bán rẻ hơn, mà do cô bán hàng rất lịch sự. Em cũng chưa biết tên cô, chỉ nghe mọi người gọi là cô Ba. Cô Ba độ hăm bốn, hăm lăm tuổi là cùng. Cô không cao lắm. Mái tóc cô đã uốn ngắn lại được cột vén lên phía sau gọn gàng nên trông thật phù hợp với dáng người nhanh nhẹn của cô. Đôi mắt cô đen láy với cái miệng hay cười, do đó nét mặt cô Ba lúc nào cũng rạng rỡ. Gian hàng của cô Ba có đủ thứ. Phía trên tường, lủng lẳng những cái bình mủ đựng nước, những chiếc cặp xinh xắn dù màu xanh đỏ. Trong quầy kính khá dài, nào thước, viết đủ loại, nào tập vở, giấy màu. thiệp chúc xuân, tất cả đều trưng bày khéo, sắp xếp tạo thành những hình trang trí hấp dẫn. Vừa thấy chúng em bước vào, cô đã vui vẻ chào đón. Vì là giờ tan học nên học trò là đa số, chi có vài khách người lớn. Các bạn ùa vào vây quanh quầy hàng. Người hỏi mua thứ này, người hỏi mua thứ khác lao xao. Có bạn vì nôn về sớm nên hối thúc, cô nhã nhặn: – Em làm ơn đợi có một chú nhé! Một mình cô Ba tất bật, quay vào ngăn kê phía sau lấy hộp phàn, quay ra quầy kính lấy cây com-pa, khi thì leo lên ghế đẩu để lẩy món hàng do khách yêu cầu. Em nghĩ là cô khó làm xuể hết nổi. Thế nhưng cô vẫn rất điềm tĩnh. Những thứ nào tính tiền xong, cô cẩn thận cho vào những túi ny-lông có quai sách. Mọi việc nhanh chóng, cứ nhìn đôi tay thoăn thoắt thì đù biết cô là người buôn bán thành thạo. Thấy em nãy giờ đứng bên ngoài, cô mỉm cười. – Em trai cần mua gì? – Dạ, bán cho em một quyển vở và một cây viết. Vừa trả tiền xong, định quay ra, cô đã gọi lại: – Em quên nhận tiền thối lại rồi. Em cám ơn cô và cùng các bạn ra về. Tuy giữa em và cô Ba không có mối quan hệ thân mật gì nhưng chính thái độ niềm nở, ân cần của cô đã làm cho em rất có cảm tình. Thảo nào gian hàng bán đắt là phải. Tả chị bán hàng đang làm việc ở cửa hàng bách hoá lúc đông khách – Bài làm 2 Hôm nay em được mẹ cho đi vào cửa hàng bách hóa gần nhà để mua đồ chuẩn bị cho dịp Tết nguyên đán sắp tới. Những ngày giáp Tết như thế này ai cũng muốn cùng cả gia đình đi sắm sửa, do đó ở cửa hàng bách hóa gần nhà em phải tăng cường người tới để giúp khách hàng chọn đồ và cũng để phục vụ khách hàng cho tốt trong dịp này. Trong số tất cả những người bán hàng ở đây, em thích nhất là chị Hoa. Chị là một trong số những nhân viên lâu năm của cửa hàng. Chị rất nhiệt tình và tốt bụng cho nên hầu như ai cũng muốn được chị tư vấn hàng hàng. Lần đầu tiên gặp chị Hoa là khi em đi cùng với chị gái đi mua một túi đinh đóng cho bố. đang lúc loay hoay không biết làm như thế nào thì chị xuất hiện. với một nụ cười tươi rói chị lại gần về phía chúng em và hỏi xem chúng em cần gì. Sau khi truyền đạt lại như những gì chúng em yêu cầu, chị lại cẩn thận dẫn chúng em ra tới chỗ lấy đồ và gói lại cho chúng em mang về nhà cho khỏi bị rơi. Hôm nay đi tới đây, em nhìn thấy chị Hoa đầu tiên. Vẫn là bộ đồng phục như mọi người trong cửa hàng mặc nhưng không hiểu sao em cảm thấy chị mặc lên lại đẹp lạ thường. Chiếc áo sơ mi trắng được sơ vin một cách gọn gàng đi cùng với quần âu màu đen. Dáng của chị dong dỏng cao nên mặc vào nhìn vô cùng đẹp mắt mà lại rất chuyên nghiệp nữa. Lúc chị nhìn thấy mẹ con em là khi chi vần đang tư vấn cho khách hàng thế nên chị không thể đi ra chỗ em và mẹ được nên chị chỉ nở một nụ cười dịu dàng rồi lại tiếp tục chỉ dẫn cho vị khách của mình. Có lẽ do quá đông khách nên nước da vốn trắng hồng của chị nay đã ửng đỏ,, trên trán là những giọt mồ hôi lấm tấm, mặc dù lúc này ở ngoài trời đang rất lạnh. Mái tóc ngang vai của chị được búi lên một cách gọn gàng và đẹp. có một lần em tới cửa hàng vào cuối ngày lúc chị sắp đóng cửa đi về nhưng thấy em tới chị vẫn dịu dàng mở cửa cho em để em vào trong cửa hàng lấy đồ mà mình chọn. có rất nhiều những vị khách khó tính những chị vẫn nhẫn nại, cẩn thận để tư vấn cho từng người một. Cũng có lẽ bơi vì vậy cho nên trong ba năm liền, mẹ em bảo rằng chi Hoa đều được bình chọn là nhân viên xuất sắc nhất và hiện tại chị đang làm phụ trách tại cửa hàng này. Chị Hoa là một người mà em rất thích. Cũng nhờ có chị mà em cũng rất thường xuyên tới mua tại cửa hàng. Hôm nay được chị tư vấn một cách đầy nhiệt huyết và chu đáo, mẹ em đã mua rất nhiều đồ đạc để chuẩn bị cho dịp tết: nào đèn tràng trí, bánh kẹo, đồ ăn, bát đĩa. Nhìn nụ cười dịu dàng và nghe được giọng nói nhẹ nhàng của chị, em thầm mong sau này mình cũng sẽ cố gắng để được như vậy. Tả chị bán hàng đang làm việc ở cửa hàng bách hoá lúc đông khách – Bài làm 3 Chủ nhật vừa qua, tôi được theo mẹ đi mua sắm những vật dụng cần thiết cho gia đình ở cửa hàng bách hóa quận Mười. Hôm nay là ngày chủ nhật, cửa hàng rất đông khách, tôi phải đứng ngoài trông xe cho mẹ. Nhìn vào cửa hàng, nhiều hàng hóa được trưng bày trên kệ, trong tủ kiếng rất đẹp mắt, gọn gàng theo từng loại hàng riêng biệt. Trong quầy có ba cô nhân viên mặc đồng phục màu xanh nước biển đang bán hàng. Gần phía tôi đứng có một cô nhân viên dáng người nhỏ nhắn đang giao hàng cho khách. Nét mặt cô vui tươi, trả lời khách lễ phép. Cô giới thiệu các mặt hàng mới, hướng dẫn cách sử dụng. Mái tóc đen mượt mà được cắt gọn gàng phù hợp với khuôn mặt trái xoan, trắng hồng của cô. Cửa hàng mỗi lúc một đông khách, người ra vào tấp nập, người đến trước đòi cô lấy hàng rồi thối tiền, người đến sau đòi cô cho xem hàng. Lại có người khó tính đòi món hàng này lại đổi món hàng khác. Đôi bàn tay cô thoăn thoắt làm việc liên tục nhưng cô vẫn vui vẻ, không hề cáu gắt hay phàn nàn và luôn miệng cảm ơn. Do mải mê quan sát cô bán hàng, mẹ ra hồi nào tôi chẳng hay. Thấy vậy mẹ hỏi: – Con nhìn gì vậy? Tôi trả lời: – Con đang quan sát cô bán hàng. Mẹ ơi! Mẹ có biết cô ấy là ai không? – À, đó là cô Tâm, người quản lí cửa hàng. Cô Tâm là người chịu khó, siêng năng, luôn tìm nguồn hàng có mẫu mã đẹp, tốt, phù hợp với thị hiếu và túi tiền của người dân ở đây. Cửa hàng bách hóa quận Mười là một siêu thị thu nhỏ. Với những mặt hàng chất lượng cao, giá cả phải chăng và các cô mậu dịch viên nhiệt tình vui vẻ, chắc hẳn cửa hàng sẽ được nhiều người ưa thích. Tả chị bán hàng đang làm việc ở cửa hàng bách hoá lúc đông khách – Bài làm 4 Mỗi khi cần mua vật dụng gì, em hay đến cửa hàng bách hoá thiếu nhi ở đầu chợ. Nơi đó, chẳng những có bán rất nhiều thứ mà còn có chị bán hàng rất vui vẻ, biết chiều khách. Chỉ mới nhìn chị thôi, người ta đã có cảm tình ngay: gương mặt đầy đặn, trắng trẻo, má lúm đồng tiền. Nhất là những lúc tiếp chuyện với khách, ánh mắt chị ân cần, lịch sự và miệng cười tươi tắn. Trên mái tóc dài chấm ngang bờ vai đen nhánh, chị cài một chiếc băng đô màu hồng nên có vẻ vừa thướt tha vừa gọn gàng. Tuy là cửa hàng bách hoá thiếu nhi nhưng lại có bán đủ thứ: từ tập, viết, thước, đồ chơi đến xà bông, bột ngọt… cho nên khách hàng rất đông, không chỉ trẻ con mà cả người lớn nữa. Một vài người đi đi lại lại ngắm nghía hàng hoá bày trên chiếc kệ dài treo sát tường, còn số đông tập trung trước mặt quầy, chồm cả người lên, tay cầm tiền giơ cao tranh nhau mua hàng trước. – Bán cho tôi một bịch xà bông. – Bán cho tôi hai hộp sữa. – Cái cặp đó giá bao nhiêu vậy cô? Khách háng dồn dập; chị tất bật vã mồ hôi mà vẫn không tỏ vẻ bực bội. Giá được quen biết chị em sẽ không ngần ngại vào phụ bán với chị ngay. Nhưng chị thật nhanh nhẹn tay vừa thoăn thoắt lấy hàng cho người này, miệng đã vồn vã trả lời cho người kia, luôn niềm nở, lễ phép với mọi người: – Thưa bác, chịu khó đợi cháu một chút. Do đó, dù có chờ đợi hơi lâu nhưng không một ai phiền lòng cả. Thấy em còn đứng phía ngoài, chị ngóng lên hỏi: – Em mua gì đó? – Chị bán cho em hai quyển tập. Chị nhoẻn miệng cười: – Nãy giờ chị tưởng em đứng ngắm hàng. Thôi được, có ngay! Hai quyển tập được gói lại cẩn thận, chị đưa cho em. Trả tiền xong, em lật đật ra về. Chị bán hàng ấy rất vui vẻ, nhã nhặn, thảo nào cửa hàng chị bán đắt là phải.
Tả chị bán hàng đang làm việc ở cửa hàng bách hoá lúc đông khách – Văn mẫu lớp 5
1,859
Vào sinh nhật lần thứ 8 của em, mẹ em đã mua tặng em một con búp bê rất đẹp và em rất yêu thích nó, đó là kỷ niệm sinh nhật lần thứ 8 của em và em sẽ không bao giờ quên. Búp bê mẹ mua tặng sinh nhật em rất đáng yêu, nó có bộ tóc vàng óng ả và được điểm thêm một chiếc nơ nhỏ xinh rất ấn tượng. Búp bê có một mái tóc dài vàng óng ả, em thường thay đổi kiểu tóc cho búp bê mỗi khi thích, khi thì chải thẳng mượt dài thướt tha, khi thì tết sam rất hiền dịu. Mỗi kiểu tóc em tạo đều mang cho búp bê một gương mặt mới, đều dễ thương và đáng yêu. Búp bê sở hữu một đôi mắt đen láy với hiệu ứng tạo sẵn, đôi khi búp bê lại chớp chớp mắt như mắt em bé rất đáng yêu. Em yêu búp bê lắm, em chuẩn bị cho búp bê rất nhiều những bộ váy sặc sỡ đủ màu.Trong đó, em yêu thích nhất là bộ váy hoa đường viền đăng ten đủ màu mà tự mình nhờ người may cho búp bê theo đúng sở thích. Ôi, búp bê mặc bộ đó trong mới đáng yêu và ngộ nghĩnh như một đứa trẻ vậy. Búp bê có đôi môi đỏ như son và cái miệng nhỏ xíu hình trái tim xinh xắn đáng yêu lắm. Cùng với đó, đôi tay của búp bê cùng với những ngón thon gọn như những chiếc bút rất nhỏ nhắn đáng yêu. Đôi chân thon thả được đeo hài đính hạt cườm óng ánh rất đẹp mắt. Em rất thích con búp bê này và coi nó như một người em thực sự, em thường chơi cùng nó mỗi ngày, ngay cả đi ngủ em cũng cho búp bê ngủ cùng và đắp chăn cho búp bê. Em giữ gìn búp bê rất cẩn thận và chăm sóc chúng từng ngày bởi em rất thích nó và cũng bởi đây là món quà sinh nhật mẹ tặng em.
Tả con búp bê của em
353
Nội dung bài viết1 Tả con búp bê mà em thích – Bài làm 1 2 Tả con búp bê mà em thích – Bài làm 2 3 Tả con búp bê mà em thích – Bài làm 3 4 Tả con búp bê mà em thích – Bài làm 4 Tả con búp bê mà em thích – Bài làm 1 Trong những món đồ chơi em có, em thích nhất là con búp bê được mẹ mua tặng trong một chuyến công tác xa. Con búp bê của em rất đẹp, em rất yêu quý nó. Con búp bê bé xinh, đủ để em bế vừa vặn trên tay. Nó mặc một chiếc váy màu dịu dàng nên em thường gọi con búp bê là bé Hồng. Bé Hồng có bộ tóc màu vàng óng ả. Em thường xuyên thay đổi kiểu tóc cho bé Hồng. Lúc thì buông dài thướt tha, khi thì tết sam dịu hiền, có lúc lại bối cao,… Nên em có thể chơi bên bé Hồng cả ngày mà không biết chán. Mắt bé hồng đen láy và có thể nhắm nghiền khi nằm xuống, rồi lại mở tròn nhìn em khi đứng lên. Cái miệng chúm chím lúc nào cững ửng đỏ nhìn đáng yêu lắm. Bàn tay dài, thon mượt đeo thêm chiếc túi bé tẹo đến là ngộ. Ngoài bộ váy hồng sẵn có, em còn xin được nhiều vải thừa từ cô thợ may đầu ngõ, may cho bé Hồng biết bao nhiêu là bộ váy sặc sỡ khác. Mỗi ngày theo sở thích của em, bé Hồng lại được diện những bộ váy đẹp mắt. Bé Hồng cứ thế cùng em vui chơi, em xem bé Hồng như người em thực sự của mình. Em ân cần chăm sóc bé Hồng, kể cho bé Hồng nghe những buồn vui sau mỗi buổi đến trường. Em yêu con búp bê của em nhiều lắm. Tả con búp bê mà em thích – Bài làm 2 Đó là một con búp bê rất đẹp mà mẹ mua cho em đúng vào ngày sinh nhật lần thứ chín. Búp bê có bộ tóc vàng óng và được cài hai cái nơ hình con bướm rất xinh. Em thường thay đổi kiểu tóc cho nó. Lúc thì tết bím, lúc thì buộc nhỏng lên đỉnh đầu. Mỗi kiểu tóc đều đem lại cho búp bê một gương mặt mới, dễ thương. Đôi mắt búp bê đen láy, thỉnh thoảng chớp chớp như mắt em bé, trông đáng yêu lắm. Búp bê mặc bộ váy hoa được viền những đăng ten đủ màu sặc sỡ. Đôi môi thì đỏ như son và cái miệng nhỏ nhắn hình trái tim. Đôi bàn tay có những ngón thon nhỏ như những chiếc bút. Và bàn chân thì được đeo hài óng ánh hạt cườm rất đẹp. Em rất thích con búp bê này. Mỗi lần đi ngủ em thường cho búp bê ngủ cùng và đắp riêng cho nó cái chăn em tự làm lấy. Em giữ gìn búp bê rất cẩn thận vì đó là quà mà mẹ đã tặng cho em. Tả con búp bê mà em thích – Bài làm 3 Trẻ em nào cũng thích đồ chơi phải không? Em cũng vậy nhà em có một tủ đồ chơi, nhưng em thích nhất là con lật đật. Đây là món quà mà em được tặng trong dịp sinh nhật lần thứ sáu của em. Tính đến nay đã được ba năm, con lật đật không còn mới nhưng em vẫn yêu thích nó. Vốn là con búp bê bằng mica, với hai màu trắng, đỏ. Thân hình lật đật tròn lẳn, hai cánh tay ngắn ngủn áp sát vào bụng, dính liền với mình là cái đầu tròn, khoác lên đó là một mảnh khăn đỏ, trông cô bé thật xinh xắn với đôi mắt đen tròn lúng liếng, cái miệng đỏ chúm chím cười trông rất đáng yêu. Nhớ lại lúc nhỏ khi mở món quà ra, em cảm thấy lúng túng vì không biết cách chơi, mỗi lần em muốn nó nằm thì y như rằng nó cứ bật dậy rồi nghiêng qua, nghiêng lại như cái đồng hồ quả lắc, không lúc nào đứng yên trông thật hay hay, hèn chi nó được gọi là “lật đật”. Nhìn con búp bê em chợt nhớ đến bài hát “Con lật đật” mà em đã được nghe khi còn đi mẫu giáo. Đôi lúc em muốn tháo tung con búp bê này ra đế xem bên trong búp bê này có gì mà khiến nó cứ lắc lư mãi. Đem thắc mắc đó đi hỏi, ba cho biết: bên trong bụng, người ta có để một thỏi sắt tròn và một cái chuông nhỏ, dài giúp cho con lật đật có thể nghiêng qua nghiêng lại mà không bao giờ bị ngã, đồng thời cũng phát ra âm thanh hay hay. Đây là món quà mà em thích thú nhất, đôi khi mệt mỏi hoặc làm bài không được em đều lấy con lật đật ra để giải trí, nhìn nó cứ lúc lắc mãi, em bật cười lúc nào không hay. Cho đến tận bây giờ, con lật đật vẫn còn là món đồ chơi mà em thích nhất. Lúc nào em cũng đặt nó ngay góc học tập của mình. Nó khiến cho em cảm thấy rằng tuổi thơ của em còn mãi nơi đây. Tả con búp bê mà em thích – Bài làm 4 Bố em đi công tác ở Hà Nội về, mua tặng em một em búp bê rất xinh. Em rất yêu quý em ấy và đặt tên em ấy là Na Na. Hàng ngày, em thường chơi với Na Na trong vườn. Na Na có đôi mắt xanh, có mái tóc vàng và có làn da rất trắng. Miêng Na Na lúc nào cũng mỉm cười với em. Em thường xin mẹ vải và tự tay khâu cho Na Na những chiếc váy rực rỡ, xinh tươi để Na Na có thể diện đi chơi cùng em. Em rất cưng chiều Na Na vì Na Na là người bạn rất ngoan. Hôm trước, em còn xin tiền mẹ mua cho Na Na một đôi giày đỏ và một chiếc khăn quàng đỏ nữa. Nhìn Na Na rất xinh và dễ thương. Bố em bảo Na Na nhìn giống cô bé quàng khăn đỏ. Em không biết điều đó có đúng không, nhưng em rất tự hào vì có một người bạn như Na Na. Em ước gì Na Na sẽ ở bên em mãi mãi, để em và Na Na có thể là bạn thân của nhau. Na Na hay cười nên em cũng học tập được điều đó ở Na Na, em cũng hay cười, cũng vui vẻ với mọi người. Em rất yêu quý Na Na của em.
Tả con búp bê mà em thích – Văn mẫu lớp 4
1,132
Nội dung bài viết1 Tả con gà trống mà em yêu thích – Bài làm 1 2 Tả con gà trống nhà em nuôi – Bài làm 2 3 Tả con gà trống mà em chăm sóc – Bài làm 3 4 Tả con gà trống mà em yêu thích – Bài làm 4 Tả con gà trống mà em yêu thích – Bài làm 1 Sáng nào đến nhà ông bà, em cũng chạy ra mở cửa chuồng gà. Cửa vừa mới mở ra, đàn gà ùa ra sân. Nhưng đi đầu lúc nào cũng là chú gà trống mà em yêu thích. Chú gà trống cưng của em đã được một tuổi rưỡi rồi. Chú có thân hình to lớn, chắc nịch, bộ lông nhiều màu sắc rực rỡ dưới nắng. Cái đầu tròn tròn được trời phú cho cái mào đỏ rực to dày và sần sùi, giống như những ngọn núi tí hon xếp sát vào nhau. Mỏ gà cong cong như cái vòi rót nước của ấm trà. Mỗi khi ăn thóc cái mỏ nhỏ ấy đập xuống kêu “cục cục”. Đôi mắt nâu nâu, xanh xanh, tròn xoe luôn quan sát động tĩnh xung quanh để bảo vệ đàn gà. Đôi cánh của chú úp sát vào thân. Hai cái chân của chú như hai chiếc đũa. Trên hai chiếc đũa ấy có các cặp cựa cứng như chì và ở dưới có bàn chân ba ngón xoè ra giúp chú gà đứng vững trên mặt đất. Nổi bật nhất là duôi chú với một túm lông màu đen pha xanh, trông thật mỹ miều. Cái lông đuôi ấy của chú vươn ra phía sau và cong lại hình cánh cung trông chú rất oai vệ. Niềm kiêu hãnh của chú vẫn là tiếng gáy. Mỗi khi gáy, chú vươn cổ, vỗ cánh phành phạch. Trong sinh hoạt với đàn, chú tỏ ra như một thủ lĩnh. Khi em cho chú ăn không có con nào dám tranh. Em yêu chú lắm. Lúc nào chú cũng có vẻ rất tự hào về mình. Chú như một chiếc đồng hồ cho gia đình. Tả con gà trống nhà em nuôi – Bài làm 2 Các bạn có biết không? Từ đầu năm học đến giờ tôi chưa lần nào đi học muộn cả. Ấy là nhờ chiếc đồng hồ báo thức đặc biệt của tôi đấy. Chiếc đồng hồ được mang tên là “chú trống choai đáng yêu”. Mới dạo trước chú trống choai này chỉ to hơn cái nắm tay của ba tôi một chút. Thế mà giờ đây chú đã tỏ ra khá cao lớn, bảnh trai và cứng cáp. Chỉ tính riêng cái mỏ vàng như nắng mùa thu của chú cũng đã đủ tạo nên cái dáng gà đàn anh rồi. Vẻ đẹp của chú so với bọn gà trống trong xóm thì cũng được xếp vào hạng nhất nhì. Chú khoác trên mình một chiếc áo vàng óng, mượt như tơ. Cái mào của chú ta đỏ chót và sần sùi. Cái mào ấy lúc nào cũng lắc sang bên này, ngả sang bên kia. Mắt trống choai tròn xoe, long lanh như thuý tinh, nhỏ bằng cái cúc áo. Hai cái chân của chú khá to, có mấy cái móng nhọn và sắc, luôn được dùng để đào bới đất kiếm giun. Đôi cựa đang to và khoẻ dần. Thỉnh thoảng nghịch ngợm chú cũng đá nhau với các chú gà trong xóm. Cái đuôi cùa chú có nhiều chiếc lông đẹp, nó vòng ra phía sau như cây chổi. Cái đuôi ấy chắc cùng khiến nhiều nàng gà mái phải ngẩn ngơ nhìn theo. Hình như chú ta luôn tỏ ra hãnh diện với vẻ ngoài cùa mình lắm. Mồi khi đi kiếm mồi, trống choai lại dắt nàng gà mái xinh xắn nhất trong đàn đi bới giun cùng mình. Bới được con giun nào, trống choai liếc mắt sang nhìn nàng gà mái, tỏ vẻ mời gà mái cùng xơi cho vui. Cứ mỗi sáng, chú trống choai nhà em lại cất cao tiếng gáy để đánh thức mọi người dậy chuẩn bị cho một ngày học tập, làm việc tốt. Bà bảo em: “Phải chăm sóc chú trống choai thật cẩn thận cháu nhé!”. Nghe lời bà, em luôn cho chú ăn thóc và dọn chuồng sạch sẽ để chú gà trống mau lớn, khoẻ. Tả con gà trống mà em chăm sóc – Bài làm 3 Ò ó o…o…o! Đó là tiếng gáy của con gà trống nhà em. Ba em mới nuôi con gà này được khoảng bốn năm tháng nay. Chú gà nhà em thuộc giống gà nòi. Chú có vóc dáng cao to, khỏe mạnh, oai vệ giống một chàng võ sĩ cường tráng. Toàn thân chú được bao phủ bằng bộ lông vàng mướt như nhung xen lẫn màu xanh đen óng ánh. Đầu tròn như một quả chanh nhỏ và nổi bật là chiếc mào gà hình răng cưa đỏ tươi trông như một đốm lửa nho. Đôi mắt sáng và tròn như hai hạt ngọc, lúc nào cũng lóng la lóng lánh. Cái mỏ của chú trông như hai mảnh thép hình vòng cung ốp lại dùng để kiếm ăn và tự vệ. Cổ nối liền với thân và được phủ một lớp lông màu đỏ chói.Thân mình chú chắc nịch, da dẻ hồng hào. Đuôi chú như chiếc cầu vồng ngũ sắc, cong và dài làm tăng thêm nét đẹp của chàng võ sĩ. Đôi chân vừa cao to vừa rắn chắc được bao bọc bởi một lớp vảy sừng màu vàng nghệ. Hai cái cựa chòi ra như hai mũi tên, nhọn hoắt, đây là thứ vũ khí lợi hại giúp chú tự vệ khi bị tấn công. Hằng ngày, chú gà trống em đánh thức cả xóm dậy với tiếng gáy quen thuộc “ò ó o ! o … o !”. Khi chú gáy, cổ chú phình lên, ngực ưỡn ra phía trước và vỗ cánh phành phạch oai vệ như một chàng võ sĩ. Tiếng gáy của gà trống vừa vang lên, mọi người đều thức giấc. Anh công nhân sửa soạn đi tới xưởng, bác nông dân chuẩn bị ra đồng. Còn chúng em cũng thức giấc để sửa soạn đi học. Em rất yêu quý chú gà trống nhà em vì chú vừa đẹp, vừa oai vệ và dũng mãnh. Em xem chú gà trống của mình như một người bạn thân thiết và hàng ngày chăm sóc chú chu đáo. Em cho chú ăn thóc và dọn chuồng sạch sẽ để gà trống mau lớn khỏe. Tả con gà trống mà em yêu thích – Bài làm 4 Nhà em có nuôi một con gà trống rất khoẻ mạnh. Nó là loài ăn tạp, thứ gì cũng ăn cả. Ba mẹ em rất cưng nó. Ngoài thóc gạo, ba em còn cho nó ăn thêm vài con cá nhỏ… Tính đến nay chú gà trống của em khoảng một năm tuổi. Nhìn bề ngoài của chú không to lắm nhưng ai ngờ chú lại nặng tới hai ki-lô-gam. Với dáng vẻ mập mạp, rắn rỏi, chú gà trống tinh nghịch của em luôn làm ra vẻ mình là người khoẻ nhất. Cái vẻ đỏm dáng của chú được tô điểm thêm bằng bộ lông nhiều màu sắc đầy sức hấp dẫn, bảnh trai. Để tìm giun và các loại côn trùng chú cần có đôi mắt linh hoạt, đôi mắt như hai hòn ngọc, long lanh đến không ngờ. Không chỉ có mắt tinh để kiếm mồi mà chú còn có cái mỏ cứng dùng để mổ. Đặc biệt cái mào đỏ chót trên đầu chú chính là cái vương miện để chú có dịp làm chảnh với các cô gà mái. Đôi chân nhanh nhẹn cùng cái cánh khoẻ mạnh chú kiếm được rất nhiều thức ăn. Mà mỗi lần kiếm được thức ăn là chú đều chia cho các cô gà mái ở nhà kế bên. Sáng sớm, chú bay lên nóc nhà em. Vỗ cánh và gáy “ò ó o”. Ý là chú muốn nói là “Cô chủ ơi, hãy mau dậy đi, coi chừng trễ học đó…” Cả nhà em ai ai cũng quý chú cả. Em đã hứa với ba là sẽ chăm sóc chú thật tốt và không để dịch cúm gia cầm lây sang con gà nhà em.
Tả con gà trống mà em yêu thích – Văn mẫu lớp 4
1,389
Nội dung bài viết1 Tả con gấu bông của em – Bài làm 1 2 Tả con gấu bông của em – Bài làm 2 3 Tả con gấu bông của em – Bài làm 3 Tả con gấu bông của em – Bài làm 1 Có những kỉ niệm theo người ta mãi đến khi trưởng thành, cũng có những món đồ mà người ta nhớ mãi khi nhớ về kỉ niệm. Bây giờ tôi tự thấy bản thân sung sướng hạnh phúc và đầy đủ hơn so với thời của bố mẹ mình. Không biết những bạn khác thế nào còn tôi thì bất cứ một món đồ nào của bố mẹ mua cho tôi đều giữ cho đến khi nó hỏng mói thôi. Bởi vì tôi biết đó là không chỉ là tình thương yêu bố mẹ dành cho tôi mà đó còn là món đỗ được đổi bằng chính những vất vả, mồ hôi và nước mắt của bố mẹ. Nhà tôi không nghèo khó nhưng cũng không phải quá giàu sang vì thế cho nên mỗi món đồ mà bố mẹ tặng tôi đều rất trân trọng nó. Đặc biệt trong dịp sinh nhật vừa rồi bố mẹ đã tặng cho tôi một con gấu bông thật đẹp, tôi thấy rất hạnh phúc và tôi yêu nó biết nhường nào. Con gấu bông không quá to nhưng đủ để tôi ôm trọn vào lồng, nó trở thành người bạn của tôi mỗi khi tôi nằm trên giường bất luận làm gì, nằm hay xem ti vi thì tôi đều ôm lấy nó. Tôi cảm thấy được hơi ấm của mẹ tôi ở đó, cảm nhân được bàn tay ầm áp của cha khi áp má vào nó. Nó to bằng cái gối ôm thôi, cả thân hình mẫm mạp của nó mang một bộ lông màu hồng. Không những thế nó còn có một một bộ áo trông rất dễ thương. Đó là một chiếc quần có dây vắt lên vai màu hồng xen lẫn mồng trắng. Vì nó còn rất mới cho nên nhìn bộ lông ấy giống như những áng mây hồng tuổi thơ vậy. Đêm đêm ôm nó ngủ thì tôi cảm thấy rất thoải mái và ngủ rất ngon. Bộ lông của nó mềm mượt nhẹ nhàng như áng mây trên trời vậy. Dẫu tôi chưa bao giờ được sờ vào mây nhưng tôi cảm nhận được sự mềm mại của mây mỗ khi ngước mắt lên nhìn bầu trời. Đôi mắt của nó là hai hạt đen lấp lánh, cái màu đen trên nền bộ lông hồng ấy càng nổi rõ hơn. Cái bụng của nó to lắm, to như cái trống vậy, chân tay của nó được người ta nhồi bông vào tròn tròn trông ngộ lắm. Mọi người cười bảo rằng nó giống như cô chủ của nó vậy. Có nghĩa là lùn và tròn như nhau. Nhưng mà như thế mới dễ thương chứ bộ. Cái miệng của nó cũng nhỏ nữa. Đôi tai ngắn như dễ thương. Nói chung tống thể của nó là mẫm mạp và lùn. Không quên kể đến chiếc nơ xinh xắn gắn trên áo của nó. Một chiếc nơ màu xanh da trời nổi bật trên cái thân hình tròn tròn ngắn ngắn màu hồng đó. Tôi rất yêu nó bây giờ nó như một vật bất ki thân với tôi vậy, sinh nhật tôi không phải năm nào cũng được tổ chức nhưng bố mẹ thì không bao giờ mua cho tôi một món đồ. Có những bộ quần áo bộ mẹ mua làm quà sinh nhật mà giờ tôi không thể mặc vừa nữa, nó cũng cũ nữa nhưng tôi không muốn cho ai cả, tôi vẫn cất nó vào trong góc tủ để làm kỉ niệm. và con gấu nay cũng thế tối sẽ luôn giữ gìn nó không để nó bẩn. Và mãi sau này cũng thế tôi sẽ luôn coi nó như một vật vô giá để tôi mang theo suốt đời nhớ về tuổi thơ mình cũng là nhớ về bố mẹ tôi. Tả con gấu bông của em – Bài làm 2 Nhân dịp sinh nhật lần thứ 10 của em, bố em tặng cho em một chú gấu bằng bông rất đẹp. Em rất thích món quà của bố và em đặt tên chú là Midu. Em thích món quà của bố lắm, ngày nào mỗi khi đi học về em cũng ra chơi với Midu. Midu cao khoảng 70 em nhưng chú được nhồi rất nhiều bông nên lúc nào trông chú cũng mũm mĩm, trên người chú là một lớp lông màu hồng, rất mềm và mượt. Đôi tai của Midu không giống những chú gấu mà em có, Misa có một đôi tai luôn cụp xuống, đôi tai được nhồi rất ít bông nên khi được tung lên thì đôi tai của Midu lại bị gió thổi tung lên, nhưng chỉ cần xuống vòng tay của em thì đôi tay ấy lại cụp xuống. Trông rất ngộ nghĩnh và đáng yêu. Một chiếc mũi nhỏ xinh màu đen nháy được đặt trên chiếc mõm nhỏ xinh. Trông mới thật đáng yêu làm sao. Trên cổ của Midu được gắn một chiếc nhỏ màu vàng trông rất hợp với bộ lông màu hồng của chú. Hai cánh tay của Midu rất to và lúc nào cũng có thể ôm lấy em. Em còn rất thích may đồ cho Midu, cứ hôm nào được nghỉ, sau khi làm xong hết các bài tập em lại trở thành nhà thiết kế riêng cho Midu, em may những bộ quần áo hay những chiếc khăn choàng rất hợp với Midu. Mỗi khi em buồn, Midu luôn là người bạn để em tâm sự. Mỗi khi em học bài, Midu thường ngồi bên cạnh, ánh mắt đen láy của Midu nhìn em như muốn nói: “Cậu hãy làm bài tập chăm chỉ đi nhé, tớ sẽ luôn ở bên cậu!” Em và Midu đã trở thành những người bạn rất thân thiết của nhau. Hằng ngày em chơi và ngủ cùng Midu, không có chú là em không bao giờ ngủ được nên đi đâu em cũng mang chú theo. Giờ đây em đã có nhiều gấu bông mới nhưng không một chú gấu nào có thể thay thế Midu yêu quý của em. Tả con gấu bông của em – Bài làm 3 Các bạn ạ, tuổi thơ chúng ta ai cũng gắn liền với những đồ chơi quen thuộc như búp bê, gấu bông, lật đật,…. Mỗi người đều có sở thích riêng về đồ chơi. Với tôi, món đồ chơi mà tôi thích nhất đó là chú gấu bông đấy. Lần ấy, bố đi công tác về tặng tôi một món quà trong chiếc hộp kín. Tôi rất hồi hộp không biết đó là gì. Khi mở hộp ra tôi reo lên vì sung sướng: " Ôi, chú gấu bông dễ thương quá!" Đó là một chú gấu nhồi bông mà tôi ước mơ bấy lâu. Chú ta có bộ lông trắng mịn và mượt như nhung, khi sờ tay vào ta có cảm giác như đang sờ vào tấm vải lụa mềm và mát rượi. Gấu ta khoác một chiếc áo màu đỏ tươi có điểm vài hạt cườm lấp la lấp lánh. Cái đầu chú tròn tròn như trái bưởi, đôi tai cũng tròn tròn vểnh lên trông thật là ngộ nghĩnh! Đôi mắt chú đen láy, tròn xoe như hạt nhãn. Thân hình chú ôm rất vừa tay nên tôi thường ôm chú ta mỗi khi đi ngủ. Những lúc ấy, bốn cái chân mập ú na ú nu của chú cứ dang ra như thể đòi tôi âu yếm vậy. Miệng chú nhỏ nhắn và đỏ hồng trông thật đáng yêu. Trên cổ chú là chiếc nơ màu đỏ được thắt hình con bướm trông yêu ơi là yêu. Mỗi tối học bài xong tôi lại dành thời gian để chơi với gấu bông. Tôi đặt cho cái tên là Happy. Mỗi khi tôi ôm chú vào lòng và thơm lên đôi má mịn màng của Happy trông chú ta có vẻ thích thú lắm. Bây giờ tôi đã lớn và có nhiều thứ đồ chơi khác nhưng Happy vẫn là người bạn thân thiết nhất của tôi. Tôi luôn giữ gìn chú cẩn thận vì đó là món quà bố tặng tôi: người luôn muốn con mình được vui vẻ và thoải mái.
Tả con gấu bông của em – Văn mẫu lớp 4
1,407
Vốn sinh ra trong một vùng nông thôn nên em không mấy lạ lẫm gì với những vật nuôi ở nông thôn. Được chăm sóc được tự tay chăm bẵm những con vật đó cảm giác của em thật là hạnh phúc và cảm thấy mình đã thật sự lớn. Lợn là vật nuôi mà nhà em nuôi nhiều nhất, mà nó cũng là con vật mà em cảm thấy đáng yêu nhất. Lợn là con vật mà từ khi bé tới lớn nhắc tới ngẫu nhiên người ta áp đặt cho nó vẻ đáng yêu. Bất kể những ai hơi mập một chút cũng được gọi một cách đáng yêu là Heo. Nhà em nuôi cả lợn đẻ và lợn thịt. Mẹ em hay gọi lợn đẻ là lợn nái. Từ khi nhìn từ bề ngoài người ta cũng thấy sự khác biệt giữa chúng đặc biệt là màu da và dáng vẻ của chúng. Chú lợn nái có đôi tai to , to bằng hai bàn tay người lớn, nó cứ úp vào khuôn mặt của chúng, mà tai lợn nái cũng khác.Nó có những ô màu đen và nâu đan xen chẳng khác gì mặt của chúng dính nhọ nồi. Có đôi lúc em thíc quen gọi nó là Nhọ Nồi, một cái tên mà không phải con Lợn nào cũng được đặc ân gọi. Hai mắt của nó bé tí xíu mà lại có hình dẹt, mắt nó lúc nào cũng giống như đang buồn ngủ. Chiếc mũi lớn hồng hào và ươn ướt, mỗi khi không có thứ gì ăn nó lại ủi những rơm rác có ở trong chuồng lên như tìm kếm thứ gì đó. Miệng nó thì rộng với những chiếc răng sẵn sàng nhai ngấu nghiến bất kể thứ gì chú ta gặp. Thân hình của chú cũng không khác gì những chú gấu. Vì nó là lợn đẻ cho nên nó cứ ì à ì ạch,khịt khịt mũi mà mắt ánh lên vẻ háo ăn. Không những thế, cứ lúc nào đói nó kêu ré lên như để đòi bà chủ hoặc ông chủ rằng tới giờ ăn của tôi rồi đấy. Còn bình thương nó kêu lên một âm thanh vô cùng đáng yêu, ụt ịt ụt ịt. Lông của chú óng mượt và khá thưa và đôi chỗ trên lưng thì cũng loang ra những màu y hệt như vậy, nhìn thật là ngộ. Chú luôn luôn trong trạng thái ì ạch nhưng cũng thấy thật đáng yêu. Chú ăn tất cả những gì mà tôi cho, ăn rau lang ăn rau muống, có khi quẳng cả khoai lang sống nó cũng ăn một cách ngon lành. Chú lợn luôn tạo ra những thứ mà mỗi khi ngắm nhìn nó thì cũng có thể nằm cười lăn cả ngày. Nó quả thật là một con vật đáng yêu mà cũng thật hữu ích. Nó là lợn mẹ cho nên sẽ cho ra đời những chú lợn con mâp mạp đáng yêu giống như nó.
Tả con lợn nhà em
501
Nội dung bài viết1 Tả con mèo nhà em hoặc con mèo em thường thấy – Bài làm 1 2 Tả con mèo nhà em nuôi – Bài làm 2 3 Tả con mèo mà em thích – Bài làm 3 4 Tả con mèo tam thể nhà em – Bài làm 4 5 Tả con mèo mà em yêu quý – Bài làm 5 Tả con mèo nhà em hoặc con mèo em thường thấy – Bài làm 1 Mỗi con vật đều có một “tài năng” riêng. Con chó thì giữ nhà. Chim bồ câu thì đưa thư. Còn chú mèo – loài vật em thích nhất thì có thể bắt chuột. Nhà em đang nuôi một chú mèo xinh xắn, tên chú là Miu. Vì là mèo tam thể nên chú khoác trên mình bộ áo gồm có ba màu: nâu, vàng và trắng. Đôi tai hình tam giác, mỏng, thính nhạy của chú mèo bình thường thì dựng lên để nghe những âm thanh bên ngoài nhưng khi có ai sờ vào thì lại cụp xuống. Miu có đôi mắt xanh biếc, tròn như hal hòn bi ve. Cái mũl đo đỏ lúc nào cũng ươn ướt. Khi mới về nhà em, chú mèo còn nhỏ, lại chưa quen nên kêu “meo, meo” cả ngày như thể chú đang khóc nhớ mẹ vậy. Bây giờ chú mèo đã lớn, lông mượt mà không còn xù, bết như trước nữa. Thỉnh thoảng, chiếc đuôi dài của Miu lại xoắn lại thành hình khoá son. Mẹ em bảo, con mèo nào có chiếc đuôi như vậy sẽ hay bắt chuột. Quả đúng như vậy, một hôm em đi mua tăm giúp mẹ, vừa ra đến sân, một con chuột đen sì xuất hiện ngay trước mặt em. Em hoảng sợ định la lên, nhưng em đã kịp trấn tĩnh vì bên cạnh mình lúc này là chú mèo. Chẳng hiểu, Miu đã đến bên em từ lúc nào mà em không hề hay biết. Đôi mắt hiền từ ngày nào giờ đã long lên sòng sọc như mắt sói. Miu bỗng thu minh lại, dặt dặt cái đuôi lấy đà, rồi “phốc” một cái, chiếc đuôi như cái roi quật mạnh theo bước nhảy. Con chuột không kịp chạy đã nằm gọn lỏn trong bộ móng vuốt sắc nhọn của chú mèo. Miu dùng hai chân trước tát vào má của con chuột như để trách mắng. Một lúc sau, con chuột chết. Chú ta tha con chuột ra một góc đánh chén ngon lành, sau đó chú ra dụi đầu vào chân em như để khoe chiến công. Em rất quý Miu. Chú xứng đáng nhận danh hiệu “dũng sĩ diệt chuột”. Tả con mèo nhà em nuôi – Bài làm 2 Nhà em có nuôi một chú mèo, chú mèo đáng yêu tên là Miu, mọi người trong nhà em thường gọi nó như vậy. Chú mèo Miu rất thích gần gũi với người, meo.. meo, mèo thường đến cọ vào chân em và đòi bế. Mỗi khi thời gian rảnh học xong em thường cuối xuống và chơi với chú, mỗi khi vậy Miu đáng yêu như một đứa trẻ thích làm nũng. Bề ngoài chú mèo rất đáng yêu, ai nhìn chắc cũng thích ôm. Em sở hữu một thân hình nhỏ nhắn với bộ lông trắng như bông, toàn thân mềm mại. Cùng với đó, cái đuôi cũng mềm mại, dài và có một túm lông màu nâu ở cuối đuôi. Cặp mắt chú lúc nào cũng mở to, tròn xoe và xanh biếc. Mỗi khi chú ngủ, nằm cuộn tròn trong mới hiền và dễ thương làm sao. Đặc biệt là khi ngủ trong vòng tay người, chú lim dim mắt, dịu đầu vào tay em trong rất ngộ nghĩnh. Tuy nhiên, khi Miu bước đi thì loại oai ra trò, trông chú mới hùng dũng và oai phong làm sao. Nó vươn mình dài, dõng dạc bước đi với vẻ mặt lạnh lùng trông như một chú cọp thu nhỏ. Cái tai nó vểnh lên, đầu nghiêng nghiêng, mọi hành động đều nhanh thoăn thoắt. Mẹ em còn làm cho Miu riêng một cái đệm riêng như chiếc giường nhỏ cho em. Thường ngày đi chợ, mẹ thường không quên mua riêng cá cho Miu. Cơm trộn với cá được để trong một chiếc đĩa nhỏ là món ăn khoái khẩu mỗi ngày của Miu. Khác với chú heo hay con cún con trong nhà, em Miu ăn rất chậm rãi và nhẹ nhàng, nhấm và gặp từng chút một. Miu cũng luôn tự mình làm vệ sinh cho mình, mỗi khi trời nắng, em thường phơi nắng trước sân nhà, nằm thu mình lại và lè lưỡi liếm dần dần khắp mình. Còn riêng mặt không liếm được, Miu thường liếm vào chân sau đó dùng chân xoa lên mặt. Đúng như câu ca bài hát “rửa mặt như mèo”. Chú Miu có cặp mắt rất đẹp, sáng và trong xanh như nước biển. Kể cả trong bóng tối, nếu có vật gì đó lạ, chú đều phát hiện ra ngay rất tinh nhanh. Bởi như theo mẹ em nói thì trong mắt mèo luôn phát ra tia hồng ngoại có thể nhìn thấy rõ hơn trong bóng đêm nên chúng mới thường rình bắt chuột ban đêm. Mèo Miu có chiếc mũi nhỏ nhỏ xinh xinh phơn phớt màu hồng phấn, lúc nào cũng ướt ướt trông lại càng đáng yêu. Bộ ria mép cũng trắng như cước vểnh lên mỗi khi đánh hơi thấy con mồi làm chú càng trở nên đặc biệt làm sao. Thân hình Miu dài nhưng rất thon thả, cái đuôi dài cong vút mỗi khi chú vươn mình nó uốn lượn như một dấu ngã. Mùa đông đến Miu như được diện quần áo mới với bộ lông dày ấm áp chú nũng nịu đòi ngồi vào lòng em, co tròn trong vòng tay ấm áp trông có vẻ “liễu yếu” nhưng kỳ thực vô cùng lanh lẹ và nhạy bén. Đặc biệt, dưới bàn chân của mèo còn có nệm thịt dày màu hồng nhạt, chính bởi vậy mà chú đi lại rất nhẹ nhàng, không hề gây ra tiếng động. Đó là một đặc điểm mà Miu bắt chuột rất tài. Khi nhìn thấy con mồi chú hùng dũng và mau lẹ khác hẳn với những lúc nũng nịu, nhõng nhẽo thường ngày. E rất yêu quý mèo Miu, mỗi khi em đi học về em đều tới và cong đuôi lên quấn sát và chân em. Miu như người bạn thân của em vậy. Tả con mèo mà em thích – Bài làm 3 Nhà em nuôi rất nhiều con vật đáng yêu nhưng em thích nhất là chú mèo rất dễ thương tên là Tommy. Tommy có bộ lông ba sắc màu vàng, đen, trắng xen kẽ nhau mượt mà và còn đem lại cho chú một bộ y phục tuyệt diệu. Cái đầu tròn tròn bằng nắm tay người lớn, được điểm sáng bằng cái mũi nho nhỏ, xinh xinh với hai cái lỗ ươn ướt màu hồng phấn. Hai bên khóe miệng, những sợi râu mép trắng như cước lúc nào cũng cử động liên tục. Chân chú như quả bí đao. Bốn chân nhỏ và thon. Cái đuôi dài thướt tha, duyên dáng. Bộ móng vuốt của Tommy thì rất lợi hại vừa nhọn trông vừa đáng sợ như một vũ khí phòng thân khi có chuyện gì xảy ra. Tommy rất thích đươc vuốt ve, chiều chuộng. Những lúc đang xem tivi, chú nằm vào lòng em như muốn em xoa vào bộ lông mềm mại của chú. Những ngày nắng ấm, Tommy thường ra sân nằm cạnh gốc chanh, ưỡn cái bụng trắng hồng ra đón nắng. Đôi mắt cũng ra vẻ lim dim, ngắm nhìn những đám mây giữa vòm trời trong xanh lồng lộng. Ban đêm, Tommy tỏ ra chăm chỉ và cần mẫn làm việc lắm. Không có một xó xỉnh nào mà chú không lục lọi. Đặc biệt là dưới bếp lũ chuột hay qua lại.Đôi mắt của chú trong đêm tối như những tia hào quang xuyên thủng bức màn đêm. Đôi bàn chân của chú được “trang bị” một lớp nệm dày và êm nên những bước đi của Tommy rất nhẹ nhàng. Vì vậy, những con chuột nhắt, chuột cống bẩn thỉu không thể nào qua khỏi chiếc miệng với những chiếc răng sắc nhọn của chú. Em rất quý Tommy vì chú đã giúp gia đình em diệt sạch lũ chuột hư đốn. Với công lao to lớn này của chú em sẽ cho chú mèo Tommy “một người thợ săn chuột” bữa tiệc với vài con cá bống và một cốc sữa con bò. Tommy quả là một con mèo khôn ngoan và biết nghe lời. Tả con mèo tam thể nhà em – Bài làm 4 Con mèo nhà em nuôi là mèo tam thể. Mèo tam thể sinh được ba con mèo xinh xắn nhưng không con nào có màu lông giống mẹ. Ngoại cho em một con mèo lông đen mun khi mèo con đã biết ăn cơm. Chú mèo con tuy nhỏ nhưng mạnh mẽ. Nó ăn ngoan, chóng lớn. Chỉ sáu tháng sau, nóđã là một chàng mèo trưởng thành, giỏi săn bắt chuột. Chàng mèo có bộ lông đen nhánh, óng mượt. Đầu mèo tròn, đôimắt của chàng ta màu xanh ve, sắc sảo. Hai tai nó như hai cái lá cắm hai bên mái đầu. Mũi chàng mèo màu nâu nhạt, nho nhỏ với bộ ria dài, cứng, đỏm dáng. Thân hình nó thon gọn, chỉ vừa bằng cánh tay người lớn. Bốn chân của mèo có những ngón chân u lên như đôi hài nhung đen. Chàng mèo đi lại uyển chuyển, ngoe ngoe cái đuôi dài, ra dáng một tay săn chuột điềm tĩnh, khôn ngoan. Buổi sáng mèo ta thường nằm ườn ở hiên nhà sưởi nắng, xế trưa, mèo đi đi lại lại trong nhà. Chàng mèo ngó nghiêng lên tường nhà, chuẩn bị bắt thạch sùng. Thạch sùng chỉ là món để mèo nghịch chơi. Chuột mới chính là món mèo thích. Chiều tối, chàng mèo ngồi như bất động ở góc nhà, bốn chân thu lại, đuôi cong áp sát mặt đất. Chàng rình chuột. Mắt chàng mèo lúc này sáng quắc, chăm chú nhìn vào góc nhà, nơi mẹ em hay để thực phẩm chăn nuôi. Một con chuột nhắt lấp ló rồi chạy đến gần bao bắp. Mèo ta phóng đến, chỉ nghe một tiếng “chít” vang lên gọn lỏn. Mèo ta ngoạm chú chuột xấu số ra sân sau. Mèo vờn chuột, đùa giỡn chán rồi mới ăn. Nhờ chú mèo, nhà em bớt hẳn chuột phá thóc lúa. Chàng mèo khá tinh khôn, chàng cũng biết mừng chủ. Khi em đi học về, chàng mèo chạy đến, kêu một tiếng “meo” mừng rỡ rồi cạ thân mình, nép vào chân em. Em cúi xuống vuốt đầu chàng mèo. Mèo ta rất bằng lòng, chàng lim dim mắt nom vừa dễ thương, vừa buồn cười. Nuôi mèo để đỡ bị chuột cắn phá đồ đạc trong nhà nên hầu hết ở nông thôn, mọi nhà đều nuôi mèo bắt chuột. Chàng mèo bắt chuột giỏi của em được mọi người khen ngợi và thường gọi đùa chàng là “Dũng sĩ diệt chuột”. Em rất yêu chàng mèo và thường đùa giỡn với chàng. Thế nên, ngoài những lúc làm “Dũng sĩ diệt chuột” chàng mèo là một người bạn thân của em, biết nhõng nhẽo, làm dáng và đón em ở cửa nhà sau mỗi buổi học về. Chàng mèo thật đáng yêu! Tả con mèo mà em yêu quý – Bài làm 5 Tom, đó là tên chú mèo mà mẹ đã mua tặng em vào dịp sinh nhật vừa rồi. Chú ta là người bạn thân thiết, luôn bên em và chơi đùa cùng khi bố mẹ em vắng nhà. Thoáng nhìn qua, hẳn ai cũng có thể đoán ngày được chú ta là một con mèo tam thể. Đầu chú tròn tròn như quả bóng tennis. Chú ta có một đôi tai mới thính làm sao, cho dù là tiếng động nhỏ đến đâu thì chú cũng có thể nhanh chóng phát hiện ra. Mắt chú to tròn, có màu xanh biếc. Mẹ em nói, mắt của chú có khả năng nhìn rất rõ được mọi vật trong đêm tối, em không biết là vì sao nữa, chắc có lẽ do mắt chú có tia hồng ngoại chăng? Mũi của Tom nhỏ nhỏ xinh xinh, có màu hồng nhạt và lúc nào trông cũng có vẻ ươn ướt. Miệng chú nhỏ nhắn, xinh xinh, mỗi khi chú cười lại để lộ ra hàm răng trắng muốt. Hai hàm răng đều nhau tăm tắp, nhưng lại nhọn hoắt. Chú ta vẫn thường hay dùng lưỡi để thưởng thức các món ăn, và cũng là để vệ sinh thân thể. Chú mèo nhà em được dạy dỗ từ khi còn rất nhỏ, cho nên chú ăn rất từ tốn, ăn xong miệng mà miệng chẳng còn dính chút thức ăn nào! Nhưng có vẻ khi được cho ăn món chú khoái khẩu là cá, chú như rất vội vàng, như sợ món cá ấy sẽ biến mất hay sao mà ăn rất nhanh. Tuy nhiên, lại không bao giờ chú bị hóc xương cả. Hai bên mép của Tom, là những sợi ria trắng và cứng như sợi cước. Mẹ em thường bảo đó là những chiếc Ăng – Ten của để giúp chú bắt chuột tốt hơn. Những lúc ôm ấp chú vào lòng, e vẫn thường vuốt ve bộ lông mượt mà và bộ ria mép ấy. Chú ta như cũng đồng tình, thích thú sao mà cứ nằm im cho em vuốt ve mãi không thôi. Ai nấy khi gặp Tom nhà em cũng đều khen ngợi về bộ lông ba sắc màu, và mượt mà của chú. Đuôi của chú mèo ấy rất dài, chân thon thả và rất lanh lẹ. Các bạn có biết làm sao mà mỗi khi chú đi lại đều không gây ra tiếng động nào không? Đó chính là nhờ dưới bàn chân của mỗi chú mèo lại có một lớp đệm rất dày. Tom nhà em trông bình thường chú hiền lành là thế, nhưng thật ra chú lại là một “cao thủ” bắt chuột đó nhé. Có lần, vào một buổi tối khi chú đang cuộn tròn nằm trong lòng em xem tivi, bỗng nghe đâu đó tiếng sột soạt. Nghi ngờ có chuột đang lục lọi dưới bếp nên chú chạy ngay xuống. Đúng như dự đoán, chỉ một lát sau Tom đã mang lên một con chuột rõ to chú bắt được dưới bếp. Trước đó, chú đã nằm im theo dõi con chuột rất kĩ rồi sau đó đập đuôi mạnh xuống đất và nhún người nhảy tới đúng chỗ con chột. Trông cứ như một cái lò xo vậy. Chân trước chú quắp chặt cổ con chuột, vờn đi vờn lại nó xuống sàn, khiến cho con chuột kinh sợ nhìn chú mà toàn thân cứng đờ không thể chạy thoát. Mỗi lần chú lập chiến công như vậy, em lại thưởng cho chú những cái vuốt ve âu yếm và những món ăn khoái khẩu của chú. Em rất yêu quý chú mèo này bởi vì chú vẫn thường chơi đùa cùng em mỗi khi nhà không có ai, và cũng nhờ có chú mà nhà em giờ đây chẳng còn bóng dáng con chột nào.
Tả con mèo nhà em hoặc con mèo em thường thấy – Văn mẫu lớp 5
2,590
Nội dung bài viết1 Tả con ong mật – Bài làm 1 2 Tả con ong mật và nói lên lợi ích của nó – Bài làm 2 Tả con ong mật – Bài làm 1 Ong mật sống tự nhiên trong rừng, cũng có thể nuôi trong vườn, trong nhà. Mỗi đàn ong có hàng nghìn con, gồm một ong chúa, vài trăm ong đực và hàng nghìn ong thợ. Ong thợ là ong cái nhưng không có khả năng sinh sản, nó chỉ bay đi lấy mật hoa, nhụy hoa và chăm sóc ong chúa, nuôi ong non. Ong thợ còn canh gác tổ và xây tổ. Tổ ong là một lâu đài bằng sáp có hàng trăm, hàng nghìn căn phòng hình 6 cạnh liền kề nhau. Ong có bộ cánh kép, mỏng và trong suốt màu vàng mơ. Đầu miệng có lưỡi dài hút mật hoa, có hai râu dài như ra-đa để định hướng, dẫn ong đi tìm hoa và bay vể tổ. Mỗi con ong có ba đôi chân, mọc đều về hai phía. Chân ong có nhiều đốt và có lông. Thân ong có bốn, năm vòng ngang. Đuôi ong có ngòi, đốt rất đau. Ong sống theo đàn. Hành trình của con ong dài hàng trăm dặm. Mỗi ngày ong bay đi bay về tìm mật hoa, nhụy hoa đem về tổ, chuyên cần từ tinh mơ đến chiều tối. Con ong tượng trưng cho đức tính chuyên cần và tích lũy. Con vật nhỏ bé mà có ích. Nó đem lại mật ong, sữa ong chúa và sáp ong. Nó còn giúp nhà nông thụ phấn cho cây trồng, hoa màu được bội thu. Tả con ong mật và nói lên lợi ích của nó – Bài làm 2 Ong có nhiều loài: ong nghệ, ong gấu, ong bầu, ong đất, ong vò vẽ, ong ruồi, …và ong mật. Ong mật có thể sống tự nhiên trong rừng, nhiều nhất là các rừng tràm vùng U Minh. Ong mật cũng có thể nuôi trong vườn nhà. Ong mật sống theo đàn, mỗi đàn đông đến hàng ngàng con. Mỗi đàn ong có một ông chúa, hàng trăm con ong đực và hàng ngàn con ong thợ. Ong chúa như một nữ hoàng, chuyên đẻ trứng phát triển đàn ong. Ong thợ để xây tổ, lấy mật hoa và gây mật. Mỗi con ong có cặp cánh mỏng, vàng thẫm, trong suốt, có 6 chân chia đều thành hai phía. Đầu ong có hai cái vòi nhỏ và đài. Miệng ong có lưỡi như một mũi kim. Ong thợ có lưỡi dài để hút mật hoa, chân có giỏ đựng phấn hoa, đầu có hạch sinh sữa chúa để nuôi ấu trùng. Tuyến nước bọt ở ngực có chất luyện mật hoa thành mật ong; bụng có hạch tiết ra chất sáp làm nguyên liệu để xây tổ. Mùa xuân, mùa hè có nhiều hoa cũng là mùa đàn ong phát triển. Nơi nào có hoa là ong bay đến tìm mật hoa, nhụy hoa. Ong có thể bay rât xa nhưng không bao giờ lạc đường về tổ; cứ chuyên cần đi đi, về về mang mật, mang nhụy hoa về tổ. Con ong nhỏ bé nhưng rất có ích. Nó cho ta mật ong, sữa ong chúa, sáp ong. Nó thụ phấn làm tăng sản lượng cây trồng. Nó là biểu tượng của đặc tính chuyên cần, tích lũy, kết đoàn. Nhà em có nuôi hai tổ ong mật. Tiếng ong rù rì từ sáng đến tối, nghe thật vui tai. Tháng hai, tháng ba, cây cam, cây chanh, cây bưởi ra nhiều hoa, em thường ra vườn ngắm ong hút mật và lấy nhụy hoa.
Tả con ong mật – Văn mẫu lớp 4
609
Tả con suối ở quê em Bài làm Nắng vàng ruộm cả một vùng trời, đong đưa trên các khe đá, bóng cây cổ thụ nghiêng mình bên dòng suối, em xách giỏ đi bắt cá cùng bố, ngồi tựa lưng vào bố trên các phiến đá để cảm nhận nhịp thở của suối mẹ yêu thương. Có những buổi chiều bình yên như thế bên dòng suối quê hương em, dòng suối đã gắn liền với cuộc sống của bao người trong bản làng. Con suối đã gắn bó từ rất lâu đời với bản làng. Mẹ hay bảo khi em sinh ra thì suối đã già rồi, mẹ không biết được tuổi của con suối là bao nhiêu. Nhìn từ xa con suối như dải lụa trắng mềm mại với màu nước bạc lấp lánh. Khi đến gần ta càng thấy mặt nước trong xanh hơn, gợn những đợt sóng liên hồi xô đẩy vào từng phiến đá to nhỏ đang bị phủ những lớp rêu dày xung quanh. Hai bên bờ suối là cỏ cây với đủ loại, mướt xanh, rủ bóng xuống mặt nước. Em thích nhất là khi đứng từ xa nghe tiếng suối róc rách chảy – âm thanh trong trẻo tựa như khúc đàn du dương mà đại ngàn đang hoà tấu, có lúc còn pha chút tinh nghịch như tiếng cười của trẻ thơ. Khi mùa xuân đến, ngọn gió nồm mang theo bụi mưa lất phất tạo cho con suối vẻ thơ mộng huyền ảo, mơ màng bên cỏ non mọc tràn hai bên bờ. Những chú chim thi nhau ca hát bên tiếng đàn suối róc rách: chào mào, chim cu, hoạ mi chao liệng làm đông vui cả núi rừng. Vào mùa hạ lòng suối trong xanh thấy rõ từng viên sỏi nhỏ, những đám mây lơ lửng trôi như cục kẹo bông trôi bồng bềnh in bóng xuống mặt nước. Dòng suối lộng lẫy trong sắc màu vàng cam của hoa vàng anh dọc hai bờ, trẻ con chúng em thi nhau ra hái. Mùa thu suối trầm mặc hơn với hoa súng tím, đông đến tuy lạnh lẽo nhưng suối vẫn toát lên vẻ ấm áp, gần gũi với bản làng. Con suối là người bạn thân thiết của mọi người, cung cấp nước sinh hoạt, tưới tiêu. Trẻ con, người lớn thường ra đây xúc tôm, bắt cá, vui chơi vào những đêm sáng trăng.
Tả con suối ở quê em
406
Cứ cuối tuần là em được bố và mẹ cho đi công viên chơi. Ở đó em được vui chơi thoả thích, được ngắm nhìn những con vật kì lạ. Đặc biệt là em thích thú với chú voi có tuổi ở đó. Chà, chú mới to làm sao ! Mẹ nói chú phải nặng đến vài tấn chứ chẳng chơi. Nhìn chú mà em tưởng tượng ra cả một toà nhà lớn. Bốn cái chân to lớn như cái cột đình. Còn cái tai thì chẳng khác gì một caí quạt lúc nào cũng phe phẩy. Thích nhất là chiếc vòi dài, càng về đỉnh lại càng nhỏ đi và có nhiều vòng tròn rất đều nhau. Mõm nép dưới cái vòi to tướng, nhìn sơ qua khó mà có thể thấy được. Hai chiếc răng nanh sắc nhọn, cong cong hình con tôm, chìa ra khỏi hàm răng, trông thật giống một con ác thú. Chú có cái đuôi dài thượt, dẻo như chiếc roi mây của cô em. Cùng với thân hình vạm vỡ, tròn tròn, nước da nhăn nheo, tựa như màu đất bùn ở những đồng ruộng xâm xấp nước đưa lên. Cái kiểu chú ăn trông thật kì lạ. Đầu tiên, chú gắp thức ăn lên. Dùng vòi cuộn tròn lại rồi quăng tuột vào mồm. Chiếc vòi hữa ích ấy còn giúp chú làm được nhiều việc nữa cơ, chẳng hạn: “Bắt tay, chào ngưới lớn…” Mối lần ra về em lại có cảm giác nuối tiếc. Cuộc vui nào rồi cũng phải tàn, em chia tay chú mà lòng buồn rười rượi. Mẹ nói nếu em cứ học tập tốt rồi tuần nào mẹ cũng đưa đi chơi vườn bách thú, nô đùa với chú voi to lớn và thật dễ thương.
Tả con voi trong sở thú
297
Nội dung bài viết1 Tả con đường làng quê em – Bài làm 1 2 Tả con đường làng quê em – Bài làm 2 3 Tả con đường làng quê em – Bài làm 3 Tả con đường làng quê em – Bài làm 1 Làng Xuân Bình là nơi quê cha đất tổ của em. Xuân Bình là một làng thuần nông. Xung quanh làng là những cánh đồng xanh bát ngát: đồng Vệ, đồng Châu, đồng Đót. Những năm về trước, đường làng sau cơn mưa lầy lội khó đi lại. Mấy năm gần đây, làng đã có điện thắp sáng, đường làng, ngõ xóm đã được xi-măng hoá, thẳng tấp, phẳng lì. Đường chạy ra các cánh đồng. Đường đi thẳng lên chợ Quán. Đường đi về phía cầu Dinh. Đường qua đình làng, qua giếng Đá, đi thẳng đến bến đò Yên. Dọc các con đường là nhà dân, là vườn tược, là những mái ngói rêu phong nhấp nhô. Đường qua đình là đẹp nhất. Có cây đa cổ thụ xanh um, cao chọc trời. Có ba cây gạo trên bến đò Yên, tháng ba nở hoa đỏ rực cả một bến sông, một khoảng trời. Đi trên đường thấy bóng mình soi xuống bến Đá, nước trong leo lẻo. Đường đi lên chợ Quán là đông vui nhất. Sáng sớm có nhiều người gánh nông sản đi chợ bán. Có nhiều tốp học sinh kéo nhau đi học. Có xe đạp, xe máy phóng qua. Có cổng làng cao to lợp ngói đỏ, quét vôi trắng. Hôm nào em cũng đi học qua con đường này. Đường làng đối với em vừa thân thuộc, vừa gắn bó thiết tha. Tả con đường làng quê em – Bài làm 2 "Quê hương" hai tiếng ấy nghe mà gần gũi thân thương làm sao? Tuổi thơ ai cũng có những kỉ niệm đẹp để mà nhớ, mà yêu ở quê hương. tuổi thơ của em gắn bó với cánh đồng thẳng cánh cò bay, dòng sông nước chảy hiền hoà, … nhưng gắn bó với em nhất vẫn là con đường từ nhà tới trường. Với em, con đường này có biết bao kỉ niệm. Đó là con đường rải đá răm như bao con đường khác. Tuy không rộng lắm, lại gồ ghề, lồi lõm nhưng đường cũng đủ cho một chiếc xe tải chạy qua. Mỗi khi đặt chân lên con đường lòng em lại cảm thấy bồi hồi:-t. Đầu làng, cây gạo đứng giương dù che nắng. Nơi đây đã chứng kiến những ván bi quyết liệt của bọn trẻ chúng em. Hai bên đường là hàng bạch đàn với những chiếc lá nhỏ như con mắt nhìn xuống đường. Sau hai hàng cây là cánh đồng rộng bát ngát, thẳng cánh cò bay. Tuy vậy, đi trên đường vẫn nhìn thấy những ngôi nhà xinh xắn nằm giữa một màu xanh mượt mà của vườn tược. Bước ra cửa ngõ, con đường làng quen thuộc hiện ra trước mắt, luỹ tre xanh rì rào trong gió, ánh nắng ban mai chiếu xuống vệ cỏ làm cho những giọt sương trở nên long lanh, lộng lẫy như những viên kim cương đính trên thảm nhung xanh. Em lấy chân đạp trên cỏ, một cảm giác mát lạnh khoai khoái thấm vào chân. Phía dưới vệ cỏ là con mương đào dẫn nước vào cánh đồng đang giữa tuổi dậy thì. Khắp nơi một màu xanh bát ngát tràn đầy sức sống. Ông mặt trời từ từ nhô lên thả ánh nắng ấm áp lọt qua kẽ lá chiếu xuống mặt đường như những hoa nắng đang nhảy nhót. Mọi người đổ ra đường mỗi lúc một nhiều. Trẻ em đến trường cùng bà con đi làm, đi chợ…. ồn ã. Trưa về, người đi lại thưa thớt, con đường như chìm vào trong giấc ngủ. Những chiếc lá khẽ đu đưa trong gió như quạt mát cho con đường. Chiều về con đường như thức giấc. Lại ồn ào náo nhiệt khi các bác nông dân đi làm về. Tiếng nói, tiếng cười gọi nhau í ới, tiếng xe cộ cứ ồn ào suốt cả con đường. Trên cây những chú chim hót véo von tạo ra một bản nhạc giao hưởng. Với em, con đường đã quen thân từ khi cắp sách tới trường. Đi trên con đường mùi ngai ngái của đất, mùi của lúa đồng, cỏ nội phà vào mũi lòng em lại cảm thấy bâng khuâng. Em rất yêu con đường. Hằng ngày, em đi trên con đường này. Có lẽ vì vậy mà em và nó trở thành đôi bạn thân thiết. Dù đi xa, được đi trên con đường đẹp hơn nhưng hình ảnh con đường làng quê vẫn in đậm mãi mãi trong kí ức của em, bởi vì nó đã nâng từng bước đi lẫm chẫm đầu tiên của đời em. Tả con đường làng quê em – Bài làm 3 Con đường làng em có cây đa già sừng sững trên bờ đê như một người lính gác. Bắt đầu từ đó, đường đổ dốc xuống, chạy qua giữa làng làm ranh giới cho hai xóm. Mặt đường vào làng không rộng lắm, chỉ vừa một xe trâu đi. Những phiến đá to gần bằng bàn nước xếp hàng tư lát dọc, nhiều chỗ lõm xuống như lòng mâm. Hai bên đường, nhà cửa san sát. Cứ nhìn những phiến đá ven đường là biết ngay cổng từng nhà. Phiến đá to nhất, nhẵn bóng vẽ đủ ba bốn “ bàn cờ tướng” đúng là cổng nhà cậu Toàn. Phiến đá màu trắng ngà, nổi vân như đầu con rồng chính là nhà thầy Hoán dạy em năm ngoái. Còn kia là phiến đá vuông màu xanh ghi quen thuộc, đó chính là lối đi vào nhà em. Vui nhất là những lúc chiều tà, trâu bò thả cỏ ở ven đê đi về làng, những chiếc móng gõ côm cốp trên mặt đường. Xe trâu, xe cải tiến lóc cóc lăn bánh, xe đạp thồ xuống dốc nhảy tưng tưng qua các phiến đá mấp mô trên mặt đường. Những tối sáng trăng, mặt đường như chiếc khăn sọc trắng vắt qua vai làng em. Dưới ánh trăng, chúng em vui đùa, chạy nhảy trên con đường quen thuộc ấy.
Tả con đường làng quê em – Văn mẫu lớp 5
1,047
Nội dung bài viết1 Tả con đường quen thuộc từ nhà em tới trường – Bài làm 1 2 Tả con đường quen thuộc từ nhà em tới trường – Bài làm 2 3 Tả con đường quen thuộc từ nhà em tới trường – Bài làm 3 4 Tả con đường quen thuộc từ nhà em tới trường – Bài làm 4 Tả con đường quen thuộc từ nhà em tới trường – Bài làm 1 Đường từ nhà em đến trường không xa lắm. Con đường băng qua hai khu phố. Nếu đi bộ, chỉ mười lăm phút là em đến trường. Ra khỏi nhà, em đi trên con hẻm lót bê-tông. Cảnh vật nơi đây rất thân thuộc: đầu con hẻm có xe bán bánh mì, xe bán trái cây và một quán cà phê nhỏ. Buổi sáng, con hẻm đông vui khách hàng mua thức ăn sáng. Cạnh đấy, trường mầm non Vàng Anh đang mở cổng đón các em mẫu giáo đến trường. Loa phóng thanh nhà trường đang mở những bản nhạc thiếu nhi nhí nhảnh, vui nhộn. Ra khỏi con hẻm, em đi trên đường Quang Trung. Đường này rộng hai mươi lăm mét, tráng nhựa chắc chắn, chia làm hai làn xe ngược chiều nhau, giữa đường có rào chắn sơn hai màu trắng đỏ. Hai bên đường, phố xá với các hiệu buôn bán trưng hàng hoá đẹp mắt, cửa kính sáng choang. Trên vỉa hè, khách bộ hàng đi lại thưa thớt. Trên đường, xe cộ lưu thông nhộn nhịp đông như ngày hội. Hai bên đường, hàng cây xanh che bóng mát được các chú công nhân công ty Cây xanh Đô thị cắt tỉa gọn gàng, đang che mát vỉa hè. Chim sẻ đậu từng bầy trên vòm lá cây, hót líu lo và chuyền cành gọi nhau lích rích. Gần ngã tư, nơi đường Quang Trung cắt ngang đường Thống Nhất, cột đèn tín hiệu giao thông xanh đỏ điều khiển xe cộ lưu thông trật tự, an toàn. Chú cảnh sát giao thông trong bộ đồng phục màu vàng nhạt cần mẫn, nghiêm nghị gác đường, hướng dẫn xe cộ lưu thông nhanh chóng. Tiếng xe chạy ồn ã hoà với tiếng còi xe hú đanh chát làm inh ỏi con đường vào giờ cao điểm, sau đó yên lặng một thoáng nhường cho tiếng chim hót véo von, rồi ầm ĩ trở lại. Cứ thế, phố xá nhộn nhịp ồn ào suốt cả ngày đến gần nửa đêm mới yên lặng. Hằng ngày, em đi bộ đến trường, quang cảnh phố xá trên đoạn đường đi học tường chừng như rất quen thuộc, không còn điều gì lạ lẫm. Nhưng không, mỗi ngày em nhận thấy con đường như sáng ra với những bồn hoa trồng giữa hai làn xe chạy, cột đèn đường được sơn mới, cây xanh được cắt tỉa thành hình vòm tròn. Thành phố của em đang ngày một đẹp lên và con đường đến trường em cũng đẹp hẳn ra. Những ổ rác nhếch nhác giảm đi nhường chỗ cho những thùng ráccông cộng, cho những cột ATM rút tiền của ngân hàng. Hoà cùng nhịp thay đổi mới hơn, sạch hơn, cổng trường của em cũng được sơn mới. Trường Tiểu học Kim Đồng, hàng chữ trắng nổi bật trên nền bảng xanh dương, đón các cô cậu học trò nhỏ đến lớp. Con đường đến trường thân quen với chúng em như một người bạn. Ngày ngày, con đường trải rộng đưa đón các bạn nhỏ đến trường, dẫn dắt người dân đi về trong cuộc sống. Nhộn nhịp mà thầm lặng, con đường góp sức vun bồi kiến thức cho những cậu học trò nhỏ như em, Em thấy mình thêm yêu con đường và hứa sẽ giữ sạch, không xả rác trên con đường thân thương này. Tả con đường quen thuộc từ nhà em tới trường – Bài làm 2 Trong suốt tuổi thơ tôi, tôi đã yêu mến vầ gắn bó với rất nhiều đồ vật: chiếc áo đồng phục, đôi dép mòn quai, chiếc mũ bảo hiểm… Mỗi vât đều để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc. Nhưng có lẽ, quen thuộc và gắn bó với tôi nhất là con đường từ nhà đến trường. Con đường mang cái tên thật đẹp: Châu Phong. Con đường được lát bê tông, rất phẳng và rộng, đủ cho mấy chiếc xe hơi qua lại mà không va chạm. Hai bên đường là hai hàng cây xanh rờn, đung đưa những cánh tay, những mắt lá như vẫy tay chào khách qua lại. Mùi hương hoa sữa thơm thoang thoảng bay đi khắp nơi, thỉnh thoảng còn có những bông hoa “tinh nghịch” đùa trên tóc, lên áo người qua đường. Lấp ló sau những hàng cây là những tòa nhà một, hai tầng đủ màu sắc. Khi bình minh vừa lên, đường như được khoác chiếc áo mầu hồng tươi. Lác đác một vài người qua lại trên con đường . Lúc đó, có thể nghe thấy rõ tiếng rao hàng của cô hàng hoa, chị hàng xôi…. Dần dần, mặt trời lên cao, phố phường bắt đầu tấp nập. Tiếng bước chân trẻ em ríu rít dến trường, tiếng còi xe “bim bim”, làm cho cuộc sống trở nên vô cùng rộn ră… Đứng ngắm con đường từ lúc sớm cho đến lúc bình minh thật là thích. Em yêu con đường này lắm! Tuy bây giờ nó vẫn còn nhiều ổ gầ, nhiêu chỗ rạn nứt nhưng sau này lớn lên, em mong muốn được góp phần xây dựng lại cho con đường cho nó trở nên đẹp hơn, khang trang hơn và an toàn hơn với người dân ở đây. Tả con đường quen thuộc từ nhà em tới trường – Bài làm 3 Mỗi buổi sáng, tôi lại rảo bước trên con đường tới trường. Đã từ lâu, con đường dường như là người bạn đồng hành gần gũi, chia sẻ với tôi niềm vui, nỗi buồn trong cuộc đời học trò. Con đường không đẹp, một vẻ đẹp lộng lẫy huy hoàng nhưng tiềm ẩn vẻ đơn sơ, mộc mạc gắn với cuộc sống yên bình của người dân phố tôi. Con đường phố tôi chạy thẳng băng, không có nét uốn lượn mềm mại, quanh co. Nó nhỏ và hẹp, cũng dễ hiểu bởi phố tôi là một phố nhỏ nên đường sá cũng không được đầu tư khang trang rộng lớn. Hai bên đường, những ngôi nhà thi nhau mọc lên, mọc lên mãi như những mô hình lắp ráp làm cho con đường vốn đã hẹp nay càng hẹp hơn. Đặc biệt, phố tôi rất thơ mộng bởi hai hàng cây ven đường. Mùa hè, những chùm hoa xoan rụt xuống một màu trắng, vương lại và kết những vòng hoa trên mái đầu lũ trẻ chúng tôi. Những ống khói vươn lên cao, chỉ để lại cho chúng tôi một khoảng trời nho nhỏ, con con. Bên cạnh bao ngả đường lớn, con đường phố tôi vẫn yên ả nằm đó với một bề mặt mà chỗ lồi, chỗ lõm. Nhưng tôi thấy điều đó chẳng làm con đường xấu đi mà còn làm cho nó thêm nét đơn sơ, giản dị. Hai bên đường, san sát biết bao cửa hàng, cửa hiệu đủ mọi thể loại khác nhau. Những cô bán hàng luôn tay vẫy nước lên những rổ hoa từ ngoại thành mang vào. Những bà hàng cơm, hàng phở mồ hôi bóng nhẫy, luôn tay đơm đơm, thái thái. Vỉa hè phố tôi gạch sứt sẹo nhumg tôi yêu những vết sứt đó vì nó luôn in trong trí nhớ của tôi, gợi cho tôi về hình ảnh con đường từ nhà tới trường. Ở đây cũng đủ loại nhà. Có nhà to, có nhà nhỏ, có nhà cao, nhà thấp. Đi men theo con đường mà tôi đếm được hơn hai chục cửa hàng, cửa hiệu. Họ lấn, họ chiếm rồi làm bục, bệ khiến con đường phố tôi đã hẹp càng hẹp thêm… Quên sao được những ngày học lớp một, tôi còn rụt rè, bỡ ngỡ bước những bước đầu tiên trên con đường này tới trường. Lúc đó, tôi thấy con đường sao lớn thế còn minh thì bé cỏn còn con. Lớn lên, tôi lại thấy con đường chẳng những không rộng ra mà còn bị thu hẹp lại. Cây hai bên đường xoè tán che mát, đu đưa như reo vui, chim chóc hát ca ríu rít… Ôi, nhớ nhiều lắm, nhiều lắm. Mỗi lần nhắc đến con đường này là bao kỉ niệm lại hiện về trong tôi, mãi mãi không bao giờ phai. Con đường đã là một người bạn tốt của tôi từ khi tôi còn học lớp một cho đến bây giờ, nên mỗi khi đi đâu xa, tôi lại thấy nhớ nhung, quyến luyến nó vô cùng. Sau này, dù có may mắn được bước trên những ngả đường lớn ở mọi phương trời thì kí ức về con đường tới trường sẽ vẫn mãi khắc sâu trong ý nghĩ và trái tim tôi. Và dù mai đây trưởng thành, tôi mơ ước công việc đầu tiên tôi làm là sẽ tu bổ, sửa chữa con đường tới trường này sao cho đẹp và rộng rãi hơn. Tả con đường quen thuộc từ nhà em tới trường – Bài làm 4 Tuổi thơ của tôi được gắn liền với dòng sông quê hương với cánh diều no gió, với những ngày cùng bạn bè bắt ve ,tu dế… Nhưng quen thuộc nhất, nơi dẫn dắt tôi đi tới trường, nâng bước chân lẫm chấm đầu tiên của tôi, đó là con đường từ nhà đến trường học. Con đường đến trường này hôm nào cũng tấp nập. Đường được lát xi – măng trông sạch sẽ. Vỉa hè hai bên được lát gạch đỏ trông rất là đẹp. Những cây phượng, cây bàng như những chiếc ô khổng lồ…xanh mát. Đây đó những bông cúc dại “mở mắt” chào đón ánh nắng bình minh. Chim hót líu lo trên các cành cây, chào mừng một ngày mới. Xe cộ tấp nập, tiếng còi xe bíp bíp nghe thật vui tai. Vài em nhỏ tung tăng tới trường. Chúng cười đùa vui vẻ làm cô nắng cũng phải ghé xuống mỉm cười. Tôi bước đôi chân trên con đường quen thuộc đến trường mà lòng vui không tả xiết. Tôi sẽ không bao giờ quyên con đường đày ắp những tuổi thơ. Ở nơi đây, có tiếng bước chân ríu rít của bè bạn, có tiếng bước chân nhẹ nhàng của mẹ và có tiếng bước chân mạnh mẽ của cha. Tôi cũng biết rằng con đường này không những dắt tôi đi học mỗi ngàymà còn năng ước mơ đầu tiên của tôi bay xa.
Tả con đường quen thuộc từ nhà em tới trường – Văn mẫu lớp 5
1,808
Nội dung bài viết1 Tả con đường từ nhà đến trường – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Hà Tĩnh 2 Tả con đường từ nhà đến trường – Bài làm 2 3 Tả con đường từ nhà đến trường – Bài làm 3 4 Tả con đường từ nhà đến trường – Bài làm 4 Tả con đường từ nhà đến trường – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Hà Tĩnh Mỗi buổi sáng, tôi lại rảo bước trên con đường tới trường. Đã từ lâu, con đường dường như là người bạn đồng hành gần gũi, chia sẻ với tôi niềm vui, nỗi buồn trong cuộc đời học trò. Con đường không đẹp, một vẻ đẹp lộng lẫy huy hoàng nhưng tiềm ẩn vẻ đơn sơ, mộc mạc gắn với cuộc sống yên bình của người dân phố tôi. Con đường phố tôi chạy thẳng băng, không có nét uốn lượn mềm mại, quanh co. Nó nhỏ và hẹp, cũng dễ hiểu bởi phố tôi là một phố nhỏ nên đường sá cũng không được đầu tư khang trang rộng lớn. Hai bên đường, những ngôi nhà thi nhau mọc lên, mọc lên mãi như những mô hình lắp ráp làm cho con đường vốn đã hẹp nay càng hẹp hơn. Đặc biệt, phố tôi rất thơ mộng bởi hai hàng cây ven đường. Mùa hè, những chùm hoa xoan rụt xuống một màu trắng, vương lại và kết những vòng hoa trên mái đầu lũ trẻ chúng tôi. Những ống khói vươn lên cao, chỉ để lại cho chúng tôi một khoảng trời nho nhỏ, con con. Bên cạnh bao ngả đường lớn, con đường phố tôi vẫn yên ả nằm đó với một bề mặt mà chỗ lồi, chỗ lõm. Nhưng tôi thấy điều đó chẳng làm con đường xấu đi mà còn làm cho nó thêm nét đơn sơ, giản dị. Hai bên đường, san sát biết bao cửa hàng, cửa hiệu đủ mọi thể loại khác nhau. Những cô bán hàng luôn tay vẫy nước lên những rổ hoa từ ngoại thành mang vào. Những bà hàng cơm, hàng phở mồ hôi bóng nhẫy, luôn tay đơm đơm, thái thái. Vỉa hè phố tôi gạch sứt sẹo nhumg tôi yêu những vết sứt đó vì nó luôn in trong trí nhớ của tôi, gợi cho tôi về hình ảnh con đường từ nhà tới trường. Ở đây cũng đủ loại nhà. Có nhà to, có nhà nhỏ, có nhà cao, nhà thấp. Đi men theo con đường mà tôi đếm được hơn hai chục cửa hàng, cửa hiệu. Họ lấn, họ chiếm rồi làm bục, bệ khiến con đường phố tôi đã hẹp càng hẹp thêm… Quên sao được những ngày học lớp một, tôi còn rụt rè, bỡ ngỡ bước những bước đầu tiên trên con đường này tới trường. Lúc đó, tôi thấy con đường sao lớn thế còn minh thì bé cỏn còn con. Lớn lên, tôi lại thấy con đường chẳng những không rộng ra mà còn bị thu hẹp lại. Cây hai bên đường xoè tán che mát, đu đưa như reo vui, chim chóc hát ca ríu rít… Ôi, nhớ nhiều lắm, nhiều lắm. Mỗi lần nhắc đến con đường này là bao kỉ niệm lại hiện về trong tôi, mãi mãi không bao giờ phai. Con đường đã là một người bạn tốt của tôi từ khi tôi còn học lớp một cho đến bây giờ, nên mỗi khi đi đâu xa, tôi lại thấy nhớ nhung, quyến luyến nó vô cùng. Sau này, dù có may mắn được bước trên những ngả đường lớn ở mọi phương trời thì kí ức về con đường tới trường sẽ vẫn mãi khắc sâu trong ý nghĩ và trái tim tôi. Và dù mai đây trưởng thành, tôi mơ ước công việc đầu tiên tôi làm là sẽ tu bổ, sửa chữa con đường tới trường này sao cho đẹp và rộng rãi hơn. Tả con đường từ nhà đến trường – Bài làm 2 Nhà thơ Đỗ Trung Quân có viết: Quê hương là đường đi học Con về rợp bướm vàng bay… Đối với em cũng thế! Con đường đi học gần gũi, thân thiết với em như bầu bạn. Nó là một hình ảnh của quê hương đang đắm sâu và ngân vọng trong em. Con đường phố mang tên đường Nguyễn Du. Lòng đường tuy hẹp nhưng đẹp lãm. Hai bên đường có hàng me xanh che mát. Buổi sáng, những cành me thả lá úa xuống mặt đường. Con đường nhựa láng bóng, đen sẫm, ở giữa có vạch sơn trắng chia hai phần đường cho xe chạy ngược chiều nhau. Xe máy, xe đạp tấp nập trên đường. Tiếng còi píp píp liên hồi. Các cô bán hàng rong kĩu kịt những quang gánh đầy ắp rau quả. Chúng em tung tăng cắp sách đến trường. Ai cũng hối hả trên đường phố. Trên cây sấu già ven đường, những chú chim nhảy nhót, chuyền cành. Tiếng chim không ngớt vọng ra, vang cả trên bầu trời xanh thẳm. Mặt Trời trên cao, đường thưa người hơn. Những ngôi nhà cao tầng nhìn ra đường với vẻ nguy nga, tráng lệ. Các cửa hàng, cửa hiệu mở cửa đón khách. Ánh nắng óng ả rải xuống mặt đường. Con đường ánh lên, bóng loáng như dải lụa. Một làn gió nhẹ thổi qua, những lá me lìa cành rơi lả tả, rơi trên vai áo người qua đường như lưu luyến. Hoa sữa trên cả vỉa hè ngan ngát hương đưa. Hoa đậu từng chùm tím biếc, rủ xuống lề đường như muốn nói một điều: con đường này đẹp rắm! Những buổi chiều hay những đêm tối mùa hè ngồi ở đây thì thật là thú vị. Em nhớ từng nụ hoa, từng viên gạch trên lề đường, từng gốc me già thần thiết. Con đường này không chỉ là bạn của riêng em, nó còn là bạn thân của những chị lao công. Đêm đêm, trên con đường này, dù là mùa hè hay mùa đông giá rét, tiếng chổi tre luôn xao xác dưới hàng me. Nhà nhà đã ngủ say. nhưng vẫn có tiếng chổi tre sột soạt trên đường. Những lúc ấy, con đường mới vắng vẻ và đẹp làm sao! Con đường quá thân quen với em. Từ lâu, đường và em như đôi bạn. Đường đã nâng bước em đi, giúp em thực hiện ước mơ hoài bão của riêng mình. Tả con đường từ nhà đến trường – Bài làm 3 Quê hương em có rất nhiều cảnh đẹp. Đó là con sông hiền hoà, cánh đồng thẳng cánh cò bay… nhưng thân thuộc với em nhất có lẽ là con đường quen thuộc từ nhà đến trường. Con đường tới trường là một con đường nhỏ được rải đá răm thẳng tắp. Hai bên đường là hai hàng cây xanh mát. Buổi sáng con đường rộn rã hẳn lên. Hình như tất cả lũ trẻ trong xóm em đều có mặt trên đường. Chúng chia thành những nhóm nhỏ tung tăng đến trường. Tiếng nói chuyện ríu rít xen lẫn tiếng cười vui vẻ làm con đường thêm rộn rã, tươi vui. Buổi trưa đường lạnh lùng ít được hỏi han. Lúc ấy, con đường yên lặng như chìm trong giấc ngủ. Hai hàng cây đứng quạt cho con đường càng thêm yên giấc. Trên cành, mấy chú chim sâu đang chuyền cành để bắt những gã sâu phá hoại cây, làm cho hàng cây thêm tốt tươi. Những tia nắng li ti rải xuống mặt đường trông như dát bạc. Những mái nhà nằm thấp thoáng dưới bóng cây thưa. Từ mái nhà nào vọng ra tiếng ru em trầm bổng . Tiếng võng đưa kẽo kẹt giữa buổi trưa hè làm cho con đường làng càng thêm vẻ yên tĩnh lạ lùng. Những đoạn đường bằng phẳng, mấp mô, gập ghềnh em đều thuộc như lòng bàn tay. Chẳng có ngày nào lũ trẻ chúng em không đặt bàn chân nhỏ bé của mình lên con đường thân thuộc ấy. Bởi vậy mà con đường trở thành một người bạn thân thiết với em. Con đường tới trường đã khắc sâu vào trong tâm trí em. Mỗi buổi đến trường, con đường đã để lại trong em bao kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi học trò. Mai ngày lớn lên em cũng không thể quên hình ảnh con đường thân yêu. Tả con đường từ nhà đến trường – Bài làm 4 Mùa khô năm ngoái, nhân dân địa phương em đã góp tiền, góp sức làm lại con đường nối xã Tân Long với các xã lân cận. Trường em nằm bên cạnh đường đi, cách nhà khoảng gần cây số. Sáng sáng, em cùng các bạn tung tăng cắp sách đến trường trên con đường giống như dải lụa hồng mềm mại uốn quanh thôn xóm. Đường trải đất đỏ, được san ủi kĩ nên rất phẳng phiu, đủ rộng để hai ô-tô có thể tránh nhau. Mặt đường cao ở giữa và thoải dần sang hai bên cho dễ thoát nước. Hàng cây bạch đàn trồng ven đường dạo nào giờ đã vươn cao, thân thẳng tắp, cành lá sum suê toả bóng mát. Mỗi khi có cơn gió thổi qua, lá cây lao xao, cành cây đung đưa như những cánh tay chào đón. Lúc chúng em đi học cũng là lúc con đường nhộn nhịp, đông vui nhất. Dân trong vùng họp chợ cạnh đường, tíu tít bên những gánh rau tươi, những đống trái cây hay những bu gà vịt. Các cửa hàng ăn uống mở cửa, phục vụ mọi người. Trên đường, tiếng xe lam, xe ba gác máy làm náo động không gian của một vùng quê yên tĩnh. Các loại xe tấp nập chở hàng hoá lên chợ huyện. Ra khỏi ngã tư với cảnh họp chợ tấp nập, con đường chạy giữa cánh đồng lúa và rau màu xanh tốt. Gần Tết, khí trời buổi sáng se se lạnh. Nắng sớm vàng rực trải trên màu xanh mỡ màng, non tươi của những liếp rau cải, cà chua, xà lách… Dăm ba cánh bướm trắng chập chờn trên vồng cải đơm hoa vàng tươi. Gần hết cánh đồng, con đường cao dần rồi nối với một cây cầu gỗ bắc ngang dòng kinh trong mát, cung cấp nước ngọt quanh năm cho đồng ruộng. Từ đầu cầu bên kia, con đường đổ dốc một đoạn chừng hơn trăm mét là tới trường em. Ngôi trường nằm cách mặt đường khoảng vài chục thước, giữa một vườn cây um tùm suốt ngày ríu rít tiếng chim… Băng ngang qua cổng trường, con đường tiếp tục chạy dài qua hai xã nữa rồi thông ra quốc lộ. Con đường đã trở nên thân thuộc với tất cả mọi người. Ngày hai lần đi về trên con đường này, chúng em đã khắc sâu hình ảnh của nó trong lòng.
Tả con đường từ nhà đến trường – Văn mẫu lớp 6
1,829
Nội dung bài viết1 Tả con đường đi học tuổi thơ của em – Bài làm 1 2 Tả con đường đi học tuổi thơ của em – Bài làm 2 3 Tả con đường đi học tuổi thơ của em – Bài làm 3 Tả con đường đi học tuổi thơ của em – Bài làm 1 Từ nhà em đến trường xa hơn cây số. Chúng em thường khoác vai nhau đi học. Con đường quê ngày nay đã được xi măng hóa, không còn gập ghềnh lầy lội như ba bốn năm về trước nữa. Dọc hai bên vệ đường là hàng cây. Bạch đàn thẳng tắp, lá xanh như dải lụa bay bay theo chiều gió nhẹ. Xuân hè, bạch đàn ra hoa từng chùm nhỏ màu vàng chanh, tỏa hương thơm đìu dịu. Hàng đàn ong ruồi, ong sói kéo đến hút mật hoa, cánh vỗ rù rì mơ hổ. Bằng lăng xòe tán sum sê xanh biếc, hoa nở thành chùm tím biếc. Chúng em có cảm tường dãy bằng lăng đội mũ tím, mũ hồng đi đến trường trong nắng mai. Cánh đồng Mít, đồng Chanh, đồng Sàng, đồng Thúng, mùa nào cũng đẹp. Tháng hai, lúa con gái xanh ngắt trải dài trải rộng như tấm thảm nhung căng tít tận chân đồi xa. Đẹp nhất là đôi ba cánh cò trắng, là hình ảnh con trâu con nghé hiền lành gặm cỏ ven đê. Nước từ cống Trắng tuôn về, dòng kênh trong vắt, nước lững lờ trôi, tỏa ra các cánh đồng. Tháng chín, lúa vàng tươi dâng hương ngào ngạt. Máy gặt đập, máy kéo, các bà, các chị, các bác nón trắng nhấp nhô đồng dưới đồng trên. Mùa gặt vui quá. Chỉ độ nửa tháng, chỉ còn lại cảnh: “Tháng mười lúa đã gặt xong, Còn trơ gốc rạ với đồng, đồng ơi!”. Từng toán người kéo đi đào hang chuột, đi săn bắt chuột. Khói đốt cỏ bốc lên trắng mờ. Dăm sáu cánh diều chao liệng, tiếng sáo diều vi vu vẳng lại. Cánh đồng quê và con đường đi học của tuổi thơ sao êm đềm thế. Chúng em đi qua chùa Diệc, lúc nào cũng thấy vài ba chú tiểu mặc áo nâu quét sân chùa, cổng chùa. Gác chuông vẫn im lìm. Cầu Thòng đã hiện ra. Từng đoàn học sinh nhấp nhô, tay nắm tay, vai khoác vai, hoặc đuổi nhau chạy. Tiếng cười, tiếng nói, tiếng reo cất lên náo nhiệt, cổng trường, biển trường, cột cờ, mái ngói tường vôi thân thuộc đã hiện ra. Đằng đông, mặt trời to như chiếc nong vàng nhô lên. Chim trời từ đâu bay túa ra nhiều thế? Hàng trăm học sinh trường em cũng là đàn chim non đang bay, đang ríu rít hót. Tiếng trống trường dội vang. Nhiều cô cậu reo lên, tranh nhau chạy lên trước. Em quay lại ngắm nhìn con đường đi học tuổi thơ. Với em, đó là con đường xanh mà các bạn trẻ nhiều nơi không thể có. Em khẽ hát lên: “Quê hương là đường đi học, Con về rợp bướm vàng bay.." Tả con đường đi học tuổi thơ của em – Bài làm 2 Con đường đi học của em thời thơ bé là những con đường làng nhỏ hẹp, chạy dài qua thôn xóm. Những con đườg đất đỏ, bùn lầy ngập ngụa trong những ngày mưa, đi học rất khổ. Em đã mấy lần “vồ ếch”. Từ năm 2008, đường liên thôn, liên xã đã được xi-măng hoá thẳng tắp, phẳng lì. Con đường đi tắt qua đồng Áng, đồng Lươn, lúa xanh rì bát ngát. Có chim én đưa thoi về mùa xuân, cò trắng bay lượn vào tháng mười. Trâu bò cày bừa, bê nghé gặm cỏ non. Nón trắng nhấp nhô trên đồng lúa, đồng khoai. Hôm nào đi học về được nhiều điểm tốt, em cùng các bạn nhỏ thường vui cười dừng lại ngắm cảnh đẹp đồng quê. Đi qua đồng Lươn, chúng em rẽ sang xóm Quán, đình Hương là nhìn thấy mái trường thân yêu của mình. Mái ngói đỏ son, tường vôi trắng xoá, khẩu hiệu Tiên học lễ, hậu học văn đỏ tươi đã hiện ra. Với em, con đường đi học là con đường vui, đã và đang kéo dài, mở rộng bao ước mơ đẹp của thời thơ ấu về phía trước. Tả con đường đi học tuổi thơ của em – Bài làm 3 Con đường đi học tuổi thơ là một trong những hình ảnh thân thương đối với tuổi thơ thời cắp sách. Lên 3 tuổi, tôi mồ côi bố. Năm tôi lên 5 tuổi, ông bá tôi cũng lần lượt qua đời. Nội, ngoại chẳng còn ai, hai mẹ con tôi sống trong hoàn cảnh nghèo khổ cô đơn. Năm lên 8 tuổi, tôi mới được vào học lớp Một. Các bạn cùng lớp đều kém tôi một, hai tuổi. Ngày tựu trường đầu tiên, mẹ đưa tôi đi học. Khắp các ngả đường quê đất đỏ, từng đoàn học sinh lũ lượt kéo nhau đi như trẩy hội. Bạn nhỏ nào cũng như tôi, đều được mặc quần áo mới, vai khoác túi sách, gương mặt hớn hở vui mừng. Các anh, chị lớp Bốn, lớp Năm vừa đi vừa nói chuyện râm ran. Tôi cứ lẽo đẽo theo mẹ. Mẹ nắm lấy bàn tay bé nhỏ của tôi, thỉnh thoảng lại cúi xuống nhìn tôi, âu yếm vuốt nhẹ lên mái tóc của tôi. Từ nhà đến trường chỉ non cây số mà tôi thấy xa lắc. Cảnh vật nào đối với tôi cũng vô cùng xa lạ. Con đường làng thẳng tắp,hàng cây bạch đàn xanh tốt reo lên trong gió thu. Qua chùa Lân, tôi cứ ngoái cổ nhìn cây gạo, nhìn gác chuông. Những đồng lúa xanh rì, trải dài, trải rộng mênh mông. Vài ba con cò trắng xoè cánh bay lên đậu xuống. Những cảnh vật thân quen ấy sao hôm ấy trở nên xa lạ đối với tôi nhiều thế! Vượt qua ngòi Hóp, đi trên chiếc cầu tre, tuy được mẹ nắm tay dìu đi, nhưng tôi cứ run lên, đi từng bước ngắn. Tôi nghĩ là ở dưới lòng ngòi có nhiều ba ba, thuồng luồng. Mấy năm sau lên học trường Trung học cơ sở, tôi nghĩ lại mà thấy buồn cười. Giếng Đỏ, chợ Quan đã đi qua. Hai mẹ con bước dần lên đồi. Trường Tiểu học Kim Đồng mái ngói đỏ son, tường vôi trắng xoá đã hiện ra trước mặt. Bỗng một hồi trống vang lên,trống ngực tôi vỗ liên hồi. Hàng trăm học sinh lớn nhỏ, áo quần đẹp đẽ đủ màu sắc nô nức chạy lên phía trước. Nhiều cụ ông, cụ bà dẫn cháu vào học lớp Một. Suốt năm học lớp Một, trời nắng cũng như trời mưa, mẹ vẫn đưa đón tôi đi, về trên con đường đất đỏ mém như dải lụa. Hàng phi lao, chùa Lân, ngòi Hóp, giếng Đỏ,chợ Quan, đã trở nên thân quen, tôi càng thấy yêu lạ. Tôi lên học lớp Sáu, con đường đất đỏ đã được lát xi mãng, cầu bê tông thay cầu tre bắc qua ngòi Hóp, nhưng bàn tay mẹ, những kỉ niệm thời thơ ấu về con đường đi học tôi vẫn không bao giờ quên.
Tả con đường đi học tuổi thơ của em – Văn mẫu lớp 6
1,217
Nội dung bài viết1 Tả cái bàn em ngồi học ở lớp – Bài làm 1 2 Tả cái bàn em ngồi học ở lớp – Bài làm 2 3 Tả cái bàn em ngồi học ở lớp – Bài làm 3 Tả cái bàn em ngồi học ở lớp – Bài làm 1 Đến trường, mọi vật đều thân quen trìu mến với em. Bác Trông thúc giục đúng giờ ra vào lớp. Trụ cờ nâng lá cờ đỏ thắm của Tổ quốc. Bác Bàng rì rào tay lá che mát cho chúng em. Trong lớp, bảng đen được lau sạch chờ tiết học đến. Trong bao vật thân thiết ấy, cái bàn họcsinh em ngồi học là gần gũi nhất. Cái bàn hình chữ nhật, dài một phẩy hai mét, rộng năm mươi xăng-ti-mét, là loại bàn học sinh hai chỗ ngồi. Bàn được làm bằng gỗ ép công nghiệp và mi-ca dán phủ bên ngoài. Mặt bàn dán mi-ca màu kem sữa, chân bàn lm bằng sắt hộp, ngăn bàn cũng làm bằng sắt. Trừ mặt bàn dán mi-ca, các bộ phận khác của bàn đều được sơn tĩnh điện màu kem sữa. Ngăn bàn rộng bằng mặt bàn, cao hai mươi lăm xăng-ti-mét, để vừa đủ hai chiếc cặp học sinh. Bên dưới bàn, ngay chân bàn ở hai có hai móc sắt nhỏ để học sinh treo mũ cho tiện gọn,Cái bàn được làm chắc chắn và sử dụng những vật liệu hiện đại, nhẹ, lắp rắp mau chóng và tiện dụng, tiết kiệm cho ngân sách quốc gia một số tiền khá lớn. Mỗi ngày đến lớp, em thêm yêu mến phòng học của mình, yêu mến các đồ vật trong phòng, yêu mến bạn bè đã học cùng nhau trong suốt năm năm qua. Để giữ gìn bàn được mới lâu, em không viết hoặc vẽ bậy lên mặt bàn, không nô đùa xô bàn ghế vào nhau, không xả rác vào ngăn bàn. Chúng em thường xuyên lau mặt bàn bằng một mảnh vải mềm. Nhờ thế, mặt bàn luôn sạch và sáng bóng như mới. Thành tích ấy của lớp em được nhà trường biểu dương thành phong trào cho toàn trường cùng nhau giữ gìn tài sản tốt. Cái bàn chắc hẳn thích thú phong trào nàylắm, mặt bàn cái nào cái nấy sạch sẽ, sáng bóng. Sau mỗi buổi học, em như nghe cái bàn thầm thì: “Cảm ơn các cô cậu học sinh, nhờ các cô cậu chăm sóc giữ gìn mà chúng tôi được sạch đẹp, bền lâu.”. Mai này lên lớp sáu, emsẽ xa cách cái bàn đang ngồi học bây giờ. Lớp học với những kỉ niệm khắc ghi vào tim em niềm yêu mến thiết tha mái trường Tiểu học, yêu bảng lớp, yêu chỗ ngồi thân quen và yêu cái bàn đơn sơ, giản dị đã giúp em có phương tiện học tập trong suốt năm năm Tiểu học. Tả cái bàn em ngồi học ở lớp – Bài làm 2 Lên lớp bốn, em học ở lớp mới, toàn bàn ghế mới. Cô giáo chủ nhiệm xếp em ngồi bàn đầu. Cùng ngồi bàn này có hai bạn nữa, tên là Sơn và Nhật. Bàn học của em chưa sơn, chưa được đánh bóng. Bàn để mộc, màu vàng tươi. Em ngồi tì tay lên mặt bàn. Cái mặt bàn hơi nghiêng đã được bào nhẵn, riêng các cạnh và mặt dưới còn ram ráp. Ngăn bàn há miệng nuốt chiếc cặp phồng to của em. Có lúc em tưởng tượng thò tay vào ngăn bàn lôi được một con chim non. Em không biết các bác thợ mộc đã lấy gỗ gì đóng bàn, chỉ thấy bàn vững chắc. Mép sát ngoài cùng thẳng dài và phẳng. Cây viết đặt lên không bị lăn, đặt bình mực cũng không rớt. Em lấy viết bi định ghi tên vào cái góc bàn thì cô giáo nói: – Các con phải giữ bàn cho mới nghe, không viết, khắc lên mặt bàn. Cũng không làm rớt, đổ mực hoặc ngồi lên mặt bàn. Nghe rõ chưa nào? Thế là em dừng tay lại. Ơû nhà, em cũng có bàn học riêng chỉ bằng cái bàn này. Bố em cũng dặn đừng làm hư bàn, dơ mặt bàn. Bàn học ở nhà em được bao nhựa mi ca bóng láng màu gụ rất đẹp. Bốn chân nó chỉ nhỏ yếu hơn bốn chân cái bàn em đang ngồi ở lớp. Cái bàn dài đè lên trên bốn chân vuông, to, thẳng đứng. Cả ba chúng em tì tay lên bàn, bàn vẫn không lung lay. Cô giáo em cho biết để đóng được cái bàn phải mất nhiều công sức. Nào là trồng cây, hạ xuống, chở về. Nào là cưa, xẻ, đục, bào, đóng. Rồi chuyển đến trường. Em cùng bạn Sơn, bạn Nhật cố giữ bàn học của chúng em thật sạch thật bền. Em mở sách để sát cái thước kẻ dài, rồi đặt thật ngay quyển tập dưới cuốn sách. Em nắn nót viết. Bàn ơi, đứng yên, nghe. Mình sẽ giữ bạn cẩn thận như cái bàn học ở nhà. Tả cái bàn em ngồi học ở lớp – Bài làm 3 Trường là nơi em cắp sách tới trường để học tập tri thức sau này để trở thành người có ích cho xã hội , chiếc bàn học ở trường là người bạn giúp cho em học tập tốt hơn . Cái bàn học có 4 chân thật vững chắc. Nó được sơn màu vàng , và gồm có 4 ngăn. Chiếc bàn đó được thiết kế cho 4 người ngồi học. Trên bề mặt của nó rất nhẵn và được các bác thợ mộc thiết kế rất đẹp. Bề mặt của nó rộng khoảng 30 cm. Mỗi khi chúng em cắp sách tới trường là chúng em ngồi khoanh tay trên chiếc bàn học đó. Nó giúp chúng em ngồi viết bài và chiếc ngăn bàn còn giúp em đặt cặp sách của mình. Chúng em rất trân trọng chiếc bàn học đó , các bạn trong lớp cũng rất có ý thức bảo vệ chiếc bàn đó. Không bao giờ các bạn viết hay bôi bẩn lên bàn ,vì vậy cả lớp bàn học nào cũng rất mới cho dù nó đa được đóng từ rất lâu rồi . Em rất yêu quý chiếc bàn học ở trường nó là người bạn gắn bó với em trong quãng đường cắp sách tới trường , em rất trân trọng nó.
Tả cái bàn em ngồi học ở lớp – Văn mẫu lớp 4
1,082
Nội dung bài viết1 Tả cái bàn em ngồi học ở nhà – Bài làm 1 2 Tả cái bàn em ngồi học ở nhà – Bài làm 2 3 Tả cái bàn em ngồi học ở nhà – Bài làm 3 4 Tả cái bàn em ngồi học ở nhà – Bài làm 4 Tả cái bàn em ngồi học ở nhà – Bài làm 1 Từ khi chuyên đến nhà mới, mẹ đã mua cho em một bộ bàn ghế cá nhân để ngồi học ở nhà. Đó là một chiếc bàn nhỏ xinh xắn được làm bằng gỗ thao lao. Mặt bàn là một hình chữ nhật, chiều dài khoảng một mét hai, chiều rộng khoảng bảy mươi phân được quét bởi một lớp véc ni màu gạch sậm, bóng loáng. Phía dưới mặt bàn là một cái tủ con con được chia làm nhiều ngăn, em dùng để các đồ choi hàng ngày và một số đồ dùng học tập. Cái tủ được thiết kế hằng hai cánh cửa lùa nên rất tiện sử dụng. Phía trên mặt bàn, trước chỗ ngồi học là một cái giá sách tí hon được làm bằng gỗ dán ép có nhiều ngăn. Mỗi ngăn em sắp xếp các loại sách khác nhau: sách giáo khoa, sách tư liệu tham khảo, sách truyện thiếu nhi… theo thứ tự nhất định. Cạnh cái tủ sách là một bình hoa nhỏ mà em thường cắm vào đó một vài bông hồng tươi hái từ vườn hoa trước sân nhà. Em thường trang trí bàn học tập ở nhà của em như vậy đó. Nó là cái thế giới riêng trong phòng em. Các bạn đến thăm em cũng thường ao ước có một cái bàn như thế để học. Bàn học của em được kê ngay bên cửa sổ nhìn ra ngoài vườn hoa phong lan của bố mẹ. Mỗi buổi sáng, em thường thấy mấy chú bướm cứ nhởn nhơ đi tìm hoa hút mật. Em rất yêu phòng học của mình nơi có chiếc bàn đã từng gắn bó với em bao kỉ niệm buồn vui của thuở thiếu thời. Tả cái bàn em ngồi học ở nhà – Bài làm 2 Kể từ ngày Lan lên lớp 6 , em vào lớp Một, chị nhường lại cho em chiếc bàn nhỏ trong phòng học của chị. Bố đã mua cho chị một chiếc bàn mới cao hơn, vừa tầm với chị. Và chiếc bàn nhỏ đã từng gắn bó với chị bấy lâu, nay được chuyển về góc học tập trong phòng em, nó đã trở thành người bạn thân thiết của em từ dạo đó. Chiếc bàn của em nhìn khá gọn gàng. Nó cũng chỉ đủ rộng cho hai đứa trẻ như em ngồi mà thôi. Bố kê chiếc bàn này ngay cửa sổ có nắng gió, hương hoa từ ngoài vườn theo gió đưa vào. Mặt bàn là một tấm gỗ cẩm lai, càng dùng lâu càng thêm bóng. Mỗi lúc học bài mệt, em thường gối má lên mặt bàn để cảm nhận hương thơm dìu dịu lâu ngày của véc -ni. Dưới mặt bàn là một cái hộc tủ lớn được gắn một cái nắm tay tròn mạ kền dùng để kéo ra, đóng vào. Ngăn bàn ấy chứa cả một “kho báu” của riêng em. Bên phải là những quyển sách giáo khoa và các tài liệu học tập. Ở giữa là những quyển tập và bên trái là ngăn đựng các đồ dùng học tập. Phía trước mặt bàn, ba gắn thêm một cái giá sách nhỏ xinh xắn rất kiểu cách, em dùng để các loại truyện thiếu nhi. Nhiều nhất là loại truyện tranh “Đô rê môn”, “Conan”…. Bàn tuy cũ nhưng cuối năm học lớp Ba vừa qua, bố đã cho thợ đến sửa lại chiếc bàn. Lạ thay , bây giờ , nó trông như vừa mới ở tiệm đồ gỗ về vậy, đẹp và xinh xắn đến dễ thương. Những chỗ bị trầy xước, loang lổ trên mặt bàn, góc bàn đã biến mất. Thay vào đó là một lớp áo mới vừa bóng vừa trơn lại thơm cái mùi dầu sơn véc ni thật dễ chịu. Ngày nào em cũng dùng một tấm vải mỏng xoa nhẹ lên mặt bàn, chân bàn nên “tấm áo mới” của nó lúc nào cũng bóng loáng. Em còn để ở góc bàn một lọ hoa nho nhỏ xinh xinh. Chiếc bàn được gắn chung với một cái ghế bằng gỗ thao lao cũng bóng loáng như mặt bàn vậy. Chỉ khác là nó không có những vân hoa như mặt bàn cẩm lai. Chiếc bàn đã trở thành người bạn thân của em như hình với bóng, chỉ trừ lúc em đến trường mà thôi. Em rất yêu chiếc bàn của mình bởi nó chính là “bệ phóng” đưa em đến với những thành công trên con đường học tập. Tả cái bàn em ngồi học ở nhà – Bài làm 3 Hôm nay, trong căn phòng bé nhỏ của em có một sự thay đổi làm em rất vui. Đó là chiếc bàn học bằng gỗ bố vừa mua tặng em nhân ngày khai trường. Em rất thích chiếc bàn. Chiếc bàn được làm bằng gỗ màu nâu, các vân gỗ ngoằn ngoèo vẫn còn hiện rõ dù đã được sơn một lớp sơn bóng loáng, mịn màng. Chiều cao cả bàn và kệ sách gần ba mét, rộng chừng hai mét tạo sự thoái mái, rộng rãi khi ngồi học. Kệ sách được chia thành hai tầng, tầng trên có ba ngăn để đựng sách. Em phân loại sách của các môn và đặt lên đó để tiện sử dụng khi cần. Dưới bàn còn có một ngăn kéo, hai ngăn tủ để em đựng cặp sách và đồ dùng học tập. Bố bảo mua chiếc bàn này để sang năm bố mua thêm chiếc laptop tặng em nữa. Em vui lắm. Mỗi khi ngồi học, em lại thầm cảm ơn bố đã quan tâm, lo lắng cho em. Em cũng hứa sẽ cố gắng học thật tốt để không phụ lòng bố. Tả cái bàn em ngồi học ở nhà – Bài làm 4 Đầu năm học mới, ba mua cho em chiếc bàn học cá nhân ở cửa hàng đồ gỗ đường Ngô Gia Tự. Ba bảo rằng em đã lên Lớp 4, cần phải có chỗ ngồi học cho thuận tiện. Chiếc bàn được kê sát ngay cửa sổ phía trái, hướng đông nên suốt ngày có đủ ánh sáng. Hình dáng chiếc bàn này giống hệt những chiếc bàn ở lớp, chỉ khác là kích thước của nó nhỏ bằng một nửa. Bàn được đóng bằng gỗ tốt bào nhẵn, đánh véc-ni màu nâu bóng. Các đường vân gỗ nổi lên trông rất đẹp. Mặt bàn dài một mét, rộng khoảng hơn bốn tấc, hơi dốc nên em ngồi viết rất thoải mái. Dưới mặt bàn là hai chiếc hộc rất rộng rãi, đủ để đựng sách vở. Một hộc em để sách giáo khoa, một hộc để tập, thứ tự theo từng môn học. Ba mua cho em một cây đèn nê-ông nhỏ, bệ đèn là chiếc giá cắm bút bằng nhựa màu hồng. Ba gắn chặt cây đèn vào mặt bàn để buổi tối em có đủ ánh sáng học bài. Chiếc bàn có bốn chân, có thanh ngang để đặt chân. Bàn được đóng liền với ghế. Ghế dài bằng chiều dài của bàn, có lưng dựa là một tấm ván ngang. Buổi sáng, em ngồi học bài, nắng sớm chiếu qua song cửa, rọi lên mặt bàn những vệt sáng lung linh. Làn gió tinh nghịch lật lật từng trang sách thơm mùi giấy mới. Ngày ngày, em ngồi vào vị trí quen, thuộc của mình làm bài, học bài và vẽ những bức tranh màu sặc sỡ vẽ thầy cô. bạn bè, cây cối, chim muông. Chiếc bàn học đã trở thành người bạn thân thiết của em. Em luôn giữ cho bàn sạch sẽ, không viết bậy, vẽ bậy lên bàn.
Tả cái bàn em ngồi học ở nhà – Văn mẫu lớp 4
1,336
Nội dung bài viết1 Tả cái cặp sách của em – Bài làm 1 2 Tả cái cặp sách của em – Bài làm 2 3 Tả cái cặp sách của em – Bài làm 3 4 Tả cái cặp sách của em – Bài làm 4 5 Tả cái cặp sách của em – Bài làm 5 6 Tả cái cặp sách của em – Bài làm 6 Tả cái cặp sách của em – Bài làm 1 "Ôi đẹp quá, cảm ơn mẹ!" Em đã nói với mẹ như vậy khi mẹ chuẩn bị cho em một chiếc cặp để em mang đến lớp vào năm học này. Chiếc cặp xinh xắn này to phải đến hai quyển sách tiếng Việt lớp 1 của em em chập lại. Quan sát chiếc cặp em thấy là nó có nhiều màu đỏ nhất. Nắp cặp được trang trí hình mèo con Tom và chuột Jery, nhân vật hoạt hình mà em thích nhất. Quai cặp của em xanh nhạt êm như được lót bông, làm em cảm thấy đỡ nặng rất nhiều mỗi khi cần mang nhiều sách vở. cách mở cặp thế nào nhỉ? Em hỏi thì mẹ bảo: "Con xem này, chỉ cần lật cái hình bán nguyệt này lên, là con mở được". à, thì ra là thế! Xem ra cũng dễ mở đấy. Biết cách mở ròi, em mở cặp ra. ồ! cặp được lót cao su, mềm và mịn hơn giả da ở ngoài nhiều. Cặp có ba ngăn. Hai ngăn to một ngăn em đựng sách vở, ngăn kia em đựng giấy kiển tra và hộp bút. Còn ngăn nhỏ nhất em đựng đồ dùng kĩ thuật, nhẹ lắm. Em ưu tiên ngăn nhỏ nhất mà. Chiếc cặp em đang đeo dường như đã trở thành người bạn tốt của em. Em sẽ giữ gìn nó được nguyên vẹn để có thể ở với em mãi mãi. Tả cái cặp sách của em – Bài làm 2 Năm nay em đã học lớp 4 nhưng em vẫn nhớ như in chiếc cặp sách mẹ mua cho em từ đầu năm học lớp 2. Em đã cùng nó tới trường suốt hai năm học lớp 2, lớp 3. Chiếc cặp có hình vuông có cạnh dài khỏang 40cm. Cặp được làm bằng vải bạt màu xanh cốm, các mép được viền bằng vải bóng màu tím hồng trông rất nổi bật, làm tôn thêm vẻ đẹp cho chiếc cặp. Mặt trước cặp có hình hai công chúa barbie màu hồng đứng ở vườn hoa.Hai bên cặp có hai túi nhỏ bằng vải lưới co giãn dùng để đựng chai nước. Sau cặp có chiếc quai đeo to bản chắc chắn cùng màu với chiếc cặp. Mỗi khi cặp nặng em lại khoác nó lên vai. Ngoài ra nó còn có thêm tay xách tiện lợi nữa. Cặp có hai chiếc khóa bằng nhựa đen dễ sử dụng. Mỗi khi mở cặp em chỉ cần bóp nhẹ là chiếc khóa bật ra. Bên trong cặp có đến bốn ngăn. Các ngăn được cách nhau bằng lớp vải ni-lông màu tím nhạt. Ba ngăn to em dùng để đưng sách giáo khoa, vở viết, ngăn nhỏ để đựng hộp bút. Thật tiếc chiếc cặp đến nay ko còn nữa nó bị hỏng rồi. Đầu năm học lớp 4 mẹ đã mua cho em chiếc cặp mới. Tuy vậy em vẫn luôn yêu thích và nhớ về chiếc cặp cũ đó. Nó như một người bạn thân đã đồng hành cùng em trong hai năm học. Cảm ơn bạn cặp thân yêu đã chia sẻ buồn vui cùng tôi suốt hai năm liền !Tôi yêu và nhớ bạn vô cùng! Tả cái cặp sách của em – Bài làm 3 Lớp em, nhiều bạn có túi sách, cặp sách thật đẹp. Còn em thì dùng cái ba-lô bằng vải bạt của chị Hà để lại. Chị Hà vốn cẩn thận, nên cái ba-lô ấy vẫn còn tốt chán. Cái ba-lô của em màu cỏ úa. Hai cái quai bằng da màu đen, rất mềm mại. Những chiếc khoá, chiếc móc đều bằng nhựa cứng màu rất xinh. Kéo phéc-mơ-tuya, bỏ sách vở vào, kéo khoá lại. Hai cái ngăn phụ khá xinh, ngăn nào cũng có khoá. Ngăn màu xanh, em đựng hộp bút. Ngăn màu đỏ, em đựng đồ chơi và một số lặt vặt khác. Ngăn này là kho báu của em. Ở nhà, cái ba-lô treo trên tường. Đến lớp, cái ba-lô đặt gọn trong ngăn bàn, thật tiện lợi. Trên đường đi học hay từ trường trở nhà, em khoác ba-lô trên vai. Mưa hay nắng, sớm hay chiều, nó đều cùng em chia sẻ niềm vui, nỗi buồn. Có lúc, em cảm thấy nó đang thủ thỉ với em. Hè sắp đến rồi. Em sắp được lên lớp Ba. Sáng nay, em nói với nó: “Chú Ba-lo ơi! Ta với chú đã đi được một chặng đường ngắn rồi đó! Chú hãy chia vui với ta nhé”. Tả cái cặp sách của em – Bài làm 4 Bước vào năm học lớp bốn em được mẹ mua cho một chiếc cặp mới. Chiếc cặp vừa so với người em, nó có hình chữ nhật, có quai đeo, quai sách. Màu sắc của cặp rất phong phú và đẹp mắt, được làm bằng vải giả da. Bên ngoài cặp rất nhẵn mềm như da của em bé. Quai cặp được làm bằng vải và có đường riềm màu đỏ bao quanh. Khi đeo cặp em thấy rất êm. Quai xách có màu hồng nhạt. Ngay phía ngoài em đã nhìn thấy hình búp bê đang khiêu vũ và có những đường riềm trang trí làm cho chiếc cặp thêm vẻ sinh động. Cặp được gắn thêm những đường riềm bên ngoài bao phủ bằng nhựa và có màu sắc rất đẹp mắt. Trên cặp có ba chiếc phéc – mơ – tuya sáng loáng. “Xoẹt”, thế là chiếc cặp đã được mở ra. Bên trong cặp có ba ngăn. Các bạn biết đấy, ngăn thứ nhất quá bé nên vừa để dựng kéo, hồ, giấy thấm mực thôi. Ngăn thứ hai, em đựng hộp bút, giấy kiểm tra và một số đồ dùng học tập khác. Ngăn thứ ba, em đựng sách vở. Ngày ngày, em đến trường, chiếc cặp như đang theo dõi em học tập. Đến bây giờ, cặp đã là một người bạn rất thân thiết với em. Em thầm hứa với mẹ “Em sẽ học tập tốt hơn”. Tả cái cặp sách của em – Bài làm 5 Trước ngày khai giảng mẹ đã mua cho em một chiếc cặp sách ở hiệu sách Trí Tuệ. Hôm nay là ngày khai giảng sau một tháng nghỉ hè, ai cũng rất vui khi gặp lại nhau. Trên lưng bạn nào cũng có một chiếc cặp sách. Em cũng vậy, nhưng chiếc cặp của em đặc biệt hơn những cái cặp khác. Nó trông to, nhưng khi đeo vào rất nhẹ, và cũng khá vừa với người em. Cặp có hình chữ nhật. Nó được làm bằng giả da nhưng bên ngoài còn bọc một lớp vải mỏng. Cặp chủ yếu là màu chàm và màu xanh lá. Trên mặt cặp còn có hình những chú Pokémon đang chơi đùa. Chiếc cặp của em có cả dây đeo và tay sách. Dây đeo còn được bện nút ở bên trong nên khi đeo vào rất êm. Nó có hai chiếc khoá làm bằng nhôm sáng loáng. Khi mở cặp ra có tiếng tách, nghe thật vui tai. Cặp còn có viền đỏ, tím. Khi mở cặp ra, ở bên trong có hai ngăn lớn và một ngăn nhỏ. Ngăn lớn em để sách vở. Còn ngăn nhỏ đựng hộp bút. Chiếc cặp giúp em để đồ dùng. Chiếc cặp đã là người bạn thân của em. Em sẽ giữ gìn cho chiếc cặp được bền lâu Tả cái cặp sách của em – Bài làm 6 Năm lớp ba, em đạt học sinh giỏi. Cô em hứa sẽ mua cho em một cái cặp. Như lời hứa cô đã gởi về cho em chiếc cặp. Cái cặp của em hình chữ nhật được làm bằng da. Chiều dài khoảng 30 cm, chiều rộng của cặp khoảng 25 cm. cặp được sơn màu xanh da trời rất xinh xắn, trên nền cặp màu xanh da trời ấy nổi lên hình hai mẹ con chú hươu cao cổ đang gặm cỏ bên bờ suối rất dễ thương. Hai khóa được làm bằng i-nốc trắng bóng loáng gắn cân đối ở hai bên. Mỗi khi mở hay đóng tiếng khóa kêu “ lách… cách…”. Cặp có hai quai làm bằng vải dù rất chắc chắn có gắn hai móc để em có thể nới rộng ra và thu lại cho vừa người khi mang. Ngoài ra cặp còn có quai để xách cho tiện. Mở cặp ra, em thấy có ba ngăn. Ngăn nào cũng đẹp. Ngăn thứ nhất em đựng sách, ngăn thứ hai em đựng vở và ngăn thứ ba em dùng đựng các dụng cụ học tập như thước kẻ, bút, phấn… Mang chiếc cặp trên vai em vô cùng phấn khởi. Em rất biết ơn cô. Em thầm hứa sẽ giữ gìn cặp cẩn thận và chăm ngoan, cố gắng học tập thật giỏi.
Tả cái cặp sách của em – Văn mẫu lớp 4
1,537
Những tháng ngày còn ngồi trên ghế nhà trường là khoảng thời gian đáng quý nhất của một con người. Những tháng năm ấy, không ai có thể quên được. Đến khi xa lớp, xa trường những vật dụng thường ngày, những đồ dùng học tập luôn là những kỉ niệm khó có thể quên được. Chiếc cặp sách là một ví dụ điển hình. Không chỉ với học sinh, sinh viên mà cái cặp sách còn rất hữu ích cho những người khác. Chiếc cặp sách đúng với tên gọi của nó có công dụng để đựng sách và những đồ dùng khác. Với khả năng bảo quản tốt đồ vật bên trong nên nó rất được mọi người ưa chuộng để giữu gìn đồ đạc quan trọng. Chiếc cặp sách nhìn chung sẽ có các ngăn để đựng và được thiết kế thêm phần bao bên ngoài hoặc khóa kéo để giữ nguyên vị trí các vật dụng hoặc không làm cho chúng bị rơi ra ngoài. Có chiếc cặp, tất cả những vật dụng đều được gọn gằng trong ngăn cặp mà không mất quá nhiều thời gian để sắp xếp chúng. Chiếc cặp sách của tôi là một cái balo. Một chiếc balo to để có thể đựng hết được những sách vở của tôi mỗi buổi đi học. Chiếc balo khá to và rộng, dài chừng 60cm, rộng khoảng 30 cm. Chiếc balo này có thể dùng cả khi du lịch ít ngày để đặt tất cả những đồ dùng cần thiết. Chiếc balo có màu rêu hệt như những chiếc balo của chú bộ đội. Balo có hai ngăn. Ngăn mỏng phía ngoài và ngăn giữa rộng. Mỗi ngăn lại ngăn cách nhau bởi chiếc khóe kéo. Khóa kéo trơn tru tiện cho việc mở ngăn dễ dàng. Có thể nói chiếc balo là vật dụng không thể thiếu của tôi khi ra ngoài. Tả chiếc cặp sách của em Ngày nay, chiếc balo không chỉ đơn thuần để đựng đồ đạc, nó còn trở thành một món đồ thời trang cho các bạn. Chiếc balo đa dạng về kiểu dáng kích cỡ phù hợp với nhu cầu của các bạn trẻ, bởi thế mà nó luôn là một sự lựa chọn tiên quyết cho những bộ đồ của giới trẻ. Nhưng chiếc balo thời trang nhỏ xinh là một món đồ không thể thiếu của các bạn nữ. Chiếc balo có kích thước nhỏ xíu dễ thương với màu sắc rực rỡ luôn thu hút những ánh mắt của người xung quanh. Nhiều chiếc balo còn có những phụ kiện đi kèm làm cho chúng thêm xinh xắn. Ví dụ có thể có thêm đôi cánh thiên thần hoặc tai mèo ở hai bên hông của chiếc balo. Chiếc cặp sách thông thường ngày nay cũng được làm đẹp bằng những hình ảnh hoặc các phụ kiện nhiều màu sắc. NHững chiếc giây đai nhiều màu sắc, khóa kéo sặc sỡ rất biết cách thu hút sự chú ý của những đứa trẻ nhỏ. Chúng – những chiếc cặp sách đẹp mắt luôn là người bạn thân thiết của những đứa cô cậu học sinh thuở cắp sách đến trường. Ngày ngày đến trường cùng chiếc cặp sách, balo thân thiết, những cô bé cậu bé học sinh học được những bài học mới mà bổ ích. Có chiếc cặp, chúng ta không lo bị mất đồ dùng cần thiết, mọi sách vở cũng như đồ dùng dễ hỏng dều được bảo quản một cách tốt nhất. Chiếc cặp sách – người bạn thân thiết của con người, là một vật dụng không thể thiếu của học sinh. Đã từ lâu, chiếc cặp sách đã mang đến cho người dùng sự tiện lợi cũng như vẻ đẹp của nó. Không chỉ là vật dụng thiết yếu mà còn là một món đồ thời trang hợp thời. Kim Oanh
Tả cái cặp sách của em
650