text
stringlengths 78
4.36M
| title
stringlengths 4
2.14k
| len
int64 18
943k
| gen
stringclasses 1
value |
---|---|---|---|
Lễ hội pháo hoa quốc tế với chủ đề ‘Thế giới không khoảng cách’ và sự góp mặt của 8 đội tuyển đến từ Anh, Italy, Ba Lan, Pháp, Australia, Canada, Phần Lan và Việt Nam sẽ diễn ra ở
Đà Nẵng
từ 2/6-8/7.
Nhấp chuột để xem kích thước chuẩn.
Hứa hẹn sẽ mang đến những màn trình diễn pháo hoa mãn nhãn và đầy mới mẻ, giải “cơn khát” sản phẩm du lịch cho du khách và người dân thành phố sau 3 năm dịch bệnh./. | Lễ hội pháo hoa quốc tế Đà Nẵng 2023: Thế giới không khoảng cách | 84 | |
Nhà báo kỳ cựu người Đức Hellmut Kapfenberger vừa ra mắt cuốn sách mới về Việt Nam. Cuốn sách là những ghi chép và hình ảnh chân thực mà tác giả thu thập được về cuộc chiến ở Việt Nam năm 1972, khi ông đang là phóng viên thường trú hãng thông tấn ADN của Cộng hòa dân chủ Đức và báo Nước Đức mới tại
Hà Nội
.
Cuốn sách “Việt Nam 1972. Một đất nước dưới bom đạn. Cùng cuốn sổ ghi chép và máy ảnh trên mọi ngả đường miền Bắc” vừa ra mắt của tác giả Hellmut Kapfenberger. (Ảnh: TTXVN).
Buổi lễ ra mắt cuốn sách do Nhà xuất bản Wiljo Heinen ở Berlin, Đức thực hiện đã thu hút sự quan tâm của đông đảo công chúng Đức, những người quan tâm tới Việt Nam và cuộc chiến chính nghĩa chống đế quốc Mỹ của nhân dân Việt Nam.
Cuốn sách có tiêu đề “Vietnam 1972. Ein Land unter Bomben. Mit Notizbuch und Kamera im Norden unterwegs” (tạm dịch: “Việt Nam năm 1972. Một đất nước dưới bom đạn. Cùng cuốn sổ ghi chép và máy ảnh trên mọi ngả đường miền Bắc”).
Mở đầu buổi lễ ra mắt, tác giả Kapfenberger đã cho những người có mặt được nghe đoạn băng ông ghi lại tiếng máy bay tiêm kích cùng những trận mưa bom mà không quân Mỹ rải xuống Hải Phòng.
Trong phần mở đầu của cuốn sách, nhà báo Kapfenberger tóm lược lại các diễn biến lịch sử kể từ Lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa trên cả nước của Hội nghị toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương họp ngày 13/8/1945. Theo tác giả, Mỹ muốn chấm dứt chiến tranh, nhưng cũng muốn giữ thể diện và muốn bảo đảm một chút ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Washington đã sử dụng đến nỗ lực cuối cùng là rải bom để làm suy yếu vị thế đàm phán mạnh mẽ không thể phủ nhận của Hà Nội.
Tác giả nhận định, thế giới nhận thức về các diễn biến này theo những cách rất khác nhau. Trong khi phía các nước xã hội chủ nghĩa tin rằng mình được thông tin đầy đủ về các sự kiện ở Việt Nam, thì phía các cơ quan thông tấn, báo chí, đài phát thanh và truyền hình ở phương Tây lại tuyên truyền hoặc che giấu thông tin theo yêu cầu của những người ra quyết định chính trị.
Theo tác giả, những gì xảy ra ở Việt Nam thời điểm đó thu hút sự chú ý từ khắp nơi trên thế giới, nhưng nhận thức và mô tả hằng ngày về các sự kiện lại khác nhau hoàn toàn ở phương Đông và phương Tây. Các phóng viên phương Tây chỉ ở miền Nam và chỉ có một số ít nhà báo nước ngoài ở Hà Nội để mô tả thật sự những gì đang xảy ra ở đây.
Trong lời giới thiệu cuốn sách với độc giả, nhà xuất bản Wiljo Heinen viết rằng: Những thông tin, hình ảnh mà nhà báo Kapfenberger thu thập được trong cuốn sách đã phản ánh những hậu quả tàn khốc của các cuộc tấn công nhằm vào thường dân, khiến hàng nghìn người chết, các thị trấn và làng mạc biến thành đống đổ nát và tro tàn.
Theo nhà xuất bản, lời kể của nhân chứng Kapfenberger không chỉ là tư liệu đương đại mà còn là minh chứng về tình đoàn kết với một dân tộc đứng lên đấu tranh vì nền độc lập và tự do của mình.
Tại buổi lễ, Tham tán Công sứ Đại sứ quán Việt Nam tại Đức, Chu Tuấn Đức bày tỏ cảm kích và trân trọng tình cảm sâu đậm mà ông Kapfenberger dành cho Việt Nam. Những nỗ lực của tác giả cũng như những tác phẩm mà ông viết về Việt Nam sẽ góp phần giúp bạn bè, độc giả Đức hiểu biết hơn và có cái nhìn toàn diện hơn về Việt Nam, qua đó góp phần thúc đẩy quan hệ tốt đẹp giữa nhân dân hai nước.
Nhà báo Kapfenberger sinh năm 1933, từng có hai nhiệm kỳ là phóng viên thường trú ở Việt Nam giai đoạn 1970-1973 và 1980-1984.
Sau khi về nước, ông tích cực tham gia các hoạt động đoàn kết với Việt Nam và dành thời gian sưu tầm tư liệu, viết nhiều cuốn sách về Việt Nam. Ông đã đưa hàng trăm tin, bài, phóng sự về Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy phong trào đoàn kết với Việt Nam phát triển mạnh mẽ cả trong chiến tranh cũng như những năm đầu xây dựng lại đất nước.
Nhà báo Kapfenberger đã vinh dự được trao tặng Huân chương Hữu nghị của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam vì những thành tích xuất sắc góp phần xây dựng, củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt giữa hai nước. | Cuộc chiến ở Việt Nam năm 1972 dưới lăng kính của nhà báo Đức | 828 | |
Nhận lời mời của Thủ tướng Phạm Minh Chính, Thủ tướng Australia Anthony Albanese tiến hành chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày 3 – 4/6/2023. Đây là chuyến thăm chính thức đầu tiên của ông Anthony Albanese tới Việt Nam kể từ khi nhậm chức và chỉ 2 tháng sau chuyến thăm cấp Nhà nước của Toàn quyền Australia, thể hiện sự coi trọng của Australia trong quan hệ với Việt Nam.
Thủ tướng Australia Anthony Albanese.
Chuyến thăm chính thức đầu tiên của Thủ tướng Australia Anthony Albanese tới Việt Nam diễn ra trong bối cảnh tình hình chính trị-nội bộ Australia cơ bản ổn định. Sau thắng lợi tại cuộc bầu cử Quốc hội Liên bang (21/5/2022), chính quyền Công đảng tập trung củng cố quyền lực và nâng cao uy tín (thành lập Nội các mới với các Bộ trưởng có kinh nghiệm, đảm đương ít nhất hai nhiệm kỳ; cải tổ, điều chỉnh, thành lập mới một số bộ, ngành); nhanh chóng triển khai các cam kết tranh cử, trong đó ưu tiên: (i) thành lập Ủy ban chống tham nhũng quốc gia; (ii) chú trọng vấn đề người bản địa, dự kiến đưa ra trưng cầu dân ý vào năm 2023 để đưa nội dung này vào Hiến pháp; (iii) giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động sau Covid-19 thông qua việc tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh việc làm và kỹ năng (9/2022), tăng cường đào tạo nghề, huy động chất xám, cho phép người hưu trí làm việc, tăng số lượng lao động có tay nghề nhập cư Australia, tăng thời gian làm việc sau tốt nghiệp cho sinh viên quốc tế; (iv) sửa đổi luật hỗ trợ gia đình, hỗ trợ giảm chi phí trông trẻ cho hơn 1,26 triệu gia đình; (v) can thiệp cơ chế điều hành lưới điện quốc gia nhằm tái phân bổ nguồn cung điện và khí ga giữa các bang/vùng lãnh thổ.
Quốc hội Australia khóa 47 đã bầu ra Chủ tịch Hạ viện và Thượng viện mới thuộc Công đảng. Tại hai phiên họp đầu tiên, chính phủ Công đảng đã thông qua một số dự luật quan trọng, trong đó có Dự luật về Biến đổi Khí hậu, Chăm sóc Người cao tuổi, Quan hệ Lao động… Uy tín của Công đảng và cá nhân Thủ tướng Anthony Albanese duy trì ở mức cao (Công đảng 55% so với 45% của Liên đảng đối lập; Thủ tướng Albanese đạt 54% so với 25% của lãnh đạo đối lập Peter Dutton).
Australia cơ bản ứng phó thành công với đại dịch Covid-19, gỡ bỏ hoàn toàn các hạn chế, cách ly và coi Covid-19 là bệnh cúm mùa, duy trì tiêm phòng hàng năm.
Về kinh tế, Australia tiếp tục đà tăng trưởng trong nửa đầu năm 2022 (0,8% quý I và 0,9% quý II), chủ yếu là do tiêu dùng cá nhân tăng mạnh (2,2%); GDP năm 2022 đạt 4,2%, dự kiến năm 2023 đạt 2,5%. Tỷ lệ thất nghiệp 3,9%, mức thấp kỷ lục kể từ năm 1974. Tỷ lệ lạm phát tăng nhanh (6,1% trong quý II/2022, cao nhất trong 21 năm qua; hơn 8% vào tháng 12/2022, giảm nhẹ xuống 7,4% tháng 3/2023), buộc Ngân hàng Trung ương (RBA) nhiều lần điều chỉnh lãi suất.
Về quốc phòng, an ninh, Australia tiếp tục được củng cố, chú trọng tăng cường lực lượng quân sự tại khu vực Tây và Tây Bắc nhìn ra Ấn Độ Dương và Đông Nam Á. Australia công bố Chiến lược An ninh Quốc gia mới (1/2013), Sách trắng Quốc phòng (3/2016) và bản cập nhật (7/2020), Sách trắng Đối ngoại (12/2017), trong đó đề cao đối ngoại quốc phòng như một biện pháp củng cố vị thế Australia tại khu vực và cân bằng ảnh hưởng với các cường quốc khác. Tháng 7/2020, Australia tăng ngân sách quốc phòng lên 270 tỷ AUD trong 10 năm tới, tập trung đầu tư cho hải quân, không quân và công nghệ quốc phòng.
Về đối ngoại, chính quyền Công đảng tiếp tục quan tâm và coi trọng phát triển quan hệ với khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, trong đó ưu tiên phát triển quan hệ với Đông Nam Á.
Australia tiếp tục đẩy mạnh đàm phán nâng cấp Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Australia – New Zealand (AANZFTA); thúc đẩy triển khai Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), trong đó ưu tiên đàm phán với Anh; thúc đẩy nâng cấp Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), bổ sung nội dung mới về kinh tế số; ưu tiên triển khai cam kết trong Thỏa thuận Paris về chống biến đổi khí hậu và COP-27; quan tâm hỗ trợ hợp tác tiểu vùng Mekong, nhất là các hình thức hợp tác 3 bên.
Việt Nam và Australia thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 26/02/1973, và tiến hành lập Đại sứ quán tại mỗi nước. Hai nước thiết lập quan hệ Đối tác Toàn diện năm 2009, Đối tác Toàn diện tăng cường năm 2015 và nâng cấp lên Đối tác Chiến lược nhân chuyến thăm Australia của Thủ tướng Chính phủ (TTCP) Nguyễn Xuân Phúc (3/2018). Hai nước đang kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1973 – 2023).
Trong những năm qua, hai bên trao đổi nhiều đoàn cấp cao. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19, hai bên duy trì các cuộc tiếp xúc cấp cao theo hình thức trực tuyến, gần đây nhất là cuộc điện đàm giữa TTCP Phạm Minh Chính và Thủ tướng Australia Anthony Albanese (18/10/2022); TTCP Phạm Minh Chính và Thủ tướng Australia Scott Morrison (25/5/2021) và giữa TTCP Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Australia Scott Morrison (21/01/2021); Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và Chủ tịch Hạ viện Tony Smith (07/6/2021); điện đàm giữa hai Bộ trưởng Ngoại giao (4, 8, 9/2021 và 3/2022), hai Bộ trưởng Quốc phòng (11/2021).
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc gặp Thủ tướng Anthony Albanese bên lề Hội nghị Cấp cao APEC (Thái Lan, 11/2022); Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng gặp Toàn quyền và Thủ tướng Australia tại Lễ nhậm chức Nhà Vua Anh (5/2023); Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân gặp Toàn quyền David Hurley (Philippines, 8/2022). Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp Thủ tướng Scott Morrison bên lề Hội nghị COP-26 (Anh, 11/2021), thông qua Chiến lược Tăng cường Hợp tác Kinh tế Việt Nam – Australia (EEES) và Tuyên bố chung Cam kết hành động thiết thực về khí hậu; gặp Thủ tướng Anthony Albanese bên lề Hội nghị Cấp cao ASEAN 41 (Campuchia, 11/2022) và tại Hội nghị cấp cao G7 mở rộng (Nhật, 5/2023). Hai Bộ trưởng Ngoại giao đã ký Chương trình Hành động triển khai quan hệ Đối tác Chiến lược giai đoạn 2020 – 2023 (trực tuyến, 11/2020).
Australia là một trong những nước rất tích cực hỗ trợ Việt Nam trong công tác phòng, chống dịch Covid-19. Tháng 6/2020, Australia đã trao 10,5 triệu AUD cho Ban chỉ đạo quốc gia phòng chống Covid-19. Tháng 3/2021, Australia công bố gói hỗ trợ toàn diện trị giá 60 triệu AUD cho Việt Nam trong công tác phòng chống dịch gồm viện trợ vắc-xin và hỗ trợ công tác triển khai tiêm chủng thông qua UNICEF. Riêng về vắc-xin, Australia đã tài trợ Việt Nam 26,4 triệu liều (gồm 12 triệu liều cho người lớn và 14,4 triệu liều cho trẻ em), trở thành nhà tài trợ vắc-xin lớn thứ hai của Việt Nam. Ta cũng trao tặng Australia số vật tư y tế (khẩu trang) trị giá 50.000 USD (3/2021).
Trên 20 cơ chế hợp tác song phương được duy trì linh hoạt, trong đó có các cơ chế quan trọng như họp thường niên hai Thủ tướng, hai Bộ trưởng Ngoại giao, hai Bộ trưởng Quốc phòng và Hội nghị Đối tác kinh tế và các hợp tác giữa các địa phương. Cho đến nay, hai bên đã tổ chức Hội nghị thường niên hai Thủ tướng lần thứ 2 (trực tuyến, 01/2021), Hội nghị thường niên Bộ trưởng Ngoại giao lần thứ 4 (9/2022), Hội nghị Đối tác kinh tế cấp Bộ trưởng lần thứ 3 (4/2023), Đối thoại an ninh cấp Thứ trưởng (12/2022), Đối thoại chiến lược cấp Thứ trưởng Ngoại giao – Quốc phòng lần thứ 8 (5/2023), Đối thoại chính sách quốc phòng cấp Thứ trưởng Quốc phòng lần thứ 3 (10/2019), Nhóm công tác về ODA (9/2019), Nhóm công tác về Thương mại (10/2019) và các cơ chế Tham vấn cấp Cục/Vụ trưởng.
Các cơ chế khác giữa hai nước đến nay có: Đối thoại an ninh biển lần 2 (10/2019), Đối thoại Nhân quyền kỳ 18 (4/2023), Tham vấn luật pháp (8/2018), Tham vấn Lãnh sự lần 16 (12/2022), Đối thoại chính sách biển (5/2021), Đối thoại chiến lược Việt Nam – Australia (7/2021), Đối thoại hợp tác biển kênh 1 và 1,5 (11/2022), Tham vấn cấp cao về viện trợ phát triển (4/2017), Đối thoại chính sách nông nghiệp cấp cao lần 2 (5/2019), Ủy ban Hỗn hợp về hợp tác khoa học và công nghệ cấp Thứ trưởng lần 1 (3/2016)…
Hai bên hợp tác tốt trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng thông qua trao đổi đoàn, ký thỏa thuận hợp tác, hợp tác phòng chống tội phạm, quản lý xuất nhập cảnh, chống di cư bất hợp pháp, trao đổi thông tin, kinh nghiệm, đào tạo tiếng Anh… Hai bên đã ký MOU về hợp tác đào tạo gìn giữ hòa bình và rà phá bom mìn (2016); Không quân Hoàng gia Australia 04 lần hỗ trợ vận chuyển bệnh viện dã chiến của ta tới Phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Nam Sudan. Tàu hải quân Australia nhiều lần thăm Việt Nam. Australia là nước duy nhất đặt đại diện thường trực tại Trung tâm phòng chống tội phạm xuyên quốc gia Việt Nam (TP.HCM), qua đó hai bên thường xuyên trao đổi thông tin tình báo, hợp tác chống khủng bố, buôn người, tội phạm ma túy… Hai bên đang trao đổi, chuẩn bị ký Thỏa thuận Đối tác Gìn giữ Hòa bình.
Kim ngạch thương mại song phương tăng trưởng tốt: Kim ngạch quý I/2023 đạt 3,41 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 1,28 tỷ USD và nhập khẩu đạt 2,13 tỷ USD. Năm 2022 đạt 15,7 tỷ USD, tăng 26,7% so với năm 2021, trong đó xuất khẩu đạt 5,6 tỷ USD, tăng 26,2% và nhập khẩu đạt 10,1 tỷ USD, tăng 27,3%. Hiện Australia là đối tác thương mại lớn thứ 7 của Việt Nam và Việt Nam là đối tác lớn thứ 10 của Australia. Phía Australia đã mở cửa cho quả vải, xoài, thanh long, nhãn, tôm đông lạnh; ta đang thúc đẩy Bạn cho phép nhập khẩu chanh leo, chôm chôm, vú sữa, dừa tươi, sầu riêng, tôm tươi nguyên con. Australia thúc đẩy ta mở cửa nhập khẩu thịt hươu, thịt kangaru, mật ong, quả đào và xuân đào.
Tính đến hết tháng 4/2023, Australia có 596 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư 1,99 tỷ USD, đứng thứ 20/143 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, tập trung ở các lĩnh vực chế biến, chế tạo, dịch vụ lưu trú, y tế, trợ giúp xã hội và nông, lâm, thủy sản. Tính đến tháng 02/2023, Việt Nam đầu tư sang Australia 88 dự án với tổng vốn đầu tư là 592,3 triệu USD, đứng thứ 10/79, chủ yếu trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, bán buôn bán lẻ, chế biến chế tạo (riêng năm 2020, Australia đứng thứ 2 với 101,8 triệu USD, chiếm 17,2% FDI của Việt Nam). Tiêu biểu là các dự án của tập đoàn TH 135 triệu USD, tập đoàn An Viên 18 triệu USD ở Bắc Australia; tập đoàn Vinfast 20 triệu USD ở Melbourne; VietJet ký thỏa thuận đầu tư hạ tầng sân bay ở Melbourne và đang xúc tiến mở đường bay trực tiếp với các thành phố lớn của Australia (Sydney, Melbourne, Perth…).
Australia là một trong những đối tác song phương cung cấp ODA không hoàn lại lớn nhất cho Việt Nam (trung bình 92,7 triệu AUD/năm kể từ 2013 – 2019 và 78,9 triệu AUD/năm trong giai đoạn 2020 – 2022). Tháng 10/2022, Quốc hội Australia quyết định tăng 18% ODA cho ta, lên mức 92,8 triệu AUD năm 2022 – 2023. Tại dự toán Ngân sách 2023 – 2024 vừa được công bố ngày 11/5/2023, Australia tiếp tục tăng thêm 2,5% cho Việt Nam, lên mức 95,1 triệu AUD. Trong vòng 50 năm kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao, Australia đã hỗ trợ ODA Việt Nam tổng cộng 3 tỷ AUD (khoảng 47 nghìn tỷ VNĐ).
Australia cung cấp nhiều học bổng theo các chương trình dài hạn và ngắn hạn cho Việt Nam. Hiện có khoảng 31.000 sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam đang học tập tại Australia (90% theo diện tự túc). Tính đến tháng 3/2023, có 45 chương trình liên kết, đào tạo liên thông, 200 văn kiện hợp tác, nghiên cứu chung giữa các trường Đại học, viện nghiên cứu hai nước. Bên cạnh đó, các trường đại học/học viện của hai nước đang có 37 chương trình liên kết đào tạo đang hoạt động. Đại học RMIT đã mở 2 cơ sở (ở Hà Nội và TP.HCM) với hơn 6000 sinh viên theo học, dự kiến sẽ mở tiếp tại Đà Nẵng, Cần Thơ và Hải Phòng, tăng vốn đầu tư thêm khoảng 100 triệu AUD vào Việt Nam. Tháng 10/2021, hai nước đã ký thỏa thuận bổ sung Chương trình Phát triển Nguồn nhân lực Việt Nam – Australia giai đoạn 2021 – 2025, trị giá 50,1 triệu AUD. Sau gần 2 năm gián đoạn vì Covid-19, tháng 12/2021, Australia bắt đầu mở cửa biên giới, đón sinh viên quốc tế, trong đó có Việt Nam, trở lại Australia.
Số lượng khách du lịch Australia đến Việt Nam tăng đều qua các năm, các hãng hàng không hai nước đã nối lại các đường bay thẳng sau Covid-19 với tần suất 17 chuyến trực tiếp/tuần: năm 2019 có gần 390.000 lượt khách Australia tới Việt Nam (đứng thứ 6/10 thị trường hàng đầu); tạm ngừng do tình hình đại dịch Covid-19 từ tháng 4/2020 và được nối trở lại từ tháng 3/2022. Số khách du lịch Việt Nam đến Australia vẫn tăng đều đặn qua các năm, đạt 125.000 lượt (2019), đứng thứ 18/57 thị trường có khách du lịch đến Australia.
Chương trình lao động kỳ nghỉ (3/2015) cho phép công dân Việt Nam sang Australia du lịch kết hợp làm việc và hai bên nhất trí nâng hạn mức từ 200 (2015) lên 1500 người/năm kể từ tháng 9/2019. Hai nước đã ký Bản ghi nhớ về thị thực nông nghiệp (3/2022), dự kiến sẽ đưa mỗi năm 1000 lao động Việt Nam sang làm việc tại Australia trong lĩnh vực nông nghiệp; hai bên đang trao đổi, điều chỉnh theo hướng triển khai Bản ghi nhớ này theo khuôn khổ Chương trình Lao động Nam Thái Bình Dương.
Quan hệ hợp tác giữa các địa phương hai nước đang phát triển tốt đẹp; cho đến nay đã có 15 cặp địa phương kết nghĩa, nổi bật là quan hệ kết nghĩa của một số địa phương như: Khánh Hòa – Vùng Lãnh thổ Bắc Australia (9/1999); TP.HCM – Queensland (10/2005); Bà Rịa – Vũng Tàu – Vùng Lãnh thổ Bắc Australia (9/2007); TP.HCM – Vùng Lãnh thổ Bắc Australia (2/2014); tỉnh Lạng Sơn và thành phố Goulburn Mulware (11/2018); TP.HCM – New South Wales (4/2019); Đà Nẵng và thành phố Gold Coast (12/2020)…Gần đây, Việt Nam đã đón Thủ hiến vùng Lãnh thổ Bắc Australia Michael Gunner (11/2018); Thống đốc bang Victoria Linda Dessau (9/2019); Thống đốc bang Queensland Paul de Jersey (5/2019); Thống đốc bang Nam Australia (10/2022); Thống đốc bang New South Wales (21 – 24/5).
Cộng đồng người Việt tại Australia có khoảng 350.000 người (đứng thứ 5 trong số các cộng đồng sắc tộc gốc nước ngoài tại Australia). Người Việt có mặt ở hầu hết các bang song tập trung chủ yếu tại các bang Queensland, New South Wales (160.000 người), Nam Australia, Victoria (130.000 người)…
Về hợp tác khu vực và quốc tế: Hai nước hợp tác tốt tại các diễn đàn khu vực và quốc tế như ASEAN, EAS, APEC, ASEM, LHQ. Việt Nam ủng hộ Australia ứng cử vào vị trí Ủy viên không thường trực HĐBA/LHQ nhiệm kỳ 2013 – 2014 và Hội đồng Tổ chức Hàng hải Thế giới (IMO) nhiệm kỳ 2016 – 2017. Bạn ủng hộ ta vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2014 – 2016, 2023 – 2025, thành viên Hội đồng chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2015 – 2019 và ECOSOC 2016 – 2018; Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2020 – 2021 và thành viên Hội đồng Điều hành Liên minh Bưu chính Thế giới (IPU) nhiệm kỳ 2017 – 2021. Hai nước đang đảm nhiệm vị trí Đồng Chủ tịch Chương trình Đông Nam Á của OECD giai đoạn 2022 – 2025; đang phối hợp tổ chức Diễn đàn Đối thoại cấp cao về Biến đổi khí hậu và chuyển đổi năng lượng trong năm 2023.
Chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Australia Anthony Albanese trong dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước và thống nhất các lĩnh vực mới về kinh tế, thương mại cũng như những hợp tác khác nhằm mang lại một mối quan hệ bền chặt hơn nữa trong tương lai.
Theo Đại sứ Việt Nam tại Australia Nguyễn Tất Thành, chuyến thăm của Thủ tướng Australia Anthony Albanese tới Việt Nam sẽ tạo khuôn khổ mới cho quan hệ trên tất cả các kênh, tiếp tục làm sâu sắc lòng tin chiến lược, hướng tới tầm nhìn chung của hai nước cho 50 năm tới./. | Làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Đối tác Chiến lược Việt Nam – Australia | 3,036 | |
Nhiều ý kiến cho rằng phê bình văn học đang trong tình trạng ‘tre già mà măng chưa mọc’; khi nhiều năm qua cho thấy sự hụt hơi về lực lượng, thiếu sự dấn thân định hướng cho công chúng và đang theo chiều hướng ‘nghiệp dư’ hóa.
Hiếm hoi những tác phẩm phê bình văn học dày dặn. Ảnh minh họa.
Đội ngũ lý luận, phê bình văn học hiện nay đồng hành nhiều thế hệ: Thế hệ xuất hiện và trưởng thành trong thập niên 60,70; thế hệ xuất hiện từ sau năm 1980 và thế hệ xuất hiện từ 2 thập niên gần đây. Nếu sắp xếp theo khu vực, có thể nhận thấy 3 khu vực chính: Các nhà phê bình ở các trường đại học, các viện nghiên cứu; các nhà báo, biên tập viên văn học của các cơ quan báo chí, xuất bản và các nhà văn, nhà thơ tham gia viết phê bình văn học.
Tuy nhiên, sau những hoạt động khá sôi nổi ở chặng đầu đổi mới, nhiều cây bút phê bình chuyển dần sự quan tâm sang các nghiên cứu lịch sử văn học, tổng thuật các lí thuyết văn chương hiện đại thế giới hơn là hứng thú bám sát diễn biến của đời sống văn học. Minh chứng rõ nhất, năm 2022, có 12 tác phẩm của 11 tác giả được gửi về Hội đồng Lý luận phê bình của Hội Nhà văn Việt Nam để tham gia xét giải thưởng thường niên, nhưng không có tác phẩm nào đoạt giải ở hạng mục Lý luận, phê bình. Hay việc một số tác phẩm văn học ra mắt bạn đọc “dăm bữa nửa tháng” thì bị Cục Xuất bản, In và Phát hành cấm lưu hành mà không có ý kiến của giới phê bình. Giới phê bình như người ngoài cuộc.
Theo nhà phê bình văn học Nguyễn Hoài Nam, cái gọi là các “nhà phê bình văn học trẻ” hiện nay – tạm quy ước họ ở độ tuổi từ 40 trở xuống – về số lượng, không đếm hết số ngón trên hai bàn tay. “Chuyện sẽ chẳng là gì cả nếu chúng ta coi phê bình văn học là thứ có cũng được mà không có cũng xong. Nếu hiểu khái niệm “chuyên nghiệp” theo nghĩa chật hẹp là “một nghề có thể giúp người ta sống được bằng việc thực hành chính cái nghề ấy”, thì tôi dám nói rằng ở Việt Nam chưa có nhà phê bình văn học chuyên nghiệp. Từ trước đến nay, chẳng nhà phê bình văn học nào có thể sống được chỉ bằng việc viết phê bình. Thế hệ trẻ hôm nay, gần như toàn bộ thời gian đã được huy động vào những công việc phục vụ trực tiếp cho các nhu cầu đời sống – vốn đã trở nên phong phú gấp bội so với trước. Vì thế, theo tôi, việc những người trẻ hôm nay viết phê bình văn học có thể phải được xem như một sự hy sinh thời gian. Đã là hy sinh thì chẳng mấy ai sẵn sàng, mà ngay cả những người có thể hy sinh thì không phải lúc nào cũng dám hy sinh” – ông Nam nói.
Một trong những bất cập và thiếu hụt có thể nhận ra đó là chưa có một cơ sở đào tạo chuyên về mảng phê bình. Đội ngũ phê bình văn học hiện nay chủ yếu do tự rèn luyện, tự trải nghiệm mà nên. Cả nước chỉ có một cơ sở đào tạo duy nhất, ít nhiều có gắn với việc hun đúc các cây bút phê bình văn học. Đó là Khoa Viết văn Báo chí thuộc Đại học Văn hóa, hậu thân của Trường Viết văn Nguyễn Du khi xưa. Đội ngũ các cây bút trẻ làm phê bình văn học hiện nay thưa thớt và mỏng, chưa có cây bút nào thuộc thế hệ 9x ra sách về lý luận, phê bình. Trong tương quan với các cây bút sáng tác thơ và văn xuôi, các cây bút phê bình cần một độ chín lâu hơn về thời gian. Vì thế, dường như ở bất cứ thời kỳ nào của một nền văn học, đội ngũ những người viết phê bình luôn ít hơn đội ngũ những người sáng tác.
Để lấp được những khoảng trống và đặc biệt là “ươm mầm” ra một thế hệ kế cận, TS ngôn ngữ Đỗ Anh Vũ cho rằng, để phát triển đội ngũ phê bình văn học của tương lai cần quan tâm đầu tư bồi dưỡng ngay từ khi mỗi học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông. Chính ở nơi ấy ta đã có thể bắt gặp những mầm mống đầu tiên, những cây bút có năng khiếu thẩm bình vượt trội so với mặt bằng. Sau cấp độ nhà trường phổ thông, lên đến bậc đại học, các thầy cô lại cần phải quan tâm bồi dưỡng và phát triển với đối tượng là sinh viên thuộc các ngành văn học/ngôn ngữ học trên cả nước ở tất cả các cơ sở đào tạo.
Vẫn theo ông Vũ, các cơ quan có thẩm quyền và có công tác chuyên môn gắn với phê bình văn học như các Khoa Ngữ văn thuộc các trường đại học, Hội Nhà văn Việt Nam, Hội đồng Lý luận, phê bình Văn học nghệ thuật trung ương cần có những chính sách đầu tư, tạo điều kiện để xuất bản các tác phẩm lý luận phê bình. Cần có chế độ nhuận bút hợp lý với các tác phẩm lý luận, phê bình đăng tải trên báo và tạp chí, nên tổ chức các cuộc thi, tăng giá trị giải thưởng cho hạng mục phê bình văn học…
“Việc phát triển văn hóa đọc (đặc biệt là với các tác phẩm văn học) ở mọi nơi, mọi lúc chắc chắn cũng sẽ là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của lý luận phê bình văn học ngày càng có những bước phát triển đi lên” – TS Đỗ Anh Vũ bày tỏ.
Theo PGS.TS Trần Khánh Thành – Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật trung ương, để phát huy đội ngũ phê bình cũng như sáng tác văn học, cần phải tôn trọng sự đa dạng trong phương pháp và phong cách sáng tạo nghệ thuật của nhà văn cũng như của các nhà phê bình. Phê bình văn học cũng là một dạng đọc hiểu văn học nhưng nhà phê bình cần dựa trên những chuẩn mực giá trị phổ quát như tính thẩm mĩ, tính nhân văn và tính hồn nhiên của văn nghệ để luận bàn. Nếu văn nghệ có chức năng phản biện xã hội thì phê bình có chức năng phản biện văn nghệ. Môi trường sống của phê bình văn nghệ là đối thoại, tranh luận để chân lý được sáng tỏ. | Khoảng trống phê bình văn học – Tác giả: Minh Quân | 1,171 | |
Phải có những biện pháp quyết liệt để ngư dân hiểu rõ thiệt hại đối với cá nhân mình và lợi ích quốc gia khi đánh bắt hải sản bất hợp pháp tại vùng biển của nước khác; đưa ra xử lý thật nghiêm minh các vụ vi phạm để nâng cao tính răn đe.
Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang nhấn mạnh, cảnh báo thẻ vàng của EC đối với xuất khẩu thủy sản của Việt Nam được dỡ bỏ hay không phụ thuộc rất lớn từ chính ý thức, trách nhiệm của mỗi chính quyền địa phương có biển và các ngư dân tham gia khai thác hải sản – Ảnh: VGP/Hải Minh.
Đây là yêu cầu buộc phải làm, được Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang nhấn mạnh tại cuộc họp lần thứ 7 của Ban Chỉ đạo quốc gia về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Cuộc họp được kết nối trực tuyến với các điểm cầu của 28 tỉnh, thành ven biển.
Yêu cầu trên được đưa ra trong bối cảnh chỉ còn 4 tháng nữa Việt Nam sẽ đón đoàn của Ủy ban châu Âu (EC) lần thứ tư đến thanh tra, kiểm tra công tác chống khai thác IUU tại Việt Nam.
Phó Thủ tướng nêu rõ thực trạng việc đánh bắt cá ở vùng biển nước khác dẫn đến còn hơn 300 ngư dân đang bị nước ngoài giam giữ, điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của gia đình ngư dân mà còn làm suy giảm vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.
Quan trọng hơn, toàn ngành thủy sản của Việt Nam đứng trước thách thức nghiêm trọng là thị trường xuất khẩu thủy sản bị thu hẹp nếu thời hạn áp dụng thẻ vàng kéo dài, thậm chí là thể đỏ nếu vẫn tiếp tục có vi phạm, và nhiều thị trường nhập khẩu thủy sản của Việt Nam có thể áp dụng biện pháp tương tự như của EC.
Trước tình hình đó, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang nhấn mạnh, cảnh báo thẻ vàng của EC đối với xuất khẩu thủy sản của Việt Nam được dỡ bỏ hay không phụ thuộc rất lớn từ chính ý thức, trách nhiệm của mỗi chính quyền địa phương có biển và các ngư dân tham gia khai thác hải sản.
Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải quyết liệt, nỗ lực cao nhất, vì vẫn còn nhiều việc chưa hoàn thành liên quan đến hoàn thiện thống pháp lý, đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, chế độ chính sách cho lực lượng chức năng… trong khi mục đích, yêu cầu đặt ra rất cao.
Từ nay đến 15/6, Bộ NN&PTNT – cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo, tham mưu cho Trưởng Ban Chỉ đạo chỉ đạo những nhiệm vụ hết sức cụ thể từ nay đến tháng 10; chuẩn bị chu đáo cho việc đón đoàn kiểm tra của EC đạt kết quả tốt nhất; rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách cho lực lượng chống IUU.
Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Quốc phòng chỉ đạo tiếp tục tăng cường tuần tra, giám sát tại cảng cá và các vùng biến giáp ranh, chồng lấn. Bộ Công an chỉ đạo công an địa phương đưa ra xét xử thật nghiêm minh các vụ vi phạm theo quy định để nâng cao tính răn đe.
Đánh giá cao những mô hình ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý tàu cá tại Cà Mau, Phó Thủ tướng giao Bộ NN&PTNT, Bộ Quốc phòng hỗ trợ Cà Mau nâng cấp các mô hình này để phát huy hiệu quả hơn nữa và nhận rộng ra các địa phương khác.
Dự kiến, trong tháng 6, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang sẽ trực tiếp dẫn đầu đoàn đi kiểm tra công tác chống IUU tại một số địa phương.
Dự kiến, trong tháng 6 tới, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang sẽ trực tiếp dẫn đầu đoàn đi kiểm tra công tác chống IUU tại một số địa phương – Ảnh: VGP/Hải Minh.
Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến, sau hơn 5 năm (từ ngày 23/10/2017) triển khai thực hiện các giải pháp chống khai thác IUU theo khuyến nghị của EC, tình hình chống khai thác IUU đã có những chuyển biến tích cực.
Theo đó, EC tiếp tục ghi nhận, đánh giá cao quyết tâm chính trị của Việt Nam, đặc biệt là sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt của Thường trực Ban Bí thư, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nhờ đó khung pháp lý cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu quốc tế về chống khai thác IUU và tiếp tục được hoàn thiện.
Bộ NN&PTNT đang tiếp tục rà soát, sửa đổi bổ sung Nghị định 26/2019/NĐ-CP và Nghị định 42/2019/NĐ-CP cho phù hợp với thực tiễn nghề cá Việt Nam và các quy định quốc tế theo khuyến nghị của EC tại đợt thanh tra lần thứ 3.
Hệ thống giám sát tàu cá được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, kết nối, chia sẻ giữa cá cơ quan, đơn vị chức năng liên quan; tổ chức trực ban 24/24 giờ để theo dõi, kiểm soát tàu cá trên biển.
Tính đến nay, việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS) trên tàu cá có chiều dài từ 15 m trở lên đạt hơn 97%. Số lượng các tàu cá chưa lắp đặt thiết bị VMS đã được các địa phương lập danh sách theo dõi, quản lý.
Việc thực hiện kiểm soát sản phẩm thủy sản nhập khẩu theo quy định của Hiệp định về biện pháp quốc gia có cảng (PSMA) về tổng thể đã có sự cải thiện tốt hơn so với trước đây.
Tuy nhiên, việc tổ chức triển khai Luật Thủy sản, các quy định chống khai thác IUU còn chưa đồng bộ, có nơi chưa đạt yêu cầu.
Số lượng các vụ vi phạm hành chính đối với hành vi khai thác IUU còn lớn, trong khi tỉ lệ xử lý các vụ vi phạm còn thấp và chưa đồng đều giữa các địa phương.
Còn diễn ra tình trạng tháo dỡ thiết bị giám sát hành trình gửi sang tàu khác, hoặc ngắt kết nối thiết bị, mang biển kiểm soát giả, khai thác sai vùng, sử dụng ngư cụ khai thác vị cấm, không nghi và nộp nhật ký khai thác, môi giới đưa tàu cá vào vùng biến nước khác. | Thiệt đơn, thiệt kép khi đánh bắt cá bất hợp pháp | 1,106 | |
‘Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ’, từ sách cho đến kịch, đã đưa khán giả về thế giới tuổi thơ hồn nhiên nhưng lồng vào đó là những trăn trở, lo toan của người lớn.
Nhân ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6, sân khấu Hồng Hạc quyết định chuyển thể tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ
để phục vụ công chúng. Đây là lần thứ ba Hồng Hạc chuyển thể Nguyễn Nhật Ánh sau hai vở diễn
Thiên thần nhỏ của tôi
(2016) và
Làm bạn với bầu trời
(2019).
Vở kịch đã tái hiện những câu chuyện hồn nhiên, đáng yêu của bốn đứa trẻ lên tám sống cùng một khu xóm là cu Mùi, Hải Cò, Tí Sún và Tủn (các bé Khang An, Minh Khôi, Tuệ Nhi, Hà Anh thủ vai). Trong đó, người kể chuyện là cu Mùi dưới hình thức kể của “thằng cu Mùi” lúc bé và nhận xét, đánh giá của “ông Mùi” khi đã gần 50 tuổi (do nghệ sĩ “Chuông vàng vọng cổ” Võ Minh Lâm thủ vai).
Song song đó còn có sự xuất hiện của các phụ huynh và những câu chuyện dở khóc dở cười khiến chúng như đang sống lại tuổi thơ tươi đẹp. Từ những lời thoại ngây ngô của các em cho đến những tâm sự sâu lắng ở tuổi trưởng thành đã mang đến nhiều cảm xúc cho khán giả, những tiếng cười và khoảng lặng đan xen trong suốt vở kịch.
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ cũng để lại nhiều kỷ niệm đẹp cho ê-kíp thực hiện khi là vở kịch đầu tiên Võ Cẩm Tiên chỉ đạo sân khấu kịch, lần đầu tiên nghệ sĩ cải lương Võ Minh Lâm tham gia diễn kịch Hồng Hạc, lần đầu tiên các diễn viên nhí đứng trên sân khấu chuyên nghiệp… Những điều đó đã khiến đạo diễn Võ Cẩm Tiên vỡ òa xúc động khi vở kịch kết thúc thành công.
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đến xem kịch với nhiều khoảnh khắc bật cười, xúc động cùng khán giả. Ảnh: Thanh Trần.
Biên kịch Việt Linh nhận xét các em đã diễn rất tròn vai, đồng thời bà cũng nhắn nhủ: “Tôi muốn các em thiếu nhi ở đây và cả phụ huynh hiểu được rằng tất cả trẻ em đều có tiềm năng cần được khám phá”.
Bà cũng chia sẻ vở kịch lần này là một thách thức lớn so với những tác phẩm khác của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Đối với một tác phẩm sâu sắc, bà lo lắng nhiều thứ, chẳng hạn “làm kịch cho người lớn hay cho trẻ em?”, chưa kể ê-kíp đã tốn 2 tháng ròng rã tập thoại chỉ để các em nhớ được thoại.
“Đây là một đặc điểm của truyện Nguyễn Nhật Ánh là người lớn hay trẻ con đều đọc được. Vì vậy tôi như một người đi trên dây khi không thể làm quá nhí nhố mà cũng không thể như một chuyên đề cho người lớn được”, bà nói.
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ
, từ sách cho đến kịch, đã đưa độc giả và khán giả về thế giới tuổi thơ hồn nhiên nhưng lồng vào đó là những trăn trở, lo toan của người lớn. Ca ngợi sự trong trẻo, ham thích sáng tạo, những kỷ niệm thời thơ ấu như cổ tích dành cho mọi lứa tuổi, là tấm vé lên tàu dành cho những ai muốn quay lại tuổi thơ. | Khóc, cười cùng ‘Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ’ trên sân khấu kịch | 590 | |
Ngôi sao siêu khổng lồ Betelgeuse lại tiếp tục gây hồi hộp cho giới thiên văn với những biến đổi rõ rệt từ tháng 4-2023, hứa hẹn về vụ nổ đủ sức làm bừng sáng cả trời đêm Trái Đất.
Betelgeuse là một trong những ngôi sao sáng nhất trên bầu trời Trái Đất, nhuốm màu đỏ “ma quái” và nằm trong chòm sao Lạp Hộ. Nó thu hút sự chú ý của giới thiên văn hàng thế kỷ, trong đó ghi chép xưa nhất là từ nhà bác học Tư Mã Thiên của
Trung Quốc
hơn 2.100 năm trước.
Những lần “biến hình” khác nhau của Betelgeuse, bao gồm việc phun vật chất và trở nên sáng rực sau đó mờ đi, nghi do bị bụi từ nó phun ra che mờ – Ảnh: NASA.
Từ tháng 4 đến nay, ngôi sao đã leo thẳng từ vị trí sáng thứ 10 trên bầu trời đêm lên vị thứ thứ 7, do độ sáng đã tăng vọt đến 140%, theo
Betelgeuse Status –
một tài khoản
Twitter
tập hợp các nhà thiên văn chuyên nghiệp và nghiệp dư chuyên theo dõi ngôi sao bí ẩn này.
Theo tờ
Space,
những thay đổi liên tục của Betelgeuse – lúc mờ hơn, lúc vụt sáng – từ năm 2019 đến nay đã khiến giới thiên văn khắp thế giới suy đoán rằng nó đang tiến tới giai đoạn hấp hối.
Trong ghi chép của Tư Mã Thiên, ngôi sao sáng này có màu vàng, trong khi ngày nay chúng ta thấy nó màu đỏ, chứng tỏ ngôi sao khổng lồ này đã tiến dần tới giai đoạn “sao khổng lồ đỏ” trong hơn 2 thiên niên kỷ qua. Đây là giai đoạn bùng lên cuối cùng trước khi nổ tung thành siêu tân tinh.
Nếu nổ, ánh sáng từ Betelgeuse đủ khiến nó đạt độ sáng ít nhất là ngang ngửa với trăng tròn, có thể soi tỏ bầu trời đêm Trái Đất hoặc gây chú ý ngay cả ban ngày.
Điều may mắn nhất là với khoảng cách 650 năm ánh sáng, siêu tân tinh này khó lòng tác động đến
Trái Đất
như một số siêu tân tinh cổ đại gần hơn, liên quan đến các cuộc tuyệt chủng hàng loạt.
Giới thiên văn khắp thế giới đang chia thành 2 “phe”, một bên cho rằng nó có thể nổ bất cứ lúc nào, một bên cho rằng nó hãy còn một chút thời gian.
“Các mô hình tốt nhất của chúng tôi cho thấy Betelgeuse đang trong giai đoạn đối cháy helium thành carbon và oxy trong lõi của nó. Điều đó có nghĩa nó vẫn còn hàng chục hoặc hàng trăm ngàn năm nữa mới bùng nổ – nếu mô hình đó chính xác” – nhà vật lý thiên văn Morgan MacLeod, ĐH Harvard, cho biết. | Một ngôi sao vụt sáng, sắp nổ tung trên bầu trời Trái Đất? | 459 | |
Mục đích của khảo cổ học là nghiên cứu về sự tiến hóa của loài người và hoạt động của con người trong quá khứ. Gần như toàn bộ lịch sử loài người nằm trong thời nguyên thủy. Tại nước ta, mỗi năm đều có những phát hiện mang lại giá trị lớn cho ngành khảo cổ.
Phát hiện khá lớn số lượng đồ gốm với 6.300 mảnh của người tiền sử niên đại 3.500-3000 năm (ảnh Sở VHTTDL Đắk Nông).
Ngày 30-5, Sở VH-TT-DL tỉnh Đắk Nông cho biết đã có báo cáo kết quả khai quật điểm di chỉ khảo cổ học tại thôn 12 (xã Đắk Sin,
huyện Đắk R’lấp
,
tỉnh Đắk Nông
).
Đầu tháng 5-2023, Bảo tàng tỉnh Đắk Nông phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành khai quật di chỉ khảo cổ tại thôn 12. Qua đó, phát hiện khá lớn số lượng đồ gốm với 6.300 mảnh. Gốm tại di chỉ thôn 12 có độ dày trung bình từ 0,5-0,8cm, xương gốm thô màu đen có tỷ lệ bã thực vật cao, hai mặt miết láng, phần miệng trong ngoài có màu đen xám kiểu ánh chì…Đây là thông tin mang lại sự phấn khởi cho giới khảo cổ học. Bởi, từ những kết quả ban đầu cho thấy, khu vực trên là một di chỉ khảo cổ học, là nơi cư trú, kiếm sống của các cư dân nguyên thủy thuộc giai đoạn hậu kỳ Đá mới – Sơ kỳ kim khí và có niên đại từ cách đây 3.500-3.000 năm.
Trụ đá ở chùa Dạm (Bắc Ninh).
Cách đây không lâu, Viện Khảo cổ học, Trung tâm bảo tồn di tích TP.HCM, và Bảo tàng Lịch sử TP.HCM vừa công bố kết quả khai quật di tích Giồng Cá Vồ (Cần Giờ) sau 10 tháng khai quật (15/1- 21/10/2021) với diện tích 200m2, gồm 5 hố thăm dò và 1 hố khai quật. Tại đây, 185 mộ chum, 13 mộ đất cùng hàng trăm di vật quý bằng nhiều chất liệu: vàng, đá quý, thủy tinh, đá, nhuyễn thể… Nhiều di vật lần đầu tiên phát hiện tại di tích như khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu, lá vàng, vòng tay đá quý, hiện vật hình tù và, các loại hình mộ chum, di cốt… chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa cùng lịch sử hình thành và phát triển TP.HCM cách đây trên 2.000 năm.
Giồng Cá Vồ nằm trong hệ thống 26 di tích ở rừng ngập mặn Cần Giờ, cách trung tâm TP.HCM gần 60km được phát hiện hơn 30 năm trước. Đây là một giồng đất đỏ, cao hơn bề mặt xung quanh khoảng 1,5m, nằm ở tả ngạn sông Hà Thanh và được bao quanh bởi rừng ngập mặn. 28 năm sau kể từ lần cuối cùng vào năm 1994, di tích này mới được khai quật trở lại.
Di chỉ khảo cổ học Giồng Cá Vồ được công nhận năm 2000, thuộc nhóm di tích Lịch sử Văn hóa Quốc gia cần được bảo vệ. Nhiều di vật được khai quật tại Giồng Cá Vồ năm 1994 đang được trưng bày tại các bảo tàng: Lịch sử Quốc gia (Hà Nội), Lịch sử Việt Nam (TP.HCM); Lịch sử – Văn hóa Nam bộ (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP.HCM) để minh chứng cho giai đoạn phát triển tiền – sơ sử trước Công nguyên. | Phát hiện hiện vật người tiền sử niên đại 3.500-3000 năm | 577 | |
Nhìn lại tiểu thuyết
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX,
Số đỏ
của
Vũ Trọng Phụng
vẫn được coi là một trong những
tác phẩm xuất sắc,
thể hiện tài năng
trào phúng bậc thầy của một văn tài khi mới ngoài 20 tuổi. Nếu tính từ
kỳ đăng truyện đầu tiên trên Hà Nội báo, ngày 7 tháng 10 năm 1936,
đến nay,
Số đỏ
tròn
85 năm kể từ ngày ra mắt bạn đọc. Trong dịp này, tiểu thuyết
Số đỏ
lần đầu tiên được dịch sang tiếng Trung Quốc bởi dịch giả Hạ Lộ cùng lời tựa trang trọng của ông Bành Thế Ðoàn, Tham tán Ðại sứ Quán Trung Quốc tại
Việt Nam. Xin trân trọng trích đăng giới thiệu lời tựa tiểu thuyết
Số đỏ
lần đầu được dịch và xuất bản tại
Trung Quốc qua phần chuyển ngữ của
TS. Bùi Thiên Thai
(Viện Văn học).
Văn học Việt Nam từ chữ Hán thời kỳ đầu cho đến chữ Nôm, rồi văn học tiếng Việt hay còn gọi là chữ quốc ngữ đầu thế kỷ XX…, đến nay đã có lịch sử hơn nghìn năm với tích lũy phong phú, đồng thời hình thành phong cách riêng độc đáo như các tác phẩm thơ lục bát, song thất lục bát mang đậm hồn cốt dân tộc; như hàng loạt tiểu thuyết và truyện ngắn trước 1945 như
Số đỏ, Chí Phèo, Bước đường cùng….
Tiểu thuyết
Số đỏ
của Vũ Trọng Phụng sáng tác năm 1936, cho đến nay vẫn là tác phẩm được tái bản nhiều lần nhất trong số các tiểu thuyết Việt Nam trước 1945.
Cuốn tiểu thuyết này được dịch và giới thiệu vào Trung Quốc sẽ có tác động tích cực đối với người Trung Quốc trong việc hiểu biết về Việt Nam và sự phát triển của văn học Việt Nam.
***
Nhưng để dịch hay được cuốn tiểu thuyết này thật không dễ. Khi sang công tác tại Việt Nam năm 1993, tôi may mắn được xem 8 tập của bộ phim truyền hình
Số đỏ
do Đài truyền hình Việt Nam phát sóng, hãng phim truyện Việt Nam sản xuất năm 1990. Hơn 20 năm đã trôi qua, những hình ảnh sống động của Xuân tóc đỏ, bà phó Đoan, cụ cố Hồng, ông TYPN, ông Phán mọc sừng… như vẫn còn mới mẻ trong tâm trí tôi.
Chỉ riêng cách đặt tên cho nhân vật đã cho thấy thủ pháp mặt nạ hóa của Vũ Trọng Phụng, đồng thời cũng là biểu hiện của đạo đức xã hội và tâm lý xã hội Việt Nam thời kỳ ấy. Như nhân vật cụ cố Hồng, có lẽ ngoài cái ý châm biếm ra, còn là để nhắc chúng ta nhớ đến cái tước “Hồng lô tự thiếu khanh” mà “nhà nước đã ân thưởng” cho cụ. Việt Nam vốn có tập tục xưng hô theo chức danh như vậy. Cũng như nhân vật bà Phó Đoan, ngoài ẩn ý mỉa mai người đàn bà đoan chính “thủ tiết với hai đời chồng” thì Phó Đoan vốn là chức vụ của người chồng Tây đã mất. Còn như ông Phán mọc sừng thì lại là chức danh đi kèm biệt hiệu “mọc sừng”, chỉ người đàn ông có vợ ngoại tình. Đáng chú ý nhất là cái tên Xuân tóc đỏ; châu Á từng gọi người phương Tây, đặc biệt người Hà Lan, là quỷ tóc đỏ. Tác giả đã lý giải lai lịch mái tóc của Xuân là do nó giãi nắng mà có; một mặt tóc Xuân cháy đỏ là do ý Trời, nhưng mặt khác, nó cũng ngầm báo trước rằng, nhân vật này ít nhiều có liên quan đến phương Tây và phong trào Âu hóa. Ông TYPN (bản tiếng Trung chuyển dịch thành WAFN) là một nhà thiết kế thời trang của tiệm may Âu hóa, TYPN là viết tắt của câu Tiếng Việt: “Tôi yêu phụ nữ”…
Việc đặt tên nhân vật theo thủ pháp mặt nạ hóa này có liên quan đến vở kịch
Giết mẹ
của Victor Hugo mà Vũ Trọng Phụng đã dịch vào thời điểm đó cũng như phong cách của chính Vũ Trọng Phụng trong các kịch bản của ông.
Lời thoại của nhân vật cũng như việc lựa chọn, miêu tả bối cảnh và chi tiết trong tiểu thuyết
Số đỏ
vô cùng sinh động, khiến độc giả nhớ mãi không quên. Khi bộ phim truyền hình
Số đỏ
được phát sóng, trên đường phố rất hay nghe thấy người Việt Nam nhại câu thần chú của cụ cố Hồng: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”. Tôi đã thử dịch câu này theo nhiều cách, song thế nào cũng không thể dịch cho ra cái ngữ khí và cảm giác rất Việt của nó.
Ngoài ra, trong tiểu thuyết này còn có rất nhiều miêu tả tập tục, những câu chửi thề và cả những đoạn thơ ca hò vè. Một số hiện tượng đời thường được miêu tả trong
Số đỏ
, chẳng hạn như bói toán, từ lâu đã hiếm thấy trong đời sống thực tế ở thành thị, đặc biệt là những nội dung về xem quẻ bằng cách lập lá số tử vi, nếu không có sự nghiên cứu chuyên sâu thì quả thực rất khó lý giải, nói gì đến dịch.
Lại nữa, Việt Nam là một đất nước mà Phật giáo và tín ngưỡng dân gian song song tồn tại và thịnh hành, một số thuật ngữ chuyên dụng trong đền chùa, nếu như không có trải nghiệm của bản thân thì khó lòng hiểu được nội dung và dịch cho chính xác. Chưa kể đến việc phiên dịch thơ ca hò vè theo thể lục bát của Việt Nam trong tiểu thuyết này, bản thân việc dịch thơ đã khó, lại thêm tính đặc thù của thể thơ khiến cho độ khó càng tăng lên gấp bội.
Năm 2017, tôi đọc lại
Số đỏ
và nhận thức sâu sắc hơn tính chất của bức tranh phong tục xã hội trong tiểu thuyết. Đủ loại nhân vật nhỏ bé khác nhau ở Hà Nội dưới thời Pháp thuộc, những quan chức bản địa trong chính quyền thuộc địa, những mối quan hệ xã hội phức tạp, những quan niệm về sinh, lão, bệnh, tử cũng như những phong tục, tập quán xã hội khác nhau, sự đua đòi và chạy theo Âu hóa, thay bộ đồ Âu phục nhưng lại không thể thoát khỏi xung đột tư tưởng với lề thói cũ…, tất cả đều được
Số đỏ
khắc họa một cách sâu sắc, sinh động, khó quên. Đọc
Số đỏ
, có lúc tôi nghĩ đến
A.Q chính truyện
của Lỗ Tấn, có lúc nghĩ đến
Lôi vũ
của Tào Ngu, lúc lại nghĩ đến Tiền Chung Thư với
Vòng đời vây bủa
.
Bối cảnh xã hội của
Số đỏ
được đặt tại Hà Nội, trung tâm của chính quyền thực dân Pháp tại Bắc kỳ lúc bấy giờ và cũng là đô thành mấy trăm năm của Việt Nam. Ở những con người nơi đây, tư tưởng xã hội bảo thủ luôn song hành với xu hướng nóng lòng hiện đại hóa nhằm tự cứu mình, và đó cũng chính là lý do khiến cho
Số đỏ
mang nhiều tính chất mà tiểu thuyết Trung Quốc thời đó không hề có.
Khách sạn Bồng Lai được nhắc đến trong tiểu thuyết chính là khách sạn Hòa Bình ở Hà Nội hiện nay. Đây là một trong những kiến trúc kiểu Pháp có quy mô lớn được xây dựng ở Hà Nội trong thời gian từ năm 1926 đến năm 1930, đồng thời cũng là chốn ăn chơi đô hội của
Hà Nội
lúc bấy giờ. Giờ đây mỗi lần đi bộ ngang qua đó, tôi lại nghĩ đến tình huống xảy ra trong khách sạn này ở
Số đỏ
, quả thực không hiểu khách sạn đã lưu lại một dấu ấn lịch sử địa lý cho tiểu thuyết hay chính là tiểu thuyết đã ghi thêm một dấu ấn văn học cho khách sạn.
***
Tôi vô cùng vui mừng khi được biết dịch giả Hạ Lộ đã dịch
Số đỏ
sang tiếng Trung. Hạ Lộ tốt nghiệp Tiến sĩ nghiên cứu về giao lưu văn học Trung – Việt tại Khoa Văn học Đại học Bắc Kinh; cô thường xuyên sang Việt Nam để nghiên cứu, tìm hiểu mối quan hệ giao lưu ảnh hưởng giữa văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam, nghiên cứu sự phát triển của văn học Việt Nam. Cô đồng thời cũng là giảng viên giảng dạy văn học Việt Nam, đặc biệt là thơ ca Việt Nam.
Bên cạnh việc dịch cuốn tiểu thuyết này, Hạ Lộ cũng công bố một số bài nghiên cứu như “Trào lưu Tây hóa ở Việt Nam những năm 1930: trường hợp Vũ Trọng Phụng và tiểu thuyết
Số đỏ
của ông” (2017) hay “
Số đỏ
và truyền thống văn học Việt Nam” (2017). Những nghiên cứu này đều thể hiện kiến giải độc đáo của cô về
Số đỏ
.
Năm 2019, tiểu thuyết
Nỗi buồn chiến tranh
của
Bảo Ninh
do cô dịch xuất bản ở Trung Quốc và được đón nhận nồng nhiệt. Dịch thuật đi đôi với nghiên cứu chính là sự đảm bảo chắc chắn cho thành công trong việc dịch một tiểu thuyết có độ khó cực cao như S
ố đỏ
.
Trong dịp phiên bản tiếng Trung của
Số đỏ
sắp được ra mắt, Hạ Lộ hy vọng rằng tôi sẽ viết một lời tựa ngắn cho cuốn tiểu thuyết này. Vẫn biết rằng mình không đi sâu nghiên cứu về
Số đỏ
, song xuất phát từ sứ mệnh thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam, tôi thực sự mong muốn giới thiệu bản dịch của Hạ Lộ, giới thiệu bức tranh phong tục Việt Nam những năm 1930 của Vũ Trọng Phụng tới độc giả Trung Quốc.
Ngày 10 – 5 – 2021 | Số đỏ – Một bức tranh phong tục thuộc địa – Tác giả: TS. Bùi Thiên Thai | 1,609 | |
Huỳnh Văn Nghệ là một trong những nhà quân sự tài ba, lập nhiều chiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngoài tài năng quân sự, ông còn được trời ưu ái cho một tâm hồn thi ca mẫn cảm, được nhân dân yêu quý phong tặng danh hiệu “thi tướng”. Và nhìn trên phương diện văn học sử, có thể nói Huỳnh Văn Nghệ là một trường hợp đặc biệt của thi ca Việt Nam hiện đại nói chung và phong trào Thơ mới nói riêng.
1.
Phong trào Thơ mới khởi phát từ năm 1932 và kéo dài đến 1945, khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ. Khi lựa chọn tác giả đưa vào trong
Thi nhân Việt Nam
, Hoài Thanh – Hoài Chân đã không đả động gì đến cái tên Huỳnh Văn Nghệ cũng như một vài tên tuổi khác. Nguyên do thật vô cùng. Chỉ có một sự thật chắc chắn rằng những sáng tác đầu tay của Huỳnh Văn Nghệ diễn ra trong thời kì Thơ mới và cũng hòa chung với âm hưởng chủ đạo của thơ ca giai đoạn này. Trong bài
Chiếc lá thị thành
, nhà văn Mộng Tuyết cho biết Huỳnh Văn Nghệ có những bài thơ tình “mùi mẫn” đậm chất lãng mạn của Thơ mới trên báo
Sống
. Số 26 ra ngày 21 tháng 8 năm 1935 của báo này đăng bài Xé nát thơ tình của ông với những câu thơ:
Chiều nay anh xé nát những thơ tình/ Thả tung theo gió chiều như đàn bướm/ Rủ nhau nhào xuống bể xanh sóng gợn/ Để hợp bầy cùng bóng bướm dưới dòng xanh/ Bỗng hai đàn ướt cánh nổi lênh đênh/ Vì anh sợ… rồi đây anh cũng thế/ Nên quá yêu em anh không buồn kể/…/ Vì yêu em anh nhúng ướt đôi cánh vàng/ Rồi âm thầm thương tiếc khoảng không gian.
Báo
Sống
số 27 ra ngày 28 tháng 8 năm 1935 đăng bài
Trăng tàn
trên sông
phảng phất phong vị của
Tì bà hành
ngày trước. Bài thơ là cuộc trò chuyện giữa đôi tình nhân cũ:
Bên bờ sông, tiếng cú gọi trên cây/ Trong bóng tối gieo mối buồn trên quãng vắng. Khi chàng trai vừa nghe thấy tiếng hò quen thuộc và vui mừng tìm tới mong nối lại tình xưa cũ Kìa ai ơi. Hãy đợi nhau cùng/ Trăng khuya sắp tắt, gió thổi lạnh lùng/ Anh đi tìm nàng Ái Ân yêu dấu/ Trên chiếc thuyền tự bao giờ chưa đậu/ Đã mỏi mê anh chửa gặp người yêu/ Ngày đêm trôi bên cảnh vật đìu hiu/…/ Em phải chăng người lau ráo lệ anh/ Vừa khuyên lơn an ủi, dỗ dành/ Cho anh bớt buồn, thương giữa chốn mênh mông bát ngát thì bị cô gái đáp trả một cách lạnh lùng, gay gắt: “Trăng đã tàn, đêm sẽ tối, ai ơi”/ Đi tìm bạn ái ân? Ôi, đã muộn rồi/ Người đã yêu anh, anh không muốn biết/ Bỏ ai lại bên sông với bao nhiêu thương tiếc/ Anh rứt ra đi phỉ chí tang bồng/ Để mặc ai ôm mãi vết thương lòng/ Mấy năm qua chỉ vì anh đau khổ/…/ Nay anh trở về than khóc bên sông/ Thì kẻ anh yêu nay đã có chồng/ Ái Ân nay không còn là Ái Ân ngày trước/ Đừng kiếm mất công không bao giờ tìm được/ Hãy về đi, trở lại con đường xưa/ Rồi quên em trong gió bụi nắng mưa.
Số báo 30 tiếp tục đăng bài
Em không muốn
của Huỳnh Văn Nghệ với những khát khao tình cảm nồng cháy như Xuân Diệu trong
Vội vàng
:
Anh yêu em? Nơi nào? Anh hãy nói/ Mà mãi lắng tai nghe tiếng gọi/ Mà mãi âu sầu thương, nhớ vẩn vơ/ Để bên anh năm, tháng ai đợi chờ/ Này trông em: ánh xuân tươi sắp biệt/ Hãy yêu em kẻo trễ bạn lòng ơi.
Với nội dung thơ, giọng điệu thơ, âm hưởng thơ như thế, chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng Huỳnh Văn Nghệ là một nốt nhạc trong dàn đồng ca Thơ mới 1932 – 1945. Tuy nhiên đây là một nốt nhạc đặc biệt. Bên cạnh những đặc trưng chung của Thơ mới, thơ Huỳnh Văn Nghệ giai đoạn 1932 – 1945 vẫn có những nét riêng khác biệt với các nhà thơ Thơ mới cùng thế hệ, trong đó điểm cốt lõi nhất là sự
khác biệt về quan niệm thi ca
. Đa phần các nhà Thơ mới đề cao nghệ thuật vị nghệ thuật, coi thơ ca là phản ánh tâm hồn lãng mạn của thi sĩ. Xuân Diệu từng viết
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió/ Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
(Cảm xúc). Thế Lữ thì cho rằng mình
chỉ là khách tình si/ Ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể
(Cây đàn muôn điệu). Tuy nhiên ở miền Nam, Huỳnh Văn Nghệ lại có một quan niệm khác về thơ ca. Mặc dù chưa quyết liệt, mạnh mẽ như Sóng Hồng
Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ/ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền
(Là thi sĩ) nhưng quan niệm thơ ca của Huỳnh Văn Nghệ rất rõ ràng: Dùng ngòi bút phục vụ cho công cuộc giải phóng đất nước, dân tộc khỏi họa xâm lăng. Trong Trăng lên, ông đã mượn lời một người thi sĩ bày tỏ khát vọng có được tiếng đàn gảy lên khúc ca hận để thức tỉnh nhân dân cùng đứng lên chống kẻ thù chung, thống nhất hai miền Nam – Bắc:
Rồi âu sầu thi sĩ bảo tôi rằng/ Muốn làm sao ta có sợi dây đàn/ Đem giăng thắng nối hai chòm Nam, Bắc/ Chờ tiếng xôn xao ban ngày đã tắt/ Ta trỗi lên khúc “Hận ngàn thu”/ Nghe đàn ta hăm lăm triệu đồng bào/ Bỗng nhớ rằng mình cùng chung nỗi hận/ Như bầy chim cùng chung số phận/ Trong một lồng sắt cứng, cánh còn non
. Bài
Mộng làm thơ
là một tuyên ngôn đanh thép của ông sẽ đứng về phía nhân dân cần lao:
Chàng chỉ muốn đề thơ bằng máu/ Trên mây hồng cho gió rải cùng trời/ Để những người đau khổ khắp nơi nơi/ Ngừng đau khổ/ Và thương nhau/ Khi thấy hàng chữ máu
. Quan niệm thơ ca trên khá gần gũi với nhận thức của Tố Hữu trong Từ ấy:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người/ Để tình trang trải với trăm nơi/ Để hồn tôi với bao hồn khổ/ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
2.
Với một quan niệm như trên, thơ Huỳnh Văn Nghệ chan chứa giá trị nhân đạo. Ông bộc lộ tình cảm xót thương đối với những kiếp người nghèo khổ, bất hạnh. Nhìn đám ma của người đàn ông trong mưa lạnh, ông ngậm ngùi cho người nằm xuống, cảm thương cho người vợ trẻ cùng đàn con dại bước theo sau:
Đám ma ai giữa mưa dầm gió lạnh/ Bốn người khiêng lắt léo chiếc quan tài/ Người vợ kêu trời khan cả giọng/ Ẵm con thơ lần bước dưới mưa rơi/ Sau góa phụ còn hai con trẻ dại/ Dắt dìu nhau nheo nhóc khóc không thôi/ Và sau nữa… không còn ai nữa hết/ Bầy chó theo sủa mãi đám ma côi
(Đám ma nghèo). Ông ái ngại, xót xa cho người bà nghèo cứ mải miết bước đi như vô định để bán cau khô giữa trưa hè rực lửa nắng cháy da, cháy thịt:
Trên đường cát xa thăm thẳm ấy/ Bà bán cau, gánh nặng trên vai oằn/ Lẹ làng đi, dưới chân cát cháy/ Nón, dù đâu? Nắng đốt chiếc khăn rằn/ Gió bốc khói tung lên cuộn bụi trắng/ Xóm mờ xa khuất dạng sau rừng tre/ Mồ hôi chảy vòng quanh đôi má rám/ Bà bán cau bước mãi dưới trưa hè
(Bà bán cau).
Ngoài cảm hứng nhân đạo, tình yêu nước cũng là một chủ đề lớn trong thơ Huỳnh Văn Nghệ. Yêu quê hương, Huỳnh Văn Nghệ đã viết lịch sử đất nước bằng thơ. Bài Lịch sử quê hương của ông là lời nhắc nhớ với người dân miền Nam về cội nguồn của mình. Người miền Bắc và người miền Nam đều chung một nguồn cội, không thể phân chia thành các vùng miền khác nhau với các chế độ khác nhau như lời thực dân Pháp rêu rao, đầu độc:
Ngày xưa có đoàn người từ miền Bắc/ Chán ghét vua quan áp bức/ Họ đạp núi rừng vượt sóng biển khơi/ Đi vào Nam làm lại cuộc đời/ Tìm đất mới gieo mầm hạnh phúc/ Có con sông cũng tìm hướng Bắc/ Vượt núi rừng ghềnh thác/ Tràn vào Nam cuộn cả bóng mây cao
. Ý thức Nam – Bắc chung nguồn cội ấy cũng biểu hiện rõ nét trong Nhớ Bắc, bài thơ nổi tiếng nhất của ông. Nhớ Bắc thể hiện niềm tự hào về một dân tộc Việt Nam trọng tình, trọng nghĩa, ngàn năm văn vật. Con người Việt dù đi đâu về đâu vẫn nhớ về nguồn cội con Lạc cháu Hồng, vẫn nhớ về Thăng Long ngàn năm văn hiến, trái tim, biểu tượng của người Việt:
Ai đi về Bắc ta đi với/ Thăm lại non sông giống Lạc Hồng/ Từ độ mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long
. Trong tâm thức của Huỳnh Văn Nghệ, đất nước như một người mẹ hiền trải qua bao năm tháng vẫn vững vàng che chở, nuôi dưỡng đàn con thơ:
Mẹ Việt Nam tuổi bốn mươi thế kỉ/ Gót Cà Mau, đầu tận ải Nam Quan/ Cửu Long Giang buông dài làn sóng tóc/ Dựa Trường Sơn đứng gác Thái Bình Dương
(Việt Nam).
Đề tài lớn nhất, xuyên suốt trong phần lớn sáng tác của Huỳnh Văn Nghệ là cuộc sống, chiến đấu của quân và dân chiến khu Đ anh dũng, kiên cường. Chiến khu Đ là căn cứ địa cách mạng gắn liền với tên tuổi Huỳnh Văn Nghệ. Cái tên chiến khu, như lời ông tâm sự, ra đời trong một cuộc thảo luận bên ấm trà giữa ông và những người đồng chí đồng đội. Sau cùng chiến khu Đ là cái tên được lựa chọn, mở ra một trang sử huy hoàng của quân và dân Nam Bộ trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp:
Sau Nam Kì khởi nghĩa/ Trước cách mạng mùa thu/ Có một nhóm đồng chí/ Ra thành lập chiến khu/ Ngồi quanh một ấm chè/ Thảo luận suốt trưa hè/ Tên chiến khu bất khuất/ Đồng Nai hay Đất Cuốc/ Rốt cuộc Chiến khu Đ/ Đã bao mùa lá vàng rơi từ ấy/ Chiến khu Đ vẫn đỏ máu quân thù.
Viết về chiến khu Đ, Huỳnh Văn Nghệ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất trời nơi đây:
Rừng đẹp như một bài thơ cổ/ Cành cao vượn hú/ Ríu rít tổ chim/ Bờ suối đỏ hoa sim/ Thảm cỏ xanh điểm vàng quả bứa/ Đêm trăng một người một ngựa/ Lỏng cương cho gió ráo mồ hôi
(Rừng đẹp).
Viết về chiến khu Đ, Huỳnh Văn Nghệ viết về những khó khăn, vất vả mà mình và đồng đội đã trải qua. Đó là những bữa ăn thiếu thốn, củ khoai, củ sắn chia nhau, là những buổi hành quân dài gian lao, mệt mỏi:
Thương cả đoàn quân đi dưới nắng mưa/ Áo ướt rồi khô, khô rồi lại ướt/ Nước mắt ống tre, muối mè cơm vắt/ Nương áo nhu lần bước đêm rừng/ Mệt hoa mắt, mỏi rã chân
(Hành quân).
Viết về chiến khu Đ, Huỳnh Văn Nghệ viết về những năm tháng chiến khu nguy ngập trước sức tấn công điên cuồng của kẻ thù:
Mất bờ sông là mất một nửa chiến khu/ Mất nước ngọt bờ tre gió mát/ Thuyền tiếp tế lúa khoai chìm đáy nước/ Đường giao thông liên lạc đứt đôi bờ
(Bờ sông bị chiếm).
Viết về chiến khu Đ, Huỳnh Văn Nghệ ngợi ca sự dũng cảm, kiên cường của người lính chiến khu. Mặc dù bị địch dọa nạt, tra tấn bằng hình thức dã man nhất là mổ bụng nhưng người lính trong Giữ bí mật vẫn nhất mực không khai:
Tao quyết sẽ giết mày/ Khám phá điều bí mật/ Mổ bụng mày rõ ngay/…/ Nó rạch bụng ra coi/ Rồi mắt nó trắng nhợt/ Nhìn thấy mấy miếng khoai. Em gái nhỏ trong Em gái liên lạc chỉ cười trước lời hăm dọa cắt cổ, thả trôi sông của quân giặc: Lắc đầu em cố nói không/ Giặc hăm cắt cổ thả sông em cười
. Và trong lúc thiếu thốn thuốc men, người lính đã cất cao tiếng hát để xua đi nỗi đau khi bác sĩ… cưa chân:
Bác sĩ vừa cưa vừa khóc/ Chị cứu thương nước mắt tràn trề/…/ Cưa cứ cưa, xương cứ đứt/ Máu cứ rơi từng giọt đỏ hồng/ Hai tay anh siết chặt đôi hông/ Dồn đôi phổi vào trong tiếng hát/“Đoàn quân Việt Nam đi/ Chung lòng cứu quốc”/ Đã hát đi hát lại bao nhiêu lần/ Vẫn chưa đứt xương chân/ Vẫn chưa ngưng máu đỏ
(Tiếng hát Quốc ca). Với bài thơ này, Huỳnh Văn Nghệ đã đưa tầm vóc của người lính chiến khu Đ lên tầm huyền thoại.
Viết về chiến khu Đ, Huỳnh Văn Nghệ viết về tình cảm gắn kết toàn quân một ý chí chiến đấu chống giặc:
Cũng có người vừa đi vừa mơ ngủ/ Nhưng cả đoàn quân chung một giấc mơ
(Hành quân); viết về niềm lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng sau cùng của cách mạng:
Giữa lòng dân hoa vẫn nở niềm tin/ Việt Minh sẽ về chiếm lại sông xanh
(Bờ sông bị chiếm).
Viết về chiến khu Đ, giọng thơ Huỳnh Văn Nghệ vút cao hào sảng khi nói về những chiến công của quân ta trong trận đánh diệt thù:
Trảng Bom lửa cháy ngập trời/ La Ngà xe giặc bời bời giữa trưa
(Tình súng).
Bắt đầu từ một nhà thơ lãng mạn của phong trào Thơ mới, nhưng không cần đến một cuộc chuyển mình
Theo bờ tư tưởng ta lìa ta/ Một tiếng gà lên tiễn nguyệt tà
, Huỳnh Văn Nghệ đã trở thành nhà thơ – chiến sĩ một cách tự nhiên nhất. Trong con người ông, phẩm chất dũng tướng và thi nhân kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn. Cả cuộc đời vừa đánh giặc vừa làm thơ, mặc dù khiêm tốn tự nhận
Gửi lại bạn những vần thơ trên cát/ Và giờ đây tôi qua bến lên đường
(Bên bờ sông xanh) nhưng với những gì cống hiến cho sự nghiệp cách mạng và thơ ca, thi tướng Huỳnh Văn Nghệ đã trở thành huyền thoại trong nhân dân. Ông đã sống một cuộc đời đầy ý nghĩa, thỏa mãn
Nợ tang bồng vay trả trả vay/ Chí làm trai nam bắc đông tây
(Nguyễn Công Trứ) của một trang hảo hán trong thời loạn. | Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ – Một trường hợp đặc biệt của thi ca Việt Nam hiện đại – Tác giả: Trần Thị Hồng Hoa | 2,482 | |
Vi chất dinh dưỡng là những chất mà cơ thể chúng ta cần với lượng rất nhỏ nhưng lại hết sức cần thiết mà nếu thiếu sẽ gây ra những hậu quả nặng nề cho sức khỏe. Có khoảng 30 vi chất dinh dưỡng chủ yếu, được chia thành hai nhóm: Nhóm vitamin và nhóm các nguyên tố khoáng vi lượng.
Nhấp chuột để xem kích thước chuẩn. | [Infographics] Vai trò của vi chất dinh dưỡng | 67 | |
Theo số liệu mới cập nhật, số người thương vong trong vụ tai nạn tàu hỏa nghiêm trọng ở miền Đông Ấn Độ đã tăng lên hơn 1.000 người.
Lực lượng cứu hộ làm nhiệm vụ tại hiện trường vụ tai nạn đường sắt ở quận Balasore, bang Odisha, Ấn Độ tối 2/6/2023. Ảnh: AP/TTXVN.
Cụ thể, tính đến 6h00 sáng ngày 3/6, đã có ít nhất 207 người chết và 850 người bị thương trong vụ tai nạn kinh hoàng này. Hàng trăm người, đặc biệt là các thanh niên, đã xếp hàng dài tại các bệnh viện để hiến máu cứu giúp các nạn nhân.
Tai nạn xảy ra sau khi đoàn tàu chở khách Coromandel Express chạy từ thành phố Kolkata đến thành phố Chennai đã bị trật bánh và bị đổ sau vụ va chạm với một tàu chở hàng ở quận Balasore thuộc bang Odisha ngày 2/6.
Đội cứu hộ đã lập tức được điều đến hiện trường, trong khi các tổ công tác của chính phủ và lực lượng không quân cũng đã được huy động trợ giúp. Giới chức địa phương xác nhận đã có gần 50 xe cấp cứu được điều tới chở người bị thương đến bệnh viện, chưa kể một lượng lớn xe buýt cũng được huy động để hỗ trợ công tác cứu nạn.
Trên trang mạng xã hội Twitter, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Damodardas Modi khẳng định sẽ huy động mọi sự trợ giúp cần thiết để giúp đỡ các nạn nhân. | Vụ tai nạn đường sắt ở Ấn Độ: Số người thương vong tăng lên trên 1.000 người | 250 | |
Chúng ta cần hình thành và vun đắp những vùng đất văn học, để củng cố bản sắc văn hóa Việt Nam trên con đường hội nhập quốc tế sâu rộng và bền vững.
Nhà văn Nguyễn Bình Phương phát biểu tại tọa đàm “Làm thế nào để có vùng đất văn học?”.
Đó là nội dung Tọa đàm “Làm thế nào để có vùng đất văn học?” vừa được tổ chức tại Phú Yên với sự tham dự của nhiều nhà văn tên tuổi khắp cả ba miền như Nguyễn Trí Huân, Ngô Vĩnh Bình, Lê Thành Nghị, Nguyễn Bình Phương, Bích Ngân, Trình Quang Phú, Huỳnh Thạch Thảo, Nguyễn Thu Phương, Bùi Anh Tấn.
Vùng đất văn học, không phải khái niệm xa lạ, nhưng không phải ai cũng đánh giá đầy đủ giá trị của vùng đất văn học. Đối với một người cầm bút, trong lòng luôn hiện diện một vùng đất để làm nơi nương tựa hoặc để làm nguồn cảm hứng cho hành trình sáng tạo. Vùng đất ấy, có thể là chốn chôn nhau cắt rốn, có thể là chốn hẹn hò tình duyên, và cũng có thể chỉ là chốn nhung nhớ xa vời của một lần đặt chân đến và vương vấn khôn nguôi.
Một vùng đất thường xuyên xuất hiện trong tâm tưởng và không phải tình cờ bước vào trang viết, chính là vùng đất văn học của tác giả. Vùng đất văn học có tên gọi cụ thể, có cảnh sắc cụ thể hoặc chỉ là những bóng cây, những dáng người, nhưng khi chạm bút vào vùng đất văn học, tác giả phô diễn được sở trường tốt nhất và có những tác phẩm ưng ý nhất. Có vùng đất văn học gắn bó máu thịt với tác giả, khiến họ trở thành sứ giả văn hóa và đời sống của một địa phương.
Trong văn chương hiện đại Việt Nam, có thể kể đến một số trường hợp như Tô Hoài với Hà Nội, Sơn Nam với sông nước miệt vườn, Nguyên Ngọc với Tây nguyên, Nguyễn Văn Xuân với Quảng Nam, Hoàng Văn Bổn với Đồng Nai, Hoàng Phủ Ngọc Tường với Huế, Lê Văn Thảo với An Giang, Nguyễn Ngọc Tư với Cà Mau…
Từ vùng đất văn học của các tác giả, đã hình thành vùng đất văn học của công chúng. Biên độ mở của vùng đất văn học được xác lập nhờ 2 yếu tố, thứ nhất quy tụ một đội ngũ tác giả đông đảo, thứ hai thông qua tác phẩm văn học để công chúng thêm yêu mến vùng đất được tác giả đề cập. Ở Việt Nam hiện tại có bao nhiêu vùng đất văn học? Xưa nay, muốn tìm trạng nguyên hoặc danh sư, phải đến kinh thành.
Những đô thị trung tâm như Hà Nội, TPHCM cũng là vùng đất văn học với hàng trăm tác giả đang sinh sống và sáng tác. Những vùng đất đã được bồi đắp văn hóa lâu đời như Nghệ An, Huế cũng là vùng đất văn học. Ngoài ra, những vùng đất có cơ duyên đặc biệt sản sinh những tài năng vượt trội, hoặc tạo ra những trào lưu văn học và hình thành dòng chảy văn học riêng như Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bình Định, An Giang… cũng là vùng đất văn học.
Tuy nhiên, có những vùng đất văn học của tác giả, nhưng chưa đủ sức hút tạo thành vùng đất văn học của công chúng. Đó là những lát cắt tình cờ của sáng tạo, như “Sa Pa lặng lẽ” của Nguyễn Thành Long, “Em Pleiku má đỏ môi hồng” của Vũ Hữu Định. Và có những vùng đất nổi tiếng đã có “thương hiệu địa phương” để thu hút mọi người, nhưng vẫn chưa thể trở thành vùng đất văn học như Cần Thơ, Vũng Tàu, Đà Lạt, Nha Trang… vì những hoạt động văn chương ở đây vẫn cầm chừng và manh mún. Theo thăng trầm lịch sử, có những vùng đất văn học trong quá khứ đã mai một dần đi như Hà Tiên. Ngược lại, có những vùng đất đang vận động trở thành vùng đất văn học như Phú Yên.
2. Vùng đất văn chương là chỉ dấu đáng tin cậy cho sức sống văn hóa của một địa phương. Hãy nhớ, để xây dựng hạ tầng vật chất cho một địa phương chỉ cần nguồn lực tài chính và thời gian 10 năm hoặc 20 năm. Thế nhưng, để xây dựng phẩm chất văn hóa cho một địa phương, phải mất thời gian gấp 10 lần, và không chỉ cần nguồn lực tài chính, mà đòi hỏi thêm ý thức trách nhiệm của cộng đồng.
Lý giải vì sao trung tâm kinh tế sôi động như TPHCM cũng là một vùng đất văn học, nhà văn Bích Ngân đánh giá: “Vùng đất văn học không phải khái niệm tách rời khỏi các hoạt động thương mại – tài chính của TPHCM. Ngược lại, chính đời sống văn học làm đậm đà thêm bản sắc nghĩa tình, hào hiệp, sáng tạo của TPHCM hôm nay. Không bị cạnh tranh và cũng không chịu áp lực từ những loại hình nghệ thuật sôi động khác như âm nhạc, điện ảnh, sân khấu… văn học TPHCM đặt nền tảng trên sự cởi mở và sự gắn kết. Cho nên vùng đất văn học TPHCM được thiết lập một cách tự nhiên và bền vững”.
Làm sao để có một vùng đất văn học? Đầu tiên phải xuất phát từ tình cảm và nỗ lực của tác giả. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh luôn dùng bối cảnh hoặc địa danh của cố hương Thăng Bình, Quảng Nam để đưa vào tác phẩm, như quán Gò, chợ Đo Đo, thậm chí nhân vật Hà Lam được đặt theo tên gọi thị trấn, nhân vật Trà Long được đặt theo tên làng… Vùng đất văn học không thể chờ đợi vào sự may rủi.
Muốn có vùng đất văn học, rất cần những chính sách của địa phương đầu tư phát triển văn học, cũng như tích cực vận động và tạo điều kiện cho tư nhân tham gia vào các hoạt động kiến tạo không gian sáng tác văn chương. Thí dụ tỉnh Thái Bình không chỉ là “quê hương năm tấn” mà còn là một vùng đất văn học với truyền thống xem trọng chữ nghĩa được tiếp nối. Có danh nhân Lê Quý Đôn làm “trấn sơn chi bải” và có cả công trình “10 thế kỷ văn chương Thái Bình” quy mô, tỉnh Thái Bình còn cấp đất, hỗ trợ kinh phí để hình thành địa chỉ văn học “Bảo tàng tác phẩm hậu chiến tranh Minh Chuyên” rất hoành tráng.
Nhà văn Nguyễn Bình Phương
, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cho rằng: “Dù nguồn gốc hình thành như thế nào, tôi nghĩ điều quan trọng nhất để duy trì vùng đất văn học chính là niềm tin chân thành của chúng ta. Trong văn chương nghệ thuật, tôi cho rằng, chân thành – nhắc thì thừa nhưng không nhắc thì thiếu”.
Nhà văn Nguyễn Bình Phương cũng nhắc đến làng Cao Mật vốn là một địa danh bình thường đã trở thành vùng đất văn học của nhà văn Trung Quốc Mạc Ngôn, người đã đạt giải Nobel văn học năm 2012. Nhà văn Mạc Ngôn thổ lộ: “Tôi cần phải thừa nhận rằng trong quá trình sáng lập lãnh địa văn học “Làng Đông Bắc Cao Mật”, nhà văn Mỹ William Faulkner và nhà văn Columbia Garcia Marquez đã đem lại cho tôi những gợi ý quan trọng.
Tuy tôi chưa đọc kỹ các tác phẩm của họ nhưng khí phách hào hùng khai sơn phá thạch của 2 ông đã khích lệ tôi, khiến tôi hiểu được rằng mỗi nhà văn phải có mảnh đất của riêng mình. Trong đời sống hàng ngày, người ta cần khiêm tốn nhún nhường, nhưng trong sáng tác văn học lại phải tự tin tới mức quá đáng, phải độc đoán chuyên quyền. Việc tôi cần làm thực ra rất đơn giản, đó tức là dùng phương cách của mình kể câu chuyện của mình.
Đây là cách người thuyết thư dùng ở ngoài chợ mà tôi đã thuộc lòng, là cách kể chuyện của ông bà tôi, của các già làng. Nói thẳng ra, khi kể chuyện tôi không nghĩ tới việc ai là thính giả của mình. Có lẽ thính giả của tôi là những người như mẹ tôi, cũng có lẽ chính là tôi, là câu chuyện của tôi, ban đầu là trải nghiệm thiết thân của tôi”. | Vun đắp văn hóa để nhận diện thương hiệu địa phương | 1,451 | |
Nhận lời mời của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Thủ tướng Australia Anthony Albanese sẽ thăm chính thức Việt Nam từ ngày 3 – 4/6/2023. Australia là nước phương Tây đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Trải qua hơn 50 năm (26/2/1973 – 26/2/2023), quan hệ
Việt Nam
và
Australia
ngày càng phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị, kinh tế-thương mại… | Quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam – Australia | 74 | |
Ngày 2/6, Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) sẽ phát trực tuyến trên YouTube một giờ những hình ảnh trực tiếp đầu tiên từ Sao Hỏa.
Miệng núi lửa Belva trên Sao Hỏa. Ảnh: NASA.
Theo hãng tin Reuters, sự kiện này nhằm kỷ niệm 20 năm ngày ra mắt tàu Mars Express của ESA – sứ mệnh chụp ảnh 3D bề mặt hành tinh Đỏ để có thể quan sát một cách chi tiết hơn.
ESA thông báo người xem trên Trái Đất có thể xem những hình ảnh trên Sao Hỏa trực tiếp trên tài khoản YouTube của ESA từ 18h ngày 2/6 (giờ Trung Âu), tương đương 23h – giờ Việt Nam. Video cập nhật cũng được phát qua tài khoản Twitter.
James Godfrey, Giám đốc điều hành tàu vũ trụ tại trung tâm điều khiển sứ mệnh của ESA ở Darmstadt, Đức, cho biết: “Thông thường, chúng ta nhìn thấy hình ảnh từ Sao Hỏa được chụp vài ngày trước đó. Tôi rất vui khi chúng ta có thể được nhìn thấy Sao Hỏa như bây giờ – càng gần sát với Sao Hỏa ở mức có thể thì càng tốt”.
ESA cho biết thông thường dữ liệu quan sát về Hành tinh Đỏ được lưu trữ ở trên tàu vũ trụ cho đến khi tàu vũ trụ có điều kiện truyền về Trái Đất. Tùy thuộc vào vị trí của Sao Hỏa và Trái Đất trong quỹ đạo quanh Mặt Trời, các hình ảnh được gửi trong không gian có thể mất từ 3 đến 22 phút.
Để bắt đầu phát trực tiếp, ESA ước tính sẽ mất khoảng 17 phút để tạo thành hình ảnh truyền trực tiếp từ Sao Hỏa đến Trái Đất qua không gian và sau đó một phút nữa để hình ảnh đi qua dây và máy chủ trên mặt đất.
“Lưu ý, chúng ta chưa bao giờ thử nghiệm bất cứ điều gì như thế này trước đây, vì vậy thời gian di chuyển chính xác của các tín hiệu trên mặt đất vẫn chưa chắc chắn”, cơ quan này cho biết trong một tuyên bố. | Lần đầu tiên con người ở Trái Đất có thể xem Sao Hỏa trực tiếp | 351 | |
ThS. Nguyễn Hữu Thiện.
Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) từng trải qua hai mùa hạn mặn gay gắt hồi mùa khô 2016 và 2020 do hiện tượng El Nino cực đoan gây ra. Dự báo El Nino đang trở lại, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến ĐBSCL. Để nhận diện rõ hơn nguy cơ này, xin giới thiệu bài viết của ThS. Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về sinh thái ĐBSCL.
El Nino gần như chắc chắn đang đến nhưng chưa biết mức độ mạnh như thế nào. Trong tình huống một El Nino mạnh diễn ra thì kịch bản cho ĐBSCL sẽ là mùa mưa này (tháng 5 đến tháng 11) ở các quốc gia lưu vực sông Mê Kông và tại ĐBSCL sẽ ít. Tùy theo độ mạnh của El Nino thì lượng mưa sẽ giảm tương ứng. Nếu El Nino năm nay cực đoan như hồi mùa mưa 2015 thì lượng mưa trong mùa mưa 2023 sắp tới sẽ thấp như lượng mưa 2015.
Lượng mưa ít trên lưu vực sông Mê Kông sẽ dẫn đến mùa lũ năm nay thấp. Lượng thủy sản tự nhiên của sông Mê Kông trôi về ĐBSCL sẽ ít vì cá không có nhiều môi trường sinh sản. Ngoài ra, lượng phù sa bùn cát trôi về ĐBSCL theo mùa lũ cũng sẽ ít. Mùa lũ thấp sẽ ảnh hưởng đến vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, nhất là các mô hình canh tác và sinh kế dựa vào mùa lũ như nuôi cá, tôm càng xanh trên đồng, các loại hình du lịch mùa lũ.
Tiếp theo đó, mùa khô sau Tết 2024, hạn mặn có thể gay gắt ở vùng ven biển ĐBSCL, mặn có thể lấn sâu vào đất liền. Vẫn còn quá sớm để có thể dự báo chắc chắn, nhưng ngành nông nghiệp và bà con nông dân nên bắt đầu quan sát chặt chẽ tình hình để có thể ứng phó kịp thời.
Trước mắt, đối với vùng lũ đầu nguồn như Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười, việc đầu tư cho mùa vụ canh tác và sinh kế dựa vào mùa lũ sắp tới nên dè dặt. Bà con sống bằng nghề đánh bắt cá tự nhiên năm nay khi đầu tư mua lưới và ngư cụ cũng nên thận trọng.
Đối với vùng ven biển, mùa khô 2023 sắp kết thúc nên rủi ro hạn – mặn đã qua. Nhưng mùa khô năm sau 2024, vùng này có thể có rủi ro hạn – mặn gay gắt nếu El Nino cực đoan diễn ra.
Khi nói về rủi ro hạn mặn ĐBSCL cần phải xét hai vùng riêng biệt là vùng cửa sông Cửu Long và vùng bán đảo Cà Mau vì hai vùng này rất khác nhau.
Vùng cửa sông Cửu Long, do vị trí nằm ở phía cuối lưu vực Mê Kông cho nên vùng này chịu ảnh hưởng của biến động lượng nước ở phía thượng nguồn Mê Kông, trong đó gồm biến đổi khí hậu ở thượng nguồn và sự vận hành của các hồ thủy điện.
Năm nào có El Nino, mưa ít thì mùa lũ sông Mê Kông thấp và sang đến mùa khô dòng sông Mê Kông yếu. Khi dòng sông Mê Kông thấp thì các đập thủy điện không đủ độ sâu để chạy turbine phát điện, phải đóng đập để tích nước cho đủ độ sâu. Đập trên đóng thì đập dưới phải chờ, và đập kế tiếp phải chờ. Nước đi qua một chuỗi đập sẽ rất lâu, khi đó tình hình hạn mặn ĐBSCL sẽ rất gay gắt. Tức là khi xảy ra tình trạng khô hạn thì thủy điện Mê Kông làm cho tình hình hạn mặn tồi tệ thêm.
Vùng bán đảo Cà Mau ít chịu ảnh hưởng của sông Cửu Long. Lượng nước nơi này chủ yếu do mưa tại chỗ. Ở vùng này, đất bên dưới là đất mặn, hàng năm có lớp nước mưa phủ lên bề mặt nên được 6 tháng ngọt nhưng khi sang mùa khô thì mặn vì hết nước ngọt. Trong những năm có El Nino mưa ít, nước ngọt ở vùng này sẽ hết nhanh, tức là mùa ngọt kết thúc sớm hơn.
Còn nhớ El Nino xảy ra vào mùa mưa 2015 làm cho lượng mưa trong lưu vực Mê Kông rất ít và mùa lũ 2015 rất thấp. Sang đến mùa khô 2016 thì sông Mê Kông rất yếu, khi đó thủy điện đã tích nước để phát điện gián đoạn, làm cho tình hình hạn – mặn rất gay gắt, đã gây thiệt hại 160 ngàn ha lúa mùa khô ven biển. Điều đó chứng tỏ công trình ngăn mặn không có tác dụng nhiều trong những năm hạn mặn cực đoan như thế. Đến mùa mưa 2019, hiện tượng El Nino cực đoan lặp lại, sang mùa khô 2020 hạn mặn lại gay gắt. Nhưng nhờ có kinh nghiệm lần trước nên năm 2020 các tỉnh ven biển chủ động né vụ, nhờ đó thiệt hại rất thấp so với năm 2016.
Cánh đồng lúa đang chết khô vì thiếu nước, năm 2020 ở Sóc Trăng. Ảnh: Duy Nhân.
Gặp những năm El Nino cực đoan và thủy điện làm cho tồi tệ thêm như thế thì ở ĐBSCL, các công trình ngăn mặn ven biển chỉ phát huy tác dụng vào đầu mùa khô. Đến giữa mùa khô thì dù có ngăn mặn từ biển vào, bên trong vẫn không có nước.
Tương tự, đối với vùng bán đảo Cà Mau, gặp những năm khô hạn cực đoan, công trình ngăn mặn chỉ phát huy tác dụng vào đầu mùa khô. Đến giữa mùa khô thì dù có ngăn được mặn từ biển vào, bên trong cũng không có nước và mặn từ dưới đất được mao dẫn đưa lên vì đất bên dưới vùng này là mặn.
Đã trải qua hai lần hạn mặn gay gắt, chúng ta có thể rút ra rằng cách thích ứng tốt nhất trước mắt là chủ động né hạn mặn bằng cách điều chỉnh lịch thời vụ theo kinh nghiệm của các tỉnh ven biển hồi mùa khô 2016. Các cộng đồng ven biển cần chủ động tích trữ nước ngọt cho sinh hoạt trong mùa khô 2024.
Về lâu dài cần thực hiện theo Quy hoạch tích hợp ĐBSCL đã được Thủ tướng công bố tháng 6.2022. Theo đó, vùng ngọt được lùi vào phía trong, còn vùng ngọt – lợ sẽ được trả lại tự nhiên và canh tác theo mùa mặn ngọt chứ không cố chống lại mặn như trước. Khi thích ứng với mặn ngọt theo mùa như vậy thì chúng ta không còn bị ám ảnh về mặn mỗi khi mùa khô đến. Song song đó, vấn đề cấp nước sinh hoạt cho vùng ven biển cần được đầu tư thích đáng, đặc biệt là cho tình huống El Nino cực đoan. | Những kịch bản hạn – mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long | 1,159 | |
Màn trình diễn của đội Phần Lan tại đêm khai mạc Lễ hội Pháo hoa quốc tế Đà Nẵng. (Nguồn: TTXVN).
Lễ hội Pháo hoa quốc tế Đà Nẵng, diễn ra từ 2/6-8/7, có sự tham gia tranh tài của 8 đội đến từ các quốc gia có truyền thống lâu đời về nghệ thuật trình diễn pháo hoa.
Tối 2/6, Lễ hội Pháo hoa quốc tế Đà Nẵng-DIFF 2023 chính thức khai mạc với phần trình diễn của đội tuyển Việt Nam và đội Phần Lan.
Sau 3 năm chờ đợi, hơn 5.000 khán giả yêu thích các màn trình diễn pháo hoa đã lại được thấy hai bờ sông Hàn rực rỡ trong “bữa tiệc” âm thanh và ánh sáng quen thuộc.
Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang, cùng lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương và
thành phố Đà Nẵng
đã tham dự chương trình.
Khai mạc Lễ hội, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Lê Trung Chinh cho biết, sự thành công của Lễ hội Pháo hoa Quốc tế Đà Nẵng các năm trước đã khẳng định sức hấp dẫn của sự kiện trong lòng người dân thành phố, cũng như du khách trong và quốc tế.
Đây là niềm tự hào của Đà Nẵng; đồng thời là một thách thức để thành phố không ngừng nỗ lực vượt lên, tiếp tục nâng cao chất lượng tổ chức và trình diễn nhằm xây dựng thương hiệu Lễ hội Pháo hoa Quốc tế Đà Nẵng ngày càng hấp dẫn.
Lễ hội năm nay có sự tham gia tranh tài của các đội đến từ Vương Quốc Anh, Ba Lan, Canada, Pháp, Phần Lan, Australia, Italy và Việt Nam, đều là các quốc gia có truyền thống lâu đời về nghệ thuật trình diễn pháo hoa. Các đội sẽ cùng nhau kể những câu chuyện bằng ánh sáng, bằng âm nhạc, bằng sự thăng hoa của nghệ thuật và cảm xúc, hứa hẹn sẽ mang đến những bất ngờ và ấn tượng khó quên.
Sau phần văn nghệ mở màn đặc sắc, phần thi của đội chủ nhà Việt Nam đã diễn ra với câu chuyện về hòa bình và hữu nghị thông qua chủ đề “Đà Nẵng-âm sắc hòa bình”. Đội Phần Lan thể hiện những cảm xúc và tình yêu mãnh liệt với cuộc sống trong chủ đề “Khởi động trái tim.”
Đội pháo hoa Việt Nam đã mang đến cho khán giả màn khởi đầu không thể mãn nhãn hơn với 4.500 pháo các loại cùng trên 128 hiệu ứng sắc màu khác nhau. Khởi đầu của màn trình diễn là sự kết hợp tinh tế giữa âm nhạc và pháo hoa, với nhịp điệu nhẹ nhàng qua thanh âm “Tiếng lòng Hàn Giang”, được thiết kế để khơi gợi cảm xúc và đánh thức các giác quan của khán giả.
Bước sang chương thứ hai, đội Việt Nam chuyển hướng và giới thiệu âm nhạc cùng hiệu ứng pháo hoa sống động, thể hiện sự kiên cường và quyết tâm của người dân Đà Nẵng khi vượt lên trên những thách thức do đại dịch.
Tâm điểm của màn trình diễn là chương thứ ba, với cường độ pháo hoa đạt đến đỉnh điểm, bung nở, tạo nên hình ảnh hàng trăm chùm pháo kết nối tựa như những cánh tay đan cài, thể hiện cho sự thắt chặt của tình hữu nghị giữa các dân tộc khắp thế giới.
Bầu trời sông Hàn bừng lên những thác ánh sáng lung linh từ “bản giao hưởng” đầy màu sắc đến từ đội JoHo Pyro của Phần Lan, tạo ra những chùm hoa văn ánh sáng đầy mê hoặc.
Năm nay, Phần Lan đến để kể câu chuyện về hành trình trở lại với nhịp sống “bình thường mới” trong đại dịch Covid-19. Bằng kỹ thuật bắn pháo đa dạng, từng nhịp pháo hoa đã được đội này biên đạo hoàn hảo với những tia sáng xếp tầng, hòa nhịp theo thanh âm rock mạnh mẽ.
Phần Lan đã đưa khán giả đi qua những “thăng trầm” trong cảm xúc như chính quãng thời gian 3 năm khó khăn vừa qua và rồi thăng hoa vỡ òa khi dịch bệnh qua đi, thế giới lại được gần nhau như chưa từng có những cách ly.
Có mặt từ sớm để chọn chỗ ngồi đẹp trên khán đài, ông Rich Dallas, du khách đến từ Mỹ cho biết: “Tôi rất đam mê pháo hoa nên thường đi du lịch tới các nước để xem pháo hoa. Đây là lần thứ hai tôi đến Việt Nam để xem Lễ hội Pháo hoa quốc tế Đà Nẵng DIFF, lần đầu tiên là vào năm 2019. Tôi thấy đây là một trong những lễ hội pháo hoa đặc sắc, hấp dẫn và nổi tiếng nhất trên thế giới hiện nay”.
Lễ hội DIFF 2023 với chủ đề “Thế giới không khoảng cách” diễn ra từ ngày 2/6-8/7 tại sân khấu pháo hoa bên sông Hàn, với sự tham gia của 8 đội pháo.
(theo TTXVN) | Lễ hội Pháo hoa quốc tế Đà Nẵng: Rực rỡ ‘bữa tiệc’ âm thanh và ánh sáng hai bờ sông Hàn | 846 | |
Tại buổi lễ do quận Hoàn Kiếm, Hà Nội tổ chức đã diễn ra nghi thức dâng hương, lễ khai mạc và sân khấu hóa tái hiện Vua Lê Thái Tổ đăng quang. Ảnh: Cổng Giao tiếp điện tử Hà Nội.
Tối ngày 2/6, Lễ hội kỷ niệm 595 năm ngày Vua Lê Thái Tổ đăng quang (1428-2023) đã trang trọng diễn ra tại Khu di tích tưởng niệm Vua Lê Thái Tổ bên hồ Hoàn Kiếm lịch sử, nơi gắn với huyền thoại Vua Lê trả gươm báu cho Rùa thần.
Phát biểu tại buổi lễ kỷ niệm 595 năm ngày Vua Lê Thái Tổ đăng quang (1428-2023), Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm Phạm Tuấn Long khẳng định: Lễ hội là dấu ấn văn hóa sinh động, ý nghĩa, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, tôn vinh những giá trị văn hóa lịch sử quốc gia Khu phố cổ Hà Nội, giá trị Di sản văn hóa Quốc gia đặc biệt đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm, giá trị văn hóa sáng tạo không gian đi bộ khu vực hồ Hoàn Kiếm tới du khách trong và ngoài nước.
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm Phạm Tuấn Long phát biểu khai mạc tại Lễ hội kỷ niệm 595 năm ngày Vua Lê Thái Tổ đăng quang (1428-2023). Ảnh: Cổng Giao tiếp điện tử Hà Nội.
Quận Hoàn Kiếm
sẽ tiếp tục tổ chức tốt việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị của khu di tích để nơi đây thực sự là một di sản tiêu biểu trong khu vực hồ Hoàn Kiếm, niềm tự hào của nhân dân, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ mai sau về các giá trị lịch sử văn hóa, truyền thống của dân tộc.
Đây cũng là dịp để ôn lại những trang sử vẻ vang, truyền thống hào hùng chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Đồng thời, ghi nhận, tôn vinh và phát huy những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, tín ngưỡng dân gian truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Qua đó, nhân dân quận Hoàn Kiếm và du khách hiểu biết thêm về những giá trị lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật đặc trưng của khu di tích tưởng niệm vua Lê Thái Tổ gắn với sự phát triển của Thăng Long – Hà Nội.
Các đại biểu dự Lễ hội kỷ niệm 595 năm ngày Vua Lê Thái Tổ đăng quang (1428-2023). Ảnh: Cổng Giao tiếp điện tử Hà Nội.
Lễ hội kỷ niệm 595 năm Vua Lê Thái Tổ đăng quang năm nay được tổ chức tại tượng đài khu di tích tưởng niệm Vua Lê Thái Tổ với quy mô cấp quận, diễn ra trong 3 ngày, từ ngày 2-4/6 (tức ngày 15-17 tháng Tư năm Quý Mão) với nhiều nội dung hoạt động phong phú, nhiều nghi thức tâm linh, hoạt động văn hóa nghệ thuật đặc sắc như lễ rước kiệu truyền thống xung quanh hồ Hoàn Kiếm, triển lãm tranh dân gian Hàng Trống, triển lãm ảnh về vẻ đẹp hồ Hoàn Kiếm, biểu diễn thư pháp… Ngoài ra, còn có các hoạt động biểu diễn cờ người, biểu diễn võ thuật… tại các khu vực khác nhau quanh hồ Hoàn Kiếm.
Tối ngày 2/6, Lễ hội kỷ niệm 595 năm ngày Vua Lê Thái Tổ đăng quang (1428-2023) đã trang trọng diễn ra tại Khu di tích tưởng niệm Vua Lê Thái Tổ bên hồ Hoàn Kiếm. Ảnh: Cổng Giao tiếp điện tử Hà Nội.
Công lao của anh hùng dân tộc
Lê Lợi
(Vua Lê Thái Tổ) gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh, vào đầu thế kỷ 15. Dưới sự lãnh đạo tài tình của người anh hùng dân tộc Lê Lợi, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã thắng lợi, hàng chục vạn quân xâm lăng đã phải tháo chạy về nước, chấm dứt 20 năm xâm lược trên đất nước ta. Trong niềm vui hân hoan của dân tộc, ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi chính thức đăng quang ngôi Vua tại điện Kính Thiên, thành Đông Quan (Hà Nội ngày nay), xưng vương là Thuận Thiên, đặt tên nước là Đại Việt, ban Bình Ngô Đại Cáo. Trong suốt thời gian trị vì ngôi Vua, Lê Thái Tổ đã đặt nền móng vững chắc cho cả một triều đại và một nền độc lập phồn thịnh của quốc gia Đại Việt.
Tượng đài vua Lê Thái Tổ, công trình văn hóa – tưởng niệm để ghi nhớ công lao anh hùng dân tộc Lê Lợi, người đã lãnh đạo cuộc kháng chiến đánh đuổi quân Minh, giải phóng đất nước vào thế kỷ XV. Tượng đài này được dựng vào khoảng năm 1896 cạnh hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, gắn với huyền thoại Vua Lê trả lại gươm báu cho Rùa thần. Ảnh: Wikipedia.
Sự kiện đăng quang của Vua Lê Thái Tổ năm xưa đã đi vào lịch sử, trở thành sự kiện lớn trong sự ngưỡng vọng, tôn vinh của dân tộc. Để tỏ lòng thành kính và tưởng nhớ công lao to lớn của Đức Vua Lê Thái Tổ, nhân dân nhiều địa phương trong cả nước đã lập đền thờ, dựng tượng đài và đặt tên đường phố mang tên Lê Lợi.
Chính tại nơi này, bên Hồ Gươm gắn với huyền thoại Vua Lê trả lại gươm báu cho Rùa thần, đã dựng nên tượng đài Vua Lê Thái Tổ cùng với đình Nam Hương tạo thành một quần thể di tích lịch sử văn hóa trang nghiêm, cổ kính.
Đây là nơi lưu giữ những truyền thống văn hóa tốt đẹp giữa lòng Thủ đô, một trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng cộng đồng hấp dẫn có giá trị tiêu biểu. Với ý nghĩa và giá trị trường tồn đó, công trình tưởng niệm vua Lê Thái Tổ và Di tích lịch sử văn hóa đình Nam Hương đã được Nhà nước xếp hạng là Di tích Lịch sử văn hóa cấp Quốc gia để giữ gìn, bảo tồn và lưu truyền cho các thế hệ mai sau. | Trang trọng lễ kỷ niệm 595 năm ngày Vua Lê Thái Tổ đăng quang | 1,043 | |
"Truyện ngắn chọn lọc" của Anton Pavlovich Chekhov do NXB Tổng hợp TP.HCM ấn hành. Ảnh: Đình Ba.
Qua 12 truyện ngắn được tuyển dịch, nhà văn tài hoa Chekhov đã khai thác nội tâm, cảm xúc của nhân vật để đan lồng vào đó những nghĩ suy về cuộc sống, con người.
Anton Pavlovich Chekhov (1860-1904) được biết đến là nhà soạn kịch, nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng người Nga. Ông là tác giả của hàng trăm truyện ngắn với các tác phẩm tiêu biểu:
Phòng 6, Nhà tu hành vận đồ đen, Người đàn bà có con chó nhỏ, Người trong bao, Khóm phúc bồn tử, Về tình yêu
… Cùng đó là các vở kịch tiêu biểu:
Chim hải âu, Cậu Vanya, Ba chị em, Vườn anh đào
…
Mới đây,
Truyện ngắn chọn lọc
của Chekhov được Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM ấn hành ra mắt độc giả với sự chuyển ngữ của dịch giả Bùi Ngọc Diệp. Nói về lý do chuyển ngữ truyện ngắn của Chekhov, dịch giả Bùi Ngọc Diệp chia sẻ Chekhov là người đã nâng tầm thể loại truyện ngắn lên một tầm cao mới trong nền văn học Nga.
“Với cái nhìn trầm tĩnh, trung thực về những nhân vật, Chekhov thể hiện nội tâm và cảm nghĩ của họ một cách gián tiếp thay vì miêu tả trực tiếp. Những tình tiết trong truyện của ông giản dị và kết thúc thường bỏ ngỏ thay vì chung quyết. Những tác phẩm của Chekhov ẩn chứa ý nghĩa sâu xa, ẩn lấp dưới bề mặt cuộc đời thường của những con người bình thường”.
Ở lần chuyển ngữ này, 12 truyện ngắn của Chekhov được giới thiệu đến độc giả. Mỗi truyện ngắn, lại đưa độc giả đến với những mảnh nhỏ đặc trưng của đời sống, văn hóa, con người Nga thế kỷ 19 qua những trạng huống khác nhau.
Đó có thể là Mitia sung sướng khi mình nổi tiếng theo cách không giống ai, được cả nước Nga biết đến khi tin tức về anh chàng lên trên mặt báo qua vụ tai nạn xe ngựa liên quan đến say rượu (truyện
Niềm sung sướng
); là sự cư xử của con người, tình cảm bạn bè phải nhường chỗ cho sang hèn, chức vị thể hiện nơi anh chàng gầy Porfiry khi gặp lại người bạn thuở xưa (truyện
Đôi bạn béo và gầy
)…
Mỗi truyện lồng vào đó, là ý nghĩa đọng lại khiến độc giả phải suy nghĩ về thế thái, nhân tình. Ẩn sau văn phong, ngôn ngữ uyển chuyển và sự hoạt ngôn của các nhân vật, tác giả châm biếm những thói xấu của con người như sự giả dối, trưởng giả hoặc khoe mẽ đáng lên án.
Cảm nhận tác phẩm tuyển dịch này, dịch giả Bùi Ngọc Diệp ghi: “Về mặt nghệ thuật, truyện ngắn của Chekhov có chiều sâu tâm lý, lột tả rất xác thực tình tiết nội tâm đặc trưng của các tầng lớp người Nga thế kỷ thứ 19 nhất là thành phần thị dân nước Nga, nên có thể nói Chekhov là nhà văn của lớp thành thị Nga”. | Thông điệp phê phán trong truyện ngắn của Chekhov | 521 | |
Dịch giả Lam Anh vốn được biết đến là một dịch giả văn học Nhật Bản uy tín với những dịch phẩm đã được giới thiệu tại Việt Nam như: Gối đầu lên cỏ, Ngày 210, Cỏ ven đường, Xứ tuyết… Ngoài dịch, chị cũng có nhiều năm giảng dạy và nghiên cứu văn học Nhật Bản. Tác phẩm Văn học Nhật Bản – Vẻ đẹp mong manh và bất tận (NXB Tổng hợp TPHCM) là thành quả đó của chị.
Nhật Bản
là đất nước của tinh thần duy mỹ. Người Nhật sống hết mình với hoạt động sáng tạo, thưởng thức, trân trọng và bảo tồn cái đẹp. Thế nên lịch sử văn hóa Nhật Bản là một tiến trình dài với rất nhiều thành tựu thuộc về nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau. Văn chương cũng là một lĩnh vực sáng tác nghệ thuật hòa trong dòng chảy đó.
Là một bộ phận của văn hóa, đồng thời là sản phẩm được tạo nên từ tinh thần duy mỹ của người Nhật, văn học Nhật Bản cần được hiểu trong sự gắn kết với cảm thức thẩm mỹ và những nét đặc trưng của văn hóa truyền thống. Đó là điều quan trọng, nhưng đối với độc giả sinh trưởng bên ngoài không gian văn hóa đã hình thành nền văn học ấy thì việc thực hiện không đơn giản.
Từ rất xa xưa, từ khởi nguyên của văn chương với waka và thần thoại, người Nhật Bản đã ký thác vào nghệ thuật ngôn từ tư tưởng về cái đẹp và bản chất vô thường của thế giới. Cho nên văn chương Nhật Bản từ khởi thủy đã nói lên vấn đề cốt lõi về thân phận con người, đã có tính hiện thực ở tầm vóc nhân loại và đặc biệt là có giá trị thẩm mỹ cao.
Bên cạnh đó, vì cái đẹp trong văn chương Nhật Bản gắn với sự vô thường của thế giới, sự mong manh của kiếp người nên thường phảng phất nét buồn và tâm thái trầm tư. Đó là một đặc trưng quan trọng tồn tại xuyên suốt tiến trình lâu dài của lịch sử văn học Nhật Bản. Đặc trưng này biểu hiện ở nhiều sắc độ khác nhau trong nhiều giai đoạn, nhiều loại hình văn chương từ waka truyền thống, Truyện Genji đến những sáng tác của nhiều nhà văn hiện đại và đương đại.
Nếu nói về giao lưu văn hóa, thì việc thưởng thức món ăn theo kiểu Nhật, hay thử mặc trang phục truyền thống của người Nhật, xem nghệ nhân Nhật Bản cắm hoa, pha trà, làm bánh… là những cách thưởng thức vẻ đẹp Nhật Bản dễ dàng hơn rất nhiều so với đọc văn chương, đặc biệt là đọc văn học cổ điển.
Nhưng mặt khác, nếu hiểu “vẻ đẹp” theo nghĩa rộng, tức là những giá trị tinh hoa của văn hóa tư tưởng Nhật Bản, thì những hoạt động giao lưu nói trên chỉ có thể giới thiệu đến người tham gia những biểu hiện ở mức độ đơn giản của vẻ đẹp ấy, theo chiều hướng và trong phạm vi phù hợp với tình huống diễn ra hoạt động giao lưu.
Trong khi đó, đọc văn chương ở mức độ sâu rộng sẽ giúp cho người đọc có cái nhìn toàn diện, đa chiều về văn hóa Nhật Bản.
Bước vào trang sách, người đọc có cơ hội “chứng kiến” mọi cảnh ngộ của đời sống con người, trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, có thể cảm thấy hoài nghi hay hoang mang tột độ, nhưng chính vì như thế nên cảm nghiệm văn hóa thật hơn, đầy đủ hơn qua những thông điệp mà chủ nhân của nền văn hóa ấy gửi gắm vào tác phẩm.
Những bài viết trong cuốn sách
Văn học Nhật Bản – vẻ đẹp mong manh và bất tận
là kết quả của một quá trình tìm kiếm vẻ đẹp trong văn học Nhật Bản theo ý nghĩa như vậy.
Vẻ đẹp đằng sau những dòng chữ không dễ thấy, dễ cảm như “Đám mây” anh đào trong lễ hội thưởng hoa. Nhưng với độc giả đủ kiên trì, đủ nặng lòng để đi tìm tinh hoa văn hóa Nhật Bản trên trang viết, vượt qua nhiều khúc ngoặt của ngôn từ ảo diệu và cảm thức thâm u, thì niềm vui phát hiện vẻ đẹp sẽ là món quà xứng đáng.
Vẻ đẹp ấy mong manh vì nó giống như sinh mệnh tồn tại trong đời, chênh vênh giữa hai miền sáng tối, giữa thực tại nghiệt ngã và mộng ước thanh cao, giữa nhịp sống xô bồ và cái tâm tĩnh lặng.
Nhưng điều thú vị là xuyên suốt chiều dài lịch sử, vẻ đẹp mong manh ấy vẫn là cái hồn của thế giới văn chương, là chiếc cầu nối từ văn học cổ điển đến văn học hiện đại, vẫn là làn hương tinh tế đón chào lữ khách đã chấp nhận cuộc hành trình vất vả để tìm đúng bông hoa. | Đi tìm vẻ đẹp mong manh và bất tận của văn học Nhật Bản – Tác giả: Quỳnh Yên | 845 | |
Một nghĩa địa đầy quái thú khổng lồ vừa được khai quật ở bang Florida –
Mỹ
, trong đó có bộ hài cốt lớn nhất từ trước đến nay của gomphothere quái dị, có thể nặng tới 6 tấn.
Trong lúc đào dọc theo lòng sông khô cạn ở phía Bắc Florida, nhóm nghiên cứu từ Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Florida đã khai quật được xương hóa thạch của một số loài voi sống trong thế Trung Tân (Miocen), là thế địa chất kéo dài từ 23 triệu đến 5,33 triệu năm về trước.
Hộp sọ vĩ đại của quái thú được khai quật từ lòng sông – Ảnh: BẢO TÀNG LỊCH SỬ TỰ NHIÊN FLORIDA.
Điều đặc biệt nhất là loài lấn át trong nghĩa địa voi này là gomphothere, một quái thú “mặt quỷ” từng lang thang trên vùng đất nay là Florida với số lượng lớn vào 6 triệu năm trước.
Những quái thú đã tuyệt chủng này nặng 4-5 tấn, tức to gần bằng voi châu Phi hiện đại, nhưng gương mặt khá giống mô tả trong các bộ phim quái vật: Ngoài cặp ngà to, nhọn phát triển từ hàm trên, chúng còn có một cặp ngà ngắn hơn từ hàm dưới, quặp vào khá đáng sợ.
Hài cốt một con gomphothere được phục dựng tại bảo tàng với khuôn mặt đáng sợ – Ảnh: BẢO TÀNG LỊCH SỬ TỰ NHIÊN MỸ.
Theo Ancient Origins, “Cuộc đào hóa thạch Montbrook” quy mô lớn nhanh chóng được bảo tàng tổ chức, với sự tham gia của các nhà cổ sinh vật học lẫn nhiều tình nguyện viên. Montbrook là tên mà được đặt cho khu vực giàu hóa thạch bao gồm lòng sông quái thú này.
Trong đó, ông Dean Warner, một giáo viên hóa học đã nghỉ hưu, đã có phát hiện để đời: Bộ hài cốt đáng kinh ngạc của “gomphothere chúa”.
Con quái thú được tìm thấy trong trạng thái như “nằm xuống và chết”, tức các xương còn nguyên vị trí giống như được chôn cất cẩn thận. Nó là một gomphothere trưởng thành, niên đại có thể lên tới 6 triệu năm, chiều cao tới 2,4 m và chiều dài của hộp sọ bao gồm ngà hơn 2,7 m.
“Gomphothere chúa” này to lớn hơn bất kỳ con cùng loài nào được phục hồi từ bất cứ đâu trên thế giới. Nó được mô tả là to như voi châu Phi – sinh vật nặng hơn 6 tấn, chiều dài cơ thể có thể lên tới 4 m khi trưởng thành.
Chưa rõ vì sao có nhiều gomphothere cũng như nhiều loài vật khác – bao gồm loài voi khác và các loài không liên quan – tập trung ở lòng sông khu vực Montbrook. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu đã có một giả thuyết.
Giống như voi hiện đại, các quái thú cổ đại già yếu có thể đã cố tình nằm xuống nơi gần nguồn nước quen thuộc. Sau nhiều thế kỷ, các trận lụt đã cuốn hài cốt các loài khác chất chồng bên trên, tạo nên một nghĩa địa tự nhiên, đa dạng, nhiều tầng. | Quái thú ‘mặt quỷ’ hiện nguyên hình giữa lòng sông | 519 | |
Trong không khí chào mừng Festival Biển Nha Trang – Khánh Hòa năm 2023, chiều 2/6, tại
TP Nha Trang
, Sở Nội vụ Khánh Hòa khai mạc khai mạc triển lãm Tài liệu lưu trữ liên quan đến lịch sử
tỉnh Khánh Hòa
.
Lãnh đạo tỉnh Khánh Hòa và các đại biểu cắt băng khai mạc triển lãm.
Được biết, đây là hoạt động trong chuỗi sự kiện chào mừng Festival Biển Nha Trang – Khánh Hòa 2023, kết hợp triển khai chương trình Công bố tài liệu lưu trữ đang bảo quản tại Lưu trữ lịch sử tỉnh Khánh Hòa để phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương.
Theo đó, triển lãm sẻ trưng bày tới du khách và người dân với 52 tài liệu ghi chép về những thay đổi địa danh, địa giới hành chính của tỉnh Khánh Hòa qua các triều đại nhà Nguyễn và giai đoạn từ năm 1945 đến nay.
Đồng thời, giới thiệu các tài liệu ghi chép về những di tích có giá trị văn hóa, lịch sử, mang đậm dấu ấn của Khánh Hòa như, Thành cổ Diên Khánh, Tháp cổ Thiên Y (Tháp Bà Ponagar ngày nay), Viện Hải dương học. Triển lãm sẽ kết thúc vào ngày 6/6. | Khánh Hòa: Giới thiệu 52 tài liệu lưu trữ liên quan đến lịch sử của tỉnh | 211 | |
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định thành lập Hội đồng liên ngành thẩm định Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Ninh Bình – Hải Phòng, đoạn qua tỉnh
Nam Định
và
Thái Bình
.
Đoạn tuyến cao tốc đi qua 3 tỉnh Ninh Bình, Thái Bình và Nam Định (màu cam); còn lại qua Hải Phòng (màu xanh). Nguồn: VGP.
Theo Quyết định 623/QĐ-TTg ngày 2/6/2023, Chủ tịch Hội đồng là Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư, Phó Chủ tịch Hội đồng là Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Thành viên của Hội đồng gồm lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương: Giao thông vận tải, Tài chính, Xây dựng, Công an, Quốc phòng, Tư pháp, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Nhà nước, UBND tỉnh Thái Bình; UBND tỉnh Nam Định.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan thường trực của Hội đồng thẩm định liên ngành.
Trách nhiệm, quyền hạn của Hội đồng thẩm định liên ngành, Chủ tịch Hội đồng, Phó Chủ tịch Hội đồng, các thành viên Hội đồng, cơ quan thường trực Hội đồng được thực hiện tương ứng theo quy định tại Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 14 Nghị định số 35 ngày 29/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Hội đồng tự giải thể sau khi kết thúc nhiệm vụ.
Trước đó, tại Văn bản số 3876 ngày 30/5/2023 về việc đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Ninh Bình – Hải Phòng, đoạn qua TP Hải Phòng và tỉnh Ninh Bình, Phó thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà giao Bộ Giao thông Vận tải chủ trì, thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan, địa phương có liên quan, căn cứ ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khẩn trương nghiên cứu, đề xuất phương án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Ninh Bình – Hải Phòng, đoạn qua TP Hải Phòng và đoạn qua tỉnh Ninh Bình; Báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 15/6/2023.
Theo quy hoạch, cao tốc Ninh Bình – Hải Phòng dài 109 km, quy mô 4 làn xe, kết nối từ cao tốc Bắc – Nam phía Đông tại Ninh Bình với cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, tiến trình đầu tư trước năm 2030.
Trong đó, đoạn qua thành phố Hải Phòng dài 29 km, thành phố Hải Phòng đang đầu tư khoảng 22 km theo dự án BOT đường ven biển qua Hải Phòng.
Đối với 7 km kết nối từ đường BOT đến cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, UBND thành phố Hải Phòng đã báo cáo Thủ tướng giao Hải Phòng là cơ quan chủ quản và cho phép đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách của thành phố.
Còn lại 80 km đi qua địa phận 3 tỉnh Ninh Bình (18 km), Nam Định (27 km), Thái Bình (35 km), Thủ tướng đã có Văn bản số 657 ngày 22/7/2022 giao UBND tỉnh Thái Bình làm cơ quan có thẩm quyền triển khai dự án theo phương thức đối tác công tư. | Lập Hội đồng thẩm định dự án tuyến cao tốc Ninh Bình – Hải Phòng | 552 | |
Sáng 3/6, một trận động đất có độ lớn 5,5 đã làm rung chuyển khu vực cách vùng Maca ở Đông Nam Peru 9 km.
Theo Cơ quan Khảo sát địa chất Mỹ (USGS), trận động đất có độ sâu chấn tiêu 10 km. Hiện chưa có thông tin về thương vong và thiệt hại do trận động đất này gây ra.
Mỗi năm,
Peru
hứng chịu ít nhất 400 trận động đất do nước này năm trên Vành đai lửa Thái Bình Dương, khu vực có nhiều hoạt động địa chấn. Ngày 15/8/2007, một trận động đất có độ lớn 7,9 xảy ra tại bờ biển miền Trung nước này đã làm hơn 500 người thiệt mạng. | Động đất tại Peru | 114 | |
Bộ VHTT&DL vừa hoàn thiện hồ sơ xét trao tặng 136 danh hiệu NSND và 347 danh hiệu NSƯT lần thứ 10 xét trình Chủ tịch nước. Dự kiến lễ trao tặng sẽ được tổ chức dịp Quốc khánh 2/9/2023 tại Nhà hát Lớn Hà Nội.
Được tổ chức nhằm tôn vinh các nghệ sĩ tài năng có, nhiều cống hiến và được Nhân dân mến mộ nhưng nhiều năm trở lại đây, gần như mỗi đợt xét tặng danh hiệu NSND, NSƯT đều có những tranh cãi, ý kiến trái chiều về công tác tổ chức xét tặng, cho rằng tiêu chí xét tặng còn những bất cập.
Đợt xét tặng lần thứ 10 là lần đầu tiên áp dụng Nghị định số 40/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/2014/NĐ-CP về xét tặng danh hiệu NSND, NSƯT.
Một số nghệ sĩ được phong tặng danh hiệu NSND, NSƯT trong lần thứ 9. Ảnh: Trần Huấn.
Theo Nghị định 40, ngoài việc xét tặng danh hiệu cho các nghệ sĩ theo đủ các tiêu chí về số năm hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp, đủ giải thưởng, huy chương…, hội đồng các cấp còn thảo luận, đánh giá các trường hợp đặc biệt để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Đây là các nghệ sĩ chưa đáp ứng tiêu chuẩn về giải thưởng nhưng có cống hiến nổi trội, có tài năng nghệ thuật xuất sắc, được hội đồng các cấp thảo luận, đánh giá là trường hợp đặc biệt, bao gồm: nghệ sĩ là người cao tuổi theo quy định tại Điều 2 Luật Người cao tuổi, có nhiều cống hiến, đóng góp trong lĩnh vực nghệ thuật; nghệ sĩ tích cực tham gia nhiều hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị lớn của địa phương và đất nước; nghệ sĩ là giảng viên các trường đào tạo văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, đào tạo nhiều thế hệ sinh viên tham gia đạt các giải thưởng cao tại các cuộc thi nghệ thuật chuyên nghiệp quốc tế.
Vận dụng tiêu chí mở nói trên nên số lượng hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu NSND, NSƯT đợt 10 vượt trội. Trong khi đó, những vấn đề tồn tại tương tự các đợt xét tặng trước vẫn tồn tại như tranh cãi về tiêu chí, nghệ sĩ được xét tặng…
Theo Bộ VHTT&DL, năm 2022, Luật Thi đua khen thưởng mới được ban hành tiếp tục có những điều chỉnh về quy định trong xem xét phong tặng danh hiệu NSND, NSƯT.
Cụ thể là danh hiệu NSND, NSƯT được xem xét phong tặng cho các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật bao gồm cả người sáng tạo tác phẩm văn học nghệ thuật. Đây là điểm hoàn toàn mới.
Chính phủ sẽ xem xét tổ chức hội nghị đánh giá tác động khi Luật Thi đua khen thưởng mới được triển khai. Bộ VHTT&DL đã có văn bản gửi các hội chuyên ngành văn học nghệ thuật T.Ư về nội dung này.
Hiện nay, Chính phủ cũng đã giao Bộ VHTT&DL phối hợp với Bộ Nội vụ và các bộ, ngành liên quan xây dựng Nghị định mới về xét tặng danh hiệu NSND, NSƯT.
Bộ vừa tổ chức xin ý kiến các hội chuyên ngành về văn học nghệ thuật T.Ư về đối tượng, tiêu chuẩn được xem xét phong tặng danh hiệu NSND, NSƯT theo Nghị định số 40/2021/NĐ-CP và Nghị định số 89/2014/NĐ-CP còn những gì chưa phù hợp, cần bổ sung.
Trên cơ sở ý kiến của các hội chuyên ngành, Ban Thường trực soạn thảo Nghị định mới về xét tặng danh hiệu NSND, NSƯT sẽ xem xét, đưa vào nội dung Nghị định và sẽ trình Chính phủ vào tháng 10/2023. | Xét trao tặng 136 danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân | 633 | |
Đó là tựa đề cuốn sách về kỹ năng nuôi dạy con của tác giả Xuân Bình, do NXB Lao động và Chibooks thực hiện và phát hành.
Đây là những câu chuyện của một người mẹ nuôi con một mình với cô con gái bé bỏng trong thời gian bé ba tuổi trở về sau. Với tất cả vai trò, trách nhiệm và tình yêu vô bờ bến, người mẹ đã và đang đồng hành với con lớn lên từng ngày.
Đó là những câu chuyện xảy ra ở nhà, ở trường, ở sân chơi, ở nơi công cộng – những nơi hai người đặt chân đến. Mỗi câu chuyện là cách người mẹ dạy con theo tình cảm và tình yêu sẵn có. Trong đó,
mẹ
dạy con cách cư xử, cách bày tỏ tình yêu thương, cách tự lo cho mình từ mặc quần áo, nấu ăn, làm việc nhà, chủ động trong việc học đến tự tin đi xa bằng các loại phương tiện giao thông hay sống xa mẹ nhiều ngày.
Bìa cuốn sách Người mẹ “giàu có” – cùng con bay vào tuổi thơ yêu thương.
Họ cùng ăn, cùng chơi, cùng trò chuyện, cùng xem phim, cùng ngủ, cùng ở bên nhau và rất là thân thiết. Giữa mẹ và con không có khoảng cách, không có sự sợ hãi, mà chỉ có tình yêu thương ngọt ngào. Cả hai gắn bó với nhau trong tuổi thơ êm đềm, ấm áp của cô bạn nhỏ.
Người mẹ đã hạnh phúc hơn, ngọt ngào hơn, trái tim luôn tràn đầy cảm xúc từ khi sống cùng cô gái nhỏ và đã nhận ra mình trở nên “giàu có” hơn mỗi ngày. Với họ – mẹ và con, tình yêu luôn tồn tại và hạnh phúc luôn tràn đầy. | Người mẹ ‘giàu có’ – cùng con bay vào tuổi thơ yêu thương | 297 | |
Hình ảnh tại kỳ họp.
Tại kỳ họp 15 HĐND
tỉnh Hải Dương
diễn ra chiều 2/6 đã thông qua các nghị quyết về xây dựng cầu Tân An và đường dẫn nối quốc lộ 18 ở Hải Dương; cầu vượt sông Kinh Môn; đường dẫn cầu Cậy mới ở Cẩm Giàng.
Dự án Cầu Tân An và đường dẫn nối quốc lộ 18
(TP Chí Linh), tổng mức đầu tư dự kiến cho dự án này là 600 tỷ đồng.
UBND tỉnh Hải Dương cho biết mục tiêu đầu tư để kết nối với dự án xây dựng tuyến mới nối nút giao đường tỉnh 390 đến quốc lộ 18, đoạn qua địa phận huyện Nam Sách nhằm từng bước hoàn thành trục giao thông kết nối liên vùng, nối quốc lộ 5 với quốc lộ 18 từ
TP Hải Dương
qua cầu Hàn, qua địa bàn
huyện Nam Sách
đến
TP Chí Linh
. Giảm tải cho hệ thống giao thông hiện tại, đặc biệt với tuyến quốc lộ 37. Từng bước hoàn chỉnh hệ thống giao thông khu vực theo quy hoạch.
Nguồn vốn thực hiện dự án từ ngân sách tỉnh Hải Dương trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025. Trong tổng mức đầu tư 600 tỷ đồng, chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tạm tính chiếm hơn 90,1 tỷ đồng, chi phí xây dựng chiếm gần 431,5 tỷ đồng và các chi phí khác. Thời gian thực hiện dự án trong giai đoạn 2023-2025.
Điểm đầu thực hiện dự án giao với quốc lộ 18 (tương đương khoảng km 33+365) thuộc địa phận phường Chí Minh (TP Chí Linh); điểm cuối khoảng km 3+485,47 thuộc địa phận xã Nam Tân (Nam Sách). Chiều dài tuyến khoảng gần 3,5 km.
Dự án này là dự án nhóm B do Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng tỉnh Hải Dương làm chủ đầu tư.
Ban Kinh tế – Ngân sách HĐND tỉnh Hải Dương cho biết việc HĐND tỉnh quyết định chủ trương đầu tư đối với dự án này là đúng thẩm quyền. Dự án đã được xác định phù hợp với các quy hoạch hiện hành và cần thiết đầu tư.
Các đại biểu HĐND tỉnh tại Kỳ họp.
Cầu vượt sông Kinh Môn và đường dẫn nối nút giao lập thể với quốc lộ 5
là dự án nhóm B do Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng tỉnh Hải Dương làm chủ đầu tư.
UBND tỉnh Hải Dương cho biết hiện nút giao liên thông kết nối quốc lộ 17B với quốc lộ 5, đường sắt Hà Nội – Hải Phòng và tuyến đường dẫn cầu vượt sông Kinh Môn đến đường tỉnh 389B (thị xã Kinh Môn) do UBND thị xã Kinh Môn đầu tư đang chuẩn bị đầu tư.
Việc đầu tư xây dựng cầu vượt sông Kinh Môn và đường dẫn nối nút giao lập thể với quốc lộ 5 là rất cần thiết để kết nối đồng bộ 2 công trình và tạo thành trục giao thông kết nối
thị xã Kinh Môn
với
huyện Kim Thành
và tỉnh Hải Dương với
tỉnh Quảng Ninh
,
TP Hải Phòng
, góp phần giảm tải các tuyến đường có mật độ giao thông lớn (đặc biệt đối với quốc lộ 17B).
Phạm vi đầu tư từ điểm đầu kết nối nút giao lập thể với quốc lộ 5 đến điểm cuối kết nối đường nối cầu vượt sông Kinh Môn với đường tỉnh 389B do UBND thị xã Kinh Môn đầu tư. Tổng chiều dài tuyến khoảng 1,55 km thuộc địa phận xã Thượng Quận, thị xã Kinh Môn (Hải Dương).
Về nội dung và quy mô đầu tư, UBND tỉnh đề nghị xây dựng một đơn nguyên cầu vượt sông Kinh Môn (bên trái) với bề rộng 12 m. Phần đường dẫn thiết kế theo tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng với chiều rộng nền đường 12 m. Tốc độ thiết kế 80 km/h, kết cấu mặt đường cấp cao A1, bê tông nhựa. Các hạng mục được xây dựng đồng bộ là nút giao (đường giao), thoát nước, cây xanh, chiếu sáng, hệ thống báo hiệu và tổ chức an toàn giao thông, hoàn trả hạ tầng kỹ thuật liên quan.
UBND tỉnh dự kiến tổng mức đầu tư dự án là 600 tỷ đồng từ ngân sách tỉnh trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025. Địa điểm thực hiện dự án này ở thị xã Kinh Môn và huyện Kim Thành (Hải Dương) trong giai đoạn 2023-2025.
Ban Kinh tế – Ngân sách HĐND tỉnh Hải Dương đánh giá dự án thuộc trục giao thông kết nối liên vùng, góp phần mở rộng không gian đô thị, tạo động lực mới, không gian mới trong phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương trong tỉnh. Dự án cũng theo đúng ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại buổi làm việc với tỉnh Hải Dương là “tập trung phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại, kết nối nội vùng và liên vùng để khai thác hiệu quả hơn tiềm năng, mở ra không gian phát triển mới”.
Đồng chí Lê Hồng Diên, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư đọc tờ trình của UBND tỉnh đề nghị quyết định chủ trương xây dựng cầu vượt sông Kinh Môn và đường dẫn nối nút giao lập thể với quốc lộ 5.
Đường dẫn cầu Cậy mới ở Cẩm Giàng
và đường 33 m kéo dài (qua địa phận huyện Cẩm Giàng) nối đường Vũ Công Đán (TP Hải Dương) được UBND tỉnh Hải Dương đề nghị đầu tư gần 469,5 tỷ đồng xây dựng.
Theo UBND tỉnh, việc đầu tư dự án là cần thiết để hoàn thành trục giao thông kết nối liên vùng nối đường Vũ Công Đán (TP Hải Dương) đến thị trấn Kẻ Sặt (Bình Giang), kết nối với nút giao đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng tại đường tỉnh 392. Đồng thời kết nối với các tuyến đường trục chính đã xây dựng, giải quyết ùn tắc và mất an toàn giao thông khu vực cầu Cậy hiện nay.
Tổng mức đầu tư dự án là gần 469,5 tỷ đồng từ ngân sách tỉnh Hải Dương trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025.
Phạm vi đầu tư dự án gồm 2 đoạn. Đoạn tuyến đường 33 m kéo dài nối đường Vũ Công Đán (không bao gồm 1,79 km qua khu công nghiệp Đại An) có điểm đầu nối tiếp dự án cải tạo, mở rộng đường Vũ Công Đán kết nối TP Hải Dương với vùng huyện Cẩm Giàng, Bình Giang do TP Hải Dương thực hiện đầu tư; điểm cuối nối tiếp với đường 33 m qua khu công nghiệp Đại An mở rộng. Đoạn đường dẫn cầu Cậy mới có điểm đầu giao với đường tỉnh 394 tại km 6+700 thuộc địa phận xã Cẩm Đông (Cẩm Giàng), điểm cuối nối với đầu cầu Cậy mới (cầu vượt sông Sặt).
Phạm vi giải phóng mặt bằng bao gồm phần diện tích đất phải thu hồi để thi công đường dẫn cầu Cậy mới và đường 33 m kéo dài nối đường Vũ Công Đán (không bao gồm 1,79 km qua khu công nghiệp Đại An) và phạm vi giải phóng mặt bằng thực hiện dự án đầu tư xây dựng cầu Cậy mới thuộc tuyến tránh đường tỉnh 394, tỉnh Hải Dương.
Ban Kinh tế – Ngân sách HĐND tỉnh Hải Dương cho biết danh mục hồ sơ dự án do UBND tỉnh trình cơ bản bảo đảm theo quy định của Luật Đầu tư công. Báo cáo thẩm định đã xác định tính cần thiết của việc đầu tư dự án và có tiếp thu các ý kiến tham gia của sở, ngành liên quan./. | Hải Dương thông qua chủ trương xây dựng 3 cầu và đường dẫn cầu | 1,313 | |
Hiện nay, cả nước có 22 đô thị loại I. Đô thị loại I có mật độ dân số cao nhất nằm tại khu vực phía Nam.
Theo số liệu của Cục Phát triển đô thị (Bộ Xây dựng), tính đến tháng 12/2021, cả nước có 22 đô thị loại I (3 thành phố trực thuộc Trung ương và 19 thành phố thuộc tỉnh).
Cụ thể, 3 thành phố trực thuộc trung ương gồm Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ. Cùng với đó, 19 thành phố thuộc tỉnh gồm: Thái Nguyên (Thái Nguyên), Nam Định (Nam Định), Việt Trì (Phú Thọ), Hạ Long (Quảng Ninh), Bắc Ninh (Bắc Ninh), Hải Dương (Hải Dương), Thanh Hóa (Thanh Hóa), Vinh (Nghệ An), Huế (Thừa Thiên Huế), Nha Trang (Khánh Hòa), Quy Nhơn (Bình Định), Buôn Ma Thuột (Đăk Lăk), Pleiku (Gia Lai), Đà Lạt (Lâm Đồng), Vũng Tàu (Bà Rịa – Vũng Tàu), Biên Hòa (Đồng Nai), Thủ Dầu Một (Bình Dương), Mỹ Tho (Tiền Giang), Long Xuyên (An Giang).
Trong 22 đô thị loại I, Biên Hòa (Đồng Nai) là địa phương có mật độ dân số cao nhất
. Cụ thể, dân số thành phố Biên Hoà đạt khoảng 1,1 triệu người với mật độ dân số đạt hơn 4.000 người/km2.
Thành phố Biên Hòa
là đô thị loại I, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật của
tỉnh Đồng Nai
. Phía Bắc giáp huyện Vĩnh Cửu, Tây giáp quận 9
thành phố Hồ Chí Minh
, Tây Nam giáp
huyện Long Thành
, Đông giáp
huyện Trảng Bom
, Tây Bắc giáp
thành phố Dĩ An
,
huyện Tân Uyên
,
tỉnh Bình Dương
.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, thành phố Biên Hòa có một hệ thống giao thông thuận lợi với xa lộ Hà Nội, Quốc lộ 1, Quốc lộ 51, đường sắt Bắc Nam, đường sông Đồng Nai…
Cục Thống kê Đồng Nai cho biết, Biên Hòa cũng là địa phương có tốc độ gia tăng dân số hằng năm thuộc tốp đầu trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Trong 10 năm qua, dân số của Biên Hòa tăng bình quân hơn 30 ngàn người/năm. Dân số tăng nhanh khiến mật độ dân số của Biên Hòa thuộc nhóm cao trong số các đô thị lớn trên cả nước.
Một trong những nguyên nhân khiến cho dân số của Biên Hòa tăng nhanh là sự phát triển kinh tế với nhiều khu công nghiệp. Một số khu công nghiệp lớn tại Biên Hòa điển hình như khu công nghiệp Biên Hòa 2, khu công nghiệp Amata, khu công nghiệp Tam Phước…
Theo Cổng thông tin điện tử thành phố Biên Hòa, Đồng Nai, trước đây, dân số chủ yếu tăng nhanh tại các phường có hạ tầng phát triển, thu hút người dân đến sinh sống, làm việc. Những năm trở lại đây, khi có thêm các khu công nghiệp mới được thành lập, các phường ngoại ô cũng có tốc độ gia tăng dân số rất nhanh. Bên cạnh đó, chủ yếu là lượng công nhân ngoại tỉnh đến sinh sống để làm việc tại các khu công nghiệp.
Theo quy hoạch chung TP.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đến năm 2045, phát triển thành phố Biên Hòa trở thành một trong các cực tăng trưởng trọng điểm của vùng Đông Nam bộ và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; có vai trò quan trọng trong vùng đô thị TP. HCM; phát huy thế mạnh kết nối vùng và quốc tế về dịch vụ thương mại, logistics, công nghiệp công nghệ cao và đổi mới sáng tạo.
Đồng thời, thành phố Biên Hòa là đầu mối giao thông, giao lưu quan trọng trong vùng Đông Nam bộ, gắn với đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu, đường Vành đai 3 – TP.HCM và cảng Đồng Nai; là địa bàn trọng điểm chiến lược về quốc phòng – an ninh của vùng cũng như của cả nước.
Quy hoạch cũng yêu cầu phát triển thành phố Biên Hòa theo các tiêu chí: nâng cao chất lượng các khu chức năng hiện hữu là động lực phát triển của đô thị như: các khu công nghiệp Biên Hòa II, Amata, Loteco, Agtex Long Bình, khu du lịch Bửu Long…
Đồng thời, hình thành các trung tâm là động lực phát triển mới của đô thị để đáp ứng các yêu cầu về phát triển dịch vụ, văn hóa, khoa học – công nghệ, giáo dục nghề nghiệp và đổi mới sáng tạo, đầu mối logistics…
Bên cạnh đó, hướng phát triển đô thị cần tạo sự kết nối với cảng hàng không quốc tế Long Thành; đề xuất kết nối sân bay Biên Hòa với các khu vực chức năng đô thị. | Đô thị loại I có mật độ dân số cao nhất | 777 | |
Đại phàm, đã là con người, chẳng ai tránh được bệnh. Bệnh nặng, bệnh nhẹ, bệnh lâu, bệnh mau, bệnh cấp thời, bệnh mãn tính, bệnh bám ở ngoài da, bệnh ăn tận trong xương cốt tạng phủ v.v và v.v… Cả trăm thứ bệnh có tên và không tên luôn rập rình chực sẵn, chờ cơ hội để đột kích và phát tác trong những tấm thân tứ đại. Có bệnh là khổ. Khổ vì nỗi khó chịu đau đớn thân xác. Khổ vì sự lo âu dày vò trong tâm tưởng. Khổ vì phải tốn tiền thuốc men, mất thời gian chạy chữa…
Thế nhưng, nhà văn Dumbadze, tác giả của “Quy luật của muôn đời”, lại tuyên bố: trong cuộc đời của một con người, rất cần thiết phải có ít nhất một trận ốm dài, thật nặng, ốm đến liệt giường liệt chiếu, ốm đến thập tử nhất sinh. Vì rằng sau trận ốm như vậy, người ta sẽ có cơ hội nhìn thế giới bằng một cái nhìn khác, với những giá trị khác, mới mẻ hơn.
Không phải không có lý: kinh nghiệm cận kề cái chết, nỗi sợ hãi khủng khiếp khi cảm nhận được hơi lạnh từ địa phủ chậm chạp vờn trên thân thể mình, điều đó sẽ khiến người ốm dậy thấy yêu quý cuộc sống gấp bội, anh ta sẽ nâng niu trân trọng, hân hưởng giá trị của từng giây phút sống.
Nhà văn Dostoievsky.
Và nếu là như vậy, ít nhất, bệnh tật đã có thêm một lý do để biện minh cho sự cần thiết của nó đối với con người nói chung. Với văn nhân thì sao? Người ta có thể dễ dàng dẫn ra vô số ví dụ về việc nhà văn, bằng sức mạnh của nghị lực và niềm đam mê to lớn, đã vật lộn, đã chạy đua, và đã chiến thắng bệnh tật ra sao để làm nên các tác phẩm có giá trị.
Tuy nhiên, ở đây tôi không định bàn sâu về những nhà văn như những “tấm gương vượt qua số phận”, mà chủ yếu quan tâm đến chuyện: bệnh, cái chẳng ai muốn, có thể “thấm” vào thế giới nghệ thuật của người sáng tác văn học và tạo ra hiệu quả như thế nào trên tác phẩm? Ít nhất, có hai “ca” khá đặc biệt để xem xét.
“Ca” 1:
F.Dostoievsky (1821 – 1881). Trong một tiểu luận tuyệt vời về văn hào người Nga, Stefan Zweig khẳng định: “Chúng ta đừng quên rằng Dostoievsky là một con bệnh: tác phẩm bất hủ của ông sinh ra từ tứ chi tàn tạ, từ những dây thần kinh co quắp và run rẩy; cơ thể ông mang vết tích của cơn bệnh trầm trọng nhất, của hình ảnh tồi tệ nhất của cái chết là bệnh động kinh. Dostoievsky bị động kinh trong suốt ba mươi năm nghề viết văn của mình”.
Điều kỳ lạ là, không giống với nhiều con bệnh – nghệ sĩ thiên tài khác, mặc dù bị bệnh động kinh quật cho tơi tả, chưa bao giờ Dostoievsky lên tiếng than phiền về nỗi thống khổ của mình. Trái lại là đằng khác, ông ca tụng nó bằng những lời nồng nhiệt nhất: “Hỡi người khỏe mạnh, các người không hay biết cái cảm giác mê ly thấm vào người động kinh một giây trước khi lên cơn… Tôi không biết là giây lát mê ly đó kéo dài bao lâu, nhưng hãy tin tôi, tôi sẽ không nhường nó để có tất cả những niềm vui của cuộc đời”.
Dostoievsky thuyết phục người đời tin vào cái cảm giác “mê ly” đặc hữu mà ông, con bệnh động kinh, thường xuyên được trải qua. Nhưng nếu chỉ như vậy, không chắc đã có mấy người tin vào điều đó, vì rất có thể, nó chỉ là sự tự an ủi của nhà văn, sự mỹ hóa nỗi bất hạnh, một kiểu thắng lợi tinh thần nào đó mà thôi. Thế nhưng, hãy nhìn vào thế giới nhân vật của ông: hình như đúng là Dos đã thành thực khi bộc lộ niềm biết ơn sâu sắc trước bệnh động kinh.
Một nhà văn Pháp đã gọi tiểu thuyết của Dos là nhà thương của những người bị bệnh thần kinh. Những Kirilov, Satov, rồi Raskolnicov, Ivan Karamazov v.v… những nhân vật được Dos đóng dấu ấn bất tử vào lịch sử văn chương nhân loại, những nhân vật ấy, không gì khác, sẽ cho ta hình ảnh rõ rệt của người bị bệnh động kinh trước, trong, và sau khi cơn bệnh “thăm viếng”.
Họ đột ngột lao mình từ thái cực này sang thái cực khác, không có giai đoạn chuyển tiếp, không thèm biết đến tính mức độ: từ tội ác sang thú tội, từ coi sinh mạng con người như rơm rác đến trân trọng sự sống của từng mầm cây, từ ác quỷ thoắt cái thành đấng cứu thế nhân từ, từ kẻ tăm tối trở thành triết gia. Họ luôn sống, tư duy và hành động, nếu không trong những cơn sốt, thì cũng như trong những trận co giật cuồng nộ. Một cách uyên bác, đầy tinh tế, Stefan Zweig đã lý giải những nhân vật của Dos từ việc xem xét căn cước dân tộc của họ: họ là người Nga, khởi phát từ một dân tộc bị đẩy từ sự vô thức man rợ ngàn năm vào nền văn minh châu Âu.
Ông viết: “Người Nga của thế kỷ XIX, của thời đại Dostoievsky, đã đốt cháy cái lều bằng gỗ của quá khứ man rợ của mình và chưa xây được nhà mới… Những vấn đề, mà câu giải đáp đã từ lâu được kết tinh nơi chúng làm rực cháy các giác quan của họ… Họ là những người của sự bắt đầu lại… Họ không có mức độ, họ vượt các giới hạn…”.
Có thể nói, Dos là nhà văn sống và nắm bắt hoàn hảo cái sống của dân tộc mình, “những người của sự bắt đầu lại” của thế giới. Nhưng như thế chưa đủ. Với sự trải nghiệm đau đớn và siêu việt của con bệnh động kinh, người luôn phải chịu những cái chết giữa lòng cái sống, Dos còn là nhà văn chứng minh với chúng ta về sự tồn tại của những trạng thái không ngờ giữa sự sống và cái chết, những đối cực không có lằn ranh giới. Đây có lẽ là những yếu tố không hề nhẹ cân trong sự hình thành tính chất kỳ lạ của các nhân vật trong tiểu thuyết Dostoievsky. Nói như Stefan Zweig: “Nhờ bệnh tật, ông đã đạt tới tuyệt đỉnh của nghệ thuật, mà theo cách diễn đạt của Stendhal, là tạo ra những cảm xúc chưa từng xuất bản”.
Nhà thơ Hàn Mặc Tử.
“Ca” 2:
Hàn Mặc Tử (1912 – 1940). Có lẽ Trần Thanh Mại là người đầu tiên nói đến tầm ảnh hưởng của bệnh cùi trên thi nghiệp của Hàn. Là một nhà phê bình văn học theo phương pháp tiểu sử học, chủ trương “lấy đời người để cắt nghĩa tác phẩm”, Trần Thanh Mại nghiên cứu rất kỹ những chi tiết tiểu sử của
Hàn Mặc Tử
. Và ông cho rằng, cùng với đàn bà và tôn giáo, chính bệnh tật là một nguồn “cảm thụ lực”, là yếu tố góp phần tạo nên những đặc điểm nghệ thuật trong thơ Hàn.
Theo ông, với người bị bệnh cùi, vào mỗi kỳ trăng sáng, có thể có những tác động bí mật nào đó khiến vi trùng hoạt động mạnh hơn, người bệnh trở nên đau đớn hơn, và vì thế, trăng đã trở nên một ám ảnh lớn của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Tỷ mẩn hơn nữa, Trần Thanh Mại đã “soi kính hiển vi vào thơ” Hàn và nhặt ra những câu có nhiều từ ngữ chỉ dấu hiệu của người mắc bệnh cùi, như: “
Người trăng ăn vận toàn trăng cả/ Gò má riêng thôi lại đỏ hườm
”, như: “
Tình đã húp, sao ý vẫn còn sưng/ Sao giấy lại tháo mồ hôi ra thế
?”, hay: “
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng/ Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
”.
Tuy nhiên cách Trần Thanh Mại tạo sự nối kết giữa bệnh cùi và thơ Hàn Mặc Tử không khỏi khiến người đọc cảm thấy khiên cưỡng. Quan điểm của nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy tỏ ra thỏa đáng hơn: “Bệnh phong, rõ ràng đã đưa Hàn Mặc Tử và thơ ông rẽ theo một hướng khác. Vốn là một người làm báo, thích hoạt động, ưa giao tiếp, nhìn đời một cách lãng mạn, nay Hàn Mặc Tử phải trốn tránh (vì sợ Sở Vệ sinh hốt đi) trong cô độc và trong cảm giác nhục nhã của kẻ bị Thượng đế trừng phạt. Nhà thơ đã thu toàn bộ thế giới thực tại vào bản thân mình để có thể từ đó mở ra một thế giới khác, rộng lớn đến vô biên. Thế giới của mộng mị, tiềm thức và xuất thần”.
Đọc thơ Hàn, không khó để thấy ở thi sĩ một sự phân đôi giữa Xác và Hồn. Hồn thoát khỏi Xác, đó là motif xuất hiện dày đặc trong thơ Hàn. Như: “
Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng/ Cho bay lên hí hửng với ngàn khơi/ Ở trên kia có một người/ Ngồi bến sông Ngân giặt lụa chơi/ Nước hóa thành trăng, trăng ra nước/ Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm
” (Say trăng). Hoặc: “
Há miệng cho hồn văng lên muôn trượng/ Chơi vơi trong khí hậu chín tầng mây/ Ánh sáng lạ sẽ tan vào hư lãng/ Trời linh thiêng: cao cả gợi nồng say
” (Hồn lìa khỏi xác). Một thi giới kỳ lạ như thế này, quả thực là đã vượt ra ngoài, rất xa, những thứ “tầm thường mực thước” (chữ của
Chế Lan Viên
khi viết về thơ Hàn) đang phổ biến trong Thơ Mới.
“Bệnh trọng thường làm rạn nứt bề mặt hữu thức cho vô thức trào phun. Mà, hình như mọi sáng tạo đều bị thúc đẩy bởi những xung lực của vô thức. Bệnh trọng, nếu không phải là bà đỡ của vô thức như vậy, thì ít nhất cũng là điều kiện để người sáng tạo có một góc nhìn riêng, một cửa sổ riêng quan sát cuộc đời”. Dẫn lại và chia sẻ sự đồng tình với quan điểm này, tôi còn muốn thêm: Ít nhất, với người viết văn, bệnh không phải bao giờ cũng chỉ kéo theo rặt những bi kịch. Nó cũng giống như câu chuyện “Tái ông thất mã” mà người Trung Hoa thường hay kể vậy. | Khi văn nhân lâm bệnh – Tác giả: Hoài Nam | 1,796 | |
Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều giới thiệu sách cho thiếu nhi.
Mùa hè bắt đầu vẫy gọi trẻ em khắp nơi có thể tạm xa áp lực học hành một thời gian ngắn. Khoảng ngày tháng quý báu của mùa hè sẽ càng có giá trị hơn, nếu gia đình và cộng đồng cùng kiến tạo mùa đọc sách cho trẻ em.
Xây dựng và bồi đắp văn hóa đọc được xem như một sứ mệnh chung của cộng đồng, trách nhiệm hành động không của riêng ai và thành quả thụ hưởng cũng không bỏ quên ai. Làm bạn với sách, ở độ tuổi nào, cũng không bao giờ quá sớm mà cũng không bao giờ quá muộn. Hiện nay đã có nhiều cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi, từ giải thưởng Dế Mèn cho đến giải thưởng sách của Nhà xuất bản Kim Đồng. Thế nhưng, hành trình đưa sách đến tay trẻ em và xây dựng văn hóa đọc cho trẻ em vẫn còn tương đối xa xôi.
Từ rất xa xưa, ông bà chúng ta đã có câu “Vạn ban giai hạ phẩm/ Duy hữu độc thư cao” (Mọi việc đều thấp kém, chỉ có đọc sách là cao thượng). Ý niệm ấy tuy hơi có chút thiên vị cho các nho sinh, nhưng không phải hoàn toàn vô lý. Bởi lẽ, đọc sách đâu phải một thú vui lúc nhàn rỗi, mà là một thói quen để hình thành sự tu dưỡng cho mỗi người. Hình ảnh đứa trẻ ngồi trên lưng trâu đọc sách, dù cách đây vài trăm năm hay xảy ra ngay bây giờ, vẫn là hình ảnh đáng trân trọng nhất, đáng hy vọng nhất. Người Việt có truyền thống hiếu học. Đọc sách là khởi điểm của sự học, học tự giác, học suốt đời. Chính tinh thần ấy mà bước vào kỷ nguyên hội nhập, giữa rất nhiều ngổn ngang danh lợi thử thách nền tảng đạo đức và nhân tính của dân tộc, việc thúc đẩy nhu cầu đọc sách đã được sự quan tâm của nhiều giới, nhiều ngành.
Ai cũng có thể liệt kê nhiều lợi ích của việc đọc sách. Ví dụ, đọc sách giúp tăng cường kiến thức bản thân. Đúng vậy, những kiến thức ấy chưa hẳn đã mang lại tiền bạc hay vật chất nhất thời trước mắt nhưng lại thành một bệ phóng tương lai. Những kiến thức được trang bị từ đọc sách của mỗi người, gần như không thể bị tước đoạt hay được ban phát như chức vụ hoặc tài sản, nhưng lại khiến mỗi người tự tin để làm người tử tế, làm người lương thiện. Kỳ diệu hơn, kiến thức từ việc đọc sách là thứ mà mỗi người có thể chia sẻ cho kẻ khác mà không sợ bị hao hụt có khi còn được mở rộng trong quá trình tương tác lẫn nhau.
Để xây dựng văn hóa đọc cho một đất nước bắt đầu từ trẻ em, thì rất cần nhiều hoạt động cụ thể và thiết thực. Một khảo sát gần đây cho biết, một người Việt Nam mỗi năm chỉ bỏ ra 2 USD để mua sách, trong khi một người Trung Quốc chi 10 USD để mua sách và ở các nước phát triển thì bình quân mỗi người chi 200 USD để mua sách. Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Đông Nam Á lại cho ra số liệu, 26% dân số Việt Nam không bao giờ đọc sách, 44% thỉnh thoảng đọc và 30% đọc thường xuyên. Trong số 30% người Việt đọc sách thường xuyên, thì sách giáo khoa và sách tham khảo đã chiếm khoảng 40%. Do đó, phải phát triển nhu cầu đọc sách không vụ lợi, không toan tính thì mới có thể bồi đắp văn hóa đọc từng ngày cho cộng đồng.
Dù chưa có một cuộc điều tra công phu nào để có con số thống kê đáng tin cậy nhất, nhưng sẽ là lạc quan tếu nếu nói người Việt Nam hôm nay có nhu cầu đọc sách ngang với nhu cầu ngồi quán uống bia hoặc nhu cầu dạo phố mua sắm. Giữa bối cảnh ấy, tôn vinh sách hay chỉ chứng minh được tính ưu việt khi góp phần trực tiếp vào ham muốn đọc sách của cộng đồng. Cho nên, văn hóa đọc cho trẻ em phải khởi động nhờ những người truyền cảm hứng đọc sách. Thầy cô truyền cảm hứng đọc sách cho học sinh. Cha mẹ truyền cảm hứng đọc sách cho con cái.
Trung bình mỗi năm thị trường xuất bản nước ta tung ra hơn 400 triệu bản sách, nhưng sách giáo khoa và sách tham khảo đã là 300 triệu bản sách. Nếu lấy phần còn lại chia đều cho 100 triệu dân
Việt Nam
, thì mỗi người chỉ đọc đúng 1 cuốn sách/ năm. Dù muốn dù không, vẫn phải thừa nhận sức đọc của người Việt vẫn còn rất thấp. Cho nên, không có gì khó hiểu, khi
Malaysia
có dân số bằng 1/3 nhưng doanh thu ngành sách gấp 4 lần Việt Nam, khi
Thái Lan
có dân số bằng 1/2 nhưng doanh thu ngành sách gấp 5 lần Việt Nam.
Đáng nể hơn,
Hàn Quốc
có dân số phân nửa Việt Nam nhưng doanh thu ngành sách của Hàn Quốc gấp 52 lần Việt Nam. Những dữ liệu không có gì mang tính bí mật thương mại ấy, khiến những ai quan tâm đến đời sống tinh thần người Việt đều cảm thấy hổ thẹn. Khi thị trường xuất bản chuyển biến theo thị hiếu thì sách ngôn tình chiếm lĩnh văn hóa đọc, giống như gameshow truyền hình. Cái nào dễ nhớ, dễ thuộc, trẻ trung thì cái đó thắng. Và tâm lý độc giả thích tương tác với tác giả như những hotboy, hotgirl chứ không cần tư tưởng cốt lõi trong trang sách.
Niềm vui có sách của trẻ em nông thôn.
Khuynh hướng bạn đọc bắt đầu tương tác trên mạng và ngoài đời hơn là tìm thấy tư tưởng, tri thức trong sách cho thấy lỗi không phải ở người đọc trẻ, ở tác giả mà lỗi cũng nằm ở người làm sách. Họ chỉ làm vì lợi nhuận, thậm chí hùa theo trào lưu để mưu cầu lợi nhuận. Phải nói thẳng, hiện nay chúng ta thiếu trầm trọng diễn đàn có chất lượng về văn hóa nghệ thuật. Bây giờ, độc giả muốn tìm hiểu về cuốn sách hay cũng không có diễn đàn. Những trang báo giờ bị thu hẹp lại không còn mảng điểm sách, nhường chỗ cho showbiz thì dẫn đến thảm cảnh đó là điều đương nhiên. Ngoài ra, thị trường xuất bản cũng thiếu vắng những người dám nói thẳng nói thật về chất lượng của từng cuốn sách, mà chỉ thấy những lời rao bay bổng của các nhân viên tiếp thị trình độ thường thường bậc trung.
Đánh giá một cách sòng phẳng, mẫu mã các loại sách càng ngày càng đẹp. Thành tựu công nghệ in mang lại những ấn phẩm hoàn mỹ. Số người mua sách để trang trí không hề thua kém số người mua sách để thưởng thức. Nếu chơi sách là một thú vui tao nhã đối với một bộ phận người dân đô thị, thì đọc sách lại là một nhu cầu xa xỉ đối với phần lớn người dân nông thôn. Ngắm nhìn hàng ngàn tựa sách hay hàng triệu bản sách đua nhau khoe sắc ở hội sách nơi đô thị, càng thấy băn khoăn cho văn hóa đọc. Bao giờ những người dân nông thôn, đặc biệt là trẻ em vùng sâu vùng xa, mới có hội sách dành cho họ, giống như hội chợ hàng tiêu dùng mà các doanh nghiệp nô nức đăng cai? Kênh phân phối sách cho nông thôn đang tắc nghẽn ở đâu? Vì sao những cuốn sách không về đến thôn ấp, thuận tiện và dễ dàng như những gói mì tôm, những chai nước ngọt? Đành rằng, dăm người dân nông thôn bây giờ có thể lên mạng để liên hệ các nhà sách online, nhưng chi phí vận chuyển và giá sách vẫn quá cao so với túi tiền của bà con lam lũ quanh năm trông chờ vào sự thu hoạch quả cà, cân thóc từ mảnh ruộng góc vườn. Muốn xây dựng văn hóa đọc, tại sao không có những đợt khuyến mãi lớn hoặc những đợt quyên góp sách cho trẻ em nông thôn? Thị trường xuất bản đang lãng quên khách hàng sau lũy tre làng, dù ai cũng biết rằng, những người đang thua thiệt về cơm áo cũng chính là những người đang khao khát đọc sách để tìm kiếm ánh sáng tri thức và cơ hội tương lai.
Bằng kinh nghiệm bản thân, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh là tác giả ăn khách số một thị trường sách Việt Nam trong suốt hai thập niên qua, chia sẻ: “Thói quen đọc sách là sự nối dài thói quen nghe chuyện dưới hình thức chủ động, như vậy, đã hình thành một cách tự nhiên với một đứa trẻ. Đó là một hành vi, một nhu cầu như chạy nhảy, bơi lội, đùa nghịch, hát hò, vẽ vời. Nhưng hạt giống của thói quen đó phải được và phải có ai gieo trồng trong đầu đứa trẻ từ thuở ấu thơ. Bằng những câu chuyện kể. Bằng những cuốn sách làm quà. Để nhu cầu đọc sách nảy mầm và trở thành một khát khao tự nhiên, như cỏ cây khát ánh sáng và khí trời. Trong những buổi tặng chữ ký cho bạn đọc nhân dịp ra sách mới, tôi luôn xúc động khi nhìn thấy cảnh bà dắt cháu hay ba mẹ dắt con tới chỗ tôi ngồi. Hình ảnh đó khiến tôi nhớ đến bà tôi và chú tôi, những người đã in dấu lên trí não tôi thuở ban sơ bằng những câu chuyện đầu đời đẹp đẽ. Chính những người lớn tuyệt vời đó đã đắp nên con đường đầy hoa lá cho trẻ em đặt chân. Để rồi em lớn lên, đi đâu về đâu, quán xá, tàu xe, dọc lề đường gió bụi hay trong giờ nghỉ giữa sở làm, sách vẫn trong tay. Em bé đó, hi vọng một ngày nào tất cả chúng ta sẽ bắt gặp trong chính ngôi nhà mình”. | Kiến tạo mùa đọc sách | 1,748 | |
Tại sao vừa mới ra mắt độc giả đầu năm 2023,
Những đôi mắt khoảng trời
của Đào Quốc Vịnh lại khiến độc giả xôn xao tìm đọc, chào đón như vậy? Tôi nghĩ, tất cả đều có lý do của nó.
Trước hết, đây là tác phẩm chân thực, sinh động, hấp dẫn và đạt tới tính điển hình khi cho bao người đọc tìm lại bóng dáng cuộc đời mình, tâm hồn mình.
Với cách kể chuyện giản dị, chân thực tột cùng, tác phẩm được kết cấu với 9 sự kiện được “xâu chuỗi” trong quãng đời đi học của nhân vật Khang, từ lúc vào học lớp Vỡ lòng đến khi vào học cấp 3 (tức Trung học phổ thông). Chúng ta gặp lại những điều đó qua hành trình “Tuổi thơ dữ dội” của nhân vật Khang. Có thể mượn nhan đề
Tuổi thơ dữ dội
của Phùng Quán để đặt tên cho thời gian đi học của Khang, với bao biến cố có nhan đề và qua 9 sự kiện lớn ấy, những âm vang bi tráng của thời đại vẫn dội vào kín đáo và trực diện, để lại những “vết hằn” không phai trong tâm hồn trẻ thơ. Ở sự kiện thứ nhất có nhan đề
Vầng mặt trời
, chúng ta gặp một khởi đầu dữ dội với gia đình Khang: – Cha tham gia Việt Minh bị tra tấn và bắt giam, nhà cửa bị đốt sạch; Mẹ sinh 6 lần cũng 6 lần chôn cất con thơ, để rồi: “Bu tôi mới lần mò, tìm từng nấm mộ chôn con mình, giang tay ôm ấp và sụt xịt hát ru cho từng nấm mộ một…” (Tr.14).
Ở sự kiện thứ 3, với nhan đề
Nước mắt của Cha
, việc đến lớp của Khang gặp bao đau khổ bởi cha của Khang đã xin ra khỏi Hợp Tác Xã. Với sự non nớt ngây thơ, Khang chưa thể hiểu nổi hậu quả ghê gớm từ hành động ấy của cha. Những giọt nước mắt đắng cay của ông gợi nhắc về bao ấu trĩ, duy ý chí của một giai đoạn lịch sử đã qua. Những giọt nước mắt ấy đã chảy vào kí ức của Khang và mặn chát cảm thương…
May mắn thay, bên cạnh những chi tiết nghệ thuật đắng chát đau buồn ấy, chúng ta vẫn gặp bao chi tiết thấm đẫm chất thơ, bay bổng đôi cánh lãng mạn, tạo được mĩ cảm, trong lòng độc giả nói chung, đặc biệt cho trẻ thơ nói riêng. Đó là hình ảnh và tâm trạng của Khang ngày đầu tiên tới lớp, nhà văn không miêu tả tỉ mỉ một cách trực tiếp, chỉ gợi tả qua cảm nhận của Khang về mầu sắc mùi vị của chiếc bàn học, trong lần tiếp xúc đầu tiên: “… Chiếc bàn còn mới được đóng bằng thứ gỗ gì đó ngả mùi hăng hắc như mùi hoa xoan cuối xuân rụng tím góc sân nhà tôi tỏa ra trong mưa xuân giăng bụi trắng đục, giống như một chiếc khăn Voan màu trắng ngà mỏng tang phủ vắt ngang từ cây Xoan đào to một người ôm xuống tận góc sân, giáp ngay rặng cúc tần vàng xuộm ….” (Tr.34). Những sắc màu và mùi vị rạo rực ấy cũng chính là tâm trạng của cậu bé nhà quê lần đầu đến lớp, vừa quen vừa lạ, vừa thích vừa e ngại với bao khát khao khám phá.
Đó là những rung động đầu đời của Khang dành cho Khuê, một cô bạn cùng lớp xinh xắn, một trạng thái cảm xúc mơ hồ của tuổi mới lớn mà ai trong chúng ta cũng đã từng trải qua: “Có lần, tôi bất chợt bị nó bắt quả tang tôi đang nhìn nó. Hai má nó bừng đỏ và đôi mắt to đen, hàng mi cong vút của nó ánh lên thứ ánh mắt sáng kì diệu làm tôi như bị hớp hồn. Đó là thứ ánh sáng lóe lên như tia chớp, lóe lên ám ảnh tôi mãi tới những năm sau này trong hành trình suốt cuộc đời tôi…” (Tr.169)
Bên cạnh những chi tiết nghệ thuật đau thương, hay giàu chất thơ còn có những chi tiết ngộ nghĩnh hài hước phù hợp với tâm lí và cá tính của lứa tuổi học trò hiếu động, thích thể hiện “cái tôi”, hiếu thắng của một thời: – Khang tắm ao bị giấu mất quần áo phải ngâm mình dưới nước. Thành lập “Đội chiếu bóng của lũ trẻ, bán vé bằng ngô, khoai. Do nhầm lẫn đã làm bẫy đổ cả thúng gio lên đầu thấy giáo…”. Nhưng có bao người tốt cùng sự thanh lọc kì diệu của văn học đã giúp Khang vượt qua hoàn cảnh thôn quê thiếu thốn, vượt qua những tật xấu trong chính mình để vươn lên thành con ngoan trò giỏi.
Điều quan tâm của độc giả, tiếp theo, chính là hình ảnh “Đôi mắt” – một biểu tượng nghệ thuật giàu sức gợi.
Trong tác phẩm, hình ảnh đôi mắt xuất hiện trở đi trở lại tới 17 lần, trở thành một biểu tượng nghệ thuật đầy ám ảnh. Nó vừa mang nghĩa hiển ngôn, gắn với một nhân vật trong một hoàn cảnh cụ thể, vừa mang nghĩa hàm ngôn sâu thẳm. Hình ảnh “Đôi mắt” xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm này, mang ý nghĩa thẩm mĩ cao đẹp, đầy sức gợi mở với ý nghĩa tượng trưng của nó.
Trước hết, nó phản ảnh tâm trạng của nhân vật trong những hoàn cảnh cụ thể và gợi tả về thân phận của nhân vật ấy: Đó là đôi mắt mơ mộng của bạn Yến nhìn ra cửa sổ trong lớp học cùng Khang (Tr.36); Đôi mắt của anh Phê hiểu biết, vị tha khi Khang mắc lỗi (Tr.165); Đôi mắt nghiêm khắc và chờ đợi sự tiến bộ từ Khang của thầy Hiệt (Tr.202); Đôi mắt mừng vui của bà ngoại khi Khang vào học cấp 3 (Tr.216)… Đặc biệt, có hình ảnh đôi mắt của một số nhân vật được lặp lại nhiều lần, biểu hiện sự chuyển đổi tâm thế từ đau buồn đến hạnh phúc, khi dõi theo sự trưởng thành của Khang. Đó là đôi mắt người cha được mô tả hai lần (Tr.57,204); Đôi mắt của mẹ được tái hiện hai lần (Tr.153,215); Đôi mắt thầy Năm khi còn sống và trong di ảnh của một người liệt sĩ (Tr.44,212); Đôi mắt của bác Bào gắn với thân phận xa quê và nỗi nhớ cố hương (Tr.29,111)… Đặc biệt nhất, đôi mắt của nhân vật Khuê được điệp lại tới 3 lần: – Lúc xa cách, lúc lo lắng, lúc mừng vui… Phải chăng “tình yêu” thủa học trò có sức ám gợi lâu bền nhất?
Có thể nói đây là một ý đồ nghệ thuật của nhà văn khi điệp lại nhiều lần hình ảnh “Đôi mắt” của nhiều nhân vật, đặc biệt là những nhân vật có quan hệ gắn bó, yêu thương đặc biệt với Khang. Ở lớp nghĩa hiển ngôn, hình ảnh “Đôi mắt” tượng trưng cho tâm trạng và thân phận của nhân vật trong những biến cố hệ trọng nào đó. Những đào sâu hơn vào lớp nghĩa hàm ngôn, hình ảnh “Đôi mắt” như những “khoảng trời” dõi theo ấy còn tượng trưng cho quê hương, cho gia đình thân thương, cho lòng nhân ái luôn tồn tại bền bỉ qua thử thách, cho quãng đời cắp sách đến trường đầy kỉ niệm vui buồn của Khang. Không có những “Đôi mắt” vừa nghiêm khắc vừa yêu thương ấy, Khang không thể tự hoàn thiện mình và trưởng thành.
Tác phẩm
Những đôi mắt khoảng trời
của Đào Quốc Vịnh là một tác phẩm hay dành cho trẻ thơ. Những chi tiết chân thật, sống động, những tình huống giàu kịch tính, mỗi nhân vật dù được khắc họa kĩ lưỡng hay sơ lược, đều được cá thể hóa sắc nét bằng một “nét vẽ” đặc sắc cho ngoại hình hay nội tâm… Tất cả được “chiếu rọi” bằng ánh sáng hướng thiện trong trẻo, phù hợp với tâm sinh lí của lứa tuổi trẻ thơ ở một giai đoạn lịch sử đã qua. Chính vì thế một số thế hệ độc giả sẽ tim thấy hình bóng cuộc đời, tâm hồn mình trong đó.
Tủ sách văn học dành cho lứa tuổi nhi đồng và thiếu niên còn thiếu những tác phẩm xuất sắc. Đọc
Những đôi mắt khoảng trời
của Đào Quốc Vịnh, nhiều người cho rằng, tác phẩm là sự bổ sung kịp thời và thú vị cho sự thiếu vắng ấy. | Một tác phẩm hay dành cho trẻ thơ – Tác giả: Nguyễn Đức Hạnh | 1,449 | |
NASA hứa hẹn sẽ cung cấp cái nhìn chưa từng có về những vật thể lạ lùng đang bay lơ lửng trên tầng cao của bầu khí quyển Trái Đất.
Theo tờ
Space,
NASA chuẩn bị tung ra công cụ đặc biệt là PolSIR, một thiết bị đo phóng xạ được thiết kế để nghiên cứu những vật thể kỳ lạ hình thành trên tầng cao của bầu khí quyển, phía trên các đám mây mà chúng ta vẫn nhìn thấy.
Đó là những đám mây băng giá có hình như một chiếc đĩa bay hay một chiếc bánh khổng lồ, dẹp, vốn chứa đựng rất nhiều thông tin quan trọng đối với cuộc sống của chính chúng ta.
Những đám mây kỳ dị mang hình một chiếc đĩa bay băng giá là mục tiêu NASA chuẩn bị tiếp cận – Ảnh: NASA.
Một cặp đôi PolSIR sẽ được gắn lên hai vệ tinh và phóng lên quỹ đạo thấp của Trái Đất, nơi chúng có tầm nhìn rõ ràng về những vật thể đang trôi nổi ngay phía bên trên bầu trời vùng nhiệt đối và cận nhiệt đới.
Cách chúng hình thành, thay đổi phản ánh những biến động đối với khí hậu toàn cầu, nhưng vị trí ẩn nấp phía trên các đám mây thường của chúng là một thử thách. Do đó, cần một cái gì đó tiếp cận từ trên cao.
“Nghiên cứu các đám mây băng là rất quan trọng để cải thiện dự báo khí hậu. Đây là lần đầu tiên chúng tôi có thể nghiên cứu các đám mây băng ở mức độ chi tiết này” – Phó quản trị viên của Ban Giám đốc Sứ mệnh khoa học của
NASA
, cho biết.
Hai vệ tinh mang hai PolSIR sẽ là dạng vệ tinh cubesat hình khối lập phương. Cặp đôi này sẽ quay quanh quỹ đạo cách nhau từ 3-9 giờ, cho phép liên tục thu thập dữ liệu từ các “đĩa bay băng” kỳ lạ này.
PolSIR là một phần của chuỗi nhiệm vụ lớn hơn mang tên Earth Venture nhằm khám phá Trái Đất và cải thiện khả năng dự đoán các thay đổi trong tương lai của hành tinh. | NASA tiếp cận ‘đĩa bay băng’ ẩn nấp trên bầu trời Trái Đất | 360 | |
Nếu Tao đàn nhị thập bát tú có vua Lê Thánh Tông làm nguyên soái, thì Chiêu Anh Các có Mạc Thiên Tích là minh chủ.
Miền đất Pê-am (tiếng Khmer, có nghĩa là: Vàm, cửa sông) cho đến cuối thế kỷ XVII vẫn đang còn là một vùng hoang vu, thưa vắng ở bên dòng sông Ten (Tà Ten, tiếng Khmer, nghĩa là: Sông Ten).
Một trong những cảng thuyền thuộc TP Hà Tiên ngày nay. (Ảnh: DUY CƯỜNG).
Từ năm 1649, nhờ Mạc Cửu – gốc người Minh Hương, quê ở Lôi Châu – Quảng Đông, lấy vợ người Việt là Bùi Thị Lẫm, quê ở dinh Trấn Biên, Đồng Nai – tìm đến khai phá, mới dần dà mà trở nên phồn thịnh.
Mạc Cửu, nương theo truyền thuyết dân gian, nói rằng: Dòng sông Ten là nơi có tiên đến tắm, lại nhân tên sông là Tà Ten, mới/bèn đổi tên gọi (địa danh) của miền đất Pê-am thành: Hà Tiên, với nghĩa tiếng Hán Việt là Sông Tiên, hoặc tiên (tắm ở trong) sông.
Đây là lần thứ nhất Hà Tiên được văn hóa (truyền thuyết và ngôn ngữ) làm cho thăng hoa – bằng mỹ từ diễm lệ – sự làm ăn (kinh tế) thịnh vượng của mình.
Đến năm 1735, Mạc Cửu qua đời, trưởng nam là Mạc Thiên Tích, kế vị và kế nghiệp, đứng đầu việc làm giàu, làm đẹp đất Hà Tiên.
Vào và từ năm 1736, ở và từ tuổi 18, sớm kiêm toàn văn võ, Mạc Thiên Tích đã vung bút, làm được 10 bài thơ chữ Hán rất hay, vịnh cảnh Hà Tiên, gọi là “Hà Tiên thập cảnh” hoặc “Hà Tiên thập vịnh”.
Mười cảnh Hà Tiên được tài thi ca của Mạc Thiên Tích làm cho bất hủ vẻ đẹp là:
Kim Dư lan đào (Đảo vàng chắn sóng)
Bình Sơn điệp thủy (Dãy núi bình phong trùng điệp màu xanh)
Tiêu Tự thần chung (Tiếng chuông sáng sớm trong ngôi chùa tĩnh mịch)
Giang Thành dạ cổ (Tiếng trống đêm khuya ở tòa thành bên sông)
Thạch Động thôn vân (Hang đá nuốt mây)
Châu Nham lạc lộ (Cò đậu đất đỏ)
Đông Hồ ấn nguyệt (Trăng soi Đông Hồ)
Nam Phố trừng ban (Sáng bừng Nam Phố)
Lộc Trĩ thôn cư (Thôn làng ở mũi Nai)
Lư Khê ngư bạc (Xóm chài ở Rạch Vược).
10 nhan đề của 10 bài thơ như thế, mỗi tên gồm 4 chữ nhưng khi được lưu bút và phổ biến thì chỉ 2 chữ đầu được người đời ghi nhớ. Thế là thành địa danh (địa chỉ) của 10 cảnh đẹp Hà Tiên mà trước khi được “vào” trong thơ thì vẫn chưa có tên gọi, hoặc/thậm chí còn mơ hồ trong hoang sơ.
Đây là lần thứ hai – sau lần thứ nhất, khi Mạc Cửu đặt tên Hà Tiên – lịch sử miền đất và con người ở phương Nam được chứng kiến tác dụng lớn lao của văn hóa (văn học – thi ca) trong sự nghiệp làm thăng hoa cho đất là như thế nào.
Lại đến khi được khắc in – vào năm 1737 – tác giả Mạc Thiên Tích còn dụng công đem 10 tên đầu đề của các bài thơ này, trình bày díu từng đôi một, thành tất cả là 5 đôi, liên kết và đối xứng với nhau, khiến tăng thêm phần thi vị của những cảnh đẹp lên rất nhiều:
Khi díu “Kim Dư lan đào” với “Bình Sơn điệp thủy” thì cảnh Kim Dư hiểm yếu được đem đối lại với cảnh Bình Sơn thanh nhàn.
Díu “Tiêu Tự thần chung” với “Giang Thành dạ cổ” là đem đối xứng tiếng chuông chùa Tiêu với tiếng trống Giang Thành.
Díu “Thạch Động thôn vân” cùng “Châu Nham lạc lộ” là nhấn vào cảnh diễm ảo Thạch Động với cảnh sáng sủa của Châu Nham.
Díu “Đông Hồ ấn nguyệt” với “Nam Phố trừng ban” là nhấn vào cảnh “trăng soi” ở Đông Hồ với cảnh “sáng bừng” của Nam Phố.
Và cuối cùng, ở trường hợp nối “Lộc Trĩ thôn cư” với “Lư Khê ngư bạc” là đem “cá” đối với “nai”, đem “khe nước” đối với “mũi đá”, đồng thời đem “Ngư bạc” (xóm chài) gắn với thôn cư” (làng quê) để nói lên sự giàu thịnh ở khắp nơi của Hà Tiên.
Vì thế, 10 bài thơ vịnh cảnh Hà Tiên mới được Lê Quý Đôn trong sách “Phủ biên tạp lục” (1776) đánh giá là: “Không thể bảo rằng ở hải ngoại xa xôi không có văn chương vậy”. Còn Trịnh Hoài Đức ở sách “Gia Định thành thông chí” (1820) thì ca ngợi rằng đây là “Văn chương rực rỡ ở góc biển bên trời”.
Một tiết mục trong chương trình Kỷ niệm 287 năm thành lập Tao đàn Chiêu Anh Các (1736 – 2023) Xuân Quý Mão năm 2023, do TP Hà Tiên tổ chức. Ảnh: TTXVN.
10 bài thơ vịnh cảnh Hà Tiên của Mạc Thiên Tích không chỉ rực rỡ giá trị văn học – thi ca, mà còn thi triển được nhiều công năng quý lạ khác nữa.
Ấy là: Khi được lưu hành, phổ biến, thì người ở khắp nơi – như Trịnh Hoài Đức nói – “đổ xô tìm đến, đua nhau họa vần”, tức: Coi những thi phẩm của Mạc Thiên Tích là bài “xướng”, còn mọi người thì làm thơ “họa” lại.
Lê Quý Đôn
– trong sách “Kiến văn tiểu lục” – đã thống kê: Có đến 31 người (gồm: 25 tác giả người Hoa, 6 tác giả người Việt) đã tham gia, mỗi người làm 10 bài “họa”, được tất cả là 310 bài, cộng với 10 bài “xướng” của Mạc Thiên Tích, thành ra là có đến 320 thi phẩm, ngày ấy (tức vào các năm 1736 – 1737) cùng xuất hiện, để bằng thơ ca làm thăng hoa cho đất Hà Tiên.
Và rồi đến lượt mình, khối lượng thi phẩm đồ sộ này lại có tiếp ngay việc tỏa ra 2 nguồn tác động tảng nền. Đó là – như chính Mạc Thiên Tích nói: Thứ nhất, một vựng tập thi tuyển đã ra đời, tồn tại phát huy các giá trị trở thành di sản cho đời sau, khi từ năm 1737 đem khắc in 320 thi phẩm đó thành sách “Hà Tiên thập vịnh”. Thứ hai, tập sách thơ đó, vừa là sản phẩm nòng cốt, vừa là “điểm hẹn” để trong khi sáng tác và ngâm vịnh thì chính là cơ hội và điều kiện để hội tụ các tác giả, vào và thành một tổ chức. Đó là Chiêu Anh Các.
Có điều gì đấy ở đây khá giống với sự kiện: Vào cuối thế kỷ thứ XV, ở Thăng Long, vua Lê Thánh Tông, bằng 9 bài thơ – “Quỳnh uyển cửu ca” – của mình, tổ chức thành bài “xướng” cho 28 danh sĩ đương thời, mỗi người cũng làm 10 bài thơ “họa” lại, thế là thành hội thơ “Tao đàn nhị thập bát tú” lừng danh trong lịch sử.
Nhưng “Tao đàn nhị thập bát tú” chỉ tồn tại trong vòng có một năm ở cuối thế kỷ thứ XV. Còn ở đây, Chiêu Anh Các thì lại hoạt động sôi nổi kéo dài đến hơn 30 năm, từ năm 1736 đến tận năm 1771. Trong đó, có thêm danh sĩ Nguyễn Cư Trinh, từ Thuận Hóa vào Gia Định đã tìm đến Hà Tiên “gia nhập” Chiêu Anh Các vào năm 1755, bằng việc cũng là 10 bài thơ “họa” lại “Hà Tiên thập cảnh”. Và, với bài học nhận được từ Chiêu Anh Các, khi trở về, họ Nguyễn đã sáng tác được công trình “Quảng Ngãi thập nhị cảnh” nổi tiếng của mình.
Hoàng thành Thăng Long- Dấu tích lịch sử 13 thế kỷ
Lại nữa, “Tao đàn thập nhị bát tú” chỉ có một “sản phẩm” duy nhất là “Quỳnh uyển cửu ca”. Còn Chiêu Anh Các thì, với “Hà Tiên thập vịnh”, còn có những “Minh bột di ngư” (tập thi họa – vẽ tranh và viết thư pháp, cho bài phú “Lư Khê nhàn điếu” hơn trăm câu và 32 bài thơ Đường luật), “Thụ Đức hiên tứ cảnh” (gồm 88 bài thơ, “họa” lại 4 bài thơ theo thể loại “hồi văn” của Mạc Thiên Tích). Và rất đặc biệt là “Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh” (422 câu liên ngâm, vừa “lục bát gián thất” vừa “Đường luật bát cú”) viết bằng chữ Nôm rất điêu luyện cũng của Mạc Thiên Tích.
Bên cạnh đó, Chiêu Anh Các còn là/ và có/ một tòa kiến trúc vật thể (đang lưu di tích lại ở địa điểm xây dựng chùa Phù Dung, thành phố Hà Tiên hiện nay) để – đúng như tên gọi – làm trụ sở chiêu tập, đón tiếp các anh tài, đồng thời làm nơi thờ phụng các Tiên Hiền và cả dạy học cho các sĩ tử nữa.
Nếu “Tao đàn nhị thập bát tú” có vua Lê Thánh Tông làm nguyên soái, thì Chiêu Anh Các có Mạc Thiên Tích là minh chủ.
Mạc Thiên Tích còn được gọi là Mạc Thiên Tứ – cả 2 tên đều chung nghĩa “Trời ban cho” – mang trong người 2 dòng máu – Minh hương của cha, Việt của mẹ – sinh năm 1718 ở Lũng Kỳ (nay là Sihanouk Ville – Campuchia), cũng lấy vợ người Việt (là bà Nguyễn Thị Hiếu Túc).
Mười tám tuổi, sáng lập được Chiêu Anh Các, rồi đứng đầu các hoạt động văn hóa rất phong phú của Tao đàn này, cho đến năm 1771. Đây cũng là thời gian của những hoạt động kinh tế, chính trị, quân sự sôi nổi và đầy công huân của Mạc Thiên Tích, vừa xây dựng, phát triển không chỉ đất Hà Tiên, mà còn là cả nhiều miền đất phương Nam nữa, vừa đấu tranh gian khó, quyết liệt, bảo vệ vững chắc sự nghiệp Nam Tiến của lịch sử và dân tộc.
Đến và từ năm 1771, Tây Sơn đưa quân vào Nam, đánh đuổi các chúa Nguyễn cuối cùng, Mạc Thiên Tích – trung thành với phe chúa Nguyễn – cũng phải long đong “tẩu quốc”, trôi giạt sang Xiêm La. Bị vua Xiêm La đố kỵ và hãm hại, năm 1780, Mạc Thiên Tích đã nuốt vàng đầy họng cho nghẹt thở mà chết.
Cuộc đời làm chính khách của Mạc Thiên Tích đến đây kết thúc. Nhưng sự nghiệp văn hóa lừng lẫy của ông thì vẫn còn mãi, với
Hà Tiên
, và với cả Phương Nam Đất Nước. | Xướng họa thi ca ở Chiêu Anh Các – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan | 1,755 | |
Không chỉ toàn tâm toàn ý với việc dạy học, cụ Võ Trường Toản còn sở đắc một phương pháp giáo dục đặc biệt quý giá: Dùng trí tuệ để sáng tạo và lấy đạo đức làm nghĩa khí.
Sự nghiệp mang gươm đi mở cõi và giữ đất ở mạn Nam xứ Đàng Trong nước Đại Việt quá gian truân, vất vả từ cuối thế kỷ XVI đến suốt thế kỷ XVII, nên phải sang đến thế kỷ XVIII mới hun đúc nên được một vị thầy hiền lương, giúp cho nước được hưng thịnh. Đó là cụ Võ Trường Toản
.
Chưa ai thật rõ được về lai lịch của cụ Võ Trường Toản. Uyên bác như vị tiến sĩ Nho học đầu tiên của đất Nam Kỳ là Phan Thanh Giản mà cũng chỉ mang máng viết vào văn bia thờ “Gia Định xử sĩ Sùng Đức Võ tiên sinh” – cách vua Gia Long gọi cụ Võ Trường Toản – rằng cụ là người gốc Thanh Kệ – Quảng Đức (tức
huyện Quảng Điền
,
tỉnh Thừa Thiên – Huế
) hoặc Bình Dương – Gia Định (nay là TP HCM).
Tuy nhiên, nơi cụ Võ Trường Toản mở ngôi trường đầu tiên của đất Nam Kỳ và dạy cho hàng trăm học trò thì đã được nhận diện nhiều phần đích xác. Đó là ngôi trường Hòa Hưng, sau được chuyển hóa thành đình Hòa Hưng, tức đình Chí Hòa – nay tọa lạc ở trong con hẻm trên đường Cách Mạng Tháng Tám,
quận 10
,
TP HCM
.
Trường Tiểu học Võ Trường Toản trên đường Lý Thường Kiệt, quận 10.
“Học trò có đến mấy trăm người” – chữ của TS Phan Thanh Giản trên văn bia cụ Võ Trường Toản vào cuối thế kỷ XVIII – đến đó theo học. Nguyên văn họ Phan viết trên văn bia: “Sở học của tiên sinh đã tới bậc dày dặn, đầy đủ, chất thật, có thuật nghiệp, thâm uyên, thông đạt”.
Với một sở học quý giá như thế, đương nhiên cụ Võ Trường Toản phải “lọt mắt xanh” của các nhà cầm quyền đương thời. Cả Tây Sơn lẫn chúa Nguyễn đều nhiều lần mời mọc, lôi kéo cụ ra làm quan nhưng cụ nhất mực từ chối, chỉ một lòng tha thiết với việc dạy học. Chúa Nguyễn Ánh, sau này thành vua Gia Long, gọi cụ bằng danh hiệu “Sùng Đức xử sĩ” (bậc sĩ phu ở ẩn với đức độ đáng sùng mộ) là vì thế.
Không chỉ toàn tâm toàn ý với việc dạy học, cụ Võ Trường Toản còn sở đắc một phương pháp giáo dục đặc biệt quý giá – so với cách dạy học của các Nho sĩ, thậm chí đã thành danh sư đương thời – là “lấy nghĩa lý mà giáo hóa”, vẫn theo lời của TS Phan Thanh Giản. Nghĩa là, cụ Võ Trường Toản không dạy học theo lối “tầm chương trích cú” (học vẹt), mà dùng trí tuệ để sáng tạo và lấy đạo đức làm nghĩa khí.
Dạy học với phương pháp và tinh thần ấy, cụ Võ Trường Toản đã trở thành người “hưng quốc”. Không chỉ vì có nhiều học trò trực tiếp mà cả giới “sĩ phu Nam Kỳ” về sau cũng đều nhờ đấy mà sở đắc phẩm chất được cụ truyền cho: Vừa có nghĩa khí vừa có trí tuệ.
Học trò của cụ Võ Trường Toản đến từ khắp nơi và gồm nhiều thế hệ. Họ là những “bộ hạ”, làm nên sự “thần thiêng” cho thầy.
Những người thành đạt trong số họ, TS Phan Thanh Giản kể tên được 6 người, gồm: Ngô Tùng Châu, Trịnh Hoài Đức, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Quang Định, Lê Bá Phẩm, Ngô Nhân Tịnh. Hai người khác cũng được xếp vào bậc “danh sĩ” nhưng lại “ẩn dật” (giống thầy) là ông Chiêu, ông Trúc; ngoài ra không kể hết được.
Bình luận về các “bộ hạ” này của cụ Võ Trường Toản, TS Phan Thanh Giản viết: “Các ông ấy đều gặp hồi phong vận, thời trung hưng, triều Gia Long, đức bậc tôi hiền, có người hoặc sát thân để làm nên điều nhân hoặc quên mình để trọng tiết nghĩa, thảy đều nên công nghiệp lớn”.
Đường Võ Trường Toản trên địa bàn phường 15, quận 5, TP HCM. (Ảnh: TẤN THẠNH).
Trong đó, Ngô Tùng Châu được đánh giá là “đệ nhất môn sinh”. Được đào tạo tại “lò” Hòa Hưng của thầy Võ Trường Toản, sau đó ông theo phò chúa Nguyễn Ánh, làm đến chức Tham tri Bộ Lễ kiêm việc dạy dỗ con trai của chúa là hoàng tử Cảnh. Năm 1799, ông được cử cùng Võ Tánh trấn thủ thành Bình Định. Bị đại tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu đưa quân đến vây thành rất ngặt, không chống nổi, ông uống thuốc độc, cùng với Võ Tánh tự thiêu, mà chết.
Việc cố thủ thành Bình Định đã cầm chân được đại binh Tây Sơn, giúp chúa Nguyễn Ánh vòng đường biển ra chiếm được kinh thành Phú Xuân của Tây Sơn. Cho nên, khi lên ngôi vua Gia Long, Nguyễn Ánh đã truy phong ngay – vào năm 1802 – Ngô Tùng Châu làm “Tán trị công thần, đặc tiến Kim tử Vinh Lộc đại phu, Trụ quốc Thái sư, Châu quận công”.
Cụ Võ Trường Toản mất ngày 9 tháng 6 năm Nhâm Tý (27-7-1792). Các môn sinh an táng thầy ngay ở nơi cụ dạy học, với danh hiệu được chúa Nguyễn Ánh ban tặng “Gia Định xử sĩ Sùng Đức Võ tiên sinh”.
Tương truyền, chúa Nguyễn Ánh – sau là vua Gia Long còn làm cả đôi liễn tưởng niệm gửi đến: “Sinh tiền giáo huấn đắc nhân, vô tử nhi hữu tử/ Một hậu thịnh danh tại thế, tuy vong giả bất vong” (Lúc sống dạy dỗ được người, không con mà như có/ Khi mất, tiếng tăm còn để, thân tan danh vẫn còn).
Đến thời người Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (năm 1862), mộ cụ Võ Trường Toản nằm trong vùng bị giặc chiếm giữ. Với phong trào “Tỵ địa” (bỏ đất mà đi khỏi nơi đã mất vào tay giặc), TS Phan Thanh Giản, đốc học Vĩnh Long Nguyễn Thông, hiệp trấn An Giang Phạm Hữu Chánh cùng nhiều sĩ phu đương thời đã tổ chức di dời mộ cụ Võ Trường Toản – cùng với vợ và con gái (đã mất từ nhỏ) trước đấy – về vùng Bảo Thạnh (huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre ngày nay) vào năm 1865. Họ không để cụ phải “ở chung với bọn giặc ngoại bang xâm lược”.
Trong lễ cải táng di hài cụ Võ Trường Toản ở Bảo Thạnh ngày 28 tháng 3 năm Đinh Mão (1867), đốc học Nguyễn Thông đã thay mặt các học trò và nho sĩ trong miền làm chủ lễ rất trọng thể.
TS Phan Thanh Giản – lúc đó là mệnh quan triều đình Huế, được biệt phái vào Nam lo liệu việc đối phó với người Pháp – cũng đã cẩn trọng viết một bài văn bia, dự định khắc đá đặt bên ngôi mộ “tỵ địa” của cụ Võ Trường Toản. Tuy nhiên, chỉ 4 tháng sau, khi người Pháp tiếp tục tấn công, đánh chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ, họ Phan đã nhận trách nhiệm để mất đất, uống thuốc độc tự tử.
Thành ra, mãi đến năm Nhâm Thân (1872), tấm bia TS Phan Thanh Giản viết về cụ Võ Trường Toản mới được dựng. Đến nay, bên ngôi mộ “tỵ địa” của vị “Lương sư hưng quốc” họ Võ vẫn chính là tấm bia có những câu văn bia quan trọng được trích dẫn ở trên.
“Gia Định xử sĩ Sùng Đức Võ tiên sinh” cùng các học trò và những người chịu ảnh hưởng của cụ ở các thế kỷ XVIII, XIX đã sống, chết và tư duy – hành động, làm hoa cho đất phương Nam là như vậy đấy.
“Tri ngôn dưỡng khí”
Một câu giảng sách “Đại học” (trong “Tứ thư” – bộ sách giáo khoa kinh điển Nho học) của cụ Võ Trường Toản đến nay vẫn được đánh giá là đúng phương pháp “Tri ngôn dưỡng khí” (hiểu nghĩa lý mà nuôi khí phách). Nguyên văn như sau: “Sách “Đại học” một ngàn bảy trăm chữ, tán ra gồm vô số sự vật, tóm lại chỉ còn 200 chữ, tóm nữa chỉ còn một chữ, tóm lại nữa thì một chữ cũng không”!
Trong bài phú “Hoài cổ” – tác phẩm văn chương duy nhất của cụ Võ Trường Toản còn sót lại đến nay – cũng có câu: “Thân dữ cô vân trường luyến tụ/Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan” (“Đời như đám mây lẻ, ngừng mãi trong không gian/Lòng như giếng nước xưa, không bao giờ gợn sóng”). | Lương sư hưng quốc Võ Trường Toản – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan | 1,476 | |
Xuất khẩu gạo đang đón nhận nhiều tin vui. Ảnh: TL.
5 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo đạt 2 tỷ USD, tăng 49% so với cùng kỳ năm ngoái – mức tăng trưởng cao nhất cùng kỳ 10 năm. Xuất khẩu gạo duy trì sự tăng trưởng khá nhờ cả giá và lượng. Thị trường được dự báo sẽ còn nhiều tín hiệu tích cực cho xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian tới.
5 tháng đầu năm, Philippines là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam đạt 1,29 triệu tấn, tương đương 647,5 triệu USD, tăng 40,6% về khối lượng và tăng 53,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất, Indonesia tăng mua gấp 26 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Giá gạo xuất khẩu bình quân 5 tháng đầu năm đạt 517 USD/tấn, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2022.
Theo ông Phạm Thái Bình – Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An, năm nay, xuất khẩu sang tất cả các thị trường đều tăng trưởng và với tất cả các loại gạo. Thực tế đã cho thấy, lượng lương thực trên thế giới đang sụt giảm. Khi biến đổi khí hậu cực đoan thì việc cải thiện lương thực thế giới rất khó; trong khi Việt Nam không bị tác động mạnh bởi biến đổi khi hậu như nhiều quốc gia khác.
Cũng theo ông Bình, gạo sản xuất ra đến đâu đều được tiêu thụ đến đó. Lượng hàng sản xuất ra khá nhiều nhưng đều tiêu thụ tốt bởi lượng lương thực thế giới sụt giảm, thậm chí không đủ gạo để bán. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam cũng cho biết, họ nhận đơn hàng dồn dập trong nhiều tháng qua nhưng nguồn cung gạo trong nước không đáp ứng đủ.
Cùng với đó, gạo thơm, gạo chất lượng cao cũng ngày càng được gia tăng. Theo Cục Trồng trọt, từ đầu năm đến nay, đơn vị đã cấp 157 giấy chứng nhận với trên 14.000 tấn gạo để được hưởng ưu đãi thuế quan khi xuất khẩu gạo vào thị trường Liên minh châu Âu (EU).
Theo TS Nguyễn Đăng Nghĩa – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tư vấn nông nghiệp Nhiệt đới, để đón đầu cơ hội xuất khẩu gạo năm 2023, các DN xuất khẩu gạo đã chủ động hợp tác để có được vùng nguyên liệu đủ lớn (tương xứng với sản lượng xuất khẩu) trên cơ sở “quyền lợi phải được phân phối hài hòa, công bằng, minh bạch và rủi ro cùng nhau chia sẻ”. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng tạo thuận lợi và khuyến khích các DN đi tìm đối tác bạn hàng; mở rộng các thị trường tại Mỹ; EU, Trung Đông, Tây và Bắc Á.
Theo Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam đến năm 2030 ngành hàng lúa gạo Việt Nam cũng sẽ gia tăng xuất khẩu các loại gạo có phẩm cấp cao. Cụ thể, trong giai đoạn 2023-2025, tỷ trọng gạo trắng phẩm cấp thấp và trung bình chiếm không quá 15%; gạo trắng phẩm cấp cao chiếm khoảng 20%; gạo thơm, gạo đặc sản chiếm khoảng 40%… Tỷ lệ gạo xuất khẩu có thương hiệu trên 20%.
Các sản phẩm gạo có giá trị gia tăng cao như gạo dinh dưỡng, gạo đồ, gạo hữu cơ, bột gạo, sản phẩm chế biến từ gạo, cám gạo và một số phụ phẩm khác từ lúa gạo chiếm khoảng 10%. Tỷ lệ gạo xuất khẩu có thương hiệu trên 40%. Chiến lược cũng đặt mục tiêu tăng tỷ lệ gạo xuất khẩu trực tiếp vào các hệ thống phân phối của các thị trường lên khoảng 60%; nâng cao hiệu quả xuất khẩu qua kênh trung gian, nhất là đối với các thị trường không thuận lợi trong vận chuyển và thanh toán.
Theo ông Phạm Thái Bình, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đang trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long, việc định hướng nâng cao giá trị, giảm sản lượng xuất khẩu là đúng đắn. Khi đó, đến năm 2030 dù xuất khẩu chỉ 4 triệu tấn gạo nhưng giá trị vẫn đạt từ 3,5-4 tỷ USD mà không cần đến phải xuất khẩu từ 6,5-7 triệu tấn gạo như hiện nay. Bên cạnh đó, khi sản xuất để có được 6,5-7 triệu tấn gạo cũng sẽ tạo ra phát thải khí nhà kính lớn hơn nhiều so với việc chỉ sản xuất 4 triệu tấn gạo. Đây là giá trị về môi trường mà khó có thể tính toán được.
Ngành lúa gạo Việt Nam được cho là sẽ hưởng lợi từ giá gạo duy trì ở mức cao vì nhu cầu tăng cao. Tuy nhiên, các đối tác nhập khẩu gạo của Việt Nam ngày càng khó tính, khắt khe hơn trong các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc.
Vì vậy, các chuyên gia cho rằng, chế biến sâu là con đường giúp nâng cao giá trị hạt gạo Việt Nam lên rất nhiều lần. Tuy nhiên, muốn sản phẩm chế biến có mặt ở châu Âu, Mỹ, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc…, đòi hỏi phải có sự đầu tư về mặt công nghệ, khoa học kỹ thuật. Gia tăng giá trị xuất khẩu sẽ phải tăng sản phẩm chế biến nhiều hơn. Việc này vừa giảm sản lượng gạo xuất khẩu mà vẫn có được giá trị cao.
Đại diện một số doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng cho rằng, những đơn vị sản xuất theo chuỗi giá trị, truy xuất nguồn gốc rõ ràng, đầy đủ chứng chỉ an toàn vệ sinh thực phẩm… luôn có lợi thế trên thị trường xuất khẩu. | Liên tiếp tin vui cho hạt gạo | 1,003 | |
Đây là lý do tại sao bão không hình thành ở đường xích đạo và tại sao chúng hiếm khi đi qua ranh giới của Bắc bán cầu và Nam bán cầu.
Những cơn gió dữ dội của bão được gọi là xoáy thuận nhiệt đới ở một số nơi trên thế giới. Vì vậy bạn có thể cho rằng chúng sẽ quét qua toàn bộ vùng nhiệt đới. Nhưng có một khu vực của vùng nhiệt đới mà bão hầu như không bao giờ hình thành: đường xích đạo.
Các bản đồ ghi lại lịch sử các vị trí của các cơn bão nhiệt đới (còn được gọi là bão và cuồng phong, tùy thuộc vào vị trí) cho thấy ” chúng rất hiếm khi hình thành ở phạm vi cách vài độ so với đường xích đạo,” Gary Barnes, một nhà khí tượng học hiện đã nghỉ hưu tại Đại học Hawaii, cho biết. (Một vĩ độ bao gồm khoảng 69 dặm, hay 111 km.)
Nhưng tại sao không có bão hình thành ở xích đạo? Về cơ bản, những cơn gió xoáy mạnh của bão là kết quả của sự bảo toàn momen động lượng truyền đạt bởi sự tự quay của Trái Đất Tại đường xích đạo, ngay cả khi không khí ổn định, Trái Đất và bầu khí quyển bên trên nó thực sự đang di chuyển với tốc độ hơn 1.000 dặm/giờ (1.600 km/giờ). Chuyển động này theo hướng quay của Trái đất, từ tây sang đông.
Một cơn bão nhiệt đới khi nhìn từ trên trạm vũ trụ ISS. Ảnh: NASA.
Chu vi Trái đất lớn nhất ở xích đạo. Điều này có nghĩa, bất cứ thứ gì đứng trên đường xích đạo đều di chuyển nhanh hơn, với khoảng cách lớn hơn về phía Đông, so với bất cứ thứ gì nằm cách xa đường xích đạo – như ở phía Bắc hoặc phía Nam trên bề mặt Trái đất, trong cùng một khoảng thời gian.
Nếu không khí di chuyển về phía Bắc từ đường xích đạo, nó vẫn sẽ di chuyển nhanh về phía Đông so với môi trường xung quanh. Điều này có nghĩa, không khí từ đường xích đạo khi di chuyển về phía Bắc sẽ rẽ phải. Ngược lại, không khí từ đường xích đạo khi di chuyển về phía Nam sẽ đi lệch trái.
Hiện tượng này, được gọi là hiệu ứng Coriolis, giúp kiểm soát hướng xoáy của các cơn bão nhiệt đới. Ở Bắc bán cầu, không khí xoáy sang phải sẽ tạo ra chuyển động quay ngược chiều kim đồng hồ và điều ngược lại sẽ xảy ra ở Nam bán cầu.
Các cơn bão quay do chuyển động của môi trường xung quanh. Sự chuyển hướng của gió đương nhiên sẽ rất yếu ở gần xích đạo, nhưng lại tăng lên ở vĩ độ cao.
Đây chính là lý do vì sao xoáy thuận nhiệt đới hiếm khi hình thành gần đường xích đạo. Ở vĩ độ cao (xa xích đạo), không khí chuyển động nhanh hơn, gió mạnh hơn, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của xoáy thuận nhiệt đới.
Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp ngoại lệ kỳ lạ, đơn cử như con bão nhiệt đới Vamei xuất hiện vào năm 2001 ở Biển Đông. Theo đó, cơn bão này tăng cấp trong vòng 2 độ từ đường xích đạo, trong khi hoàn lưu của nó thì thực sự hình thành sớm hơn và cách xa đường xích đạo. Các nhà khoa học cho rằng những cơn gió tương tác với địa hình của quần đảo Indonesia đã tạo ra vòng xoáy của bão Vamei.
Nếu một cơn bão nhiệt đới đi qua đường xích đạo, nó sẽ bắt đầu hút không khí quay theo hướng ngược lại, vô hình trung có thể khiến
cơn bão
suy yếu và tan rã. Tuy nhiên, một cơn bão cũng có thể đi qua đường xích đạo ở khoảng cách nhỏ, vì vòng quay nghịch vẫn khá nhỏ khi ở vị trí đường xích đạo. Tuy nhiên, một cơn bão cũng không thể vượt xa quá vài độ sang phía bên kia bán cầu.
Tham khảo Live Science | Tại sao bão không bao giờ hình thành ở xích đạo? | 693 | |
Chiều 3-6 tại Nghệ An, Bộ TN&MT đã phối hợp với UBND
tỉnh Nghệ An
tổ chức Hội nghị công bố Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam và Hội thảo Quy hoạch không gian biển quốc gia.
Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam, Tháng hành động vì môi trường, Ngày Đại dương thế giới và Ngày Môi trường thế giới năm 2023.
Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân nhấn mạnh biển là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân (Ảnh: TP).
“Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng, hướng đến mục tiêu khai thác, sử dụng hiệu quả, công bằng tài nguyên trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa lợi ích kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường và quốc phòng, an ninh trên các vùng đất ven biển, các đảo, quần đảo, vùng biển, vùng trời thuộc quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam” – Thứ trưởng Bộ TN&MT nói.
Cũng theo ông Nhân, hiện Bộ đang hoàn thiện Quy hoạch không gian biển Quốc gia, đây là một công cụ quan trọng và là cơ sở cho việc quản lý khai thác sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, sinh thái biển, phát triển bền vững kinh tế biển, bảo đảm an ninh, quốc phòng, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển.
“Chúng tôi mong muốn đến năm 2050, toàn bộ các vùng biển Việt Nam được quản lý hiệu quả và sử dụng bền vững theo không gian, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và quốc phòng, an ninh, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội, sức chống chịu, sức tải môi trường, hệ sinh thái biển, hải đảo và hoàn thành mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia giàu, mạnh về biển”- ông Nhân nhấn mạnh.
Bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện thường trú của Tổ chức phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam. (Ảnh: TP).
Phát biểu tại hội nghị, bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện thường trú của Tổ chức phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam nhận định biển và hải đảo của Việt Nam đang được khai thác bởi nhiều ngành khác nhau, nhưng sự phối hợp còn hạn chế.
Vì thế, tăng cường quản trị và điều phối trong các lĩnh vực kinh tế biển như du lịch, vận tải biển, thủy sản, công nghiệp, thăm dò và phát triển năng lượng, quy hoạch, đầu tư và môi trường là rất quan trọng để thực hiện thành công Chiến lược cũng như các chính sách quan trọng khác về biển và hải đảo.
Bên cạnh đó là sự hỗ trợ của quốc tế về chuyển giao công nghệ, tài chính bền vững sẽ rất cần thiết để thúc đẩy cho sự thay đổi và cũng là một trong những mục tiêu chính của Nghị quyết 48.
“Chúng tôi khuyến nghị Việt Nam nên tham khảo kinh nghiệm của các nước và các đối tác phát triển trong quá trình thực hiện Chiến lược, đặc biệt là khi nhiều nguồn tài nguyên biển vượt ra khỏi biên giới quốc gia và sẽ cần có sự hợp tác quốc tế để quản lý hiệu quả và lâu dài”, bà Ramla Khalidi nhấn mạnh.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Văn Đệ. (Ảnh: TP).
Chia sẻ tại hội nghị, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Văn Đệ cho hay tỉnh Nghệ An giàu tiềm năng phát triển kinh tế biển với bờ biển kéo dài 82 km, nhiều khu có thể phát triển du lịch, khai thác thủy hải sản…
Đặc biệt, hiện nay, 100% các khu công nghiệp vùng ven biển, và 100% khu đô thị vùng ven biển loại IV trở lên cũng đã và đang được đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung đảm bảo yêu cầu về bảo vệ môi trường.
“Trong thời gian tới, tỉnh Nghệ An tập trung nguồn lực đẩy nhanh tốc độ xây dựng Nghệ An trở thành tỉnh mạnh về kinh tế biển của vùng Bắc Trung Bộ, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi xu hướng gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; hình thành văn hóa biển, phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế biển, đảo gắn với đảm bảo quốc phòng – an ninh, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ…”, ông Đệ nói. | Bộ TN&MT công bố chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam | 819 | |
Một quan chức thuộc Trung tâm chỉ huy cứu nạn dã chiến Balasore thông báo hoạt động cứu hộ đã kết thúc và ‘tất cả các thi thể và hành khách bị thương đã được đưa ra khỏi địa điểm xảy ra tai nạn.’
Nhân viên cứu hộ làm nhiệm vụ tại hiện trường vụ tai nạn đường sắt ở Odisha, Ấn Độ, ngày 3/6. (Ảnh: AFP/TTXVN).
Tối 3/6, giới chức Ấn Độ xác nhận đã kết thúc chiến dịch cứu hộ sau tai nạn đường sắt nghiêm trọng nhất 20 năm qua.
Hiện số người chết được tìm thấy là 288 người, ngoài ra còn hơn 850 người bị thương.
Một quan chức thuộc Trung tâm chỉ huy cứu nạn dã chiến Balasore (bang Odisha) thông báo hoạt động cứu hộ đã kết thúc và “tất cả các thi thể và hành khách bị thương đã được đưa ra khỏi địa điểm xảy ra tai nạn.”
Thủ tướng Narendra Modi đã tới hiện trường vụ tai nạn bằng máy bay trực thăng ngày 3/6 và đến thăm những người bị thương đang được điều trị tại các bệnh viện ở Balasore. Ông tuyên bố sẽ xử lý nghiêm những người có trách nhiệm liên quan để xảy ra vụ tai nạn thảm khốc này.
Thủ tướng Modi đã chỉ đạo các cơ quan ban ngành phải đảm bảo hỗ trợ những người bị thương và gia đình họ. Ông cũng kêu gọi cần có sự quan tâm đặc biệt với những gia đình có tang quyến và những người bị ảnh hưởng tiếp tục nhận được sự hỗ trợ mà họ cần.
Tai nạn xảy ra khi một đoàn tàu cao tốc đang chạy theo hướng nam-bắc, từ thành phố Bengaluru (bang Karnataka) đến thành phố Kolkata (bang Tây Bengal) bị trật đường ray ở huyện Balasore, bang Odisha, một số toa văng gần đường ray Bắc-Nam.
Vài phút sau, một đoàn tàu khác chạy theo hướng Bắc-Nam, từ Kolkata sang Chennai (bang Tamil Nadu) đâm vào đoàn tàu bị trật đường ray kia, một số toa lao vào một đoàn tàu chở hàng đậu gần đó.
Đây là vụ tai nạn đường sắt nghiêm trọng thứ hai trong lịch sử
Ấn Độ
.
Giám đốc điều hành cơ quan Đường sắt Ấn Độ, Amitabh Sharma xác nhận ngoài hai tàu chở khách, một tàu chở hàng đỗ tại hiện hiện trường cũng liên quan đến vụ tai nạn.
Biên bản kiểm tra liên ngành của các giám sát viên ghi rõ rằng tín hiệu xanh đã được cấp cho tàu Coromandel Express để đi qua tuyến chính được chỉ định, và sau đó tín hiệu này đã bị tắt. Tuy nhiên, tàu đã đi vào đường vòng, đâm vào một đoàn tàu chở hàng đang đứng yên và trật bánh. Trong khi đó, tàu tốc hành từ Yashwantpur đi ngược lại đã đâm phải tàu trên khiến một số toa trật bánh.
Đến nay, nhà chức trách Ấn Độ vẫn chưa công bố chính thức nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn thương tâm khiến ít nhất 288 người thiệt mạng và hơn 800 người bị thương.
Giới chức địa phương cho biết không loại trừ con số thiệt mạng còn tăng do nhiều người đang nguy kịch trong bệnh viện. Uớc tính, con số người thiệt mạng có thể tăng lên tới 380 người.
Lãnh đạo các nước trên khắp thế giới đã bày tỏ lời chia buồn sâu sắc nhất tới gia đình nạn nhân và chính phủ Ấn Độ.
Thủ tướng Modi đã bày tỏ lòng biết ơn đồng thời cho rằng thông điệp chia buồn của các nhà lãnh đạo đã “tiếp thêm sức mạnh” cho gia đình nạn nhân và những người bị ảnh hưởng bởi thảm kịch kinh hoàng này./. | Vụ tai nạn đường sắt ở Ấn Độ: Kết thúc cứu hộ, gần 290 người tử vong | 621 | |
Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh đề xuất 6 giải pháp bảo vệ môi trường và khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển và hải đảo.
Phát biểu tại lễ phát động Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam sáng 4/6, Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh nêu rõ, phát triển bền vững kinh tế biển là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước với quan điểm phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hòa giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển.
Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường nhìn nhận, với khoảng 50% dân số cả nước sống ở các vùng đất thấp và ven biển, Việt Nam được đánh giá là một trong các quốc gia dễ bị tổn thương và chịu nhiều tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, nước biển dâng.
“
Điều đó đặt ra nhiều thách thức đối với việc thực hiện các mục tiêu xóa đói giảm nghèo, các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và phát triển bền vững của đất nước, đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp ứng phó thiết thực và kịp thời
“, ông Đặng Quốc Khánh nói.
Theo Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh, những năm qua công tác bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên biển và hải đảo của Việt Nam đã được chú trọng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn thách thức.
“
Tại buổi lễ trọng thể này, tôi xin tuyên bố phát động Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam, Tháng hành động vì Môi trường hưởng ứng Ngày Đại dương thế giới, Ngày Môi trường thế giới năm 2023.
Tôi kêu gọi các Bộ, ngành, cơ quan đoàn thể ở Trung ương, chính quyền địa phương, các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp hãy có những hành động thiết thực để giải quyết vấn đề ô nhiễm chất thải nhựa, góp phần bảo vệ môi trường, bảo vệ biển và đại dương; khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển và hải đảo
“, Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường nhấn mạnh.
Để thực hiện tốt lời kêu gọi, ông Đặng Quốc Khánh nêu 6 giải pháp nhằm tăng cường bảo vệ môi trường, khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên biển và hải đảo.
Thứ nhất là ứng xử có trách nhiệm với biển và đại dương theo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và luật pháp quốc tế. Khắc phục và loại bỏ tư tưởng chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt mà coi nhẹ việc duy trì, bảo vệ môi trường, thúc đẩy hơn nữa việc phát triển cộng đồng văn minh sinh thái biển; coi đây là tiêu chuẩn về đạo đức, văn hóa của mỗi cơ quan, tổ chức, cộng đồng, doanh nghiệp và người dân.
Thứ hai là quản lý, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững biển và hải đảo, triển khai có hiệu quả các chiến lược, chính sách phù hợp để hạn chế rác thải nhựa đại dương, bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái biển. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng ven biển, tăng cường liên kết với vùng nội địa.
Thứ ba, tập trung ưu tiên đầu tư, đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển chất lượng cao; Tăng cường công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt là vùng biển ven bờ, xử lý các nguồn ô nhiễm, nói không với rác thải nhựa…
Bốn là tận dụng tối đa lợi thế để phát triển các ngành du lịch và dịch vụ biển để Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của thế giới; khai thác đồng bộ, hiệu quả các cảng biển và dịch vụ vận tải biển; nâng cao hiệu quả khai thác các tài nguyên khoáng sản biển gắn với chế biến sâu…
Đồng thời, Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh cho rằng cần hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp, người dân đầu tư, sản xuất, sử dụng các loại vật liệu thân thiện với môi trường thay thế cho các bao bì, sản phẩm khó phân hủy; triển khai chính sách ưu đãi, miễn, giảm thuế sản phẩm, vật liệu thân thiện môi trường thay thế sản phẩm nhựa sử dụng một lần, túi nilon khó phân hủy và vật liệu có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
Các đại biểu tham dự lễ phát động.
Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh khẳng định cần tiếp tục mở rộng và tăng cường hợp tác với các quốc gia, các đối tác, tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, quyền và các lợi ích hợp pháp của các quốc gia ven biển, tuân thủ luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982, bảo đảm an ninh và an toàn hàng hải, góp phần xây dựng môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
Lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường lưu ý thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức về biển đảo của Tổ quốc, ý thức bảo vệ tài nguyên và môi trường biển; biến nhận thức thành ý thức tự giác và hành động cụ thể, thiết thực ở mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp và từng cá nhân…
“
Mỗi người dân, doanh nghiệp và các tổ chức trong xã hội sẽ là những hạt nhân tích cực và hăng hái, đóng vai trò quan trọng trong tiến trình giảm thiểu ô nhiễm nhựa, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu đồng thời phát huy các tiềm năng lợi thế của biển, thực hiện phát triển kinh tế đất nước theo hướng bền vững, tạo tiền đề cho Việt Nam ta tiến gần đến mục tiêu xây dựng một tương lai “sống hài hòa với thiên nhiên” vào năm 2050
“, Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh nói thêm. | Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh nêu 6 giải pháp bảo vệ biển, kêu gọi cả nước chung tay | 1,072 | |
Thủ tướng giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho du lịch, xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa.
Sáng 3/6, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5/2023. Phiên họp được kết nối trực tuyến tới trụ sở UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Phát biểu kết luận phiên họp, Thủ tướng nêu rõ, trong 5 tháng qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố đã quán triệt rất nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết, kết luận, chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội, bám sát tình hình để chỉ đạo, điều hành quyết liệt, đồng bộ.
Trong đó, tập trung chuẩn bị các nội dung thuộc thẩm quyền và nhiệm vụ được phân công phục vụ Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ và kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XV (40 báo cáo, tờ trình, tài liệu trên nhiều lĩnh vực, trong đó có 21 luật, nghị quyết).
Tính chung 5 tháng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức hơn 700 cuộc họp, hội nghị, hoạt động đối ngoại (gồm 9 phiên họp Chính phủ, trong đó 4 phiên họp chuyên đề pháp luật), ban hành 27 nghị định, 101 nghị quyết, 16 quyết định quy phạm pháp luật, 618 quyết định cá biệt, 36 công điện, 17 chỉ thị.
Lần đầu tiên, Chính phủ tổ chức 26 tổ công tác trực tiếp làm việc với các địa phương để nắm tình hình và giải quyết các khó khăn, vướng mắc; đã ghi nhận trên 1.000 kiến nghị, trong đó đã giải đáp 300 kiến nghị, ghi nhận trên 700 kiến nghị.
Thủ tướng phát biểu kết luận phiên họp.
Các hoạt động, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng tập trung vào 9 nhóm nội dung. Thủ tướng ghi nhận, biểu dương, đánh giá cao các bộ, ngành, địa phương đã nỗ lực cùng hệ thống chính trị cùng vào cuộc để triển khai các công việc, nhiệm vụ được giao theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
Nhấn mạnh tinh thần không tô hồng, không bôi đen mà nhìn rõ sự thật, đánh giá đúng bản chất, Thủ tướng nêu rõ, kết quả lớn nhất đạt được theo mục tiêu Trung ương, Quốc hội giao là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn, giảm nợ công, giảm nợ Chính phủ, giảm bội chi. Đây là dư địa để chúng ta tiếp tục khai thác trong các tháng cuối năm và những năm tới đây.
Đây là thành tựu chung của Đảng, Nhà nước, nhân dân ta, dân tộc ta, nhờ sự lãnh đạo của Trung ương, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sự đồng hành của Quốc hội, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, sự hỗ trợ của bạn bè, đối tác quốc tế.
Các báo cáo, ý kiến tại cuộc họp thống nhất đánh giá, tình hình kinh tế- xã hội tháng 5 và 5 tháng tiếp tục tiến triển tích cực với nhiều lĩnh vực cải thiện hơn so với tháng 4.
Cụ thể, lạm phát giữ xu hướng giảm dần qua các tháng và được kiểm soát đúng theo Nghị quyết của Trung ương và Quốc hội. Phân tích thêm nội dung này, Thủ tướng nêu rõ, có thời điểm, trước lựa chọn ưu tiên kiểm soát lạm phát hay ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng, chúng ta lựa chọn ưu tiên kiểm soát lạm phát để không ảnh hưởng nhiều đến đời sống người dân, đây là lựa chọn đúng đắn, nhất là trong lúc khó khăn và khi ưu tiên mục tiêu kiểm soát lạm phát thì phải hy sinh một phần mục tiêu tăng trưởng.
Cùng với đó, thị trường tiền tệ, giá cả ổn định; lãi suất điều hành giảm 3 lần liên tiếp. Xuất khẩu có xu hướng tăng trở lại; so với tháng 4, kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 5 tăng 5,3%, xuất khẩu tăng 4,3%, nhập khẩu tăng 6,4%; tính chung 5 tháng, xuất siêu 9,8 tỷ USD.
Khu vực dịch vụ tiếp tục tăng cao, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 1,5% so tháng 4 và tăng 11,5% so với cùng kỳ; 5 tháng tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước. Du lịch phục hồi nhanh, có gần 4,6 triệu lượt khách quốc tế, gấp 12,6 lần cùng kỳ, đạt 57,5% kế hoạch năm.
Thu ngân sách đến ngày 31/5 ước đạt 782 nghìn tỷ đồng, bằng 48,3% dự toán. Thực hiện đầu tư công đạt khoảng 177.000 tỷ, trong đó giải ngân vốn đến ngày 31/5 đạt trên 157.000 tỷ đồng, bằng 22,22% kế hoạch, tương đương cùng kỳ năm 2022 (22,37%), nhưng số tuyệt đối cao hơn 41 nghìn tỷ đồng
Có 95.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, nhiều hơn số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (88.000 doanh nghiệp).
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký 5 tháng đạt 5,26 tỷ USD, tăng 27,8%; vốn thực hiện ước đạt 7,65 tỷ USD, tuy giảm nhẹ 0,8% so với cùng kỳ năm 2022, nhưng cao hơn cùng kỳ các năm từ 2019 đến 2021 (lần lượt là 7,3, 6,7 và 7,15 tỷ USD).
Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Tỉ lệ hộ đánh giá có thu nhập trong tháng không thay đổi và tăng lên so với cùng kỳ năm trước là 94,8% (tăng 0,4 điểm phần trăm so với kỳ báo cáo tháng 4/2023).
Tuy nhiên, lĩnh vực công nghiệp tiếp tục gặp khó khăn, nhất là điện tử, da giày, dệt may, đồ gỗ; sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn; thu ngân sách có xu hướng giảm; tiếp cận vốn cải thiện nhưng vẫn khó khăn, mặt bằng lãi suất tuy giảm nhưng vẫn cao, nợ xấu có xu hướng tăng; thu hút FDI tiếp tục bị ảnh hưởng; thủ tục hành chính một số lĩnh vực, địa phương, một số cấp, ngành còn rườm rà; lĩnh vực việc làm, lao động gặp nhiều khó khăn, thách thức; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh rất khó lường; một bộ phận cán bộ sợ trách nhiệm, sợ sai, không dám làm, giải quyết công việc…
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh bài học về giữ vững, củng cố và tăng cường đoàn kết, thống nhất, nỗ lực vượt qua khó khăn; giữ vững bản lĩnh vững vàng trong mọi trường hợp; tăng cường kỷ luật kỷ cương hành chính; phản ứng chính sách kịp thời, phù hợp, hiệu quả. Cần dứt khoát chấm dứt tình trạng đùn đẩy trách nhiệm; nêu rõ chính kiến và kiên trì tăng cường phân cấp, phân quyền.
Đánh giá tình hình sắp tới sẽ tiếp tục có khó khăn, thách thức nhiều hơn là cơ hội và thuận lợi, Thủ tướng nêu rõ mục tiêu vẫn phải tiếp tục thực hiện ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn, giữ vững an ninh quốc phòng, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tăng cường đối ngoại, hội nhập quốc tế.
Về nhiệm vụ trọng tâm, Thủ tướng yêu cầu, tiếp tục ưu tiên cho tăng trưởng trong bối cảnh lạm phát đang được kiểm soát và giảm dần, chúng ta đang có dư địa về nợ công, nợ Chính phủ, bội chi. Điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chắc chắn, chủ động, kịp thời, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, hiệu quả với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trong điểm. Tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nhất là nông nghiệp, dịch vụ và mở rộng thị trường cho sản xuất công nghiệp.
Thủ tướng giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ ngành, trong đó Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho du lịch, xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa. | Tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho du lịch, xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa | 1,415 | |
Theo Cục An toàn lao động, từ cuối năm 2022, Văn phòng Chính phủ đã có thông báo về việc Chính phủ đồng ý với đề nghị của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) về việc đề xuất nghỉ lễ Quốc khánh năm 2023 nghỉ lễ Quốc khánh từ ngày 1.9.2023 đến hết ngày 4.9.2023.
Cụ thể, công chức, viên chức nghỉ lễ Quốc khánh năm 2023 từ thứ Sáu ngày 1.9.2023 đến hết thứ Hai ngày 4.9.2023 Dương lịch.
Đợt nghỉ này bao gồm 2 ngày nghỉ lễ Quốc khánh (ngày 1.9 và ngày 2.9), 1 ngày nghỉ hàng tuần và 1 ngày nghỉ bù ngày nghỉ hàng tuần theo quy định của Bộ luật Lao động.
Người lao động không phải là công chức, viên chức, người sử dụng lao động quyết định lựa chọn phương án nghỉ lễ Quốc khánh năm 2023: Người lao động nghỉ thứ Bảy 2.9.2023 và lựa chọn 1 trong 2 ngày: Thứ Sáu ngày 1.9.2023 hoặc Chủ nhật ngày 3.9.2023 Dương lịch. | Công chức, viên chức, người lao động được nghỉ 4 ngày dịp 2.9 | 170 | |
Ảnh minh họa (Nguồn: Báo Nhân dân).
Ngày 5/6/1911, sự kiện Hồ Chí Minh, với tên gọi Văn Ba, rời bến Nhà Rồng tìm đường cứu nước, đã trở thành một dấu mốc và bước ngoặt quan trọng đối với cách mạng và dân tộc Việt Nam. 112 năm đã trôi qua, nhưng hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh vẫn có ý nghĩa lịch sử và giá trị giáo dục to lớn đối với thế hệ người dân Việt Nam.
Hồ Chí Minh
lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lúc đi học tên là Nguyễn Tất Thành, khi tham gia cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước ở xã Kim Liên,
huyện Nam Đàn
,
tỉnh Nghệ An
, nơi có truyền thống yêu nước và cách mạng. Hoàn cảnh gia đình, quê hương, đất nước đã ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn Tất Thành. Thân phụ anh là ông Nguyễn Sinh Sắc, người giỏi Nho học, đỗ Phó bảng, nhưng không chịu hợp tác với Pháp. “Thái độ bất hợp tác, ngầm chống đối thực dân, yêu nước của thân phụ đã ảnh hưởng tốt đến nhân cách của anh” (1). Quãng đời niên thiếu đèn sách, được sự dạy dỗ của thày Vương Thúc Quý, một “sỹ tử Cần Vương” và với tư chất thông minh, Nguyễn Tất Thành được bồi đắp vốn kiến thức Nho học và chịu ảnh hưởng chí hướng yêu nước, thương dân của người cha và thầy dạy. Năm 1904, ở Nghệ Tĩnh, bọn thực dân Pháp bắt phu đắp con đường Cửa Rào đi Trấn Ninh. Do đói khát và làm việc quá nặng nhọc, nhiều người đã phải bỏ xác, gây cảnh tang tóc đau thương. Thảm kịch “Cửa Rào” gây ấn tượng mạnh, khơi dậy niềm thương yêu sâu sắc với đồng bào trong tâm trí Nguyễn Tất Thành. Những năm sau theo cha đi nhiều nơi trong vùng, Nguyễn Tất Thành được chứng kiến cuộc sống khổ cực của người dân, sự áp bức, bóc lột dã man của bọn thực dân, phong kiến, đã hình thành ở anh lòng yêu nước, thương dân, căm thù giặc sâu sắc. “Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ, anh đã có chí đuổi thực dân, giải phóng đồng bào” (2). Cái nôi gia đình, quê hương đã hun đúc cho Nguyễn Tất Thành sớm có tinh thần yêu nước, căm thù giặc và ý chí đánh đuổi bọn thực dân.
Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế, học ở Trường Tiểu học Pháp – Việt Đông Ba, năm sau vào học Trường Quốc học Huế. Tại đây, anh có điều kiện bổ sung vốn kiến thức Nho học, văn hóa phương Đông, tiếp thu văn hóa phương Tây. Vốn văn hóa đó giúp anh có khả năng suy xét và hoạt động có tư duy. Vào những năm này, ở Kinh thành Huế như một dòng nước xoáy, cuốn hút mọi tầng lớp tham gia hưởng ứng các phong trào yêu nước. Năm 1908, ở Huế và Trung Kỳ bùng nổ phong trào kháng thuế rầm rộ. Nguyễn Tất Thành cùng số đông học sinh Trường Quốc học tích cực tham gia phong trào, nhưng phong trào bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Thất bại của phong trào chống thuế ở Huế cũng như ở Trung Kỳ cùng các phong trào yêu nước chống Pháp đầu thế kỷ XX, làm cho Nguyễn Tất Thành nhận rõ hơn bản chất dã man của bọn thực dân và cũng làm cho anh sớm thấy được sức mạnh đấu tranh của quần chúng khi được tổ chức.
Việt Nam là cộng đồng quốc gia dân tộc hình thành sớm, quần tụ trên mảnh đất có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã xây đắp nên nền văn hiến lâu đời, có truyền thống chống giặc ngoại xâm, đã hun đúc nên những truyền thống tốt đẹp, đặc biệt là truyền thống yêu nước. Vào giữa thế kỷ thứ XIX, đế quốc Pháp đánh chiếm nước ta, biến nước ta từ một nước phong kiến thành một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Trước hành động xâm lược của kẻ thù, triều đình phong kiến nhà Nguyễn từng bước dâng nước ta cho Pháp. Mặc dù vậy, các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta liên tiếp nổ ra, từ các cuộc khởi nghĩa Bình Tây ở lục tỉnh Nam Kỳ, đến các phong trào Cần Vương, Văn Thân của các sĩ phu yêu nước, rồi đến phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can, cải cách dân chủ của Phan Châu Trinh cho đến cuộc nổi dậy của Hoàng Hoa Thám và các cuộc khởi nghĩa sau đó nhưng đều bị đàn áp đẫm máu và lần lượt bị thất bại. Đến đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống Pháp ở nước ta rơi vào bế tắc, “tình hình đen tối như không có đường ra”.
Từ các sự kiện trên, Nguyễn Tất Thành suy nghĩ, cân nhắc chọn cho mình con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Anh khâm phục các cụ Trương Công Định, Nguyễn Hữu Huân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu…, nhưng không hoàn toàn tán thành phương hướng và cách làm của các cụ. Vì vậy, anh chọn cho mình hướng đi mới, đó là tìm cách ra nước ngoài để tìm hiểu cho rõ. Quyết định này về sau Người có nói: “Nhân dân Việt Nam, trong đó có cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác lại nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thì thấy phải đi ra nước ngoài để xem cho rõ” (3). Như vậy, quyết định ban đầu của Nguyễn Tất Thành là có mục đích và có định hướng. Với ý định đó, sau khi rời Huế vào Phan Thiết dạy học một thời gian, đầu năm 1911, anh vào Sài Gòn chuẩn bị rời Tổ quốc ra đi tìm chân lý cách mạng. Cần nói thêm rằng, trước Nguyễn Tất Thành đã có nhiều sĩ phu xuất dương đến một số nước phương Đông để cầu ngoại viện đánh đuổi thực dân Pháp. Với tư duy sắc sảo, anh sớm nhìn ra hướng đi và cách làm sai lầm ấy của họ. Vì thế, Người chọn cho mình hướng đi về phương Tây, mà trước hết là nước Pháp, nơi có trào lưu tư tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”, nhưng cũng là nước đang thống trị dân tộc ta, để tìm ra con đường và phương hướng cứu nước đúng đắn, chứ không phải để cầu ngoại viện. Quyết định này, về sau Người có nói: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau những chữ ấy… Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài” (4). Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam được Nguyễn Tất Thành hấp thụ từ những năm tháng ở quê hương, đất nước. Khát vọng cứu nước, giải phóng dân tộc thôi thúc anh ra nước ngoài tìm đường cứu dân, cứu nước.
Trong lúc đất nước đang cơn khủng hoảng, thế giới bắt đầu bước vào thời kỳ sôi động, ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành, với tên gọi Văn Ba, từ bến cảng Nhà Rồng rời Tổ quốc thân yêu ra đi tìm chân lý cách mạng. Hành trang của Người không có gì ngoài tấm lòng yêu nước, đôi bàn tay lao động và ý chí quyết tâm tìm ra con đường cứu dân, cứu nước. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng, là bước mở đầu cho cách mạng Việt Nam chuẩn bị đi vào con đường cách mạng vô sản, nhịp bước với thời đại, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân một cách hữu cơ từ trong bản chất giai cấp và tinh thần đấu tranh vì lợi ích dân tộc và của toàn nhân loại.
Xuống tàu vượt trùng dương, Nguyễn Tất Thành chấp nhận cuộc sống của người lao động làm thuê. Đối với anh, đó chỉ là phương tiện nhằm thực hiện mục đích đã đặt ra. Động cơ thúc đẩy Người ra đi là tìm một giải pháp mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, trước hết là nước Pháp, nước có cuộc Cách mạng 1789 và Công xã Pari điển hình, nhưng cũng là nước đẻ ra chế độ thực dân đang thống trị Tổ quốc của anh. Đó là mục tiêu trực tiếp của chặng đầu cuộc hành trình của Nguyễn Tất Thành. Muốn “trở về giúp đồng bào” thì trước hết phải hiểu thật kỹ kẻ thù áp bức dân tộc mình, nhất là trên mảnh đất đã sản sinh ra nó, đồng thời phải tìm ra con đường cứu nước, cứu dân đúng đắn theo đường hướng mới. Sự khác biệt giữa Nguyễn Tất Thành với những người ra nước ngoài hồi ấy là ở chỗ đó.
Trong cuộc hành trình này, Nguyễn Tất Thành có điều kiện ghé qua các châu lục, được tiếp xúc ngay với công nhân, những người lao động ở những nơi đi qua. Đến đâu, Người cũng thấy hai cảnh tượng trái ngược nhau, một bên là cuộc sống khổ cực của người dân, một bên là cuộc sống xa hoa của bọn đế quốc, thực dân. Bước đầu, Người hiểu được đời sống giai cấp công nhân, nhân dân lao động, và xác định chỗ đứng của Người trong giai cấp cần lao.
Đặc biệt, trong cuộc khảo sát có một không hai này, Nguyễn Tất Thành dừng chân lâu ở 3 nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh, Pháp; có điều kiện tìm hiểu, nghiên cứu cuộc Cách mạng Mỹ năm 1776, cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước chống chủ nghĩa thực dân. Từ đó, Người rút ra những nhận xét chính xác, như sau đó không lâu, Người viết trong tác phẩm Đường cách mệnh, rằng Cách mạng Mỹ và Cách mạng Pháp tuy nêu cao khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”, nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng, bác ái thật sự, tiếng là cộng hòa, dân chủ, nhưng thực chất là tước đoạt quyền lợi của công nông trong nước và bên ngoài thì áp bức các dân tộc thuộc địa. Tuy Người khâm phục ý chí giành độc lập, tư do của nhân dân Mỹ, tinh thần đấu tranh của nhân dân Pháp, nhưng Người cho rằng, đó “đều là cách mệnh tư sản, cách mệnh không đến nơi”. Đồng thời, Người còn cho rằng, việc giải phóng các dân tộc bị áp bức không thể đi theo con đường của cách mạng Mỹ và Pháp, mà phải đi theo con đường khác. Nhận xét đó xuất phát từ tinh thần yêu nước và lập trường giai cấp vô sản.
Thực tiễn khảo sát khắp các châu lục trong thập niên thứ hai của thế kỷ XX, Nguyễn Tất Thành đã đặt mình vào chỗ đứng của giai cấp cần lao chiếm số đông ở khắp trên thế giới, đồng thời cũng thấy rõ bộ mặt thật của số ít bọn người bóc lột tập trung ở các nước đế quốc. Từ đó, Người rút ra những kết luận quan trọng: Ở đâu bọn đế quốc cũng dã man, tàn bạo, ở đâu giai cấp công nhân, những người lao động cũng bị áp bức, bóc lột nặng nề, để vào năm 1924, Người đã viết: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” (5). Cũng từ thực tiễn đó đã bồi đắp quan điểm nhân văn, ý thức về sự cần thiết phải đoàn kết những người bị áp bức trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đến đây, Người đã xác định rõ ràng được rằng, sự áp bức giai cấp, áp bức dân tộc có chung một nguồn gốc là chủ nghĩa đế quốc, thực dân, các dân tộc bị áp bức phải đoàn kết đứng lên đấu tranh mới có thể giành được thắng lợi trong công cuộc giải phóng.
Nguyễn Tất Thành là người muốn độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Dịp tốt đã đến, tháng 1/1919, Hội nghị “Hòa bình” họp ở Vécxay, Nguyễn Tất Thành theo dõi diễn biến của Hội nghị, đồng thời anh quyết định thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi Bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm đến Hội nghị đòi tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam và ký tên Nguyễn Ái Quốc. Bản Yêu sách đăng trên báo L’Humanité và một số báo khác. Lần đầu tiên, vấn đề tự do, dân chủ của nhân dân Việt Nam được đặt ra với một hội nghị quốc tế. Nhưng Hội nghị Vécxay là nơi bọn đế quốc chia nhau khu vực ảnh hưởng và quyền lợi sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, nên Bản Yêu sách cùng các kiến nghị không được đề cập đến. Được thực tế ấy rèn luyện, Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận: Những lời tuyên bố của bọn đế quốc về quyền tự quyết cho các dân tộc chỉ là trò bịp lớn. Tuy nhiên, Bản Yêu sách và tên tuổi Nguyễn Ái Quốc gây tiếng vang lớn trong nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và bạn bè quốc tế. Việc làm trên chứng tỏ Nguyễn Ái Quốc thực sự bước vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Cuộc hành trình từ Á sang Âu, từ Phi qua Mỹ trong gần 10 năm khắp các châu lục đã để lại cho người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc biết bao suy tư, trăn trở, đồng thời cũng giúp Người quan sát, tìm hiểu, rút ra những kết luận cần thiết cho cho công cuộc giải phóng dân tộc và bổ sung những hiểu biết phong phú với tầm nhìn rộng lớn về các dân tộc thuộc địa, về chủ nghĩa thực dân, đế quốc, như Người đã kết luận: “Tất cả bọn đế quốc, thực dân đều tàn bạo”. Đây là những nhận thức có tính chất nền tảng trong việc xác định đối tượng của cách mạng giải phóng dân tộc, để sau đó không lâu Người viết bản luận tội đanh thép Bản án chế độ thực dân Pháp.
Gia nhập đội quân vô sản quốc tế, hòa mình vào cuộc sống của những người lao động thuộc mọi màu da, Nguyễn Ái Quốc đã hiểu biết sâu sắc đời sống, tình cảm, năng lực, phẩm chất của họ và cũng thấy rõ sự bóc lột, thống trị tàn bạo của bọn đế quốc, thực dân; đồng thời cũng đã tạo cho Người gần gũi, yêu thương, đồng cảm với những dân tộc cùng cảnh ngộ với dân tộc Việt Nam. Người đau khổ thấy họ bị bọn đế quốc, thực dân đối xử như những “con vật châu Á” hay những “con vật da màu”. Hòa mình vào cuộc sống lao động và đấu tranh của giai cấp cần lao đã làm nảy nở ở Người sự đồng cảm, yêu thương sâu sắc, tình đoàn kết bền chặt với những người bị áp bức. Trên thực tế, Người đã gặp bạn đồng minh. Đó là bước tích lũy về lượng trong nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về lập trường giai cấp, về xác định kẻ thù, về bạn đồng minh. Thực tiễn hoạt động trong phong trào công nhân quốc tế là nhân tố quan trọng hình thành con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Những năm tháng sống ở Thủ đô Pari của nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong phong trào công nhân và Đảng Xã hội Pháp. Tuy nhiên, như sau này Người nói: “Tôi biết rất ít về các vấn đề chính trị, nhưng tôi muốn Tổ quốc tôi được giải phóng… Vì vậy, tôi tham gia Đảng Xã hội. Tôi biết rất ít về Cách mạng Tháng Mười và về Lênin; về cảm tính tôi thấy mình có mối tình đoàn kết với cuộc Cách mạng Nga và người lãnh đạo cuộc cách mạng ấy” (6). Khi ở Pari, Người được biết tin cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga đã nổ ra, nhưng do bọn đế quốc bưng bít tin tức, cho nên cũng như những người bạn Pháp, Người chưa biết rõ và cũng chưa hiểu hết được ý nghĩa thời đại của cuộc cách mạng ấy. Tình trạng đó được V.I. Lênin chỉ rõ: “Ở nước ngoài, người ta biết rất ít, ít đến kinh khủng, ít đến nực cười về cuộc cách mạng của chúng ta. Ở đấy, chế độ kiểm duyệt quân sự không cho một tý gì lọt qua cả” (7). Nhưng với sự nhạy bén chính trị và nhiệt tình cách mạng, Nguyễn Ái Quốc biết đó là cuộc cách mạng tiến bộ và Người có ý định đi Nga. Người ủng hộ Cách mạng Tháng Mười bằng việc tham gia cuộc vận động nhân dân Pháp quyên góp giúp đỡ nhân dân Nga vượt qua nạn đói, phân phát lời hiệu triệu của Đảng Xã hội Pháp kêu gọi nhân dân Pháp chống lại cuộc can thiệp vũ trang của các nước đế quốc vào nước Nga Xô viết. Tham gia vào những hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc tìm thấy vũ khí sắc bén để đấu tranh, đó là viết bài đăng báo. Những bài báo đầu tiên của Người đăng trên báo L’Humanité, Le Paria, Le Populaire và một số báo khác, đều tập trung vào việc lên án chủ nghĩa thực dân, thực trạng bị áp bức, bóc lột ở các nước thuộc địa, phụ thuộc. Thông qua những hoạt động thực tiễn ấy mà nhận thức “cảm tính” của Nguyễn Ái Quốc về Cách mạng Tháng Mười, về nước Nga Xô viết và về Lênin ngày càng được củng cố, nâng cao.
Tháng 3/1919, Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản) do Lênin tổ chức, tuyên bố thành lập. Từ sau sự kiện đó, trong Đảng Xã hội Pháp diễn ra cuộc đấu tranh ngày càng gay gắt giữa những người cách mạng ủng hộ đường lối của Quốc tế III và những kẻ bảo vệ Quốc tế II đang bị bọn cơ hội lũng đoạn. Ban lãnh đạo của Đảng Xã hội Pháp chủ yếu nằm trong tay bọn cơ hội, chi phối tư tưởng và thái độ chính trị của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các đảng viên Đảng Xã hội, làm hạn chế ảnh hưởng của Quốc tế III đối với phong trào cách mạng Pháp. Tuy nhiên, xu hướng cộng sản, ủng hộ đường lối của Quốc tế III vẫn hình thành và phát triển. Tháng 4/1919, Đại hội bất thường của Đảng Xã hội Pháp họp ở Pari, những người ủng hộ Quốc tế III đề nghị Đại hội thảo luận và quyết định Đảng chính thức tham gia Quốc tế III. Nhưng đề nghị không được chấp nhận do sự phản ứng quyết liệt của bọn cơ hội trong Đảng. Đến tháng 2/1920, Đại hội lần thứ XVII Đảng Xã hội Pháp họp ở Xtrátxbua, khi bỏ phiếu quyết định rút ra khỏi Quốc tế II, có đa số phiếu thuận, thiểu số phiếu chống. Khi bỏ phiếu tham gia Quốc tế III thì thiểu số phiếu thuận, đa số phiếu chống. Tình hình đó phản ánh sự đấu tranh gay gắt trong Đảng Xã hội Pháp giữa lập trường của Quốc tế III và Quốc tế II, đồng thời lôi cuốn sự chú ý theo dõi của đông đảo nhân dân Pháp.
Diễn biến của các cuộc đấu tranh trên đây tác động đến Nguyễn Ái Quốc. Tuy chưa hiểu hết thực chất các sự kiện trước những sự biến chính trị, Người cũng tham gia vào cuộc đấu tranh theo quan điểm và nhận thức của mình. Hầu hết trong các buổi mít tinh, thảo luận, Người đều phát biểu và khéo lái những vấn đề đang thảo luận sang vấn đề dân tộc và thuộc địa. Vì như Người nói: “Trong các cuộc bàn cãi, người ta rất ít nói đến sự đoàn kết với các dân tộc thuộc địa. Nhưng đó lại là vấn đề mà tôi quan tâm hơn hết”. Mặc dù “nhức đầu vì khó hiểu”, nhưng trong các buổi sinh hoạt Đảng Xã hội, Người đều nêu câu hỏi: “Ai khẳng định rõ ràng là mình đoàn kết với các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân áp bức? thì người ta trả lời: Quốc tế III” (8). Điều băn khoăn, trăn trở và quan tâm hơn cả bấy lâu nay của Người đã được giải đáp, đó là “phải đoàn kết với các dân tộc thuộc địa”. Sau khi được biết Quốc tế III ủng hộ và đoàn kết với các dân tộc thuộc địa và nhất là được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo L’Humanité ngày 16 và ngày 17/7/1920, lần đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc nhận biết một tổ chức quốc tế ủng hộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân áp bức và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn. Bởi vì, Luận cương của Lênin đã giải quyết trọn vẹn một vấn đề rất cơ bản mà Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm là vấn đề dân tộc và thuộc địa được đặt trong mối quan hệ quốc tế, chỉ ra con đường giải phóng các dân tộc thuộc địa. Luận cương tạo ra bước chuyển biến căn bản trong nhận thức tư tưởng về vấn đề bạn đồng minh, về xác định kẻ thù, giúp Người đi đến khẳng định: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, con đường cách mạng vô sản”.
Sự kiện chính trị quan trọng thu hút sự quan tâm chú ý của Nguyễn Ái Quốc là Đại hội lần thứ II của Quốc tế III. Theo dõi các văn kiện của Đại hội, Người tâm đắc với 21 điều kiện kết nạp vào Quốc tế III, đặc biệt là điều thứ 8, rằng: “Vấn đề thuộc địa và dân tộc bị áp bức, thì các đảng trong các nước mà giai cấp tư sản có thuộc địa và áp bức các dân tộc khác phải có một đường lối đặc biệt rõ ràng, minh bạch. Đảng nào muốn gia nhập Quốc tế III đều buộc phải thẳng tay vạch mặt những thủ đoạn xảo trá của bọn đế quốc nước mình trong các thuộc địa, ủng hộ trên thực tế, chứ không phải bằng lời nói mọi phong trào giải phóng ở thuộc địa” (9). Điều đó tạo niềm tin của Nguyễn Ái Quốc vào Lênin, vào Quốc tế III, và biểu thị thái độ chính trị và quan hệ xã hội đúng đắn trong cuộc đấu tranh cách mạng hóa Đảng Xã hội Pháp.
Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc đại diện của Đông Dương, đồng thời là đại biểu duy nhất phát biểu về vấn đề thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội, với những lời xúc động sâu sắc, sau khi lên án chế độ thống trị tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông Dương, Người yêu cầu Đảng phải đoàn kết, ủng hộ cách mạng thuộc địa, rằng: “Tôi đến đây là để cùng với các đồng chí góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới… Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa”. Lời phát biểu ngắn gọn của Người đã quán triệt tư tưởng chiến lược của Lênin về quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Khi Đại hội biểu quyết, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III và tham gia quá trình thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Quyết định sáng suốt đó của Nguyễn Ái Quốc phù hợp với trào lưu phát triển của lịch sử nhân loại, là sự kiện có ý nghĩa to lớn. Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới hiện đại, một đại biểu của dân tộc Việt Nam tham gia sáng lập đội tiền phong của giai cấp công nhân ở một nước đế quốc lớn đang áp bức dân tộc mình. Bằng việc làm đó, Nguyễn Ái Quốc nêu cao ngọn cờ đoàn kết quốc tế và ngọn cờ giải phóng dân tộc.
Được Luận cương của V.I. Lênin và đường lối của Quốc tế III soi sáng, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong phong trào công nhân và Đảng Cộng sản Pháp, sau đó, công tác tại Quốc tế III trên đất nước Liên Xô. Đến đây, ở Người, về cơ bản hình thành hệ thống luận điểm có tính lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản; về chủ nghĩa thực dân, đế quốc; về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc; về khả năng thắng lợi trước của cách mạng thuộc địa; về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong cách mạng; về chủ nghĩa xã hội, v.v.. Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và Quốc tế III, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam đi vào quỹ đạo của cách mạng xã hội chủ nghĩa và có ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại.
—————–
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh: Bác Hồ thời niên thiếu, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1981, tr.51.
2. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.13.
3. A. Lui Stơrông: Ba lần nói chuyện với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo Nhân Dân, ngày 19-5-1965.
4, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.46, 287.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.583.
7. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.36, tr.636.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.584.
9. Hồng Hà: Thời thanh niên của Bác Hồ, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1976, tr.98. | Nhớ về 112 năm hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh | 4,644 | |
Một lõi đá được lấy lên từ mũi sâu xuống sông băng Ngày Tận Thế (Thwaites) của Nam Cực đã đem đến cho nhân loại một tin rất tốt và một tin rất xấu.
Sông băng Ngày Tận Thế từ lâu được chứng minh là ảnh hưởng sâu sắc tới nhân loại, nhất là các quốc gia giáp biển, vì sự tan chảy của nó đủ nhấn chìm nhiều thành thị, làng mạc. Nhưng nó có thể tan chảy đến đâu và có cơ hội phục hồi hay không luôn là câu hỏi lớn.
Nhóm nhà khoa học từ Tổ chức hợp tác quốc tế sông băng Ngày Tận Thế (ITGC) đã quyết định tìm hiểu điều đó qua một lõi đá mang dữ liệu hàng ngàn năm địa chất, được lấy bằng cách khoan sâu xuống băng.
Trại dã chiến của nhóm nghiên cứu trên sông băng Ngày Tận Thế – Ảnh: TRUNG TÂM ĐỊA THỜI HỌC BERKELEY.
Theo bài công bố trên tạp chí
The Cryophere
, sông băng Ngày Tận Thế có khả năng biến đổi vượt xa tưởng tượng của nhân loại ngày nay.
Chỉ 5.000 năm trước, nó mỏng hơn hiện tại đến 35 m. Rồi trong khoảng 3.000 năm, nó dần dần tự phục hồi và đạt được độ dày như hiện nay.
Điều này đem đến một tin rất xấu: Sông băng có khả năng tan chảy rất cao khi nhiệt độ tăng cao.
Với hàng chục mét băng mất đi, sông băng Ngày Tận Thế đủ gây ra “ngày tận thế” thật sự cho nhiều vùng sinh sống ven biển do làm mực nước biển tăng vọt, ảnh hưởng đến môi trường đại dương xung quanh, các dòng hải lưu, sinh vật dưới nước; trực tiếp hay gián tiếp tác động đến con người trên nhiều mặt.
Đó là điều đang chực chờ xảy ra, trong bối cảnh sự nóng lên toàn cầu do các hoạt động của con người đang khiến băng hà khắp thế giới tan chảy.
Tuy nhiên, kết quả cũng kèm một tin tốt, theo
SciTech Daily,
đó là khả năng phục hồi tự nhiên của sông băng này cũng ngoạn mục như cách nó có thể bị phá hủy.
Nhưng, thách thức lớn nhất vẫn là tìm hiểu cách mà điều này có thể được đảo ngược. Nó không đơn giản là việc làm cho khí hậu mát hơn.
“Nhìn bề ngoài, những kết quả này có thể là một tin tốt – sông băng Ngày Tận Thế có thể tái sinh từ một cấu hình nhỏ hơn trong quá khứ gần. Tuy nhiên, tiến trình này cần đến 3.000 năm” –
SciTech Daily
dẫn lời nhà địa chất Joanne Johnson, Cơ quan Khảo sát Nam cực của Anh (BAS), người cộng tác với ITGC, đồng tác giả nghiên cứu.
Theo TS Johnson, đó là một thách thức trong điều kiện khí hậu ấm như chúng ta dự đoán trong các thế kẻ tới. “Khoảng thời gian đó dài hơn những gì cũng ta có thể chờ đợi” – ông nói thêm. | Khoan sông băng Ngày Tận Thế, lộ ‘bí mật ớn lạnh’ 5.000 năm trước | 497 | |
Theo thông báo của Cơ quan Vũ trụ có người lái Trung Quốc (CMSA), 3 phi hành gia đã trở về trong tình trạng sức khỏe tốt, theo đó xác nhận sự thành công của sứ mệnh Thần Châu-15.
Nhà du hành Phí Tuấn Long, phi hành đoàn tàu Thần Châu-15, trở về Trái Đất ngày 4/6. (Ảnh: THX/TTXVN).
Sáng 4/6, phi hành đoàn tàu Thần Châu-15 của
Trung Quốc
đã quay trở về Trái Đất sau 6 tháng sống và làm việc trên trạm vũ trụ Thiên Cung của nước này.
Vào lúc 6h33 sáng 4/6 (giờ địa phương, tức 5h33 sáng cùng ngày giờ Việt Nam), khoang trở về của tàu vũ trụ có người lái Thần Châu-15 mang theo phi hành đoàn gồm 3 người, đã hạ cánh an toàn xuống bãi đáp Đông Phong ở sa mạc Gobi thuộc Khu tự trị Nội Mông, miền Bắc Trung Quốc.
Theo thông báo của Cơ quan Vũ trụ có người lái Trung Quốc (CMSA), 3 phi hành gia đã trở về trong tình trạng sức khỏe tốt, theo đó xác nhận sự thành công của sứ mệnh Thần Châu-15.
Phát biểu sau khi hạ cánh, chỉ huy sứ mệnh Thần Châu-15, nhà du hành Phí Tuấn Long tuyên bố: “Tổ bay Thần Châu-15 chúng tôi đã hoàn thành mọi công việc và nhiệm vụ trên quỹ đạo, nay đã trở về đất mẹ thuận lợi.”
Đây là phi hành đoàn lớn tuổi nhất trong các sứ mệnh bay vào không gian của Trung Quốc, với độ tuổi trung bình là 53.
Trong 187 ngày trên quỹ đạo, bộ 3 nhà du hành đã thực hiện 4 chuyến đi bộ ngoài không gian (nhiều nhất trong các sứ mệnh vũ trụ của nước này từ trước đến nay), cùng hàng chục thí nghiệm y tế và thử nghiệm khoa học vũ trụ, đặt nền móng cho các thí nghiệm khoa học ngoài không gian quy mô lớn trong tương lai.
Thần Châu-15 là sứ mệnh bay vào vũ trụ thứ 10 của người Trung Quốc và cũng là sứ mệnh có người lái thứ 4 kể từ khi nước này bước vào giai đoạn xây dựng trạm vũ trụ.
Thành công của sứ mệnh này đánh dấu việc Trung Quốc đã hoàn thành toàn bộ 12 nhiệm vụ phóng trong giai đoạn xây dựng và xác minh công nghệ chính của trạm vũ trụ.
Thay thế phi hành đoàn Thần Châu-15 tiếp quản các công việc trên trạm vũ trụ Thiên Cung là phi hành đoàn Thần Châu-16, đã được đưa lên quỹ đạo vào ngày 30/5.
Hai phi hành đoàn đã có thời gian bàn giao công việc trong khoảng 4 ngày trước khi Thần Châu-15 trở về Trái Đất.
Đáng chú ý, đây là lần đầu tiên Trung Quốc đưa một phi hành gia dân sự lên Thiên Cung, đó là anh Quế Hải Triều (36 tuổi), Giáo sư thuộc Đại học Hàng không Vũ trụ Bắc Kinh. Anh Quế Hải Triều có nhiệm vụ tiến hành những thí nghiệm quy mô lớn trên quỹ đạo.
Theo CMSA, sẽ mất khoảng 6 tháng để các phi hành gia vừa trở về lấy lại tình trạng thể chất bình thường và gần 2 năm sau đó, họ mới có thể thực hiện sứ mệnh không gian khác.
Trung Quốc đã tận dụng tối đa các sứ mệnh du hành liên quan dự án xây dựng Trạm Vũ trụ Thiên Cung của nước này để triển khai các thí nghiệm nhân giống trong không gian.
Hai tàu vũ trụ Thần Châu-14 và Thần Châu-15 đã đưa hơn 1.300 hạt giống cây trồng và các chủng vi sinh vật từ 112 đối tác, bao gồm các trường đại học, viện nghiên cứu và trạm nhân giống của Trung Quốc, vào không gian để tiến hành thí nghiệm nhân giống trên trạm trạm vũ trụ.
Trong số các loại hạt giống nói trên có những loại lương thực chính như gạo, lúa mỳ và khoai tây, các loại trái cây và rau phổ biến, cỏ làm thức ăn gia súc và các thảo dược được sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc.
Ngoài ra, nhiều loại vi khuẩn có lợi cho sức khỏe cũng có tên trong danh sách thử nghiệm.
Việc nhân giống trong không gian có nghĩa là phơi bày các hạt giống và các chủng vi sinh vật trước bức xạ vũ trụ và vi trọng lực trong một sứ mệnh du hành vũ trụ nhằm biến đổi gene của chúng.
Trong thời gian từ ngày 29/7-25/11/2022, các nhà khoa học Trung Quốc cũng đã hoàn tất các thí nghiệm về tăng trưởng vòng đời 120 ngày của cây lúa trên trạm vũ trụ.
Đây là lần đầu tiên trên thế giới một thí nghiệm kiểu này được triển khai./. | Phi hành đoàn Thần Châu-15 của Trung Quốc đã trở về Trái Đất | 792 | |
Là người có tài văn học, giỏi việc kinh bang tế thế và cả việc cầm quân ra trận, Nguyễn Cư Trinh đã nhuần nhị kết hợp 3 khả năng đó mà làm nên một sự nghiệp lừng lẫy ở phương Nam giữa thế kỷ XVIII: Vừa mở đất và giữ đất vừa làm đẹp cho đất.
Nguyễn Cư Trinh
sinh năm 1716 ở xã An Hòa, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa – nay là phường An Hòa,
TP Huế
,
tỉnh Thừa Thiên – Huế
.
Năm 1750, Nguyễn Cư Trinh được cắt cử làm chức Tuần phủ Quảng Ngãi. Nhiệm vụ chính của ông là trấn dẹp cuộc nổi dậy của người dân tộc thiểu số ở địa phương này chống lại triều đình các chúa Nguyễn, mà sử sách bấy giờ gọi là “mọi Đá Vách”.
Hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ dẹp loạn – không chỉ đánh giết mà còn bằng nhiều biện pháp nhân văn như: chiêu dụ, an sinh… – Nguyễn Cư Trinh được đánh giá cao trong thời gian làm quan chức đứng đầu đất Quảng Ngãi. Ông đã khéo kết hợp chức trách của người làm quan với bản lĩnh thi nhân của mình, sáng tạo nhiều tác phẩm văn chương vừa có giá trị nghệ thuật vừa có tính thời sự bằng chữ Nôm, như: “Quảng Ngãi thập nhị vịnh” (12 bài thơ vịnh cảnh Quảng Ngãi), đặc biệt là truyện “Sãi Vãi”.
“Sãi Vãi” được sáng tác trong phong trào dùng chữ Nôm viết truyện thơ đang thịnh hành trên khắp đất nước ở thế kỷ XVIII, đồng thời ứng dụng thể loại văn chương được ưa chuộng ở Xứ Đàng Trong lúc bấy giờ là “văn hát tuồng đồ”. Tác phẩm này đã giúp Nguyễn Cư Trinh ra quân thuận lợi, khi kích thích được tinh thần quân sĩ dưới cờ và cả đông đảo sĩ phu, quan chức, thức giả xung quanh. “Sãi Vãi” còn giúp ông có được một chỗ đứng đáng nể trọng trên văn đàn và lịch sử văn hóa – văn học ở phương Nam, đương thời và cả sau đó.
Không có cốt truyện và cấu trúc theo lớp lang, chỉ có 2 nhân vật là ông Sãi và bà Vãi cùng với cuộc đối thoại của họ, vậy mà Nguyễn Cư Trinh đã tạo nên được một bức tranh văn học về toàn cảnh xã hội phương Nam lúc bấy giờ. Ông còn gửi gắm vào đấy ý chí và tư tưởng của mình.
Tên của danh tướng Nguyễn Cư Trinh được sử dụng đặt cho một con đường và trường học ở TP HCM.(Ảnh: TẤN THẠNH).
Qua nhân vật ông Sãi và những lời thoại của ông, người ta thấy đó là sự hóa thân của chính Nguyễn Cư Trinh – một nhà Nho chân chính, trung quân, ái quốc, vị dân, theo đúng khuôn phép mà chúa Nguyễn Phúc Chu khởi xướng lúc ấy là “Cư Nho mộ Phật”. Còn nhân vật bà Vãi và những lời thoại của bà lại là hình ảnh của xu thế xã hội đương thời: Tu hành đấy nhưng còn vương vấn khá nhiều tục lụy “thất tình” – hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục.
Vì thế, những lời thơ mang sứ mệnh chấn chỉnh việc tu hành, cũng như hoạt động xã hội của “ông Sãi Nguyễn Cư Trinh” được nhớ mãi:
Một lời nói, phải nhân phải đạo, ấy là tu ngôn/ Một việc làm, chẳng hại chẳng tham, ấy là tu hạnh/ Lấy “nhân” mà tu tánh, lấy “đức” mà tu thân/ Tu minh đức để mà tân dân/ Tu tề gia để mà trị quốc/ Ấy là trong hiền đức, tu cho phải đạo tu.
Cùng với đó là lời đinh ninh son sắt của Nguyễn Cư Trinh:
Đạo tu lòng chẳng trễ, công mài sắt ắt nên/ Mặc ai xao lãng lòng thiền/ Đạo ta, ta giữ cho bền thì thôi.
Từ năm 1753, Nguyễn Cư Trinh được phái vào Gia Định, chủ trương việc đối phó với Chân Lạp. Khi ấy, Chân Lạp đang vừa lục đục nội bộ vừa gây hấn ở đất phương Nam của nước Việt.
Hơn 10 năm gánh vác sự nghiệp tiếp tục mở đất và giữ đất phương Nam, bằng những hành động và tư tưởng chiến lược sáng tạo độc đáo như chủ trương “Tàm thực” (Tằm ăn lá dâu), “Dĩ địch chế địch” (để cho đối phương chế ngự lẫn nhau)…, Nguyễn Cư Trinh là người cuối cùng hoàn tất sự nghiệp Nam tiến – mở đất phương Nam của dân tộc vào năm 1757. Đất phương Nam được đưa vào bản đồ Xứ Đàng Trong – nước Đại Việt, miền đất ở mạn trên giữa sông Tiền và sông Hậu, mà sử sách lúc bấy giờ gọi bằng tên Tầm Phong Long.
Trong quá trình hoàn tất sự nghiệp kỳ vĩ ấy, Nguyễn Cư Trinh có nhiều dịp liên hệ với Mạc Thiên Tích – Tổng binh miền Hà Tiên, đồng thời là Minh chủ của Tao đàn Chiêu Anh Các. Nhanh chóng trở nên thân thiết, mối tình bằng hữu đã kết nối hai người vào chung sự nghiệp văn hóa, văn chương.
Kết quả đẹp đẽ là thêm 10 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Cư Trinh ra đời, họa lại 10 thi phẩm “Hà Tiên thập cảnh” của Mạc Thiên Tích. 10 bài thơ này chẳng những làm giàu cho tập sách thơ đã sẵn hơn 300 bài của Chiêu Anh Các mà còn làm cho kho tàng tác phẩm thi ca của Nguyễn Cư Trinh càng thêm phong phú, giá trị.
Chúng ta cùng nghe lại những tiếng chuông ngân nga trong thi phẩm Nguyễn Cư Trinh họa lại bài “Tiêu tự thần chung” của Mạc Thiên Tích (dịch):
Gió sớm lạnh lùng hạt móc sa / Đầu cành lướt nhẹ tiếng ngân nga/ Chuông gào bãi biển chòm sao lặn/ Mõ giục rừng sâu mảnh nguyệt tà…
Chúng ta cũng hãy nghe thêm những tiếng chuông này nữa, ở bài họa lại thi phẩm “Sơn tự mộ chung” (dịch):
Chùa Cao trong khói tiếng chày kình/ Văng vẳng lan xa tận bờ xanh/ Tiếng vọng lưng trời sương đêm loãng/ Ngân vang giữa mộng khách hồn kinh…
Tuy nhiên, ngay bên cạnh những tiếng thơ trong trẻo như thế, vẫn còn một dòng thơ Nguyễn Cư Trinh nặng lòng vì thế sự suy thoái và phiền muộn vì nỗi gian truân chinh chiến, như ở bài “Tái thượng ngâm”:
Quan tái thê phong xuy quyện mã/ Trường An phiến nguyện dữ cô thần.
(Gió lạnh biên cương xoáy vào đàn ngựa mệt mỏi/ Mảnh trăng kinh thành dõi theo bề tôi cô đơn).
Cũng như ở bài “Long Hồ đại phong ký hoài”:
Thế sự vinh khô nại nhược hà?
(Việc đời tươi héo như thế sao?)
Tác phẩm văn xuôi tiêu biểu của Nguyễn Cư Trinh mà nhà bác học Lê Quý Đôn đánh giá rằng “Muốn bàn nói điều hay lẽ phải nhưng đều không được theo” là bức thư dâng lên chúa Nguyễn Phúc Khoát vào năm Tân Mùi – 1751.
Có 3 mệnh đề lý luận và thực tiễn đã được gắn quyện vào nhau trong bức thư này. Thứ nhất, dân là gốc của nước, phải hết sức trọng dân. Thứ hai, trong dân gian luôn có biến động, không thể quan liêu và biếng nhác mà không theo dõi ứng phó. Thứ ba, là lời cảnh báo nghiêm khắc, cụ thể về nguy cơ thất bại, sụp đổ, nếu không chú ý đến 2 mệnh đề trên.
Rất đặc sắc là chỉ có mấy dòng chữ thôi mà Nguyễn Cư Trinh đã diễn đạt được hết sức mạch lạc và sắc sảo chính kiến của mình: Dân là gốc của nước, gốc không bền vững thì nước chẳng thể yên. Cho nên, nếu ngày thường chăm dùng ân huệ để cố kết lòng người thì đến khi có việc xảy ra còn mong chờ vào đâu?
… Trộm nghĩ: thói tệ bạc chất chứa trong dân gian đã nhiều, nếu cứ thủ thường như cũ, không biết tùy thời thêm bớt và thiết lập kỷ cương, thì một ấp cũng khó giữ được, chứ đừng nói đến một nước! | Nguyễn Cư Trinh làm thơ và mở cõi – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan | 1,362 | |
Nhà thơ Vương Cường.
Tôi bất chợt mở tập thơ
Ngọn lửa tím
của Vương Cường như một sự tình cờ may mắn bắt gặp câu thơ hay.
Thơ anh luôn làm lay động tâm hồn tôi bấy lâu nay nên sự tình cờ này như một sự kiểm chứng thú vị. Quả nhiên tôi đã gặp gỡ anh và giật mình với câu thơ: “
Sẹo đóng trong tim những người lính già
” (Những ông già ngồi cà phê Định Công). Tôi luôn nhớ tới nụ cười hiền hậu của anh khi cùng thường ngồi Cà Phê tại quán bên phía sau Tượng đài Quang Trung (Gò Đống Đa). Có lần anh còn đọc cho tôi nghe một câu thơ rất hoang hoải xót xa: “
Chiến tranh qua lâu rồi/ Vết thương đất vẫn còn mưng mủ
”. Và rồi nữa. Thế là tôi trầm mình trong những cung bậc nhạc điệu thơ anh, với sắc màu tím của ngọn lửa tâm hồn: “
Găm bề bộn vào tháng ngày tóe máu/ Ký ức đau buồn để dòng nước trôi xuôi
” (Sẻ chia).
1.
Vương Cường luôn có sự vận động con chữ tạo hình khác lạ. Đó là những hình ảnh với sắc màu có chiều sâu gây ấn tượng “
Trăng tím lục bình/ Cong môi hát vỡ mùa thu
” (Sông chảy trong đêm). Thơ anh luôn hướng nội với ánh diện đa chiều. Phần thơ thế sự của anh luôn có bức xạ của ngọn lửa tím thấm đẫm nhân sinh. Tôi bị ám ảnh với những câu thơ trong bài
Xa
của anh cùng nỗi lòng đau đáu sẻ chia: “
Em chải tóc dưới bình minh góa bụa/ Từng chùm hoa thương nhớ nở không mùa/ Cỏ xốn xang lối mây vàng thổn thức/ Anh đếm từng tích tắc giọt đông sôi
”. Tính tượng trưng thi ca của Vương Cường mỗi lúc một rõ rệt. Chính vì thế anh có một sắc diện riêng trong cấu tứ. Thơ anh luôn có những không gian của vô ngôn chập chờn thu hút người đọc. Bởi ai nấy đều tìm thấy mình trong một góc của bức tranh nhà thơ tạo dựng: “
Thơ viết tặng chín tầng trời xao xuyến/ Thanh thả hồn bật dậy giữa đơn côi/ Tưới nước mắt nuôi hoa cây xanh biếc/ Buông nụ cười như vừa mới rong chơi
” (Sẻ chia). Đặc biệt bài thơ
Ngôi làng nhỏ treo trên vách đá
với Vương Cường là “
Nơi lưu giữ hồn quê như một bảo tàng thơ
”. Một tượng hình độc đáo đầy tượng trưng với bức họa: “
Những thiếu nữ đội khăn, quấn váy thổ cẩm/ Làm những cánh bướm ngẩn ngơ bay rách mùa lễ hội
”. Người đọc bị cuốn theo cảm xúc khi tác giả trở về quê hương sau những cơn bão thị trường xô dạt: “
Lấy tuổi thơ làng làm khăn lau nước mắt/ Tiếp năng lượng từ hồn quê trầm tích/ Những xôn xao chín đỏ quả thời gian/ Những mặn nhạt dưới tầng sâu nước mắt
”.
Nhà thơ còn là một chiến sĩ từng tham gia trận mạc trong công cuộc giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Những bài thơ về chiến tranh như một phần đời anh trong sắc lửa tím dưới đáy sông khi đồng đội hy sinh. Những hình ảnh của thơ Vương Cường luôn có tính khái quát và khắc khoải nỗi niềm: “
Một thế hệ từng dìm giấc ngủ trong nước/ Những hy sinh như đã lập trình/ Nụ cười cuối cùng sặc lên không tắt/ Các đáy sông quy tụ thành nghĩa trang
” (Một thế hệ sắp về miền xa khuất). Khi cuộc chiến đấu đến hồi kết chiến thắng nhưng nốt nhạc cuối cùng trong bản trường ca người lính vẫn vang lên một ký ức dữ dội: “
Đã vượt qua hàng trăm cửa tử/ Phút cuối cùng anh nằm lại cửa sinh/ Chia từng nắm thịt xương vùi đất/ Sống từng chia chết vẫn còn chia
”. Đó là những câu thơ nóng bỏng thế sự mà nhà thơ đã trải qua. Thơ Vương Cường găm vào tâm hồn người đọc một phần vì những trải nghiệm giữa cái sống và cái chết với ám ảnh bi hùng: “
Sài Gòn xa mấy ngàn cây số máu/… Sống có nhau giờ chết cũng còn nhau
”.
2.
Đáng chú ý nhất là sự bay bổng và đầy mê đắm trong thơ Vương Cường về nhân tình thế thái và tình yêu. Đó là những khám phá có góc cạnh và gồ ghề trong tư duy hình tượng. Ngoài nét nổi bật trong nghệ thuật tượng trưng, hòa trộn nhịp điệu âm nhạc và sắc màu hội họa, thơ Vương Cường còn có phần bật sáng của nội lực siêu thực. Anh viết như trong cơn mơ: “
Hồn anh thắm từng tia pháo hoa/ Khuôn mặt em rạng rỡ sau màu mây xốp
” (Trước giao thừa). Sự huyền ảo trong thơ Vương Cường luôn lấp ló qua ý tứ và câu chữ. Trong bài
Sông chảy trong đêm
anh viết: “
Buồn ướt cong mình chui qua cầu gió/ Bầu trời thủng rơi những tia sáng không màu
”. Hoặc đó đây người đọc lại sửng sốt với những câu thơ thú vị: “
Đêm rắc thuốc ngủ màu đen lên vạn vật
” hoặc “
Tóc cỏ rẽ ngôi liếc ngược ngàn mây
”, hay như “
Sao anh không rách như một tiếng gà
” và “
Ta đi cầu vông vòn giấu mặt/ Ta loay hoay gỡ các làn hương
”. Ánh sáng của ngọn lửa tím luôn được soi rọi ngóc ngách tâm hồn thi ca mà Vương Cường gợi mở. Thâm trầm và trau chuốt, thơ anh làm cho người đọc luôn hòa nhập cảm nhận. Sự khơi gợi ở thơ Vương Cường chính là nhịp điệu trong mỗi khổ thơ và cả bài thơ mà anh hướng tới. Ta có thể rất yêu những nhạc điệu
Sa Pa mùa đông
,
Trăng
,
Hoa khế góc vườn
; hay như
Đóa hoa mong
,
Sông chảy trong đêm
; Hoặc
Thu về
,
Cung trầm
…
Đặc biệt hình ảnh và sắc hoa tím của Vương Cường luôn là điểm nhấn của thơ anh. Hoa là tình yêu và nỗi lòng tím ngát trong tâm hồn nhà thơ. Sắc màu hoa của Vương Cường khi ảo khi thực gây ấn tượng kỳ thú.
Đóa hoa mong
là một trong số đó ẩn chứa nỗi lòng thương nhớ mộng mị: “
Đời vẫn gió, vẫn mưa ướt sũng lời chim hót/ Em vẫn tươi như một đóa hoa mong/ Anh khép vội nỗi buồn cài trong áo/ Một chân trời le lói gói hừng đông…
”, Hay thật chơi vơi mơ hoang với những câu thơ tình tứ: “
Anh lắng nghe tiếng guốc trong hồn/ Đi nhè nhẹ về phía mùa hửng nắng/ Kìa bông hoa cuối trời mây trắng/ Kìa trời yêu chi chít sao mơ
”. Và hơn nữa những ngọn lửa tím được ngát lên qua
Hoa khế góc vườn
. Bài thơ đan xen những hình ảnh giữa ảo và thực thể hiện được một khúc ca buồn man mác. Và những câu thơ làm lay động lòng người khi Vương Cường run rảy: “
Em/ Anh đã về rồi/ Em lặng tím một góc vườn ngơ ngác
”. Nhịp thơ thảng thốt ngân vang như một tiếng chuông vọng lên từ tâm hồn: “
Ngỡ đã đi qua một vòng trái đất/ Những mùa hè thảng thốt/ Những mùa thu hun hút heo may/ Những mùa đông gió cuộn vào mây/ Bốn mùa nhớ găm đau lồng ngực
”. Những ký ức thương nhớ được nhà thơ bày tỏ với sự rung động bàng hoàng khi trở về: “
Anh mang trong lòng / Liu riu ngọn lửa tím/ Liu riu lời đắm say/ Anh đã qua những vùng đất chết/ Anh đã qua những chuyến đò đầy
”.
Âm nhạc trong
Hoa khế góc vườn
ngân rung một bản thánh ca tình yêu. Cung điệu ấy thổn thức thầm thì với người đọc qua sự ấm áp của hồn thơ: “
Anh không gửi được lời tạm biệt/ Biết mùa đi ngày một cạn bên thềm/ Họa mi ạ, nén lòng thêm chút nữa/ Em lại về lồng lộng giữa trời đêm
” (Trăng). Trái tim nồng nàn yêu thương cuộc sống có phần ẩn giấu của Vương Cường luôn đem lại sự bình yên cho tâm hồn bạn đọc. Chất thiền trong thơ anh luôn thỉnh lên âm thanh tiếng mõ, tiếng khánh: “
Thôi em đừng khóc/ Em hãy để cho nỗi đau thành sẹo/ Trên vết sẹo rồi sẽ mọc một mầm cây
” (Em khóc). Cung trầm trong tâm cảm thi ca Vương Cường luôn lắng đọng và lan tỏa với niềm hy vọng phía trước: “
Đêm ác độc trước bình minh tự xử/ Em và thơ hội tụ một sắc ngời
” (Sẻ chia).
3.
Với tập thơ mới
Ngọn lửa tím
nhà thơ Vương Cường có sự “Dịch chuyển” rất thành công về thi pháp. Có thể nói câu thơ “
Vượt hết cánh đồng mộng mơ ngớ ngẩn/ Trái tim anh dịch chuyển về em
” là một sự tuyên ngôn đổi mới. Anh đã thành công ở cách mã hóa hình tượng thi ca khi bồi đắp những tố chất huyền ảo. Đó chính là những câu thơ khơi gợi và ám ảnh được neo giữ trong lòng bạn đọc. Tôi bị ngôn ngữ sáng tạo của anh thu hút. Nguồn cảm xúc trong thơ Vương Cường luôn gắn kết những thực thể tưởng không liên quan nhưng lại tạo hình độc đáo: “
Tiếng chim rắc khô quăn vỏ đỗ
” (Tre ơi) hoặc “
Đêm khoét vẹt trăng mòn một nửa/ Thu anh chờ lịm màu khói không tan
” trong sắc “
Chiều mơ thu
”. Sự thành công của
Ngọn lửa tím
có sự sâu đằm của một tấm lòng nhân ái và hồn thơ lắng đọng với cảm xúc dạt dào. Đồng thời tập thơ cũng thể hiện nổi bật sự đổi mới trong ngôn ngữ tạo ấn tượng sâu sắc với niềm khát khao “
Cho tôi mơ thánh thiện trong hồn
” (Tù nhân) của chính nhà thơ.
________
* Tập thơ Ngọn lửa tím của Vương Cường – Nxb Hội Nhà văn, 2022 | Cho tôi mơ thánh thiện trong hồn* – Tác giả: Vương Tâm | 1,668 | |
Đàn mưa con!
Đám mây đen trĩu nặng
Cúi mình xuống thấp dần
Cho đến khi rạn vỡ
Sinh ra triệu đứa con
Đàn mưa con bé tí
Trong trẻo như giọt sương
Vừa mới rời xa mẹ
Đã can đảm xuống đường
Giọt đậu vào cành khế
Giọt thấm xuống cánh đồng
Giọt bay trên mái phố
Nhảy dù xuống dòng sông
Sau nhiều ngày trôi nổi
Đi du lịch khắp nơi
Chúng gặp nhau ở biển
Làm sóng trắng trùng khơi!
Phi Tuyết Ba
Lời bình của
Phạm Thị Phương Thảo
Bài thơ Đàn mưa con! của nhà thơ Phi Tuyết Ba là một bài thơ hay, nhẹ nhàng, dễ hiểu dành cho các bé nhưng cũng là đôi chút thách thức với những người lớn. Trong bài thơ này, có sự đặc biệt phía sau. Đó là nỗi niềm trăn trở của những người mẹ đối với những đứa con của mình. Cuộc sinh nở ra “Triệu đứa con” chỉ trong một lúc chỉ là cách nói nhân hoá khi kể về một cơn mưa nặng hạt trước vũ trụ. Cuộc sinh nở của “Bà mẹ Thiên nhiên” trong vũ trụ to lớn này quả thật là ngoạn mục qua con mắt nhà thơ:
Những đứa trẻ “trong trẻo như giọt sương” kia vốn thơ ngây, hồn nhiên. Chúng vốn mang đặc tính chung của trẻ con nên chưa hề muốn xa mẹ. Đàn mưa con vừa mới sinh ra, chưa kịp lớn lên, thế mà chúng đã phải rời xa mẹ để hoà nhập vào thế giới bao la:
Là người mẹ, đọc đoạn này chắc không khỏi có chút bùi ngùi. Số phận của những đứa con nhiều khi người mẹ không thể nào định đoạt được. Đau đớn nhưng họ không biết phải làm sao. Trẻ con thời nay sẽ sớm phải học bài học về sự tự lập để tồn tại. Chúng đã tỏa đi khắp nơi và sớm phải sống cuộc đời riêng của mình khi rời xa mẹ:
Thông qua một bài thơ Thiếu nhi xinh xắn, tác giả đã ngợi ca tình mẫu tử thông qua những hình ảnh sinh động về bà mẹ thiên nhiên trong vũ trụ bao la. Theo dõi sự sinh thành, biến chuyển và sự vượt thoát ngoạn mục của những đứa con trong nhân gian:
Nhà thơ đã khái quát lên một triết lý nhân sinh sâu xa về cuộc đời. Đó chính là cuộc sống của những đứa trẻ – những đàn mưa con, khi chúng biết rời xa mẹ để ra với thế giới rộng lớn. Để rồi, có một ngày, chúng được gặp nhau ở biển lớn và vỡ oà khi hoá thân thành những cơn sóng trắng giữa mạnh mẽ trùng khơi!
Bài thơ thật giản dị, nhẹ nhàng mà mang đầy tính triết lý sâu xa về cõi người, về nhân gian và vũ trụ! Trẻ con cũng có thể yêu thích bài thơ này vì nhịp điệu trong trẻo hay những hình ảnh liên tưởng đáng yêu của đàn mưa con. Còn người lớn thì sao? Thực ra, chỉ có người lớn chúng ta mới có thể hiểu hết được ý nghĩa sâu xa của bài thơ… | Đàn mưa con! Thơ Phi Tuyết Ba – Lời bình của Phạm Thị Phương Thảo | 514 | |
Ba hình ảnh ma quái thể hiện dung nhan 13,3 tỉ năm trước của một vật thể tổ tiên đã chạm đến ống kính của James Webb, siêu kính viễn vọng đang hoạt động trên quỹ đạo Trái Đất.
Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi TS Guido Roberts-Borsani đến từ Trường ĐH California ở Los Angeles (UCLA), đã sử dụng dữ liệu từ máy quang phổ cận hồng ngoại NIRSpec của kính viễn vọng không gian James Webb (phát triển và điều hành chính bởi NASA) để tìm ra thiên hà lùn cổ đại JD1.
Một trong các “khuôn mặt” của vật thể già nua JD1, được phóng đại bởi Abell 2733 – Ảnh: NASA/ESA/CSA.
Kết quả nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí khoa học Nature cho thấy các hình ảnh mà James Webb ghi nhận từ thiên hà này là hình ảnh khi vũ trụ mới chỉ ra đời 480 triệu năm, tức 480 triệu năm sau vụ nổ Big Bang.
Sự thú vị càng tăng lên khi chúng ta có thể thấy không chỉ 1 mà tới 3 JD1 theo góc nhìn từ Trái Đất, do hiệu ứng “thấu kính hấp dẫn”, tức các vật thể không gian gần hơn đã bẻ cong không – thời gian, khiến vật thể bị nhân bản.
Một trong những thấu kính hấp dẫn tham gia sự kiện này là thiên hà khổng lồ Abell 2733, có bề ngang tận 350 triệu năm ánh sáng và cách chúng ta khoảng 4 tỉ năm ánh sáng.
Hiệu ứng này cũng đồng thời khiến JD1 trông to, rõ hơn, như nhìn qua một chiếc kính lúp, khiến James Webb phát hiện được dù nó khá trong và mờ.
JD1 một thiên hà cỡ nhỏ so với toàn bộ thiên hà Milky Way chứa Trái Đất, nhưng vẫn là một gã khổng lồ đáng nể đối với thiên thể nhỏ bé chúng ta đang sinh sống. Càng đáng nể hơn khi nó hình thành trong một vũ trụ sơ khai nghèo nàn.
Hình ảnh này cũng đã vượt một khoảng cách 13,3 tỉ năm ánh sáng đến Trái Đất – tức cũng mất hơn 13,3 tỉ năm về mặt thời gian – một hình ảnh xuyên không thực thụ giúp nhân loại nhìn trực tiếp vào vũ trụ sơ khai.
‘”Sự kết hợp giữa James Webb và khả năng phóng đại của thấu kính hấp dẫn là một cuộc cách mạng. Chúng tôi đang viết lại cuốn sách về cách các thiên hà hình thành và phát triển ngay sau vụ nổ Big Bang” – GS Tommaso Treu, đồng tác giả từ UCLA, nói.
Phát hiện mới này hứa hẹn giải đáp nhiều chi tiết về cách vũ trụ đã tiến hóa và cả sự ra đời của hành tinh chúng ta, vốn là sản phẩm của một vũ trụ được làm giàu hóa học nhờ hàng loạt thế hệ sao và hành tinh trong các thiên hà cổ đại hình thành rồi tan vỡ. | ‘Người khổng lồ 3 khuôn mặt’ xuyên không 13,3 tỉ năm đến Trái Đất | 493 | |
Tôi nghĩ, dù là người viết chuyên nghiệp hay không chuyên, hoặc không phải người làm thơ cũng đều có sẵn “chất thơ” như là bản năng. Chất thơ ấy chính là tinh thần, cảm xúc, sự rung động, cách nhìn, cách cảm và thái độ ứng xử thật đẹp, thật hài hòa với cuộc sống này. Trong mỗi tác phẩm, “chất thơ” đặc biệt ấy tạo nên cá tính sáng tạo khiến đứa con tinh thần của mỗi bản thể không bị nhòa lẫn.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn và Thiếu tướng Lê Xuân Sang, Phó Cục trưởng Cục Tuyên huấn trao giải Nhì cho các tác giả trong cuộc thi thơ của VNQĐ 2021 – 2022. Ảnh: Thành Duy.
Tuổi thơ tôi gắn liền với đồng rừng. Thế hệ 9x ở miền núi hồi đó điều kiện vật chất còn nhiều hạn chế nhưng tôi lúc nào cũng cảm thấy vui. Kí ức tinh thần đẹp đẽ ấy là những khát khao, háo hức trước mỗi quyển sách hay tờ báo
Thiếu niên tiền phong, Thiếu nhi dân tộc
ở thư viện nhà trường; là giọng nói ấm áp từ chương trình phát thanh “Văn nghệ thiếu nhi” của Đài Tiếng nói Việt Nam. Từ một đứa trẻ chẳng có quyển sách văn học nào, tôi may mắn được biết đến tên tuổi các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng; được nghe đọc thơ, truyện vừa, tiểu thuyết dành cho thiếu nhi qua giọng đọc diễn cảm, cuốn hút của các anh chị phát thanh viên. Tôi thật sự ấn tượng chuyên mục “Tác phẩm đầu tay” của những cây bút nhỏ do nhà thơ Hoàng Cát và nhà thơ Trần Đăng Khoa trực tiếp đọc tác phẩm và đọc lời bình, nhận xét, khen ngợi cũng như động viên khích lệ các tác giả nhí. Tôi lắng nghe say sưa và thích thú. Cũng từ đó, tôi biết giấu những ước mơ thầm kín vào những bài thơ non nớt, vụng về. Ước mơ ấy mở ra cho tôi một lối nhỏ đi vào văn chương. Hẳn nhiên, tôi đã đi và đi rất chậm.
Tôi sáng tác thơ bằng niềm say sưa bất tận về những điều gần gụi xung quanh, viết về tình yêu Tổ quốc, quê hương, tình yêu lứa đôi, viết về đề tài miền núi…, tất cả được gói gọn trong tập thơ đầu tay
Đi qua tôi thật chậm
(Nxb Hội Nhà văn, 2013). Dẫu luôn đau đáu với niềm đam mê và có lúc viết dào dạt nhưng cũng có những giai đoạn đầy thử thách khiến tôi bị chững lại. Tuổi trẻ phải lăn xả vào đời với cuộc mưu sinh, với những lo toan về công việc, cơm áo gạo tiền, chăm sóc gia đình, con cái buộc phải gác việc làm thơ sang một bên. Tuy nhiên, những va vấp, trải nghiệm cuộc đời lại là chất liệu sinh động, là sự vẫy gọi để tôi hình thành tác phẩm. Có những giai đoạn vài tháng trời tôi không thể viết nổi một bài thơ. Cảm xúc thơ biến mất hay vốn sống chưa dày dặn để viết? Những phân vân, bế tắc tôi chưa tìm ra câu trả lời. Tôi chỉ còn cách đọc sách và quan sát cuộc sống, lắng nghe bản thân chậm rãi hơn. Tôi nhận ra rằng, thơ không đơn thuần là những kí tự được dàn ra trên giấy bằng ngôn ngữ, kĩ thuật nào đó mà thơ chính là tâm hồn, là ý niệm, tình cảm, là sự đau đáu về không gian, thời gian, về con người, vạn vật mà người đọc cảm nhận được từ trái tim ấm nóng của người viết. Khi thơ được viết ra tức là một bản thể của mình được sinh ra và mang một số phận khác, đời sống khác, cũng có nghĩa tác phẩm ấy không chỉ viết cho riêng mình nữa. Đó là giá trị của thơ.
Thơ hiện diện trong đời sống này với vai trò là giá trị tinh thần không thể thiếu. Trong cuộc sống hôm nay, khi mà người ta mải để tâm đến mật khẩu của những đám mây công nghệ, số tài khoản ngân hàng, những âu lo thường nhật và được lựa chọn hưởng thụ vô vàn loại hình dịch vụ giải trí hấp dẫn khác, liệu còn nhiều người thưởng thức thơ và nhớ những câu thơ hay không? Thật khó để trả lời vì không ai thống kê được cụ thể. Nhưng tôi luôn tin là có vì bạn đọc vẫn dành riêng cho thơ sự quan tâm đặc biệt, điều đó được thể hiện rõ nhất trong những sự kiện như các cuộc thi thơ lớn, nhỏ do các báo, tạp chí tổ chức hoặc Ngày thơ Việt Nam được tổ chức hằng năm đều nhận được sự hưởng ứng và tham dự của đông đảo khán giả, người yêu thơ. Họ đến để thưởng thức thơ, mua sách thơ và hòa vào không gian đậm đà chất thơ. Như vậy để thấy rằng, thơ luôn có một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa văn nghệ cả nước nói chung và trong đời sống tinh thần của mỗi cá nhân nói riêng.
Điều tôi băn khoăn nhất là phải làm sao để tác phẩm của mình chạm đến một lượng độc giả, để người đọc thấy đồng cảm, thích thú hoặc ít nhất là mang đến giá trị tinh thần tốt đẹp nào đó. Để làm được trước hết người viết phải có các yếu tố thấu hiểu, rung động trước những vấn đề của cuộc sống hôm nay. Sở hữu cảm xúc, sự va chạm, trải nghiệm thì mới có thể tạo được mối liên hệ giữa tác phẩm và người đọc. Khi tác phẩm hay về cả ngôn ngữ và tinh thần, cảm xúc thì khi ấy thể loại thơ tự do hay thơ vần cũng không phải là điều quan trọng nữa.
Thơ cho cảm xúc phong phú và cuộc sống thú vị hơn, có góc nhìn đa chiều, đó là những giá trị mà tôi cảm thấy thơ đem lại cho mình rõ ràng nhất. Thơ cũng là cơ duyên để tôi có thêm nhiều người bạn thú vị trong cuộc sống.
Tôi có thơ in tạp chí
Văn nghệ Quân đội
từ năm 2011, tức năm thứ hai đại học. Mỗi khi được in bài ở tạp chí uy tín như thế tôi thấy mình rất “oách” và tự tin chia sẻ cùng các bạn viết. Dù biết, tiêu chí để chọn bài in ở
Văn nghệ Quân đội
rất khắt khe nhưng mỗi khi có sáng tác mới tôi lại mạnh dạn gửi bài vì cảm thấy đội ngũ ban biên tập Tạp chí
Văn nghệ Quân đội
rất tâm huyết, ân cần, chu đáo với từng cộng tác viên. Với những bài thơ “viết chưa tới” hoặc “chưa đầy đặn” sẽ được các anh, chị biên tập viên góp ý thật tinh tế, chân thành. Điều đó khiến tôi thêm trân trọng hơn tờ tạp chí và những “bà đỡ” mát tay. Những chùm thơ của tôi thi thoảng xuất hiện trên
Văn nghệ Quân đội
như để khẳng định, chứng minh niềm đam mê với thơ, với tờ tạp chí quen thuộc. Nhưng chỉ khi cuộc thi thơ
Văn nghệ Quân đội
2021 – 2022 diễn ra mới giúp một bản thể khác của tôi được bung ra, đây không chỉ là cuộc thi với các tác giả khác mà tôi thấy rằng, mình đang thi với chính mình và cần vượt qua chính mình.
Cuộc thi thơ
Văn nghệ Quân đội
là cuộc thi lớn, có uy tín, thu hút đông đảo người viết tham gia dự thi. Theo thống kê của ban tổ chức cuộc thi, trong gần hai năm (2021 – 2022), tạp chí đã nhận được hơn 10 nghìn tác phẩm từ khắp mọi miền của Tổ quốc gửi về, trong đó có 830 bài thơ của hơn 200 lượt tác giả được giới thiệu tới đông đảo bạn đọc. Điều đó đủ để thấy đây là một cuộc thi có tầm vóc và đầy sức hấp dẫn. Cuộc thi nhận được sự hưởng ứng tham gia của đông đảo bạn viết với nhiều lứa tuổi, nhiều đề tài khác nhau. Những bài thơ dự thi thể hiện niềm tin lạc quan trước đại dịch Covid-19, vẻ đẹp quê hương, đất nước và của con người trong sinh hoạt và lao động, đặc biệt là những tri ân của thế hệ trẻ hôm nay đối với cha ông và hình tượng đẹp đẽ, cao cả của người lính. Mỗi người có một góc nhìn và cách khai thác nhưng đều chung niềm say mê với thơ ca, khẳng định sự lao động chữ nghĩa nghiêm túc, bền bỉ giữa bầu khí quyển văn chương rộng lớn này.
Tôi rất vui và đặc biệt vinh dự khi nhận được giải thưởng trong cuộc thi thơ
Văn nghệ Quân đội
lần này. Giải thưởng là sự khích lệ to lớn cho hành trình sáng tác của tôi, để tôi trân trọng thêm những chuyến đi, những cảm xúc sáng tạo có được về mỗi vùng đất, con người, và nhất là đề tài chiến tranh cách mạng, người lính hôm nay.
Trong thời gian cuộc thi diễn ra tôi may mắn được tham dự trại viết với đề tài “chiến tranh cách mạng và người lính hôm nay” do Tạp chí
Văn nghệ Quân đội
tổ chức tại địa bàn Quân khu 9. Chuyến đi ấy đã đọng lại trong tôi nhiều cảm xúc về mảnh đất, con người và văn hóa miền Tây Nam Bộ. Tại lễ khai mạc trại sáng tác tôi ấn tượng đặc biệt với phát biểu của nhà văn Nguyễn Bình Phương (Tổng biên tập Tạp chí
Văn nghệ Quân đội
): “Thật khó mà đong đếm được lượng phù sa mà dòng Cửu Long giang mang đến cho miền Tây Nam Bộ, tương tự như thế thật khó đong đếm được những gì mà người lính đã cống hiến cho miền Tây Nam Bộ và quan trọng nhất là từ tướng lĩnh đến người lính, họ không tính đến việc đong đếm ấy bởi vì trong đó không chỉ có mồ hôi, không chỉ có trí tuệ, có tình cảm, có máu, thậm chí cả sinh mạng người lính không đong đếm được. Tuy nhiên tôi nghĩ văn học với thiên chức của mình phải có nghĩa vụ làm tỏa sáng những hạt phù sa im lặng và cao cả ấy.” Từ những lời nói sâu sắc và đầy động lực đó tôi đã viết
Thổ Sơn, Viết ở Tiểu đoàn 804
(hai trong ba bài thơ đoạt giải Nhì cuộc thi thơ
Văn nghệ Quân đội
năm 2021 – 2022). Tôi tham gia dự thi với những bài thơ được chắt chiu từ những cảm xúc chân thành nhất của lòng mình.
Trong những đề tài được tôi lựa chọn sáng tác, đề tài chiến tranh cách mạng và người lính luôn là niềm đau đáu trong tôi. Tôi nghĩ đề tài này dẫu ở thời nào cũng vẫn giữ nguyên vẹn giá trị trong các tác phẩm văn học bởi nó thể hiện thái độ của người cầm bút cũng như giá trị yêu nước, nhân văn luôn được gửi gắm trong mỗi tác phẩm. Còn đâu đó những góc khuất mà người cầm bút chưa biết đến, còn những câu chuyện, những tình huống, thân phận chưa được người viết khai thác hết mà tôi nghĩ những vỉa cạnh đó rất cần được ghi lại bằng cảm xúc thơ. Đề tài người lính, chiến tranh cách mạng là thách thức không nhỏ đối với người viết đặc biệt là người viết trẻ như tôi. Tôi cảm thấy mình cần phải viết như là trách nhiệm của người cầm bút. Mặc dù chiến tranh đã lùi xa nhưng nỗi đau hậu chiến vẫn còn tồn tại, vẫn còn đó những người cựu binh mang trên mình vết thương không gì bù đắp nổi, còn những số phận màu da cam nhức nhối… Tôi từng được xem những thước phim về chiến tranh và ám ảnh khôn nguôi với câu chuyện về cuộc sống của người cựu binh mang trên mình vết sẹo đạn bom, ngày vui vầy bên con cháu nhưng đêm đến lại không chợp mắt nổi vì giấc mơ hành quân cùng đồng đội. Cả hình ảnh của những người lính thời bình luôn chắc tay súng giữ gìn non sông gấm vóc đã thắp lên trong tôi niềm đau đáu và tôi đã viết lên bằng sự thấm thía, tri ân, tưởng nhớ về những thế hệ cha ông đã hi sinh cho hòa bình, độc lập, tự do của Tổ quốc.
Viết về đề tài chiến tranh cách mạng và người lính hôm nay, tôi mới chỉ chạm đến được một góc nhỏ trong đề tài rộng lớn ấy, nhưng tôi hi vọng rằng tác phẩm sẽ nhận được sự yêu mến và đồng cảm từ bạn đọc, cũng như khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước trong mỗi người. Cuộc thi thơ đã khép lại nhưng mở ra nguồn cảm hứng sáng tạo mới, chúng ta lại đón đợi và cùng nhau vun đầy lên những mùa chữ xanh tươi. | Thơ – khi sự sống và hi vọng ngân lên – Tác giả: Phùng Thị Hương Ly | 2,224 | |
Bộ trưởng Bộ Đường sắt Ấn Độ Ashwini Vaishnaw cho biết hôm 4-6 rằng lỗi hệ thống tín hiệu điện tử đã khiến 1 trong 3 đoàn tàu trong vụ tai nạn tối 2-6 chuyển nhầm đường ray.
“Ai đã làm điều đó và lý do là gì sẽ được điều tra” – ông Ashwini Vaishnaw nói trong cuộc phỏng vấn trên
Truyền hình New Delhi.
Theo
AP,
lời giải thích được đưa ra khi các nhà chức trách vẫn đang nỗ lực dọn dẹp đống đổ nát từ 2 đoàn tàu chở khách bị trật bánh vào tối 2-6, bắt nguồn từ việc 1 trong 2 đoàn tàu này lao thẳng vào một đoàn tàu chở hàng khác ở quận Balasore thuộc bang Odisha, phía Đông Ấn Độ.
Hiện trường thảm họa đường sắt thảm khốc ở Odisha – Ấn Độ – Ảnh: REUTERS.
Thống kê hiện thời cho biết đã có hơn 300 người thiệt mạng trong vụ việc, còn số người bị thương ít nhất hơn 800 người. Đây được coi là thảm họa đường sắt nghiêm trọng nhất trong nhiều thập kỷ tại
Ấn Độ
.
Các cuộc điều tra sơ bộ trước đó chỉ ra thay vì đoàn tàu chở khách 12841 Coromandel Express đi thẳng trên 1 trong 2 đường ray chính, trong khi một đoàn tàu chở khách khác cũng di chuyển suôn sẻ trên đường ray chính còn lại, thì tàu 12841 Coromandel Express đã chuyển hướng đột ngột vào đường ray vòng phía trên và đâm thẳng vào một đoàn tàu chở hàng.
12841 Coromandel Express gặp nạn nghiêm trọng, một số toa của nó cũng văng sang đường ray chính còn lại và đẩy trật một số toa cuối của đoàn tàu chở khách ở ray chính bên kia.
Các chuyến tàu chở khách có số hành khách tổng cộng là 2.296 người.
Các đoàn tàu chở hàng vẫn thường đậu trên đường ray vòng để tránh đường khi có tàu chở khách đi qua ray chính. | Ấn Độ công bố nguyên nhân thảm họa đường sắt làm 300 người chết | 324 | |
Chiều 3/6,
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính
, Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 (Ban Chỉ đạo) chủ trì phiên họp thứ 20 của Ban Chỉ đạo trực tuyến với 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Theo Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, COVID-19 đủ điều kiện đáp ứng các tiêu chí của bệnh truyền nhiễm nhóm B.
Tuy nhiên, việc công bố hết dịch COVID-19 sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật, cùng với đó cũng có các điều chỉnh khác liên quan.
(Nhấp chuột để xem kích thước chuẩn). | [Infographics] Những cột mốc đáng chú ý về dịch COVID-19 tại Việt Nam | 98 | |
Phường Hương Long nằm ở phía Tây và cách trung tâm thành phố 6 km.
Vị trí:
– Phía Tây giáp với xã Hương Hồ, xã Hương An –
thị xã Hương Trà
.
– Phía Bắc giáp với phường Hương Sơ – Thành phố Huế.
– Phía Đông giáp với phuờng Kim Long –
Thành phố Huế
.
– Phía Nam giáp với
Sông Hương
và phuờng Thuỷ Biều – Thành phố Huế.
Diện tích:
720 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 492 ha.
Dân số:
9850 người, có 1850 hộ gia đình.
Dân tộc
: Kinh
Khu vực dân cư, tổ dân phố:
Cán bộ và nhân dân phường Hương Long được nhà nước phong tặng danh hiệu ” Anh hùng lực lượng vũ trang năm 1995 “.
Trên địa bàn có các đơn vị cấp tỉnh và thành phố như: Công ty giống tây trồng vật nuôi Tỉnh TT Huế, Ban Quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn Sông hương, Trung tâm Công viên cây xanh thành phố, Bến xe thuyền thành phố.
Di tích lịch sử:
Tại địa bàn có chùa Linh Mụ được UNESCO công nhận là “di tích lịch sử danh lam thắng cảnh, là di sản văn hóa thế giới “.
Đặc điểm địa phương:
Có hệ thống nhà vườn voái các giống cây đặc sản như Bưởi, Thanh trà, Măng cụt….đặc biệt có nhà vườn An Hiên – Thôn Xuân Hoà la nơi tham quan của khách du lịch.
Ở phường có Lăng miếu Cụ Tiền tướng quân, mỗi thôn có một ngôi đình. Đặc biệt vào ngày 07/03 âm lịch hằng năm nhân dân thôn Trúc Lâm tổ chức lễ Tế Cô hồn tại đền Cô Hồn và đã trở thành Lễ hội hằng năm. | Giới thiệu khái quát phường Hương Long | 272 | |
Phường Kim Long là một phường nằm ở phía Tây
Thành phố Huế
, bên bờ của Bắc Sông Hương. Trước đây là thủ phủ của các Chúa Nguyễn Đàng Trong. Nguyên trước đây là xã Xuân Long, được tách ra từ xã Hương Long, huyện Hương Trà. Đến năm 1983, được Hội đồng Bộ trưởng quyết định đổi tên từ xã Xuân Long thành phường Kim Long theo Quyết định số 03-HĐBT, ngày 06 tháng 01 năm 1983.
Với tổng diện tích tự nhiên là 248,6 ha với tổng dân số: 15.332 nhân khẩu. Toàn phường được chia làm 22 tổ dân phố với 7 khu vực dân cư. Phường có một Đảng bộ với hơn 200 đảng viên, sinh hoạt trong 18 chi bộ trực thuộc; Toàn phường có 328 đối tượng đang được hưởng chế độ chính sách của Nhà nước.
Trên địa bàn phường có 03 cơ quan đơn vị của Tỉnh và Thành phố là Bệnh viện tâm thần Tỉnh, Trường Trung cấp nghề Huế, Trung tâm y tế thành phố Huế. Về cơ sở giáo dục: có 01 Trường Trung học cơ sở, 02 trường Tiểu học, 02 trường mầm non công lập, 02 trường mầm non tư thục.Giới thiệu khái quát phường Thuận An.
I. V
ị
trí đ
ị
a lý
– Phía Bắc: Giáp
phường An Hòa
.
– Phía Đông: Giáp phường Phú Thuận.
– Phía Nam: Giáp Sông Hương – phường Phường Đúc.
– Phía Tây: Giáp
phường Hương Long
.
II. Khu v
ự
c, T
ổ
dân ph
ố
Có 7 khu vực dân cư với 22 tổ dân phố:
– Khu vực 1: gồm có các Tổ Dân phố sau: 1, 2, 3, 4.
– Khu vực 2: gồm có các Tổ Dân phố sau: 5, 6, 7.
– Khu vực 3: gồm có các Tổ Dân phố sau: 8, 9, 10.
– Khu vực 4: gồm có các Tổ Dân phố sau: 11, 12, 13.
– Khu vực 5: gồm có các Tổ Dân phố sau: 14,15, 16, 17.
– Khu vực 6: gồm có các Tổ Dân phố sau: 18, 19, 22.
– Khu vực 7: gồm có các Tổ Dân phố sau: 20, 21.
III. C
ơ
s
ở
Tôn giáo
Phường có 07 cơ sở tôn giáo như sau:
– Niệm Phật Đường Vạn Phú
– Giáo xứ Xuân Long
– Đại Chủng Viện
– Đan viện Carmel
– Dòng Con Đức Mẹ Vô nhiễm
– Dòng Thánh Phao Lô
– Dòng Mến Thánh Giá
– Trung tâm nuôi dạy trẻ cô nhi, khuyết tật Sơn Ca.
IV. V
ề
kinh t
ế
Trước đây Phường Kim Long là một phường thuần nông, tuy nhiên với sự phát triển của đô thị, Tỉnh và Thành phố đã thu hồi đất nông nghiệp để quy hoạch một số khu dân cư, phát triển cơ sở hạ tầng đô thị tạo cho bộ mặt của phường ngày càng được khang trang hơn.
Nông dân đang dần dần chuyển đổi mô hình sản xuất từ trồng khoai, sắn sang trồng hoa và các nông sản khác theo nhu cầu của thị trường. Một số hộ tận dụng nông nhàn chuyển sang phát triển các nghề làm bánh in, làm mức, nón lá truyền thống của Huế. Đồng thời các cơ sở mộc mỹ nghệ, chạm điêu khắc đang dần phát triển.
Hòa chung với sự phát triển của nền kinh tế thị trường các loại hình thương mại, dịch vụ khác như: kinh doanh ăn uống, giải khát, dịch vụ du lịch, vật liệu xây dựng, vận chuyển hàng hóa … tiếp tục ra đời và phát triển đã tạo sự chuyển biến rõ nét về lĩnh vực thương mại trên địa bàn.
Năm 2002, được sự quan tâm của tỉnh và thành phố, phường Kim Long đã xây dựng tuyến du lịch Phú Mộng và đưa vào hoạt động, một số gia đình đã mạnh dạn đầu tư một số dịch vụ du lịch, mặc dầu hiệu quả mang lại chưa cao nhưng bước đầu cũng đã góp phần quảng bá những vẻ đẹp tự nhiên của nhà vườn Kim Long và thu hút được nhiều khách du lịch đến tham quan.
V. Văn hóa-xã h
ộ
i
1/ Văn hóa
Năm 1983 phường đã quy hoạch để xây dựng nhà văn hóa phục vụ nhân dân như tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ để nhân dân có điều kiện nắm bắt thông tin và tiếp thu, mở mang thêm kiến thức trong cuộc sống. Phong trào TDTT phát triển khá mạnh, cứ 4 năm tổ chức Đại hội TDTT một lần đồng thời tham gia các hoạt động TDTT do Thành phố tổ chức. Năm 2011 đã có 22 tổ dân phố đăng ký xây dựng tổ văn hóa, đến nay có 21/22 tổ dân phố đã được công nhận tổ đạt chuẩn văn hóa lần 2, lần 3. Hiện nay đã có 5 nhà văn hóa tại các khu dân cư để phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa của nhân dân. Trên địa bàn phường có 3 ngôi đình làng, trong đó năm 2013 Đình Kim Long được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh.
2/Xã h
ộ
i:
Vào những năm đầu thành lập phường, tỷ lệ hộ nghèo từ 20-25%, sau khi thực hiện chủ trương tái định cư dân vạn đò và tiếp nhận dân từ các nơi giải tỏa khác đến thì hộ nghèo chiếm tỷ lệ cao. Nhưng kể từ khi triển khai thực hiện chính sách vì người nghèo thì đến nay tỷ lệ hộ nghèo đã giảm thấp còn 2,91%.
VI. An ninh qu
ố
c phòng
Đảng ủy, chính quyền địa phương luôn đặt lên hàng đầu về nhiệm vụ quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng dân quân đủ số lượng đảm bảo chất lượng, đầu tư đồng phục và các trang thiết bị cần thiết, đảm bảo huấn luyện quân sự hằng năm cả chính trị và quân sự. Lực lượng dân quân thường xuyên làm tốt công tác tuần tra, bảo đảm địa bàn, bảo vệ cơ quan, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền và nhân dân Ngoài ra đã tham mưu cho lãnh đạo các phương án tác chiến, chống bạo lọan lật đổ, công tác phòng thủ bảo đảm an toàn làm chủ, tham gia diễn tập quân sự, các phương án phòng thủ, tác chiến, hậu cần. Tham mưu tốt cho lãnh đạo trong công tác tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, phòng chống bão lụt. | Giới thiệu khái quát phường Kim Long | 1,046 | |
Vị trí
: Nằm phía Đông Bắc hạ lưu sông Hương:
– Bắc giáp
xã Phú Mậu
, Huyện Phú Vang
– Đông giáp xã Phú Thượng,
Huyện Phú Vang
– Nam giáp phường Phú Hiệp
– Tây giáp phường Phú Bình
Khu vực dân cư, tổ dân phố
: Phường chia thành 05 khu vực, 13 tổ dân phố.
Cơ sở tôn giáo
: Địa bàn phường có 04 cơ sở tôn giáo (02 Chùa, 01 Nhà thờ, 01 Dòng tu)
Một số đặc điểm kinh tế – văn hóa – xã hội:
– Kinh tế: Chợ tự sản tự tiêu đi vào hoạt động đã mở ra cho địa phương một hướng đi mới, cuộc sống buôn bán ngày càng nhộn nhịp, các hàng quán dịch vụ ăn uống mở ra càng nhiều, tạo thêm công ăn việc làm đã cải thiện đời sốngcho nhân dân địa phương. Bên cạnh đó cũng tạo điều kiện tăng thu ngân sách cho địa phương.
– Văn hóa – xã hội: Phường được đô thị hóa theo qui hoạch, phải tiếp nhận nhiều dân từ nơi khác chuyển đến định cư tại địa phương, điều này đã nảy sinh những phức tạp mới về mặt xã hội.
Trên địa bàn phường hiện có 03 trường học, được sự quan tâm của Tỉnh và Thành phố đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các trường ngày càng hoàn thiện, trang bị nhiều máy móc hiện đại nhằm phục vụ cho công tác dạy và học tại địa phương ngày càng có hiệu quả.
Toàn phường hiện có 13 tổ dân phố và đã đăng ký tổ dân phố văn hóa, trong đó có 05 tổ dân phố và 06 cơ quan đạt chuẩn văn hóa.
Ngành nghề thủ công truyền thống
: Nhân dân trên địa bàn phường có các nghề thủ công: thêu ren, đan lát, chằm nón. | Giới thiệu khái quát phường Phú Hậu | 301 | |
Phú Nhuận là một phường nằm ở vùng trung tâm
thành phố Huế
. Phường được thành lập vào tháng 3 năm 1996 sau khi chia tách từ phường Vĩnh Lợi cũ.
Vị trí:
– Phía Bắc giáp sông Hương
– Phía Đông giáp
phường Phú Hội
– Phía Nam giáp sông An Cựu
– Phía Tây giáp phường Vĩnh Ninh
Diện tích: 72 ha
Dân số: Gần 10.000 nhân khẩu
Khu vực dân cư, tổ dân phố: Phường chia hành 06 khu vực với 12 tổ dân phố, gồm:
– Khu vực 1: tổ 1, 2, 3
– Khu vực 2: tổ 4, 5, 6
– Khu vực 3: tổ 7, 8, 9
– Khu vực 4: tổ 10
– Khu vực 5: tổ 11
– Khu vực 6: tổ Đống Đa
Cơ sở tôn giáo: Trên địa bàn phường có các nhà thờ, nhà dòng lớn như nhà thờ Fanxico ở đường Nguyễn Tri Phương, nhà thờ Đức Mẹ hằng cứu giúp và Dòng Chúa cứu thế trên đường Nguyễn Huệ và các dòng tu như Phaolo, Con Đức Mẹ Đi Viếng…, là nơi tập trung sinh hoạt của bà con giáo dân; là nơi diễn ra các lễ hội quan trọng của Thiên Chúa giáo. Có khoảng 30% đồng bào theo Thiên Chúa giáo, 27% theo Phật giáo.
Di tích lịch sử: Cung An Định trên đường Nguyễn Huệ, một di tích văn hóa cùng với quần thể lăng tẩm Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới; di tích Cách mạng tại 20 Trương Định (Tổng Hội sinh viên Huế) – một địa điểm hoạt động của sinh viên, học sinh Huế trong thời kỳ chống Mỹ, là nơi tập hợp sinh viên, học sinh xuống đường đấu tranh với phong trào “Hát cho dân tôi nghe”. | Giới thiệu khái quát phường Phú Nhuận | 286 | |
Phường Phú Hội là phường mới được thành lập từ phường Vĩnh Lợi (cũ) tách ra, theo Nghị định số 80/CP của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/11/1995 (phường Vĩnh Lợi chia tách thành 2 phường: Phú Hội và Phú Nhuận).
Vị trí:
Nằm phía Đông Nam trung tâm
thành phố Huế
:
– Phía Bắc giáp phường Vỹ Dạ
– Phía Đông giáp phường Xuân Phú
– Phía Nam giáp
phường An Cựu
– Phía Tây giáp phường Phú Nhuận
Diện tích:
110,2 ha
Dân số:
2118 hộ với 11816 nhân khẩu
Dân tộc:
Nhân dân trong phường đa số là dân tộc kinh
Khu vực dân cư, tổ dân phố:
Phường chia thành 7 khu vực, 16 tổ dân phố.
Cơ sở tôn giáo:
Địa bàn phường có 04 Niệm Phật đường: Phú Lâu, Thường Lạc, Hoàng Quang, Pháp Luân (nay chuyển cho cơ sở Tuệ Tĩnh đường khám chữa bệnh Liên Hoa); 01 nhà niệm của Thiên Chúa giáo; 01 nhà thờ Cao Đài.Tỷ lệ tín đồ theo tôn giáo: 15%.
Một số đặc điểm kinh tế – văn hóa – xã hội:
–
Kinh tế:
Ngành nghề chủ yếu: Tiểu thủ công nghiệp (mộc mỹ nghệ, cơ khí sửa chữa ô tô, làm cửa hoa, lan can, inox,…), thương mại, dịch vụ du lịch và kinh doanh các mặt hàng: áo quần, giày dép,…
Trên địa bàn phường có 01 HTX thương mại dịch vụ (Vĩnh Lợi); trên 60 khách sạn, trong đó có 5 khách sạn của nhà nước (Hương Giang, Century, Kinh Đô, Thuận Hóa, Kỳ Lân); 22 phòng trọ, nhà nghỉ và 22 nhà hàng. Hầu hết mặt tiền ở các trục đường phố, nhân dân buôn bán hoặc cho thuê kinh doanh, đặc biệt ở các tuyến đường: Hùng Vương, Lê Lợi, Bến Nghé, Đội Cung, Nguyễn Công Trứ, Chu Văn An, Phạm Ngũ Lão,…
Phường đã xây dựng tuyến phố văn minh thương mại – trật tự đô thị ở tuyến đường Bến Nghé – Đội Cung, xây dựng các tổ tự quản ở các tuyến đường trên địa bàn phường.
–
Văn hóa – xã hội:
UBND phường đã đạt chuẩn văn hóa vào năm 2003.
16 tổ dân phố đạt chuẩn văn hóa và đăng ký duy trì văn hóa hàng năm. 100% hộ gia đình đăng ký gia đình văn hóa.
Tổ chức lễ đăng ký kết hôn thực hiện việc cưới theo nếp sống văn minh (làm điểm cho thành phố) từ năm 2002.
Tỷ lệ hộ nghèo: hiện nay còn 27 hộ theo tiêu chí 260.000đ, chiếm tỷ lệ 1,35%.
Di tích lịch sử, ngành nghề thủ công truyền thống:
Di tích lịch sử:
– Bia tưởng niệm 11 cô gái Sông Hương (ngã tư Bà triệu – Lê Quí Đôn)
– Miếu Đại Càn (nơi các chiến sỹ tự vệ khu phố 6 thành phố Huế đã chiến đấu chống thực dân Pháp trước năm 1946) – Ngã tư Hùng Vương-Bà Triệu-Nguyễn Huệ.
– Bia tưởng niệm Bác Hồ tham gia phong trào chống thuế (trường ĐH Sư phạm Huế – đường Lê Lợi, Huế)
Ngành nghề thủ công truyền thống, làng nghề:
Làm hàng lưu niệm từ vật liệu: vỏ sò, ốc, hến… (bà Phạm Thị Lài – tổ dân phố 2)
Dịch vụ du lịch:
Chủ yếu ở các khách sạn, nhà nghỉ, các điểm dịch vụ du lịch như: An Phú, Phương Đông, An Phúc, Hưng Thịnh… | Giới thiệu khái quát phường Phú Hội | 535 | |
Vị trí:
Nằm phía Tây nam
thành phố Huế
:
– Phía Bắc giáp phường Vĩnh Ninh
– Phía Đông giáp
phường An Cựu
– Phía Nam giáp
phường An Tây
– Phía Tây giáp phường Trường An
Diện tích:
102,2ha
Khu vực dân cư, tổ dân phố:
Toàn phường có 07 Khu vực với 22 tổ dân phố. Trong đó KV 1 gồm tổ 10, 11, 12 và 13; KV 2 gồm tổ 07, 08 và 09 ; KV 3 gồm tổ 04, 05 và 06 ; KV4 gồm tổ 01, 02 và 03 ; KV 5 gồm tổ 14, 15 và 16 ; KV 6 gồm tổ 17, 18 và 19 ; KV 7 gồm tổ 20, 21 và 22.
Cơ sở tôn giáo:
Trên địa bàn phường có 02 tổ chức tôn giáo cơ bản là Thiên chúa giáo và Phật giáo.
Đối với Đạo Thiên chúa giáo – có nhà thờ Chánh toà Phú cam do linh mục Nguyễn Đức Vệ phụ trách. Hội đồng giáo xứ phú cam; 03 cơ sở dòng tu gồm Bích Trúc, Khâm mạng, Hồng ngọc.
Đối với Đạo Phật: Có 02 chùa gồm chùa Phổ Quang và chùa Quốc Ân – 2 niệm phật đường gồm Khuôn An Cựu Tây và Khuôn Xuân An.
Một số đặc điểm kinh tế – văn hóa – xã hội:
Đời sống nhân dân địa phương còn nhiều khó khăn, chủ yếu lao động phổ thông, buôn bán nhỏ, đạp xích lô, xe thồ… việc làm thiếu ổn định, thu nhập thấp. Phường có hơn 3.000 hộ dân với hơn 16.000 nhân khẩu, trong đó 74% dân số là đồng bào có đạo.
N
gành nghề thủ công truyền thống:
Làng nón Phú cam. Hiện nay do những yêu cầu cụ thể về đời sống kinh tế, các hộ gia đình chủ động tìm kiếm việc làm và chuyển đổi ngành nghề để kinh doanh, sản xuất để có nguồn thu nhập ổn định và cao hơn so với làm nghề nón nên số các hộ làm nghề nón hiện nay trên địa bàn còn rất ít. | Giới thiệu khái quát phường Phước Vĩnh | 331 | |
1. Vị trí địa lý:
Phía Đông giáp phường Thuận Lộc và phường Đông Ba;
Phía Bắc giáp
phường An Hoà
,
phường Hương Sơ
và
phường Hương Vinh
;
Phía Tây giáp
phường Kim Long
và phường An Hoà.
Phía Nam giáp phường Thuận Hòa;
2. Diện tích tự nhiên, dân số và tổ dân phố trực thuộc:
Diện tích tự nhiên: 1,80 km2.
Tổng dân số: 27.137 người.
Phường hiện tại có 18 tổ dân phố (đang chờ phương án để bổ sung thêm 01 Tổ dân phố thành 19 Tổ dân phố).
Đặc điểm tình hình chung:
Địa điểm trụ sở UBND phường Tây Lộc: 134 Lê Đại Hành, Tây Lộc, Thành phố Huế.
Điện thoại: 0234.3.522557 ; Fax: 054.3.539392.
Phường Tây Lộc là phường thuộc phía Bắc
thành phố Huế
; trong những năm qua, phường được Tỉnh, Thành phố quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật ngày càng hoàn thiện; các cơ sở phúc lợi, công trình giao thông từng bước được đầu tư khang trang.
Phường Tây Lộc được UBND
tỉnh Thừa Thiên Huế
quyết định công nhận là phường loại 01. | Giới thiệu khái quát phường Tây Lộc | 168 | |
I. Giới thiệu chung:
– Địa chỉ cơ quan: 127 Nguyễn Trãi, phường Thuận Hòa,
thành phố Huế
.
– Điện thoại cơ quan: 0234. 3523579
– Email:
II. Thông tin về vị trí địa lý:
* Vị trí địa lý: Phía Đông giáp phường Đông Ba; Phía Tây giáp
phường
Kim Long
; Phía Nam giáp
phường Phường Đúc
và phường Vĩnh Ninh; Phía Bắc giáp
phường Tây Lộc
.
* Diện tích tự nhiên, dân số và tổ dân phố trực thuộc: Phường Thuận Hoà sau khi có quyết định thành lập năm 1976 được chia tách thành 32 tổ dân phố. Quá trình hình thành và phát triển, thực hiện công tác giải toả chỉnh trang đô thị, cùng với việc sáp nhập tổ dân phố theo chỉ đạo của Tỉnh và Thành phố; từ 32 tổ dân phố từ ngày đầu thành lập đã sáp nhập thành 23 tổ dân phố. Thực hiện Quyết định số
1841/QĐ-UBND ngày 16 tháng 8 năm 2017 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế về việc sắp xếp, sáp nhập và đổi tên gọi các tổ dân phố trên địa bàn phường từ 22 tổ còn 12 tổ dân phố được chia thành 7 khu vực. Thực hiện Nghị quyết số 1264/NQUBTVQH14 ngày 27 tháng 4 năm 2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính cấp huyện và sắp xếp, thành lập các phường thuộc thành phố Huế. UBND phường đã được cấp trên sắp xếp, điều chuyển cán bộ, công chức và sáp nhập một phần địa giới hành chính phường Phú Thuận nhập vào phường Thuận Hòa từ ngày 01/7/2021. Tổng diện tích tự nhiên: 1,85km2 với 14 tổ, chia làm 8 khu vực.
* Phường Thuận Hòa có 23 tuyến đường chính: đường 23/8, đường cửa Quảng Đức, đường Cửa Ngăn, Nguyễn Trãi, Lê Huân, Đặng Thái Thân, Yết Kiêu, Trần Nguyên Đán, Thạch Hãn, Triệu Quang Phục, Phùng Hưng, Ông Ích Khiêm, Tôn Thất Thiệp, Nguyễn Cư Trinh, Ngô Thời Nhậm, Xã Tắc, Tuệ Tĩnh, Thanh Hương, Trần Bình Trọng, Đặng Trần Côn, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Thiện Thuật, Lê Duẩn.
* Tình hình dân số và lao động: Hiện toàn phường có 4325 hộ dân với 15455 nhân khẩu. Cơ sở hạ tầng thường xuyên được các cấp quan tâm, đầu tư ngày càng hoàn thiện, kinh tế phường đang trên đà phát triển: Văn hóa – Xã hội – Thể dục thể thao có nhiều bước chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện; Tình hình ANCT – TTATXH được giữ vững và ổn định. –
* Tiềm năng, thế mạnh: Phường Thuận Hoà là một phường Nội Thành, trên địa bàn phường có Quảng trường Ngọ Môn, Kỳ Đài, Quan Tượng Đài, Đàn Xã Tắc và tiếp giáp Di tích Đại Nội nên có vị trí, chức năng rất quan trọng trong quá trình phát triển chung của
tỉnh Thừa Thiên Huế
và
Thành phố Huế
.
Với vị trí địa lý là một phường nằm trong Quần thể Di tích Cố Đô Huế, nên định hướng xây dựng phát triển kinh tế phường là dịch vụ, thương mại, du lịch.
Phường ưu tiên phát triển các ngành nghề truyền thống có thế mạnh của địa phương như: Sản xuất mè xửng, tôm chua, bánh phu thê; các cơ sở trạm khắc mộc mỹ nghệ… Được sự quan tâm của các cấp bộ mặt đô thị phường ngày càng khang trang xanh, sạch, đẹp, sáng; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng ổn định và phát triển đi lên. Phường hiện có hơn 1400 hộ kinh doanh cá thể.
III. Tổ chức bộ máy:
Thực hiện Nghị quyết số 1264/NQ-UBTVQH14 ngày 27 tháng 4 năm 2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính cấp huyện và sắp xếp, thành lập các phường thuộc thành phố Huế. Tổng số cán bộ, công chức, cán bộ không chuyên trách toàn phường: 34 người. Trong đó: Cán bộ, công chức: 22 người. Lý luận chính trị: Cao cấp: 02 người; Trung cấp: 15 người. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Trên Đại học: 01 người; Đại học: 21 người.
UBND phường đã kiện toàn lại Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả hiện đại.
– Văn phòng Thống kê: 03 người.
– Tư pháp Hộ tịch: 02 người
– Văn hóa Xã hội: 02 người
– Địa chính Xây dựng: 01 người, đang đề xuất cấp trên điều động thêm 01
công chức.
– Tài chính Kế toán: 02 người | Giới thiệu khái quát phường Thuận Hòa | 751 | |
Phường Phường Đúc nằm trên một dãi đất ven sông thuộc bờ hữu ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố chừng 3 km về phía Tây Nam.
Phường có tọa độ địa lý 16027’19” vĩ độ Bắc và 1070 33’52” kinh tuyến Đông.
Địa giới của phường được xác định :
– Bắc giáp bờ hữu ngạn sông Hương (bờ tả ngạn là phường Kim Long ) và sông An Cựu (còn gọi là sông Lợi Nông – bờ tả ngạn là phường Vĩnh Ninh);
– Đông giáp phường Trường An;
– Nam giáp phường Thủy Xuân;
– Tây giáp phường Thủy Biều;
Phường Phường Đúc có diện tích tự nhiên chừng 1,64 km2, kéo dài theo hướng Đông – Tây hơi lệch theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, từ cầu Nam Giao lên giáp khu vực chợ Long Thọ với chiều dài chừng 5 km, nơi có chiều ngang mở rộng nhất theo hướng Bắc – Nam là đoạn từ cầu Bạch Hổ (Dã Viên) vào khu đồi Lịch Đợi rộng chừng 3 km, nơi hẹp nhất chỉ vài trăm mét là khu vực 4, nơi có trụ sở HĐND – UBND Phường tọa lạc.
Ga Huế được xây dựng từ năm 1906 và hoạt động cho đến nay, nơi thường xuyên tiếp nhận hàng hóa và đưa đón hàng vạn lượt khách trong và ngoài nước đến với Huế và cũng từng là tụ điểm hoạt động của tội phạm hết sức phức tạp.
Năm 1908 Pháp đã cho xây dựng cầu ở đây để lưu thông tuyến đường sắt có tên gọi (cầu Bạch Hổ) và năm 2012 cũng trên bờ dòng sông này cầu đường bộ bắc qua Sông Hương mới đưa vào hoạt động tạo thêm trục giao thông quan trọng nối hai bờ Bắc Nam sông Hương (HĐND tỉnh Khoá VI, kỳ họp thứ V đã ra Nghị quyết đặt tên chiếc cầu này là cầu Dã Viên).
Có bờ hữu ngạn sông Hương và sông An Cựu dài chừng 5 km, nơi có hàng trăm hộ đò sinh sống qua bao đời nay, bao gồm cả cồn Dã Viên với tháp nước cao hơn 50m được xây dựng vào năm 1909.
Hàng ngày có hàng trăm lượt du khách qua lại trên sông bằng các phương tiện thủy để vãn cảnh và thăm thú các di tích lịch sử, văn hóa. Nhiều bến sông đã được thiết lập để đưa đón du khách đến với tuyến làng nghề đúc đồng truyền thống Phường Đúc.
Phường Đúc còn nổi tiếng với làng nghề đúc đồng thủ công truyền thống đã phát triền hơn 4 thế kỷ qua với những địa danh đi liền với Làng nghề như: Kinh nhơn, Bổn bộ Trường đồng, Trường súng…Năm 2013 được tỉnh công nhận danh hiệu (Làng nghề đúc đồng truyền thống), nhiều sản phẩm tiêu biểu đã được lưu giữ cho đến ngày nay như Tượng phật Thích Ca tại Tổ đình Từ Đàm, cửu Đỉnh, Vạc đồng, súng thần công ở hoàng thành Huế, chuông Linh Mụ, …
Có nhiều di tích lịch sử, văn hóa ý nghĩa và giá trị như: Di tích lịch sử – văn hoá được xếp hạng cấp Quốc gia lăng mộ nhà thơTuy Lý Vương và thân mẫu Lê Tiệp Dư, di tích lịch sử – văn hoá được xếp hạng cấp Quốc gia và phần mộ tổ nghề đúc đồng họ Nguyễn Kinh Nhơn, di tích tôn giáo hàng trăm năm tuổi Chùa Báo Quốc, Giáo xứ Phường Đúc (nhà thờ Trái Tim), đình Xuân Giang, miếu thờ Lịch Đại đế vương, miếu thờ Vua Lê Thánh Tông … | Giới thiệu khái quát phường Phường Đúc | 599 | |
Quá trình hình thành và phát triển phường Thủy Biều
Thuỷ Biều là phường vùng ven, có hệ sinh thái phong phú, đa dạng, có vườn cây đặc sản thanh trà đã được cấp nhãn hiệu “Thanh trà Huế”, cách trung tâm Thành phố Huế khoảng 4 km về phía Tây Nam, nằm trên lưu vực sông Hương đối diện với chùa Thiên Mụ, di tích Văn Thánh, địa hình tương đối bằng phẳng. Nhìn tổng thể phường Thuỷ Biều như một bán đảo nhỏ, đẹp, địa hình thoãi dần từ Đông sang Tây, diện tích đất tự nhiên là: 657,3 ha có vùng đồi thấp chiếm khoảng 20% diện tích toàn phường và nằm dồn về phía Đông của phường, còn lại là vùng đồng bằng chiếm phần lớn diện tích. Xã Thủy Biều được hình thành trước năm 1945 gồm 2 làng cổ là Nguyệt Biều (hình thành vào thế kỷ XVI) và Lương Quán (hình thành vào thế kỷ XVII) thuộc Tổng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, xã Phong Thủy được hình thành trên cơ sở sáp nhập 2 làng Nguyệt Biều và Lương Quán. Sau đó xã Phong Thủy sáp nhập với xã Thủy Xuân thành Phùng Xuân Thủy và đến năm 1954 chia tách thành 2 xã Thủy Biều và Thủy Xuân thuộc huyện Hương Thủy với địa giới hành chính như ngày hôm nay. Sau khi thống nhất đất nước, năm 1976 Huyện Hương Phú được hình thành từ việc sáp nhập huyện Hương Thuỷ và huyện Phú Vang, xã Thủy Biều thuộc huyện Hương Phú. Đến năm 1981 xã Thủy Biều trực thuộc thành phố Huế. Đến ngày 25 tháng 3 năm 2010 xã Thủy Biều được Chính phủ ra Nghị quyết công nhận thành lập phường Thủy Biều.
Địa giới hành chính:
– Phía Đông giáp với phường Thuỷ Xuân,
phường Phường Đúc
,
thành phố Huế
, tỉnh Thừa Thiên Huế;
– Phía Tây giáp
phường Hương Hồ
,
thị xã Hương Trà
, tỉnh Thừa Thiên Huế;
– Phía Nam giáp với
xã Thuỷ Bằng
,
thị xã Hương Thủy
,
tỉnh Thừa Thiên Huế
;
– Phía Bắc giáp
phường Hương Long
, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Diện tích tự nhiên: 657,3 ha, trong đó:
– Đất nông nghiệp: 207,29 ha;
– Đất phi nông nghiệp: 439,9 ha;
– Đất chưa sử dụng: 10,11 ha.
Dân số và lao động:
– Tổng dân số: 2.285 hộ với 10.216 khẩu
– Lao động: 5.344 người, trong đó:
+ Lao động phi nông nghiệp: 4.244 người (chiếm 79,4 %);
+ Lao động nông nghiệp: 1.100 người (chiếm 20,6 %).
Trong những năm qua, Thủy Biều đã có nhiều chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội. Do biết phát huy thế mạnh là nơi có nhiều điểm di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh nổi tiếng đã được công nhận di sản văn hóa thế giới như: Hổ Quyền và điện Voi Ré; các di tích được công nhận cấp tỉnh như: di tích Thành lồi và nhà máy nước Vạn Niên; những thắng cảnh đẹp nổi tiếng như Đồi Vọng Cảnh, Độn Bàu Hồ; có con sông Hương uốn khúc bao bọc 2/3 ranh giới của phường. Đặc biệt, Thủy Biều có vườn cây quanh năm xanh mướt với nhiều loại trái cây ngon, đặc trưng như thơm, mít, dâu, nhãn, chuối… và đặc biệt là vườn cây đặc sản thanh trà với diện tích lớn và ngon nhất tỉnh đại diện cho Thừa Thiên Huế đăng ký và được Cục Sở Hữu trí tuệ cấp nhãn hiệu “Thanh trà Huế”. Hiện nay, địa phương đang là điểm hấp dẫn để thu hút khách tham quan du lịch trong và ngoài nước nhất là du lịch sinh thái. Ngày 05/5/2008, UBND Tỉnh Thừa Thiên Huế đã ra Quyết định số 1052/QĐ-UBND về việc phê duyệt quy hoạch chi tiết phường Thuỷ Biều với định hướng phát triển kinh tế, dịch vụ du lịch mở rộng đô thị Huế trong những năm tới. Sau khi quy hoạch chi tiết đươc công bố chỉ trong một thời gian ngắn đã có nhiều dự án lớn đến triển khai trên địa bàn như: khu du lịch 5 sao Làng Việt; Vườn Huế; nhà nguyện tình yêu của Trịnh Công Sơn…và nhiều nhà đâu tư đến tìm hiểu, khảo sát. Bên cạnh đó các công trình di tích lịch sử trên địa bàn của phường được đã được trùng tu sửa chữa với quy mô lớn, cơ sở hạ tầng đã từng bước đi vào hoàn thiện. Do đó, phường Thuỷ Biều có một diện mạo đô thị mới từng bước hình thành rõ nét, đời sống, sinh hoạt và thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện, nâng cao.
Trên địa bàn phường hiện có các cơ quan, đơn vị của Tỉnh và Thành phố như: Công ty cổ phần Long Thọ; Trung tâm công viên cây xanh; Công ty TNHH NN 1 thành viên xây dựng và cấp nước Thừa Thiên Huế; Công ty cổ phần Du lịch Hương Giang…
Hiện nay, trên địa bàn phường Thuỷ Biều phát triển nhiều khu du lịch, dịch vụ với nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ – du lịch, thu hút một lực lượng lớn lao động của địa phương, tạo ra xu thế phát triển du lịch – dịch vụ – thương mại, thúc đẩy quá trình đô thị hoá phát triển nhanh; Trên địa bàn phường có trên 79% lao động phi nông nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh, dịch vụ du lịch, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm hơn 75% tổng số doanh thu hàng năm. Tổng thu ngân sách hàng năm bình quân 1,5 tỷ đồng, bình quân thu nhập đầu người trên 1.000.000đ/tháng; chiều hướng hộ nghèo hàng năm giảm, qua bình xét hộ nghèo của năm 2012 địa phương 158/2285hộ chiếm tỷ lệ 6,95%; tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm dưới 1%; Trong năm qua, phát huy thế mạnh của địa phương là địa bàn có nhiều địa điểm di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và vườn cây đặc sản thanh trà, hàng ngày có hàng trăm lượt khách Quốc tế đến tham quan nên người dân trên địa bàn đã nhanh chóng chuyển đổi ngành nghề từ làm vườn, buôn bán nhỏ chuyển sang kinh doanh dịch vụ – du lịch và thâm canh, mở rộng diện tích cây đặc sản thanh trà nên đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện đáng kể.
Trong những năm qua được sự đầu tư của nhà nước, cùng với sự cố gắng quyết tâm phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân toàn phường, cho đến nay, phường đã xây dựng được nhiều công trình phục vụ dân sinh như: hệ thống đường trên 10 km đã trãi thảm nhựa (đường Bùi Thị Xuân, Ngô Hà, Huyền Trân Công Chúa); toàn bộ hệ thống đường kiệt được Thành phố hỗ trợ kinh phí cùng với nhân dân đóng góp đã xây dựng hoàn thành đường bê tông toàn phường với tổng chiều dài hơn 60 km; Hệ thống điện chiếu sáng ở các trục đường chính trong phường như Bùi Thị Xuân, đường Ngô Hà, Huyền Trân Công Chúa đảm bảo 100%; Ngoài ra, tại các trục đường kiệt ở các khu vực nhân dân đã đóng góp kinh phí lắp đặt điện chiếu sáng; Trên địa bàn phường có 7 trạm biến áp phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của nhân dân; Số hộ dùng điện ánh sáng đạt 100%; Số hộ dùng nước sạch đạt 100% (97,8% dùng nước máy); 98% người dân có phương tiện nghe, nhìn (40% hộ gia đình có dùng máy vi tính trong đó hơn 10% hộ dân có nối mạng internet).
Hiện nay trên địa bàn phường có 01 trường Mầm non; 01 trường Tiểu học; 01 trường Trung học cở sở; Cơ sở vật chất của các trường hàng năm đều được nâng cấp sửa chữa, đầu tư xây mới đạt chuẩn quốc gia chất lượng giảng dạy; việc dạy và học của các trường ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực; trường Tiểu học có 100% số học sinh học 2 buổi ngày; Trường THSC có 25% số học sinh học 2 buổi/ngày, và phấn đấu đến năm 2015 phấn đấu 100% học 2 buổi/ngày; Phường có 1 trạm y tế vừa mới được đầu tư xây dựng mới tổng mức đầu tư 1,5 tỷ đồng. Trạm y tế phường đã được công nhận đơn vị đạt chuẩn Quốc gia nhiều năm liền; Phường có 2 chợ có 145 chị em tiểu thương tham gia buôn bán kinh doanh, có 01 sân vận động, 02 trạm bưu điện (trong đó có 01 trạm bưu điện Tỉnh và 01 bưu điện văn hoá); số hộ dùng điện thoại nhà riêng chiếm gần 95% tổng số hộ.
Những năm vừa qua, phường Thủy Biều cũng rất chú trọng đến việc thực hiện quy chế dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nhiều công trình được xây dựng từ phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” được đẩy mạnh. Tính đến thời điểm này, toàn phường có 92% số hộ gia đình đạt gia đình văn hoá, Có 100% số tổ, cơ quan đạt chuẩn văn hóa./. | Giới thiệu khái quát phường Thủy Biều | 1,584 | |
Phường Trường An được thành lập từ năm 1983. Nguyên trước đây là xã thủy Trường, huyện Hương Thủy,
Tỉnh Thừa Thiên Huế
. Hiện nay trên địa bàn phường còn tồn tại ba Đình Làng: Trường Giang, Trường Cởi và Bình An. Với diện tích gần 153 ha mà phần lớn là đất nghĩa địa đến nay đã được đô thị hóa.
Vị trí:
– Phía Bắc giáp phường Vĩnh Ninh
– Phía Đông giáp
phường Phước Vĩnh
– Phía Nam giáp
phường thủy Xuân
– Phía Tây giáp phường Thủy Xuân,
phường Phường Đúc
Khu vực dân cư, tổ dân phố:
Phường chia thành 06 khu vực với 19 tổ dân phố:
– Khu vực 1: tổ dân phố 1, 3
– Khu vực 2: tổ 4, 5, 6, 7
– Khu vực 3: tổ8, 9, 10
– Khu vực 4: tổ 11, 12, 13, 13A
– Khu vực 5: tổ 14, 15, 16, 16A
– Khu vực 6: tổ 17, 19
C
ơ sở tôn giáo
:
Trên địa bàn phường có 22 cơ sở tôn giáo
Một số đặc điểm Kinh tế – Văn hóa – Xã hội:
là một trong 3 phường đầu tiên được tự cân đối ngân sách từ năm 2005 đến nay.
Trạm y tế phường là 1 trong 5 trạm y tế đầu tiên của thành phố được công nhận đạt chuẩn quốc gia.
100% cơ quan, tổ dân phố được công nhận đạt chuẩn văn hóa.
Di tích lịch sử:
Có nhà lưu niệm Cụ Phan Bội Châu, Chùa Từ Đàm, Đàn Nam Giao.
N
gành nghề thủ công truyền thống:
Làm hương. | Giới thiệu khái quát phường Trường An | 242 | |
Vị trí:
– Phía Bắc giáp
sông Hương
– Phía Đông giáp
phường Phú Nhuận
– Phía Nam giáp sông An Cựu
– Phía Tây giáp sông An Cựu
Khu vực dân cư, tổ dân phố:
Phường chia làm 5 khu vực với 16 tổ dân phố
– Khu vực 1: tổ 1, 2, 3
– Khu vực 2: tổ 4, 5, 6, 7
– Khu vực 3: tổ 8, 9, 10
– Khu vực 4: tổ 11, 12, 13, 14
– Khu vực 5: tổ 15, 16
Cơ sở tôn giáo:
Địa bàn phường có 05 cơ sở gồm: 3 cơ sở Công giáo (Tòa Tổng Giám mục, Dòng Thành Tâm, Cộng đoàn nữ tu Thánh Phaolô) và 2 sơ sở Phật giáo (Chùa Phật Quang, Trung tâm văn hóa Liễu Quán)
Một số đặc điểm kinh tế – văn hóa – xã hội:
– Kinh tế:
Phần lớn những người trong độ tuổi lao động đều là cán bộ, công chức, viên chức và công nhân viên làm việc hưởng lương tại các cơ quan công sở và các thành phần kinh tế khác. Bộ phận còn lại tham gia buôn bán nhỏ và làm dịch vụ trong nhiều lĩnh vực khác.
– Văn hóa:
Mặt bằng dân trí cao, đã đạt tiêu chuẩn quốc gia về xóa mù chữ; Phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; Phổ cập giáo dục trung học cơ sở và phổ cập giáo dục trung học phổ thông. 100% học sinh đi học đúng độ tuổi. Hơn 90% gia đình đạt tiêu chuẩn “Gia đình văn hóa” hàng năm. 100% tổ dân phố đạt tiêu chuẩn “Tổ văn hóa” và “Khudân cư tiên tiến”
– Chính sách – xã hội:
Hiện nay phường đang quản lý 170 đối tượng hưởng chính sách đối với người có công và hơn 20 đối tượng hưởng các chính sách xã hội khác. Các đối tượng hưởng chính sách đối với người có công đều có mức sống từ trung bình trở lên.
Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2006 là 0,99% (19 hộ với 74 khẩu).
100% đường kiệt được bêtông hóa.
Có 6 cụm dân cư 5 năm liền không có người sinh con thứ3 trở lên giai đoạn 2000 – 2005.
Di tích lịch sử, du lịch dịch vụ:
– Di tích lịch sử: Bảo tàng Hồ chí Minh, Trường Quốc Học, Trường Cao đăng Công nghiệp
– Du lịch, dịch vụ: có 26 khách san, nhà nghỉ, nhà trọ thuộc các thành phần kinh tế. | Giới thiệu khái quát phường Vĩnh Ninh | 397 | |
Một loạt bằng chứng khảo cổ gây sốc cho thấy những con người khác loài với chúng ta, đã tuyệt chủng, từng làm chủ kỹ thuật sản xuất hắc ín.
Theo
Science Alert,
các nhà khoa học từ Đại học Tubingen, Bảo tàng Tiền sử nhà nước Halle (
Đức
) và ĐH Strasbourg (
Pháp
) đã phân tích hóa học phức tạp trên các đồ tạo tác của người Neanderthals để giải mã một trong những bí ẩn gây tranh cãi nhiều nhất.
Đó là những đồ tạo tác có sự hiện diện của hắc ín bạch dương, thứ mà lâu nay nhân loại vẫn tin là sản phẩm vài ngàn năm gần đây của loài người hiện đại Homo sapiens (Người Tinh Khôn).
Tượng sáp mô tả người khác loài Neanderthals – Ảnh: BẢO TÀNG NEANDERTHAL.
Khi lần đầu những đồ tạo tác có hắc ín xuất hiện, nó đã gây nhiều tranh cãi, nhất là khi dường như nó được sử dụng hoàn toàn có chủ đích trong việc kết dính, chống thấm nước và kháng khuẩn.
Ý kiến phổ biến trước đây là người
Neanderthals
đã sở hữu hắc ín một cách may mắn, đơn giản là vô tình cạo được nó khi đốt vỏ cây bạch dương. Song, phân tích mới đã xác định sự hiện diện của những lò sản xuất hắc ín dưới lòng đất.
Thành phần hóa học của hắc ín bạch dương cổ đại cho thấy chúng bị thiếu oxy trong quá trình hình thành – mà các thử nghiệm chỉ ra rằng chỉ có thể hình thành thông qua việc cố ý chôn vỏ cây bạch dương đã được cuộn lại với ngọn lửa.
“Các phát hiện cho thấy hắc ín của người Neanderthals không phải kết quả ngẫu nhiên của những quá trình không chủ ý trong các đám cháy ngoài trời, mà là một kỹ thuật ngầm phức tạp được lên kế hoạch cẩn thận, vì không thể giám sát sau khi chôn vỏ cây” – các nhà nghiên cứu viết trong bài công bố trên
Archaeology and Anthropological Science.
Một sự thiết lập phức tạp như thế sẽ đòi hỏi một công thức và kế hoạch cụ thể, giống như cách chúng ta sản xuất các chất tổng hợp kiểu công nghiệp ngày nay.
Ảnh đồ họa mô tả lò hắc ín của người Neanderthals – Ảnh: ARCHAEOLOGY AND ANTHROPOLOGICAL SCIENCES.
Các vật tạo tác cổ xưa cũng cho thấy những người khác loài này không chỉ phát minh mà còn cải tiến kỹ thuật, độc lập với Homo sapiens. Có vẻ chính họ truyền cho tổ tiên chúng ta kỹ thuật này chứ không phải ngược lại.
Với vật liệu tổng hợp đầu tiên được điều chế trên Trái Đất, cùng với nhiều bằng chứng về kỹ thuật dệt sợi rất sớm, trang sức chế tác vượt trội, những bếp ăn tổ chức chu đáo…, người khác loài
Neanderthals
dần chứng minh rõ ràng hơn về trình độ phát triển không thể tin nổi, thậm chí vượt trội so với chúng ta. | Đức: Lộ diện lò hắc ín 200.000 năm, người khác loài điều hành | 495 | |
Phường Vỹ Dạ được thành lập năm 1983,là phường nằm ở phía Đông
thành phố Huế
, cách trung tâm thành phố 2km.
* Vị trí địa lý:
– Phía Bắc giáp
xã Phú Thượng
,
huyện Phú Vang
– Phía Đông giáp xã Thủy Vân,
thị xã Hương Thủy
– Phía Nam Giáp phường Xuân Phú, thành phố Huế
– Phía Tây Giáp phường Phú Hiệp, thành phố Huế
* Đặc điểm kinh tế – văn hóa – xã hội
Toàn phường có 3.550 hộ dân với 18.693 khẩu. Tình hình kinh tế của phường đang trên đà phát triển, văn hóa – xã hội – thể dục thể thao có nhiều bước chuyển biến, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện; chất lượng giáo dục ở các trường trên địa bàn phường ngày càng được chú trọng và nâng cao. Tình hình chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững.
* Cơ sở tôn giáo:
Địa bàn phường có 06 cơ sở tôn giáo gồm: 02 Niệm Phật đường (Hương Lưu và Vỹ Dạ); 01 chùa (Chùa Phước Huệ); 01 Giáo Xứ (Giáo Xứ Tân Thủy).
* Di tích lịch sử:
Có 02 Phủ thờ được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa (Phủ Tuy Lý Vương và Phủ Diên Khánh Vương). | Giới thiệu khái quát phường Vỹ Dạ | 206 | |
Nằm về phía Tây Nam thành phố, có địa hình bán sơn địa. Theo quy hoạch của Tỉnh và Thành phố, phường đang trên tiến trình Đô thị hóa, cơ sở hạ tầng ngày càng được hoàn thiện.
Vị trí:
– Phía Bắc giáp
phường Phường Đúc
– Thành phố Huế.
– Phía Đông giáp phường Trường An, xã Thủy An – Thành phố Huế.
– Phía Nam giáp
xã Thủy Bằng
–
Thị xã Hương Thủy
.
– Phía Tây giáp:
phường Thủy Biều
–
Thành phố Huế
.
Khu vực dân cư:
Cơ sở tôn giáo: Địa bàn phường có tất cả 43 chùa.
Một số đặc điểm kinh tế – văn hóa – xã hội:
Nền kinh tế của phuờng chủ yếu dựa vào Nông nghiệp, chỉ có một số ít phát triển kinh tế dựa vào dịch vụ và buôn bán nhỏ, nhân dân chủ yếu theo đạo phật, văn hóa làng xã vẫn được bảo tồn và phát huy.
Di tích lịch sử, ngành nghề thủ công truyền thống:
Di tích lịch sử: có 02 lăng của vua Tự Đức và Đồng Khánh
Ngành nghề thủ công truyền thống, làng nghề:
Trên địa bàn phường có làng nghề đúc đồng truyền thống.
Dịch vụ du lịch:
Phát triển du lịch, dịch vụ nhờ có các danh thắng trên địa bàn và địa hình bán sơn địa.
Địa chỉ cơ quan : 38 Lê Ngô Cát
Điện thoại cơ quan : 054. 3822415
Fax : 054. 3895319
Email : | Giới thiệu khái quát phường Thủy Xuân | 224 | |
Chiều 4/6 theo giờ địa phương, tại thành phố Ramallah (thủ đô hành chính tạm thời của Palestine), Thủ tướng Palestine Mohamed Shtayyeh thay mặt Tổng thống Mahmoud Abbas trao Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Palestine tặng nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam.
Theo đó,
nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
được trao tặng Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Palestine vì những cống hiến xuất sắc cho văn học, văn hóa, khoa học, nâng cao tình đoàn kết hữu nghị giữa các nhà văn và văn hóa hai nước Việt Nam – Palestine.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (trái) nhận Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Palestine.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều cho biết, Huân chương này là một mệnh lệnh của trái tim đến trái tim vì sứ mệnh của nhà văn, vì lẽ phải, khát vọng hòa bình của con người và mọi dân tộc.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều cũng chia sẻ, trong buổi lễ, ông đã phát biểu rằng, ông vô cùng hạnh phúc nhưng cũng tự cảm thấy chưa làm được nhiều với trách nhiệm của một nhà văn, như kỳ vọng. “Tôi nghĩ, tôi chỉ là người thay mặt các nhà văn Việt Nam để nhận phần thưởng cao quý này mà thôi”, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều bày tỏ. | Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Palestine | 223 | |
Tiểu thuyết “Nước non vạn dặm” dựa trên những lát cắt lịch sử, khắc họa tuổi thơ, quá trình phát triển tư tưởng, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
“Nước non vạn dặm” là bộ tiểu thuyết lịch sử dự định có 4 tập của tác giả Nguyễn Thế Kỷ khắc họa hình tượng Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh cùng những trang sử bi hùng của dân tộc từ cuối thế kỷ XIX và hơn nửa đầu thế kỷ XX.
Tập 1 có tên gọi “Nợ nước non”, là hình tượng Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành và những người thân yêu từ mái tranh nghèo xứ Nghệ vào kinh đô Huế, tiếp đó là Bình Định, Phan Thiết, Sài Gòn.
Tập 2 có tên gọi “Lênh đênh bốn biển” khắc họa hình tượng Nguyễn Tất Thành, trong tên mới Nguyễn Văn Ba rời thương cảng Sài Gòn ngày 5/6/1911 vượt trùng khơi tìm đường cứu nước, đi trọn 30 năm từ Đông sang Tây, qua bốn biển năm châu để có chuyến trở về Tổ quốc ngày 28/1/1941.
2 cuốn “Nợ nước non” và “Lênh đênh bốn biển” trong bộ tiểu thuyết “Nước non vạn dặm”.
“
– Cậu có thể làm được những việc gì?
– Tôi có thể làm bất cứ việc gì
Thành đáp lời một cách chắc chắn.
Ông ta dường như bị thuyết phục, hoặc có lẽ trên tàu đúng là đang thiếu một chân phụ việc nên đồng ý ngay.
…
– Này cậu thanh niên, ta không nghĩ là ông ấy lại đồng ý nhận cậu ngay đâu đấy. Có lẽ do cậu biết nói tiếng Pháp. Người Việt ta học tiếng Pháp cũng nhiều, nhưng chẳng ai biết tiếng Pháp lại xin đi làm phụ bếp cả. Vậy là Tất Thành chính thức trở thành một phụ bếp trên tàu Amiral Latouche Tréville, nhằm về phía trùng khơi, đích đến là nước Pháp, rẽ sóng. Tên gọi mới của anh là Nguyễn Văn Ba
”.
Tập 2 đã mở đầu như thế. Và cả tập là những đoạn hội thoại thú vị để người đọc có thể nhìn rõ hơn phẩm chất vĩ đại qua những điều bình dị, thân thương của Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Văn Ba – Nguyễn Ái Quốc. Anh đã chủ đích tìm đến quê hương của những kẻ xâm lược và nô dịch đất nước mình để hiểu hơn về kẻ thù của dân tộc, tìm con đường cứu nước cứu dân.
“Lênh đênh bốn biển” – Tập 2 chia thành các chương không quá dài, mỗi chương gắn với vài địa danh, một số nhân vật mà Hồ Chí Minh đã tới, đã gặp, đã sống và làm việc (tại Pháp, Anh, Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan, trở về Cao Bằng…) hoặc mỗi chương gắn với một sự kiện chính trị mang tính bước ngoặt trong cuộc đời Hồ Chí Minh (Hội nghị Véc Xây tháng 6/1919, đọc luận cương Lênin tháng 7/1920, tham dự Đại hội Tua tháng 12/1920…), dựng lên không khí của các sự kiện lịch sử, không khí đời sống xã hội tại những nơi Người đã sống và làm việc, tác giả đã biến những thông tin lịch sử khô khan thành những câu chuyện sống động gắn với cuộc đời một con người mà ngay sinh thời đã trở thành huyền thoại – Hồ Chí Minh.
Cuộc đời một con người với những sinh hoạt bình dị, lao khổ mà bất cứ ai cũng phải làm để sống, một con người với các giao tiếp xã hội, các hoạt động, các mối quan hệ, các công việc mưu sinh và thấm sâu trong đó là một khát vọng, một ý chí, một quyết tâm tìm ra cho dân tộc một lối thoát, giành độc lập, tự do đã được khắc họa không thể sinh động hơn qua “Lênh đênh bốn biển”.
Những trải nghiệm và kiến thức phong phú về cảnh quan thiên nhiên, địa lý, lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán, lối sống, cách tư duy của người dân ở các quốc gia, các khu vực địa lý mà Văn Ba – Nguyễn Ái Quốc đã tới, đã sống và làm việc cùng sự hiểu biết sâu sắc các sự kiện chính trị, văn hóa quan trọng gắn với cuộc đời Văn Ba – Nguyễn Ái Quốc, tác giả đã biến những sự kiện, câu chuyện lịch sử thành những hình tượng, những nhân vật rất sinh động, lôi cuốn, lấp lánh văn chương và giàu tính nhân văn, làm xúc động trái tim bao độc giả.
Nguyễn Ái Quốc hiện lên trong chân dung một con người bằng xương bằng thịt với những rung động lứa đôi, những xúc cảm rất con người, rất bình dị về những khát khao tuổi trẻ. Nhưng rồi chàng trai Văn Ba – Nguyễn Ái Quốc đã ghìm tất cả những khao khát ấy xuống, ưu tiên hàng đầu cho việc kiếm tìm một con đường cứu nước cứu dân.
“
Annette là một cô gái tuyệt vời, có lẽ phải nói là đặc biệt nữa. Tôi cảm nhận được điều ấy. Nhưng, thứ lỗi cho tôi, Phillipe và những người thân yêu của tôi ơi. Tôi… tôi… chỉ có thể coi Annette như một cô em gái vô cùng quý mến, như ruột thịt mà thôi… Nhưng, Phillipe à, hình như cuộc đời tôi đã không còn thuộc về tôi nữa… Tôi đã quyết định trao toàn bộ cuộc đời này, sinh mệnh này cho đất nước yêu quý và đau thương của tôi, vợ chồng anh có hiểu không? Annette có hiểu và thứ lỗi cho tôi không
”.
Trên hành trình lênh đênh tưởng như vô định những ngày tháng đầu, chưa biết sẽ đi đâu, ở đâu, nhưng trong thâm tâm chàng thanh niên ấy đã nhìn thấy nơi phải trở về: “
Có thể tôi sẽ không ở đây lâu, có thể tôi sẽ đi đâu đó nay mai. Chưa biết được. Phương Đông là nơi chốn để trở về
”.
Những cuộc gặp gỡ, trò chuyện với các bậc tiền bối như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và các bạn Pháp tiến bộ, các đảng viên Đảng Xã hội Pháp, Đảng Cộng sản Pháp từng bước giúp Nguyễn Tất Thành nhìn rõ hơn những việc trước mắt mình cần làm: “
Vậy nên, Thành ạ, việc của chúng ta trước hết là bảo vệ quyền lợi của người An Nam ngay trên đất Pháp, và bằng những cách nào đó, từng bước giành lại quyền tự chủ cho nước, cho dân ta
”.
Với sự sáng tạo đặc biệt, tập 2 cuốn tiểu thuyết đã cho người đọc hình dung một cách sống động, chi tiết, hấp dẫn, chân thực về hành trình 30 năm của Hồ Chí Minh qua biết bao quốc gia, trải biết bao công việc, gặp gỡ biết bao con người từ bình dị đến vĩ đại, những hoạt động chính trị sôi nổi của Người và sức ảnh hưởng, lan tỏa từ những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong cộng đồng người Việt ở Pháp cũng như cộng đồng người bản xứ. Những bước ngoặt lớn trong nhận thức của Người đến từ các dấu mốc quan trọng gắn với các sự kiện lớn của lịch sử thế giới.
Trọn vẹn trong tập 2 là hành trình của Người từ khi rời Việt Nam đến Pháp, đi vòng quanh châu Phi, châu Mỹ, trở về Pháp với các hoạt động chính trị sôi nổi. Người gửi bản yêu sách đến hội nghị Véc Xây, đọc Sơ thảo Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và các vấn đề thuộc địa; tham dự Đại hội Tua; đến Liên Xô với những hoạt động chính trị quan trọng; trở về Quảng Châu, Trung Quốc; sang Thái Lan; rồi bị bắt ở Hồng Kông; đi Thượng Hải; trở lại Liên Xô và mùa Xuân 1941, Người trở về đất mẹ Việt Nam. Mỗi bước chân trên hành trình của Người, qua sáng tạo văn học, tác giả đã bám sát những sự kiện lịch sử gốc và sáng tạo văn học đi cùng.
Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước trên con tàu Latouche Treville.
Tác giả giúp người đọc hình dung chuỗi câu chuyện về cuộc đời của Người vừa mộc mạc, bình dị, vừa vĩ đại, cao quý. Văn Ba, Nguyễn Ái Quốc qua sáng tạo văn học đi vào trái tim người Việt Nam và bạn bè thế giới một cách tự nhiên, lôi cuốn, xúc động bởi trước khi là một vĩ nhân, Người là một con người bình dị, khiêm nhường như triệu triệu người Việt Nam bình dị khác.
Những sáng tạo văn học thú vị làm mềm hóa các sự kiện lịch sử khô khan, làm lịch sử trở nên sống động, tuy nhiên không làm mất đi tính chân thực của các nhân vật và sự kiện lịch sử cốt yếu. Đây là một đoạn mô tả sự kiện Nguyễn Ái Quốc đọc luận cương Lênin và tìm thấy con đường cứu nước:
“
Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta. Anh run rẩy cất lời một mình trong căn phòng nhỏ chật chội nhiều sách vở. Bên ngoài ô cửa sổ nhỏ là vòm cây sáng óng ánh bởi nắng đã ngả sang chiều. Mùa hè nước Pháp chưa bao giờ đẹp và đáng yêu đến thế
”.
Toàn bộ những nội dung cốt yếu thuộc về nhân tố chủ quan làm nên tư tưởng Hồ Chí Minh sau này sẽ được người đọc tiếp nhận theo cách thi vị, lôi cuốn trong tập 2 bộ tiểu thuyết. Lý tưởng, hoài bão lớn, ý chí, nghị lực, khả năng tự học, tự kiếm sống của Văn Ba, Nguyễn Ái Quốc; tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng, tầm nhìn chiến lược… Tất cả những phẩm chất cá nhân đó của Người được khắc họa sinh động trong tập 2 cuốn tiểu thuyết.
Bên cạnh đó, vốn sống và trải nghiệm phong phú của Nguyễn Ái Quốc, hiểu biết sâu sắc chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và chế độ thực dân không chỉ trên lý thuyết mà qua hoạt động thực tiễn tại các nước đế quốc; sự thấu hiểu về phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều châu lục… Tất cả vốn hiểu biết và trải nghiệm đó cũng được tác giả Nguyễn Thế Kỷ khắc họa tài tình qua các trang viết để tạo nên hình tượng văn học Văn Ba – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, rất chân thực, rất sinh động và cuốn hút.
Đọc tập 2 bộ tiểu thuyết để thấy hành trình gian lao, vất vả, trải qua bao cực nhọc nhưng cũng thấm đẫm niềm vui, hạnh phúc và những dư vị ngọt ngào của tình người, tình đời trong 30 năm “Lênh đênh bốn biển” của Nguyễn Ái Quốc. Từ đó chúng ta trân trọng hơn những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh cho đất nước và dân tộc Việt Nam, thấu hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh bắt đầu manh nha từ đó là sản phẩm được đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt, ngục tù; là sản phẩm được kết tinh trí tuệ mẫn tiệp của Người qua quá trình tự học, tự nhận thức, tự vận động mang tính cách mạng và nỗ lực không ngừng vượt qua nghịch cảnh.
Từ rất sớm, Người đã “chơi” với những người bạn Pháp tiến bộ, giàu lòng nhân ái, dựa vào sự giúp đỡ của họ để tìm cách chống lại thực dân Pháp xâm lược ở đất nước mình và ở nhiều nước khác. Hình tượng Phillipe và Annette là một sáng tạo văn học vô cùng độc đáo trong cuốn sách này.
Tác giả dựng lên hình ảnh một người lính Pháp, đi lính tại Đông Dương, khi hết hạn được hồi hương trở về cùng trên con tàu đô đốc với Văn Ba – Nguyễn Ái Quốc. Là người lính của chính quốc tại An Nam, Phillipe thấu hiểu chủ nghĩa đế quốc, thấu hiểu hơn xứ thuộc địa. Và từ sự thấu hiểu này, Phillipe đã trở thành bạn của Văn Ba – Nguyễn Ái Quốc, đã chia sẻ, giúp đỡ Nguyễn trong thời gian Người sống và hoạt động tại Pháp.
Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở Tua, tháng 12/1920.
Hình ảnh của anh chàng Phillipe thấp thoáng trong nhiều chương sách. Phillipe không chỉ hiện diện trong những ngày Nguyễn Ái Quốc ở Pháp mà còn hiện diện ở nhiều nơi trên hành trình của Người. Không chỉ Phillipe mà vợ anh, em gái anh – Annette và những người yêu thương khác cũng trở thành những điểm tựa về nhiều mặt để Nguyễn Ái Quốc có thể vững tâm trên hành trình đi tìm con đường cứu dân, cứu nước.
Sáng tạo văn học của tác giả khi để cho Nguyễn Ái Quốc mặc bộ quần áo cưới của Phillipe tham dự Đại hội Tua thật là thú vị. Sáng tạo ấy tăng thêm ý nghĩa và sức cuốn hút của những câu chuyện được mô tả. Chính mối quan hệ tuyệt vời giữa người dân thuộc địa và người dân chính quốc đã góp phần tiêu diệt chủ nghĩa thực dân, đem lại độc lập, tự do cho các thuộc địa.
Thực dân Pháp là kẻ thù của nhân dân Việt Nam, nhưng nhân dân Pháp là bạn của nhân dân Việt Nam. Nhận thức mới mẻ ấy của Nguyễn Ái Quốc được củng cố sinh động qua những mối quan hệ của Người với những người bạn Pháp trên hành trình 30 năm đằng đẵng. Câu chuyện cảm động về quan hệ của Nguyễn Ái Quốc với một người làm trong sở cảnh sát Paris, người đã bí mật báo tin cho Nguyễn Ái Quốc về việc anh bị cảnh sát theo dõi và đã giúp đỡ anh để đảm bảo sự an toàn cho anh là một trong nhiều câu chuyện cảm động được miêu tả trong tập 2 bộ tiểu thuyết.
“
Trưa mùng 2 Tết năm 1941, cả đoàn về đến cột mốc biên giới giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc… Con đường cách mạng phía trước còn rất dài và rất nhiều chông gai, ghềnh thác, nhưng nhất định ông sẽ cùng với đồng chí, đồng bào mình đi tới đích. Nguyễn Ái Quốc tự nhủ khi đặt tay lên cây cột mốc bằng đá trong ngày mùa xuân lạnh giá. Trời lạnh nhưng trong lòng ông như có một ngọn lửa vừa được thắp lên
”.
Chương 4 viết về Hội nghị Véc xây và bản Yêu sách của nhân dân An Nam là một điểm nhấn đặc sắc của tập 2. Trong 29 trang tiểu thuyết của chương 4, Nguyễn Thế Kỷ đã rất thành công khi tái hiện không khí của Hội nghị Véc xây và sức ảnh hưởng khổng lồ của Bản yêu sách.
Những nội dung lịch sử được chọn lọc đưa vào tiểu thuyết giúp người đọc hiểu rõ bối cảnh lịch sử và thái độ của các nước tham gia hội nghị Véc xây; hệ thống Hòa ước Véc xây; nội dung bản Yêu sách ký tên Nguyễn Ái Quốc; lý do Hội nghị lờ đi bản Yêu sách này; lý do Nguyễn Ái Quốc gửi bản Yêu sách tới tay Tổng thống Mỹ.
Tuy nhiên, lợi thế của hình thái văn học giúp tác giả có thể tạo dựng ra một không khí lịch sử sống động giúp người đọc hình dung các công việc và quá trình Nguyễn Ái Quốc truyền bá bản yêu sách trong cộng đồng nhười Việt ở Pháp và truyền bá tới tận thuộc địa Đông Dương.
Một cảnh trong vở kịch sân khấu “Nợ nước non”.
Ảnh hưởng khổng lồ của bản yêu sách trong cộng đồng kiều bào tại Pháp, trong dư luận quốc tế được thể hiện dưới hình thái các cuộc trò chuyện thú vị hoặc những tiểu tiết văn học đầy sức biểu cảm và hàm chứa. Em gái của Phillipe, bạn thân Nguyễn Tất Thành, chỉ bằng một lời chào “Chào anh Nguyễn Ái Quốc”, cái tên mà Nguyễn Tất Thành tự chọn cho mình và lần đầu tiên có người gọi anh như thế làm anh không khỏi bất ngờ.
Những Việt kiều trong khu phố anh ở trọ, sau khi bản yêu sách ra đời đã tự chào anh bằng cái tên mới Nguyễn Ái Quốc và ngỏ ý sẵn sàng hỗ trợ, giúp đỡ anh trong mọi việc cần thiết chỉ vì họ cũng là những người ái quốc.
Cuộc hẹn gặp Nguyễn Ái Quốc của Bộ trưởng Bộ thuộc địa Anbe Xarô sau khi bản yêu sách gây ra cơn bão trong dư luận nước Pháp, cuộc gặp với nhân viên sở mật thám Pari (mà điều bất ngờ lại là đồng minh của Nguyễn Ái Quốc) và những cuộc hội thoại là sản phẩm trí tưởng tượng của tác giả trên nền tảng sử liệu cùng kiến thức trải nghiệm của tác giả làm cho độc giả như được hòa mình trong không khí của Pari những năm đầu thế kỷ XX.
Vai trò của Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và một số người khác, ảnh hưởng của các ông tới hoạt động chính trị của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp; Con đường mà các ông lựa chọn; Con đường của cách mạng tháng Mười Nga; Con đường còn chưa định hình rõ nét của Nguyễn Ái Quốc tới thời điểm tháng 6/1919 đã được thể hiện theo một cách thức lôi cuốn, thú vị và dễ nhớ dưới hình thái văn học thông qua các cuộc đối thoại.
Có những chi tiết đầy thú vị về lịch sử đã được tác giả khai thác thật tinh tế trong chương 4 của tập 2. Cuốn sách Le feu (Khói lửa) của Henri Barbusse viết về chiến tranh thế giới thứ nhất từ trải nghiệm thực tế của chính ông – một người tham chiến, đã được Nguyễn Ái Quốc đọc ngấu nghiến đến quên cả không gian, thời gian trong một mùa hè Pari năm 1919.
Một cuốn sách mà tác giả của nó là công dân của một nước thực dân với vô số thuộc địa đã viết rằng: “
Tương lai sẽ ở trong tay những người nô lệ
”. Cuốn sách mà Nguyễn Ái Quốc tin rằng sẽ trở thành một tác phẩm quan trọng trong lịch sử văn học nước Pháp. Nguyễn Ái Quốc không thể ngờ rằng cuối giờ chiều đúng ngày bế mạc Đại hội Tua, ngày 30/12/1920, tác giả của “Khói lửa” đã đứng sẵn ở cửa phòng họp chờ bắt tay và trò chuyện cùng anh.
Lúc đó Henri là một nhà báo. Cuộc trò chuyện đã gợi mở những điều lý thú về sự tương đồng giữa lý tưởng của hai con người đến từ hai quốc gia rất khác biệt thậm chí đối ngược nhau: một nước chính quốc và một nước thuộc địa của chính quốc ấy.
Chỉ với 29 trang tiểu thuyết, chương 4 đã đem lại cho người đọc những kiến thức và cảm xúc chân thực về những sự kiện lịch sử mà nếu như tiếp cận theo kiểu liệt kê sự kiện trong sử học như chúng ta bấy lâu nay vẫn làm thì lịch sử chỉ là lịch sử trên trang giấy, khó có thể đi vào trái tim và trí óc người học, người đọc.
Ở các chương khác của tập 2, người đọc cũng sẽ có cảm giác bất ngờ, thú vị khi tiếp cận các thông tin lịch sử quen thuộc dưới hình thái văn học, câu chuyện văn học làm các sự kiện lịch sử trở nên sống động và lôi cuốn.
Có thể nói, sau khi hoàn thành, đây sẽ là bộ tiểu thuyết đồ sộ về toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp cách mạng vĩ đại của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bộ tiểu thuyết không chỉ là một sản phẩm văn học đơn thuần mà hơn thế nữa, đây còn là một bộ tiểu thuyết lịch sử có giá trị cho việc tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của vị lãnh tụ yêu kính của bao thế hệ người Việt Nam – Bác Hồ.
Tập 2 bộ tiểu thuyết giúp người đọc hình dung một cách rõ ràng, chi tiết mà không xa rời lịch sử chính thống 30 năm bôn ba nước ngoài của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Những sự kiện lịch sử rời rạc được liên kết lại trong một không gian lịch sử, với cốt truyện, với nhân vật và những câu thoại làm nên một hệ thống câu chuyện lịch sử hấp dẫn, lôi cuốn, logic về Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trên hành trình vạn dặm.
Cách hình tượng hóa nhân vật lịch sử theo cách mà nhà văn Nguyễn Thế Kỷ đã làm rất nên được khuyến khích để giúp “dân ta phải biết sử ta”, để “tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Biết để trân trọng, để tự hào và để gìn giữ những thành quả cha ông đã phải đổi bằng máu, xương, nước mắt và biết bao sự hi sinh không thể cân đong đo đếm được. | Kỷ niệm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước: Người đã ra đi ‘Nước non vạn dặm’ | 3,602 | |
Trong quan điểm tổ chức không gian lập Quy hoạch
Thủ đô Hà Nội
thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, sông Hồng là một trong 5 trục quan trọng với định hướng phát triển là không gian xanh, cảnh quan trung tâm, phát triển đô thị hài hòa hai bên sông. Với trục cảnh quan sông Hồng, diện mạo Thủ đô được phác họa là thành phố xanh, thông minh, thịnh vượng và thanh bình.
Hà Nội xác định sông Hồng là trục cảnh quan trung tâm thành phố trong tương lai. Ảnh: Nhật Nam.
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, nguyên Giám đốc Trung tâm Hà Nội học và phát triển Thủ đô khẳng định, sông Hồng đóng vai trò quyết định trong toàn bộ quá trình hình thành và biến đổi của vùng châu thổ, cùng với toàn bộ diễn tiến lịch sử, kinh tế, xã hội và văn hóa, đặc biệt với khu vực Hà Nội – trung tâm của
châu thổ sông Hồng
.
Thành phố Hà Nội đang chứng kiến quá trình đô thị hóa với tốc độ chóng mặt ở cả hai bên bờ sông Hồng. Bên cạnh hệ thống cầu, đường được xây dựng từ trước, một loạt cầu mới hiện đại, cùng các đường Vành đai 2, Vành đai 3, Vành đai 3,5 và đặc biệt là đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô Hà Nội đang được triển khai xây dựng. Hệ thống các tuyến đường giao thông hai bên bờ sông, nội đô, nội thị cũng được nâng cấp…
“Hệ thống giao thông ngày một hoàn chỉnh và hiện đại không chỉ kết nối hai bên bờ sông, toàn vùng châu thổ, mà đã kéo sông Hồng trở lại vị trí trung tâm, trục phát triển chủ đạo của Thủ đô Hà Nội”, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quang Ngọc khẳng định.
Trên cơ sở đó, Hà Nội quyết định chọn trục không gian sông Hồng là trục chủ đạo cho sự phát triển Thủ đô trong chủ trương xây dựng Thủ đô văn hiến – văn minh – hiện đại là quyết sách kịp thời và đúng đắn. Cùng với đó, thành phố cũng đã có kế hoạch phát triển các huyện nằm dọc sông Hồng thành quận (tả ngạn là Đông Anh, Gia Lâm; hữu ngạn là Đan Phượng, Hoài Đức, Thanh Trì). Ở phía Nam sông Hồng, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên cũng đang có tốc độ phát triển mạnh mẽ. Trong tương lai, khu vực này sẽ được nâng cấp trở thành một thành phố.
Kiến trúc sư Trần Ngọc Chính, Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam cũng cho rằng, sông Hồng có ý nghĩa hết sức quan trọng không chỉ với Thủ đô Hà Nội mà với cả vùng đồng bằng rộng lớn. Khai thác sông Hồng làm trục cảnh quan của Thủ đô là việc cần làm nhanh chóng. “Hiện vẫn chưa có dự án nào thực sự lớn để khai phá dòng sông đúng với tiềm năng, quỹ đất hiện có ngoài một số cây cầu được xây dựng”, kiến trúc sư Trần Ngọc Chính đặt vấn đề.
Sau nhiều năm chờ đợi, quy hoạch phân khu sông Hồng đã được UBND thành phố Hà Nội phê duyệt tháng 4-2022. Tuy nhiên, ông Trần Ngọc Chính cho rằng, để quy hoạch này thành hiện thực, cần sự vào cuộc tích cực, mạnh mẽ không chỉ chính quyền Thủ đô mà cả các bộ, ngành, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ về giải quyết những điểm còn vướng mắc.
Đồng tình với chủ trương của Hà Nội xác định quy hoạch sông Hồng là trục chính để phát triển, Tiến sĩ Nguyễn Đình Dương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế – xã hội Hà Nội góp ý thêm, quy hoạch sông Hồng không chỉ nghiên cứu trong phạm vi chiều dài 40km qua đô thị trung tâm mà cần xem xét toàn bộ 163km qua địa giới của Hà Nội. Đặc biệt, quy hoạch cần chú trọng đến an ninh nguồn nước không chỉ cho nhân dân Thủ đô mà cả vùng Đồng bằng sông Hồng. Do đó, Hà Nội cần kiến nghị với các tỉnh phía thượng lưu phải có giải pháp ổn định dòng chảy, an toàn hành lang thoát lũ, cùng phát triển bền vững. Đồng thời, các tỉnh phía thượng lưu cần cam kết rằng nguồn nước thải ra sông Hồng không trở thành gánh nặng cho các tỉnh phía hạ lưu, trong đó có Hà Nội.
Tiến sĩ, kiến trúc sư Đào Ngọc Nghiêm, Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam cho biết, việc nghiên cứu sông Hồng đã được thực hiện từ lâu với sự tham gia của các chuyên gia trong và ngoài nước, thể hiện qua 20 dự án lớn nhỏ khác nhau. Trên tinh thần kế thừa những nghiên cứu trước đó, quy hoạch sông Hồng phải được xem như dấu ấn của quá trình phát triển trong giai đoạn hiện nay với sự quan tâm đồng bộ, không những về kinh tế mà còn khai thác các giá trị văn hóa, lịch sử; nhận diện đầy đủ quỹ di sản còn lại hai bên sông. Ngoài ra, trong bối cảnh mới phải áp dụng khoa học công nghệ nhằm ổn định dòng chảy, đời sống dân cư và có sự tham gia của các bộ, ngành trung ương…
Cùng đưa ra các gợi ý để phát triển không gian hai bên bờ sông một cách bền vững, kiến trúc sư Phạm Thị Nhâm, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Quy hoạch đô thị nông thôn quốc gia (Bộ Xây dựng) cho rằng, phải tôn trọng tối đa tính thuận thiên, thuận theo các dòng chảy của sông Hồng, hạn chế bê tông hóa và không chất tải hạ tầng quá lớn hai bên bờ sông. Khu vực bãi sông cần tạo ra chuỗi các công viên, vườn hoa lớn giữa lòng Thủ đô để người dân dễ dàng tiếp cận, thụ hưởng.
Theo đại diện Viện Quy hoạch xây dựng Hà Nội, đơn vị lập Quy hoạch phân khu đô thị sông Hồng, đồ án đã đặt nền móng phát triển thành phố theo hướng “nhìn sông” thay vì “quay lưng” vào dòng sông. Theo định hướng quy hoạch, phân khu đô thị sông Hồng có chức năng chính là không gian thoát lũ, trục không gian đặc trưng cây xanh mặt nước, văn hóa, lịch sử, cảnh quan chủ đạo của đô thị trung tâm. Các công trình xây dựng chính là công trình công cộng, công viên cây xanh, văn hóa, dịch vụ du lịch, giải trí biểu tượng của Thủ đô. | Phát triển trục cảnh quan sông Hồng: Phác họa Hà Nội xanh | 1,136 | |
Tối 4/6, Hội Nhạc sĩ Việt Nam phối hợp Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang làm lễ bế mạc Liên hoan Âm nhạc toàn quốc đợt I năm 2023 tổ chức tại
thành phố Long Xuyên
,
tỉnh An Giang
sau 2 ngày trình diễn.
Trao giải cho các tác giả đạt giải A.
Đến dự có đồng chí Trần Thanh Lâm, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân, Bí thư Đảng Đoàn, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam; Thiếu tướng, nhạc sĩ Nguyễn Đức Trịnh – Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam cùng lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang và đại diện các sở ngành.
Liên hoan Âm nhạc Toàn quốc đợt I năm 2023 thu hút gần 200 nhạc sĩ, nghệ sĩ của 23 tỉnh, thành tham dự với 57 tác phẩm âm nhạc sáng tác mới được dàn dựng và trình diễn tại sân khấu Phim trường 4 Đài Phát thanh – Truyền hình An Giang. Liên hoan đã tạo nên một bữa tiệc âm nhạc khá lý thú, để lại cho công chúng yêu nhạc nhiều cảm xúc, ấn tượng tốt đẹp. Kết quả, Ban tổ chức đã trao 1 giải đặc biệt, 10 giải A, 19 giải B cho các cá nhân đoạt giải.
Liên hoan đã tạo nên một bữa tiệc âm nhạc khá lý thú.
Thay mặt Hội đồng thẩm định, Nghệ sĩ ưu tú Trần Vương Thạch, Chủ tịch Hội đồng thẩm định nhận xét, 57 tiết mục gồm 56 ca khúc, 1 tác phẩm thính phòng (Tứ tấu đàn dây), điều đáng mừng đầu tiên là liên hoan kỳ này ở khu vực Nam Bộ đã có những chuyển biến tích cực hơn về mặt chuyên môn so với lần trước.
Chủ đề sáng tác phong phú hơn, đặc biệt là những đề tài sát sườn với cuộc sống và xã hội, như chủ đề biển đảo. Có một số tiết mục được dàn dựng công phu với múa minh họa và hình ảnh đẹp. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận rằng còn những khía cạnh cần được tìm tòi và sáng tạo đột phá hơn nữa.
Những chủ đề sáng tác chưa bao quát được cuộc sống hiện thực ngày nay, hình thức sáng tác thì chủ yếu là ca khúc, có rất ít các hình thức khác, như chỉ có một tác phẩm tứ tấu dây, một tác phẩm mang phong cách hợp xướng, một số bài tốp ca… | Bế mạc Liên hoan Âm nhạc toàn quốc đợt I | 415 | |
Trong lịch sử của bất cứ dân tộc nào, mỗi cuộc cách mạng vẫn luôn tồn tại hai mặt được và mất. Cũng như trong bất cứ thể chế chính trị nào, cũng có cái ưu việt và những điều chưa được. Đó chính là quá trình hoàn thiện theo quy luật xã hội. Và, trong quá trình tiến hành các cuộc cách mạng để đi lên của nước ta cũng có chung quy luật ấy. Chính vì thế, trong quá trình vận hành có thể phải trả giá cho những sai lầm nghiêm trọng. Đó chính là thời kỳ của những “cơn đau đẻ kéo dài”.
Tiểu thuyết
Lốc xoáy
của nhà văn cựu chiến binh Võ Minh là tác phẩm viết về một quãng thời gian với tất cả những sự kiện làm nên “dấu ấn lịch sử” từ khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đến giai đoạn đầu công cuộc Đổi mới toàn diện. Tác phẩm gồm 3 phần.
Phần thứ nhất
“Trời long đất lở” viết về cuộc Cải cách ruộng đất những năm giữa thập niên 50 của thế kỷ trước. Đây là một “khúc quăn thắt” của lịch sử dân tộc mà nhiều điều đến hôm nay vẫn được coi là “nhạy cảm”.
Phần thứ hai
“Ma quỷ cõi người” viết về cách mạng văn hóa, xây dựng mô hình hợp tác xã nông nghiệp, mua bán và tín dụng… trong giai đoạn đất nước phải dồn sức tất cả cho tiền tuyến, tất cả vì thống nhất đất nước, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Đây là giai đoạn “kinh tế thời chiến”, hành chính quan liêu bao cấp.
Phần thứ ba
“Luật đời nhân quả” là những trang viết về những tháng năm đất nước thống nhất, tiến hành công cuộc Đổi mới, chấp nhận kinh tế tư nhân. Một giai đoạn hậu chiến tranh cùng những tác động mặt trái của cơ chế thị trường…
Lốc xoáy
là góc nhìn trực diện viết về cải cách ruộng đất và cuộc cách mạng văn hóa dưới hình thức “bài trừ mê tín dị đoan”, xây dựng mô hình hợp tác xã ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, cùng những hệ lụy của nó để lại và giai đoạn bắt đầu đổi mới, giai đoạn hậu chiến tranh… Có lẽ, từ độ lùi của thời gian, sự cởi mở trong sáng tác,
Lốc xoáy
đã dành trọn những trang viết về một sự kiện, về nỗi đau, về sai lầm của nhận thức trong ngay những chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ trong bộ máy công quyền, “cái gốc của cách mạng” trong những năm đầu của công cuộc xây dựng chế độ mới…
Lốc xoáy
là câu chuyện trong một không gian hẹp, về một vùng quê “cuộc sống bà con nơi làng quê xóm Lộc Thọ bao đời nay luôn bình yên, dân tình ra ngõ gặp nhau là chào hỏi, về đến nhà ơi ới gọi láng giềng đến nhà, cùng uống chung ấm nước chè xanh vừa mới nấu, nói với nhau đủ thứ chuyện trên đời, râm ran cả xóm”. Cuộc sống của một làng quê nghèo đang thanh bình bỗng cơn lốc xoáy cải cách ruộng đất ập đến như trận cuồng phong trời long đất lở. Cơn lốc ấy đã là mảnh đất cho cái ác hoành hành, đánh sập tất cả, kéo sập tất cả tình làng nghĩa xóm “tay bầu tay bí” làm cho con người với con người trở thành ác thú.
Tiếp sau “trận cuồng phong” cải cách ruộng đất là “cuộc cách mạng văn hóa”, với ý nghĩa bài trừ mê tín dị đoan, đập phá chùa chiền, bàn thờ gia tiên, thậm chí đốt sách vì “chữ Tàu, chữ Tây” dẫu đấy là những cuốn gia phả dòng họ, những tác phẩm văn học của loài người. Đó cũng là thời kỳ xây dựng mô hình hợp tác xã “đại công trường”. Cơn lốc thứ 2 này đã đem đến “Xã Đức Lộc đang bình yên bao đời nay bỗng nhiên ồn ào xáo động, đêm đêm, từ đầu làng đến cuối xóm tiếng chó thi nhau sủa inh tai, nhức óc liên hồi”. Cái bả quan chức hàng xã, xóm; cái lợi cỏn con vật chất đã dìm chết tất cả cái gì thuộc bản thiện của người, để lộ nguyên hình phần
con
của lòng tham, sự ti tiện, ngu muội, vô liêm sỉ, vô ơn, lươn lẹo, xảo trá, tận cùng của sự khốn nạn.
Vừa trải qua 2 cơn lốc vùi dập, những con người vùng đất yên ả Lộc Thọ lại phải đương đầu với cơn lốc thứ 3, một cơn lốc của lòng tham làm giàu bằng mọi giá, bằng bất cứ giá nào, với bất cứ thủ đoạn nào, miễn là có tiền khi chúng ta “nhận thức lại”, chấp nhận cơ chế thị trường trong đời sống xã hội. Dưới tác động của cơ chế thị trường, đồng tiền là sức mạnh, là duy nhất đúng, mua quan bán tước, những phẩm hàm được định giá bằng tiền, bằng những mối quan hệ “cửa sau”, “chống lưng” của người có chức, có quyền. Một giai đoạn đảo điên, có tiền là có tất cả. Mọi giá trị đạo đức bị đảo lộn. “Cái gốc của cách mạng” lại là không ít những quan tham biến chất từ lý tưởng đến đạo đức, phong cách, lối sống, tìm mọi cách bòn rút, tham ô, tham nhũng, lôi bè kéo cánh để làm giàu. Niềm tin của nhân dân bị đánh cắp; uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng và chính quyền giảm sút trầm trọng.
Không chỉ là “tường trình” lại sự kiện mang tính lịch sử tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của xã hội,
Lốc xoáy
đã đề cập đến nhận thức ấu trĩ, xơ cứng trong nhận thức học thuyết mà Đảng lấy làm nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động. Đó là nhận thức nóng vội, duy ý chí với tư tưởng là thống soái. Xuyên suốt quá trình lịch sử ấy, hiện lên chất lượng đội ngũ cán bộ “cái gốc của cách mạng” mà ở đó, đội ngũ cán bộ trưởng thành từ “rễ”, từ “cành” trong cải cách ruộng đất, biến chất với tất cả những gian manh, gian dối, lươn lẹo, trai gái, hủ hóa, trù dập, tham ô, lợi dụng vị trí có được để làm giàu…
Nếu ở phần “Trời long đất lở” là những câu chuyện, sự kiện đọc đến rợn người, kinh tởm về cái ác “thói đời” thì phần “Ma quỷ cõi người” làm cho ta ngột ngạt đến tức thở vì “người ăn thịt người”. Sang phần 3, “Luật đời nhân quả” là hệ quả của giai đoạn lịch sử trước để lại. Dường như ở giai đoạn này, tác giả đã giảm độ “căng” của sự kiện, cho ta thấy le lói của niềm tin vào “con đường đã lựa chọn”, vào những lớp cán bộ “mới”, song nó vẫn làm cho ta đau, ta sợ về “niềm tin liệu có bị đánh cắp”, lo lắng về chất lượng của đội ngũ cán bộ, “người đại diện” cho các tầng lớp, giai cấp, người lao động trong xã hội. Tất cả những kẻ mang danh cán bộ chính quyền, lũng đoạn, hãm hại, trù dập, tiếp tục là “cái gốc của công việc”, là “hạt nhân lãnh đạo” ở xã Đức Lộc và xóm Lộc Thọ. Một cán bộ Đội cải cách như Ngô Kiểm từng cho rằng “Đừng có chủ quan mà nghĩ: mình không có tội gì thì không sợ”. Không có tội thì họ gắn tội vào. “Họ thi nhau đi vận động những hộ nghèo đói trong làng tố giác những người trong làng có của hơn họ, bất kể quan hệ họ hàng máu mủ ruột thịt với mình”. Ông Đoàn trưởng, Chánh án Bường “Chẳng cần đọc để biết trong giấy ấy viết những gì, ông Chánh án cầm tờ giấy đặt lên chiếc cặp vừa kê trên chiếc yên xe, lăm lăm chiếc bút đã mở sẵn nắp trên tay, ký nhoằng nhoằng mấy vòng loằng ngoằng đen đậm, hằn rõ dưới khoảng trống của tờ giấy. Thời gian của ông Đoàn trưởng, Chánh án hoàn tất bốn bản án tử hình và các mức án khác có hiệu lực chỉ gói gọn độ mấy chục giây”. Họ coi mạng người như cỏ rác: “Cả xã đồng chí phụ trách mà chỉ có bốn tên tử hình thôi ư? Thôi được! Hôm nay tôi cho đồng chí nợ đấy! Nhưng sang đầu tháng sau phải có thêm một số tên địa chủ đưa ra xét xử tử hình nữa nhé!”.
Tuy nhiên, trong
Lốc xoáy
, Võ Minh cũng nâng niu cái truyền thống “tay bầu tay bí”, cái văn hóa làm nên một dân tộc chịu cả ngàn năm Bắc thuộc vẫn giữ được cốt cách lấy yêu thương và đùm bọc làm trọng của con người. Đó là những cán bộ, đảng viên trung kiên, những con người “mới” như ông Năm, Hoa, Quýnh, Minh Quang…
Ở mỗi giai đoạn, mỗi sự kiện lịch sử luôn là mảnh đất cho những người cầm bút lý giải thân phận con người trong giai đoạn ấy. Đó là một trong những chức năng của người viết. Qua những trang viết, từ tư tưởng, thân phận nhân vật trong tác phẩm, những tổ chức, cá nhân trong thể chế đó, nhận ra cái chưa được để điều chỉnh, hoàn thiện các chính sách nhằm thực hiện mục tiêu “dĩ dân vi bản”; tránh đi lại những sai lầm trong quá khứ, để cắt “cơn đau đẻ không kéo dài” cùng những sự kiện đớn đau mỗi khi nhắc lại, kể lại.
Với câu chuyện diễn ra một thời gian dài trong không gian hẹp,
Lốc xoáy
ăm ắp những sự kiện làm cho người đọc có cảm tưởng các chi tiết, số phận nhân vật bị ép lại, chật cứng mà chưa thật được tác giả “phóng bút” đẩy đến tận cùng? Mong là thế, ước là thế, nhưng vẫn biết,
Lốc xoáy
cũng đã là quá trình “cơn đau đẻ kéo dài” mà Võ Minh trăn trở, đau đáu về nó để có được đến tay bạn đọc.
_______
* Tiểu thuyết Lốc Xoáy của Võ Minh, Nxb Phụ nữ, 2022 | Như một “Cơn đau đẻ kéo dài”* – Tác giả: Hoàn Nguyễn | 1,743 | |
Sáng lên một cách ma quái trong tầm nhìn của đài thiên văn vô tuyến, hàng trăm cấu trúc không thể lý giải có thể là tàn tích của một sự kiện khốc liệt liên quan đến lỗ đen Sagittarius A*
Nghiên cứu dẫn đầu bởi GS Farhad Yusef-Zadeh từ Trường ĐH Northwestern ở Illinois –
Mỹ
cho biết đó là những cấu trúc dạng sợi, trông như đàn rắn hay những sợi dây khổng lồ, rối rắm, dài từ 5-10 năm ánh sáng – tức gấp vài ngàn lần khoảng cách Mặt Trời – Sao Diêm Vương.
Những cấu trúc bí ẩn, khổng lồ, như đàn rắn hay mớ tơ nhện rối rắm, đan xen nhau quanh “lỗ đen quái vật” Sagittarius A* – Ảnh: TRƯỜNG ĐH NORTHWESTERN Ở ILLINOIS.
Đó là những cấu trúc vô tuyến bí ẩn được phát hiện nhờ MeerKAT, một mạng lưới 64 ăng-ten vô tuyến được liên kết với nhau ở Nam Phi, theo bài công bố trên
The Astrophysical Journal Letters.
Chúng khá giống những sợi năng lượng xếp thành hàng dọc từng được quan sát trong thiên hà Milky Way (chứa Trái Đất), song lại trông như phun ra – hoặc đang chui vào – một phía của lỗ đen Sagittarius A*.
Sagittarius A* là thứ mà các nhà khoa học gọi là “lỗ đen quái vật”, tức dạng lỗ đen siêu khối lớn nhất trong các loại lỗ đen, là “trái tim” của thiên hà Milky Way.
“Có vẻ đây là kết quả của sự tương tác vật chất với các vật thể gần đó” – GS Yusef-Zadeh nhận xét.
Một cách hình tượng hơn, những con “rắn vũ trụ” ma quái này có thể là “vết sẹo chưa lành” của vùng không gian quanh “lỗ đen quái vật”, tàn tích hiếm thấy của một vụ phun trào lỗ đen chỉ mới 6 triệu năm trước.
Trước đây, người ta cho rằng quái vật Sagittarius A* là lỗ đen đã ngừng hoạt động. Nhưng vài năm qua, thỉnh thoảng nó lại đưa đến cho chúng ta một tín hiệu lạ. Đây là một trong những bằng chứng đó, cho thấy “quái vật” có thể đôi khi vẫn tỉnh thức.
Điều này cũng cho thấy rõ ràng có nhiều hoạt động chưa thể hiểu rõ ẩn nấp trong vùng không gian nơi người ta tưởng rằng trống rỗng và khắc nghiệt ở trung tâm thiên hà, mà nhóm nghiên cứu hy vọng sẽ tiếp tục khám phá thông qua các quan sát vô tuyến mới. | ‘Rắn vũ trụ’ khổng lồ đang chui vào ‘lỗ đen quái vật’ gần Trái Đất nhất | 412 | |
Sáng 5-6, tại Phủ Chủ tịch,
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng
tiếp Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Hoa Kỳ tại Việt Nam Marc E.Knapper.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tiếp Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Marc E.Knapper. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN.
Tại buổi tiếp, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đánh giá cao ngài Đại sứ thời gian qua đã tích cực có các cuộc làm việc với các cơ quan chức năng của Việt Nam; đi thăm nhiều địa phương nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả.
Ngài Marc E.Knapper chia sẻ vinh dự được trở lại Việt Nam làm việc, đảm nhận trọng trách Đại sứ Hoa Kỳ, nhất là vào dịp hai nước kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện. Trong thời gian vừa qua, Đại sứ luôn nhận được sự hợp tác tích cực của các cơ quan chức năng của Việt Nam.
Đại sứ Hoa Kỳ bày tỏ vui mừng vì hai nước đã đạt được nhiều thành tựu sau 28 năm bình thường hóa quan hệ, 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện và cho rằng, kết quả này có được là nhờ nỗ lực lớn của các cơ quan hữu quan hai nước.
Đại sứ cho biết, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden vui mừng về kết quả điện đàm cấp cao với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tháng 3 vừa qua. Đại sứ cho rằng, trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức toàn cầu, việc hai nước tăng cường hợp tác có ý nghĩa quan trọng vì hòa bình, thịnh vượng trong khu vực và trên thế giới.
Thông tin về việc đoàn doanh nghiệp Hoa Kỳ sang thăm Việt Nam mới đây rất mong muốn đầu tư trong các lĩnh vực: Y tế, công nghệ cao và nhất là giáo dục, đào tạo, Đại sứ nhấn mạnh, giáo dục, đào tạo là lĩnh vực trung tâm trong quan hệ hợp tác hai nước với những dự án hiệu quả. Tiêu biểu là mô hình Đại học Fulbright tại Việt Nam đạt nhiều thành công trong thời gian qua.
Đại sứ Marc E.Knapper khẳng định, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Việt Nam trong khắc phục hậu quả chiến tranh, bao gồm giải quyết vấn đề ảnh hưởng do chất độc da cam/dioxin để lại, rà phá bom mìn và tìm kiếm người mất tích sau chiến tranh.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tiếp Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Marc E. Knapper. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN.
Đánh giá cao nỗ lực của Đại sứ Hoa Kỳ trong việc thúc đẩy quan hệ song phương cũng như những tình cảm dành cho đất nước, con người Việt Nam, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng nêu rõ, Việt Nam luôn coi trọng việc phát triển quan hệ hợp tác với Hoa Kỳ, luôn coi Hoa Kỳ là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu.
Đề cập đến kết quả tốt đẹp của cuộc điện đàm cấp cao giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden tháng 3 vừa qua, Chủ tịch nước nêu rõ, cuộc điện đàm đã đưa ra nhiều thông điệp, định hướng quan trọng cho việc phát triển quan hệ hai nước trong dài hạn. Hai Nhà Lãnh đạo đã giao cho các cơ quan hữu quan hai nước xúc tiến quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực.
Tán thành với nhận định của Đại sứ cho rằng, với sự nỗ lực của cả hai bên, quan hệ hai nước đang ở giai đoạn phát triển hết sức tốt đẹp, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đề nghị các cơ quan chức năng hai nước phối hợp chặt chẽ để tổ chức thành công các hoạt động kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện, đáp ứng mong đợi của nhân dân hai nước.
Để tiếp tục làm sâu sắc hơn quan hệ
Việt Nam
–
Hoa Kỳ
trong thời gian tới, Chủ tịch nước đề nghị hai bên tăng cường hơn nữa các hoạt động trao đổi đoàn, tiếp xúc cấp cao và các cấp; xúc tiến nhiều hơn nữa các chương trình, dự án hợp tác song phương trên mọi lĩnh vực, mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai nước, đồng thời đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển tại khu vực và trên thế giới.
Về hợp tác kinh tế, thương mại, Chủ tịch nước nhấn mạnh, Việt Nam luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ đến tìm hiểu cơ hội đầu tư, hợp tác kinh doanh tại Việt Nam. Chủ tịch nước đề nghị hai bên khai thác tốt hơn nữa dư địa hợp tác trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, nhất là các chương trình giáo dục của Hoa Kỳ đang triển khai rất thành công tại Việt Nam như Đại học Fulbright, đem lại nhiều ý nghĩa thiết thực cho nhân dân hai nước.
Chủ tịch nước cũng đề nghị hai bên mở rộng hơn nữa hợp tác quốc phòng, an ninh; đặc biệt là việc khắc phục hậu quả chiến tranh, các chương trình nhân đạo, nhất là xử lý ảnh hưởng chất độc da cam/dioxin tại Việt Nam; góp phần quan trọng vào quá trình hòa hợp, hàn gắn và xây dựng lòng tin giữa hai nước, đồng thời mở ra những cơ hội hợp tác mới trong các lĩnh vực quan trọng khác. | Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tiếp Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam | 934 | |
Sáng 5/6, tại TP Vị Thanh, UBND
tỉnh Hậu Giang
phối hợp với Hội Tin học TP HCM, Cơ quan Hàng không và Không gian Hoa Kỳ (NASA) tổ chức khai mạc Tuần lễ NASA Việt Nam – Hậu Giang 2023.
Các em học sinh giao lưu với cựu phi hành gia Michael. A. Baker.
Các em học sinh có dịp nghe cựu phi hành gia Michael. A. Baker và ông Josef Schmid – Bác sĩ phẫu thuật trên tàu vũ trụ của NASA kể về cuộc sống trên vũ trụ.
Ngoài ra, các em còn được chia sẻ về những nghiên cứu khoa học làm sao bảo vệ trái đất, tránh ô nhiễm môi trường, cảnh báo rủi ro va chạm với các hành tinh khác, sự sống ngoài trái đất và người ngoài không gian…. Qua đó, giáo dục hướng nghiệp, định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ.
Cựu phi hành gia Michael. A. Baker.
Ông Lâm Nguyễn Hải Long, Chủ tịch Hội Tin học TP HCM cho rằng tỉnh Hậu Giang được chọn là địa điểm đăng cai tổ chức là cơ hội để các bạn sinh viên, học sinh của tỉnh và các địa phương vùng ĐBSCL tìm hiểu thêm quá trình cống hiến của các phi hành gia dành cho khoa học.
“Phi hành gia là những người sẵn sàng chịu đựng những thiệt hại lớn, thậm chí cả sinh mạng của mình để thực hiện mục đích cao đẹp cho khoa học.
Chắc có lẽ tất cả chúng ta ở đây điều tin rằng, họ chính là những tấm gương sáng, là động lực, là niềm cảm hứng đại diện cho trí tuệ của con người trong việc khám phá những thành tựu mới cũng như giải đáp những câu hỏi mà nhiều thế hệ loài người chưa trả lời được”, ông Long nói.
Ông Đồng Văn Thanh, Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang cho biết, các hoạt động của Tuần lễ không gian Việt Nam – Hậu Giang 2023 sẽ là dịp để sinh viên, học sinh địa phương và các tỉnh củng cố kiến thức và hình thành kiến thức mới thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo STEM.
Ông Đồng Văn Thanh – Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang phát biểu tại lễ khai mạc.
Đồng thời, sự kiện còn tạo điều kiện cho học sinh thực hành khám phá khoa học kỹ thuật, ứng dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống. Từ đó, định hướng nghề nghiệp và tổ chức hoạt động giáo dục trải nghiệm, thúc đẩy tư duy sáng tạo cho thanh thiếu niên. Khuyến khích mọi người tìm hiểu thêm về các sứ mệnh, khám phá tiến bộ công nghệ của Cơ quan Hàng không, vũ trụ Hoa Kỳ thông qua các hoạt động giáo dục, tài nguyên trực tuyến và các sự kiện cộng đồng.
“Tôi tin rằng với ý nghĩa to lớn của sự kiện Tuần lễ không gian Việt Nam lần này sẽ là cơ hội, bước đệm lớn để khám phá khoa học và đổi mới sáng tạo phát triển, nhất là các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, khoa học vũ trụ. Góp phần truyền cảm hứng và thúc đẩy đam mê nghiên cứu khoa học, khám phá thế giới của thanh, thiếu niên Việt Nam nói chung, đặc biệt là thế hệ trẻ Hậu Giang nói riêng”, ông Đồng Văn Thanh nói.
Tuần lễ NASA Việt Nam được tổ chức tại Hậu Giang trong 2 ngày (5 và 6/6). Sau đó, sự kiện này sẽ tổ chức tại TP Thủ Đức (TP HCM) vào ngày 7/6 và tại Bình Định trong 2 ngày (8 và 9/6). Đây là lần đầu tiên chương trình này được triển khai ở một quốc gia Đông Nam Á. | Cựu phi hành gia NASA giao lưu với giới trẻ Hậu Giang | 624 | |
Đến thời điểm này, kiểm lâm viên đã phát hiện 27 loài thú thuộc bộ gặm nhấm thuộc 4 họ khác nhau gồm sóc cây, chuột, dúi, nhím, trong đó có nhiều loài có nguy cơ tuyệt chủng trong Sách đỏ Việt Nam.
Một phần cảnh quan thiên nhiên của Vườn Quốc gia Bến En, Thanh Hóa. (Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa).
Ban quản lý Vườn Quốc gia Bến En,
tỉnh Thanh Hóa
đang triển khai nhiệm vụ khoa học “Điều tra đánh giá thực trạng các loài thú gặm nhấm và xây dựng kế hoạch bảo tồn, phát triển một số loài quý hiếm, có giá trị kinh tế tại Vườn Quốc gia Bến En (giai đoạn 2022-2024)” nhằm bảo tồn các loài thú trong Bộ gặm nhấm (Rodentia).
Đến thời điểm này, kiểm lâm viên đã phát hiện 27 loài thú thuộc bộ gặm nhấm thuộc 4 họ khác nhau gồm sóc cây, chuột, dúi và nhím, trong đó có nhiều loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam.
Phó Giám đốc Ban quản lý Vườn Quốc gia Bến En Nguyễn Đình Hiếu cho biết trong thời gian thực hiện nhiệm vụ khoa học, các kiểm lâm viên tiến hành điều tra, đánh giá hiện trạng phân bố trên 60 tuyến; nghiên cứu về đặc điểm sinh cảnh sống, xác định các mối đe dọa đến các loài thú gặm nhấm tại các khu rừng Bến En.
Kiểm lâm viên sẽ phối hợp với các đơn vị liên quan chụp ảnh, thu thập mẫu của các loài thú quý hiếm để phục vụ điều tra, giám sát.
Bên cạnh đó, các kiểm lâm viên tổ chức tập huấn nâng cao năng lực bảo tồn đa dạng sinh học cho 54 cán bộ của chính quyền địa phương, tổ chức 34 hội nghị tuyên truyền tại các thôn vùng đệm cho 2.380 người dân; nâng cao nhận thức bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và các loài gặm nhấm nói riêng.
Kiểm lâm viên phát hành 1.500 tờ rơi giới thiệu về một số loài gặm nhấm, xây dựng kế hoạch bảo tồn, bản đồ phân bố và thực hiện nuôi thử nghiệm 2 mô hình chăn nuôi dúi mốc lớn và dúi má đào quy mô 40 cá thể để tìm phương án nhân rộng.
Việc thực hiện nhiệm vụ khoa học này sẽ giúp Ban quản lý Vườn Quốc gia Bến En bảo tồn các loài động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng và thu hút khách đến tham quan du lịch, tạo thêm việc làm cho người dân địa phương, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học.
Thời gian tới, Ban quản lý Vườn Quốc gia Bến En sẽ tiếp tục điều tra, giám sát và nuôi thử nghiệm thêm nhiều loài thú gặm nhấm khác để đánh giá toàn diện hơn. Từ đó, các bộ phận chức năng xác định được hiện trạng quần thể, bổ sung đặc điểm sinh học, sinh thái, vấn đề bảo tồn và phục hồi quần thể của các loài thú gặm nhấm hiện có.
Theo thống kê của Ban quản lý Vườn Quốc gia Bến En, trong các loài thú gặm nhấm mới phát hiện, có sóc bay lông tai (Belomys pearsoni) và sóc đen (Ratufa bicolor) là những loài quý hiếm, đang trong trạng thái cực kỳ nguy cấp, có nguy cơ tuyệt chủng theo danh mục Sách đỏ Việt Nam năm 2007.
Do đó, việc thực hiện dự án này sẽ cho kết quả quan trọng để triển khai hoạt động nghiên cứu về đặc điểm phân bố, tập tính, thức ăn, đặc điểm sinh cảnh sống, từ đó xây dựng kế hoạch, đề xuất giải pháp bảo tồn hiệu quả các loài thú gặm nhấm tại Bến En./. | Vườn Quốc gia Bến En bảo tồn, phát triển các loài thú gặm nhấm quý | 628 | |
Một vụ lở núi nghiêm trọng xảy ra ở quận Kim Khẩu Hà, Thành phố Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên,
Trung Quốc
vào ngày 4/6 đã khiến 19 người tử vong.
Theo truyền thông Trung Quốc, vụ lở núi xảy ra vào khoảng 6h sáng 4/6, sườn núi bên dưới vụ lở là công trường đang thi công của một công ty khai thác mỏ. Vụ lở núi đã chôn vùi một phần thiết bị sản xuất, sinh hoạt, xe cộ, nhiều lều bạt cũng bị chôn vùi và hư hỏng.
Một vụ sạt lở đất thuộc tỉnh Tứ Xuyên, tây nam Trung Quốc, hồi tháng 8-2019. Ảnh: AFP.
Sau khi vụ việc xảy ra, chính quyền tỉnh Tứ Xuyên đã huy động lực lượng cứu nạn và cứu hộ đến hiện trường. Thành phố Lạc Sơn đã tổ chức cho hơn 180 người bao gồm công an và dân quân, mang theo các thiết bị cứu hộ chuyên nghiệp, đến hiện trường thực hiện công tác tìm kiếm cứu nạn.
Tính đến 17h giờ chiều 4/6, vụ tai nạn đã khiến 19 người thiệt mạng.
Theo báo cáo, hiện công tác tìm kiếm và cứu nạn tại hiện trường đã kết thúc, các công nhân trong khu vực khai thác được sơ tán đến nơi an toàn và chính quyền đang tiến hành điều tra làm rõ nguyên nhân của vụ tai nạn./. | Tai nạn lở núi nghiêm trọng khiến 19 người thiệt mạng ở Tứ Xuyên (Trung Quốc) | 227 | |
Tiểu thuyết gia Gospodinov nâng cúp chiến thắng.
Tác phẩm của Georgi Gospodinov dịch bởi Angela Rodel là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Bulgari giành được giải thưởng danh giá này.
Là cuốn tiểu thuyết có cấu trúc phức tạp,
Time Shelter
xoay quanh một bác sĩ tâm thần thành lập một phòng khám tư ở Thụy Sĩ để giúp những người mắc Alzheimer có thể tìm lại kí ức của mình. Phòng khám bao gồm 8 không gian lớn được tái tạo lại theo các thời đại ở trong quá khứ, từ thực phẩm, các loại thuốc lá, âm nhạc… cho đến những tờ nhật báo được ra thường ngày vào giai đoạn đó. Thử nghiệm này rất thành công, từ đó “tiếng lành đồn xa” ra khỏi bức tường bệnh viện.
Leïla Slimani, tác giả người Pháp gốc Maroc từng chiến thắng giải thưởng Goncourt, là chủ tịch hội đồng giám khảo năm nay, nhận định về tiểu thuyết này như sau: “
Time Shelter
là cuốn tiểu thuyết xuất sắc, đầy trớ trêu nhưng cũng u sầu”. Nó chứa những cảnh “đau lòng” khiến ban giám khảo phải tự hỏi mình “làm thế nào mà kí ức có thể trở thành nền tảng cho bản sắc chúng ta”. Cô cũng nói thêm đây là “một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời về châu Âu, vùng đất đang cần một tương lai mới, nơi mà quá khứ được tái tạo từ những nỗi hoài nhớ đã là thuốc độc suốt các năm qua.” Slimani cũng tiết lộ rằng hội đồng giám khảo mất hơn 3 giờ tìm ra được người chiến thắng, nhưng không có những tranh luận lớn tiếng hay “đẫm máu” nào.
Ngoài là cuốn sách hư cấu ở phía bề mặt, thì các nhà phê bình cũng đã nhấn mạnh liệu có hay không Gospodinov cũng đã gửi gắm trách nhiệm chính trị trong tác phẩm này. Adrian Nathan West, trong một bài đánh giá cho tờ
The New York Times Book Review
, đã nói rằng khi đọc
Time Shelter
thì người ta “không thể không nghĩ đến những biến động đằng sau các sự kiện lớn, như Brexit, tranh chấp ở Ukraine cũng như nỗ lực để biến nước Mĩ vĩ đại thêm một lần nữa…”
Phát biểu trong lúc nhận giải, Gospodinov nói rằng: “Cuốn tiểu thuyết này được tôi viết ra vừa mang tính chất cá nhân lại vừa mang tính chính trị”. Rodel, dịch giả của cuốn tiểu thuyết, cũng cảm ơn ban giám khảo vì đã “khai thác những kho tàng quý của nền văn học và dịch thuật thế giới, để thấy chúng rất xứng đáng với việc khai quật”.
Sinh năm 1974 tại Minnesota, Hoa Kì, Rodel có niềm đam mê lớn với nhạc dân gian của Bungari, cũng như văn chương của đất nước này. Gần đây cô cũng thực hiện một bản dịch khác từ tác phẩm của Georgi Markov, một nhà bất đồng chính kiến người Bulgari, từng bị ám sát ở London năm 1978.
Đây là cuốn sách đầu tiên của Bungari đã được đề cử và cũng là cuốn sách đầu giành được chiến thắng. Sự kiện lần này cũng trùng với ngày 24 tháng 5 – ngày mà Bulgari kỉ niệm bảng chữ cái và văn học Slavonic. Trên các phương tiện truyền thông địa phương, người Bulgari so sánh chiến thắng này với bước đột phá khác vào World Cup 1994, khi đất nước này đã được công nhận một cách đặc biệt.
Tiểu thuyết gia Gospodinov nâng cúp chiến thắng.
Gospodinov, 55 tuổi, là người Bulgari đầu tiên đoạt giải Booker Quốc Tế. Theo đó,
Time Shelter
là cuốn tiểu thuyết thứ 3 được dịch sang tiếng Anh của ông, và đã đánh bại 5 cuốn sách khác. Sinh năm 1968 tại thành phố nhỏ Yambol, ông hiện là một trong những nhà văn thành công nhất của đất nước mình. Ông từng là một nhà thơ trước khi chuyển sang viết tiểu thuyết, và cuốn hư cấu đầu tiên của ông,
Natural Novel
(tạm dịch:
Tiểu thuyết như nó vốn là
) đã được xuất bản vào năm 1999.
Tác giả của cuốn
Điều thuộc về em
– Garth Greenwell từng viết trên tờ
The New Yorker
năm 2015 rằng chính tác phẩm đầu tay này đã đưa Gospodinov “lên vị trí hàng đầu trong thế hệ các nhà văn Bulgari xuất hiện sau quá trình chuyển đổi của đất nước này sang chế độ dân chủ.”
Đánh giá về văn nghiệp ông, một số nhà phê bình đã nhận định rằng các tác phẩm của Gospodinov thường lấy cảm hứng từ xã hội và chính trị Bungari hoặc những nhận thức bên ngoài về khu vực Đông Âu. Theo đó cuốn sách thứ 2 – tiểu thuyết
The Physics of Sorrow
(tạm dịch:
Thể chất của nỗi buồn
) kể về một nhân vật chính hiện đang tồn tại ở một đất nước mà được cho rằng “buồn nhất thế giới”. Nó lấy cảm hứng từ những khuôn sáo thuộc về phương Tây khi nhìn nhận về tính khí của người Đông Âu.
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây về Giải Booker Quốc tế, Gospodinov cho biết
Time Shelter
được viết khi ông nhìn rộng ra khỏi biên giới đất nước, và được truyền cảm hứng từ xu hướng toàn cầu hóa hướng tới chủ nghĩa dân túy. Khi được xuất bản tại đất nước mình, cuốn tiểu thuyết này đứng đầu trong bảng xếp hạng tác phẩm bán chạy, cũng như giành được giải thưởng Strega European liền ngay sau đó.
Chiến thắng của
Time Shelter
đánh dấu năm thứ hai liên tiếp giải thưởng được trao cho một cuốn sách viết bằng ngôn ngữ chưa từng xuất hiện trước đó. Người chiến thắng năm ngoái,
Tomb of Sand
(tạm dịch: Mộ cát) của Geetanjali Shree, do Daisy Rockwell dịch, là cuốn tiểu thuyết đầu tiên được dịch từ tiếng Hindi lần đầu tiên giành chiến thắng.
Fiammetta Rocco, thành viên quản lý của giải Booker Quốc tế cho
biết “
mặc dù tiểu thuyết dịch thuật được xuất bản ở Anh luôn có cách nhìn tương đối đặc biệt về mặt văn chương, nhưng tôi không nghĩ đó là số ít. Những ngày gần đây đã có một sự chuyển biến đang được diễn ra. Chúng ngày càng phổ biến hơn trong phạm vi của các nhà xuất bản độc lập, bằng ngôn ngữ mà chúng tôi chưa từng nhìn thấy trước đây.”
Nói về chiến thắng lần này, Gospodinov cũng chia sẻ rằng
:
“nó sẽ khuyến khích thêm nhiều nhà văn không chỉ đến từ đất nước của tôi, mà còn từ vùng Balkan – những người vẫn thường cảm thấy là mình nằm ngoài phạm vi chú ý của những độc giả nói tiếng Anh. Người ta thường nói ‘các chủ đề lớn’ được dành cho ‘các nền văn học lớn’, hoặc các nền văn học được viết bằng ngôn ngữ lớn. Trong khi ngôn ngữ nhỏ, bằng cách nào đó lại theo mặc định là dành cho tính địa phương cũng như ngoại lai. Các giải thưởng như Giải Booker Quốc tế đang thay đổi hiện trạng đó và điều này rất, rất quan trọng. Tôi nghĩ mọi ngôn ngữ đều có khả năng kể các câu chuyện về thế giới này và cũng là của mỗi một cá nhân”.
NGÔ THUẬN PHÁT
dịch theo The Guardian và Website của giải Booker. | “Time Shelter” giành giải Booker Quốc tế – NGÔ THUẬN PHÁT dịch | 1,213 | |
Được thiên nhiên ưu đãi với nhiều cảnh quan đẹp, hấp dẫn cùng bề dày lịch sử, văn hóa trải rộng khắp các vùng miền,
tỉnh Quảng Ngãi
đang nỗ lực từng bước đầu tư, hình thành các sản phẩm độc đáo, nổi bật và thu hút du khách để đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Quảng Ngãi có đường bờ biển dài hơn 130km, với nhiều bãi tắm đẹp như: Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Khe Hai. Kết hợp với sự đa dạng và đan xen kỳ diệu của địa hình, khí hậu nhiệt đới gió mùa, tỉnh có hệ sinh thái rất phong phú, nhiều danh lam, thắng cảnh nổi tiếng như núi Cà Đam, thác Trắng, suối Chí. Nơi đây cũng là mảnh đất giao thoa của các nền văn hóa Chămpa, Sa Huỳnh và văn hóa người Việt cổ. Tinh hoa của các nền văn hóa lớn vẫn còn thấm đẫm trong từng di tích, di chỉ văn hóa, lối sống, phong tục, tập quán, nghi lễ, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian, nghệ thuật ẩm thực của cư dân bản địa. Đến với Quảng Ngãi, du khách còn được tham gia các lễ hội mang đậm nét văn hóa lúa nước, văn hóa biển và thưởng thức những món đặc sản.
Trong các giải pháp phát triển ngành du lịch, tỉnh đặc biệt quan tâm công tác quy hoạch, huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Trong đó, ưu tiên bố trí nguồn lực để lập quy hoạch xây dựng các khu du lịch trọng điểm phù hợp với quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 làm cơ sở đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và thu hút đầu tư phát triển du lịch.
Thắng cảnh Thạch Ky Điếu Tẩu hay còn gọi là Lão câu ghềnh đá, Bàn chân khổng lồ, cách trung tâm thành phố Quảng Ngãi 16km hiện là điểm đến hấp dẫn du khách
– Ảnh: TTXVN.
Khi nói về vùng đất này không thể không nhắc tới đảo Lý Sơn với thắng cảnh thiên nhiên độc đáo.
Đảo Lý Sơn
cách đất liền 15 hải lý, với diện tích hơn 10km. Không những có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng – an ninh, đảo tiền tiêu Lý Sơn còn là điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Lý Sơn nổi tiếng bởi có kiến tạo địa chất đặc biệt, từ hiện tượng phun trào và tắt đi của núi lửa hàng triệu năm trước đã tạo nên nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ bí, mê hoặc lòng người, như: vách đá Hang Câu, chùa Hang, cổng Tò Vò, miệng núi lửa Giếng Tiền, Thới Lới… Nơi đây còn lưu giữ nhiều vết tích của cư dân Sa Huỳnh 2.500 năm trước. Đảo hiện có 30 điểm di sản địa chất và văn hóa đan xen lẫn nhau. Những độc đáo về địa chất, văn hóa có ý nghĩa rất lớn trong nghiên cứu khoa học cũng như phát triển các loại hình sản phẩm du lịch trên đảo.
Bãi Hang ở đảo bé Lý Sơn cũng là điểm đến du khách không thể bỏ qua. Với cảnh quan tuyệt đẹp, nước biển xanh ngắt, những bãi cát trắng mịn, bãi Hang là nơi du khách có thể hòa mình vào làn nước mát lạnh sau hành trình khám phá các điểm tham quan trên cụm đảo. Lý Sơn còn hấp dẫn du khách bởi người dân trên đảo có phương thức canh tác độc đáo tạo nên thương hiệu tỏi Lý Sơn, hay “vàng trắng” giữa đại dương.
Một điểm đến khác hiện thu hút du khách đó là
ghềnh đá Thạch Ky Điếu Tẩu
có những cột đá hình thù độc đáo, tựa như ghềnh Đá Đĩa ở Phú Yên, hòa quyện với làn nước xanh biếc nơi cửa biển Sa Kỳ tạo nên cảnh sắc ấn tượng. Được hình thành từ quá trình phun trào của núi lửa hàng triệu năm trước, Thạch Ky Điếu Tẩu là những cột đá có hình tròn, lăng trụ xếp chồng lên nhau, kéo dài từ bờ đất liền ra biển. Tạo hóa đã ưu ái khi ban tặng cho ghềnh đá này những bãi đá với nhiều hình thù độc, lạ hòa quyện vào làn nước biển xanh biếc làm say lòng người. Mang vẻ đẹp kỳ vĩ nhưng chưa được khai thác, thắng cảnh Thạch Ky Điếu Tẩu có rất nhiều tiềm năng để Quảng Ngãi giới thiệu và phát triển du lịch.
Thanh Trà
(tổng hợp) | Quảng Ngãi khai thác tiềm năng, thế mạnh về biển | 774 | |
Ngày 6/5, cơ quan chức năng Philippines đã nâng cảnh báo phun trào của núi lửa Mayon ở tỉnh Albay, miền Trung nước này lên mức số 2 – mức ‘khó kiểm soát’.
Viện núi lửa và địa chấn học Philippines (Phivolcs) cho biết mức cảnh báo số 2 có nghĩa là núi lửa Mayon đang thể hiện tình trạng bất ổn ngày càng tăng, có thể xuất hiện các đợt phun trào hơi nước nóng và phun trào magma lớn, nguy hiểm.
Núi Mayon tại Philippines có thể phun trào trở lại (Ảnh: GMA News).
Theo quan sát của Phivolcs, từ cuối tháng 4/2023 đã có sự gia tăng hiện tượng đá rơi từ mái vòm dung nham trên đỉnh núi lửa Mayon. Kể từ tháng 4 đến nay đã ghi nhận 318 vụ đá rơi và 26 vụ động đất núi lửa. Từ ngày 4 – 5/6, số vụ đá rơi tăng từ 5 vụ/ngày lên 49 vụ/ngày. Vòng dung nham của núi lửa Mayon có sự thay đổi về hình thái với xu hướng phình to.
Việc nâng mức cảnh báo diễn ra gần ba tháng sau khi Phivolcs hạ cấp trạng thái của núi lửa Mayon xuống Cảnh báo mức số 1 – mức “có dấu hiệu bất ổn”.
Phivolcs đã yêu cầu người dân cảnh giác, không đi vào Khu vực nguy hiểm có bán kính 6 km quanh núi lửa Mayon để đề phòng núi lửa bất ngờ phun trào, gây lở đất đá và tro bụi nóng. Trường hợp tro bụi núi lửa rơi xuống, người dân được yêu cầu che mũi bằng khăn ẩm hoặc dùng mặt nạ chống bụi. Nhà chức trách Philippines cũng yêu cầu các phi công tránh đưa máy bay bay gần đỉnh núi Mayon vì các vụ phun trào đột ngột có thể gây mất an toàn hàng không.
Núi Mayon cao 2.464m thuộc tỉnh Albay nằm trên đảo Luzon, cách thủ đô Manila 300km về phía Đông Nam là một trong những ngọn núi lửa hoạt động thường xuyên và mạnh nhất ở
Philippines
. Đây cũng là một điểm đến du lịch được ưa thích tại Philippines. Lần phun trào dữ dội nhất của núi lửa Mayon vào năm 1814 đã cướp đi sinh mạng của hơn 1.200 người và vùi lấp 3 thị trấn. Lần gần đây nhất núi lửa Mayon phun trào là năm 2018./. | Philippines nâng cảnh báo núi lửa Mayon lên mức ‘khó kiểm soát’ | 394 | |
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường Đặng Quốc Khánh phát biểu tại thảo luận tổ.
Chiều 5/6, thảo luận tại tổ về Dự án Luật tài nguyên nước (sửa đổi), đại biểu Quốc hội cho rằng, cần đề cập đến việc bảo vệ nguồn tài nguyên nước xuyên biên giới; cần quy định cụ thể về nguồn lực để bố trí cho các hoạt động của các tổ chức lưu vực sông được hiệu quả.
Đại biểu Quốc hội Tạ Đình Thi (Đoàn
Thành phố Hà Nội
) đồng tình việc sửa đổi Luật Tài nguyên nước là kịp thời, đúng thời điểm. Dự án Luật đã đảm bảo nguyên tắc quản lý theo lưu vực sông mà không theo ranh giới địa giới hành chính, là lĩnh vực liên ngành, vùng, địa phương.
Tuy nhiên, đại biểu cho rằng các lưu vực sông liên tỉnh trên cả nước hoạt động vẫn còn hạn chế về hiệu quả cũng như nguồn lực. Trong khi đó, một số lưu vực sông liên tỉnh có tác động đến đảm bảo nguồn nước cho sản xuất, sinh hoạt… Vì vậy, cần nghiên cứu để quyết định một số lưu vực sông chính.
Đồng thời, quy định cụ thể về cơ chế hoạt động, bố trí nguồn lực cho hoạt động của các tổ chức lưu vực sông, đảm bảo ủy ban lưu vực sông hoặc các tổ chức này hoạt động hiệu quả.
Đại biểu Tạ Đình Thi đề nghị, đối với tổ chức lưu vực sông có các lĩnh vực đan xen, giao thoa cần xác định rõ nhạc trưởng chủ trì tổ chức này. “Thực tế hiện nay với tài nguyên nước có 7 đơn vị tham gia như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch… Vì thế, cần phát huy vai trò nhạc trưởng để điều hòa tổ chức hoạt động thực sự hiệu quả”.
Quang cảnh thảo luận tổ tại Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội.
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quốc Duyệt (Đoàn Thành phố Hà Nội) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo an toàn hệ thống hồ đập với vùng hạ du. Góp ý vào nội dung cụ thể, đại biểu cho rằng Điều 28 và 45 dự thảo Luật đề cập cụm từ “bảo vệ công trình cấp nước sinh hoạt đặc biệt” nhưng trong nội dung lại không nói đến. Đề nghị cơ quan chủ trì cân nhắc làm rõ khái niệm “công trình cấp nước sinh hoạt loại đặc biệt” là như thế nào để khi luật thông qua có cơ sở thực hiện.
Về trách nhiệm bảo vệ tài nguyên nước, đại biểu cho biết, trong dự thảo Luật chưa đề cập trách nhiệm Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Công an… khi nói đến an ninh nguồn nước xuyên biên giới. Từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy, bảo vệ an ninh nguồn nước xuyên biên giới rất quan trọng. Vì vậy cần bổ sung nội dung này vào dự thảo Luật.
Đại biểu Quốc hội Trần Thị Nhị Hà góp ý vào việc quản lý chất thải bệnh truyền nhiễm. Theo đại biểu, vấn đề ô nhiễm chất thải bệnh truyền nhiễm, chất thải nguy hại đã được quy định bằng hành lang bảo vệ nguồn nước. Tuy nhiên cần tính toán các bệnh viện, các cơ sở y tế điều trị các bệnh truyền đã được xây dựng hành lang bảo vệ nguồn nước, vấn đề ô nhiễm, phát sinh chất thải bệnh truyền nhiễm là liên tục, thường xuyên. Thế nên, với những cơ sở đã xây rồi mà nằm trong hành lang bảo vệ nguồn nước thì chúng ta tính toán như thế nào? nội dung điều chính cần được làm rõ.
Với Khoản 5, điều 33 quy định: các hồ chứa, đập giâm, công trình khai thác sử dụng nước, khai thác nước không hiệu quả, gây suy thoái, cạn kiệt ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng phải được cải tạo, nâng cấp, chuyển đổi mục đích sử dụng hoặc phá dỡ. Trên thực tế ngoài các công trình như vậy thì chúng ta còn thấy những công trình như đập ngăn mặn, cống ngăn mặn, đê chắn sóng đều là những công trình cần có những lộ trình nâng cấp, cải tạo, chuyển đổi mục đích sử dụng… Đề nghị dự thảo Luật có quy định để bao quát đầy đủ các công trình trong thực tiễn; có thể giao Chính phủ hướng dẫn nội dung này để bao quát và khi thực hiện các đối tượng phải tổ chức thực hiện đều được bao phủ tại Luật.
Đại biểu Quốc hội Tạ Đình Thi (Đoàn Thành phố Hà Nội).
Trao đổi tại tổ số 10, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường Đặng Quốc Khánh (Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội
tỉnh Hà Giang
) nhấn mạnh: Chúng ta là một quốc gia có lợi thế về tài nguyên nước, tuy nhiên trong quá trình sử dụng còn chưa hiệu quả, do đó làm thế nào để sử dụng hiệu quả, khung pháp lý đảm bảo cho an ninh nguồn nước, điều tiết nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay biến đổi khí hậu tác động rất lớn tới nước ta.
Trước ý kiến của các đại biểu Quốc hội về làm thế nào để khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiện, bền vững nhất, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường cho biết, Ban soạn thảo sẽ nghiêm túc tiếp thu, đầy trên quan điểm hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ. Từ đó thống nhất, đảm bảo minh bạch để khai thác khai thác tối đa nguồn lực của tài nguyên (phân bổ, điều tiết, sử dụng hiệu quả nguồn nước…). Do đó, khi Luật được ban hành, phải có những chính sách, dự án để thực hiện, điều tiết việc này.
Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường, xu hướng sắp tới sẽ quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số. Muốn quản lý được thì phải điều tiết được, muốn điều tiết được phải có số liệu dữ liệu, điều này sẽ giảm quản lý vận hành, điều tiết nguồn nước có sự khoa học, sử dụng hiệu quả nguồn nước, trên cơ sở đó sẽ ban hành các chính sách phù hợp. Do đó, việc áp dụng khoa học công nghệ sẽ là một trong những nhiệm vụ quan trọng.
“Với trách nhiệm cơ quan soạn thảo, Bộ Tài nguyên & Môi trường sẽ tổng hợp các ý kiến của các đại biểu Quốc hội trên tinh thần cầu thị, ghi nhận những những hạn, chế tồn tại của các đại biểu chỉ ra từ đó hoàn thiện chính sách để đạt được mục đích cao nhất là tài nguyên nước trở thành tài nguyên quý giá của đất nước.” – Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh nhấn mạnh. | ĐBQH: Cần đề cập đến trách nhiệm đảm bảo an ninh nguồn nước xuyên biên giới | 1,158 | |
Nhận lời mời của Tổng thư ký OECD Mathias Cormann, Bộ trưởng Ngoại giao Anh (nước đồng chủ tịch OECD 2023) James Cleverly, Bộ trưởng châu Âu và Ngoại giao Pháp và Bộ trưởng Ngoại giao Séc, Đồng chí Bùi Thanh Sơn sẽ tham dự Hội nghị cấp Bộ trưởng (MCM) Hội đồng OECD 2023 và thăm chính thức
Cộng hòa Pháp
và
Séc
từ ngày 04 – 11/6/2023.
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn.
Đây là lần đầu tiên Việt Nam tham dự Hội nghị MCM của OECD với tư cách Đồng Chủ tịch Chương trình Đông Nam Á (SEARP) của OECD. Chuyến thăm của Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn tới Pháp là chuyến trao đổi đoàn cấp Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên giữa hai nước trong 10 năm qua; diễn ra trong bối cảnh hai bên đang kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Pháp. Chuyến thăm Séc là chuyến thăm đầu tiên của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam sau 09 năm, diễn ra ngay sau chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Séc Petr Fiala (tháng 4/2023).
Việt Nam là một đối tác tích cực và trách nhiệm của cộng đồng quốc tế
OECD là cơ chế hợp tác đa phương quan trọng trong việc đề ra các quy định, tiêu chuẩn và tư vấn chính sách toàn cầu. Hợp tác Việt Nam – OECD ngày càng phát triển tích cực và đi vào thực chất. Việt Nam đã ký kết Biên bản ghi nhớ Việt Nam – OECD giai đoạn 2022 – 2026 và Chương trình hành động thực hiện Biên bản ghi nhớ với các lĩnh vực hợp tác cụ thể. Việt Nam cũng lần đầu, cùng với Hàn Quốc đảm nhiệm vai trò Đồng Chủ tịch SEARP giai đoạn 2022-2025.
Hội nghị MCM của OECD là hoạt động thường niên quan trọng nhất của OECD nhằm thảo luận các vấn đề chính trị – kinh tế – xã hội chiến lược cũng như trao đổi về xây dựng các quy định, tiêu chuẩn quản trị kinh tế toàn cầu.
Hội nghị năm nay diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến rất phức tạp. Với chủ đề “Bảo đảm tương lai tự cường: các giá trị chung và quan hệ đối tác toàn cầu”. Hội nghị là dịp để các quốc gia cùng bàn thảo cho mục đích chung cần hướng tới, xác định quyết tâm cùng hóa giải các thách thức, tiến tới sự phát triển tự cường, bền vững và thịnh vượng.
Các nội dung trọng tâm của Hội nghị là thảo luận về Báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu của OECD, nỗ lực bình đẳng giới và các tiến bộ trong việc tiến tới nghị định khung để giải quyết các thách thức về thuế trong bối cảnh nền kinh tế số; thảo luận về các chính sách thương mại hướng tới tăng trưởng bền vững và bao trùm, trong đó ưu tiên các biện pháp thúc đẩy thương mại, đầu tư, đa dạng hóa và tự cường hóa chuỗi cung ứng, cũng như các biện pháp, chính sách củng cố thị trường mở, cải thiện tính minh bạch; thảo luận về các ranh giới trong tương lai, các công nghệ đổi mới cho các nền kinh tế phát thải ròng bằng không; thảo luận về tương lai của năng lượng, cách thức đẩy nhanh chuyển đổi năng lượng sạch, xác định các nút thắt chính sách và các biện pháp xử lý thế tiến thoái lưỡng nan của an ninh năng lượng, tính hợp lý của giá cả và tính bền vững.
Hiện nay, OECD đang có Chương trình Đông Nam Á (SEARP) và đã ký Biên bản ghi nhớ hợp tác với ASEAN. Hội nghị 2023 lần này là lần đầu tiên OECD mở rộng đối tượng khách mời ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, cũng như tăng cường sự tham gia của các nước khách mời tại các phiên thảo luận về chính sách và định hướng chính sách của tổ chức này.
Đây là bước tiến mới của OECD trong quan hệ hợp tác với khu vực này, đồng thời cũng thể hiện cam kết mạnh hơn của OECD với một khu vực kinh tế sôi động. Đây là lần đầu tiên Việt Nam tham gia ở cấp Bộ trưởng ở Hội nghị Hội đồng OECD, cũng là lần đầu tiên Việt Nam sẽ có những phát biểu đóng góp cho các vấn đề OECD quan tâm và thúc đẩy.
Trưởng đoàn Việt Nam, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn sẽ có phát biểu tại nhiều phiên của Hội nghị, về thương mại hướng tới tăng trưởng bền vững và bao trùm, về công nghệ đổi mới phục vụ cho các nền kinh tế phát thải ròng bằng không. Đây những nội dung nằm trong ưu tiên chính sách của Việt Nam, với góc nhìn của một nước đang phát triển, góp phần tạo nên cách tiếp cận đa dạng và thực tế về hai chủ đề đang được quan tâm trên toàn cầu.
Đoàn Việt Nam cũng sẽ tham dự nhiều hoạt động quan trọng khác, nhất là Sự kiện khai mạc Diễn đàn toàn cầu về công nghệ của OECD và Hội thảo về các diễn biến về Chính sách thuế toàn cầu, trong đó có vấn đề triển khai thực hiện Thuế tối thiểu toàn cầu trong khuôn khổ hai trụ cột của Hiệp định đa phương thực hiện các biện pháp liên quan đến Hiệp định thuế về ngăn ngừa xói mòn cơ sở tính thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS MLI). Bằng các đóng góp đó, Việt Nam thể hiện là một đối tác tích cực và trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đã và đang tiếp tục tham gia đóng góp một cách hiệu quả vào các vấn đề chung với tư cách là một nền kinh tế năng động và có nhiều tầm nhìn chung với các đối tác trên con đường phát triển và hội nhập hiện nay.
Quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược Việt Nam – Pháp tiếp tục được duy trì hiệu quả trên nhiều lĩnh vực
Quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược Việt Nam – Pháp tiếp tục được duy trì hiệu quả trên nhiều lĩnh vực và nhiều cơ chế hợp tác. Chuyến đi của Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn tới Pháp lần này cũng mang nhiều ý nghĩa quan trọng đối với quan hệ song phương Việt Nam – Pháp. Đây là chuyến thăm đầu tiên của Bộ trưởng Ngoại giao ta tới Pháp kể từ khi hai nước ký Đối tác chiến lược cách đây tròn 10 năm. Quan hệ giữa hai nước qua 5 thập kỷ phát triển cũng như 1 thập kỷ triển khai Đối tác chiến lược đã có những tích tụ quan trọng cả về lượng và chất và đang tạo nên một hình mẫu hợp tác tiêu biểu giữa châu Á và châu Âu.
Chính sách đối ngoại của hai nước cũng đang ở những điểm giao thoa mạnh mẽ. Pháp tiếp tục là nước nòng cốt tại châu Âu, đang tích cực triển khai một chính sách năng động và toàn diện hơn hướng tới khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trong ASEAN và trong các cơ chế hợp tác tại khu vực, đồng thời tiếp tục triển khai mạnh chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và hội nhập tích cực, chủ động. Những chính sách và tầm nhìn mới của hai nước đang là cơ sở tốt để hai bên thắt chặt hơn nữa mối quan hệ Đối tác chiến lược song phương.
Chuyến thăm của Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn khẳng định chính sách của Việt Nam coi trọng quan hệ với Pháp và châu Âu trong tổng thể chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, cũng như việc Việt Nam mong muốn tăng cường hơn nữa sự phối hợp với các đối tác khu vực trong các vấn đề hòa bình, an ninh, phát triển và hợp tác đang đặt ra.
Về thương mại, Pháp là đối tác thương mại châu Âu lớn thứ năm của Việt Nam. Tính riêng quý I/2023, kim ngạch thương mại song phương đạt khoảng 1,191 tỷ USD. Về đầu tư, tính đến tháng 02/2023, Pháp là quốc gia đứng thứ ba trong các nước châu Âu có đầu tư vào Việt Nam với 633 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 3,62 tỷ USD. Về hợp tác phát triển, Pháp là nhà tài trợ song phương ODA hàng đầu của châu Âu cho Việt Nam; Việt Nam đứng thứ 2 trong số các nước thụ hưởng ODA của Pháp tại châu Á. Về hợp tác quốc phòng – an ninh, hai nước đã ký Thỏa thuận sửa đổi hợp tác Việt – Pháp trong lĩnh vực quốc phòng và Tuyên bố tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giai đoạn 2018 – 2028. Hợp tác trong các lĩnh vực khác như giáo dục, văn hóa, du lịch… cũng được củng cố, thúc đẩy và ngày càng phát triển thông qua những dự án hợp tác song phương.
Thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác nhiều mặt Việt Nam – Séc đi vào chiều sâu và hiệu quả
Việt Nam và Cộng hòa Séc thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 2/2/1950. Từ đó đến nay, quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước phát triển tích cực. Sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước ngày càng được tăng cường thông qua duy trì trao đổi đoàn cấp cao và các cơ chế hợp tác. Gần đây, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã gặp Thủ tướng Séc Petr Fiala bên lề Hội nghị cấp cao ASEAN-EU (tháng 12/2022); trước đó tháng 8/2021, Thủ tướng hai nước đã điện đàm. Gần đây nhất là đoàn Thủ tướng Séc Petr Fiala thăm chính thức Việt Nam (tháng 4/2023).
Hai nước đã ký kết 14 hiệp định hợp tác trong nhiều lĩnh vực, như kinh tế, thương mại, khuyến khích và bảo hộ đầu tư, vận chuyển hàng không, tránh đánh thuế trùng…
Bên cạnh đó, hai nước luôn phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực. Séc ủng hộ Việt Nam ứng cử vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021; đồng thời là một trong những quốc gia thành viên EU đầu tiên phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA), Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-EU (EVIPA).
Séc là nước Đông Âu đầu tiên cấp ODA cho Việt Nam. Hợp tác kinh tế – thương mại song phương phát triển tích cực. Kim ngạch thương mại hai chiều quý I/2023 đạt 205 triệu USD.
Về đầu tư, Séc có 41 dự án FDI tại Việt Nam với tổng số vốn 92 triệu USD, tập trung chủ yếu trong ngành chế biến, chế tạo, khai khoáng. Các lĩnh vực hợp tác đầu tư có thế mạnh của Séc là năng lượng, đầu máy – toa xe lửa, xe buýt, tàu điện, máy nông nghiệp, thiết bị tưới tiêu. Về hợp tác phát triển, Séc là nước Trung Âu đầu tiên cấp ODA cho Việt Nam, tổng cộng khoảng 20 triệu USD.
Hợp tác về giáo dục-đào tạo là một lĩnh vực phát triển tiềm năng giữa hai nước. Séc đã giúp đỡ đào tạo hàng nghìn cán bộ, kỹ sư, lao động Việt Nam sang học tập và làm việc tại nước bạn. Hai bên nỗ lực thúc đẩy các trường đại học uy tín của Séc phối hợp với các cơ sở giáo dục đại học của nước ta để liên kết đào tạo trình độ trên đại học. Từ năm 1999 đến 2014, Chính phủ Séc đã cấp một số học bổng cho sinh viên và nghiên cứu sinh của nước ta sang Séc học tập.
Hợp tác trong lĩnh vực lao động cũng là một điểm sáng trong quan hệ song phương. Trong bối cảnh thiếu hụt nguồn lao động, Séc có nhu cầu tiếp nhận lao động Việt Nam được đào tạo về chuyên môn và tiếng Séc, nhất là trong lĩnh vực y tế.
Cộng hòa Séc đã thành lập một số cơ sở đào tạo nghề, hỗ trợ nâng cao tay nghề cho lao động Việt Nam về các lĩnh vực như cơ khí, công nghiệp ô-tô để bổ sung một lực lượng lao động lành nghề cho các doanh nghiệp Séc. Hai bên cũng thỏa thuận tăng cường hơn nữa hợp tác trong các lĩnh vực nông nghiệp, khoa học-công nghệ, môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, năng lượng, văn hóa, du lịch, tư pháp và pháp luật…
Cộng đồng Việt Nam ở Séc hiện có gần 100.000 người, có nhiều đóng góp tích cực phát triển quan hệ song phương. Chính quyền Séc đánh giá cao và tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt cư trú, kinh doanh theo pháp luật. Từ tháng 7/2013, Chính phủ Séc đã quyết định bổ sung đại diện người Séc gốc Việt vào Hội đồng Dân tộc thiểu số, qua đó công nhận sự tồn tại của người Séc gốc Việt như một dân tộc thiểu số tại Séc.
Với mối quan hệ hợp tác có bề dày truyền thống, sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, chuyến thăm Cộng hòa Séc lần này của Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn sẽ tiếp tục thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác nhiều mặt Việt Nam – Séc đi vào chiều sâu và hiệu quả, nhất là về chính trị – ngoại giao, thương mại – đầu tư, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ.
Qua Pháp và Séc tăng cường quan hệ Việt Nam – EU; thúc đẩy các nước EU phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA) và EC gỡ bỏ thẻ vàng IUU với thủy sản Việt Nam./. | Hội nghị Bộ trưởng Hội đồng OECD 2023 | 2,392 | |
Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo số 207/TB-VPCP ngày 5/6/2023 kết luận của
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang
tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Sơn La.
Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang ghi nhận, đánh gia cao những kết quả tỉnh Sơn La đã đạt được sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp trong điều kiện còn nhiều khó khăn – Ảnh: VGP/Hải Minh.
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang ghi nhận và đánh giá cao cấp ủy, chính quyền, quân và Nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La đã nỗ lực, cố gắng, đoàn kết, quyết tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, đạt được nhiều kết quả nổi bật, quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn, thách thức, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) năm 2022 của Tỉnh đạt 8,71% và phục hồi mạnh mẽ hơn so với năm 2021; du lịch có sự phục hồi mạnh mẽ sau dịch bệnh, năm 2022 tổng lượt khách du lịch đạt 3,2 triệu lượt với doanh thu đạt 2.800 tỷ đồng, bằng 3,29 lần so với năm 2021; thu ngân sách nhà nước các năm 2021, 2022 đều vượt dự toán Trung ương giao khoảng 21%.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong thời gian từ nay đến cuối năm 2023, Sơn La cần tiếp tục phấn đấu, vượt qua một số khó khăn, thách thức như: GRDP quý I/2023 tăng chậm hơn so với GDP cả nước (đạt 2,09%); tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công 04 tháng đầu năm 2023 còn hạn chế (đạt 11,73% Kế hoạch được giao); chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan (SIPAS) năm 2022 giảm 11 bậc, đứng thứ 17/63 tỉnh, thành phố; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều còn cao (17,83%), đời sống của người dân ở một số xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn gặp nhiều khó khăn…
Phấn đấu giải ngân hết 100% kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023
Theo Thông báo, bối cảnh tình hình thế giới và trong nước từ nay đến cuối năm 2023 sẽ có thuận lợi, khó khăn, thời cơ đan xen với thách thức; để phát huy các thành tựu, khai thác hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh phục vụ phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới, tỉnh Sơn La và các Bộ, ngành, cơ quan liên quan cần lưu ý một số quan điểm, nhiệm vụ trọng tâm sau:
Tập trung sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và Nhân dân để thực hiện thành công các chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, phấn đấu hoàn thành cao nhất các chỉ tiêu kinh tế – xã hội năm 2023 đã đề ra.
Nâng cao hơn nữa trách nhiệm của cá nhân người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong chỉ đạo, điều hành và triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội; đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công theo nguyên tắc đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để làm động lực thúc đẩy và khơi thông “dòng chảy” sản xuất, tiêu dùng hàng hóa – dịch vụ. Kiên quyết rà soát, thực hiện điều chuyển vốn đầu tư công từ các đơn vị, dự án có tỷ lệ giải ngân thấp sang các đơn vị, dự án có khả năng giải ngân cao.Phấn đấu giải ngân hết 100% kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023.
Khẩn trương hoàn thành công tác lập, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Quy hoạch tỉnh trong Quý III năm 2023 bảo đảm bám sát chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 10 tháng 02 năm 2022 về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và phù hợp với điều kiện tự nhiên, lợi thế, tiềm năng của địa phương. Chú trọng nghiên cứu phát triển một số lĩnh vực sau: (i) Công nghiệp chế biến nông sản, năng lượng tái tạo; (ii) Nông nghiệp ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao gắn với phát triển vùng nguyên liệu nông sản hàng hóa quy mô lớn, tập trung, hình thành các chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; (iii) Phát triển lâm nghiệp bền vững và nuôi trồng dược liệu có giá trị gia tăng cao: (iv) Du lịch với sản phẩm đa dạng, gắn với phát huy, bảo tồn các giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống và cảnh quan thiên nhiên đặc hữu.
Thực hiện có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là Chương trình phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Là Tỉnh có tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số chiếm đa số, Sơn La phải tiếp tục làm tốt công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc; thực hiện có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là Chương trình phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đảm bảo sinh kế bền vững, nâng cao mức thụ hưởng vật chất và đời sống tinh thần của Nhân dân; đồng thời bảo tồn, phát huy không gian văn hóa, bản sắc riêng của từng dân tộc, đảm bảo sự thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam.
Đồng thời chủ động đề xuất và tích cực tham gia trong các hoạt động liên kết Vùng, nhất là các lĩnh vực quy hoạch, phát triển hạ tầng, phát triển các ngành, chuỗi sản phẩm liên kết, xúc tiến đầu tư, xử lý môi trường.
Hỗ trợ Tỉnh xây dựng Đề án thành lập Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Đối với một số kiến nghị, đề xuất của Tỉnh, Thông báo nêu rõ:
Về Đề án Xây dựng Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Sơn La tại huyện Mộc Châu: Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La nghiên cứu, cập nhật Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong quá trình lập Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt theo quy định. Trên cơ sở Quy hoạch được duyệt, giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn, hỗ trợ Tỉnh xây dựng Đề án thành lập Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy định của Luật Công nghệ cao và các quy định của pháp luật liên quan, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Về việc nâng cấp cửa khẩu Pa Háng (Hủa Phăn) thành Cửa khẩu quốc tế Lóng Sập – Pa Háng: Giao Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La và các cơ quan liên quan rà soát, đánh giá kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết số 182/NQ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2020 của Chính phủ về việc nâng cấp cửa khẩu chính Lóng Sập, tỉnh Sơn La thành cửa khẩu quốc tế; tiếp tục trao đổi, thúc đẩy, phối hợp với phía Lào thực hiện các thủ tục cần thiết để nâng cấp cửa khẩu Pa Háng thành cửa khẩu quốc tế, tiến tới tổ chức Lễ công bố khai trương cặp cửa khẩu quốc tế Lóng Sập (tỉnh Sơn La) – Pa Háng (tỉnh Hủa Phăn); báo cáo cấp có thẩm quyền những nội dung vượt thẩm quyền.
Về kiến nghị giao vốn (2.110 tỷ đồng) để
tỉnh Sơn La
sớm triển khai công tác hỗ trợ phát triển sản xuất cho đồng bào vùng tái định cư thủy điện Sơn La: Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ: Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các Bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu kiến nghị của Tỉnh, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 9 năm 2023. | Sơn La phấn đấu hoàn thành cao nhất các chỉ tiêu kinh tế – xã hội năm 2023 đã đề ra | 1,433 | |
Đẩy nhanh tiến độ giải ngân công được xem là một giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hiệu quả (Ảnh: Lê Tiên).
5 tháng qua, tình hình kinh tế – xã hội thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường đã ảnh hưởng đến nước ta. Tuy nhiên, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động, quyết liệt, sát sao chỉ đạo các bộ, ngành triển khai nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn.
Cụ thể, từng bước giảm mặt bằng lãi suất cho vay, ổn định thị trường ngoại hối; thúc đẩy giải ngân đầu tư công; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, sớm ổn định lại và hỗ trợ phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản, bảo đảm an sinh xã hội.
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Về sản xuất nông nghiệp, năng suất, sản lượng thu hoạch lúa đông xuân đạt kết quả tích cực, chăn nuôi phát triển ổn định, sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt khá do áp dụng mô hình nuôi tôm chất lượng cao hiệu quả. Số liệu của Tổng cục Thống kê chỉ rõ, năng suất gieo trồng lúa vụ Đông xuân năm 2023 của cả nước ước đạt 68,3 tạ/ha, tăng 1,5 tạ/ha so với vụ đông xuân năm trước; sản lượng thu hoạch ước đạt 20,2 triệu tấn, tăng 184,6 nghìn tấn. Chăn nuôi trong tháng phát triển tương đối ổn định, trong đó: Số đàn lợn cuối tháng 5 tăng 2,6% so với cùng thời điểm 2022; gia cầm tăng 1,3%; bò tăng 1,2%. Sản lượng nuôi trồng thủy sản trong tháng 5 ước tăng 2,5% so với cùng kỳ 2022; tính chung 5 tháng đầu năm 2023, sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng 2,9%, trong đó tôm tăng 2,6%.
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Cũng theo Tổng cục Thống kê, sản xuất công nghiệp tháng 5 đã tích cực hơn. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 5 năm 2023 tăng 2,2% so với tháng trước. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 5/2023 ước tính tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 0,1% so với cùng kỳ 2022. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, IIP ước tính giảm 2% so với cùng kỳ 2022 nhưng tăng ở 49 địa phương và giảm ở 14 địa phương trên cả nước. Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/5/2023 tăng 0,8% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 4,8% so với cùng thời điểm 2022.
Hoạt động thương mại và dịch vụ tăng cao so với cùng kỳ 2022. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 5 ước tính tăng 11,5%; vận chuyển hành khách tăng 13,6% và luân chuyển hành khách tăng 21,8%; vận chuyển hàng hóa tăng 20,7% và luân chuyển hàng hóa tăng 15,8%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 12,6% so với cùng kỳ 2022, vận chuyển hành khách tăng 21,2% và luân chuyển tăng 41,9%; vận chuyển hàng hóa tăng 18% và luân chuyển tăng 17,9%.
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Cán cân thương mại hàng hóa 5 tháng đầu năm 2023 ước tính xuất siêu 9,8 tỷ USD (cùng kỳ 2022 xuất siêu 0,24 tỷ USD). Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa 5 tháng đầu năm 2023,
Hoa Kỳ
là thị trường xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam
với kim ngạch ước đạt 37,2 tỷ USD.
Trung Quốc
là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 43,4 tỷ USD.
Chính sách mở cửa từ ngày 15/3/2022 sau dịch COVID-19 cùng với đẩy mạnh hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam tới các nước trên thế giới trong thời gian qua nên khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng. Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 5/2023 ước đạt 916,3 nghìn lượt người, gấp 5,3 lần cùng kỳ năm trước; tính chung 5 tháng đầu năm 2023, khách quốc tế đến nước ta ước đạt gần 4,6 triệu lượt người, gấp 12,6 lần.
Tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 5 tháng đầu năm 2023 ước đạt 25,5% kế hoạch, tăng 18,4% so với cùng kỳ 2022, biểu hiện kết quả nỗ lực của Chính phủ, bộ, ngành và địa phương đẩy mạnh thực hiện vốn đầu tư công nhằm tạo động lực tăng trưởng trong bối cảnh kinh tế trong nước chịu ảnh hưởng từ những khó khăn chung của kinh tế thế giới.
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký mới tăng 27,8% so với cùng kỳ 2022 cho thấy Việt Nam tiếp tục là thị trường tiềm năng thu hút nhà đầu tư nước ngoài thời gian tới. Tính đến ngày 20/5/2023, cả nước có 962 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với số vốn đăng ký đạt 5,26 tỷ USD, tăng 66,4% so với cùng kỳ 2022 về số dự án và tăng 27,8% về số vốn đăng ký.
Lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp.
Công tác bảo đảm an sinh xã hội được các cấp, ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả. Theo khảo sát tình hình đời sống của hộ dân cư, tháng 5 tiếp tục được cải thiện. Công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được các cấp, ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả. Theo báo cáo từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong 5 tháng đầu năm 2023, Chính phủ đã hỗ trợ hơn 18,2 nghìn tấn gạo cho 204,7 nghìn hộ với hơn 1,2 triệu nhân khẩu.
Theo các chuyên gia, Việt Nam đã có nỗ lực lớn và có nhiều tín hiệu tích cực trong phát triển kinh tế – xã hội. Trong bối cảnh khó khăn chung sau COVID-19, Quốc hội, Chính phủ liên tiếp có ứng phó kịp thời, đưa ra các gói cứu trợ cho nên sự cầm cự đến bây giờ là rất tích cực, nhìn rộng ra thế giới nhiều nước tăng trưởng âm để thấy chúng ta đã nỗ lực như thế nào./. | Chủ động tháo gỡ khó khăn, giữ vững ổn định kinh tế | 1,063 | |
Hệ thống ứng dụng không gian, cùng với tàu vũ trụ Thần Châu-15 mới trở về, đã đưa về Trái Đất những mẫu thí nghiệm của tổng cộng 15 dự án khoa học.
Nhà du hành Phí Tuấn Long, phi hành đoàn tàu Thần Châu-15, trở về Trái Đất ngày 4/6/2023. (Ảnh: THX/TTXVN).
Trở về từ Trạm Vũ trụ Thiên Cung, tàu vũ trụ có người lái Thần Châu-15 của Trung Quốc cũng đưa theo nhiều mẫu vật thí nghiệm mới để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học.
Theo nhật báo Khoa học và Công nghệ của Trung Quốc, các mẫu vật được chuyển tới cho các nhà khoa học thuộc hệ thống ứng dụng không gian để tiến hành nghiên cứu và khảo sát.
Hệ thống ứng dụng không gian, cùng với tàu vũ trụ Thần Châu-15 mới trở về, đã đưa về Trái Đất những mẫu thí nghiệm của tổng cộng 15 dự án khoa học.
Các mẫu vật có tổng khối lượng hơn 20kg sẽ được sử dụng trong các thí nghiệm về sự sống và thí nghiệm về vật chất.
Cụ thể, các nhà khoa học sẽ tiến hành các phân tích sinh học phân tử, sinh học tế bào, sinh trưởng trong quỹ đạo và phân tích trao đổi chất trên các mẫu trong thí nghiệm sự sống.
Trong khi đó, các mẫu thí nghiệm vật chất sẽ được kiểm tra và phân tích trong phòng thí nghiệm để nghiên cứu các tính chất vật lý và biến đổi hóa học của vật chất vốn khó biết được trong môi trường trọng lực mặt đất.
Tàu vũ trụ Thần Châu-15 chở 3 phi hành gia đã trở về Trái Đất sáng 4/6 vừa qua sau 187 ngày làm việc trên quỹ đạo.
Thần Châu-15 là sứ mệnh bay vào vũ trụ thứ 10 của người Trung Quốc và cũng là sứ mệnh có người lái thứ 4 kể từ khi nước này bước vào giai đoạn xây dựng trạm vũ trụ.
Thành công của sứ mệnh này đánh dấu việc Trung Quốc đã hoàn thành toàn bộ 12 nhiệm vụ phóng trong giai đoạn xây dựng và xác minh công nghệ chính của trạm vũ trụ.
Thay thế phi hành đoàn Thần Châu-15 tiếp quản các công việc trên trạm vũ trụ Thiên Cung là phi hành đoàn Thần Châu-16, đã được đưa lên quỹ đạo vào ngày 30/5.
Hai phi hành đoàn đã có thời gian bàn giao công việc trong khoảng 4 ngày trước khi Thần Châu-15 trở về Trái Đất.
Đáng chú ý, đây là lần đầu tiên Trung Quốc đưa một phi hành gia dân sự lên Thiên Cung, đó là anh Quế Hải Triều (36 tuổi), Giáo sư thuộc Đại học Hàng không Vũ trụ Bắc Kinh. Anh Quế Hải Triều có nhiệm vụ tiến hành những thí nghiệm quy mô lớn trên quỹ đạo.
Theo CMSA, sẽ mất khoảng 6 tháng để các phi hành gia vừa trở về lấy lại tình trạng thể chất bình thường và gần 2 năm sau đó, họ mới có thể thực hiện sứ mệnh không gian khác.
Trung Quốc
đã tận dụng tối đa các sứ mệnh du hành liên quan dự án xây dựng Trạm Vũ trụ Thiên Cung của nước này để triển khai các thí nghiệm nhân giống trong không gian.
Hai tàu vũ trụ Thần Châu-14 và Thần Châu-15 đã đưa hơn 1.300 hạt giống cây trồng và các chủng vi sinh vật từ 112 đối tác, bao gồm các trường đại học, viện nghiên cứu và trạm nhân giống của Trung Quốc, vào không gian để tiến hành thí nghiệm nhân giống trên trạm trạm vũ trụ.
Trong số các loại hạt giống nói trên có những loại lương thực chính như gạo, lúa mỳ và khoai tây, các loại trái cây và rau phổ biến, cỏ làm thức ăn gia súc và các thảo dược được sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc.
Ngoài ra, nhiều loại vi khuẩn có lợi cho sức khỏe cũng có tên trong danh sách thử nghiệm.
Việc nhân giống trong không gian có nghĩa là phơi bày các hạt giống và các chủng vi sinh vật trước bức xạ vũ trụ và vi trọng lực trong một sứ mệnh du hành vũ trụ nhằm biến đổi gene của chúng.
Trong thời gian từ ngày 29/7-25/11/2022, các nhà khoa học Trung Quốc cũng đã hoàn tất các thí nghiệm về tăng trưởng vòng đời 120 ngày của cây lúa trên trạm vũ trụ.
Đây là lần đầu tiên trên thế giới một thí nghiệm kiểu này được triển khai./. | Thần Châu-15 đưa về Trái Đất nhiều mẫu thí nghiệm trong vũ trụ | 760 | |
‘Lược sử ngôn ngữ’ là lựa chọn hợp lý để có một cái nhìn ngắn gọn và toàn diện về quá trình xuất hiện của công cụ, giao tiếp ngôn ngữ ở con người.
Đến bây giờ, không còn ai nghi ngờ việc sở hữu khả năng ngôn ngữ phát triển mạnh, linh hoạt và không ngừng tự tiến hóa, thích ứng, hoàn thiện nhanh chóng theo nhu cầu thực tế là một trong những năng lực quan trọng nhất giúp loài người trở nên mạnh mẽ và chiếm lĩnh được thế giới như ngày nay.
Từ đơn giản đến phức tạp, từ nói đến viết, cuộc hành trình của ngôn ngữ đã song hành với tiến trình phát triển của loài người từ những ngày sơ khai nhất. Để hiểu về bản thân mỗi con người cũng như về tất cả loài người, hiểu biết về ngôn ngữ là một phần không thể thiếu.
Với bất cứ ai quan tâm đến khía cạnh này trong chúng ta,
Lược sử ngôn ngữ – Chuyện kể về phát minh vĩ đại nhất của loài người
(How language began – The story of humanity’s greatest invention) của Daniel L. Everett là một lựa chọn hợp lý để có một cái nhìn ngắn gọn và toàn diện về quá trình xuất hiện của công cụ, giao tiếp ngôn ngữ ở con người, cùng những điểm khác biệt của nó so với giao tiếp ở các loài động vật khác, cũng như những lợi thế nó đem đến cho con người.
Tác giả Everett chia cuốn sách của mình thành bốn phần. Phần một lược thuật lại giai đoạn hình thành các sinh vật linh trưởng nhân hình cũng như các bước tiến ngôn ngữ đầu tiên của các sinh vật này.
Phần hai tập trung vào các đặc điểm tiến hóa sinh học ở loài người nhằm “ưu ái” sự phát triển năng lực ngôn ngữ như một lựa chọn ưu tiên.
Phần ba và phần bốn dành cho hai khía cạnh tiến hóa về hình thức thể hiện của ngôn ngữ cũng như vai trò định hình nên các nền văn hóa của ngôn ngữ khi xã hội văn minh của con người đã hình thành.
Trong phần một “Những tông Hominini đầu tiên”, Daniel L. Everett tập trung vào chủ đề khó có được nhất quán và phải dựa nhiều vào suy đoán: ngôn ngữ hình thành ở loài người nói riêng và trong tự nhiên nói chung từ khi nào?
Chương 1 “Sự trỗi dậy của tông Hominini đầu tiên” điểm lại những học thuyết khác nhau về sự hình thành ngôn ngữ, thực tế của lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ, những đặc trưng của ngôn ngữ.
Trong chương này, thông qua điểm lại lịch sử hình thành sự sống trên
Trái Đất
nói chung và cây gia hệ của các loài linh trưởng nói riêng, tác giả đã lược thuật lại cách thức thông tin di truyền được lưu giữ và biến đổi qua các thế hệ của mỗi loài sinh vật, cũng như những tác động nội tại và ngoại sinh dẫn tới sự biến đổi, thích nghi với môi trường sống và tiến hóa của các thực thể sống.
Đồng thời, từ cây tiến hóa chung của sinh giới, các loài khỉ nhân hình cũng hình thành nên những mầm mống độc đáo trong tương tác giữa các cá thể, làm cho khả năng tương tác trong bầy đàn của chúng vượt trội hẳn so với những loài sinh vật khác, đặt nền móng cho việc hình thành ngôn ngữ.
Chương 2 “Những kẻ săn tìm hóa thạch” phân tích những bằng chứng khảo cổ từ các hóa thạch người tiền sử đã khẳng định các giả thiết về nguồn gốc loài người từ châu Phi cũng như quá trình thay đổi cấu trúc cơ thể người để thích ứng từ cuộc sống leo trèo truyền thống của các loài linh trưởng sang cuộc sống trên mặt đất với tư thế đứng thẳng, trong đó có những thay đổi về cấu trúc bộ não và cơ quan phát âm, những điều kiện tiên quyết cho sự hình thành tư duy và ngôn ngữ ở con người.
Bên cạnh đó, chương cũng cung cấp thông tin về các bằng chứng trong vật chất di truyền của loài người về một nguồn gốc tổ tiên chung ở châu Phi.
Chương 3 “Sự dịch chuyển của loài người” là câu chuyện về cuộc hành trình của người đứng thẳng Homo erectus rời khỏi châu Phi để rồi lan tỏa sự có mặt của mình trên khắp các vùng đất liền của Trái Đất.
Cuộc hành trình được thực hiện không phải ngẫu nhiên mà có tính toán một cách thông minh. Cuộc dịch chuyển không ngừng của các Homo erectus bản thân nó là một kỳ công vĩ đại của sức mạnh cộng đồng, một minh chứng cho khả năng giao tiếp và tư duy mạnh mẽ họ sở hữu, đồng thời cũng chính sự dịch chuyển đó không ngừng mài sắc tư duy cho người đứng thẳng, đóng vai trò quan trọng trong việc làm ngôn ngữ hình thành, phát triển ở loài người sau này.
Chương 4 “Ai cũng nói ngôn ngữ tín hiệu” bàn về các luận điểm lý thuyết đã được đưa ra về nguồn gốc ngôn ngữ. Từ các hình thức tồn tại hiện hành của ngôn ngữ, từ những ngôn ngữ phát triển cao độ về ngữ pháp, từ vựng, chức năng như tiếng Anh cho tới các ngôn ngữ phi văn tự như ngôn ngữ của tộc người Pirahã.
Từ đó, với xuất phát điểm là sử dụng các chỉ dấu, điều mà mọi động vật đều sử dụng, các loài linh trưởng của chi Homo đã đi xa hơn để chuyển từ chỉ dấu thành hình tượng, rồi đến Homo erectus đã đi xa hơn nữa tới ký hiệu, biểu tượng, và nhiều khả năng đã sở hữu ngôn ngữ đúng nghĩa như các tiến hóa về nhận thức của họ cho thấy.
Phần hai của cuốn sách – “Những thích nghi về mặt sinh học dành cho ngôn ngữ” phân tích những đặc điểm về mặt cấu tạo sinh học con người có được từ quá trình tiến hóa thích nghi để có được khả năng biểu đạt ngôn ngữ, trong khi các loài động vật khác hầu hết không vượt qua được mức độ sử dụng chỉ dấu.
Chương 5 “Con người có bộ não ưu việt hơn” bắt đầu phần này từ yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành, phát triển, sử dụng ngôn ngữ: bộ não. Quá trình tiến hóa của bộ não của loài người đã diễn ra từ khi người và tinh tinh tách ra trên cây tiến hóa (giai đoạn nền tảng), rồi trải qua những bước tiến hóa đã diễn ra với sự xuất hiện của Vượn người phương Nam, của người đứng thẳng để rồi đạt được mức độ tối đa về kích thước cũng như sự tinh vi vào 500.000 năm trước.
Và ở người thông minh hiện đại, bộ não tiếp tục có những tiến hóa để tạo nên con người ưu việt hơn, đặc biệt là dưới sự thúc đẩy của sự kết hợp giữa ngôn ngữ và văn hóa.
Chương 6 “Cách bộ não tổ chức ngôn ngữ” phân tích cấu trúc bộ não người, tập trung vào những bộ phận thực hiện các chức năng liên quan tới ngôn ngữ, những lý thuyết liên quan tới việc bộ não giúp chúng ta vận hành, phát triển chức năng ngôn ngữ của mình, sự linh hoạt của bộ não trong đảm nhận chức năng ngôn ngữ thay vì có những vùng chuyên biệt hóa bẩm sinh cho thấy bộ não có tiềm năng rất lớn trong việc hình thành, thực thi những loại hình hoạt động mới, và ngôn ngữ của nhân loại vẫn còn dư địa để phát triển, hoàn thiện.
Chương 7 “Khi bộ não gặp trục trặc” xem xét mối quan hệ giữa ngôn ngữ và bộ não thông qua mối tương quan giữa các trường hợp suy giảm, thậm chí khuyết thiếu hoàn toàn chức năng ngôn ngữ như hội chứng suy giảm ngôn ngữ chuyên biệt, chứng ASD hay tự kỷ với những dấu hiệu về rối loạn di truyền.
Nhiều giả thiết đã được đưa ra để lý giải các khiếm khuyết về chức năng, hành vi có liên quan tới ngôn ngữ, nhưng không tồn tại rối loạn di truyền chuyên biệt về ngôn ngữ, điều cho thấy ngôn ngữ là một phát minh trong quá trình tồn tại của con người, không phải là một thứ bẩm sinh đã được mã hóa sẵn trong vật chất di truyền của chúng ta.
Chương 8 “Chuyện trò bằng tiếng nói” tập trung vào cấu tạo, hoạt động của cơ quan phát âm của chúng ta, sự tối ưu hóa về cấu trúc của cơ quan này ở con người để khiến chúng ta có thể sử dụng tiếng nói làm phương tiện chuyển tải ngôn ngữ một cách hiệu quả, đồng thời cũng phân tích nguyên do dẫn tới sự hình thành các phương ngữ, các âm khác nhau trong các ngôn ngữ khác nhau.
Phần ba “Sự tiến hóa của hình thức ngôn ngữ” là câu chuyện về sự hoàn thiện của ngôn ngữ từ dạng thể sơ khai nhất – ngôn ngữ nói – tới chỗ trở thành một phương tiện tư duy, giao tiếp ngày càng phức tạp.
Chương 9 “Cội nguồn của ngữ pháp” tóm lược tiến trình điều chỉnh một cách có ý thức và thông minh của con người để hình thức của ngôn ngữ – trước hết là ngôn ngữ nói, dạng nguyên thủy nhất – được mài giũa sao cho ngày càng hiệu quả khi sử dụng, dẫn tới hình thành hệ thống trật tự nhất quán, một thứ ngữ pháp sơ khai là cơ sở tạo nên ngôn ngữ viết ở nhiều thứ tiếng sau này.
Chương 10 “Chuyện trò khi có đôi tay” đề cập tới vai trò của những thành phần đồng hành với ngôn ngữ nói như cử chỉ, thái độ của người nói trong việc tạo nên tổng thể hoàn thiện của ngôn ngữ. Mỗi ngôn ngữ chỉ hoàn thiện khi đi kèm với hệ thống cử chỉ đặc trưng của những cộng đồng người tạo ra ngôn ngữ đó.
Cử chỉ cũng có lịch sử tiến hóa, biến đổi riêng của nó khi đồng hành với sự hình thành, tiến hóa của ngôn ngữ. Thậm chí, với đặc trưng riêng của mình, cử chỉ có thể đạt được mức độ phổ biến không ngôn ngữ nào đạt được, đến mức có thể thay thế ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp trong nhiều trường hợp.
Chương 11 “Vừa đủ tốt” nhấn mạnh vào sự không hoàn hảo của ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một phát minh có sức mạnh lớn lao, nhưng không phải là vạn năng. Hiệu quả của một ngôn ngữ phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác giữa những người trao đổi bằng ngôn ngữ, những thông tin không được nói ra nhưng cần được ngầm hiểu, suy luận, cũng như văn hóa, ngữ cảnh mà ngôn ngữ được sử dụng.
Phần cuối cùng của cuốn sách -“Sự tiến hóa về văn hóa của ngôn ngữ” gồm một chương duy nhất, chương 12 “Những cộng đồng và sự giao tiếp”. Phần này nhìn nhận ngôn ngữ trong vai trò tạo dựng văn hóa cùng những vấn đề có thể phát sinh khi các nền văn hóa khác nhau tiếp xúc với nhau.
Không thể hiểu trọn vẹn thông điệp một ngôn ngữ đưa ra nếu không hiểu nền văn hóa đi kèm với nó. Bởi mỗi nền văn hóa đều có những giá trị, quy ước riêng, làm cơ sở vận hành cho xã hội của nền văn hóa đó.
Trong thế giới ngày nay, với sự giao thoa ngày càng nhanh và mạnh giữa các nền văn hóa, tạo dựng nên xã hội có các quy tắc tương thích với các nền văn hóa khác nhau cùng tồn tại trong một xã hội là quan trọng để thiết lập, duy trì ổn định, hài hòa trong xã hội. | Cuộc hành trình ngôn ngữ của loài người – Tác giả: PGS.TS Lê Đình Chi | 2,042 | |
Các nhà nghiên cứu sẽ sử dụng các công cụ tân tiến để thu thập và phân tích hơn 5.000 mẫu nước biển từ độ sâu lên tới 6.000m để nghiên cứu các đặc tính và chất dinh dưỡng của đại dương.
Các nhà nghiên cứu hóa học đại dương từ nhiều nước trên thế giới đang tham gia vào chuyến thám hiểm đầu tiên đến Nam Đại Dương để nghiên cứu các đặc tính khu vực này.
Theo thông cáo của Tổ chức Nghiên cứu Công nghiệp và Khoa học Khối thịnh vượng chung Australia (CSIRO), các nhà khoa học đã khởi hành vào ngày 5/6 trong chuyến thám hiểm nghiên cứu đầu tiên đến Nam Đại Dương, dự kiến kéo dài 14 ngày.
Theo CSIRO, tham gia vào hành trình lần này có các nhà khoa học đến từ
Nhật Bản
,
Trung Quốc
,
Hàn Quốc
,
Mỹ
,
Anh
,
Canada
,
Brazil
,
Argentina
,
Tây Ban Nha
,
Hà Lan
,
Pháp
và
Australia
.
Nhà khoa học Andreas Marouchos – người dẫn đầu nhóm nghiên cứu, cho biết 14 mô hình phòng thí nghiệm hóa học hàng đầu của 12 nước sẽ được triển khai trên tàu nghiên cứu của CSIRO.
Bên cạnh đó, ông Marouchos cho biết đây cũng là dịp để các nhà khoa học từ nhiều nước tăng cường hợp tác và chia sẻ kiến thức. Họ sẽ sử dụng các công cụ tân tiến để thu thập và phân tích hơn 5.000 mẫu nước biển từ độ sâu lên tới 6.000m để nghiên cứu các đặc tính và chất dinh dưỡng của đại dương.
Nhà khoa học Marouchos cho biết bộ dữ liệu được thu thập trong chuyến đi lần này rất giá trị và cũng là bộ duy nhất, do các chuyến thám hiểm mùa Đông ở Nam Đại Dương thường khó triển khai vì điều kiện thời kiện khắc nghiệt.
Ông nhấn mạnh những nghiên cứu trong thời gian tới sẽ giúp lấp đầy “khoảng trống” kiến thức của nhân loại về đại dương còn mới này, đồng thời giúp các nhà khoa học thê thêm hiểu biết về sự thay đổi trong mức độ dinh dưỡng ở Nam Đại Dương, tùy thuộc vào các thời điểm khác nhau trong năm.
Các nhà khoa học cũng sẽ tham gia một loạt hội thảo trong hành trình 14 ngày để chia sẻ kiến thức với các đồng nghiệp quốc tế.
Hiệp hội Địa lý Quốc gia Mỹ chính thức công nhận đại dương thứ 5 trên Trái đất – Nam Đại Dương (Southern Ocean) vào hôm 8/6/2021, trùng Ngày Đại dương thế giới.
Hội Địa lý Quốc gia Mỹ (NGS) chính thức công nhận Nam Đại Dương là đại dương thứ 5 của Trái Đất vào ngày 8/6/2021, được xác định bằng dòng chảy hải lưu mà không phải bằng vị trí địa lý và các mảng kiến tạo như 4 đại dương trước đó. Đây cũng là ngôi nhà quan trọng của các hệ sinh thái biển phong phú và là trung tâm Nam bán cầu.
Đáng chú ý, các nhà nghiên cứu cho biết Nam Đại Dương hấp thụ khoảng 40% lượng khí CO2 phát thải từ các hoạt động của con người, trong khi vùng nước giàu chất dinh dưỡng của đại dương này cũng hỗ trợ hoạt động của các chuỗi thức ăn và năng suất.
Theo ghi chép của những chuyên gia từng đi vào Nam Đại Dương, vùng biển này có vẻ đẹp khác biệt hơn so với những nơi khác, với các sông băng có màu xanh thẫm hơn, những ngọn núi sắp xếp hiểm trở hơn và gió cũng lạnh hơn./. | Chuyến thám hiểm đầu tiên đến đại dương thứ 5 của Trái Đất | 585 | |
Với nhiều tác phẩm thơ Nôm độc đáo, nữ sĩ
Hồ Xuân Hương
được tôn vinh là ‘Bà chúa thơ Nôm’ của văn học Trung đại Việt Nam, vậy người đã tôn vinh bà là ai?
1. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương quê ở đâu?
Theo sách giáo khoa Ngữ văn 11 – Chương trình 2006, nữ sĩ Hồ Xuân Hương chưa rõ năm sinh, năm mất, quê ở làng Quỳnh Đôi,
huyện Quỳnh Lưu
,
tỉnh Nghệ An
nhưng sống chủ yếu ở kinh thành Thăng Long. Sinh thời, bà đi nhiều nơi và thân thiết với nhiều danh sĩ, có người nổi tiếng như Nguyễn Du. Cuộc đời, tình duyên Hồ Xuân Hương nhiều éo le, ngang trái.
Người phụ nữ không hạnh phúc. Nổi bật trong sáng tác thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ.
Bài thơ “Tự tình” thể hiện tâm trạng, thái độ của Hồ Xuân Hương: vừa đau buồn, vừa phẫn uất trước duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch.
Thất ngôn tứ tuyệt là thể thơ mỗi bài có 4 câu và mỗi câu 7 chữ, trong đó các câu 1, 2, 4 hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối. Thể thơ này ra đời vào thế kỉ XII vào thời nhà Đường, ở Trung Quốc.
Năm 1958, tiểu luận “Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nôm” của
nhà thơ Xuân Diệu
in trên tạp chí Văn Nghệ, sau này được đưa vào cuốn “Các nhà thơ cổ điển Việt Nam”. Gọi nữ sĩ Hồ Xuân Hương là “Bà Chúa thơ Nôm”, có lẽ nhà thơ Xuân Diệu đều nhằm vào cả khí chất con người lẫn phong cách sáng tác của bà.
Nghệ thuật tăng tiến làm cho nghịch cảnh của nhân vật trữ tình càng éo le hơn: mảnh tình – san sẻ – tí – con con. Mảnh tình vốn đã ít, đã bé, đã không trọn vẹn lại còn phải “san sẻ” thành ra gần như chẳng còn gì (tí con con) nên càng xót xa, tội nghiệp hơn. Câu thơ nói lên cả nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, khi cảnh chồng chung vợ chạ đối với họ không phải xa lạ.
Kỳ họp Đại hội đồng UNESCO lần thứ 41 (diễn ra từ ngày 9 – 24/11/2021 tại Paris, Pháp) đã thông qua danh sách các Danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2022 – 2023 để UNESCO cùng vinh danh và tham gia kỷ niệm năm sinh, năm mất. Tại kỳ họp này, hồ sơ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và kỷ niệm 250 năm ngày sinh, 200 năm ngày mất của nữ sĩ Hồ Xuân Hương cùng với 58 hồ sơ khác được thông qua. | Ai tôn vinh nữ sĩ Hồ Xuân Hương là ‘Bà chúa thơ Nôm’? | 480 | |
Nhân Ngày Môi trường Thế giới 5/6, Tổng Thư ký Liên hợp quốc (LHQ) Antonio Guterres đã kêu gọi thế giới chung tay hành động để giảm thiểu rác thải nhựa.
Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres. Ảnh: IRNA/TTXVN.
Trong thông điệp qua video, phát tại sự kiện kỷ niệm Ngày Môi trường Thế giới tại trụ sở LHQ ở New York (Mỹ), Tổng Thư ký Guterres nêu bật thực trạng mỗi năm có tới hơn 400 triệu tấn nhựa được sản xuất trên toàn thế giới và hơn 30% lượng nhựa trong số này chỉ được sử dụng một lần. Mỗi ngày có hơn 2.000 xe rác chở đầy nhựa đổ ra biển, sông và hồ.
Theo Tổng Thư ký LHQ, những hậu quả của ô nhiễm rác thải nhựa đối với đời sống con người “thực sự thảm khốc”. Ông nêu rõ: “Vi nhựa có trong thực phẩm chúng ta ăn, nước chúng ta uống và không khí chúng ta hít thở… Nhựa được làm từ nhiên liệu hóa thạch. Chúng ta càng sản xuất nhiều nhựa, chúng ta càng đốt nhiều nhiên liệu hóa thạch và chúng ta càng làm khủng hoảng khí hậu tồi tệ hơn”. Tuy nhiên, người đứng đầu LHQ cũng nhấn mạnh mọi vấn đề đều có giải pháp.
Trong thông điệp nhân Ngày Môi trường Thế giới năm nay, với chủ đề “Đánh bại ô nhiễm nhựa”, Tổng Thư ký Guterres khẳng định việc thế giới bắt đầu đàm phán một thỏa thuận đa phương có tính ràng buộc về mặt pháp lý để chấm dứt ô nhiễm nhựa là một bước đầu tiên đầy triển vọng, song cũng cần tất cả các nước chung tay hành động. Bởi trên thực tế, vòng đàm phán quốc tế thứ hai về vấn đề này (trong số 5 vòng theo kế hoạch) vừa kết thúc ngày 2/6 tại Paris (Pháp), song chưa đạt bước tiến đột phá nào. Theo Tổng Thư ký Guterres: “Tất cả chúng ta, gồm các chính phủ, doanh nghiệp và người tiêu dùng, phải hành động để chấm dứt cơn nghiện sử dụng nhựa, ủng hộ lối sống không rác thải và xây dựng một nền kinh tế tuần hoàn thực sự. Cùng nhau, chúng ta hãy định hình một tương lai sạch hơn, lành mạnh hơn và bền vững hơn cho tất cả mọi người”.
Một báo cáo mới của Chương trình Môi trường LHQ cũng cho thấy thế giới có thể giảm 80% tình trạng ô nhiễm nhựa vào năm 2040 nếu hành động ngay bây giờ, khi tái sử dụng, tái chế, định hướng lại và đa dạng hóa để loại bỏ nhựa. | Liên hợp quốc kêu gọi chung tay hành động vì một tương lai không ô nhiễm nhựa | 443 | |
Nhiều ý kiến cho rằng để trở thành quốc gia giàu, mạnh về biển, Việt Nam cần sớm phê duyệt quy hoạch không gian biển, hợp tác quốc tế để phát triển
kinh tế biển
dựa trên nền tảng tăng trưởng xanh.
Để hình thành các ngành kinh tế biển vững mạnh, nhiều ý kiến khuyến nghị Việt Nam cần sớm phê duyệt quy hoạch không gian biển, cũng như tăng cường thúc đẩy hơn nữa các hoạt động hợp tác quốc tế về quản lý, sử dụng, bảo tồn bền vững tài nguyên và môi trường biển. Trong đó, phát triển kinh tế biển phải dựa trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Võ Tuấn Nhân cho hay với lợi thế bờ biển dài hơn 3.260km, vùng ven biển Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế biển, nhất là lĩnh vực hàng hải, hải sản, các lĩnh vực công nghiệp, dầu khí, du lịch và năng lượng tái tạo.
Vì thế, Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã khẳng định phải phát triển kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển; phát huy tiềm năng, lợi thế của biển.
Trên tinh thần đó, để góp phần hiện thực hóa Nghị quyết số 36 của của Ban Chấp hành Trung ương, ngày 3/4/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ-CP về “Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.” Trong đó, “chủ động tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế về quản lý, nghiên cứu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo” là một trong 7 nhóm giải pháp để thực hiện chiến lược.
“Chiến lược là công cụ quan trọng để tạo lập cơ sở cho quản lý các hoạt động khai thác sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo tồn hệ sinh thái biển một cách hiệu quả; góp phần hình thành các ngành kinh tế biển vững mạnh, tạo thêm nhiều sinh kế cho người dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển,” ông Nhân nói.
Là tổ chức đã hỗ trợ nhiều cơ quan, ban ngành Việt Nam triển khai các hoạt động liên quan đến phát triển bền vững kinh tế biển, bà Ramla Khalidi – Trưởng đại diện thường trú của Tổ chức phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, nhấn mạnh tổ chức này sẽ tiếp tục đồng hành cùng Việt Nam trong việc thực hiện chiến lược trên.
Tuy vậy, bà Khalidi cũng khuyến nghị Việt Nam cần đẩy nhanh việc xây dựng và phê duyệt quy hoạch không gian biển (MSP), bởi đây là điều cần thiết để khai thác tiềm năng to lớn của nền kinh tế biển, tài nguyên biển bền vững.
Việt Nam cũng nên học hỏi kinh nghiệm của các nước và các đối tác phát triển trong quá trình thực hiện chiến lược, nhất là khi nhiều nguồn tài nguyên biển vượt ra khỏi biên giới quốc gia, cần có sự hợp tác quốc tế để quản lý hiệu quả và lâu dài.
Bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện thường trú của Tổ chức phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam. (Ảnh: KT/Vietnam+).
“Cùng với đó, Việt Nam cần tiếp tục tăng cường khả năng chống chịu của các cộng đồng ven biển dễ bị tổn thương; thống nhất về các cam kết và hành động cần thiết có sự tham gia của các bên liên quan bao gồm Chính phủ, khu vực tư nhân, hộ gia đình và cá nhân,” bà Khalidi nói.
Là địa phương có đường bờ biển dài 82km, với nhiều tiềm năng phát triển kinh tế biển (như diện tích vùng biển lớn với 4.230 hải lý vuông mặt nước do địa phương quản lý; trữ lượng thủy, hải sản các loại khoảng 80.000 tấn), ông Nguyễn Văn Đệ – Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An, cho biết thời gian qua, tỉnh đã tập trung chỉ đạo trong khai thác và phát triển kinh tế biển.
Hiện nay, Quy hoạch
tỉnh Nghệ An
thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã lấy ý kiến các bộ, ngành và sẽ trình Chính phủ phê duyệt trong thời gian tới. Trong đó, các mục tiêu, nhiệm vụ được gắn liền với quy hoạch không gian biển quốc gia và quy hoạch tổng thể khai thác sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ.
Với chủ trương hướng mạnh ra biển, làm giàu từ biển, trong thời gian tới, tỉnh Nghệ An tập trung nguồn lực đẩy nhanh tốc độ xây dựng Nghệ An trở thành tỉnh mạnh về kinh tế biển của vùng Bắc Trung Bộ; từng bước ngăn chặn, đẩy lùi xu hướng gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; hình thành văn hóa biển, phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển.
Ngoài ra, thời gian tới, Nghệ An cũng sẽ đẩy nhanh xây dựng, phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp, dịch vụ logistics, khu đô thị, khu du lịch ven biển theo hướng tiếp cận mô hình sinh thái, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư góp phần đưa Nghệ An trở thành địa phương có kinh tế-xã hội phát triển nhanh, bền vững.
Cùng với Nghệ An, tỉnh Hà Tĩnh cũng là địa phương có đường bờ biển dài hơn 137km với nhiều danh lam thắng cảnh, bãi tắm đẹp, diện tích thềm lục địa gần 18.400km2, với nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế biển. Trong đó, Vũng Áng là một trong 5 khu kinh tế ven biển được Chính phủ lựa chọn tập trung đầu tư.
Để triển khai “Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050,” ông Nguyễn Hồng Lĩnh – Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban Nhân dân
tỉnh Hà Tĩnh
, cho biết lãnh đạo tỉnh này đã giao Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, địa phương ven biển xây dựng kế hoạch cụ thể thực hiện nghị quyết.
Theo đó, Hà Tĩnh đặt ra mục tiêu đến năm 2030, tài nguyên biển và hải đảo được khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả để phát triển nhanh và bền vững các ngành kinh tế biển và khu vực ven biển, nhất là các lĩnh vực kinh tế biển chủ lực theo thứ tự ưu tiên: Du lịch và dịch vụ biển; kinh tế hàng hải; khai thác tài nguyên khoáng sản biển; nuôi trồng và khai thác hải sản; công nghiệp ven biển; năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới; nâng cao đời sống và sinh kế cộng đồng.
Ngoài ra, Hà Tĩnh cũng quyết tâm hướng tới việc ô nhiễm môi trường biển được kiểm soát. Tại các đô thị ven biển, 100% chất thải nguy hại, chất thải rắn sinh hoạt được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn môi trường; 100% khu kinh tế và khu đô thị ven biển được quy hoạch, xây dựng theo hướng bền vững, sinh thái, thông minh.
“Tầm nhìn đến năm 2050, tài nguyên biển, hải đảo được khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả trên nền tảng tăng trưởng xanh; đa dạng sinh học biển được bảo tồn; môi trường biển, các hải đảo trong lành; xã hội hài hòa với thiên nhiên,” ông Lĩnh nói./. | ‘Chìa khóa xanh’ giúp Việt Nam trở thành quốc gia giàu mạnh về biển | 1,340 | |
Nhà thơ Bằng Việt.
Tuyển tập ‘Thơ Bằng Việt 1986-2016’ có 96 bài thơ vừa mang hơi thở thời đại vừa mang nét tâm tình Bằng Việt. Những câu thơ Bằng Việt ra đời trên mảnh hồn quê bình dị, dần trưởng thành, nuôi dưỡng trí tuệ mẫn tiệp của một người đã đủ phong trần, chân rảo bước trên nhiều miền đất của trời Âu. Không hề làm màu, không cố gắng triết lý để tạo màu, không lên gân những nhịp điệu…Thơ Bằng Việt đến với chúng ta một cách tự nhiên, dễ chịu, tình cảm sâu lắng và da diết.
Bằng Việt
cũng như những người làm thơ khác, viết thơ trước hết là viết cho mình, giãi bày mình. Một Bằng Việt như ta biết, dù có sự thay đổi nhưng vẫn trọn vẹn với nhận thức về trách nhiệm nhà thơ với con chữ. Trước sự biến động của thơ hậu sinh, ông từng nhận định:
Thơ thời hậu sinh – vừa sặc sỡ vừa buồn,
Nhiều sexy, ít nghĩ về hạnh phúc,
Nhiều đòi hỏi, mà chả cần trách nhiệm,
Dễ buông tuồng, nhưng rất ghét tuyên ngôn!
(2008 – Thơ còn gì hôm nay)
Ông phê phán một nhóm nhà thơ, họ lợi dụng sự cách tân và tự do để trở nên rỗng tuếch và buông tuồng, ném vào độc giả mớ ngôn ngữ và giai điệu lạ lẫm để tự cho là mới. Theo ông, thơ phải đạt đến tri kỷ của nhà thơ, giữ được cái hồn cốt thẳm sâu đáy lòng người nhưng thơ phải trách nhiệm, giản dị, có độ đằm, độ sâu thay vì phù hoa… Thơ mang những giai điệu của hạnh phúc nhưng không thể và không được buông tuồng.
Theo ông, người làm thơ thật sự phải thấy được trách nhiệm của sự dấn thân với nghiệp con chữ, phải mang hạnh phúc thật sự, hạnh phúc chân chính đến với con người. Do có một lối đi riêng, bền bỉ, Bằng Việt đã đem đến những gì gần gũi, thiết thực chứ không hề phồn thực. Trong các tập thơ của ông đều thấy sự kết tinh và kết nối giữa giá trị thơ Việt trong bối cảnh biến đổi của lịch sử dân tộc và hành trình thơ nhân loại. Những gì thiết thực và gần gũi được ông biểu đạt một cách tha thiết, chân thành.
Người yêu thơ đều nhớ đến Bằng Việt với danh nghĩa “Nhà thơ Bếp lửa”. Tôi thường bị ám ảnh và thân thuộc với Bằng Việt khi đọc bài thơ “Bếp lửa”, từ thuở thiếu niên cho tới khi đã tứ tuần, tôi vẫn đinh ninh có tâm trạng mình trong bài thơ. Chắc hẳn nhiều bạn đọc, nghiên cứu về
Bằng Việt
cũng có chút đinh ninh ấy. Bẵng một thời gian ít viết thơ, những câu thơ của ông cất lên từ sau công cuộc đổi mới của đất nước khiến người ta nhận thấy sâu hơn một tình yêu gia đình, một tình yêu quê hương, một tình bạn hữu, đồng chí và đồng nghiệp. Tình cảm ấy đủ lớn và sâu đã dần thấm vào lòng người, tìm thấy sự đồng điệu đối với người đọc. Từ cái tôi đã lan tỏa sang cái ta một cách nhẹ nhàng như vậy. Thơ ông không chỉ nói về mình, cảm xúc cá nhân mà luôn đòi hỏi trong đó trách nhiệm xã hội. Khi nhân loại lo nỗi lo sự tồn tại của cá thể trước ngày tận thế, thì ông điềm tĩnh và cực kỳ quyết đoán rằng: “Tận thế – là khi nhân tính không còn!” (Biến tấu về ngày tận thế)
Thơ là sự giãi bày, thơ bộc lộ con người. Bằng Việt viết thơ cho mình, giãi bày mình, ông không khẩu hiệu tuyên truyền rinh rang, cũng không cố khiên cưỡng nghệ thuật, nhưng tự mỗi giai điệu với xúc cảm mãnh liệt, cháy bỏng, Bằng Việt đã có những bài thơ, những câu thơ đặc sắc đạt đến cái ta – sự đồng cảm, đồng điệu với người đọc.
Thế giới không theo ý nghĩ của bà,
Trời đất vuông tròn chỉ có trong cổ tích!
Thế giới đầy đối nghịch,
Trời đất đầy đạn bom…
(Bánh chưng, bánh dày)
Những câu thơ của Bằng Việt vừa gần gũi, giản dị lại rất sang trọng, thâm trầm, vừa sắc lại vừa có độ đằm. Thơ ông đầy suy tưởng, từ những gì rất gần gụi như người bà, bếp lửa, dòng sông, hàng cây thuở học trò đến những vấn đề sống còn, sự biến động trong thân phận của mỗi danh nhân, mỗi quốc gia. Bởi cho đến tuổi già, mỗi người chúng ta vẫn chứa ký ức về một người bà sâu đậm yêu thương. Cỏ là một hình ảnh được nhiều nhà thơ tình nhắc đến mang tính hình tượng, với Bằng Việt, cỏ có khi là chính mình, có khi là trú ngụ của sự sống trước vô vi:
Cỏ hữu hạn xanh veo thành bất tử
Lòng hoàn nguyên, rửa sạch với thinh không!
(Vườn Nhật Bản)
Cái chung ấy mang tầm tư tưởng triết lý mà ở bài viết này xin phép tôi không trình bày nhiều hơn, xin để dành những bàn luận trong một bài viết khác. Ở đây, những suy tưởng của ông đã mang tầm khái quát, luận về kiếp người, có tính dự báo, viết về chính trị nhưng không mất đi chất thơ trong luận giải. Viết về chính trị như là trách nhiệm xã hội của nhà thơ, Bằng Việt không tách mình ra khỏi thời cuộc, khỏi nhịp sống đương đại với những uẩn khúc, ngã rẽ, những sự vấp váp và cả những cú chuyển mình của quốc gia, nhân loại. Chính bằng năng lực dự cảm, sự trìu mến cuộc sống, ông đã thể hiện những hoài niệm riêng tư nhưng đậm màu sắc nhân thế.
Tình cảm và trí tuệ cho thấy một thế giới quan phong phú, vẽ nên những cảnh huống vừa gần gũi vừa mới mẻ. Tiêu biểu như những câu thơ bộc lộ nỗi niềm nhớ quê, hoài niệm về thuở thiếu thời một thời quá chừng nghèo mà quá chừng vui, trong bài thơ “Trung du”.
Lại vẫn những câu thơ
Bằng Việt
nhưng giúp ta thu phóng tầm mắt về các địa danh ông đi qua về nước Pháp lãng mạn (Corsika) nước Nga mạnh mẽ (Ghi bên tượng đài Pie đại đế)… Dấu chân ông đi nhiều nơi, ghi lại nhiều hình ảnh nơi xứ người:
Sông cũng sông, nước lờ lững thế thôi!
Phố cũng phố, quét vôi vàng quen thuộc!
Nhưng đây là sông Xen,
Là cửa ô Xanh Ăngtoan, Xanh Đơmi, là gò Mông mác…
(Lịch sử và uy tín)
Nơi nào ông qua, những địa danh đó đều trở nên riêng biệt, tình cảm sâu nặng, nhưng không hề mập mờ giá trị dân tộc. Phông văn hóa và trải nghiệm thực tiễn đã nuôi dưỡng những câu thơ triết lý suy tư vừa đằm vừa sắc, cho thấy một Bằng Việt chân chất, từ tốn, điềm tĩnh và cầu toàn:
Em có nét buồn – sâu như ngọn gió
Thổi lang thang qua năm tháng hao gầy,
Tôi có chút buồn – xa như vạt cỏ
Khuất chìm sau cát bỏng đến chân mây…
(Em và tôi)
Sự điềm tĩnh và cầu toàn của nhà thơ còn thể hiện trong mảng kết nối của ông với các bạn văn, các bạn lính, thơ ông có sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa hiện tại và tương lai, giữa chiến tranh và hòa bình, giữa đổ vỡ và đổi mới. Trước sự đổ vỡ của hệ thống XHCN ở Liên Xô ông đã tự dặn mình cân nhắc trong cách nghĩ:
Thôi hãy khoan ngậm ngùi
Những gì chưa dễ có!
Thôi hãy khoan ruồng bỏ
Những gì chưa dễ qua!
(Thôi hãy khoan…)
Tự dặn mình hãy khoan ngậm ngùi, hãy khoan ruồng bỏ, hãy khoan xót xa, hãy khoan vùi dập… bởi ta cần tường tận giá trị của quá khứ và hiện tại, trân trọng cái cũ, từ tốn với cái mới, sự thay đổi. Ông biết có những thi sĩ Nga vì không chịu được sự thay đổi đã quyên sinh, ông biết có nhiều tranh luận giữa việc chấp nhận cái cũ hay thay thế cái mới. Sự bao dung khiến ông có thêm cái nhìn nhận khách quan về chính trị và lịch sử, muốn dùng lý trí để cân bằng xúc cảm. Khi ông đứng tại nước Nga sau 20 năm trở lại, ông đã cảm nhận:
Quá khứ – ngỡ quá nhiều điều tưởng chừng đã rõ,
Nhưng còn rất nhiều điều – vẫn cần phân định lại, tận tương lai…
(Nước Nga, sau 20 năm gặp lại)
Chính trị và triết học đã ngấm trong thơ, trong tình Bằng Việt một cách tự nhiên như vậy. Cũng dễ hiểu bởi ông đã gánh hai vai, nhà thơ và nhà chính trị trong đời thực.
Đọc
Bằng Việt
, sự giản dị ban đầu khiến ta nhầm tưởng dễ đọc, nhưng chất trí tuệ, triết lý đòi hỏi người đọc phải thu phóng nhận thức, có sự trải nghiệm và trí tuệ để hiểu nhiều hơn về tư tưởng trong lớp ngôn ngữ của thơ ông. Sự lôi cuốn trong thơ Bằng Việt chính là sự kết nối dư vị tình cảm và trí tuệ. Thơ ông thẳng thắn một cách có duyên, giản dị mà không tản mạn, bàn mà không nhiều lời. Tình cảm và trí tuệ kết nối tạo nên sự chắc chắn từng câu từng chữ, giai điệu tự nhiên nhưng giữ được sự mạch lạc, logic. Những giai điệu, cấu tứ thơ Bằng Việt tỏ rõ sự quyết đoán với cái mới, với đời sống hiện thực. Những câu thơ ông viết muốn ôm trọn sự bình dị chân chất, song lại sắc sảo chính trị. Vì vậy, Bằng Việt đã thổi vào thơ những dự cảm mới, mang một tầm tư tưởng lớn, có trước, có sau, chiêm nghiệm quá khứ và dự báo tương lai, nhưng đều rất thận trọng, chặt chẽ và cầu toàn như chính ông vậy! | Sự kết nối tạo nên dư vị thơ Bằng Việt – Tác giả: Hạnh Lê | 1,686 | |
Tác giả Huỳnh Trọng Khang vừa ra mắt cuốn sách thiếu nhi ‘Khu vườn trong chai’ lấy cảm hứng từ tình trạng môi trường hiện nay.
Khu vườn trong chai
được Huỳnh Trọng Khang lồng ghép những thông điệp ý nghĩa trong cuộc sống để độc giả, đặc biệt là các bạn thiếu nhi có những góc nhìn mới mẻ.
Cuốn sách ‘Khu vườn trong chai’.
Sách kể về hành trình phiêu lưu của cậu nhóc An từ khi được trao một hạt giống lạ. Mang theo giấc mơ về cây đậu thần khổng lồ, An gieo hạt vào chai thủy tinh. Trong thế giới bao bọc khép kín, hạt giống lặng lẽ nảy mầm, lớn lên, sinh sôi nảy nở tạo nên một khu rừng…
Gần thế kỷ trôi qua, khu rừng dần rơi vào quên lãng, màu xanh của cây cỏ mất đi, chỉ còn trơ trọi các tòa nhà chọc trời, khói bụi độc hại, trái đất chìm trong biển nước… Và tại khu rừng năm xưa trong chiếc chai nhỏ đã xảy ra điều kỳ diệu, hồi sinh lại khoảnh khắc đẹp của thiên nhiên.
Thay vì đưa nhiều số liệu gây hoang mang, với những câu chuyện nhỏ, giản dị kết hợp cùng hình ảnh sinh động, cuốn sách đã truyền tình yêu thiên nhiên và thông điệp bảo vệ môi trường tới độc giả nhí.
Tác giả Huỳnh Trọng Khang chia sẻ về tác phẩm mới.
Tác giả cho biết: “Nội dung trong cuốn sách không chỉ đơn thuần là câu chuyện của bé An và hạt giống mà qua đó còn là những chiêm nghiệm về động lực, về hy vọng nào đó giúp con người có niềm tin hơn trong cuộc sống…”.
Bên cạnh đầu sách nói về triết lý cuộc đời và tuổi trẻ, Huỳnh Trọng Khang còn được nhớ đến bởi những tập truyện dành cho thiếu nhi. Chia sẻ lý do viết nhiều thể loại, anh cho rằng một nhà văn không nhất thiết phải theo một phong cách, mà quan trọng là mang đến tác phẩm chất lượng cùng thông điệp ý nghĩa.
Tác giả tiết lộ, khoảng 1 tuần nữa, cuốn sách tiếp theo dành cho thiếu nhi sẽ được hoàn thành, hứa hẹn nội dung mới lạ và hấp dẫn.
Trước thắc mắc một cây bút trẻ như Huỳnh Trọng Khang liên tiếp ra mắt sách có khiến người đọc bị rối, anh giải thích do dịch bệnh nên nhiều bản thảo chờ đợi xuất bản trong suốt 3 năm qua, giờ mới hoàn thành. Độc giả lựa chọn sách phù hợp với nhu cầu nên giới thiệu nhiều sách cùng thời điểm không ảnh hưởng đến chất lượng cũng như sự đón nhận. | Thông điệp cuộc sống ý nghĩa qua ‘Khu vườn trong chai’ | 447 | |
Thống kê của Liên hợp quốc cho thấy các trận mưa như trút nước đã ảnh hưởng đến cuộc sống của 37.000 người, buộc 19.000 người phải sơ tán.
Người dân tát nước sau trận mưa lớn hôm cuối tuần tại Petit-Goâve, Haiti. (Nguồn: AFP).
Ngày 5/6, giới chức
Haiti
cho biết ít nhất 42 người đã thiệt mạng và 11 người vẫn đang mất tích sau các trận mưa lớn gây lũ lụt và sạt lở đất ở nước này hai ngày cuối tuần qua.
Thời tiết xấu đã ảnh hưởng đến 7/10 tỉnh của Haiti – quốc gia Caribe vốn đã rơi vào cuộc khủng hoảng nhân đạo kéo dài do bạo lực, tình hình chính trị bất ổn và kinh tế đình trệ.
Thống kê của Liên hợp quốc cho thấy các trận mưa như trút nước đã ảnh hưởng đến cuộc sống của 37.000 người, buộc 19.000 người phải sơ tán.
Thị trấn Leogane, cách thủ đô Port-au-Prince 40km về phía Tây Nam, bị ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng do lũ lớn khi nước tại 3 con sông dâng cao tràn bờ. Ít nhất 20 người thiệt mạng tại đây.
Người đứng đầu thị trấn Leogane Ernson Henry xác nhận hàng nghìn hộ gia đình trong thị trấn bị ảnh hưởng.
Nước lũ đã nhấn chìm các cánh đồng hoa màu, cuốn trôi gia súc. Quan chức này nhấn mạnh người dân hiện đang rất cần lương thực, nước uống và thuốc men.
Điều phối viên Liên hợp quốc về nhân đạo tại Haiti Jean-Martin Bauer xác nhận thiệt hại tại các khu vực bị ảnh hưởng thiên tai là rất lớn.
Trước tình hình trên, Thủ tướng Haiti Ariel Henry đã kích hoạt Trung tâm Điều hành khẩn cấp quốc gia để ứng phó với tác động của mưa lũ và sạt lở đất.
Cùng ngày, Văn phòng Điều phối các vấn đề nhân đạo (OCHA) của Liên hợp quốc thông báo đang hỗ trợ Tổng cục Bảo vệ Dân sự Haiti đánh giá nhu cầu hỗ trợ nhân đạo khẩn cấp.
OCHA hiện đang phối hợp với các tổ chức Haiti và các đối tác nhân đạo chuẩn bị nơi tạm trú, thực phẩm, nước uống, bộ dụng cụ vệ sinh và cơ sở vật chất để hỗ trợ người dân các vùng thiên tai.
Cũng theo OCHA, hiện văn phòng này mới chỉ huy động được 20% trong tổng số 720 triệu USD cần thiết để hỗ trợ kế hoạch ứng phó nhân đạo tại Haiti. Vì vậy, OCHA kêu gọi các nhà tài trợ tăng cường hỗ trợ tài chính cho kế hoạch.
Thiệt hại lớn về người trong đợt mưa lũ cuối tuần qua cho thấy Haiti dễ chịu tác động nặng nề trước các đợt thiên tai và nước này không thể giảm thiểu rủi ro ngay khi mùa mưa bão sắp bắt đầu.
Theo Liên hợp quốc, ngay cả trước lũ lụt, đã có gần 50% dân số Haiti cần hỗ trợ nhân đạo và con số này đã tăng gấp đôi chỉ sau 5 năm./. | Haiti: Mưa lớn gây lũ lụt và sạt lở đất khiến hơn 40 người thiệt mạng | 502 | |
Tạp chí kiến trúc Architectural Digest (Mỹ) vừa điểm danh sách 11 bưu điện có kiến trúc đẹp nhất thế giới. Trong đó, Bưu điện Thành phố Hồ Chí Minh đứng vị trí thứ 2 trong số những ‘kỳ quan’ này.
(Nhấp chuột để xem kích thước chuẩn)
Tạp chí kiến trúc Architectural Digest (Mỹ) đã khơi gợi trí tò mò của mọi người bằng cách “quảng cáo” 11 bưu điện đẹp nhất thế giới (The 11 Most Beautiful Post Offices Around the World).
Đứng đầu danh sách này là Bưu điện Trung tâm Algiers của Algeria (xây dựng năm 1910) và vị trí thứ 2 thuộc về Bưu điện Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Bưu điện Thành phố Hồ Chí Minh được tờ tạp chí bắt đầu xuất bản từ năm 1920 mô tả: “Mặt tiền màu vàng và cửa chớp màu xanh lá cây đã biến tòa nhà không chỉ thành một bưu điện mà còn là một điểm thu hút khách du lịch. Cấu trúc này được Alfred Foulhoux thiết kế vào cuối những năm 1880. Do đó, nó mang nhiều yếu tố của phong cách kiến trúc Phục hưng, Gothic và các phong cách Pháp khác”.
Bưu điện Thành phố Hồ Chí Minh hiện tọa lạc tại số 125 Hai Bà Trưng, phường Bến Nghé,
Quận 1
,
Thành phố Hồ Chí Minh
.
Các vị trí tiếp theo trong danh sách của Architectural Digest lần lượt là: Palacio de Correos de México (Mexico, xây dựng năm 1907), Los Angeles (California, Mỹ, 1937), Madrid (Tây Ban Nha), Colombus (Indiana, Mỹ), James A. Farely (New York, Mỹ), Ragusa (Sicily, Italy), Bonn (Đức), Kolkata (Tây Bengal, Ấn Độ), Winslow (Arizona, Mỹ)./. | Bưu điện Thành phố Hồ Chí Minh xếp thứ 2/11 bưu điện đẹp nhất thế giới | 275 | |
Dưới mắt thần của siêu kính viễn vọng James Webb, hình ảnh xuyên không của một thiên hà thuộc về bình minh vũ trụ đã tiết lộ những hạt giống sự sống cổ xưa nhất từng được ghi nhận.
Phát hiện đột phá này được ghi nhận ở SPT0418-47, một thiên hà bị che khuất bởi bụi, tồn tại từ khi vũ trụ chỉ khoảng 10% độ tuổi hiện tại.
Theo
Sci-News,
nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi GS Joaquin Vieira từ Trường Đại học Illinois ở Urbana-Champaign (
Mỹ
) đã phân tích dữ liệu của James Webb (do NASA phát triển và điều hành chính) và tìm ra sự tồn tại của hydrocarbon thơm đa vòng (PAH) lẫn trong các hạt bụi thiên hà đang phát sáng ở bước sóng hồng ngoại.
Thiên hà SPT0418-47 màu đỏ với các phân tử hữu cơ sáng lên dưới ánh sáng cam, trong khi một thiên hà tiền cảnh được đánh dấu bằng màu xanh – Ảnh: NASA/ESA/CSA.
SPT0418-47 nằm cách Trái Đất tận 12 tỉ năm ánh sáng, tức ánh sáng cũng cần 12 tỉ năm chiếu từ nó tới Trái Đất. Điều này có nghĩa chúng ta đang nhìn vào hình ảnh 12 tỉ năm trước của thiên hà này, giữa vùng vũ trụ của quá khứ xa xôi.
Vì vậy, các PAH mà nó sở hữu – dạng phân tử hữu cơ phức tạp đóng vai trò nền tảng của sự sống ngày nay – cũng là những phân tử hữu cơ cổ xưa nhất mà nhân loại từng tìm được.
Dữ liệu quang phổ từ thiên hà cũng cho thấy khí giữa các vì sao bên trong nó được làm giàu bằng các nguyên tố nặng. Điều này có nghĩa thiên hà này đã trải qua một quá trình hoạt động sôi động từ rất lâu, với nhiều thế hệ sao sinh ra và chết đi, theo bài công bố trên tạp chí khoa học
Nature.
Nguyên lý phát triển của vũ trụ – ban đầu chỉ gồm vài nguyên tố nghèo nàn – chính là việc ngày càng thêm nhiều nguyên tố được tạo ra bởi “lò phản ứng” trong hạt nhân của các ngôi sao. Khi một ngôi sao hết vòng đời và phát nổ, nó sẽ bổ sung các yếu tố mới giúp thành phần hóa học của vũ trụ ngày một đa dạng hơn.
Vì vậy, nghiên cứu này cũng góp thêm vào các bằng chứng ngày một nhiều thêm cho thấy vũ trụ đã phát triển rất nhanh trong giai đoạn sơ khai, một chân trời mà các nhà khoa học luôn mong khám phá thêm để lý giải sự tồn tại của chính chúng ta.
Đồng thời, nó cũng đưa đến một phương pháp mới để khám phá quá khứ, đó là thông qua các hạt bụi quanh các thiên hà, vốn hấp thụ một nửa bức xạ phát ra từ các ngôi sao gần nó trong suốt lịch sử và sáng lên dưới ống kính các đài quan sát hồng ngoại. | NASA chụp được ‘hạt giống sự sống’ ra đời 12 tỉ năm trước | 497 | |
Đoạn đèo dài gần 20 cây số ở
tỉnh Quảng Trị
từ lâu đã là cung đường huyền ảo mà bất kì phượt thủ nào cũng muốn một lần chinh phục.
Không chỉ riêng Tây Bắc mới có những cung đường với cảnh sắc tuyệt đẹp. Ngay tại Quảng Trị, con đường đèo Sa Mù cũng khiến các phượt thủ mê mệt bởi cảnh sắc huyền ảo.
Đèo Sa Mù là cung đường dài gần 20 cây số, nối liền hai xã Hướng Phùng và Hướng Việt của
huyện Hướng Hóa
, tỉnh Quảng Trị. Từ thị trấn Khe Sanh theo đường Hồ Chí Mình hướng về Quảng Bình, đi khoảng 35km là đến được chân cung đèo nổi tiếng này. Đây cũng chính là đoạn đường đèo giáp với biên giới Việt – Lào, hiểm trở bậc nhất ở khu vực miền Tây tỉnh Quảng Trị với nhiều dốc đứng, quanh co.
Do nằm ở độ cao gần 1.400km so với mặt nước biển, dọc suốt đoạn đường quanh co này là mây phủ trắng xóa, khiến cảnh quan nơi đây luôn huyền ảo. Cũng bởi thế mà đèo được đặt tên là Sa Mù.
Trước đây, người dân bản địa xem Sa Mù như “con đường ma” vì địa thế hiểm trở, nhiều nguy hiểm với dốc cao chót vót, đường thì uốn lượn quanh co, khúc khuỷu.
Ngày nay, đoạn đèo này đã trở thành một trong những cung đường được nhiều phượt thủ đặc biệt ưa thích, bởi cảnh quan xuyên suốt hai bên đường như một bức tranh thiên nhiên hài hòa.
Cùng với cảnh sắc hùng vĩ của núi rừng, tất cả tạo nên sắc màu vô cùng huyền ảo và khác biệt. Tuy vậy, với độ hiểm trở nhất định thì việc đảm bảo an toàn khi di chuyển trong hành trình chinh phục Sa Mù chính là điều mà ai cũng phải tuân thủ để trải nghiệm chiêm ngưỡng cảnh quan nơi đây được trọn vẹn. | Chiêm ngưỡng cung đèo Sa Mù huyền ảo nổi tiếng bậc nhất ở đất Quảng Trị | 324 | |
Tập tản văn "Những hạt bùn vạn dặm". (Ảnh: Chibooks).
Tập tản văn ‘Những hạt bùn vạn dặm’ của tác giả Lê Quang Trạng kể về miền quê sông nước bao la miền Tây Nam Bộ, vừa được Chibooks giới thiệu tới bạn đọc.
Tập tản văn được viết nên từ tình cảm sâu đậm của tác giả với quê hương miền Tây Nam Bộ, một miền đất bao la sông nước, là nơi hội tụ của những dòng lưu dân khắp tứ xứ. Những con người chân chất, hào sảng ấy đã hình thành nên một cộng đồng đậm đà tình làng nghĩa xóm và một nền văn hóa đa dạng tựa như những cánh đồng miền Tây Nam Bộ trù phú được những dòng phù sa bao đời bồi đắp.
Nhận xét về tập tản văn, nhà văn Ngô Khắc Tài chia sẻ: “Những hạt bùn vạn dặm mà Lê Quang Trạng chắt chiu được, về nghĩa đen, có thể hiểu đó là thứ bùn đâu đó rất xa, ở tận dãy Hy Mã Lạp Sơn, theo dòng Mê Kông hùng vĩ chảy qua nhiều nước rồi mới đến được Cà Mau. Nhưng theo một nghĩa khác, cũng có thể thấy “bùn” ở đây chính là vùng đất mới phương nam hai mùa mưa nắng khi lưu dân đặt chân đến nơi này…”
Một tấm poscard được in kèm tập tản văn.
Nhà văn Ngô Khắc Tài nhận xét, từ thông điệp “bùn” của các tản văn trong tập sách này, Lê Quang Trạng đã khái quát nên được sự bù trừ của thiên nhiên nơi miền đất Tây Nam. Đó là mùa nước dâng cao ngập trắng đồng suốt nhiều tháng liền, nhưng mùa nước cũng mang đến cho con người nơi đây cuộc sống sung túc, hào sảng và thơ mộng với bao la tôm cá, sản vật.
Đó còn là dòng Cửu Long với câu hỏi tự vấn của tác giả dẫn ra cho chúng ta nhiều suy ngẫm, không biết sông khởi hành từ khi nào, vượt qua bao nhiêu ghềnh thác để chở những hạt bùn vạn dặm bồi đắp nên một miền đất phù sa bao la và trù phú?
Là người sinh ra và lớn lên ở huyện cù lao Chợ Mới (
tỉnh An Giang
), một dãy cù lao dài và rộng nằm giữa sông Tiền và sông Hậu với biết bao ưu đãi của thiên nhiên và bề dày lịch sử văn hóa, tác giả Lê Quang Trạng đưa “từ đồng ruộng lên trang sách” tất cả những gì anh được tắm mình trong đó từ thủa ấu thơ, trên vùng đất màu mỡ, xanh tươi cây trái cũng như những tính cách của mảnh đất, con người nơi đây…
Tác giả Lê Quang Trạng.
Là tác giả còn rất trẻ, sinh năm 1996, nhưng Lê Quang Trạng hiện nay đã là hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam và có trong tay rất nhiều giải thưởng văn học. Có thể kể đến giải Ba – Giải thưởng Văn học tuổi 20 lần thứ VII (2019-2022), giải A – Giải thưởng VHNT Huỳnh Văn Nghệ lần thứ VI (2016-2020), các giải thưởng sáng tác khác của Bộ Quốc phòng, tạp chí Văn nghệ quân đội, báo Văn nghệ, Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, tạp chí Cửa Việt…
Lê Quang Trạng cũng từng xuất bản nhiều tác phẩm như “Dòng sông không trôi” (tập truyện ngắn), “Áp tai vào đất” (tập thơ), “Thủ lĩnh băng vịt đồng” (truyện dài), “Vệt sáng của bụi” (tập truyện ngắn), “Người chở chữ qua sông” (tập bút ký)… | Giới thiệu tập tản văn “Những hạt bùn vạn dặm” | 600 | |
Nhà xuất bản Kim Đồng vừa cho ra mắt độc giả tập truyện ngắn “Mùa hè năm ấy có cơn mưa rào” của nhà văn Trần Tùng Chinh, tập truyện ngắn nói về quãng thời gian trong sáng và đẹp nhất của mỗi người – tuổi học trò – thời sinh viên.
Mùa hè năm ấy có cơn mưa rào
chỉ vỏn vẹn 10 truyện ngắn nhưng phía sau mỗi câu chuyện là bao cảm xúc bồi hồi, suy ngẫm mà tác giả đem lại cho người đọc. Cứ ngỡ những thứ cảm xúc ganh tị nhau của tuổi học trò, của thuở hồn nhiên vô ưu, vô lo sẽ dừng lại ở ngưỡng cửa đại học, nhưng không cái cảm xúc ấy cứ đeo đẳng theo con người ta từng phút một. Để rồi dù là một sinh viên năm nhất thì Thảo vẫn “khó chịu” khi chứng kiến Thuộc cứ giả chữ ký phụ huynh viết đơn xin cho Bích nghỉ học miết
“
Ai thèm né ông! Ai mượn để ý tui làm chi! Lo để ý tới mấy người hay nghỉ học kìa, để còn làm đơn xin phép chớ” (
Năm nhất
).
Đọc tác phẩm, ta sẽ thấy bóng dáng của những con người yêu cuồng nhiệt, khát khao tìm kiếm tình yêu và bộc lộ cảm xúc của mình nhưng trong cái cuồng nhiệt ấy vẫn còn vương vấn sự “trẻ con”, “bồng bột” quyết tâm từ bỏ đam mê chỉ vì hai chữ “thất tình”. Yêu là một thứ cảm xúc thiêng liêng mà tạo hóa ban tặng cho con người nhưng yêu như thế nào cho đúng, cho đẹp thì đối với cô cậu sinh viên năm nhất đôi khi cũng cần đến một “Quân sư Hai Lúa” chỉ dạy “Thầy đề nghị Tân hãy lạnh lùng lên, như kiểu mấy soái ca trong phim Hàn Quốc (…) Rồi thầy chốt hạ một câu: Cái gì của mình tự khắc sẽ thuộc về mình, còn cái gì không phải thì có níu kéo đến mấy cuối cùng vẫn sẽ trắng tay”.
(Ông thầy quân sư)
.
Và rồi ở tuổi trẻ không dừng lại chỉ ở tình yêu mà còn là những tháng ngày học tập, tham gia các hoạt động vì lợi ích cộng đồng, cùng lên đường thực hiện “Chiến dịch Mùa hè xanh” với khẩu hiệu bên mình “Sinh viên ở dân thương. Làm dân tin. Đi dân nhớ. Quyết tâm, quyết tâm,…”
(Mùa hè năm ấy có cơn mưa rào)
.
Ngọt ngào và dễ thương, nhẹ nhàng và lắng đọng là những cảm xúc mà bạn có thể cảm nhận được khi đọc xong tập truyện “Mùa hè năm ấy có cơn mưa rào “, là những nhận xét thú vị mà độc giả giành cho tập truyện ngắn. | Ra mắt tập truyện ngắn “Mùa hè năm ấy có cơn mưa rào” | 460 | |
Phường Hòa Thuận được thành lập theo Nghị định số 01/2005/NĐ-CP ngày 05/01/2005 của Chính phủ, trên cơ sở hợp thành từ 5 khối phố của phường Tân Thạnh và 2 thôn của xã Tam Đàn, thị xã Tam Kỳ cũ, chính thức hoạt động từ ngày 01/02/2005, có vị trí địa lý:
– Đông giáp phường Tân Thạnh,
phường An Mỹ
.
– Tây giáp xã Tam Đàn.
– Nam giáp xã Tam Thái,
huyện Phú Ninh
và phường Trường Xuân.
– Bắc giáp phường Tân Thạnh, xã Tam Đàn.
– Diện tích đất tự nhiên:
719,78
ha (theo kiểm kê đất đai 2012).
Là phường mới thành lập 2005, lại nằm vùng ven đô, địa bàn phường rộng, vừa có đô thị và nông thôn, vừa có đồng bằng và đồi dốc; dân cư phân bố không đều.
Hiện tại, trên địa bàn phường có
09
khối phố,
56
tổ đoàn kết với
2.
620
hộ, tổng dân số là
12.
386
khẩu. Trong đó, có 02 khối phố Phương Hoà Nam và Mỹ Thạch Trung nằm trong khu trung tâm hành chính
tỉnh Quảng Nam
.
Ngoài ra, còn có khu công nghiệp Thuận Yên, 02 đơn vị Quân đội
(Tỉnh đội Quảng Nam, BCH Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Nam)
, 04 đơn vị Công an
(Phòng Cảnh sát cơ động (PK20), Trại tạm giam (PC81B), Trung tâm huấn luyện (Công an tỉnh Quảng Nam), Trung đoàn cảnh sát cơ động (Bộ Công an))
, 02 Bệnh viện
(Bệnh viện Nhi và Bệnh viện Thái Bình Dương)
đóng chân trên địa bàn.
Những năm gần đây, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, được sự quan tâm lãnh chỉ đạo của Thành uỷ – UBND
thành phố Tam Kỳ
, Đảng uỷ – chính quyền và nhân dân phường Hoà Thuận đã từng bước vượt qua khó khăn, thách thức: thu ngân sách qua các năm đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch thành phố giao; kinh tế phường đã có bước phát triển mạnh mẽ; hệ thống hạ tầng từ trường học, điện chiếu sáng kiệt hẻm đến bê tông hóa các tuyến đường giao thông, …. được quan tâm đầu tư; cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến rõ rệt theo hướng tăng nhanh tỷ trọng ngành Công nghiệp, Dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành Nông nghiệp cùng với sự hình thành và phát triển của Khu Công nghiệp Thuận Yên, cụ thể: tỷ trọng các ngành Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp đạt 62,1%, Thương mại – Dịch vụ đạt 35,62%, Nông nghiệp còn 2,27%. Sản lượng lương thực hằng năm đạt 937 tấn
(802 tấn lúa, trên 135 tấn ngô),
chăn nuôi phát triển rải rác ở các khối phố với tổng đàn gia súc 2.046 con
(170 con trâu, 694 con bò, 1.182 con heo)
, gia cầm 11.850 con. Văn hoá – xã hội có nhiều tiến bộ, tỷ lệ hộ nghèo chiếm 0,75 %, hộ cận nghèo chiếm 1,4%; an ninh chính trị – trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên. | Giới thiệu khái quát phường Hòa Thuận | 499 | |
TỔNG QUAN LỊCH SỬ VÀ ĐỊA LÝ, DÂN CƯ
VỀ ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG AN MỸ
Quá trình hình thành và phát triển
phường An Mỹ
ngày nay, gắn liền với chặn đường lịch sử phát triển của thành phố Tam Kỳ. Từ thời xa xưa là vùng đất mới do ông cha ta mở cõi dựng nghiệp về phía Nam từ đời Hồ Hán Thương năm 1403 cách đây 610 năm. Qua các biến thiên lịch sử đến đời vua Lê Thánh Tông nền hành chính quốc gia đã ổn định. Năm 1471 nơi đây thuộc huyện Hà Đông, phủ Thăng Hoa, đạo Thừa Tuyên Quảng Nam. Lỵ sở huyện Hà Đông đặt ở Chiên Đàn. Đến năm Thành Thái Thú 18 (năm 1906), dời Lỵ sở Hà Đông về Tam Kỳ đổi thành Phủ Tam Kỳ cho đến năm 1945.Trụ sở làm việc của UBND phường An Mỹ hiện nay, nguyên trước đây là Thủ phủ Tam Kỳ, đã được công nhận là di tích lịch sử tại Quyết định số 2378/QĐ-UB ngày 09/08/1999 của UBND tỉnh Quảng Nam.
Mùa thu năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, với khí thế cách mạng sục sôi, nhân dân nổi dậy cùng với các nơi đồng loạt đứng lên vũ trang giáo, mác gậy gộc kéo về Phủ đường Tam Kỳ, đánh đổ tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân trong đêm 18/08/1945, mở ra một trang sử mới, nhân dân thực sự là người chủ của chính quyền các cấp, kỷ nguyên độc lập, tự do của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nơi đây là vùng tự do, là hậu phương của các chiến trường Liên khu 5 mà trực tiếp là mặt trận Bắc Quảng Nam và Đà Nẵng. Nhân dân sẵn sàng hy sinh không tiếc sức người, sức của hăng hái tòng quân giết giặc, đi dân công chuyển thương tải đạn, tăng gia sản xuất, tiết kiệm, tham gia tuần lễ vàng hũ gạo nuôi quân, thực hiện tốt khẩu hiệu chống giặc đói giặc dốt và giặc ngoại xâm, tất cả để dành độc lập cho nước nhà.
Trong những năm tháng sống dưới chế độ của Mỹ – Ngụy nơi đây cận kề Tỉnh đường Quảng Tín, địch kèm kẹp gắt gao, dồn dân lập ấp, bắt bớ tù đày. Tuy vậy nhân dân vẫn một lòng kiên trung với cách mạng, bền bỉ và anh dũng đấu tranh chống Mỹ-Ngụy đòi thống nhất nước nhà. Tiêu biểu là cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968, quân và dân Tam Kỳ phối hợp với lực lượng vũ trang của Tỉnh, đấu tranh bằng bạo lực chính trị và vũ trang, đánh chiếm căn cứ tại Tỉnh đường Quảng Tín trong nhiều giờ, gây cho địch hoang mang và tổn thất nặng nề. Ngày nay tại khối phố 9 phường An Mỹ có tượng đài chiến thắng Xuân Mậu Thân năm 1968 nơi đây đã ghi nhận công lao to lớn của các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Mùa xuân năm 1975 trong cao trào công kích, tổng khởi nghĩa giành chính quyền quân và dân Tam Kỳ phối hợp với quân chủ lực của Tỉnh, Quân khu 5 với khí thế vũ bảo, đánh đổ ngụy quân ngụy quyền, giải phóng Thị xã Tam Kỳ vào ngày 24/03/1975 góp phần quan trọng để giải phóng Tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng vào ngày 29/03/1975 và giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước vào ngày 30/04/1975.
Ngày 20/01/1984, chính phủ có Quyết định chia tách huyện Tam Kỳ thành hai đơn vị hành chính, đó là thị xã Tam Kỳ và huyện Núi Thành, cũng từ đó phường An Mỹ chính thức được thành lập. Với diện tích tự nhiên 189,9 ha, tổng số hộ gia đình là 2.710; dân số hiện nay là 12.471 người; dân số thành thị chiếm 100%. Hiện nay toàn phường có 11 khối phố ,82 tổ đoàn kết, trong đó cán bộ công nhân viên chức chiếm khoảng 60% dân số , hưu trí chiếm 25%, nông nhiệp chiếm 1%, còn lại làm các nghề thủ công, dịch vụ kinh doanh buôn bán. Trên địa bàn có tổng số 4 mẹ Việt Nam anh hùng, 350 hộ gia đình liệt sỹ, thương bệnh binh và có công cách mạng, 36 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 1,33% và 63 hộ cận nghèo.
Từ Ngày thành lập cho đến nay sau gần 30 năm xây dựng, cán bộ và nhân dân toàn phường đã vượt qua giai đoạn khó khăn thử thách ban đầu, tăng cường đoàn kết thống nhất, xây dựng phường tiến bộ về nhiều mặt, đạt được nhiều kết quả đáng phấn khởi, Đảng bộ nhiều năm liền được công nhận Đảng bộ trong sạch vững mạnh, UBND,UBMTTQVN và các hội đoàn thể, các ban ngành, các trường học; công tác Y tế, Dân số… của phường nhiều năm đượcThủ tướng Chính Phủ UBND tỉnh và UBND thành phố tặng bằng khen, giấy khen, tặng danh hiệu đơn vị tiên tiến xuất sắc, đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua của thành phố. UBND phường An Mỹ là một trong bốn cấp chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, có địa giới hành chính cụ thể, có tư cách pháp nhân và sử dụng dấu riêng có Quốc huy.
+ Phía Đông giáp đường Quốc lộ 1A và phường Phước Hòa;
+ Phía Tây giáp đường sắt Bắc Nam và phường Trường Xuân;
+ Phía Nam giáp với phường An Xuân;
+ Phía Bắc giáp với phường Tân Thạnh.
TÌNH HÌNH KINH TẾ – CHÍNH TRỊ , VĂN HÓA XÃ HỘI PHƯỜNG AN MỸ
1. Về Chính trị
Đảng bộ phường An Mỹ hiện có 18 chi bộ trực thuộc với 501 Đảng viên sinh hoạt, trong đó chi bộ khối phố là 11, chi bộ trường học 04, chi bộ cơ quan 01, chi bộ quân sự 01, chi bộ công an 01; và 1.505 Đảng viên về tham gia sinh hoạt 76 theo quy định hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương, tình hình xã hội được ổn định, an ninh quốc phòng được gữi vững. Chính quyền mặt trận và các đoàn thể luôn được quan tâm xây dựng và củng cố. Đảng bộ nhiều năm liền được công nhận Đảng bộ trong sạch vững mạnh toàn diện.
2. Về phát triển kinh tế
Trong những năm qua phường An Mỹ tập trung phát huy lợi thế tiềm năng, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế theo hướng cơ cấu Thương mại dịch vụ chiếm trên 85%, Tiểu thủ công nghiệp chiếm trên 13% và Nông nghiệp đô thị dưới 1%. Kinh tế phường có mức tăng trưởng tương đối ổn định, thu nhập bình quân đầu người khoảng 25 triệu đồng người/năm.
Theo báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết HĐND phường An Mỹ khóa X, nhiệm kỳ 2011-2016, nhìn chung trong 3 năm qua tình hình kinh tế tại địa phương có bước tăng trưởng khá. Giá trị các ngành thương mại dịch vụ phát triển mạnh, số hộ kinh doanh tiếp tục tăng, loại hình thương mại dịch vụ phong phú, đa dạng, đã có nhiều doanh nghiệp đầu tư với quy mô lớn.Tổng mức lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ tăng lên đáng kể. Tiểu thủ công nghiệp giữ được mức tăng trưởng ổn định, các ngành nghề sản xuất sạch không gây ô nhiễm môi trường được duy trì và phát triển. Nông nghiệp do quá trình đô thị hóa, diện tích đất sản xuất bị thu hẹp, từ 8,5 ha đến nay chỉ còn 1,7 ha. Tập trung chỉ đạo sản xuất hết diện tích đất còn lại, năng suất bình quân hằng năm đạt 50 tạ/ha, định hướng chuyển đổi những diện tích đất nông nhiệp sang trồng các loại rau, thực phẩm sạch an toàn bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế. Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và kinh doanh tổng hợp trong những năm qua đã có nhiều cố gắng tổ chức sản xuất kinh doanh, duy trì ổn định được nguồn vốn, trích lợi nhuận hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp, góp phần tăng năng suất hàng năm.
Công tác Thu ngân sách: Luôn đạt và vượt chỉ tiêu trên giao từ 15-20% kế hoạch năm.Cụ thể tổng thu ngân sách tính đến 30/11/2013 là : đạt tỷ lệ 120.2%; Thu các chỉ tiêu pháp lệnh năm sau đều đạt cao hơn năm trước.
Về chi ngân sách thực hiện theo dự toán Thu chi ngân sách được HĐND thông qua đầu năm, Chi sát với yêu cầu bảo đảm tiết kiệm, chống thất thoát, hợp lý công khai đảm bảo cho các hoạt động của địa phương đúng nguyên tắc, đúng pháp luật. Tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô thị, góp phần phấn đấu xây dựng thành phố Tam Kỳ đạt các tiêu chí đô thị loại II vào năm 2015.
3. Về Văn hóa -Xã hội
Văn hóa-Xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, an sinh xã hội ngày càng được đảm bảo ,phong trào văn hóa văn nghệ ,thể dục thể thao trên địa bàn phát triển mạnh, đặc biệt năm 2013 tham gia đại hội TDTT lần thứ VII do thành phố tổ chức với 15 bộ môn đã đạt giải nhất toàn đoàn, Triển khai tổ chức tốt các hoạt động Hội trại với chủ đề ‘Đoàn kết-Thi đua- phát triển” chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày thành lập phường(20/01/1984-20/01/2014) và tết Giáp ngọ 2014,Thực hiện tốt phong trào ‘’Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống khu đân cư”;Tổ chức bình xét công nhận gia đình văn hóa cuối năm 2013: tỷ lệ gia đình văn hóa đạt 90.85% .
Công tác giáo dục và đào tạo được tăng cường , năm 2013 tất cả hệ thống trường học trên địa bàn đều đạt chuẩn Quốc gia ,tỷ lệ học sinh đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi các cấp đều tăng, duy trì tốt có hiệu quả công tác phổ cập THCS;
Công tác Y tế, DS-KHHGĐ ngày càng được củng cố từ phường đến khối phố ,trạm Y tế đạt chuẩn đảm bảo nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, công tác DS-KHHGĐ nhiều năm dẫn đầu phong trào thi đua của thành phố;
Công tác lao động thương binh và xã hội luôn thực hiện tốt các quy định Pháp lệnh ưu đãi người có công, các đối tượng chính sách trên địa bàn, tổ chức thăm hỏi và tặng quà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình liệt sỹ ,thương bệnh binh nhân kỷ niệm 66 năm ngày thương binh liệt sỹ những ngày lễ tết.
4. Về An ninh – Quốc phòng
Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được gữi vững ổn định, không có diễn biến phức tạp, phát hiện và xử lý kịp thời các vụ việc gây mất ANTT, TTATGT…Nắm chắc tình hình hoạt động của các tôn giáo;hoạt động tuyên truyền, phát tán tài liệu Pháp luân công trên địa bàn. Quản lý chặt chẽ các trường hợp người nước ngoài,Việt Kiều đến địa bàn tạm trú ,lưu trú.Đảy mạnh công tavs tuyên truyền Nghị Quyết 09 của chính phủ về chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm,phòng chống ma túy. Phát động phong trào toàn dân bảo vệ An ninh tổ quốc.
Triển khai nhiệm vụ Quốc phòng quân sự địa phương đúng theo qui định; xây dựng lực lượng Dân quân đúng,đủ đạt chất lượng theo chỉ tiêu trên giao;Duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu theo chỉ thị 05 về công tác trực sẳn sàng chiến đấu; đảm bảo tình hình an ninh trật tự, trật tự an toàn xã hội trong các ngày lễ lớn các sự kiện chính trị của đất nước,điều động dân quân năm nhất,lực lượng dân quân cơ động,dân quân binh chủng tham gia huấn luyện do bộ chỉ huy quân sự thành phố tổ chức đạt 100%; tham gia Hội thao quốc phòng toàn dân năm 2013. Đăng ký nghĩa vụ quân sự lần đầu (tuổi 17): 70/70 thanh niên đạt 100% ; tổ chức vận đọng và phát lệnh thanh niên trúng tuyển nghĩa vụ quân sự giao quân 13/13 đạt 100%.
Nhìn chung trong những năm qua, tập thể UBND phường đã phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất tập trung chỉ đạo bám sát Nghị Quyết Đảng ủy, HĐND về thực hiện nhiệm vụ KT-CT, AN-QP đạt nhiều kết quả đáng phấu khởi, từng thành viên UBND, cán bộ công chức người lao động, người hoạt động không chuyên trách đã nêu cao tinh thần trách nhiệm trong các lĩnh vực được phân công phụ trách; Phát triển kinh tế , thu ngân sách đạt và vượt chỉ tiêu,điều hành quản lý ngân sách hợp lý,linh hoạt tiết kiệm đảm bảo cho các nhiệm vụ trọng tâm. Đời sống nhân dân được ổn định, tình hình An ninh chính trị trên địa bàn được gữi vững; Kỷ luật , kỷ cương hành chính được chấn chỉnh kịp thời và từng bước đi vào nề nếp.
Nhận xét chung
Phường An Mỹ là một phường hành chính loại I của
thành phố Tam Kỳ
,trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng cán bộ và nhân dân phường An Mỹ không ngừng ra sức xây dựng địa phương phát triển mạnh về kinh tế ,văn hóa xã hội, ổn định về an ninh quốc phòng là một trong những phường có phong trào thi đua khá tốt của thành phố, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt,bộ mặt đô thị ngày càng khởi sắc góp phần vào sự phát triển mới đầy triển vọng về một nền kinh tế-văn hóa-xã hội của thành phố Tam Kỳ trong tương lai. | Giới thiệu khái quát phường An Mỹ | 2,379 | |
Qua biến động lịch sử
đị
a lý Trường Xuân có đôi phần thay đổi nhưng cuối cùng mảnh đất Trường Xuân đã trở lại với cái tên thân thương từ thời kỳ khai sinh
ra nó, tồn tai suốt năm thế kỷ qua. Và nhiều thế hệ con người từ nhiều nơi quy tụ về đây cùng đoàn kết chung sống xây dựng quê hương
.
I. VỊ TRÍ, ĐỊA LÍ, LỊCH SỬ:
Trường Xuân là một trong những phường nằm ở vị trí trung tâm Huyện Tam Kỳ trước đây là một Huyện ở địa đầu phía Nam thuộc Tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng giáp giới Tỉnh Quảng Ngãi, ngày nay thuộc thành phố Tam Kỳ. Phía Bắc giáp với phường Hòa Thuận, phía Nam giáp với xã Tam Ngọc; Phía Đông giáp với phường An Sơn, An Xuân, An Mỹ; Phía Tây giáp với xã Tam Thái. Có diện tích tự nhiên 4,4km2.
Theo lịch sử để lại, tỉnh Quảng Nam xưa kia thuộc vùng đất Chiêm Thành. Đến giữa Thế kỉ XIV nước Chiêm Thành dần dần suy vong, đất Quảng Nam và một số vùng khác được sáp nhập vào bản đồ Đại Việt. Năm Hồng Đức thứ 2 (1471) vua Lê Thánh Tông lập ra Thừa Tuyên Quảng Nam Đạo, đạo thứ 13 của Đại Việt. Đầu năm 1602 diễn ra cuộc phân tranh Trịnh Nguyễn, chúa Nguyễn Hoàng đưa dân vào đàng trong thực hiện chính sách “khai hoang lập làng” mở mang bờ cõi, đặt ra tỉnh Quảng Nam; tạo dựng thế lực tiến hành cuộc nội chiến chống Chúa Trịnh kéo dài hàng thế kỉ.
Vào thời gian đó, làng Trường Xuân được hình thành. Trải qua bao biến đổi lịch sử từ ngày thành lập đến nay vùng đất tên làng có những thay đổi và có những tên gọi khác nhau.
Ban đầu thời Hồng Đức thứ 26 – 1495 tên làng là Trường Xuân.
Trước và sau niên đại Quang Trung – 1789 – gọi là Phú Xuân Trung Xã.
Đến thời Tự Đức năm thứ 24 – 1871 đổi lại xã Trường Xuân và giữ mãi đến thời kỳ thực dân Pháp đô hộ.
Từ ngày cách mạng tháng Tám – 1945 thành công do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo, vì yêu cầu của công cuộc xây dựng xã hội mới và trải qua hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Trường Xuân lại nhiều lần sáp nhập, chia tách.
Trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954) đã ba lần nhập tách:
Đầu năm 1947 sát nhập với xã Phú Xuân thành xã Phú Trường.
Đầu năm 1949 xã Phú Xuân và một thôn của Trường Xuân (ấp Tây) được tách ra nhập về xã Tam Thái. Phần lớn còn lại của Trường Xuân sáp nhập cùng một số xã ở vùng đô thị Tam Kỳ lập thành xã Tam Chánh.
Đến năm 1950 có sự điều chỉnh lại địa giới, xã Tam Chánh được đổi tên là xã đặc biệt Tam Kỳ. Lúc này Trường Xuân bị cắt thêm 3 thôn: ấp Trung, ấp Nam và ấp Liên Hợp về với xã Tam Thái.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975) đất nước ta tạm thời chi thành hai miền. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào còn dưới chế độ cai quản tạm thời của Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn. Chúng phân lại ranh giới đổi tên xã Trường Xuân thành xã Kỳ Yên. Sau đó ít năm chúng hợp nhất các xã Trường Xuân, Đoan Trai, Mỹ Thạch lập thành xã Kỳ Hương.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng thống nhất nước nhà (năm 1975), dưới chính quyền cách mạng Trường Xuân lại nhập với xã Ngọc Thọ, Phú Ninh thành xã Xuân Thọ, sau đổi tên thành xã Tam Ngọc.
Năm 1984, huyện Tam Kỳ chia thành hai đơn vị hành chính: Thị xã Tam Kỳ và huyện Núi Thành. Trường Xuân tách khỏi xã Tam Ngọc và được đặt tên mới là Phường Trường Xuân thuộc thị xã Tam Kỳ cho tới ngày nay.
Qua biến động lịch sử địa lý Trường Xuân có đôi phần thay đổi nhưng cuối cùng mảnh đất Trường Xuân đã trở lại với cái tên thân thương từ thời kỳ khai sinh ra nó, tồn tại suốt năm thế kỷ qua. Và nhiều thế hệ con người từ nhiều nơi quy tụ về đến nay đẫ có 39 họ cùng đoàn kết chung sống xây dựng quê hương. Vì vậy ở địa thờ Hậu Tâm đình Trường Xuân đã ghi hai câu liễn:
“ Trường tồn tôn tử thịnh.
Xuân lai quân dân hưng”
( Tự Đức năm thứ 2 – Kỷ Dạu – 1849)
Tạm dịch:
Con cháu trường tồn thịnh vượng mãi
Quân dân cùng tiến bước lúc xuân về.
Và trên một bia đá chưa rõ ở thời kỳ nào đã tạc lên năm chữ:
“ Trường Xuân bất lão thiên”
Tạm dịch:
Xuân mãi với trời, xuân trẻ mãi.
II. TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI TRƯỜNG XUÂN TRONG LỊCH SỬ
Dân số Trường Xuân hiện nay có gần 7015 người, với mật độ dân số tương đối cao, chỉ có dân tộc chính là người kinh. Con người Trường Xuân từ xưa vốn tuyệt đại đa số là nông dân nghèo từ miền Bắc di cư vào. Theo sử sách nghi chép và gia phả của một số tộc họ để lại thì thì cuộc di cư lớn nhất bắt đầu từ thời Hồ Hán Thương ( Nhà Hồ – 1403). Hộ gồm nhiều thành phần xã hội khác nhau. Có người bị chế độ phong kiến cưỡng ép di cư, có người chống lại chế dộ hà khắc của vua quan phong kiến nên bị lưu đầy, có người đưa đi làm lính trận bỏ ngũ trốn về, có người vì đời sống cơ cực phải tha phương cầu thực đi tìm đất mới làm ăn… Nhưng dù trong hoàn cảnh nào họ đều luôn luôn đoàn kết gắn bó đùm bọc lấy nhau, khi tối lửa tắt đèn cũng như khi loạn lạc, để bảo vệ lấy mình, xây dựng đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo vệ quê hương đất nước.
Về xây dựng và phát triển kinh tế, vốn đã có ý thức cộng đồng cao và đức tính cần cù lao động, chịu đựng gian khổ, bền bỉ đấu tranh với thiên nhiên, với bất công xã hội, ngay từ ngày đầu nhân dân Trường Xuân đã khai phá những vùng đất hoang vu, rừng đồi hẻo lánh cải tạo thành đất canh tác để trồng khoai, lúa, sắn, đậu, phát triển chăn nuôi ngành nghề trồng cây ăn quả… Trường Xuân không có rừng núi, sông, biển, nghèo tài nguyên khoáng sản. Đất đai vốn không được phì nhiêu phần lớn là đất sét pha cát, đất gò đồi lại thiếu nước. Diện tích lúa nước có rất ít nên phải làm thêm lúa gieo, do đó sản phẩm thấp và bấp bênh. Lúa ruộng không nhiều nên phát triển hoa màu, cây ăn quả để bổ sung cho bữa ăn hoặc trao dổi mua thêm lúa gạo.
Nhưng Trường Xuân lại có một vị trí địa thế thuận lợi nằm trên trục giao lưu từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, cư dân đông đúc nên đời sống ngày càng có điều kiện phát triển nhất là vào giữa thế kỷ 18 trở đi khi chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm nhập và nước ta bị thực dân Pháp xâm lược đặt ách đô hộ. Chúng lập bộ máy cai trị, xây dựng những trung tâm sản xuất công nghiệp, thương mại, phát triển giao thông, sân bay, bến cảng… để vơ vét tài nguyen bóc lột của nhân dân ta. Trường Xuân vừa nằm sát nách với phủ lỵ Tam Kỳ và các cơ quan đầu não của thực dân phong kiến, nên tình hình chính trị , xã hội, mọi hoạt động, mọi phong trào gì tốt hay xấu đều nhanh chóng ảnh hưởng trực tiếp. Vừa có các hệ thống giao thông thuận lợi cho việc đi lại làm ăn xuyên qua xã như: tuyến đường sắt Bắc Nam cùng với nhà ga lớn với các cơ sở sửa chữa đầu máy toa xe và các kho bãi đều nằm ở bộ phận Trường Xuân. Hồi Pháp thuộc ga Tam Kỳ được gọi là trung tâm xây dựng to đẹp vì hai đầu ra Hà Nội, vào Sài Gòn đều có chiều dài bằng nhau.
Có đường quốc lộ số 1 và đường Tỉnh lộ 110 nối liền Thị trấn Tam Kỳ với Thị trấn Tiên Phước, Trà My, mỏ vàng Bông Miêu và các tuyến đường nội địa giao tiếp với các xã lân cận. Thêm vào đó có sông Tam Kỳ ở phía Nam và sân bay Ngọc Thọ ở phía Tây cũng tạo điều kiện tốt cho quan hệ giao lưu và sinh hoạt của nhân dân.
Với điều kiện lợi đó, con người Trường Xuân biết tận dụng và phát huy mọi khả năng của mình để phát triển kinh tế. Ngoài việc sản xuất lúa, sắn, khoai còn biết xây dựng vùng chuyên canh như cây đậu phộng, cây thuốc lá thành sản phẩm chính. Cây thuốc lá có một thời nổi tiếng tại thị trường Miền Trung, cây đậu phộng một thời vươn lên thành sản phẩm công nghiệp và mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao. Đời sống nhân dân có phần khá so với nhân dân trong vùng có câu:
“Trường Xuân có lúa sắn lang
Có đậu, có thuốc mới khỏi mang nợ nần”
Ngành nghề thủ công vốn được lưu truyền từ lâu cũng càng ngày phát triển như nghề rèn, nghề mộc, thợ nề, ép dầu, chế biến, đan nát….Nhiều gia đình lấy đó làm nghề chính của mình, có tay nghè cao và truyền cho con cháu đời này qua đời khác.
Ngành thương nghiệp vụ trước đây rất nhỏ bé, chỉ có một số hộ dọc theo các đường tỉnh lộ làm các nghề buôn bán nhỏ như bán tạp hóa, may vá, làm bánh, quán ăn phục vụ cho bà con trong vùng và người qua đường. Ở Ấp Đông Trường Xuân nghề phục vụ này rất phát triển hơn nên có lúc gọi vùng này là Quán Rạp. Về sau khi có các sản phẩm như thuốc lá, đậu phụng thì việc trao đổi buôn bán mạnh hơn thành những mặt hàng quantrọng có thu nhập khá. Một số hộ có vốn liếng nhiều, có nhiều lao động thì đầu tư cho việc thu mua, tích trữ kinh doanh làm giàu.
Ngày nay có đường lối kinh tế xã hội mới của Đảng và Nhà nước ta, cơ sở vật chất xã hội dần dần được xây dựng, tiến bộ khoa học kỹ thuật mới từng bước được áp dụng, nhân dân Trường Xuân đã biết phát huy, khai thác và sử dụng tiềm năng sức lao động của địa phương nên việc phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề, dịch vụ giao lưu hàng hóa đa dạng và phong phú hơn, bộ mặt xã hội có nhiều thay đổi, đời sống nhân dân được cải thiện nâng cao một bước.
Trong từng thời điểm lịch sử chống kẻ thù xâm lược, nhân dân Trường Xuân đã đưa đông đảo con em mình ra đi cứu nước và sử sách còn lưu truyền lại những dại diện tiêu biểu cho các thế hệ anh hùng. Đó là các danh tướng Lê Văn Thủ, lê Văn Long trong nghĩa quân Tây Sơn đại phá quân Thanh (Trung Quốc) xâm lược năm 1879; các ông Lê Văn Ngữ, Lê Văn Chế chiến đấu và anh dũng hy sinh trong những ngày đầu chống Pháp xâm lược để bảo vệ thành Đà Nẵng (1858); các ông Trần Văn Ny, Cao văn Chái chiến đấu hy sinh trong phong trào Việt Nam Quang Phục Hội (1916); và sau này trong 30 năm kháng chiến chống hai Đế quốc Pháp và Mỹ hàng nghìn người con thân yêu của Trường Xuân hăng hái lên đường làm nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc và nghĩa vụ Quốc tế, phục vụ tiền tuyến góp phần vào thắng lợi to lớn vào hai cuộc chiến tranh thần thánh của nhân dân ta.
Ngày nay trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, con người Trường Xuân không những tiếp tục phát huy bản chất cần cù sáng tạo trong lao động mà còn tiếp thu nền văn minh mới để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh do đảng đề ra. | Giới thiệu khái quát phường Trường Xuân | 2,145 |