id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
628
29.6k
gen
stringclasses
1 value
len
int64
200
2k
19828776
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng%20C%E1%BB%99ng%20s%E1%BA%A3n%20Philippines
Đảng Cộng sản Philippines
Đảng Cộng sản Philippines () là một tổ chức cách mạng cực tả và là một đảng cộng sản theo Chủ nghĩa Marx–Lenin–Mao ở Philippines. Tổ chức này do Jose Maria Sison thành lập vào ngày 26 tháng 12 năm 1968. Đảng này bị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ coi là nhóm khủng bố, cùng với Sison và tổ chức vũ trang New People's Army (NPA) của đảng vào năm 2002. Liên minh châu Âu đã gia hạn chỉ định khủng bố đối với tổ chức này vào năm 2019, mặc dù phán quyết năm 2009 của tòa án cao thứ hai EU đã chấm dứt việc coi Sison là "người ủng hộ khủng bố" và đảo ngược quyết định phong tỏa tài sản của các chính phủ thành viên. Theo The World Factbook của Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA), CPP và NPA được thành lập nhằm mục đích gây bất ổn cho nền kinh tế Philippines và lật đổ chính phủ quốc gia. Tổng thống Philippines và học trò cũ của Sison, Rodrigo Duterte, tuyên bố nhóm này là một tổ chức khủng bố vào năm 2017, mặc dù CPP-NPA vẫn chưa được tòa án Philippines công nhận pháp lý là một nhóm khủng bố. CPP đã tiến hành chiến tranh du kích chống lại nhà nước kể từ khi thành lập. Mặc dù ban đầu chỉ có khoảng 500 thành viên, đảng đã phát triển nhanh chóng, được cho là do cựu tổng thống và nhà độc tài Ferdinand Marcos tuyên bố và áp đặt thiết quân luật trong suốt 21 năm cầm quyền của ông. Vào cuối thời nhiệm kỳ Marcos, quân số đã tăng lên tới hơn 10.000 binh sĩ. Trong bài phát biểu trước Quốc hội Hoa Kỳ năm 1986, Tổng thống Corazon Aquino thừa nhận sự phát triển nhanh chóng của đảng là do những nỗ lực của Marcos nhằm ngăn chặn nó bằng "các phương tiện giúp nó phát triển" thông qua việc thiết lập thiết quân luật, cho rằng các chính phủ khác coi đó là một bài học khi đối phó với các cuộc nổi dậy của cộng sản. Năm 2019, Sison tuyên bố rằng số lượng thành viên và những người ủng hộ tổ chức này đang tăng lên, bất chấp tuyên bố của chính phủ Philippines rằng tổ chức này sắp bị tiêu diệt. Tổ chức này vẫn hoạt động ngầm, với mục tiêu chính là lật đổ Chính phủ Philippines thông qua cách mạng vũ trang và xóa bỏ ảnh hưởng của Mỹ đối với Philippines. Đảng này bao gồm Mặt trận Dân chủ Quốc gia, tổ chức thanh niên của đảng; và New People's Army, đóng vai trò là tổ chức vũ trang của nó. Hiện tại, CPP là tổ chức theo Chủ nghĩa Marx–Lenin–Mao lớn nhất trên thế giới, có khoảng 150.000 thành viên, theo tuyên bố của các cán bộ và quan chức của đảng này. Tham khảo Liên kết ngoài Kilusan Nhóm vũ trang cộng sản Đảng cộng sản ở Philippines Chủ nghĩa Mao Tổ chức chống phát xít Tổ chức chống chủ nghĩa tư bản Đảng phái chính trị thành lập năm 1968 Đảng phái chính trị bị cấm Nhóm chống đối ở Philippines Khủng bố Cộng sản Tổ chức khủng bố theo Hoa Kỳ Nhóm vũ trang cánh tả
543
19828785
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20gom
Đường gom
Đường gom hay đường phân phối là đường có năng lực từ thấp đến vừa, dùng để di chuyển giao thông từ đường phố đến các đường huyết mạch. Không giống như đường huyết mạch, đường gom được thiết kế để cung cấp lối vào các khu dân cư. Thỉnh thoảng, các khu vực pháp lý phân biệt các đường gom lớn và nhỏ. Thông số kỹ thuật Các đường gom thường rất khác nhau về ngoại hình. Một số đường gom ở đô thị là những đại lộ rộng đi vào các khu dân cư hoặc kết nối các khu vực. Những đường khác là đường phố và thường rộng hơn đường địa phương. Các chợ quy mô nhỏ có thể được tìm thấy trên các đường gom trong khu dân cư. Các cơ sở cộng đồng chính như trường học, nhà thờ và các trung tâm giải trí thường nằm trên các đường gom. Đường gom thường bao gồm sự kết hợp của các nút giao có đèn giao thông, vòng xoay (bùng binh) hoặc biển báo dừng. Ở Bắc Mỹ, đường gom thường có đèn giao thông tại giao lộ với đường huyết mạch, trong khi bùng binh và điểm dừng hai chiều thường được sử dụng ở Châu Âu. Đường gom thường có giới hạn tốc độ là 30 ‑ 60 km/h, tùy thuộc vào mức độ phát triển và tần suất tiếp cận địa phương, nút giao thông và người đi bộ cũng như khu vực xung quanh (tốc độ thấp nhất trong khu vực có trường học). Việc điều tiết giao thông đôi khi cũng được sử dụng ở các khu vực cũ trên đường gom. Phát triển Đường gom có thể hình thành theo nhiều cách khác nhau. Thông thường, chúng được quy hoạch ở ngoại ô và được xây dựng rõ ràng cho nó; đôi lúc, đường gom lấp đầy những khoảng trống trong hệ thống mạng lưới giữa các tuyến đường huyết mạch. Các nhà quy hoạch đô thị thường xem xét những con đường như vậy khi quy hoạch các khu vực mới vì cơ sở hạ tầng cho các tiện ích như đường dây phân phối điện, cống rãnh và đường ống dẫn nước có thể được xây dựng qua cùng một hành lang. Tham khảo Liên kết ngoài Cổng thông tin Kế hoạch Chính phủ Vương quốc Anh: Bảng thuật ngữ: D Thể loại:Loại đường bộ
401
19828794
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20ca%20s%C4%A9%20Iran
Danh sách ca sĩ Iran
Đây là danh sách các ca sĩ Iran đáng chú ý từng tham gia, hiện đang hoạt động hoặc đã rời khỏi ngành. A Arash (1977-) Ali Reza Eftekhari (1958-) Azad (1973-) Afat (1934-2007) Adib Khansari (1921-1982) Afshin (1955-) Amir Tataloo (1987-) Andy (1958-) Ali Pahlavan (1975-) Azam Ali (1979-) Afsaneh Rasaei (1974-) Abdi Behravanfar (1975-) Amir Hossein Arman (1982-) Aliasghar Movasat (1975-) Ali Abdolmaleki (1984-) Ali Lohrasbi (1976-) Alireza Talischi (1985-) Alireza Ghorbani (1973-) B Babak Jahanbakhsh (1983-) Baran (1988-) Barbad Bahram (1983-) Benyamin Bahadori (1982-) Behzad Ranjbaran (1955-) Bijan Kamkar (1965-) Bijan Mortazavi (1957-) D Dariush (1951-) Davood Azad (1963-) E Ebi (1949-) Ehsan Khajeh Amiri (1984-) Elaheh (1934-2007) Erfan (1983-) F Farhad Mehrad (1944-2002) Faramarz Asef (1977-) Faramarz Aslani (1954-) Farzad Farzin (1981-) G Googoosh (1950-) Gholam Hossein Banan (1911-1986) Gholamali Pouratayi (1944-2014) Giti Pashaei (1940-1995) H Habib (1947-2016) Hayedeh (1942-1990) Hassan Zirak (1921-1972) Homayoun Shajarian (1975-) I Iraj (1933-) Iraj Bastami (1957-2003) Iraj Rahmanpour (1957-) K Khatereh Parvaneh (1930-2008) Kaveh Afagh (1983-) Kourosh Yaghmaei (1946-) L Leila Forouhar (1959-) Laleh (1982-) M Mahsa Vahdat (1973-) Majid Akhshabi (1973-) Mansour (1971-) Mahasti (1946-2007) Mehdi Yarrahi (1981-) Moein (1952-) Mohammad Esfahani (1966-) Mohammad Reza Shajarian (1940-2020) Mohsen Chavoshi (1979-) Mohsen Ebrahimzadeh (1987-) Mohsen Yeganeh (1985-) Morteza Ahmadi (1924-2014) Morteza Barjesteh (1951-) Morteza Pashaei (1984-2014) Mohammad Motamedi (1978-) Monir Vakili (1923-1983) Mozhdah Jamalzadah (1982-) N Nazanin AfshinJam (1979-) Nematollah Aghasi (1939-2005) P Parisa (1950-) Pari Zanganeh (1939-) Pooran (1934-1990) Pyruz (1962-) R Reza Rooygari (1946-) Reza Sadeghi (1979-) Reza Yazdani (1973-) S Shervin Hajipour Sattar (1949-) Shadmehr Aghili (1973-) Shahram Shabpareh (1948-) Shahrum Kashani (1974-2021) Siavash Ghomayshi (1945-) Shahram BozorgMehr (1983-) Sima Bina (1945-) Soroush Lashkary (1985-) Shahkar Bineshpajooh (1972-) Sahar Ajdamsani (1996-) Shakila (1962-) Salome MC (1985-) Sirvan Khosravi (1982-) Shusha Guppy (1935-2008) Siavash Shams (1963-) Sami Beigi (1982-) Shahin Najafi (1980-) T Tara Tiba Toomaj Salehi V Viguen (1929-2003) X Xaniar Khosravi Y Yaser Bakhtiari Ca sĩ Văn hoá Iran Nghệ thuật Iran Âm nhạc Iran Ca nhạc Iran Iran
210
19828800
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5%20b%C3%AA%20b%E1%BB%91i%20visa%20Ba%20Lan
Vụ bê bối visa Ba Lan
Vụ bê bối cấp visa () là một vụ bê bối chính trị đang diễn ra ở Ba Lan liên quan đến cáo buộc tham nhũng trong việc cấp thị thực bởi các quan chức của Bộ Ngoại giao và cơ quan lãnh sự Ba Lan. Phần lớn người nhận rời Ba Lan đến các quốc gia Khu vực Schengen khác hoặc Bắc Mỹ. Theo các nhà phê bình, có tới 350.000 thị thực có thể đã được cấp bất hợp pháp để nhận hối lộ. Vụ bê bối Vụ bê bối này, được phát hiện thông qua báo cáo điều tra, bị cáo buộc liên quan đến việc những người di cư tiềm năng trả tiền cho một người trung gian và sau đó được cấp thị thực nhanh hơn bình thường và không cần kiểm tra đầy đủ. Vì Ba Lan là thành viên của Khu vực Schengen, người nhận thị thực Ba Lan có thể chuyển sang các nước thuộc Liên minh Châu Âu khác. Lãnh sự quán Ba Lan được cho là đã nhận được từ Bộ Ngoại giao danh sách những cái tên sẽ được cấp thị thực nhập cảnh vào Ba Lan mà không cần kiểm tra thêm. Những người nhập cư có thị thực được cấp theo cách này trước tiên đến Ba Lan, sau đó đến Hoa Kỳ và các quốc gia khác thuộc phía bắc toàn cầu, đóng giả là các nhóm du lịch hoặc đoàn làm phim Bollywood. Theo báo cáo, mọi người đã trả tới 45.000 USD cho một thị thực Ba Lan và chuyển sang Hoa Kỳ. Ban đầu các nhà thống kê đưa tin có tới 350.000 thị thực có thể đã được cấp bất hợp pháp để nhận hối lộ kể từ năm 2021, ở Ấn Độ, Philippines, Singapore, Hong Kong, Đài Loan, UAE, Qatar và những nơi khác. Dịch vụ thu tiền này được quảng cáo công khai trên các nền tảng truyền thông xã hội như TikTok. Vào ngày 19 tháng 9 năm 2023, nghị sĩ đối lập Michał Szczerba của đảng Cương lĩnh Dân sự tiết lộ các tài liệu bị cáo buộc từ Bộ Ngoại giao cho thấy rằng đại sứ quán Ba Lan tại Minsk đã cấp 784.173 thị thực cho các cá nhân từ 65 quốc gia (bao gồm 1.481 thị thực được cấp cho những người đến từ các quốc gia khác ngoài Belarus, Nga và Ukraina) với sự hỗ trợ của một công ty có trụ sở tại Moskva. Szczerba còn tuyên bố thêm rằng những thị thực được cấp bao gồm những người trước đây đã bị đẩy lùi khỏi biên giới trong cuộc khủng hoảng biên giới Belarus-Liên minh Châu Âu. Bắt giữ Bảy người ban đầu bị buộc tội, trong đó ba người bị tạm giam giam giữ. Không ai trong số họ là quan chức nhà nước. Edgar K., một trong những trợ lý của cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại giao và là một trong những người chủ chốt trong kế hoạch, đã quyết định làm chứng chống lại đồng nghiệp của mình để được giảm án. Hậu quả Vụ bê bối được các nhà khoa học chính trị cho là đã làm tổn hại đến cơ hội của đảng Luật pháp và Công lý cầm quyền trong cuộc bầu cử sắp tới, vì các đảng đối lập cho biết họ đã đồng lõa. Số phiếu bị mất đối với liên minh Cánh hữu Thống nhất thậm chí có thể được chuyển sang Liên minh cực hữu. Vụ bê bối cũng mâu thuẫn với luận điệu chống người nhập cư mạnh mẽ của đảng cầm quyền, thường xuyên tuyên bố rằng Ba Lan sẽ tràn ngập những người nhập cư bất hợp pháp nếu phe đối lập lên nắm quyền. Các phương tiện truyền thông nhà nước Ba Lan (chẳng hạn như Telewizja Polska, Polskie Radio, phương tiện truyền thông in ấn thuộc sở hữu của Orlen), đã trở thành cơ quan ngôn luận trên thực tế của đảng cầm quyền (Luật pháp và Công lý) kể từ khi luật truyền thông gây tranh cãi được thông qua ngay sau khi họ nắm quyền, tập trung vào các vấn đề khác, chẳng hạn như sự gia tăng đột biến lượng người di cư đến đảo Lampedusa của Ý, hoặc tránh đưa tin hoàn toàn. Tham khảo Vụ bê bối năm 2023 Ba Lan 2023 Sự kiện tháng 9 năm 2023 ở Châu Âu Tham nhũng ở Ba Lan Vụ bê bối chính trị ở Ba Lan Khủng hoảng di cư châu Âu Nhập cư vào Ba Lan Nhập cư vào Hoa Kỳ Di cư vào Liên minh Châu Âu Visa
766
19828804
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%ADch%20Minh%20Nguy%E1%BB%87t
Thích Minh Nguyệt
Hòa thượng Thích Minh Nguyệt (19 tháng 12 năm 1907 - 18 tháng 1 năm 1985) là một vị Hòa thượng đầu tiên của Phật giáo Việt Nam. Cơ duyên Hòa thượng Thích Minh Nguyệt, thế danh là Lý Duy Kim, sinh ngày 19 tháng 12 năm 1907, trong một gia đình trung nông, tại xã Tân An, tỉnh Thủ Dầu Một (nay là Sông Bé). Năm 1919, khi vừa đúng 13 tuổi, ông đến chùa Thiên Thai (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) xin xuất gia, tu học với Tổ Huệ Đăng, vốn là một Tăng sĩ tài ba, một nhà Nho uyên thâm có tinh thần yêu nước. Trong thời gian tu học tại đây, ngoài những thời khóa, ông được gần gũi, hầu cận bên Tổ Huệ Đăng. Do đó, ông đã có được những cảm nghĩ ban đầu về tinh thần dân tộc khi được dự nghe những buổi tọa đàm giữa Tổ Huệ Đăng và cụ Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh). Ý thức cách mạng nảy nở trong lòng và ông luôn luôn trăn trở về điều ấy. Năm 1938, ý chí nâng cao tri kiến bằng cách đem đạo Phật vào cuộc đời và tinh thần yêu nước thôi thúc, ông xin phép Bổn sư để vân du tham học khắp nơi, vừa mở mang trí tuệ, vừa thâm nhập thực tại hoàn cảnh đất nước ở nhiều khía cạnh. Bước chân ông đã nhiều lần đến các chùa, như: Phật Bổn (Cần Thơ), Bửu Long (Mỹ Tho), Long An (Thành phố Hồ Chí Minh), Vĩnh Tràng (Tiền Giang), Ô Môi (Vĩnh Long), Thiên An,... Đó là những cuộc thuyết giảng, những bước chân giáo hóa nhân dân, để lại trong lòng Tăng, Ni, Phật tử mọi nơi hình ảnh tốt đẹp về hạnh nguyện của ông. Hoạt động cách mạng Năm 1940, cùng với cao trào chấn hưng Phật giáo, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã nổ ra. Trách nhiệm đạo - đời, ông vẫn hàng ngày nhắc nhở mình phải chu toàn. Trong bối cảnh phong trào chấn hưng Phật giáo, khi suy lúc thịnh, do nhiều yếu tố thời cuộc chi phối, đặc biệt là bàn tay phá rối từ phía thực dân và những người theo thực dân và trước nạn đồng bào bị áp bức, bóc lột, tàn sát, lòng yêu nước của ông càng được nung nấu thêm. Đến khi hay tin Hòa thượng Trí Thiền (chùa Tam Bảo, Rạch Giá) bị bắt và lưu đày ở Côn Đảo, ông đã chuyển lòng yêu nước của mình thành hành động tích cực. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, cũng là lúc bề dày hoạt động của ông đã đủ chứng minh cho lòng yêu nước nồng nàn ấy. Ông hoạt động khi chìm khi nổi, ẩn hiện khắp mọi nơi với bí danh Tam Không. Liên tục sau đó, ông được mọi người tín nhiệm bầu vào các chức vụ, như: Hội trưởng Hội Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ, Hội trưởng Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Mỹ Tho, Hội trưởng Hội Phật giáo Cứu quốc khu Sài Gòn - Gia Định, Ủy viên Mặt trận tỉnh Mỹ Tho, Ủy viên khu Sài Gòn - Gia Định và kỳ bộ Việt Minh Nam Bộ. Là một công dân yêu nước nồng nàn, đồng thời là một Tăng sĩ vốn đã được trang bị tinh thần bi, trí, dũng của chốn thiền môn nên hoạt động chống thực dân và phát triển Hội Phật giáo Cứu quốc đều được ông tiến hành song song ở từng địa bàn, nhất là chùa Ô Môi (Đồng Tháp Mười) - nơi đặt trụ sở của Hội Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ. Bất chấp mọi gian nguy, ông đã đi khắp nơi vận động và đấu tranh ngay trong vùng thực dân kiểm soát. Và trong nội thành Sài Gòn cũng không thiếu dấu chân ông. Năm 1954, sau Hiệp định Genève, ông ở lại miền Nam hoạt động cùng các vị khác. Ông vận động được rất nhiều tự viện làm cơ sở giúp đỡ che giấu cán bộ hoạt động cách mạng ngay trong vùng bị kiểm soát. Lúc này, ông là vị tiêu biểu cho lực lượng Tăng sĩ hoạt động yêu nước, vì thế, chính quyền Ngô Đình Diệm chú ý và theo dõi rất gắt gao từng bước đi của ông. Một mặt, chúng ra sức dùng mọi thủ đoạn hòng mua chuộc, lôi kéo ông, thậm chí tạo cơ hội cho ông lãnh đạo một tổ chức Phật giáo hữu danh vô thực, có sự bảo hộ, tài trợ từ phía chính quyền... Nhưng ông đã khéo léo từ khước, vẫn tiếp tục con đường cách mạng đã đi. Trong thời gian hoạt động bí mật, ông từng chủ trương xuất bản nguyệt san Tinh Tấn (1947) và tập san Tổ Quốc (1956). Ngày 6 tháng 4 năm 1960, một cơ sở bị lộ. Tất cả cán bộ cốt cán bị bắt, trong đó có ông. Nhân cơ hội này, chính quyền không ngớt rêu rao về tội danh "phản nghịch" của ông, hòng làm lung lạc những người yêu nước khác. Và để tăng thêm sức mạnh cho mục đích đó, ông bị đày ra Côn Đảo với mức án là 20 năm tù khổ sai. Năm 1974, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, ông được trao trả về vùng giải phóng Lộc Ninh. Như vậy, ông đã bị lưu đày khổ sai nơi Côn Đảo hơn 15 năm. Khi được tự do, ông liên lạc với các vị giáo phẩm lãnh đạo khác trong các tỉnh phía Nam, để chuẩn bị cho lực lượng Phật giáo tham gia nổi dậy cùng các mũi tiến công của Chiến dịch Hồ Chí Minh. Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, ông gặp lại các vị lãnh đạo Phật giáo sau nhiều năm xa cách. Bằng khả năng và uy tín của mình trước tình hình mới của đất nước, ông đảm đương các chức vụ, như: Phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngoài ra, ông còn làm Chủ tịch Ủy ban Liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí Minh, với nhiệm vụ liên lạc Tăng, Ni, Phật tử đoàn kết, xây dựng tổ quốc trong giai đoạn mới. Để hậu thuẫn cho mục đích này, ông lãnh chức Chủ nhiệm Báo Giác Ngộ, tờ báo Phật giáo đầu tiên tại các tỉnh phía Nam sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất. Và để thắt chặt thêm tình hữu nghị, ông đã cùng Hòa thượng Trí Thủ, Hòa thượng Minh Châu... tham dự Hội nghị Tôn giáo Thế giới được tổ chức tại Moscow (Liên Xô), tham quan Phật giáo Liên Xô ở vùng Bu-ri-át, Hội nghị Tổ chức Phật tử châu Á vì hòa bình tại Mông Cổ. Trong dịp này, ông được tặng nhiều huân chương Hữu nghị. Ban trù bị Đại hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập, Ngài là Phó Ban vận động kiêm Trưởng ban Thông tin. Năm 1981, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc tổ chức ở Hà Nội, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời với tầm vóc đại thể xuyên suốt, có hiến chương chặt chẽ. Ông được suy cử ngôi vị Phó Pháp chủ thường trực Hội đồng Chứng minh Trung ương. Thời gian tiếp theo sau đó, ông về an trú và làm việc tại chùa Long Hoa (quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh). Qua đời Ông mất ngày 18 tháng 1 năm 1985 tại quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 77 tuổi. Chú thích https://chuaxaloi.vn/thong-tin/hoa-thuong-thich-minh-nguyet-1907-1985/2314.html Tham khảo Liên kết ngoài Giáo hội Phật giáo Việt Nam Sinh năm 1907 Mất năm 1985 Tăng sĩ Việt Nam Người Bình Dương Chức sắc tôn giáo Việt Nam Giáo hội Phật giáo Việt Nam Người họ Lý tại Việt Nam Người họ Lý
1,340
19828807
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ma%20%C4%91%E1%BA%A1o%20th%C6%B0
Ma đạo thư
Ma đạo thư (tiếng Anh: grimoire) còn đường gọi là ma pháp thư, sách phép, sách ma thuật là cuốn sách giáo khoa về ma thuật, thường bao gồm các hướng dẫn thực hiện hoặc tạo ra các vật thể ma thuật như bùa hộ mệnh, cách thực hiện ma thuật, bùa chú, bói toán cũng như cách triệu hồi hoặc cầu khẩn các thực thể siêu nhiên như thiên sứ, tinh linh, ác quỷ và cả những vị thần. Trong nhiều trường hợp, chính hững cuốn sách cũng có sức mạnh ma thuật. Nội dung duy nhất được tìm thấy trong một cuốn ma đạo thư sẽ là thông tin về bùa chú, nghi lễ, việc chuẩn bị các công cụ ma thuật, danh sách các thành phần và sự tương ứng ma thuật của chúng. Từ nguyên Ma đạo thư (魔導書) là từ Hán Việt, trong đó ma đạo (魔導) có nghĩa là dường đẫn đến ma thuật và thư (書) nghĩa là quyển sách, vậy ma đạo thư có nghĩa là "quyển sách dẫn đường đến ma thuật". Trong tiếng Anh, nguồn gốc của từ grimoire không rõ ràng. Người ta cho rằng thuật ngữ grimoire có nguồn gốc từ từ tiếng Pháp cổ grammaire, ban đầu được dùng để chỉ tất cả các cuốn sách viết bằng tiếng Latin. Đến thế kỷ 18, thuật ngữ này đã được sử dụng phổ biến ở Pháp và bắt đầu được sử dụng để chỉ những cuốn sách ma thuật. Vào thế kỷ 19, với sự quan tâm ngày càng tăng của người Anh đối với thuyết huyền bí sau khi cuốn sách "The Magus" của Francis Barrett được xuất bản, thuật ngữ này đã du nhập vào tiếng Anh để chỉ sách ma thuật. Tham khảo
295
19828812
https://vi.wikipedia.org/wiki/Loossemble
Loossemble
Loossemble (; thường viết cách điệu là LOOSSEMBLE) là một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc được thành lập bởi CTDE&M. Nhóm bao gồm 5 thành viên: HyunJin, YeoJin, ViVi, Go Won, và HyeJu. Nhóm chính thức ra mắt vào ngày 15 tháng 9 năm 2023 với EP đầu tiên Loossemble với bài hát chủ đề "Sensitive". Tên gọi Loossemble là sự kết hợp giữa 2 từ "Loona" và "assemble" (tập hợp), có ý nghĩa là "năm thành viên Loona đến với nhau là một". Lịch sử 2023–nay: Giới thiệu và ra mắt với Loossemble Vào tháng 6 năm 2023, truyền thông đưa tin rằng 2 thành viên Loona HyunJin và ViVi đã ký hợp đồng với CTDENM sau khi chấm dứt hợp đồng với Blockberry Creative. YeoJin, Go Won, và HyeJu cũng đã ký hợp đồng với CTDENM vào ngày 5 tháng 7. Vào ngàu 31 tháng 7, CTDENM thông báo rằng đội hình nhóm 5 thành viên Loona sẽ tái ra mắt với cái tên Loossemble với kế hoạch ra mắt một album. Ba ngày trước, họ đã thông báo rằng nhóm sẽ tham gia Lễ ra mắt Loona Assemble ở Hoa Kỳ bắt đầu từ ngày 15 tháng 9. Chuyến lưu diễn sẽ kết thúc vào "đêm cuối cùng" sau khi nhóm trở về Hàn Quốc. Vào ngày 23 tháng 8, họ thông báo rằng Loossemble sẽ ra mắt vào ngày 15 tháng 9 với đĩa đơn mở rộng cùng tên của nhóm. Thành viên Danh sách đĩa nhạc Đĩa mở rộng Đĩa đơn Danh sách video Video âm nhạc Lưu diễn Chuyến lưu diễn nổi bật Tham khảo Liên kết ngoài Nhóm nhạc K-pop Nhóm nhạc nữ Hàn Quốc
265
19828832
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%BA%20v%C3%A0%20nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20b%E1%BA%A1n
Cú và những người bạn
Cú và những người bạn (Tiếng Anh: The Owl & Co; Tiếng Pháp: La Chouette et Cie) là một loạt phim hoạt hình CGI của Pháp do Studio Hari sản xuất chủ yếu dành cho trẻ em, dựa trên bộ phim ngắn The Owl. Nội dung Bộ phim kể về một con cú gắt gỏng màu hồng có hình dáng giống một nhân vật bằng nhựa. Cú sống trong một khu rừng có nhiều loài khác sinh sống, trong đó đáng chú ý nhất là bọ que thông minh, ếch hung hãn, dơi lôi cuốn và cừu đầu không. Giống như loạt phim ngắn gốc, Cú không quan tâm đến bất kỳ ai khác xung quanh mình, thay vào đó nó thà ăn một con sâu. Tuy nhiên, Cú thường không may mắn và gặp phải một số tình huống hài hước. Một điều thú vị ở cuối mỗi tập phim là lúc Cú bị tách thành nhiều mảnh hay bị biến dạng một cách hài hước, kèm một giai điệu ngắn bằng đàn băng cầm. Phát sóng Cú và nhũng người bạn ra mắt lần đầu tiên tại Pháp trên France 3 vào năm 2013. Bộ phim ra mắt lần đầu bằng tiếng Anh trên Boomerang UK vào ngày 2 tháng 5 năm 2015. Phim kết thúc vào ngày 5 tháng 11 năm 2016. Bản lồng tiếng Anh của loạt phim cũng được phát sóng quốc tế trong một khoảng thời gian, một trong số đó là Disney Channel Asia. Phim cũng được ra mắt ở Ấn Độ trên Sony YAY! vào ngày 19 tháng 9 năm 2022 với tên gọi khác là Dhakki Chiki Aaool! Giải thưởng Pulcinella Award 2015 - Best Kids TV series - Cartoons on the bay, Venise. Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức
291
19828840
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ma%20t%E1%BB%99c
Ma tộc
Mazoku hay là một chủng tộc trong thần thoại, giả tưởng của Nhật Bản, là những sinh vật siêu nhiên tà ác, mạnh mẽ như loài quỷ và ác ma của phương tây. là kẻ cai trị của Ma tộc, hoặc một chúa tể hắc ám, môt quái vật mạnh mẽ trong những cuốn tiểu thuyết. Thuật ngữ này dần lan rộng ra các quốc gia lân cận và trở nên rất phổ biến trong các tác phẩm huyền huyễn của Trung Quốc. Từ nguyên ám chỉ ác ma, là hiện thân của cái ác đe dọa sự tồn tại của con người hoặc là thách thức các vị thần, trong khi trong chủng tộc, bộ tộc, gia tộc, ám chỉ chúng là một gia đình. là một thuật ngữ bắt nguồn từ Ma tộc, là vị vua, ma vương nghĩa là vua của ma tộc. Lưu ý, từ trong tiếng Nhật có nghĩa khác hoàn toàn với hồn ma và quỷ. Trong tiếng Nhật, hồn ma được gọi là , còn quỷ được gọi là hoặc đơn giản là . Vì trong tiếng Việt không có từ ngữ tương đương để phân biệt, nên trong nhiều trường hợp bị dịch sai thành Quỷ vương, lỗi sai này thường đến từ việc người dịch lấy nguồn từ các ngôn ngữ trung gian. Trong thần thoại và truyền thuyết Thuật ngữ "ma tộc" được sử dụng để mô tả ashura và yaksha trong thần thoại Ấn Độ, cũng như daeva của Hỏa giáo. Đó là một thuật ngữ chung cho quỷ, ác ma và những sinh vật xấu xa. Trong đa thần giáo của Nhật Bản, Ma tộc là từ trái nghĩa của , tức chủng tộc thần thánh. Ma vương là một vị vua hoặc người cai trị ma tộc. Ví dụ, trong bản dịch Kinh thánh trong tiếng Nhật, Satan là ma vương. Trong đa thần giáo, đối trọng của Ma vương là , tức vua của thần tộc. Lãnh chúa phong kiến ​​Nhật Bản, Oda Nobunaga cũng tự gọi mình là Ma vương trong một bức thư gửi Takeda Shingen, Oda ký tên là , đây cũng là danh xưng của Thiên ma Ba tuần, kẻ cũng được gọi là ma vương trong Phật giáo. Trong tiểu thuyết Nhật Bản Trong thể loại giả tưởng của Nhật Bản, ý nghĩa của "ma tộc" khác nhau tùy theo từng công việc. Một số tác phẩm dùng thuật ngữ này để chỉ tất cả những sinh vật xấu xa là kẻ thù của con người và các sinh vật tốt, trong khi những tác phẩm khác lại dùng nó để chỉ một nhóm sinh vật nhất định. Thuật ngữ có thể được sử dụng để chỉ cụ thể là ma tộc độc ác, một thuật ngữ nữa là cũng chỉ những con người mang sức mạnh của ma tộc, những kẻ nhập ma hoặc chỉ những ma tộc có vẻ ngoài giống con người. Ma vương có thể là vua của ma tộc, hay nói chung hơn là vua của ma quỷ, quân chủ, chúa tể bóng tối, là trùm trong các trò chơi điện tử và là kẻ thù không đội trời chung của dũng sĩ. Thuật ngữ này không dành riêng cho giới tính. Ví dụ: "Erlkönig" của Johann Wolfgang von Goethe, bản dịch phổ biến là "Elf King" trong tiếng Anh, nhưng được dịch là ''Ma vương'' trong tiếng Nhật. Thuật ngữ đôi khi được dùng để mô tả một ma vương có cấp bậc rất cao hoặc mạnh mẽ. Một ví dụ là Đại ma vương Piccolo, một nhân vật phản diện trong manga Dragon Ball. Trung Quốc Thuật ngữ cũng trở nên phổ biến trong các tác phẩm kỳ ảo hiện đại của Trung Quốc, được coi là một chủng tộc tà ác, mạnh mẽ, người thống trị tối cao của ma tộc là Ma vương (魔王 Mówáng). Ma tộc thường được coi là sự đối lập với và là mối nguy hiểm to lớn nhất của Nhân tộc (人族 Rénzú). Xem thêm Quỷ Ác ma Ma vương Tiên nhân Tham khảo
691
19828843
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81n%20Hi%E1%BA%BFu%20%C4%91%E1%BA%A1o
Đền Hiếu đạo
Đền Hiếu đạo hay Đền Piety () là một ngôi đền La Mã dành riêng cho nữ thần Pietas, một vị thần nhân cách hóa của lòng hiếu thảo. Đền được xây dựng vào năm 181 trước Công nguyên ở phía bắc của Diễn đàn Olitorium, chợ rau của La Mã, và bị phá hủy vào năm 44 trước Công nguyên để nhường chỗ cho tòa nhà cuối cùng được gọi là Nhà hát Marcellus. Có vẻ như nó đã được xây dựng lại và các dịch vụ của nó tiếp tục được duy trì trong thời kỳ đế chế, mặc dù điều này vẫn còn gây tranh cãi bởi một số học giả. Lịch sử Việc xây dựng đền thờ được vị chấp chính quan và là người mới của giới bình dân Manius Acilius Glabrio thề nguyện long trọng tại Trận chiến Thermopylae vào năm 191 trước Công nguyên, nơi quân đoàn của ông đã đánh bại Antiochos III Đại đế trong cuộc chiến tranh La Mã-Seleucid. Lý do cho việc cúng hiến này không rõ trong các nguồn tư liệu còn sót lại, mặc dù một số học giả hiện đại đã gợi ý rằng ông đã được truyền cảm hứng bởi một hành động hiếu nghĩa trong trận chiến, có thể là của chính con trai ông. Acilius Glabrio bắt đầu xây dựng Đền Hiếu đạo nhưng đã bị mất danh dự trong một cuộc bầu cử censor (quan kiểm tra) tranh chấp - ông rút khỏi cuộc bầu cử sau khi đối thủ của mình là Marcus Porcius Cato cáo buộc một cách thuyết phục rằng ông đã biển thủ tiền cướp được từ chiến dịch ở Hy Lạp của mìnhvà không bao giờ giữ chức vụ cao cấp nào nữa. Đền Hiếu đạo được hoàn thành và khánh thành vào năm 181 trước Công nguyên bởi con trai của Glabrio, người cũng có tên là Manius Acilius Glabrio. Con trai của Glabrio được bổ nhiệm làm duumvir để giám sát việc xây dựng đền thờ. Đền Hiếu đạo nằm ở phía tây bắc của Diễn đàn Olitorium, chợ rau của La Mã, gần Cổng Carmental ở phía tây của Đồi Capitoline. Đền thờ có một bức tượng bằng vàng của chấp chính quan Glabrio, là bức tượng vàng đầu tiên của một công dân La Mã trong thành phố. Đền Hiếu đạo đã trở nên gắn liền với một truyền thuyết Hy Lạp về một người con gái đã cho cha hoặc mẹ bị giam cầm bú sữa, có lẽ là do sự hiện diện của Columna Lactaria trong diễn đàn. "Cột cho con bú" này là nơi mà trẻ sơ sinh nghèo có thể được cho uống sữa cho đến khi cai sữa; nó có thể đã truyền cảm hứng cho việc đặt ngôi đền hoặc ngôi đền có thể được xây dựng trên hoặc gần vị trí của một nhà tù cũ. Một phiên bản riêng biệt của câu chuyện kể rằng ngôi đền được xây dựng trên ngôi nhà cũ của gia đình, nơi được cho là đã được duy trì bằng chi phí của nhà nước sau sự kiện. Câu chuyện sau đó đã trở thành một chủ đề phổ biến trong hội họa Tây Âu vào đầu thời kỳ hiện đại, đặc biệt là thời kỳ Baroque. Đền thờ cũng đôi khi được liên kết với lòng hiếu thảo của Gaius Flaminius đối với cha mình, người đã kéo ông khỏi rostra mặc dù các quan tòa bình dân không thể xâm phạm được. Đền Hiếu đạo dường như là ngôi đền "trong Circus Flaminius" bị sét đánh và hư hỏng nặng vào năm 91 hoặc 90 trước Công nguyên, mặc dù một số học giả vẫn tranh cãi về điểm này. Khi Julius Caesar trở thành nhà độc tài suốt đời, ông đã lên kế hoạch xây dựng một nhà hát lớn hơn nhà hát của Pompey trong khu vực và phá hủy khu phố phía tây bắc của Diễn đàn Olitorium - bao gồm cả Đền Hiếu đạo - để tạo chỗ vào năm 44 trước Công nguyên. Cháu trai và con nuôi của ông là Augustus sau đó đã hoàn thành việc xây dựng nhà hát này với tên gọi Nhà hát Marcellus. Đền Hiếu đạo đã được di dời hoặc xây dựng lại hoàn toàn, tuy nhiên, vì các lễ hội của nó ở Diễn đàn Olitorium vẫn tiếp tục được tổ chức cho đến tận thời kỳ đế chế, khi đó nó là một phần của Khu vực IX của thành phố. Bản đồ thành phố La Mã thời Septimius Severus chi tiết vào đầu thế kỷ thứ 3 và bản sửa đổi hiện đại của Rodolfo Lanciani đặt ngôi đền được xây dựng lại này ở phía tây của diễn đàn giữa Đền Hy vọng và Đền Juno Sospita. Các học giả khác - không chú ý đến sự tồn tại liên tục của đền thờ - biến ngôi đền lớn ở giữa thành Đền Juno Sospita, di chuyển đền thờ Hy vọng về phía nam của nó và biến ngôi đền phía bắc thành Đền Janus. Ghi chú Chú thích Trích dẫn Thư mục . . . . Đền thờ La Mã Công trình tôn giáo thế kỷ 2 trước CN Kiến trúc La Mã cổ đại
882
19828846
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20t%E1%BA%A1i%20Th%E1%BA%BF%20v%E1%BA%ADn%20h%E1%BB%99i%20M%C3%B9a%20h%C3%A8%202004%20%E2%80%93%20V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20nam%20khu%20v%E1%BB%B1c%20ch%C3%A2u%20%C3%81
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2004 – Vòng loại nam khu vực châu Á
Articles with short description Short description matches Wikidata Vòng loại cho môn bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2004 của Liên đoàn bóng đá châu Á được tổ chức từ ngày 5 tháng 4 năm 2003 đến ngày 12 tháng 5 năm 2004. Ba mươi sáu đội đã tham dự vòng loại để cạnh tranh cho ba suất thi đấu tại Thế vận hội Mùa hè 2004 ở Athens. Hàn Quốc, Nhật Bản và Iraq là ba đội đã giành chiến thắng ở vòng cuối cùng và đủ điều kiện tham dự Thế vận hội. Thể thức thi đấu Cấu trúc vòng loại như sau: Vòng 1: 12 đội được xếp hạt giống cao nhất được vào thẳng vòng hai. 24 đội còn lại thi đấu theo cặp, mỗi đội thi đấu hai lượt trận trên sân nhà và sân khách. 12 đội thắng sẽ tiến vào vòng thứ hai. Vòng 2: 24 đội được phân cặp, thi đấu theo thể thức hai lượt trận như vòng 1. 12 đội thắng sẽ lọt vào vòng cuối cùng. Vòng 3: 12 đội vượt qua vòng 2 được chia thành 3 bảng 4 đội, mỗi bảng sẽ thi đấu vòng tròn hai lượt trên sân nhà và sân khách. Đội đứng đầu ở mỗi bảng sẽ giành quyền vào vòng chung kết. Bốc thăm Hạt giống của các đội tham dự vòng loại bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2004 khu vực châu Á được xác định dựa theo thành tích tại vòng chung kết và vòng loại khu vực châu Á của Thế vận hội Mùa hè 2000. Lễ bốc thăm cho vòng loại thứ nhất và thứ hai được tổ chức tại Kuala Lumpur, Malaysia vào ngày 9 tháng 12 năm 2002. Vòng 1 Các cặp đấu |} Kết quả chi tiết Turkmenistan thắng với tổng tỉ số 2–1. Tổng tỷ số là 1–1; Liban thắng nhờ luật bàn thắng sân khách. Singapore thắng với tổng tỷ số 5 – 3. Iraq thắng với tổng tỷ số 4–2. Oman thắng với tổng tỷ số 17–0. Hồng Kông thắng với tổng tỷ số 3–0. Myanmar thắng với tổng tỷ số 3–0. Palestine thắng với tổng tỷ số 3–1. Syria thắng với tổng tỷ số 8–1. UAE thắng với tổng tỷ số 4–0. Iran thắng do Maldives bỏ cuộc. Kyrgyzstan thắng do Yemen bỏ cuộc. Vòng 2 Các cặp đấu |} Kết quả chi tiết Hàn Quốc thắng với tổng tỷ số 3–0. Liban thắng với tổng tỷ số 5–2. Ả Rập Xê Út thắng với tổng tỷ số 10–0. Iraq thắng với tổng tỷ số 4–3. Oman thắng với tổng tỷ số 2–1. Bahrain thắng với tổng tỷ số 7–2. Nhật Bản thắng với tổng tỷ số 8–0. Kuwait thắng với tổng tỷ số 3–2. Trung Quốc thắng với tổng tỷ số 4–3. UAE thắng với tổng tỷ số 5–2. Turkmenistan rút lui vì lo ngại dịch SARS. Malaysia mặc định giành quyền tham dự vòng loại cuối. Vòng 3 Vòng loại cuối cùng được tổ chức từ ngày 1 tháng 3 đến ngày 12 tháng 5 năm 2004. Chỉ có đội đứng đầu mỗi bảng sẽ đại diện cho châu Á tham dự Thế vận hội Mùa hè 2004. Vòng đấu này ban đầu được dự kiến tổ chức từ ngày 30 tháng 8 đến ngày 18 tháng 10 năm 2003, nhưng đã bị hoãn lại do ảnh hưởng của dịch SARS ở châu Á. Hạt giống Lễ bốc thăm cho vòng loại cuối cùng được tổ chức tại Doha, Qatar vào ngày 18 tháng 10 năm 2003. Các đội lọt vào vòng loại cuối cùng được xếp hạt giống dựa trên thành tích của họ tại vòng chung kết và vòng loại khu vực châu Á của Thế vận hội Mùa hè 2000. (*) Tại thời điểm bốc thăm, vẫn chưa xác định đội nào sẽ đi tiếp vào vòng loại cuối cùng vì trận đấu vòng 2 giữa CHDCND Triều Tiên và Iraq chưa được tổ chức. Bảng A Bảng B Bảng C Các đội vượt qua vòng loại Dưới đây là các đội tuyển đã vượt qua vòng loại để tham dự Thế vận hội Mùa hè 2004 tại Athens, Hy Lạp. Xem thêm Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2004 Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2004 – Vòng loại nữ#AFC (châu Á) Chú thích Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Báo cáo kỹ thuật FIFA Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè – Vòng loại nam khu vực châu Á Vòng loại môn bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2004
737
19828854
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ian%20Maatsen
Ian Maatsen
Ian Ethan Maatsen (sinh ngày 10 tháng 3 năm 2002) là cầu thủ bóng đá người Hà Lan có thể thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh trái và tiền vệ cánh trái cho câu lạc bộ Chelsea tại Premier League. Sự nghiệp câu lạc bộ Giai đoạn đầu sự nghiệp Maatsen từng là cầu thủ của học viện đào tạo trẻ câu lạc bộ Feyenoord từ năm 7 tuổi, nhưng sau đó đã bị loại khỏi học viện vì thể hình quá nhỏ. Sau đó anh lần lượt chuyển đến học viện của Sparta Rotterdam và PSV Eindhoven trước khi đến học viện của Chelsea vào năm 2018. Chelsea Ngày 25 tháng 9 năm 2019, Maatsen có trận đấu đầu tiên cho đội một Chelsea khi vào sân thay người trong trận thắng 7–1 tại Cúp EFL trước Grimsby Town. Charlton Athletic (mượn) Ngày 13 tháng 10 năm 2020, Maatsen được Chelsea đem cho Charlton Athletic mượn trong một mùa giải. Ngày 2 tháng 4 năm 2021, anh có bàn thắng đầu tiên trong sự nghiệp và đem về chiến thắng 1–0 trước Doncaster Rovers tại giải EFL League One. Burnley (mượn) Ngày 15 tháng 7 năm 2022, Maatsen chuyển đến Burnley theo hợp đồng cho mượn có thời hạn một năm. Tại EFL Championship 2022-23, anh có 4 bàn thắng và 6 pha kiến tạo sau 30 trận giúp Burnley đoạt chức vô địch Championship và trở lại Premier League mùa giải kế tiếp. Chú thích Liên kết ngoài Thông tin về Ian Maatsen trên trang Transfermarkt Thông tin về Ian Maatsen trên trang Soccerbase Sinh năm 2002 Nhân vật còn sống Người Vlaardingen Cầu thủ bóng đá Hà Lan Cầu thủ bóng đá Chelsea F.C. Cầu thủ bóng đá Charlton Athletic F.C. Cầu thủ bóng đá Coventry City F.C. Cầu thủ bóng đá Burnley F.C.
293
19828855
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93ng%20ti%E1%BA%BFn%20h%C3%B3a
Đồng tiến hóa
Đồng tiến hóa hay cùng tiến hóa (Coevolution) trong sinh học chỉ về sự tiến hóa cùng nhau xảy ra khi hai hoặc nhiều loài ảnh hưởng lẫn nhau đến sự tiến hóa của nhau thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Thuật ngữ này đôi khi được sử dụng cho hai đặc điểm trong cùng một loài ảnh hưởng đến sự tiến hóa của nhau, cũng như sự đồng tiến hóa giữa văn hóa gen. Đồng tiến hóa là tiến hóa của hai hoặc nhiều loài ảnh hưởng lẫn nhau, đôi khi tạo ra mối quan hệ tương hỗ giữa các loài. Những mối quan hệ như vậy có thể có nhiều loại khác nhau. Đại cương Charles Darwin đã đề cập đến sự tương tác tiến hóa giữa thực vật có hoa và côn trùng trong tác phẩm Nguồn gốc các loài (1859). Mặc dù ông không sử dụng từ đồng tiến hóa, nhưng ông đề xuất cách thức thực vật và côn trùng có thể tiến hóa thông qua những thay đổi tiến hóa tương hỗ. Các nhà tự nhiên học vào cuối những năm 1800 đã nghiên cứu các ví dụ khác về cách tương tác giữa các loài có thể dẫn đến sự thay đổi tiến hóa qua lại. Bắt đầu từ những năm 1940, các nhà nghiên cứu bệnh học thực vật đã phát triển các chương trình nhân giống là ví dụ về sự đồng tiến hóa do con người gây ra. Việc phát triển các giống cây trồng mới có khả năng kháng một số bệnh đã tạo điều kiện cho sự tiến hóa nhanh chóng của quần thể mầm bệnh để vượt qua các cơ chế phòng vệ thực vật đó. Ngược lại, điều đó đòi hỏi phải phát triển các giống cây trồng kháng bệnh mới, tạo ra một chu kỳ tiến hóa tương hỗ liên tục ở cây trồng và các bệnh vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Sự đồng tiến hóa như một chủ đề nghiên cứu chính trong tự nhiên đã mở rộng nhanh chóng từ những năm 1960, khi Daniel H. Janzen chỉ ra sự đồng tiến hóa giữa cây keo và kiến và Paul R. Ehrlich và Peter H. Raven cho rằng sự đồng tiến hóa giữa thực vật và bướm có thể đã góp phần như thế nào đến sự đa dạng hóa loài ở cả hai nhóm. Nền tảng lý thuyết của đồng tiến hóa hiện đã được phát triển tốt (ví dụ như lý thuyết khảm địa lý về đồng tiến hóa) và chứng minh rằng đồng tiến hóa có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các chuyển đổi tiến hóa lớn như tiến hóa sinh sản hữu tính hoặc thay đổi thể bội Gần đây hơn, người ta cũng chứng minh rằng sự đồng tiến hóa có thể ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng của các cộng đồng sinh thái, sự tiến hóa của các nhóm tương sinh như thực vật và các loài thụ phấn của chúng, cũng như động lực của bệnh truyền nhiễm. Mỗi bên trong mối quan hệ cùng tiến hóa sẽ gây áp lực có chọn lọc lên bên kia, từ đó ảnh hưởng đến sự tiến hóa của nhau. Đồng tiến hóa bao gồm nhiều hình thức tương sinh, mối quan hệ giữa vật chủ-ký sinh, và quan hệ giữa kẻ săn mồi-con mồi giữa các loài, cũng như sự cạnh tranh trong hoặc giữa các loài. Trong nhiều trường hợp, áp lực chọn lọc thúc đẩy một cuộc chạy đua tiến hóa giữa các loài liên quan. Đồng tiến hóa theo cặp hoặc cụ thể, giữa chính xác hai loài, không phải là khả năng duy nhất; trong quá trình đồng tiến hóa đa loài, đôi khi được gọi là đồng tiến hóa tập thể hoặc khuếch tán, một số đến nhiều loài có thể tiến hóa một đặc điểm hoặc một nhóm tính trạng có đi có lại với một tập hợp các đặc điểm ở loài khác, như đã xảy ra giữa thực vật có hoa và côn trùng thụ phấn như như ong, ruồi và bọ cánh cứng. Có một loạt giả thuyết cụ thể về cơ chế mà các nhóm loài cùng tiến hóa với nhau Đồng tiến hóa chủ yếu là một khái niệm sinh học, nhưng các nhà nghiên cứu đã áp dụng nó bằng cách tương tự với các lĩnh vực như khoa học máy tính, xã hội học và thiên văn học. Chú thích Tiến hóa
764
19828859
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pietas
Pietas
là một trong những đức tính cao quý nhất của người La Mã cổ đại. Đó là đức tính nổi bật của người anh hùng sáng lập Aeneas, người thường được gọi là pius ("sùng đạo") trong suốt sử thi Aeneid của Virgil. Bản chất thiêng liêng của pietas được thể hiện bởi nhân cách hóa thiêng liêng Pietas, một nữ thần thường được hình dung trên đồng tiền La Mã. Từ tương đương trong tiếng Hy Lạp là (). Cicero định nghĩa pietas là đức tính "khuyến khích chúng ta làm tròn nghĩa vụ của mình đối với đất nước, cha mẹ hoặc những người thân khác." Người sở hữu pietas "thực hiện tất cả các nghĩa vụ của mình đối với thần linh và đồng loại một cách đầy đủ và mọi mặt," như nhà học giả cổ điển thế kỷ 19 Georg Wissowa đã mô tả. Cicero cho rằng mọi người nên có ý thức về danh dự của riêng mình và phải luôn cố gắng nâng cao danh dự của người khác bằng những lời khen ngợi đàng hoàng. Hơn nữa, lời khen, sự ngưỡng mộ và những hành động được tôn vinh phải vượt lên trên tất cả những ham muốn của riêng mình, và hành động và lời nói phải được lựa chọn với sự tôn trọng đối với bạn bè, đồng nghiệp, gia đình hoặc họ hàng. Cicero mô tả thanh niên trong việc theo đuổi danh dự: "Họ khao khát lời khen ngợi đến nhường nào! Họ sẽ không thực hiện những công việc gì để đứng vững giữa các đồng nghiệp của mình! Họ sẽ nhớ đến những người đã thể hiện lòng tốt với họ như thế nào và khao khát đền đáp lại nó như thế nào!" Việc sử dụng pietas được ghi nhận lần đầu tiên trong tiếng Anh là trong tác phẩm The Alliance of Music, Poetry, and Oratory của Anselm Bayly, được xuất bản năm 1789. Là đức hạnh Pietas erga parentes ( lòng hiếu thảo đối với cha mẹ ) là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của việc thể hiện đức hạnh trong văn hóa La Mã. Cognomen Pius ( Người hiếu thảo ) bắt đầu được sử dụng để đánh dấu một người đặc biệt hiếu thảo theo nghĩa này. Việc công bố lòng hiếu thảo cá nhân của một người thông qua hệ thống đặt tên chính thức dường như là một đổi mới của thời kỳ cuối Cộng hòa, khi Quintus Caecilius Metellus Pius tuyên bố cogomen này cho những nỗ lực của ông trong việc đưa cha mình, Numidicus, trở về từ nơi lưu đày. Pietas cũng được mở rộng đến "cha mẹ" theo nghĩa là "tổ tiên" và là một trong những nguyên tắc cơ bản của truyền thống La Mã, được thể hiện qua việc chăm sóc người chết. Pietas, như một đức tính, tồn tại bên trong một người, trái ngược với một đức tính hoặc món quà như Victoria, được ban tặng bởi các thần. Tuy nhiên, Pietas cho phép một người nhận ra nguồn gốc thiêng liêng của những lợi ích được ban tặng. Pietas đóng vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực quan hệ quốc tế và ngoại giao. Uy tín của một vị tướng phụ thuộc rất nhiều vào ý chí gạt bỏ lợi ích cá nhân và cống hiến hết mình cho một lý tưởng, tránh mọi hành động phản trắc. Sự nhấn mạnh vào uy tín này đã dẫn đến danh tiếng của các vị tướng cá nhân và chính nhà nước La Mã đóng một vai trò thực tế trong các cuộc đàm phán và thảo luận. Cam kết về fides của các vị tướng cần phải nhất quán, thể hiện uy tín thông qua các hành động liên tục và cách tiếp cận ổn định trong quan hệ với các thực thể láng giềng. Việc duy trì sự tôn trọng đối với các hợp đồng hiện có có nghĩa là tôn trọng các lời hứa và lời thề, qua đó củng cố cam kết của Rome đối với hành vi đạo đức và sự tiếp nối của các chiến lược ngoại giao. Cơ hội giải quyết các xung đột là tối thiểu nếu lừa dối trở thành tiêu chuẩn trong các cuộc đàm phán của các vị tướng. Hình tượng Pietas được thể hiện trên đồng tiền bởi các đồ vật thờ cúng, nhưng cũng là một người phụ nữ thực hiện việc hiến tế bằng lửa trên bàn thờ. Trong hình ảnh của sự hiến tế, việc rót rượu là hành động cơ bản tượng trưng cho pietas. Pietas lần đầu tiên được thể hiện trên đồng tiền La Mã trên những đồng denarii do Marcus Herennius phát hành vào năm 108 hoặc 107 trước Công nguyên. Pietas xuất hiện ở mặt trước dưới dạng một nhân cách hóa thần thánh, ở dạng bức tượng bán thân; phẩm chất của pietas được thể hiện bởi một người con đang cõng cha trên lưng; biểu tượng của nó sẽ được lặp lại trong Aeneid của Virgil, với Aeneas cõng cha Anchises của mình ra khỏi thành Troy đang bốc cháy. là một trong những đức tính thường xuyên xuất hiện trên đồng tiền Hoàng gia, bao gồm cả những đồng tiền được phát hành dưới thời Hadrian. Một trong những biểu tượng của pietas là con cò, được Petronius mô tả là pietaticultrix, "người tu luyện pietas." Con cò đặc biệt đại diện cho lòng hiếu thảo, vì người La Mã tin rằng nó thể hiện lòng trung thành của gia đình bằng cách quay trở lại cùng một tổ mỗi năm và chăm sóc cha mẹ khi về già. Vì vậy, một con cò xuất hiện bên cạnh Pietas trên một đồng tiền được phát hành bởi Metellus Pius (về tên gọi của ông ấy, xem ở trên). Là nữ thần Pietas là sự hiện diện thần thánh trong cuộc sống hàng ngày, nhắc nhở con người không được xâm phạm vào lãnh địa của các vị thần. Xúc phạm đến pietas đòi hỏi một piaculum, một nghi thức chuộc tội. Ngôi đền Pietas ở Rome được vị chấp chính quan bình dân và người mới Manius Acilius Glabrio thề nguyện trọng thể tại trận Thermopylae vào năm 191 trước Công nguyên, nơi ông đánh bại hoàng đế Antiochus Đại đế trong Chiến tranh La Mã-Seleucid. Ngôi đền Pietas được hoàn thành bởi con trai của Manius Acilius Glabrio và được xây dựng ở phía tây bắc của chợ rau của Rome (Forum Olitorium) gần Cổng Carmental. Ngôi đền có một bức tượng bằng vàng của Glabrio, bức tượng vàng đầu tiên của một công dân La Mã trong thành phố. Theo một truyền thuyết kỳ diệu (miraculum), một người phụ nữ nghèo đói đang chết đói trong tù đã được con gái cứu thoát khi con gái cho cô bú sữa mẹ (so sánh với Roman Charity). Bị bắt quả tang, cô con gái không bị trừng phạt, nhưng được ghi nhận vì lòng hiếu thảo của mình. Mẹ và con gái được thả tự do và được hỗ trợ công khai cho phần đời còn lại của họ. Địa điểm này được coi là thiêng liêng đối với nữ thần Pietas (consecratus deae) vì cô đã chọn thể hiện sự hiện diện của mình ở đó. Câu chuyện này là minh chứng cho lòng hiếu thảo của cha mẹ, sự tận tâm đúng đắn mà người ta nên dành cho cha mẹ của mình. Phụ nữ hoàng tộc được miêu tả là Pietas Pietas thường được miêu tả là nữ thần ở mặt sau của đồng tiền Hoàng gia La Mã, với phụ nữ của hoàng tộc ở mặt trước, như một đức tính phù hợp để gán cho họ. Phụ nữ của hoàng tộc có thể được miêu tả trong nghệ thuật dưới dạng nữ thần. Chú thích Trích dẫn Thư mục . Liên kết ngoài Tôn giáo La Mã cổ đại Đức tính La Mã cổ đại Lòng hiếu thảo Nhân vật trong thần thoại La Mã
1,351
19828862
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%BAp%20EFL%202019-20
Cúp EFL 2019-20
Cúp EFL 2019–20 là mùa giải thứ 60 của Cúp EFL (được gọi là Carabao Cup vì lý do tài trợ), giải đấu dành cho tất cả các câu lạc bộ tham gia Premier League và English Football League. Manchester City là nhà đương kim vô địch hai lần, đã giữ được cúp vào năm 2019 và giành danh hiệu thứ ba liên tiếp với việc đánh bại Aston Villa trong trận chung kết tại Sân vận động Wembley ở London vào ngày 1 tháng 3 năm 2020. Thể thức Tất cả 92 câu lạc bộ thi đấu tại Premier League và English Football League được quyền tham dự giải đấu. Trong 2 vòng đấu đầu tiên, lễ bốc thăm được chia thành các câu lạc bộ miền Bắc và miền Nam. Ở vòng 1, 22 trong số 24 câu lạc bộ Championship và tất cả các câu lạc bộ EFL League One và EFL League Two tham gia. Do cuộc khủng hoảng tài chính, Bury sau đó đã rút lui khỏi giải và cuối cùng bị trục xuất khỏi EFL. Kết quả là Sheffield Wednesday, đối thủ ở vòng 1 của Bury đặt cách vào vòng 2. Vòng 2, hai câu lạc bộ Championship còn lại là Cardiff City và Fulham (lần lượt đứng thứ 18 và 19 trong mùa giải Premier League 2018–19) và các câu lạc bộ Premier League không tham dự Champions League hoặc Europa League sẽ tham gia. Arsenal, Chelsea, Liverpool, Manchester City, Manchester United, Tottenham Hotspur, và Wolverhampton Wanderers đều được tham gia từ vòng 3 do tham gia các giải đấu cúp châu Âu. Vòng 1 Tổng cộng có 70 CLB thi đấu ở vòng 1: 24 từ League Two (Hạng 4), 24 từ League One (Hạng 3) và 22 từ Championship (Hạng 2). Lễ bốc thăm cho vòng này được chia dựa trên cơ sở địa lý thành các khu vực phía Bắc và phía Nam. Các đội được bốc thăm gặp một đội trong cùng khu vực. Lễ bốc thăm được thực hiện bởi John Barnes và Ray Parlour vào ngày 20 tháng 6 năm 2019. Khu vực phía Bắc Khu vực phía Nam Vòng 2 Tổng cộng 50 CLB thi đấu ở vòng hai, bao gồm Fulham và Cardiff City từ Championship, cũng như các câu lạc bộ Premier League không tham gia thi đấu ở cúp châu Âu. Lễ bốc thăm cho vòng này được chia dựa trên cơ sở địa lý thành các khu vực phía Bắc và phía Nam. Các đội được bốc thăm gặp một đội trong cùng khu vực. Lễ bốc thăm được thực hiện vào ngày 13 tháng 8 năm 2019 bởi Gary Neville và Paul Robinson. Khu vực phía Bắc Khu vực phía Nam Vòng 3 Tổng cộng có 32 CLB thi đấu ở vòng này. Arsenal, Chelsea, Liverpool, Manchester City, Manchester United, Tottenham Hotspur, và Wolverhampton Wanderers tham gia vòng này do họ đang tham dự cúp châu Âu. Lễ bốc thăm được tiến hành vào ngày 28 tháng 8 năm 2019 bởi Andy Hinchcliffe và Don Goodman. Các trận đấu diễn ra giữa tuần bắt đầu từ ngày 23 tháng 9 năm 2019. Vòng 4 Tổng cộng 16 CLB thi đấu ở vòng này (không có đội nào là đội vô địch). Lễ bốc thăm được tiến hành tại Stadium MK bởi Andy Hinchcliffe và Don Goodman sau trận đấu vòng ba giữa MK Dons và Liverpool vào ngày 25 tháng 9 năm 2019. Các trận đấu được diễn ra trong tuần bắt đầu từ ngày 28 tháng 10 năm 2019. Tứ kết Tổng cộng 8 CLB thi đấu ở vòng này. Lễ bốc thăm được thực hiện vào ngày 31 tháng 10 năm 2019 bởi David James và Zoe Ball trên Chương trình Bữa sáng của BBC Radio 2. Các trận đấu được diễn ra trong tuần bắt đầu từ ngày 16 tháng 12 năm 2019. Liverpool tung vào sân đội hình thiếu kinh nghiệm trong trận đấu với Aston Villa và được dẫn dắt bởi HLV dẫn dắt đội U23 là Neil Critchley, trong khi đội một tham dự FIFA Club World Cup 2019 tại Qatar dưới sự dẫn dắt của Jürgen Klopp. Bán kết Tổng cộng 4 CLB thi đấu ở vòng này. Lễ bốc thăm được thực hiện vào ngày 18 tháng 12 năm 2019, bởi Dennis Wise và Chris Kamara tại Sân vận động Kassam của Oxford United. Các trận lượt đi diễn ra trong tuần bắt đầu từ ngày 6 tháng 1 năm 2020, trong khi trận lượt về diễn ra trong tuần bắt đầu từ ngày 27 tháng 1 năm 2020. Manchester City thắng với tổng tỉ số 3–2. Aston Villa thắng với tổng tỉ số 3–2. Chung kết Danh sách cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất Tham khảo Cúp EFL Mùa giải bóng đá hiện tại Mùa giải Cúp Liên đoàn bóng đá Anh
801
19828868
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BB%8Dng
Giọng
Trong ngôn ngữ học xã hội, giọng là cách phát âm một ngôn ngữ đặc trưng của một quốc gia, vùng miền, tầng lớp xã hội hoặc cá nhân. Giọng có thể được xác định bởi vị trí địa lý của người nói (giọng vùng miền hoặc địa lý), địa vị kinh tế xã hội của người nói, dân tộc của họ (giọng dân tộc), giai cấp hoặc tầng lớp xã hội của họ (giọng xã hội) hoặc ảnh hưởng từ tiếng mẹ đẻ của họ (giọng nước ngoài). Giọng nói thường khác nhau về chất giọng, cách phát âm và sự phân biệt giữa nguyên âm và phụ âm, trọng âm và ngữ điệu. Mặc dù ngữ pháp, ngữ nghĩa, từ vựng và các đặc điểm ngôn ngữ khác thường thay đổi đồng thời với giọng nói, nhưng từ "giọng" có thể đề cập cụ thể đến sự khác biệt về cách phát âm, trong khi từ "phương ngữ" bao gồm bộ đặc điểm ngôn ngữ khác biệt rộng hơn. "Giọng" thường là một phần của "phương ngữ". Lịch sử Khi con người di cư đến các cộng đồng biệt lập, những căng thẳng và đặc điểm riêng biệt sẽ phát triển. Theo thời gian, chúng có thể phát triển thành những giọng nói dễ nhận biết. Ở Bắc Mỹ, sự tương tác của những người từ nhiều nền tảng dân tộc khác nhau đã góp phần hình thành các dạng giọng Bắc Mỹ khác nhau. Rất khó để đo lường hoặc dự đoán chính xác mất bao lâu để hình thành một giọng nói. Chẳng hạn, các giọng nói từ Canada, Nam Phi, Úc và Hoa Kỳ được phát triển từ sự kết hợp của các giọng nói và ngôn ngữ khác nhau trong các xã hội khác nhau và tác động của chúng đối với các cách phát âm khác nhau của những người định cư người Anh. Giọng nói có thể khác nhau trong các khu vực của một khu vực nói một ngôn ngữ thống nhất. Trong một số trường hợp, chẳng hạn như các giọng vùng miền của tiếng Anh ở Hoa Kỳ, giọng nói có thể được truy trở lại thời điểm một khu vực được định cư và bởi ai. Các khu vực như thành phố New Orleans ở Louisiana, vốn là hoặc từng là một khu vực bán biệt lập, có những giọng nói đặc biệt do không có sự tiếp xúc giữa các khu vực. Các khu vực biệt lập cho phép các phương ngữ mở rộng và phát triển độc lập. Các yếu tố xã hội và kinh tế cũng có thể ảnh hưởng đến cách mọi người nói. Chú thích Đọc thêm Giles, H., & Coupland, N. (1991). Language: Contexts and Consequences. Buckingham, UK: Open University Press. Lindemann, S. (2003). "Koreans, Chinese or Indians? Attitudes and ideologies about non-native English speakers in the United States." Journal of Sociolinguistics, 7, 348–364. Lindemann, S. (2005). "Who speaks 'broken English'? US undergraduates' perception of non-native English." International Journal of Applied Linguistics, 15, 187–212. Moyer, A. (1999). "Ultimate attainment in L2 phonology: The critical factors of age, motivation and instruction." Studies in Second Language Acquisition, 21, 81–108. Scovel, T. (1988). A Time to Speak: A Psycho linguistic Inquiry into the Critical Period for Human Speech. Cambridge, England: New bury House. Wated, G., & Sanchez, J. I. (2006). "The role of accent as a work stress or on attitudinal and health-related work outcomes." International Journal of Stress Management, 13, 329–350. Wells, J C. 1982. Accents of English. (3 volumes). Cambridge: Cambridge University Press. [Wells's home pages also have a lot of information about phonetics and accents.] Liên kết ngoài Sounds Familiar? – Listen to regional accents and dialects of the UK on the British Library's 'Sounds Familiar' website 'Hover & Hear' accents of English from around the World, and compare them side by side. humanaccents.com – a summary of research on non-native accents and extensive accent bibliography Ngôn ngữ học xã hội Âm vị học Phương ngữ học Thuật ngữ ngôn ngữ học
672
19828869
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99c%20T%E1%BB%AD%20b%E1%BB%99
Độc Tử bộ
Độc Tử bộ (; tiếng Ấn Độ cổ: Vātsīputraka; ), còn được gọi là Khả-trú tử bộ (可住子部), Bạt-tư tử bộ (跋次子部), Bạt-tư-phất-đa-la bộ (跋私弗多羅部), Khả-trú tử đệ tử bộ (可住子弟子部), Bà-thư tử bộ (婆雌子部), Bạt-tư-phất bộ (跋私弗部), Bà-sa bộ (婆蹉部), là một bộ phái Phật giáo xuất phát từ Trưởng lão bộ. Căn cứ vào tông nghĩa của Độc Tử bộ được ghi nhận trong Đại Tì-bà-sa luận và Phát trí luận thì bộ phái này ra đời sớm hơn Nhất thiết hữu bộ. Độc Tử bộ cùng với Đại chúng bộ, Phân biệt thuyết bộ và Nhất thiết hữu bộ, được xem là bốn bộ phái lớn trong thời kỳ 18 bộ phái. Lược sử Theo tài liệu của Chính lượng bộ, phân nhánh chính của Độc Tử bộ, khoảng 200 năm sau khi Phật nhập diệt, trưởng lão Độc Tử đã triệu tập kỳ kết tập thứ ba, mà kết quả của nó đã hình thành nên Độc Tử bộ. Cũng theo tài liệu của Chính lượng bộ, tên của vị trưởng lão được ghi là Vātsīputra, còn căn cứ vào các bi ký được khai quật, tên ngài là là Vāchiputa. Bản dịch Tạng ngữ Dị bộ tinh thích của Thanh Biện (Bhāvaviveka) có ghi lại các truyền thuyết khác nhau về sự phân chia các bộ phái. Trong đó, truyền thuyết thứ ba là truyền thuyết của Chính lượng bộ: “Sau khi Phật nhập niết-bàn 137 năm, vào thời kỳ từ vua Nan-đà đến vua Ma-ha Bát-thổ-ma, các thánh trưởng lão đã tề tựu tại Hoa Thị thành. "Những tranh cãi đã nảy sinh trong Tăng đoàn, những người đa văn như trưởng lão Long và Kiên Ý đã giảng về Căn bản ngũ sự… do đó đã chia thành 2 nhánh.” “63 năm sau, trưởng lão Độc Tử đã tập hợp Tăng đoàn để giải quyết mọi tranh chấp và tổ chức kỳ kết tập thứ ba.” Tài liệu "Lịch sử Phật giáo Buton" cũng ghi chép những sự kiện này . Theo truyền thuyết được ghi chép trong Dị bộ tông luân luận, vào khoảng 300 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, từ Nhất thiết hữu bộ phân xuất ra Độc Tử bộ. Còn trong tài liệu Đảo sử của truyền thống Phật giáo Nam truyền thì cho rằng Độc Tử bộ phát xuất từ Trưởng lão bộ. Tông nghĩa Thời kỳ đầu, tông nghĩa của Độc Tử bộ hầu hết tương đồng với Nhất thiết hữu bộ qua Phát trí luận, chỉ với một số khác biệt đáng chú ý . Trong thời kỳ 18 bộ phái, khoảng 100 năm sau khi Độc Tử bộ hình thành, do cách giải thích khác biệt trong “Phát trí luận” , bộ phái này đã phân thành 4 nhánh: Pháp Thượng bộ Hiền Trụ bộ Chính lượng bộ Mật Lâm sơn bộ (còn gọi là Lục thành bộ trong Phật giáo Nam truyền) Trong đó, Chính lượng bộ phát triển nhất, dần thay thế địa vị ban đầu của Độc Tử bộ. Phần "Y thuyết luận" trong tài liệu Tam-di-để-bộ luận (Samityasastra) là chuyên luận duy nhất còn sót lại mô tả tích cực học thuyết của dòng truyền thừa Độc Tử trong thời kỳ 18 bộ phái. Tài liệu Tam pháp độ luận được xem là một luận thư giải thích kinh Phật theo quan điểm của Độc Tử bộ, hơi thiên về tín ngưỡng Đại thừa. Tranh cãi Đại sư Đề-bà-thiết-ma (Devaśarman, Thiên Tịch), trong Thức thân luận, xưng mình là một luận giả Tính Không, đã chỉ trích các luận giả Bổ-đặc-già-la của Độc Tử bộ, đã làm dấy lên các cuộc tranh luận liên quan về đúng sai chưa bao giờ chấm dứt. Học thuyết Bổ-đặc-già-la Độc Tử bộ thường được xem là đại biểu của phái luận giả Bổ-đặc-già-la, chẳng hạn trong các ghi chép trong Đại Tì-bà-sa luận. Đại trí độ luận của Đại sư Long Thụ (Nagarjuna) có ghi chép Độc Tử bộ rất tôn sùng Xá-lợi-phất A-tì-đàm. Do đó, bộ luận của dòng truyền thừa Độc Tử bộ còn được gọi là "Độc Tử A-tì-đàm", để phân biệt với bộ Xá-lợi-phất A-tì-đàm luận của dòng truyền thừa Phân biệt thuyết bộ. Trong Thuyết chuyển bộ có bảo lưu bộ Thắng nghĩa Bổ-đặc-già-la, xây dựng một phương pháp vi tế và khó thực hiện để nắm bắt ngũ uẩn. Một số học giả tin rằng học thuyết này có thể bị ảnh hưởng bởi học thuyết về Bổ-đặc-già-la của Độc Tử bộ. Vấn đề khởi diệt sát-na Theo Tứ Đế luận của Bà-tẩu-bạt-ma (Vasavarman) và bản dịch Dị bộ tông luân luận của Huyền Trang, các tăng sĩ Độc Tử bộ tin rằng trong số tất cả các hình thức, có những hình thức tồn tại tạm thời, chẳng hạn như một phần của sắc pháp, cũng có những cái biến mất trong chốc lát (sát-na, ksana), chẳng hạn như tâm, trạng thái tinh thần. Vì thế, Độc Tử bộ không thừa nhận thuyết “mọi hành động đều bị tiêu diệt trong sát-na” của Hóa địa bộ , Nhất thiết hữu bộ và Ẩm Quang bộ. Ảnh hưởng Độc Tử bộ được xem là một trong những bộ phái hiếm hoi chủ trương “hữu nhân ngã” nên thường bị các bộ phái khác chỉ trích. Trong một số tài liệu Đại thừa, Trí Di và những người khác thậm chí còn gọi họ là những kẻ "ngoại đạo dựa Phật" . Nghiên cứu học thuật Theo Đại sư Ấn Thuận, Đại Tì-bà-sa luận đã chỉ trích thuyết "Niết-bàn tam chủng" của Độc Tử bộ là một lý thuyết của các Phân biệt luận giả . Xem thêm Phật giáo Bộ phái Trưởng lão bộ Bổ-đặc-già-la luận giả Chú thích Tham khảo Bộ phái Phật giáo
960
19828870
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%B7ng%20Quang%20D%C5%A9ng
Đặng Quang Dũng
Đặng Quang Dũng (sinh ngày 21 tháng 10 năm 1992) là một hoạ sĩ truyện tranh và nhà thiết kế đồ hoạ người Việt Nam. Anh thường được biết đến với bút danh Mèo Mốc qua những tác phẩm truyện tranh dành cho mọi lứa tuổi như Nhật ký Mèo Mốc, Tây Du Hí, hay Ly & Chũn. Đến nay anh đã có tổng cộng 20 tập truyện tranh được xuất bản, và được xem là một trong những tác giả truyện tranh Việt Nam thế hệ mới thành công nhất về mặt thương mại. Tiểu sử Đặng Quang Dũng sinh năm 1992 tại Hà Tĩnh, Việt Nam. Anh bắt đầu sáng tác truyện tranh như một sở thích khi đang học tiểu học, khởi đầu bằng việc vẽ lại những trang truyện Doraemon để các bạn cùng lớp đọc. Anh từng theo học tại Trường Đại học Ngoại thương, chuyên ngành Kinh Tế Quốc Tế, và sau đó theo chuyên ngành Thiết Kế Đồ Hoạ tại Singapore. Sau khi tốt nghiệp, anh có thời gian làm việc tại tập đoàn Google Singapore trước khi trở về Việt Nam để hoạt động như một tác giả truyện tranh toàn thời gian. Hiện anh đang sinh sống và làm việc tại Hà Nội. Bút danh Đặng Quang Dũng thường được biết đến với bút danh Mèo Mốc. Tên gọi này bắt nguồn từ nickname thời trẻ của anh, Black Mokona. Cái tên Mokona được thu gọn thành Mốc, kết hợp với Mèo (vì anh thích mèo) đã tạo thành bút danh Mèo Mốc. Đây cũng là tên của nhân vật chính trong series truyện tranh Nhật ký Mèo Mốc, lấy cảm hứng từ cuộc sống thật của anh. Sự nghiệp Đặng Quang Dũng bắt đầu sự nghiệp bằng công việc sáng tác truyện tranh tự do tại một công ty. Ban đầu, công việc của anh là sáng tác và minh hoạ những mẩu truyện hài ngắn cho tạp chí, cũng như một số tranh minh hoạ khác. Chính ở thời điểm này, anh đã bắt đầu sáng tác series truyện tranh mạng của riêng mình, Nhật ký Mèo Mốc. Nhật ký Mèo Mốc mới đầu được chia sẻ trên Facebook cá nhân của Đặng Quang Dũng, với nhân vật chính là Mèo Mốc. Sau khi trở nên nổi tiếng trên mạng xã hội, series này đã được tổng hợp thành một tập sách để xuất bản vào tháng 10 năm 2014, bởi SkyComics. Tập đầu tiên khi ra mắt đã đạt danh hiệu sách truyện tranh bán chạy nhất Tiki trong nhiều tháng liền và tạo nên một cơn sốt truyện tranh Việt Nam. Đến năm 2023, đã có 7 tập trong series Mèo Mốc được xuất bản. Những tập gần đây nhất còn được tái bản ngay sau khi phát hành. Tây Du Hí được bắt đầu sáng tác từ năm 2015. Đây là series truyện dài tập thứ hai của Đặng Quang Dũng. Ban đầu, truyện được trình bày dưới thể thức truyện hài 4 khung (yonkoma). Bắt đầu từ tập 3 của series, anh quyết định chuyển hướng đi mới cho bộ truyện này vì cảm thấy nó quá giống series Mèo Mốc. Vì vậy, bắt đầu từ tập 4, truyện được trình bày theo bố cục truyện tranh truyền thống, và có nội dung nghiêm túc cũng như tuyến truyện dài phức tạp hơn. Đến năm 2021, đã có 6 tập trong series Tây Du Hí được xuất bản. Vào năm 2019, Đặng Quang Dũng đã cho ra mắt một tập truyện tranh mới với tựa đề Nào ta cùng ăn. Với tập truyện này, anh đã đến với cách trình bày có bố cục tranh - thoại rõ ràng hơn, với những đường nét mềm mại hơn. Năm 2021, tác phẩm Ly & Chũn - Tết là nhất, nhất là Tết! của Đặng Quang Dũng đã đạt giải nhì trong Giải Thưởng Dế Mèn, một giải thưởng văn học thường niên dành cho các tác phẩm thiếu nhi. (Trong năm này, không có giải nhất, và trước đó chỉ có một giải nhất từng trao cho nhà văn Nguyễn Nhật Ánh) Thành tựu và giải thưởng Đặng Quang Dũng là một trong những tác giả truyện tranh Việt Nam có lượng bản in lớn nhất, với ước tính gần nửa triệu bản in. Tháng 6 năm 2021, tác phẩm Ly & Chũn - Tết là nhất, nhất là Tết mang về cho anh giải thưởng Khát Vọng Dế Mèn. Đây là giải thưởng thường niên tôn vinh các tác phẩm sáng tác bởi thiếu nhi và vì thiếu nhi. Giải thưởng này đã ghi nhận Đặng Quang Dũng từ một "hiện tượng truyện tranh" trở thành một tác giả có đủ độ chín, sức bền và sức bật. Năm 2019, anh từng được đề cử vào danh sách hạt giống tiềm năng cho danh sách Forbes 30 Under 30 tại Việt Nam, và phải đến năm 2022 mới chính thức được vinh danh trong danh sách này. Tuy nhiên sau đó, anh cùng nhiều nhân vật khác đã tuyên bố rút tên khỏi danh sách do không đồng tình với cách xử lý khủng hoảng của Forbes Việt Nam. Các tác phẩm Truyện dài tập Series "Mèo Mốc" (7+ tập, từ năm 2014 tới nay) "Nhật ký Mèo Mốc" (2014) "Mèo Mốc - Chuyện đèn đỏ & cái lỗ đen vũ trụ" (2015) "Mèo Mốc - Hành trình tới Singapore" (2016) "Mèo Mốc - Hãy ngắm nhìn bầu trời!" (2017) "Mèo Mốc - Ơ, sinh nhật rồi này?" (2018) "Mèo Mốc - Và Xuân sẽ lại về" (2020) "Mèo Mốc & Thế Giới Diệu Kỳ Màu Xám (2022) "Mèo Mốc Black Book" (4+ tập, từ năm 2021 tới nay) "Tây Du Hí" (6+ tập, từ năm 2015 tới nay) Truyện ngắn "Nào ta cùng ăn!" (2019) "Ly & Chũn - Tết là nhất, nhất là Tết" (2021) "Ba Câu Trả Lời" (2022) Truyện tranh mạng "Mèo Mốc" "Con Oe" "Đặc vụ chìm ở quanh ta" Hoạt động xã hội Sự kiện "tròn vuông tam giác" năm 2018 Năm 2018, những thông tin không đúng sự thật về sách Tiếng việt 1 – Công nghệ giáo dục (TV1 – CNGD) của GS. Hồ Ngọc Đại đã lan truyền mạng xã hội. Những hình tròn, vuông, tam giác được sử dụng làm công cụ học đếm số tiếng đã bị xuyên tạc thành "bảng chữ mới", tạo nên một trào lưu ảnh và video chế giễu, chỉ trích gay gắt, thậm chí xúc phạm giáo sư Hồ Ngọc Đại, người thực hiện bộ sách. Đặng Quang Dũng đã sáng tác một bộ truyện tranh ngắn với tựa đề "Khoa học cùng Mèo Mốc - Bảng chữ mới". Bộ truyện ngay lập tức nổi tiếng trên mạng xã hội, và được các phương tiện báo chí chính thống trích dẫn để "giải độc" thông tin giả. Scandal Ngô Hoàng Anh và Forbes Việt Nam năm 2022 Năm 2022, Đặng Quang Dũng được vinh danh trong danh sách Forbes 30 Under 30 Việt Nam, lĩnh vực nghệ thuật. Đây là danh sách tôn vinh những cá nhân dưới 30 tuổi có thành tựu nổi bật. Cùng trong danh sách năm đó có Ngô Hoàng Anh, được vinh danh ở lĩnh vực khoa học, giáo dục, bị nhiều cựu học sinh cùng trường tố cáo về hành vi quấy rối tình dục qua tin nhắn. Trước phản ánh của cộng đồng và những thành viên khác của Forbes 30 Under 30 Việt Nam về vụ việc này, tạp chí Forbes Việt Nam chỉ có những động thái úp mở không rõ ràng. Vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, tạp chí Forbes Việt Nam ra thông báo quyết định rút tên Ngô Hoàng Anh khỏi danh sách vinh danh với lí do "nguyện vọng qua email của Ngô Hoàng Anh gửi đến tòa soạn", khiến công chúng đặt nhiều nghi vấn. Ngày 25 tháng 2 năm 2022, Đặng Quang Dũng, trước đó vẫn bày tỏ sự tin tưởng vào Forbes Việt Nam , đã gửi một thông cáo công khai, cho biết anh đã tự rút khỏi danh sách Forbes 30 Under 30 Việt Nam vì không đồng tình với cách xử lý vụ việc của Forbes Việt Nam. Cùng ngày hôm đó, nhiều thành viên khác của danh sách năm 2022 và các năm trước đó cũng đồng loạt lên tiếng, thông báo rút tên, tạo nên một làn sóng "tẩy chay" Forbes Việt Nam. Tham khảo Sinh năm 1992
1,418
19828900
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99i%20tuy%E1%BB%83n%20b%C3%B3ng%20chuy%E1%BB%81n%20n%E1%BB%AF%20qu%E1%BB%91c%20gia%20Th%E1%BB%95%20Nh%C4%A9%20K%E1%BB%B3
Đội tuyển bóng chuyền nữ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
Đội tuyển bóng chuyền nữ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ là một đội tuyển được quản lý bởi Liên đoàn bóng chuyền Thổ Nhĩ Kỳ đại diện cho Thổ Nhĩ Kỳ tham dự các giải đấu và trận đấu giao hữu bóng chuyền trên đấu trường quốc tế. Đội hiện là một trong những đội tuyển xuất sắc nhất của Thổ Nhĩ Kỳ và được đặt biệt danh là "Filenin Sultanları" () kể từ khi Giải vô địch bóng chuyền nữ châu Âu 2003 diễn ra ngay trên sân nhà. Đội hiện giữ vị trí số 1 thế giới trên bảng xếp hạng của FIVB tính đến tháng 7 năm 2023. Huấn luyện viên trưởng hiện tại của đội là ông Daniele Santarelli, người Ý. Lịch sử Kỹ sư xây dựng Sabiha Gürayman là người phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ đầu tiên thi đấu môn bóng chuyền, môn thể thao này được du nhập vào Thổ Nhĩ Kỳ khoảng những năm 1910. Khi còn là một cô gái trẻ, Gürayman đã thi đấu cho đội bóng chuyền nữ Fenerbahçe, trước đó từng thi đấu cho đội nam của câu lạc bộ này. Bóng chuyền nữ Thổ Nhĩ Kỳ đã trải qua thời kỳ phát triển thần tốc kể từ những năm 2000, đạt được nhiều thành công nhất định ở cả cấp độ câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia. Đội đã có chuỗi bất bại 22 trận liên tiếp kể từ ngày 29 tháng 6 đến ngày 24 tháng 9 năm 2023. Trong giai đoạn thăng hoa đó, họ bất bại trong các trận đấu tại FIVB Nations League, Giải vô địch châu Âu và Vòng loại Thế vận hội Mùa hè. Do đó, bóng chuyền nữ là một trong những môn thể thao được nhiều người theo dõi nhất ở Thổ Nhĩ Kỳ. Thành tích các giải đấu Thế vận hội Mùa hè Giải vô địch bóng chuyền nữ thế giới Cúp bóng chuyền nữ vô địch thế giới World Grand Prix Nation League Đại hội Thể thao Địa Trung Hải Đại hội Thể thao châu Âu Giải vô địch bóng chuyền nữ châu Âu European League Montreux Volley Masters Đại hội Thể thao Đoàn kết Hồi giáo Danh sách cầu thủ Dưới đây là danh sách các cầu thủ tham dự Giải vô địch bóng chuyền nữ thế giới 2022 diễn ra tại Hà Lan và Ba Lan. Huấn luyện viên trưởng: Daniele Santarelli Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức của Liên đoàn bóng chuyền Thổ Nhĩ Kỳ Hồ sơ đội tuyển của FIVB Hồ sơ đội tuyển của CEV Thổ Nhĩ Kỳ Bóng chuyền Thổ Nhĩ Kỳ Bóng chuyền
419
19828903
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B3c%20%C4%91u%C3%B4i%20ng%E1%BB%B1a
Tóc đuôi ngựa
Tóc đuôi ngựa là một kiểu tóc trong đó một phần, hầu hết hoặc tất cả tóc trên đầu được kéo ra khỏi mặt, tập trung và cố định ở phía sau đầu bằng dây buộc tóc, kẹp hoặc phụ kiện tương tự khác và để buông tự do từ điểm đó. Tóc đuôi ngựa có tên gọi như vậy vì nó giống với đuôi của một con ngựa. Tóc đuôi ngựa thường được buộc ở giữa phía sau đầu hoặc sau gáy, nhưng cũng có thể được buộc ở bên cạnh đầu (đôi khi được coi là kiểu tóc trang trọng) hoặc trên đỉnh đầu. Nếu tóc được chia thành hai phần, chúng được gọi là tóc đuôi ngựa đôi, tóc đuôi sam đôi, tóc bím hoặc tóc cuộn nếu để buông tự do và tóc bím, tóc tết hoặc tóc bện nếu được tết lại. Vấn đề sức khỏe Những người cột tóc đuôi ngựa chặt thường dễ gặp phải tình trạng rụng tóc do lực kéo (traction alopecia). Traction alopecia đã được chứng minh là có liên quan chặt chẽ với các kiểu tóc kéo căng tóc, bao gồm tóc đuôi ngựa, và các kiểu tóc ít căng hơn không liên quan đến tình trạng này. Đôi khi nó có thể gây đau đầu. Ngoài ra, những người cột tóc đuôi ngựa có thể bị đau đầu ngoại biên do căng thẳng từ việc buộc tóc kéo dài thành một búi, kéo căng da đầu. Cơn đau xuất hiện cũng là do tóc đuôi ngựa kéo các dây thần kinh trên da đầu xung quanh mặt, dẫn đến đau đầu nhẹ đến nghiêm trọng hoặc chứng đau nửa đầu. Việc nới lỏng tóc đuôi ngựa có thể giảm đau và đau đầu, mặc dù mức độ giảm đau khác nhau ở mỗi cá nhân. Chú thích Liên kết ngoài Kiểu tóc
309
19828935
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%B4ng%20tai
Lông tai
Lông tai là lông cuối mọc từ sụn nang tóc bên trong ống tai ngoài ở người. Theo nghĩa rộng hơn, lông tai cũng có thể bao gồm các sợi lông tơ mỏng bao phủ hầu hết tai, đặc biệt là ở các phần nhô ra của tai trước, hoặc thậm chí là sự phát triển bất thường của lông như thấy trong bệnh rậm lông quá mức (hypertrichosis) và hirsutism. Nghiên cứu y tế về chức năng của lông tai hiện nay rất khan hiếm. Sự phát triển của lông trong ống tai thường được quan sát thấy tăng lên ở nam giới lớn tuổi, cùng với sự tăng trưởng của lông mũi. Lông có thể nhìn thấy nhô ra khỏi ống tai đôi khi được cắt tỉa vì lý do thẩm mỹ. Sự phát triển quá mức của lông trong hoặc trên tai được gọi về mặt y học là rậm lông quá mức ở tai (auricular hypertrichosis). Một số nam giới, đặc biệt là ở nam giới Ấn Độ, có lông mọc thô dọc theo phần dưới của vành tai, một tình trạng được gọi là "có vành tai nhiều lông" (hypertrichosis lanuginosa acquisita). Cấu trúc Lông tai là một sợi protein mọc từ các nang tóc ở lớp hạ bì, hoặc da. Ngoại trừ những vùng da nhẵn, cơ thể con người được bao phủ bởi các nang tóc tạo ra tóc dày (terminal hair) và tóc tơ mỏng (vellus hair). Nó là một vật liệu sinh học quan trọng chủ yếu được cấu tạo bởi protein, đặc biệt là keratin. Ý nghĩa lâm sàng Lông tai xâm nhập vào màng nhĩ có thể gây ra ù tai. Viêm nang lông tai có thể gây viêm tai ngoài cấp tính và khu trú. Rậm lông quá mức ở tai ngoài trong quá trình điều trị bằng minoxidil, khi lông tai quá nhiều che phủ tai, có thể gây tắc nghẽn ống tai, có thể dẫn đến điếc một phần hoặc hoàn toàn. Chú thích Tai Lông và tóc người Tai mũi họng
340
19828936
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%B4ng%20m%C5%A9i
Lông mũi
Lông mũi là loại lông mọc trong mũi của con người. Người lớn thường có lông mũi. Lông mũi có chức năng lọc các hạt lạ xâm nhập vào khoang mũi và thu thập độ ẩm. Để hỗ trợ cho chức năng đầu tiên, kết quả của một nghiên cứu năm 2011 chỉ ra rằng mật độ lông mũi tăng làm giảm nguy cơ phát triển bệnh hen suyễn ở những người bị viêm mũi dị ứng theo mùa, có thể là do khả năng lọc phấn hoa và các chất gây dị ứng khác của lông mũi tăng lên. Lông mũi khác với lông mao của lớp niêm mạc có lông mao của khoang mũi. Đây là những cấu trúc dựa trên vi ống được tìm thấy trong đường hô hấp, tham gia vào cơ chế thanh thải niêm mạc. Có rất nhiều thiết bị được bán để tỉa lông mũi, bao gồm tông đơ tròn thu nhỏ và các phụ kiện cho máy cạo râu điện. Các tông đơ này sẽ làm ngắn lông mũi đến mức không thể nhìn thấy chúng bên ngoài lỗ mũi. Một chiếc nhíp cũng có thể được sử dụng để giúp loại bỏ những sợi lông này. Các phương pháp khác cũng có tác dụng chẳng hạn như tẩy lông. Chú thích Mũi Lông và tóc người
220
19828940
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BB%90c%20tai
Ốc tai
{{Infobox anatomy Ốc tai là một phần của tai trong tham gia vào quá trình nghe. Nó là một khoang hình xoắn ốc trong mê đạo xương, ở người có 2,75 vòng quanh trục của nó, được gọi là modiolus. Một thành phần cốt lõi của ốc tai là cơ quan Corti, cơ quan cảm giác của thính giác, được phân bố dọc theo vách ngăn tách các buồng chứa dịch trong ống xoắn ốc của ốc tai. Tên gọi ốc tai có nguồn gốc . Cấu trúc Ốc tai (số nhiều: cochleae) là một khoang xương xoắn ốc, rỗng, hình nón, trong đó sóng lan truyền từ đáy (gần tai giữa và cửa sổ bầu dục) đến đỉnh (đỉnh hoặc tâm của xoắn ốc). Kênh xoắn ốc của ốc tai là một phần của mê đạo xương của tai trong, dài khoảng 30mm và tạo ra 23⁄4 vòng quanh modiolus. Các cấu trúc ốc tai bao gồm: Ba ống hoặc khoang: Ống tiền đình (scala vestibuli): Chứa dịch perilymph, nằm ở phía trên ống ốc tai và tiếp giáp với cửa sổ bầu dục. Ống nhĩ (scala tympani): Chứa dịch perilymph, nằm ở phía dưới ống ốc tai và kết thúc ở cửa sổ tròn. Ống ốc tai (scala media): Chứa dịch endolymph, một vùng có nồng độ ion kali cao, nơi các lông mao của tế bào tóc nhô vào. Helicotrema: Vị trí hợp nhất của ống nhĩ và ống tiền đình, ở đỉnh ốc tai. Màng Reissner: Màng ngăn cách ống tiền đình với ống ốc tai. Phiến xoắn xương: Một cấu trúc chính ngăn cách ống ốc tai với ống nhĩ. Màng đáy: Một cấu trúc chính ngăn cách ống ốc tai với ống nhĩ và xác định các đặc tính truyền sóng cơ học của vách ngăn ốc tai. Cơ quan Corti: Biểu mô cảm giác, một lớp tế bào trên màng đáy, trong đó các tế bào tóc cảm giác được cung cấp năng lượng bởi sự chênh lệch điện thế giữa dịch perilymph và dịch endolymph. tế bào tóc: Tế bào cảm giác trong cơ quan Corti, có đỉnh là các cấu trúc giống như lông được gọi là stereocilia. Dải xoắn ốc: Một dải mô liên kết hỗ trợ ốc tai bên ngoài. Ốc tai là một phần của tai trong có hình dạng giống như vỏ ốc (cochlea trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là ốc sên). Ốc tai nhận âm thanh dưới dạng rung động, gây ra chuyển động của các lông mao. Các lông mao sau đó chuyển đổi những rung động này thành các xung thần kinh được đưa lên não để giải thích. Hai trong số ba phần chất lỏng là các ống dẫn và phần thứ ba là 'Cơ quan Corti' phát hiện các xung áp lực di chuyển dọc theo dây thần kinh thính giác đến não. Hai ống dẫn được gọi là ống tiền đình và ống nhĩ. Cấu trúc vi mô Các thành của ốc tai rỗng được làm bằng xương, với lớp lót mỏng và tinh tế của mô biểu. Ống xoắn này được chia qua hầu hết chiều dài của nó bởi một vách ngăn màng bên trong. Hai không gian bên ngoài chứa đầy chất lỏng (ống hoặc scalae) được hình thành bởi vách ngăn phân chia này. Ở đỉnh của các ống cuộn xoắn ốc như vỏ ốc, hướng của chất lỏng được đảo ngược, do đó biến đổi ống tiền đình thành ống nhĩ. Khu vực này được gọi là helicotrema. Sự tiếp tục này tại helicotrema cho phép chất lỏng được đẩy vào ống tiền đình bởi cửa sổ bầu dục di chuyển trở lại ra ngoài thông qua chuyển động trong ống nhĩ và sự lệch của cửa sổ tròn; vì chất lỏng gần như không nén được và thành xương cứng nhắc, nên điều cần thiết là thể tích chất lỏng được bảo toàn phải thoát ra ngoài ở đâu đó. Vách ngăn theo chiều dài chia hầu hết ốc tai thực chất là một ống chứa đầy chất lỏng, 'ống' thứ ba. Cột trung tâm này được gọi là ống ốc tai. Chất lỏng của nó, dịch nội tai, cũng chứa các chất điện giải và protein, nhưng về mặt hóa học thì khá khác với dịch ngoại tai. Trong khi dịch ngoại tai giàu ion natri, dịch nội tai giàu ion kali, tạo ra một điện thế ion, điện. Các tế bào tóc được sắp xếp thành bốn hàng trong cơ quan Corti dọc theo toàn bộ chiều dài của cuộn ốc tai. Ba hàng bao gồm các tế bào tóc ngoài (OHCs) và một hàng bao gồm các tế bào tóc trong (IHCs). Các tế bào tóc trong cung cấp đầu ra thần kinh chính của ốc tai. Ngược lại, các tế bào tóc ngoài chủ yếu 'nhận' đầu vào thần kinh từ não, điều này ảnh hưởng đến khả năng vận động của chúng như một phần của "bộ khuếch đại trước" cơ học của ốc tai. Đầu vào cho OHC đến từ thể ô liu thông qua bó sợi olivocochlear trung bình. Ống ốc tai gần như phức tạp như chính tai. Ống ốc tai được giới hạn bởi ba mặt bởi màng đáy, dải xoắn ốc và màng Reissner. Dải xoắn ốc là một lớp mao mạch và tế bào tiết giàu; màng Reissner là một màng mỏng ngăn cách dịch nội tai với dịch ngoại tai; và màng đáy là một màng cứng về mặt cơ học, hỗ trợ cơ quan thụ cảm của thính giác, cơ quan Corti và xác định các đặc tính truyền sóng cơ học của hệ thống ốc tai. Các loài động vật khác Ốc tai dạng xoắn là duy nhất đối với động vật có vú. Ở chim và các động vật có xương sống không phải động vật có vú khác, khoang chứa các tế bào cảm giác thính giác đôi khi cũng được gọi là "ốc tai", mặc dù nó không cuộn tròn. Thay vào đó, nó tạo thành một ống có đầu bịt kín, còn được gọi là ống ốc tai. Sự khác biệt này dường như đã phát triển song song với sự khác biệt về phạm vi tần số nghe giữa động vật có vú và động vật có xương sống không phải động vật có vú. Phạm vi tần số cao hơn ở động vật có vú một phần là do cơ chế khuếch đại âm thanh độc đáo của chúng bằng rung động thân tế bào chủ động của các tế bào tóc ngoài. Tuy nhiên, độ phân giải tần số không tốt hơn ở động vật có vú so với hầu hết các loài thằn lằn và chim, nhưng giới hạn tần số trên cao hơn - đôi khi cao hơn nhiều. Hầu hết các loài chim không nghe được ở tần số trên 4–5 kHz, tần số tối đa hiện được biết là ~ 11 kHz ở cú chuồng. Một số loài động vật biển có vú nghe được ở tần số lên đến 200 kHz. Một khoang xoắn dài, thay vì một khoang ngắn và thẳng, cung cấp nhiều không gian hơn cho các quãng tám bổ sung của dải tần nghe, và đã làm cho một số hành vi có nguồn gốc cao liên quan đến thính giác của động vật có vú trở nên khả thi. Vì việc nghiên cứu ốc tai về cơ bản nên tập trung vào mức độ của các tế bào tóc, nên điều quan trọng là phải lưu ý đến sự khác biệt về giải phẫu và sinh lý giữa các tế bào tóc của các loài khác nhau. Ví dụ, ở chim, thay vì các tế bào tóc ngoài và trong, có các tế bào tóc cao và ngắn. Có một số điểm tương đồng đáng chú ý liên quan đến dữ liệu so sánh này. Đối với một, tế bào tóc cao có chức năng rất giống với tế bào tóc trong, và tế bào tóc ngắn, thiếu sự chi phối của sợi thần kinh thính giác afferent, giống với tế bào tóc ngoài. Tuy nhiên, một điểm khác biệt không thể tránh khỏi là trong khi tất cả các tế bào tóc đều được gắn vào màng tectorial ở chim, thì chỉ có các tế bào tóc ngoài được gắn vào màng tectorial ở động vật có vú. Chú thích Đọc thêm Hệ thống thính giác Khoa tai Thính học
1,413
19828947
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hang%20Te%27omim
Hang Te'omim
Hang động Te'omim (), hoặc hang động sinh đôi, là một hang động karst và là một khu bảo tồn thiên nhiên ở Israel nằm ở rìa phía tây của dãy núi Jerusalem, gần Beit Shemesh. Hang Te'omim là điểm nhấn trung tâm dọc theo con đường đi bộ 3 km được coi là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng và được yêu thích nhất trong khu vực. Để bảo vệ quần thể dơi ngủ đông, hang động đóng cửa không đón du khách trong mùa đông, từ ngày 1 tháng 11 đến ngày 31 tháng 3. Tuy nhiên, trong các mùa khác, hang động mở cửa cho công chúng . Hang động có ý nghĩa khảo cổ quan trọng với những khám phá trải dài qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. Những khám phá đáng chú ý bao gồm hài cốt của quân nổi dậy, vũ khí và nơi tích trữ tiền xu, cho thấy vai trò của nó như một hang động trú ẩn cho quân nổi dậy và người tị nạn Do Thái trong cuộc nổi dậy Bar Kokhba. Hơn nữa, bằng chứng về một mỏ đá thạch cao cổ có niên đại từ giữa thời kỳ Đồ đồng và có thể là về thời kỳ cuối La Mã địa điểm tôn giáo gắn liền với thuật chiêu hồn đã được phát hiện trong hang động, đã làm tăng thêm tầm quan trọng khảo cổ học của nó. Tham khảo Hang động Israel
246
19828955
https://vi.wikipedia.org/wiki/Levy%20Tran
Levy Tran
Vy Le "Levy" Tran (sinh ngày 8/4/1983), sinh ra là một diễn viên, người mẫu người Mỹ gốc Việt. Thời thơ ấu Levy sinh ngày 8 tháng 4 năm 1983 tại San Jose, California với cha mẹ là người Việt Nam. Cô có thể nói được tiếng Anh và tiếng Việt. Sau khi tốt nghiệp trung học, cô nhận bằng cử nhân về phát triển trẻ em và thanh thiếu niên khi đang học chuyên ngành toán học. Sau đó, cô làm việc tại một nhà tang lễ với công việc là người ướp xác vào năm 2011. Sự nghiệp diễn xuất Năm 2011, Tran theo đuổi sự nghiệp người mẫu và sau khi đóng quảng cáo quyết định chuyển đến Los Angeles vào năm 2012. Tran sau đó thành công trong nghề người mẫu với tư cách là người mẫu nữ hàng đầu gốc châu Á. Trần làm người mẫu cho các thương hiệu hàng đầu như Inked Magazine, Glass Magazine và Tattoo Life. Cô ấy nói rằng hình xăm yêu thích trên cơ thể cô là là hình xăm zombie vì tính nghệ thuật của nó, nhưng một phần hối hận về hình xăm đầu tiên mà cô ấy có khi 18 tuổi.Năm 2012, Levy xuất hiện lần đầu trên truyền hình trên chương trình MTV của Guy Code với tư cách là người dẫn chương trình khách mời. Năm 2013, Tran vướng vào MV gây tranh cãi mang tên "Asian Girlz" do Day Above Ground thực hiện.. Tran nhanh chóng xin lỗi về video ca nhạc.” Năm 2015, Levy đóng vai là người khởi đầu cuộc đua trong Furious 7. Sau đó cô được bình chọn là một trong những người phụ nữ đẹp nhất của loạt phim Fast & Furious.Sau đó, cô tiếp tục xuất hiện trên bộ phim truyền hình Jungle Justice vào năm 2015, và sau đó đóng vai chính trong các bộ phim Female Fight Squad và The Unwilling. Tran tiếp tục xuất hiện trong một số phim truyền hình khác, trong đó có vai Eddie (bạn tình của Lip) trong phần 8 của phim.Shameless. Levy sau đó tiếp tục vào vai Roenick trong bộ phim năm 2018 The First Purge và cũng xuất hiện với vai Trish Park trong loạt phim Netflix năm 2018 The Haunting of Hill House. Levy được chọn đóng vai đặc vụ Desiree "Desi" Nguyen trong tám tập cuối của phần ba của bộ phim. MacGyver năm 2019. Tran nói rằng cô thích vai diễn Desi của mình và rất hào hứng với phần bốn. Tháng 6 năm 2019, Tran chính thức được xác nhận là diễn viên chính cho phần 4 của bộ phim. MacGyver. Tham khảo en:Levy Tran Người Mỹ gốc Việt Nữ diễn viên điện ảnh Mỹ
453
19828971
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt-%C4%91%C3%A0-b%E1%BA%A1t-%C4%91%C3%A0-la
Phật-đà-bạt-đà-la
Phật-đà-bạt-đà-la (, sa. Buddhabhadra; 359-429), hay Giác Hiền (觉贤), là một Thiền sư Ấn Độ và là luật sư Luật tạng. Ông được biết đến nhiều nhất nhờ nỗ lực dịch thuật nhiều kinh văn Phật giáo từ tiếng Phạn sang chữ Hán và chịu trách nhiệm về bản dịch Hán ngữ đầu tiên của Kinh Hoa Nghiêm () vào thế kỷ thứ 5. Ở Trung Quốc, ông thường được gọi là Thiên Trúc Thiền sư (天竺禪師). Tổng quan Buddhabhadra thuộc dòng dõi hậu duệ của thị tộc Śākya, sinh ra ở Nagarahara (nay thuộc Jalal-Ābād), một trung tâm nổi tiếng của phái Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) vào thời điểm đó. Thời trẻ, Sư theo học thiền sư người Kashmiri Buddhasena, một Sarvastivadin và thiên Đại thừa. Buddhabhadra nhanh chóng thành thạo về giới luật (Vinaya) và thiền định. Sư được một tăng nhân Hậu Tần là Trí Nghiêm (智嚴; 350-427) mời sang Trung Quốc. Khi đến kinh đô Trường An vào năm 406–408, Buddhabhadra kết bạn với Kumārajīva và tham gia vào một cuộc tranh luận công khai với ông do Hoàng tử Hóng đề xướng, được ghi lại trong các nguồn sử liệu Trung Quốc. Buddhabhadra nhanh chóng trở nên nổi tiếng với tư cách là một thiền sư. Nhóm của Kumārajīva và nhóm của Buddhabhadra cuối cùng đã phát triển sự cạnh tranh dẫn đến việc Buddhabhadra bị trục xuất khỏi Trường An (khoảng năm 410). Thời gian ở Lư Sơn, Buddhabhadra đã dịch một số sách hướng dẫn thiền theo yêu cầu của Đại sư Huệ Viễn, gồm Đạt-ma-đa-la thiền kinh (Dharmatrātadhyāna, 達磨多羅禪經, T618) và Quán Phật tam-muội hải kinh (Buddhânusmṛtisamādhisāgara, 觀佛三昧海經 T 643). Sau khi rời Lư Sơn, Buddhabhadra và các đệ tử chuyển đến chùa Đạo Trường (道場寺), nơi Buddhabhadra tiếp tục dạy về Thiền. Không lâu sau, Pháp Hiển cũng đến. Chính tại đây, Buddhabhadra và nhóm của ông (bao gồm các đệ tử Trung Quốc như Bǎoyún, Huìguān, Zhìyán) cùng với Pháp Hiển, đã dịch hầu hết kinh điển được cho là của Buddhabhadra. Buddhabhadra và nhóm của ông đã dịch quyển Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh (Avataṃsaka-sūtra, T 278) gồm 60 tập . Ngoài ra, nhóm của Buddhabhadra cũng đã biên soạn các bản dịch Ma-ha-tăng-kỳ luật (Mahāsāṃghika-vinaya; T 1425), Niết-bàn kinh (Mahāparinirvāṇa-sūtra; T 376, dịch cùng với Pháp Hiển), Như Lai tạng kinh (Tathāgatagarbha sūtra; T 666) và Phật thuyết Vô lượng thọ kinh (Sukhāvatīvyūha sūtra; T 360). Buddhabhadra viện tịch vào năm Nguyên Gia thứ 6 nhà Lưu Tống (429), thọ 71 tuổi. Ảnh hưởng Tác phẩm của Buddhabhadra có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo Hán truyền sau này. Sách hướng dẫn thiền của ông và các đệ tử (Trí Yến, Huệ Quan, Bảo Vân, Huyền Cao và Đàm Dao) đã ảnh hưởng đến việc thực hành thiền định của Phật giáo Trung Quốc, và sự phổ biến của việc xây dựng các hang động thiền định như Hang đá Vân Cương, Hang đá Mạch Tích Sơn và Hang động chùa Bình Linh. Bản dịch kinh Hoa nghiêm của ông cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của truyền thống chú giải Hoa nghiêm ban đầu mà theo thời gian sẽ phát triển thành Phật giáo Hoa Nghiêm, trong khi bản dịch kinh Vô lượng thọ của ông cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của Phật giáo Tịnh độ. Học trò của Buddhabhadra là Huyền Cao (玄高, c. ?-444) là một thiền sư quan trọng ở Bắc Lương, người tập trung vào thực hành quán tưởng Đức Phật và thực hành "Thiền Hoa Nghiêm". Truyền thống Huyền Cao này (tập trung quanh khu vực động Bình Linh) đã được các học giả như Imre Hamar coi là tiền đề cho trường phái Hoa Nghiêm đúng nghĩa. Hơn nữa, Hamar đưa ra giả thuyết rằng Huyền Cao cùng với đạo sư Daorong đã hợp tác để biên soạn các kinh ngụy tác Phạm võng kinh (梵網經; T1484) và Bồ-tát anh lạc bản nghiệp kinh (菩薩瓔珞本業經; T1485) đứng đầu thời kỳ này. sự phát triển của truyền thống Hoa Nghiêm. Các văn bản thiền định của Buddhabhadra cũng ảnh hưởng đến Phật giáo Thiền, và một số phương pháp của chúng đã bị chỉ trích bởi các nguồn sau này như Hà Trạch Thần Hội và các tác giả của Lịch đại pháp bảo ký (歷代法寶記). Xem thêm Con đường tơ lụa truyền bá Phật giáo Bồ-đề-đạt-ma Chú thích Tham khảo Hodge, Stephen (2009 & 2012). "The Textual Transmission of the Mahayana Mahaparinirvana-sutra" Đại sư Phật giáo Tín đồ Phật giáo Ấn Độ Thiền sư Ấn Độ
759
19828989
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nicholas%20Galitzine
Nicholas Galitzine
Nicholas Dimitri Constantine Galitzine (sinh ngày 29 tháng 9 năm 1994), là nam diễn viên người Anh. Sau lần đầu tiên xuất hiện trên sóng truyền hình trong 1 tập của series Legends năm 2015, anh đảm nhận vai chính trong 2 bộ film teen High Strung và Handsome Devil vào năm 2016. Sau đó, anh nhận được sự chú ý khi tham gia bộ phim kinh dị về năng lực siêu nhiên The Craft: Legacy (2020) và nhạc kịch Cinderella (2021), đồng thời, anh còn tham gia góp giọng vào các bài hát đi kèm trong nhạc kịch. Nick gây tiếng vang hơn với khán giả với bộ phim tình cảm Purple Hearts (2022) và Red, White, and Royal Blue (2023), và show hài người lớn Bottoms (2023). Tiểu sử Nicholas Dimitri Constantine Galitzine sinh ngày 29 tháng 09 năm 1994 tại Hammersmith, London, Anh. Anh mang họ Galitzine, gốc là Golitsyn, được hiểu là "Gia tộc Golitsyn" thuộc dòng dõi Hoàng gia Liên Xô. Cha của Nicholas, ông Geoffrey Leo Alexander Galitzine là dân kinh doanh và nhân viên tài chính tại London, hoạt động trong mảng tái chế thủy tinh. Mẹ của anh thuộc dòng máu Mỹ -Hy Lạp. Chị gái của Nick, Lexi Galitzine, là kỹ sư thiết kế đồ họa mảng nội thất. Thuở nhỏ, Nick học tại trường nội trú Dulwich College, hoạt động trong câu lạc bộ bóng bầu dục và bóng đá, thi đấu các trận đấu cấp quận tại London. Anh là thành viên của Harlequin Football Club và ngưng thi đấu sau chấn thương cơ chóp vai. Ngoài ra anh còn có năng khiếu trong việc chơi các loại đàn như đàn guitar, dương cầm, vĩ cầm, ca hát, cưỡi ngựa và boxing. Sự nghiệp Vai diễn đầu tiên của Nick là bộ phim The Beat Beneath My Feet (2014) do Luke Perry đóng chính, đồng thời tham gia thu âm các bản soundtrack của bộ phim này. Năm 2015, anh góp mặt trong 1 tập của series Legends, được tạp chí Screen International gọi là "Ngôi sao triển vọng". Năm 2016, anh tham gia vai chính của bộ phim Mỹ High Strung, trong vai nghệ sĩ violin trẻ thường đứng diễn tại một trạm tàu điện ngầm. Anh đóng vai một cậu học sinh gay kín trong một comedy Ireland Handsome Devil, bộ phim này được đề cử 15 giải thưởng tại Liên hoan Phim Truyền hình Ireland lần thứ 15. Năm 2017, anh tham gia phim huyền bí của New Zealand The Changeover. Trong bộ phim The Watcher in the Woods, anh diễn cùng nữ diễn viên người Mỹ Anjelica Huston từng đạt giải Oscar. Lần đầu tiên anh đóng vai chính phim truyền hình trong series kinh dị của Netflix Chambers. Năm 2019, anh tham gia bộ phim Share. Năm 2020, and đóng vai cậu nhóc tuổi teen bisexual Timmy trong The Craft: Legacy, phần mở rộng của The Craft. Năm 2021, anh đóng vai Prince Robert trong nhạc kịch Cinderella, xuất hiện trong 7 soundtrack của vở kịch. Ca khúc debut Comfort của anh ra mắt vào ngày 24 tháng Sáu năm 2022. Anh tham gia vào bộ phim Netflix Purple Heart, ra mắt vào 29 tháng 07 năm 2022. Năm 2023, Nick với vai trò 1 trong 2 nam chính của bộ phim LGBT tình cảm lãng mạn Red, White, and Royal Blue (dựa trên tiểu thuyết gốc cùng tên năm 2019), đóng vai Hoàng tử Anh Henry, cùng với bạn diễn Taylor Zakhar Perez. Anh đóng cùng Anne Hathaway trong bộ phim The Idea of You, trong vai thành viên của một ban nhạc nam. Anh cũng được chọn vào vai George Villiers trong series lịch sử Mary & George, cùng với Julianne Moore. Tài nguyên khác Năm 2023, Nicholas Galitzine được chọn là Đại sứ Toàn cầu đầu tiên về mảng Thời trang nam của thương hiệu thời trang cao cấp Fendi. Phim ảnh Phim điện ảnh Phim truyền hình Âm nhạc Đĩa đơn Ca khúc phát hành Tác phẩm tham gia Tham khảo Liên kết ngoài Nicholas Galitzine trên trang Rotten Tomatoes Nicholas Galitzine trên Instagram Nicholas Galitzine trên Twitter Sinh năm 1994 Nam diễn viên Nam diễn viên Anh
687
19828990
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A0nh%20ki%E1%BA%BFn%20v%E1%BB%81%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20M%E1%BB%B9%20tr%E1%BA%AFng
Thành kiến về người Mỹ trắng
Thành kiến về người Mỹ trắng (Stereotypes of white Americans) là những hình mẫu rập khuôn trong cách nhìn nhận về người Mỹ gốc Âu ở Hoa Kỳ (hay còn gọi là Người Mỹ da trắng hay người da trắng). Đó là những khái quát sai lệch về tính cách, hành vi hoặc ngoại hình của người Mỹ gốc Âu được nhìn nhận dưới con mắt của những người Mỹ khác ở Hoa Kỳ. Theo những cách nhìn nhận thành kiến này thì người Mỹ da trắng bị cho là tham lam, ham mê vật chất, thực dụng, phân biệt chủng tộc, họ sẽ không bao giờ là nạn nhân của những lời cay độc hay tội ác, căm thù, họ không văn vẻ (rhythm) và thường xuất thân từ những gia đình giàu có. Sinh viên đại học người Mỹ da trắng bị cho là không chịu học hành, tiệc tùng mọi lúc mọi nơi và bị cho là chả biết gì về thế giới bên ngoài. Đàn ông da trắng thường bị người thiểu số coi là phân biệt chủng tộc, tham lam, thực dụng, đặc quyền, kiêu ngạo và là những vũ công tồi. Phụ nữ da trắng bị coi là những con ngốc, hợm hĩnh, dễ dãi quan hệ, buông thả, phân biệt chủng tộc, nghiện mua sắm, không đáng tin, thiếu đức hạnh và định hướng nghề nghiệp. Trên các phương tiện truyền thông, người Mỹ da trắng thường bị coi là những người dân ngoại ô cổ cồn trắng thuộc tầng lớp trung lưu hoặc giàu có. Đàn ông da trắng thường bị coi là tham vọng, kiêu ngạo, thông minh, phân biệt chủng tộc và thiếu hợp tác. Người Mỹ gốc Phi tin rằng người da trắng có mùi cơ thể khó chịu, không thích ôm con, hay tàng trữ, ích kỷ và không đáng tin cậy và chỉ thành công nhờ màu da trắng của họ mà thôi. Người Mỹ da trắng cũng bị coi là những người có đặc quyền đặc lợi, rất ích kỷ, ảo tưởng về những người khác ngoài bản thân mình và không có khả năng hiểu được cách tồn tại của các nhóm thiểu số và người da màu. Người da trắng cũng có đặc điểm là vũ công tệ và chơi bóng rổ tệ. Những định kiến ​​tích cực về người Mỹ da trắng bao gồm việc họ là những người thông minh, đa dạng về mặt xã hội, không gây nguy hiểm và không có khả năng phạm tội. Định kiến tiêu cực về người da trắng là họ đều bị coi là phân biệt chủng tộc, thành kiến, thiên vị và thường cảm thấy sợ hãi hoặc bất an, khó chịu khi ở gần người thiểu số. Thành kiến Nói chung, thành kiến về người da trắng miêu tả người Mỹ da trắng thuộc tầng lớp thượng lưu là WASP (White Anglo-Saxon Protestants) và họ miêu tả người Mỹ da trắng thuộc tầng lớp thấp hơn là những kẻ lỗ mãng "lạc hậu", "ít học hành". Ngược lại, những người lỗ mãng bị coi là "phân biệt chủng tộc, nóng nảy, to xác, bạo lực, thô lỗ, ồn ào, xấu tính, thất học—và tự mãn về điều đó". Những định kiến khác về những kẻ lỗ mãng bao gồm sự loạn luân, lạm dụng các loại ma túy nặng như ma túy đá (Methamphetamine). Trong đại dịch COVID-19, phụ nữ da trắng thường được mệnh danh là người Karens theo những hình mẫu đặc trưng của họ trong khi thể hiện những hành vi không bình thường Tên tiếng lóng xuất phát từ tên chung của phụ nữ da trắng là Karen. Nghiên cứu Một nghiên cứu ban đầu về hình mẫu của người da trắng được tìm thấy trong các tác phẩm hư cấu do các tác giả người Mỹ gốc Phi viết đã được thực hiện bởi nhà xã hội học người Mỹ gốc Phi Tilman C. Cothran vào năm 1950. Năm phẩm chất hình mẫu hàng đầu của người da trắng mà Cothran ghi nhận trong nghiên cứu của mình là: Cảm thấy vượt trội Ghét người da đen Thô bạo, bốc đồng, xấu tính Tự mãn Không ưa người Do Thái. Những phẩm chất khuôn mẫu khác mà ông liệt kê là "họ nghĩ rằng họ biết về người da đen" nhưng thực thế thì không, hay những người Mỹ trắng vốn dĩ "không công bằng, lừa dối, gian xảo", "họ nghĩ rằng đó là thế giới của người da trắng" và "hèn nhát". Tilman nhận thấy rằng tầng lớp thượng lưu và hạ lưu da đen vào thời điểm đó có những định kiến ít thiện cảm nhất về người da trắng và thường thì tầng lớp trung lưu da đen là có thiện cảm nhất. Trong một nghiên cứu năm 1972, người Mỹ da trắng bị coi là "ham mê vật chất và đam mê lạc thú" khi so sánh với người Mỹ gốc Á và người Mỹ gốc Phi. Trong một nghiên cứu giữa các sinh viên đại học thuộc các chủng tộc khác nhau vào năm 1982, người Mỹ da trắng được mô tả là những người chạy theo chủ nghĩa vật chất, đầy tham vọng, thông minh, có truyền thống, cần cù và bảo thủ. Tác giả của nghiên cứu lưu ý rằng khuôn mẫu người da trắng đã giảm dần mức độ ưa chuộng trong những năm qua trong khi khuôn mẫu người da đen lại tăng lên. Trong một nghiên cứu năm 2013 thì phụ nữ da trắng nói riêng được những người tham gia khảo sát cho ý kiến không phải da trắng mô tả những phụ nữ Mỹ da trắng là những cô nàng hấp dẫn, khêu gợi, những cô ả tóc vàng, chưng diện nhưng nông cạn, có đặc quyền, sẵn sàng làm tình và chú trọng đến ngoại hình, vẻ bề ngoài. Tác giả của bài báo cũng nhận thấy rằng các khuôn mẫu này phù hợp với hình ảnh truyền thông về phụ nữ da trắng và lưu ý rằng nghiên cứu về khuôn mẫu người Mỹ da trắng tương đối hiếm hoi so với nghiên cứu về các khuôn mẫu chủng tộc khác. Trong một nghiên cứu năm 2018 về trẻ em thuộc các chủng tộc khác nhau, những đứa trẻ 6 tuổi chọn ảnh đàn ông da trắng là "thực sự thông minh" thay vì ảnh phụ nữ da trắng hoặc người da đen và da màu. Do định nghĩa xã hội về "người da trắng" đã thay đổi qua nhiều năm, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các thành viên thuộc các chủng tộc, sắc tộc và quốc tịch khác nhau có những định kiến khác nhau về người da trắng. Trước những năm 1980, các nhóm dân tộc như người Ái Nhĩ Lan, người Ý, người Armenia và người Ba Lan được miêu tả trên các phương tiện truyền thông và văn hóa đại chúng theo kiểu tiêu cực. Định kiến của người Tây Virginia và người Alabama bao gồm hay loạn luân và làm tình cận huyết. Người da trắng nghèo ở vùng Appalachian thường bị coi là dân miền núi. Văn hóa Trong văn hóa bình dân thì Becky và Karen đã được sử dụng làm thuật ngữ để chỉ những phụ nữ da trắng hành động một cách thiếu hiểu biết, trịch thượng hoặc có đặc quyền da trắng. Becky là từ lóng mang tính miệt thị của người Mỹ để chỉ một phụ nữ trẻ da trắng. Theo ban lãnh đạo phong trào Black Lives Matter thì thuật ngữ này được gắn với một "Cô gái da trắng yêu thích Starbucks và Uggs và không biết gì về các vấn đề chủng tộc và xã hội". Vì lý do này, "Becky" thường được gắn với thuật ngữ tiếng lóng có nhiều ý nghĩa tương tự. Vào năm 2019, nhà xuất bản từ điển Merriam Webster đã viết rằng "Becky" "ngày càng hoạt động như một tính từ và được sử dụng đặc biệt để chỉ một phụ nữ da trắng không biết gì về đặc quyền cũng như thành kiến của mình. Còn Thuật ngữ "Karen" có ý nghĩa tương tự nhưng gắn liền với phụ nữ lớn tuổi và với hàm ý thêm rằng Karen là những phụ nữ da trắng có khả năng manh động với người da màu, chẳng hạn như lúc nào cũng yêu cầu đòi gặp người quản lý hoặc gọi cảnh sát. Chú thích Định kiến Phân biệt chủng tộc Người da trắng thượng đẳng
1,428
19829014
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dan%20Gore
Dan Gore
Dan Gore (born 26 tháng 9, 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh chơi ở vị trí tiền vệ cho Manchester United. Anh ấy là cầu thủ quốc tế của U-18 Anh. Sự nghiệp Gore gia nhập học viện Manchester United vào năm 2018, trước đó từng chơi tại Burnley. Anh ấy đã vô địch 2022 FA Youth Cup cùng Manchester United. Anh ấy được bầu chọn là Cầu thủ của năm của đội dự bị của Manchester United cho Mùa giải 2022–23. In August 2023, as well as featuring for the club in the EFL Trophy, he was included in the Manchester United first team squad and on 26 August 2023 for the first time was named as a substitute in the Premier League match against Nottingham Forest. In September 2023, he was named as part of the match day squad in the UEFA Champions League against Bayern Munich. On 26 September 2023, he made his senior debut for Manchester United against Crystal Palace in the EFL Cup as a replacement for Sofyan Amrabat, largely impressing with his work rate and pace. International career Gore has represented England at under-18 level. He is also eligible for Ireland. Career statistics References 2004 births Living people English men's footballers England men's youth international footballers Men's association football midfielders
209
19829023
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B2a%20%C3%A1n%20l%C6%B0%C6%A1ng%20t%C3%A2m%20II
Tòa án lương tâm II
Toà án lương tâm II là một bộ phim truyền hình dài tập hiện đại của Hồng Kông do TVB sản xuất. Đây là phần tiếp theo của loạt phim đình đám năm 2011, Toà án lương tâm. Phần tiếp theo này có sự tham gia của dàn diễn viên gốc Trịnh Gia Dĩnh, Hồ Hạnh Nhi, Lý Xán Sâm và Lâm Tử Thiện cùng với sự bổ sung của dàn diễn viên mới Giả Hiểu Thần, Tào Vĩnh Liêm, Christine Kuo, và Giang Mỹ Nghi. Đằng Lệ Danh (đóng vai Tai-Ng Ting) và Quan Lễ Kiệt (đóng vai But Chik) đã không đóng lại vai của họ trong phần tiếp theo và được miễn tham gia loạt phim. Kịch bản Một năm rưỡi đã trôi qua kể từ sự kiện ở phần trước; La Lực Á được ra tù và bắt đầu lại cuộc sống ở Thâm Thủy Bộ. Một số người bạn đã đến và rời đi, nhưng người dân trong quận vẫn phải gánh chịu sự bất công, cả La Lực Á và Vương Tư Khổ đều tìm mọi cách để đòi lại công lý cho người dân địa phương. Diễn viên Trịnh Gia Dĩnh vai La Lực Á Hồ Hạnh Nhi vai Vương Tư Khổ Lý Xán Sâm vai Đinh Gia Phú Lâm Tử Thiện vai Mễ Tá Trị Giả Hiểu Thần vai Tào Vĩnh Liêm vai Trình Khả Vi vai Phan Tiểu Quỳnh Quan Lễ Kiệt vai Tất Trực Tần Hoàng vai Đinh Phúc Nguyên Giang Mỹ Nghi vai Vi Trân Ni Sản xuất Việc quay phim bắt đầu vào ngày 6 tháng 10, nơi buổi lễ thử trang phục và ban phước được tổ chức tại Bãi đậu xe Studio One của Thành phố TVB ở Tseung Kwan O, Hồng Kông lúc 12:30 trưa. Tỷ suất người xem Sau đây là bảng bao gồm danh sách tổng điểm xếp hạng dựa trên lượng người xem truyền hình. Tham Khảo Phim TVB Phim Hồng Kông Phim TVB năm 2012
328
19829029
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2n%20v%E1%BA%ADn%20%C4%91%E1%BB%99ng%20Luz
Sân vận động Luz
Sân vận động Luz, ), tên chính thức là Sân vận động thể thao Lisboa và Benfica, là một sân vận động đa năng nằm ở Lisbon, Bồ Đào Nha. Nó được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá của hiệp hội, tổ chức các trận đấu trên sân nhà của câu lạc bộ Bồ Đào Nha SL Benfica, chủ sở hữu của nó. Khai trương vào ngày 25 tháng 10 năm 2003 với trận đấu biểu diễn giữa Benfica và câu lạc bộ Nacional của Uruguay, sân thay thế cho sân vận động Luz ban đầu, có 120.000 chỗ ngồi. Sức chứa đã giảm xuống còn 65.647 và hiện ở mức 64.642. Sân vận động được thiết kế bởi HOK Sport Venue Event và có chi phí xây dựng là 162 triệu euro. Là sân vận động loại 4 của UEFA và là một trong những sân vận động có sức chứa lớn nhất ở châu Âu (lớn nhất ở Bồ Đào Nha), sân vận động Luz đã tổ chức một số trận đấu của Euro 2004, bao gồm cả trận chung kết, cũng như trận chung kết năm 2014 và 2020 của UEFA Champions League. Nó được bầu chọn là sân vận động đẹp nhất châu Âu trong cuộc thăm dò trực tuyến năm 2014 của L'Équipe. Vào sinh nhật lần thứ 15 của mình, sân vận động thể thao Lisboa và Benfica Luz đã chào đón hơn 17 triệu khán giả. Lịch sử Tham khảo Liên kết ngoài
249
19829092
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20qu%E1%BA%A7n%20v%E1%BB%A3t%20M%E1%BB%B9%20M%E1%BB%9F%20r%E1%BB%99ng%202023%20-%20%C4%90%C3%B4i%20nam
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2023 - Đôi nam
Rajeev Ram và Joe Salisbury là đương kim vô địch và bảo vệ thành công danh hiệu, đánh bại Rohan Bopanna và Matthew Ebden trong trận chung kết, 2–6, 6–3, 6–4. Ram và Salisbury trở thành đôi đầu tiên giành ba danh hiệu Mỹ Mở rộng liên tiếp trong Kỷ nguyên Mở. Ở tuổi 43 và 6 tháng, Bopanna trở thành tay vợt cao tuổi nhất vào trận chung kết Grand Slam trong Kỷ nguyên Mở, vượt qua kỷ lục của Daniel Nestor với 43 tuổi 4 tháng tại Giải quần vợt Úc Mở rộng 2016. Austin Krajicek giành lại vị trí số 1 bảng xếp hạng đôi ATP khi giải đấu kết thúc sau khi Neal Skupski thua ở vòng 3. Đây là giải đấu cuối cùng của cựu tay vợt số 1 đôi thế giới và nhà vô địch Grand Slam Robert Farah và Juan Sebastián Cabal; cả hai thua ở vòng 2. Đây cũng là giải đấu chuyên nghiệp cuối cùng của huy chương vàng Thế vận hội và nhà vô địch 4 danh hiệu đôi Grand Slam Jack Sock; anh và John Isner thua ở vòng 1. Hạt giống Kết quả Chung kết Nửa trên Section 1 Nhánh 2 Nửa dưới Nhánh 3 Nhánh 4 Vận động viên khác Đặc cách Bảo toàn thứ hạng Thay thế Rút lui Guido Andreozzi / Francisco Cerúndolo → thay thế bởi Denys Molchanov / David Pel Alexander Bublik / Alexander Shevchenko → thay thế bởi Aslan Karatsev / Saketh Myneni Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả Đôi nam Giải quần vợt Mỹ Mở rộng - Đôi nam Giải quần vợt Mỹ Mở rộng theo năm - Đôi nam
266
19829180
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20777%20c%E1%BB%A7a%20H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20B%E1%BA%A3o%20an%20Li%C3%AAn%20H%E1%BB%A3p%20Qu%E1%BB%91c
Nghị quyết 777 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc
Nghị quyết 777 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc được nhất trí thông qua vào ngày 19 tháng 9 năm 1992. Sau khi tái khẳng định Nghị quyết 743 (1992) và tất cả các nghị quyết kế tiếp về chủ đề này, Hội đồng cho rằng, với việc Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư (SFRY) đã giải thể, cùng với Nghị quyết 757 (1992), yêu cầu của Cộng hòa Liên bang Nam Tư (Serbia và Montenegro) về kế tục tư cách thành viên sẽ không được chấp nhận rộng rãi và do đó xác định rằng tư cách thành viên của SFRY tại Liên Hợp Quốc không thể tiếp tục. Vì vậy, Hội đồng báo cáo với Đại Hội đồng rằng Cộng hòa Liên bang Nam Tư (Serbia và Montenegro) đã ngừng tham gia Đại Hội đồng và nộp đơn xin gia nhập Liên Hợp Quốc. Dự thảo nghị quyết ban đầu của Hoa Kỳ tuyên bố rằng Đại Hội đồng xác nhận "tư cách thành viên của Nam Tư ở Liên Hợp Quốc sẽ bị hủy bỏ", tuy nhiên điều này đã bị hủy bỏ để có được sự ủng hộ của Nga và bản thân nghị quyết vẫn có thể được diễn giải theo nhiều cách khác nhau. Nga và Trung Quốc đã bác bỏ ý kiến khai trừ Cộng hòa Liên bang Nam Tư ra khỏi tất cả các cơ quan của Liên Hợp Quốc, cho rằng công việc của nước này trong các cơ quan khác sẽ không bị ảnh hưởng. Trong khi đó, Ấn Độ và Zimbabwe (đồng minh truyền thống của Nam Tư thông qua Phong trào không liên kết) cho rằng Nghị quyết 777 đã vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc, cụ thể là Điều 5 và 6. Nghị quyết cũng tuyên bố sẽ xem xét vấn đề này trước khi phiên họp thứ 47 của Đại Hội đồng kết thúc. Nghị quyết được thông qua với 12 phiếu thuận, không có phiếu chống, 3 phiếu trắng của Trung Quốc, Ấn Độ và Zimbabwe. Ngày 22 tháng 9 năm 1992, Đại Hội đồng đã thông qua quyết định của Hội đồng Bảo an trong Nghị quyết 47/1, với 127 phiếu thuận, 6 phiếu chống và 26 phiếu trắng, mặc dù ảnh hưởng của văn bản đã yếu đi do loại bỏ cụm từ "xem xét rằng nhà nước trước đây gọi là Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư đã không còn tồn tại." Từ năm 1992 đến năm 2000, Cộng hòa Liên bang Nam Tư đã từ chối tái đăng ký làm thành viên của Liên Hợp Quốc và Ban Thư ký Liên Hợp Quốc, dù các cơ quan này đã cho phép phái đoàn từ SFRY tiếp tục hoạt động và công nhận các đại diện của Cộng hòa Liên bang Nam Tư với vai trò kế tục sứ mệnh của SFRY và tiếp tục làm việc trong các cơ quan khác nhau của Liên Hợp Quốc. Xem thêm Sự tan rã của Nam Tư Chiến tranh Nam Tư Tham khảo Liên kết ngoài Text of the Resolution at undocs.org Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc Serbia và Montenegro Sự kiện tháng 9 năm 1992‎
540
19829203
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sinh%20v%E1%BA%ADt%20trong%20%C4%91%E1%BB%9Di%20s%E1%BB%91ng%20con%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di
Sinh vật trong đời sống con người
Sinh vật sống đóng vai trò quan trọng trong đời sống và văn hóa của con người, từ xa xưa, loài người đã khai thác sử dụng các sinh vật sống bao gồm động vật thực vật, nấm các loại và vi khuẩn dưới nhiều hình thức, cả về mặt thực tế như sản xuất thức ăn, thực phẩm và quần áo cho nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, lẫn khía cạnh văn hóa đời sống như biểu tượng trong nghệ thuật, thần thoại và tôn giáo. Các kỹ năng và thực tiễn liên quan được truyền tải vào nền văn hóa con người thông qua học tập xã hội lấy cảm hứng và thực tế từ các sinh vật dạng sống. Các ngành khoa học xã hội bao gồm khảo cổ học, nhân chủng học và dân tộc học đang bắt đầu có cái nhìn đa loài về sự tương tác của con người với thiên nhiên, trong đó các sinh vật sống không chỉ là tài nguyên cần được khai thác, về mặt thực tế hay biểu tượng, mà còn tham gia với tư cách là những người tham gia. Dẫn luận Trong các sinh vật sốt thì các loài thực vật cung cấp phần lớn nguồn thức ăn cho con người và vật nuôi, trong đó hệ thực vật giữ vai trò chủ đạo trong văn hóa và văn minh của con người hình thành thông qua nông nghiệp khi nhiều loại cây trồng đã được sử dụng làm lương thực, một số ít cây trồng chủ yếu bao gồm lúa mì, lúa gạo và ngô cung cấp hầu hết lương thực trên thế giới ngày nay. Bên cạnh đó, các loài động vật cung cấp phần lớn lượng thịt cho con người ăn, dù được chăn nuôi hay săn bắn, và cho đến khi có phương tiện vận tải cơ giới hóa, các loài thú trên cạn đã cung cấp một phần lớn năng lượng để sử dụng cho công việc và vận chuyển. Nhiều sinh vật sống đóng vai trò là sinh vật mô hình trong nghiên cứu sinh học, chẳng hạn như di truyền học và thử nghiệm thuốc. Cho đến thế kỷ 19, thực vật đã sản xuất ra hầu hết các loại thuốc được sử dụng phổ biến, như Dioscorides đã mô tả vào thế kỷ thứ nhất. Thực vật là nguồn cung cấp nhiều loại thuốc kích thích thần kinh, một số loại như coca đã được sử dụng hàng nghìn năm. Nấm men, một loại nấm, đã được sử dụng để lên men các loại ngũ cốc như lúa mì và lúa mạch để làm bánh mì và bia; các loại nấm khác như nấm Psilocybe và nấm bay giống nấm hương đã được dùng làm thuốc thần kinh. Nhiều loài động vật được nuôi làm thú cưng, phổ biến nhất là các loài thú, đặc biệt là chó và mèo. Cây cối được con người trồng để làm thú thưởng ngoạn trong vườn và nhà kính, cho hoa, bóng mát và tán lá trang trí; một số, chẳng hạn như xương rồng, có thể chịu được điều kiện khô hạn thì được trồng làm cây trồng trong nhà. Các loài động vật như ngựa và hươu là một trong những chủ đề nghệ thuật sớm nhất còn gọi là nghệ thuật thời tiền sử, được tìm thấy trong các bức tranh hang động thời kỳ đồ đá cũ như ở hang Lascaux. Các sinh vật sống còn đóng nhiều vai trò biểu tượng khác nhau trong văn chương, phim ảnh, thần thoại và tôn giáo. Đôi khi một căn bệnh nghiêm trọng như bệnh lao do vi khuẩn lao gây ra lại đóng một vai trò quan trọng trong văn hóa, trong trường hợp của nó vì lý do nào đó có liên quan đến sự sáng tạo nghệ thuật. Văn hóa bao gồm các hành vi và chuẩn mực xã hội được tìm thấy trong xã hội loài người và được truyền tải thông qua học tập xã hội. Phổ quát văn hóa trong tất cả các xã hội loài người bao gồm các hình thức biểu đạt như nghệ thuật, âm nhạc, khiêu vũ, nghi lễ, tôn giáo và công nghệ như cách sử dụng công cụ, nấu ăn, chỗ ở và quần áo. Khái niệm văn hóa vật chất bao gồm các biểu hiện vật chất như công nghệ, kiến trúc và nghệ thuật, trong khi văn hóa phi vật chất bao gồm các nguyên tắc tổ chức xã hội, thần thoại, triết học, văn học và khoa học Thuật ngữ "văn hóa sinh học" (bioculture) đã được sử dụng để bao hàm tất cả các ứng dụng thực tế (nhưng không mang tính biểu tượng) của các sinh vật sống trong văn hóa, bao gồm nông nghiệp, sản xuất thực phẩm và quần áo, lâm nghiệp, chăn nuôi và huấn luyện động vật, buôn bán vật nuôi, sử dụng cuộc sống. những thứ trong khoa học, vườn thú và thủy cung, các môn thể thao động vật và chăn nuôi động vật để săn bắn thể thao. Các học giả về văn hóa nhân loại theo truyền thống chia việc sử dụng sinh vật thành hai loại gồm sử dụng thực tế để làm thức ăn và các tài nguyên khác; và sử dụng mang tính biểu tượng như trong nghệ thuật và tôn giáo. Gần đây hơn, các học giả đã bổ sung thêm một loại tương tác thứ ba, trong đó các sinh vật sống, dù là động vật, thực vật, nấm hay vi khuẩn đều đóng vai trò là người tham gia. Điều này làm cho các mối quan hệ trở nên hai chiều, ngụ ý rõ ràng nhiều hình thức cộng sinh khác nhau trong một hệ sinh thái phức tạp. Chú thích Xem thêm Sinh học trong tác phẩm giả tưởng Người ngoài hành tinh trong tác phẩm giả tưởng Hình thù côn trùng Văn hóa
1,000
19829214
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jacob%20Mendy
Jacob Mendy
Jacob Mendy Mendy (sinh ngày 27 tháng 12 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Gambia hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Wrexham tại EFL League Two. Sự nghiệp Trẻ Mendy được sinh ra tại Faji Kunda, Gambia trước khi chuyển đến Parla, gần Madrid năm 6 tuổi. Khi còn là cầu thủ trẻ, Mendy chơi cho Parla và Atlético Casarrubuelos. Sự nghiệp thi đấu Anh gia nhập Atlético Madrid C một thời gian ngắn trước khi đội bóng giải thể vào năm 2015. Sau đó, anh có một khoảng thời gian ngắn với Puerta Bonita, trước khi chuyển đến Anh. Năm 2017, anh ký hợp đồng với đội bóng hạng 9 của Anh Redhill, ghi 13 bàn sau 40 trận. Năm 2018, anh ký hợp đồng với Carshalton Athletic ở giải hạng 7 nước Anh, ghi 8 bàn sau 46 trận. Năm 2019, Mendy ký hợp đồng với câu lạc bộ hạng sáu của Anh, Wealdstone, giúp họ được thăng hạng lên National League. Năm 2021, anh ký hợp đồng với Boreham Wood ở giải hạng năm nước Anh. Năm 2022, anh ký hợp đồng với Wrexham. Sự nghiệp quốc tế Vào ngày 6 tháng 6 năm 2023, có thông báo rằng Mendy được điền tên trong đội hình của đội tuyển Gambia chuẩn bị cho trận gặp Nam Sudan tại vòng loại Cúp bóng đá châu Phi vào ngày 14 tháng 6 năm 2023. Đời tư Mendy nói được 4 thứ tiếng, bao gồm tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anh, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Manjak, và có đủ điều kiện để đại diện cho Gambia, cùng với Guiné-Bissau, Sénégal và Tây Ban Nha trên đấu trường quốc tế. Người em họ Carlos Mendes Gomes cũng là một cầu thủ bóng đá. Khi chuyển tới Anh, anh làm thợ xây, người dọn dẹp và người thu gom rác. Danh hiệu Wrexham National League: 2022–23 Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1996 Nhân vật còn sống Hậu vệ bóng đá Hậu vệ bóng đá nam Cầu thủ bóng đá Gambia Cầu thủ bóng đá nam Gambia Cầu thủ bóng đá Atlético Madrid Cầu thủ bóng đá Redhill F.C. Cầu thủ bóng đá Carshalton Athletic F.C. Cầu thủ bóng đá Wealdstone F.C. Cầu thủ bóng đá Boreham Wood F.C. Cầu thủ bóng đá Wrexham A.F.C. Cầu thủ bóng đá English Football League Cầu thủ bóng đá National League (bóng đá Anh) Cầu thủ bóng đá Isthmian League Cầu thủ bóng đá Gambia ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Wales Người Gambia gốc Sénégal Người Gambia gốc Guiné-Bissau
430
19829216
https://vi.wikipedia.org/wiki/Barbra%20Banda
Barbra Banda
Barbra Banda (sinh ngày 20 tháng 3 năm 2000 tại Lusaka, Zambia) là một cựu vận động viên boxing kiêm cầu thủ bóng đá hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Trung Quốc Shanghai Shengli và là đội trưởng của Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Zambia. , cô là nữ cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho bóng đá châu Phi trong lịch sử các kỳ Thế vận hội Mùa hè. Năm 2021, cô lập kỷ lục khi ghi 2 cú hat-trick liên tiếp vào lưới của Hà Lan và Trung Quốc tại môn bóng đá nữ của Thế vận hội Mùa hè 2020 diễn ra trên đất Nhật Bản. Vào năm 2020, cô là vua phá lưới tại Giải bóng đá nữ Ngoại hạng Trung Quốc. Vào tháng 9 năm 2022, cô cùng tuyển Zambia giành chức vô địch tại Giải vô địch bóng đá nữ COSAFA 2022, một giải đấu bóng đá nữ dành cho các đội tuyển quốc gia đến từ khu vực Nam Phi. 10 bàn thắng tại giải đấu đã giúp cô mang về danh hiệu Vua phá lưới. Tiểu sử Barbra Banda sinh ngày 20 tháng 3 năm 2000 tại Lusaka, Zambia. Cô bắt đầu nên duyên với bóng đá vào năm 7 tuổi khi cô chơi môn thể thao này ở trên đường phố. Banda được truyền cảm hứng từ người cha của cô, người đã dạy cô cách chơi bóng và khuyến khích cô tập luyện. Cô thi đấu cùng đội nam vì học viện nơi cô đang theo học không có đội nữ. Sau khi được truyền cảm hứng từ vận động viên boxing chuyên nghiệp người Zambia Catherine Phiri, cô bén duyên với boxing từ năm 14 tuổi. Cô đã thi đấu boxing chuyên nghiệp 5 trận và toàn thắng cả 5 trước khi trở thành cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp. Sự nghiệp câu lạc bộ EDF Logroño, 2018–2019 Banda đã ký hợp đồng với câu lạc bộ hạng nhất của Tây Ban Nha EDF Logroño vào tháng 10 năm 2018, qua đó trở thành nữ cầu thủ đầu tiên Zambia thi đấu ở châu Âu. Cô đã ghi được 16 bàn thắng sau 28 trận thi đấu cho câu lạc bộ này. Shanghai Shengli, 2020–nay Vào tháng 1 năm 2020, cô đã ký hợp đồng với câu lạc bộ đang thi đấu tại Giải bóng đá nữ Ngoại hạng Trung Quốc Shanghai Shengli. Cô ghi bàn ở phút thứ 23 ngay trong trận ra mắt đội bóng mới vào ngày 23 tháng 8 năm 2020. Banda tiếp tục ghi 18 bàn sau 13 trận đấu tại giải đấu và giúp cô nhận được danh hiệu Chiếc giày vàng với nhiều bàn thắng nhất giải đấu. Sự nghiệp thi đấu quốc tế Cấp độ trẻ Banda đại diện cho U-17 nữ Zambia tham dự Giải vô địch bóng đá nữ U-17 thế giới 2014 diễn ra tại Costa Rica. Cô tham dự giải đấu này khi mới bước sang tuổi 14. Cấp độ đội tuyển quốc gia Vào ngày 6 tháng 3 năm 2016, cô ra mắt cho đội tuyển quốc gia bằng trận đấu với Namibia tại Vòng loại Cúp bóng đá nữ châu Phi 2016. Cô được bầu làm đội trưởng của đội tuyển nữ Zambia tham dự Thế vận hội Mùa hè 2020 diễn ra tại Tokyo, Nhật Bản, và cũng là lần đầu tiên Zambia tham dự một giải đấu quốc tế. Trong trận đấu ra quân với Hà Lan, cô đã lập một cú hat-trick trong trận thua đậm với tỷ số 3–10, đó cũng là trận thua đậm nhất trong lịch sử bóng đá nữ Zambia, và cũng là tỷ số đậm nhất của bộ môn bóng đá nữ trong lịch sử các kỳ Thế vận hội Mùa hè. Ở trận đấu thứ hai với Trung Quốc, một lần nữa cô lập hat-trick trong trận hòa 4–4, đồng thời giúp cô trở thành cầu thủ bóng đá nữ đầu tiên lập 2 cú hat-trick trong lịch sử các kỳ Thế vận hội Mùa hè. Cô cũng là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho châu Phi trong lịch sử các kỳ Thế vận hội Mùa hè. Vào ngày 6 tháng 7 năm 2022, Banda cùng ba người đồng đội, trong đó có tiền đạo Racheal Kundananji bị Liên đoàn bóng đá châu Phi ra quyết định không đủ điều kiện để thi đấu cho đội tuyển nữ Zambia trong các trận đấu thuộc vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới và Cúp bóng đá nữ châu Phi, sau một cuộc kiểm tra xác minh giới tính cho thấy, hàm lượng testosterone tự nhiên của họ quá cao. Quyết định này của CAF đã gây ra nhiều tranh cãi, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã mô tả rằng, đó là một "sự vi phạm rõ ràng" nhân quyền của Banda. Vào tháng 8 năm 2022, sau khi tuyển nữ Zambia giành hạng ba tại Cúp bóng đá nữ châu Phi 2022 (mặc dù Banda không thi đấu), cô và 7 người đồng đội của mình đã được Quân đội Zambia thăng quân hàm, còn Banda được phong quân hàm Trung sĩ. Vào tháng 9 năm 2022, cô cùng tuyển Zambia giành chức vô địch tại Giải vô địch bóng đá nữ COSAFA 2022, một giải đấu bóng đá nữ dành cho các đội tuyển quốc gia đến từ khu vực Nam Phi. 10 bàn thắng tại giải đấu đã giúp cô mang về danh hiệu Vua phá lưới. Vào tháng 6 năm 2023, cô được điền tên vào danh sách của đội tuyển nữ Zambia tham dự Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 diễn ra tại Úc và New Zealand sau khi được FIFA ra phán quyết đủ điều kiện thi đấu cho đội tuyển này vào tháng 12 năm 2022. Vào ngày 7 tháng 7 năm 2023, cô lập cú đúp trong trận giao hữu với đội tuyển đang đứng thứ 2 thế giới lúc bấy giờ, Đức và giành chiến thắng gây sốc với tỷ số 3–2 ngay trên đất Đức. Vào ngày 31 tháng 7 năm 2023, tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023, cô đã giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu khi giúp cho Zambia giành chiến thắng trước Costa Rica với tỷ số 3–1. Bàn thắng quốc tế Danh hiệu Zambia Giải vô địch bóng đá nữ COSAFA: 2022 Giải thưởng cá nhân Vua phá lưới Giải bóng đá nữ Ngoại hạng Trung Quốc: 2020 Vua phá lưới Giải vô địch bóng đá nữ COSAFA: 2022 Một số công việc khác Năm 2021, Banda thành lập một quỹ mang tên nhằm hỗ trợ các chương trình thúc đẩy quyền phụ nữ và trẻ em gái để giải quyết các vấn đề bất bình đẳng kinh tế, bạo lực trên cơ sở giới, thiếu khả năng tiếp cận bình đẳng, mang thai ở tuổi vị thành niên và kết hôn sớm do sử dụng sức mạnh của thể thao. Quỹ cũng tổ chức một giải đấu bóng đá hàng năm. Trong dự án này, cô nói rằng: Cô cũng tham gia vào dự án thiện nguyện Common Goal từ năm 2019 và cam kết dành ít nhất 1% tiền lương của mình cho một quỹ tập thể để hỗ trợ các tổ chức từ thiện bóng đá trên toàn thế giới. Đời tư Banda luôn coi Cristiano Ronaldo là cầu thủ mà cô ngưỡng mộ nhất. Tham khảo Liên kết ngoài Barbra Banda trong Ủy ban Olympic quốc tế Barbra Banda trong GOAL Nhân vật còn sống Sinh năm 2000 Tiền đạo bóng đá nữ Người Zambia
1,277
19829218
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%91i%E1%BB%87n%20t%E1%BB%AD%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022%20-%20Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91%E1%BA%A5u%20PUBG%20Mobile
Thể thao điện tử tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 - Giải đấu PUBG Mobile
Nội dung thi đấu PUBG Mobile phiên bản Đại hội Thể thao châu Á 2022 tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 diễn ra từ ngày 27 tháng 9 đến ngày 01 tháng 10 năm 2023 tại Hàng Châu, Trung Quốc. Phiên bản Đại hội Thể thao châu Á 2022 Khác với PUBG Mobile phiên bản thông thường, phiên bản được sử dụng để thi đấu tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 mang tên Bắn súng địa hình, sẽ tận dụng và kết hợp nhiều trải nghiệm trong trò chơi như bắn súng mục tiêu và đua xe. Lối chơi cổ điển của PUBG Mobile kết hợp các yếu tố trong các bộ môn thể thao cạnh tranh giống như ba môn phối hợp, tạo nên một nội dung thi đấu Thể thao điện tử phù hợp với tinh thần thể thao và tầm nhìn Thế vận hội, giảm đi những yếu tố bạo lực. "Chúng tôi không thể đưa vào chương trình Olympic một trò chơi mang yếu tố thúc đẩy bạo lực hoặc phân biệt đối xử. Một số trò chơi còn theo dạng sát thủ. Theo quan điểm của chúng tôi, những điều này mâu thuẫn sâu sắc với giá trị Olympic và do đó không thể được chấp nhận" - Thomas Bach, Chủ tịch Ủy ban Olympic Quốc tế, nói về sự thay đổi của PUBG Mobile ở phiên bản Đại hội Thể thao châu Á 2022 cũng như khả năng xuất hiện của các môn Thể thao điện tử tại chương trình Olympic. Quốc gia tham dự Sẽ có tổng cộng 21 quốc gia tham gia thi đấu nội dung PUBG Mobile môn Thể thao điện tử tại Đại hội thể thao châu Á 2022: Thể thức thi đấu Mỗi trận đấu sẽ bao gồm 4 đội tuyển đến từ 4 quốc gia khác nhau, mỗi đội tuyển bao gồm 4 vận động viên tham gia thi đấu. Mỗi trận đấu sẽ bao gồm 4 lượt đấu. Mỗi lượt đấu sẽ có thời gian thi đấu tối đa là 30 phút. Đội tuyển có tổng thời gian hoàn thành của 4 lượt đấu sớm hơn sẽ giành được thứ hạng cao hơn. Trong mỗi lượt đấu, sẽ xuất hiện 10 điểm hướng dẫn, các vận động viên cần phải đi qua 10 điểm hướng dẫn. Ngoài ra, trên đường đi sẽ xuất hiện những mục tiêu, các vận động viên có thể bắn những mục tiêu để tăng tốc độ di chuyển. Sau khi đi qua 10 điểm hướng dẫn, các đội tuyển sẽ đến khu vực bắn mục tiêu, tại đây, các đội tuyển sẽ có nhiệm vụ bắn các mục tiêu để đạt được đủ số điểm yêu cầu, số điểm sẽ thay đổi dựa theo từng vòng đấu. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ bắn mục tiêu, các đội tuyển cũng cần điều khiển phương tiện về đích để hoàn thành cuộc đua. Thời gian hoàn thành ván đấu được tính khi vận động viên cuối cùng của đội vượt qua vạch đích. Vòng Sơ loại Thể thức: Các quốc gia không tham gia giải đấu RDAG sẽ tham gia thi đấu ở Vòng sơ loại. 2 đội đứng đầu sẽ đi tiếp vào Vòng loại 1. Các đội còn lại sẽ tham gia thi đấu ở Vòng loại 2. Nguồn : AESF Vòng loại 1 Thể thức: 16 quốc gia sẽ được chia đều thành 4 bảng đấu, mỗi bảng 4 đội. Các đội đứng đầu của mỗi bảng và đội đứng thứ 2 có thành tích tốt nhất sẽ đi tiếp vào Vòng loại trực tiếp. 11 đội còn lại sẽ tham gia thi đấu ở Vòng loại 2. Bảng A Nguồn : AESF Bảng B Nguồn : AESF Bảng C Nguồn : AESF Bảng D Nguồn : AESF Bảng xếp hạng các đội đứng thứ hai Vòng loại 2 Thế thức: 12 quốc gia sẽ được chia đều thành 3 bảng đấu, mỗi bảng 4 đội. 2 đội đứng đầu của mỗi bảng và đội đứng thứ 3 có thành tích tốt nhất sẽ đi tiếp vào Vòng loại trực tiếp. 5 đội còn lại sẽ bị loại. Bảng A Bảng B Bảng C Bảng xếp hạng các đội đứng thứ ba Vòng loại trực tiếp Thể thức: 16 quốc gia sẽ được chia đều thành 4 bảng đấu, mỗi bảng 4 đội. 4 đội vô địch khu vực của giải đấu RDAG sẽ được chia vào 4 bảng khác nhau. 2 đội đứng đầu của mỗi bảng sẽ đi tiếp vào Vòng Bán kết. 8 đội còn lại bị loại. Bảng A Bảng B Bảng C Bảng D Vòng Bán kết Thể thức: 8 quốc gia sẽ được chia đều thành 2 bảng đấu dựa trên thành tích ở Vòng loại trực tiếp, mỗi bảng 4 đội. 2 đội đứng đầu của mỗi bảng sẽ đi tiếp vào Vòng Chung kết. 4 đội còn lại bị loại. Bảng A Bảng B Vòng Chung kết Danh sách huy chương Thứ hạng chung cuộc Tham khảo
792
19829223
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BB%AFng%20ch%C3%BA%20th%E1%BB%8F%20s%E1%BA%B7c%20s%E1%BB%A1
Những chú thỏ sặc sỡ
Những chú thỏ sặc sỡ (tiếng Anh: Sunny Bunnies; tiếng Ba Lan: Słoneczne Zajączki) là loạt phim hoạt hình dành cho trẻ em hoạt hình trên máy tính do Digital Light Studio sản xuất (trong 6 mùa đầu tiên và một phần của mùa thứ 7) và Animation Café (từ mùa 7 trở đi). Bộ phim bao gồm bảy phần đầy đủ, mỗi phần có 26 tập. Phần thứ bảy được ra mắt vào ngày 17 tháng 2 năm 2022 và đang phát sóng trên YouTube. Nhũng chú thỏ sặc sỡ được phát sóng tại hơn 160 quốc gia trên toàn thế giới, và kênh YouTube của bộ phim ra mắt vào tháng 4 năm 2016 với sự hỗ trợ quản lý từ mạng trẻ em trực tuyến WildBrain thuộc sở hữu của DHX. Nội dung Bộ phim kể về một nhóm thỏ sắc màu sống dưới ánh mặt trời. Trong mỗi tập phim, họ xuất hiện ở những địa điểm dường như được chọn ngẫu nhiên, từ công viên địa phương và nhiều địa điểm khác trên khắp thế giới, và trong hai dịp riêng biệt, xa hơn nữa. Trong những nỗ lực này, các nhân vật thường xung đột với nhau và xung đột, để lại dấu vết hỗn loạn và hủy diệt sau lưng họ. Trái ngược với hầu hết các chương trình dành cho trẻ em khác, Những chú thỏ sặc sỡ sử dụng rất nhiều sự hài hước phi lý và hài hước để tạo nên sự hài hước. Vào cuối mỗi tập, là hậu trường một số "lỗi" được giới thiệu, cho thấy điều gì đó đang xảy ra trong quá trình sản xuất tập phim hoặc một đoạn clip từ chính tập phim đó. Loạt phim tập trung nhiều vào các nhân vật, tính cách của họ, mối quan hệ gần như không ổn định của họ với nhau và động lực của họ, chẳng hạn như tính cách người đàn ông thẳng thắn của Turbo xung đột nặng nề với những hành động hiếu động và thường ngu ngốc của Hopper. Nhân vật Chính Turbo (chú thỏ màu da cam, 5 tuổi; Dmitri Davidovich lồng tiếng) là thủ lĩnh được chỉ định là người bảo vệ quá mức, nóng nảy và đôi khi kiêu ngạo trong số những chú thỏ khác. Anh quan tâm, thông minh và tự tin, nhưng hơi hách dịch và hay kiểm soát bạn bè. Anh ta thường đóng vai trò là người thẳng thắn trước những trò hề điên rồ của những người khác, đặc biệt là những trò do Hopper tạo ra. "Big" Boo (chú thỏ màu hồng, 6 tuổi; Dmitri Davidovich lồng tiếng) thường xuyên quan tâm đến người khác. Anh là chú thỏ lớn nhất trong nhóm và yêu thích kem lạnh, đến mức trong một số tập phim, người ta hiếm khi thấy anh ấy không có nó. Đôi khi anh có vẻ hơi ngốc nghếch nhưng thực ra anh ấy rất thông minh và tốt bụng, mặc dù đôi khi hơi mất tập trung. Iris (chú thỏ màu tím, 4 tuổi; Svetlana Tsimokhina lồng tiếng) là một trong những chú thỏ thông minh nhất. Cô có Shiny là em gái và họ có xu hướng làm mọi việc cùng nhau. Cô luôn đeo một chiếc nơ lớn màu hồng (có chấm trắng) và không thích khi chiếc nơ của mình bị thất lạc hoặc bị đánh cắp. Iris còn hiểu biết về phép thuật. Shiny (chú thỏ màu xanh lam nhạt, 3 tuổi; Svetlana Tsimokhina lồng tiếng) là một chú thỏ tốt bụng và khá nhạy cảm. Cô luôn cài một bông hoa trên tóc. Shiny cùng với Iris là chị em và dành thời gian chơi đùa với nha. Cô ấy là chú thỏ duy nhất có mái tóc giống người. Hopper (chú thỏ màu xanh lục, 2 tuổi; Svetlana Tsimokhina lồng tiếng). Bất chấp thái độ dễ thương của mình, anh ấy là thành viên tinh nghịch, nóng nảy và thiếu kiên nhẫn nhất, và phần lớn tình tiết hài của chương trình đều do những trò hề của anh ấy và tình trạng lộn xộn mà anh ấy tạo ra, đặc biệt là từ rất sớm. Bất chấp tất cả những khuyết điểm có vẻ phản kháng của mình, anh ấy vẫn quan tâm đến bạn bè của mình, với những hành động thường vui tươi thay vì hoàn toàn có ý đồ xấu, anh ta thường phải gánh chịu hậu quả một cách ngoạn mục, do bạn bè của anh ta đón gió và trả đũa hoặc kế hoạch của chính anh ta phản tác dụng một cách hài hước và thường là vô nghĩa. Phụ Sói xám (The Big Gray Wolf) (Dmitri Davidovich lồng tiếng) là nhân vật phản diện chính của phần 2 và 3. Ra mắt trong tập phim cùng tên, con sói đến từ mặt trăng và lập ra nhiều kế hoạch để bẫy và ăn thịt những chú Thỏ, nhưng luôn bị lừa hoặc đánh mất chúng, thường là do vô tình. Người máy S-Marty (Dmitri Davidovich lồng tiếng) là một cư dân mới ở Sunny Park ra mắt trong phần 5. S-Marty là một người máy có trật tự và đúng giờ, người đang để mắt đến mức độ gọn gàng của công viên. Trò chơi điện tử Sunny Bunnies: Magic Pop Vào tháng 10 năm 2018, đã có thông báo rằng một trò chơi điện tử Sunny Bunnies chính thức đang được phát triển bởi 9th Impact. Vào ngày 16 tháng 11 năm 2018, "Sunny Bunnies: Magic Pop!" đã được ra mắt trên iOS App Store và Google Play Store. Trò chơi là một câu đố trong đó người chơi chạm vào ba hoặc nhiều màu liền kề cùng màu để làm cho chúng "bật" một cách kỳ diệu và được tính vào việc đạt được mục tiêu cấp độ. Một tập của loạt phim Sunny Bunnies đã được phát hành cùng ngày để quảng bá cho trò chơi. Trong tập phim, những chú thỏ khám phá một trò chơi kỹ thuật số trên máy tính và bắt đầu chơi. Một trong số chúng - Boo, đã vô tình làm đổ màn hình, đè bẹp những chú thỏ khác và bằng cách nào đó đưa chúng vào trong trò chơi. Sau khi nhấc máy tính lên, anh khám phá ra cách chơi trò chơi và hoàn thành mục tiêu "đưa" bạn bè của mình ra khỏi trò chơi và trở lại thực tế, từ đó khôi phục mọi thứ trở lại bình thường. Sunny Bunnies: Coloring Book Vào đầu năm 2021, một trò chơi khác mang tên "Sunny Bunnies: Coloring Book" đã được ra mắt trên Google Play Store và vào ngày 17 tháng 11 năm 2022, một phiên bản cập nhật đã được phát hành. Ứng dụng này được cho là cam kết tạo ra một môi trường giáo dục và an toàn cho trẻ em: bé gái và bé trai từ 2 đến 6 tuổi. Các hình ảnh đầy màu sắc trong trò chơi được thiết kế để nâng cao khả năng nhận dạng mẫu và phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề sáng tạo. Ngoài ra còn có các phần thưởng ở nhiều cấp độ bao gồm tô màu nhiều bức tranh trong ngày hoặc trong một số ngày để mang lại giải thưởng cho tất cả người chơi. ĐẶC ĐIỂM CỦA SUNNY BUNNIES: COLORING BOOK: *● Free to play. *● Không quảng cáo. *● Giáo viên đã phê duyệt trong Cửa hàng Play. *● Giới hạn độ tuổi: tối đa 12 tuổi. *● Nhân vật, nhiều nhiệm vụ, hài hước. *● Mỗi chú thỏ trong Sunny Bunnies đều giành được giải thưởng riêng sau khi tô màu theo số lượng hình ảnh cụ thể. *● Gói bổ sung của các chủ đề khác nhau. *● Được tạo ra đặc biệt dành cho trẻ em: âm thanh và từ vựng, dễ sử dụng, hình minh họa và hoạt hình. *● Khuyến khích niềm yêu thích học tập. *● Hình ảnh được thiết kế để tăng cường phát triển trí não và kỹ năng. *● Có sẵn hướng dẫn để giúp học các kỹ năng tô màu cần thiết. Tham khảo Liên kết ngoài Sunny Bunnies: Magic Pop! trên Google Play Store Sunny Bunnies: Magic Pop! trên App Store
1,362
19829231
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20qu%E1%BA%A7n%20v%E1%BB%A3t%20M%E1%BB%B9%20M%E1%BB%9F%20r%E1%BB%99ng%202023%20-%20%C4%90%C3%B4i%20n%E1%BB%AF
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2023 - Đôi nữ
Gabriela Dabrowski và Erin Routliffe là nhà vô địch, đánh bại Laura Siegemund và Vera Zvonareva trong trận chung kết, 7–6(11–9), 6–3. Dabrowski trở thành tay vợt Canada đầu tiên giành một danh hiệu đôi nữ Grand Slam, và Routliffe trở thành tay vợt New Zealand đầu tiên vô địch Mỹ Mở rộng. Barbora Krejčíková và Kateřina Siniaková là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 2 trước Barbora Strýcová và Markéta Vondroušová. Coco Gauff và Jessica Pegula cùng giành vị trí số 1 bảng xếp hạng đôi WTA sau khi Hsieh Su-wei thua ở vòng bán kết. Siniaková, Elise Mertens, Taylor Townsend và Desirae Krawczyk cũng cạnh tranh vị trí số 1 khi giải đấu bắt đầu, nhưng Siniaková thua ở vòng 2, Mertens thua ở vòng 1, Townsend thua ở vòng tứ kết, và Krawczyk rút lui ở vòng 2. Hạt giống Kết quả Chung kết Nửa trên Nhánh 1 Nhánh 2 Nửa dưới Nhánh 3 Nhánh 4 Vận động viên khác Đặc cách Bảo toàn thứ hạng Thay thế Rút lui Marie Bouzková / Sara Sorribes Tormo → thay thế bởi Andrea Gámiz / Sara Sorribes Tormo Caroline Garcia / Kristina Mladenovic → thay thế bởi Aliona Bolsova / Rebeka Masarova Julia Grabher / Rebecca Peterson → thay thế bởi Elina Avanesyan / Kamilla Rakhimova Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính Đôi nữ Giải quần vợt Mỹ Mở rộng - Đôi nữ Giải quần vợt Mỹ Mở rộng theo năm – Đôi nữ
242
19829233
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khu%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20c%C6%B0%20Hromada%20Dvorichna
Khu định cư Hromada Dvorichna
Khu định cư Hromada Dvorichna (, ) là một hromada thuộc huyện Kupiansk, tỉnh Kharkiv, Ukraine. Hromada được thành lập vào ngày 12 tháng 6 năm 2020, và được quản lý bởi khu định cư kiểu đô thị Dvorichna, là chính quyền địa phương cho 55 khu định cư. Dân số trước chiến tranh của hromada rất nhỏ, và nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp với rất ít ngành công nghiệp. Tính đến năm 2023, hromada vẫn bị quân Nga chiếm đóng khoảng một nửa do hậu quả của cuộc xâm lược Ukraine của Nga, và đã bị giảm dân số nghiêm trọng do việc sơ tán bắt buộc được ban hành cho tất cả dân thường ở các khu vực đã được giải phóng. Tổng quan Toàn bộ hromada chủ yếu bao gồm đất nông nghiệp bằng phẳng, hầu như không có khu công nghiệp nào. Cùng với đó, hromada cũng phần lớn chưa được phát triển, chỉ mới có điện gần đây và vẫn có rất ít liên lạc hoặc internet với bên ngoài. Vì lý do này, mặc dù hromada có trang web chính thức, nhưng nó hiếm khi được cập nhật thông tin mới. Trước khi Nga xâm lược vào năm 2022, thu nhập của hromada đến hoàn toàn từ nông nghiệp, chăn nuôi, kế toán, giáo dục, y tế và hành chính. Hromada có một trường thể thao thành công đáng chú ý ở khu định cư hành chính trung tâm Dvorichna, cùng với nhiều trường học và một nhà trẻ khác. Lịch sử Thành lập và những năm đầu Hromada Dvorichna được thành lập vào ngày 12 tháng 6 năm 2020 sau khi sáp nhập 14 hội đồng định cư trong huyện Dvorichna, vốn sẽ bị bãi bỏ. Sau khi thành lập, hromada trở thành chính quyền địa phương cho 55 khu định cư, với tổng dân số là 16.568 người vào tháng 1 năm 2021. Hromada đã tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên vào ngày 25 tháng 10 năm 2020, trong đó Turbaba Halyna Hryhorivna, người gốc Dvorichna, đã được bầu làm Trưởng Hromada. Trước cuộc chiến năm 2022, hromada có tổng dân số khoảng 16.500 người trong diện tích . Nga xâm lược Toàn bộ hromada đã bị quân Nga chiếm đóng trong những ngày đầu của cuộc xâm lược Ukraine của Nga vào tháng 2 năm 2022. Trong thời gian chiếm đóng hoàn toàn, Halyna Turbaba đã bị giam cầm hai lần vì từ chối hợp tác với quân đội Nga. Trong lần đầu tiên bị giam cầm kéo dài một tháng và lần thứ hai bị giam cầm 50 ngày của Turbaba, một số quan chức hromada cấp dưới đã đồng ý làm việc với người Nga. Trong thời gian này: những ngôi nhà đẹp hơn, cùng với các thiết bị hữu ích từ các trang trại, được cho là đã bị quân đội Nga tịch thu. Nhiều cư dân cũng rời đi đến biên giới Nga hoặc đi qua một con đập bắc qua hồ chứa Pecheneg (uk) đến lãnh thổ do quân đội Ukraina kiểm soát. Tình hình lãnh thổ chỉ thay đổi ở hromada sau cuộc phản công Kharkiv thành công do lực lượng Ukraine thực hiện vào tháng 9 năm 2022, trong đó quyền kiểm soát hromada sẽ được chia cắt dọc theo sông Oskil vào ngày 12 tháng 9, và sẽ duy trì theo cách này với một số ngoại lệ. Sau cuộc phản công, những quan chức cấp dưới làm việc với Nga đã trốn khỏi hromada, và nhiều cư dân cũ rời đi sang Nga đã quay trở lại sống ở Kharkiv hoặc chuyển đến các quốc gia châu Âu khác bao gồm Cộng hòa Séc, Đức, Na Uy, Ba Lan, Thụy Điển và Thụy Sĩ, khi hromada tiền tuyến hiện nay được đặt dưới lệnh sơ tán bắt buộc. Sự suy giảm dân số này đã dẫn đến chỉ còn khoảng 2.000 cư dân ở lại các khu vực được giải phóng lại của hromada vào tháng 12 năm 2022, và chỉ còn 1.100 cư dân vào tháng 4 năm 2023, chủ yếu là người già, với chỉ 60 người trong số đó là trẻ em. Việc pháo kích hàng ngày vào hromada kể từ sau cuộc phản công của Ukraine đã phá hủy phần lớn khu định cư hành chính trung tâm Dvorichna: bao gồm tất cả 35 tòa nhà chung cư ở đó, 30% tổng số tòa nhà dân cư trong hromada, và 70% ở Dvorichna, và phần lớn cơ sở hạ tầng giáo dục, y tế và giải trí trong hromada, cũng như làm hư hỏng hoặc phá hủy tất cả các tòa nhà hành chính. Tất cả các tòa nhà không tiếp giáp với các khu định cư hromadas lân cận cũng mất quyền truy cập vào điện, khí đốt và nhiệt, dẫn đến việc các bưu điện, ngân hàng, nhà thuốc và các cơ sở kinh doanh khác dựa trên đó của hromada bị đóng cửa vô thời hạn. Vì những yếu tố này, phần lớn dân số còn lại sống trong sân vườn hoặc tầng hầm do thiệt hại từ chiến tranh. Trợ giúp nhân đạo bao gồm thực phẩm, vệ sinh, củi đốt, nhiên liệu và các vật phẩm cần thiết khác được phân phối trung bình hai lần một tháng cho cư dân, giúp họ vẫn có thể sống trong hromada. Một tiệm bánh được xây dựng bởi các nhân viên cứu trợ cùng với các vườn rau địa phương cũng cung cấp nhiều thức ăn hơn mức cần thiết cho cư dân. Một bác sĩ và xe cứu thương địa phương cũng cung cấp hỗ trợ y tế mặc dù không có hiệu thuốc nào hoạt động. Công tác quản lý vẫn do Turbaba và hai quan chức khác phụ trách, với nhiều người khác chọn làm việc từ xa. Có rất ít hoặc không có thông tin liên lạc với nửa bị chiếm đóng của hromada, với khả năng xảy ra thảm họa nhân đạo. Kiểm soát lãnh thổ kể từ tháng 9 năm 2022 Sau cuộc phản công thành công của Ukraine, tình hình lãnh thổ ở hromada không thay đổi cho đến ngày 18 tháng 10, khi một cuộc phản công cục bộ của Nga chiếm lại Horobivka. Bốn tháng sau, từ ngày 4 đến ngày 18 tháng 2 năm 2023, một cuộc phản công lớn hơn của Nga từ Dvorichne đã đẩy lùi lực lượng Ukraine khỏi khu định cư vào ngày 10 tháng 2, và tiếp tục tiến công chiếm Lyman Pershyi (uk) vào ngày 16 tháng 2, và Hrianykivka vào ngày 18 tháng 2, là sự kiện quan trọng cuối cùng của cuộc tấn công. Theo Turbaba, vào khoảng thời gian này, dân số của Hrianykivka đã trở thành 0 sau khi mọi tòa nhà ở đó bị phá hủy trong loạt các cuộc tấn công và phản công. Vào ngày 15 tháng 5 năm 2023, một cuộc phản công cục bộ khác của Nga đã chiếm lại Masiutivka, khu định cư cuối cùng trong hromada ở phía đông sông Oskil. Vào ngày 17 tháng 7 năm 2023, lực lượng Nga sẽ cố gắng tiến xa hơn từ Masiutivka và cố gắng vượt sông Oskil. Mặc dù Bộ Tổng tham mưu Ukraine báo cáo rằng cuộc tấn công không thành công, nhưng một milblogger Nga tuyên bố rằng cuộc tấn công đã chiếm được 1–2 km đất theo hướng này. Tuyên bố này sẽ được các milblogger khác và Bộ Quốc phòng Nga ủng hộ hai ngày sau vào ngày 19 tháng 7. Sự tiến công của Nga theo hướng này sẽ tiếp tục một lần nữa vào ngày 8 tháng 8, với lực lượng Nga của Tập đoàn quân hợp thành số 6 chiếm được các vị trí ở phía nam Vilshana và Lyman Pershyi. Danh sách các khu định cư Hromada bao gồm một khu định cư kiểu đô thị, là trung tâm hành chính Dvorichna, và 54 khu định cư khác, bao gồm: Dvorichne Horobivka Hrianykivka Masiutivka Novoiehorivka Tavilzhanka Stroivka Topoli (rural-type settlement) Topoli (village) Vilshana Ghi chú Chú thích Liên kết ngoài Дворічанська селищна громада (The hromada Ministry of Education and Science of Ukraine page) Cơ sở 2020 ở Ukraine Hromadas của tỉnh Kharkiv Kupiansk Raion
1,421
19829239
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng%20V%C4%A9nh%20Nguy%C3%AAn
Hoàng Vĩnh Nguyên
Hoàng Vĩnh Nguyên (sinh ngày 3 tháng 2 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho đội B của Cádiz CF, được cho mượn từ Thành phố Hồ Chí Minh. Sự nghiệp cầu thủ trẻ Hoàng Vĩnh Nguyên ban đầu trúng tuyển lớp năng khiếu khóa 4 của Hoàng Anh Gia Lai nhưng sau đó đã được đôn lên khóa 4 của Học viện Hoàng Anh Gia Lai JMG với sự tiến bộ vượt bậc. Anh được mệnh danh là "Xuân Trường đệ nhị" vì lối đá và tầm nhìn khá giống với người đàn anh. Năm 2020, Vĩnh Nguyên gia nhập Học viện Nutifood JMG, câu lạc bộ đối tác của Hoàng Anh Gia Lai. Anh là thành viên của Nutifood đã giành chức vô địch U-21 Quốc gia Việt Nam 2021. Sự nghiệp câu lạc bộ Long An Năm 2022, Vĩnh Nguyên gia nhập đội bóng đang chơi tại V.League 2 là câu lạc bộ Long An theo hợp đồng cho mượn từ Nutifood. Thành phố Hồ Chí Minh Đầu năm 2023, Hoàng Vĩnh Nguyên cùng 17 cầu thủ trẻ khác được Nutifood chuyển giao tới Thành phố Hồ Chí Minh theo dạng mua đứt. Anh ra sân 11 trận tại V.League 2023 đều từ băng ghế dự bị. Cho mượn tại đội B Cádiz Ngày 26 tháng 9 năm 2023, Vĩnh Nguyên được Thành phố Hồ Chí Minh cho đem đi du học tại Tây Ban Nha trong màu áo của đội B Cádiz CF theo hợp đồng cho mượn ngắn hạn. Dù bị nghi ngờ là bản hợp đồng thương mại nhưng Hoàng Vĩnh Nguyên đã chứng minh bằng 4 bàn thắng trong trận đấu tập của Cádiz B. Vĩnh Nguyên liên tục thể hiện những màn trình diễn tốt trong các buổi tập nhờ khả năng rê dắt bóng và đỡ bước một của mình, thậm chí một đồng đội của anh còn cho rằng không thể cướp bóng từ chân Vĩnh Nguyên. Sự nghiệp quốc tế Vào tháng 3 năm 2023, Vĩnh Nguyên được triệu tập lần đầu tiên vào U-23 Việt Nam tham dự giải giao hữu Doha Cup 2023. Anh có 1 lần ra sân trong giải đấu với U-23 Kyrgyzstan. Nutifood JMG Giải vô địch U-21 Quốc gia: 2021 Tham khảo Liên kết ngoài Người họ Hoàng Cầu thủ bóng đá nam Việt Nam Tiền vệ bóng đá Cầu thủ bóng đá nam Việt Nam ở nước ngoài Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-19 quốc gia Việt Nam Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Việt Nam
429
19829295
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m%20Quang%20Huy
Phạm Quang Huy
Phạm Quang Huy (sinh năm 1996 tại Hải Phòng) là một vận động viên bắn súng Việt Nam. Năm 2023, Quang Huy trở thành vận động viên đầu tiên của Việt Nam đoạt huy chương vàng bộ môn bắn súng tại một kỳ Asiad. Quang Huy hiện đang là thành viên đội tuyển quốc gia thành tích cao môn bắn súng. Thành tích Trong 8 năm thi đấu đỉnh cao, Phạm Quang Huy đã từng giành huy chương Vàng ở Giải Vô địch trẻ, Giải Vô địch Quốc gia và thành tích nổi bật nhất trên đấu trường quốc tế là tấm huy chương Vàng nội dung 10m Súng ngắn hơi Đồng đội Nam tại Sea Games 31. Trong các năm từ 2015 – 2017, anh lần lượt đạt Cấp 1 Quốc gia, dự bị Kiện tướng Quốc gia và Kiện tướng Quốc gia của môn bắn súng. Năm 2016, Phạm Quang Huy tiếp tục giành 1 huy chương vàng và 1 huy chương bạc tại giải Vô địch trẻ Quốc gia 2016, 1 huy chương bạc cá nhận, 2 huy chương vàng đồng đội tại giải Vô địch trẻ Đông Nam Á 2016. Năm 2017, xạ thủ này giành 4 huy chương vàng cá nhân, 2 huy chương đồng cá nhân, 3 huy chương đồng đồng đội tại giải Vô địch trẻ Quốc gia 2017. Bên cạnh đó, anh giành 1 huy chương đồng cá nhân giải Tay súng xuất sắc Quốc gia 2017. Tới cuối năm 2017, Phạm Quang Huy tham dự giải Vô địch súng hơi châu Á. Huy chương Đồng bắn súng nội dung 10m súng hơi đồng đội Asiad 2023. Huy chương Vàng bắn súng nội dung 10m súng ngắn Asiad 2023. Gia đình Phạm Quang Huy là con trai của hai cựu vận động viên bắn súng Hải Phòng Phạm Cao Sơn và Đặng Thị Hằng. Anh có một em trai cũng là vận động viên bắn súng trẻ Phạm Đăng Quang. Tham khảo Vận động viên bắn súng Việt Nam Nhân vật còn sống Vận động viên người Hải Phòng Người Hải Phòng
344
19829339
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C4%A9%20Am%20Th%C3%A2m%20T%E1%BB%8Bnh
Dĩ Am Thâm Tịnh
Dĩ Am Thâm Tịnh (zh. 已庵深凈) là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc tông Vân Môn (đời thứ 11). Sư nối pháp Thiền sư Trung Trúc Nguyên Diệu, kể từ sau đời của Sư thì pháp hệ của tông Vân Môn dừng truyền thụ và hoàn toàn chấm dứt do Sư không tìm thấy bất kỳ ai phù hợp để truyền pháp. Cơ duyên và hành trạng Sư quê ở Ôn Châu, Chiết Giang. Không rõ sư sinh năm nào, theo Ngũ Đăng Hội Nguyên chép thì sư sống vào đời Nam Tống. Sau khi đại ngộ và được Thiền sư Si Thiền Nguyên Diệu (Trung Trúc Nguyên Diệu) ấn khả, sư đến nhận chức trụ trì tại chùa Quang Hiếu ở Ôn Châu. Sư thượng đường, nói: "Rồng sinh rồng, phụng sinh phụng. Con chuột nọ nuôi con trên nóc nhà ở ngoài đường. Tổ Đạt Ma chẳng rõ thiền, đến Lương qua Ngụy nhiều chỗ ồn náo." (龍生龍, 鳳生鳳, 老鼠養兒沿街棟, 達磨大師不會禪, 歷魏遊梁乾打閧) Hôm khác sư dạy chúng: "Gió hiu hiu, lá rơi rơi, mây giăng giăng, nước mênh mông, bên sông đứng nhìn ai mà thuyết, ngoài trời ba con chim Hồng bay thành hai hàng." (風蕭蕭, 葉飄飄, 雲片片, 水茫茫, 江干獨立向誰說, 天外飛鴻三兩行) Đương thời, sư mỗi khi đàm đạo với đồng đạo là Thiền sư Linh Ẩn Uẩn Trung (zh. 靈隱蘊衷, thuộc tông Vân Môn) thường than rằng thời mạt pháp tìm khắp nơi khó thấy được một người thực ngộ yếu chỉ, lại cũng không có đệ tử xuất gia nào khế hợp nên sư không truyền pháp tông Vân Môn cho bất kỳ ai nối tiếp nữa. Kể từ đó, truyền thừa của tông Vân Môn hoàn toàn chấm dứt. Không rõ sư tịch ở đâu, khi nào. Sư có để lại tác phẩm là Dĩ Am Thâm Tịnh Hòa Thượng Ngữ Yếu và sách này được thu vào quyển 2 của bộ Tục Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu. Tham khảo Thiền sư Trung Quốc Vân Môn tông
323
19829341
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0o%20Minh%20Qu%C3%A2n
Đào Minh Quân
Đào Minh Quân (sinh năm 1952 tại miền Nam Việt Nam) là một chính trị gia người Mỹ gốc Việt. Ông là Tổng thống thứ 3 (tự xưng) và là Hoàng đế (tự xưng) của Đệ Tam Cộng Hòa Việt Nam , được tuyên bố là chính phủ lưu vong. Ông được biết đến là người khởi xướng Phong trào Dân chủ Mới ở Việt Nam. Ngày 19 tháng 6 năm 2022, Đào Minh Quân được sự ủng hộ của đảng chính trị của ông tuyên bố chính phủ cộng hòa sẽ hợp nhất với chế độ quân chủ với tư cách là "Hoàng đế của Đế quốc Việt Nam". Tuy nhiên, do bất đồng với các đảng phái chính trị khác của người Việt tại Hoa Kỳ nên tổ chức này sẽ được tổ chức lại vào đầu tháng 11/2022. Cuộc sống và giáo dục Quân sinh ra ở làng Thị Nghè, tỉnh Gia Định , miền Nam Việt Nam với Đào Thế (cha) và Nguyễn Thị Hạnh (mẹ). Ông tự xưng là con cháu của Thái tử Trần Hưng Đạo. Ông theo học trường Phan Thanh Giản cho đến năm 1968. Quân tham gia khóa học Biệt kích tại căn cứ quân sự Sơn Trà /Non Nước khi mới 16 tuổi. Trong Chiến tranh Việt Nam , ông đã hỗ trợ Robert D. Ohman và sau này trở thành Thiếu úy của Tiểu đoàn 122. Sau đó ông được thăng chức làm Thiếu tá của một đơn vị lực lượng đặc biệt mang tên "Hắc Hổ". Năm 1980, ông di cư đến Los Angeles, Hoa Kỳ cùng gia đình tị nạn chính trị. Anh học Lập trình Máy tính tại Cao đẳng Cộng đồng Rancho Santiago. Sự nghiệp Đào Minh Quân và Nguyễn Hậu, Chủ tịch Tổng hội Tù chính trị Cộng sản, đã lập hồ sơ bất hợp pháp về tù chính trị ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1990. Việc này giúp binh sĩ QLVNCH đoàn tụ với gia đình. Đào cũng khởi xướng một chương trình mang tên CPA (Kế hoạch hành động toàn diện) để giúp người tị nạn Việt Nam định cư tại Hoa Kỳ. Ông thành lập đảng chính trị của mình, Việt Nam Cộng hòa thứ 3, vào ngày 16 tháng 2 năm 2018. Đảng này cũng đóng vai trò là chính phủ lâm thời tự xưng của Việt Nam. Đào được bầu làm Tổng thống thứ ba của nước Việt Nam Cộng hòa, đồng thời tự xưng; hoặc Tổng thống đầu tiên của nước Cộng hòa thứ ba Việt Nam mới thành lập. Anh ấy đã được chấp nhận và khánh thành vào ngày 11 tháng 11 năm 2018 tại Adelanto, California. Đào đã nhận được hai công hàm ngoại giao của cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton. Chính phủ lâm thời Ukraina cũng mời ông tới phát biểu tại Đại hội Liên Xô. Ngày 15 tháng 10 năm 2010, Đại diện Hoa Kỳ Gary Miller và Edward Nixon mời Đào làm Thủ tướng Chính phủ Quốc gia Lâm thời Việt Nam đến tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông tại Thư viện Nixon. Tranh cãi Đảng chính trị của Đào đã bị trang web của Bộ Công an Việt Nam liệt vào danh sách tổ chức khủng bố. Các thành viên trong đảng chính trị của Đào đã ra hầu tòa Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về tội lật đổ Chính phủ Việt Nam, trong đó có vụ đánh bom, đốt phá một cơ sở công an và vụ đánh bom bất thành tại sân bay, có lẽ là Sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất. Tham khảo Sinh năm 1952 Chính trị gia người Mỹ gốc Việt
608
19829342
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%91i%E1%BB%87n%20t%E1%BB%AD%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022%20-%20Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91%E1%BA%A5u%20DOTA%202
Thể thao điện tử tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 - Giải đấu DOTA 2
Nội dung thi đấu DOTA 2 tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 sẽ được tranh tài từ ngày 29 tháng 09 năm 2023 đến ngày 02 tháng 10 năm 2023 tại Hàng Châu, Trung Quốc. Quốc gia tham dự Sẽ có tổng cộng 14 quốc gia tham gia thi đấu nội dung Dota 2 thuộc môn thi đấu Thể thao điện tử tại Đại hội thể thao châu Á 2022: Vòng bảng 9 đội tuyển sẽ được chia thành 3 bảng. Mỗi bảng có 3 đội. 3 đội nhất bảng sẽ giành quyền vào vòng loại trực tiếp. Địa điểm: Trung tâm Thể thao Điện tử Hàng Châu, Hàng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc Thời gian: 29/09, bắt đầu từ 13:00 (UTC+7). Thể thức thi đấu: 3 bảng sẽ thi đấu vòng tròn tính điểm 1 lượt, tất cả các trận đấu đều là BO1 (Best Of One - Thắng trước 1 trận). Nếu các đội có cùng hệ số Thắng-Thua và kết quả đối đầu, đội nào có chỉ số phụ tốt nhất sẽ đi tiếp vào vòng loại trực tiếp, các đội còn lại của bảng sẽ bị loại. Đội đầu bảng sẽ đi tiếp vào vòng loại trực tiếp, các đội còn lại của bảng sẽ bị loại (áp dụng cho tất cả các bảng). Bảng A Nguồn : AESF Bảng B Nguồn : AESF Bảng C Nguồn : AESF Vòng loại trực tiếp 8 đội bao gồm: 3 đội đứng đầu 3 bảng ở vòng bảng và 5 đội đứng đầu 5 khu vực tại giải đấu Road to Asian Games : Đông Á: Trung Quốc Đông Nam Á: Malaysia Trung Á: Kazakhstan Nam Á: Nepal Tây Á: Ả Rập Xê Út. Thể thức thi đấu: Tất cả các trận đấu đều là Loại trực tiếp & BO3 (Best Of Three - Thắng trước 2/3 trận). Đội chiến thắng sẽ đi tiếp vào vòng loại tiếp theo, đội thua bị loại ngay lập tức. Tứ kết Địa điểm: Trung tâm Thể thao Điện tử Hàng Châu, Hàng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc. Đội chiến thắng sẽ tiến vào Bán Kết, đội thua bị loại. Tứ kết 1 Thời gian: 13:00 - 30 tháng 09 (UTC+7). Tứ kết 2 Thời gian: 13:00 - 30 tháng 09 (UTC+7). Tứ kết 3 Thời gian: 18:00 - 30 tháng 09 (UTC+7). Tứ kết 4 Thời gian: 18:00 - 30 tháng 09 (UTC+7). Bán kết Địa điểm: Trung tâm Thể thao Điện tử Hàng Châu, Hàng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc. Đội chiến thắng sẽ tiến vào Chung Kết, đội thua sẽ tiến vào Tranh hạng 3. Bán kết 1 Thời gian: 08:00 - 01 tháng 10 (UTC+7). Bán kết 2 Thời gian: 13:00 - 01 tháng 10 (UTC+7). Tranh hạng 3 Địa điểm: Trung tâm Thể thao Điện tử Hàng Châu, Hàng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc. Thời gian: 13:00 - 02 tháng 10 (UTC+7). Chung kết Địa điểm: Trung tâm Thể thao Điện tử Hàng Châu, Hàng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc. Thời gian: 18:00 - 02 tháng 10 (UTC+7). Danh sách huy chương Thứ hạng chung cuộc Tham khảo
509
19829355
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%ACnh%20t%C6%B0%E1%BB%A3ng%20chu%E1%BB%99t%20t%C3%BAi%20trong%20v%C4%83n%20h%C3%B3a
Hình tượng chuột túi trong văn hóa
Hình tượng con chuột túi (Kangaroo) trong đời sống văn hóa thể hiện qua khía cạnh biểu tượng trên huy hiệu, logo và xuất hiện trong văn hóa đại chúng. Chuột túi trên khía cạnh văn hóa bao gồm các loài thú có túi thuộc họ Chân to (Macropodidae) trong đó Kangaroo (Kăng-gu-ru) thường dùng để chỉ một số loài lớn nhất trong họ này như Kangaroo đỏ. Các loài chuột túi đã trở thành biểu tượng của Úc, cũng như xuất hiện trong văn hóa đại chúng cả trên bình diện quốc tế với sức hấp dẫn đại chúng cũng như chính tại nước Úc. Kanguru là một phần có ý nghĩa văn hóa và tinh thần đối với nhiều người Úc bản địa. Kể từ khi được phát hiện ở châu Âu, theo thời gian, chuột túi đã trở thành biểu tượng cho nước Úc và các giá trị của nước Úc, xuất hiện trên quốc huy và ở nhiều tiểu bang và thành phố, các biểu tượng của Úc như logo Qantas, tên của các đội thể thao ở Úc, làm linh vật. Trong nghệ thuật đại chúng, Kanguru cũng có màn thể hiện rất tốt trong phim ảnh, hoạt hình, truyền hình, bài hát, đồ chơi trẻ em và quà lưu niệm trên khắp thế giới. Dẫn luận Ban đầu thì con kangaroo được coi là một loài thú có hình thù kỳ dị độc nhất vô nhị khi Thuyền trưởng Cook quay trở lại Anh vào năm 1771 cùng với một mẫu vật sống trên tàu HMS Endeavour. Sau đó nhà tự nhiên học Joseph Banks trong chuyến hành trình Endeavour đã ủy quyền cho George Stubbs vẽ một bức chân dung về mẫu vật chuột túi. Khi tường thuật chính thức về chuyến đi được xuất bản vào năm 1773, chuột túi được minh họa bằng hình khắc con Kangaroo của danh họa Stubbs. Kể từ thời điểm đó, Kangaroo nhanh chóng trở thành biểu tượng của lục địa Úc, xuất hiện trong các cuộc triển lãm, bộ sưu tập, tác phẩm nghệ thuật và in ấn trên khắp châu Âu. Phải mất một thời gian dài thì chuột túi mới được chính thức công nhận ở Úc. Mặc dù được coi là "loài thú có hại" vì nổi tiếng phá hoại mùa màng, phá đổ hàng rào và cạnh tranh tài nguyên với các loài vật nuôi, đến cuối cùng thì chuột túi cũng đã được công nhận chính thức khi được đưa lên quốc huy của Úc vào năm 1908. Kangaroo hiện được coi là động vật biểu tượng (linh vật) không chính thức của nước Úc, đất nước này được gọi là "Xứ sở chuột túi". Chú thích Chuột túi Động vật trong văn hóa
459
19829374
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C6%B0%E1%BB%9Di%20B%E1%BB%91n%20T%E1%BB%AB
Mười Bốn Từ
Mười Bốn Từ (còn viết tắt là 14 hoặc 14/88) ý chỉ đến hai khẩu hiệu của David Eden Lane, một trong chín thành viên sáng lập của tổ chức khủng bố ly khai da trắng không còn tồn tại là The Order, và đi kèm với "88 giới luật" cũng của Lane. Các khẩu hiệu này như một lời kêu gọi tập hợp các chiến binh theo chủ nghĩa dân tộc da trắng trên phạm vi quốc tế. Khẩu hiệu Mười bốn từ là "We must secure the existence of our people and a future for white children" (Tạm dịch: Ta phải bảo tồn dân tộc mình và tương lai cho thế hệ sau), kèm theo là khẩu hiệu phụ "Because the beauty of the White Aryan woman must not perish from the Earth" (Tạm dịch: Vì vẻ đẹp người phụ nữ Aryan không được lụi tàn khỏi Trái đất). Hai khẩu hiệu này được đặt ra trước khi Lane thụ án 190 năm tù liên bang vì vi phạm quyền công dân của người dẫn chương trình trò chuyện người Do Thái là Alan Berg, người đã bị một thành viên khác của tổ chức sát hại vào tháng 6 năm 1984. Chúng đã được phổ biến rộng rãi sau khi Lane bị cầm tù. Lane đã sử dụng mã số 14-88 một cách rộng rãi trong suốt các lĩnh vực tâm linh, chính trị, tôn giáo và triết học của mình và đặc biệt là trong tuyên ngôn "88 Precepts" (88 Giới luật) của ông. Mười Bốn Từ hiện nay được sử dụng rộng rãi bởi những người theo chủ nghĩa tân quốc xã, da trắng thượng đẳng, chủ nghĩa dân tộc da trắng và Alt-right. '88' được một số người sử dụng làm cách viết tắt của "Heil Hitler", 'H' là chữ cái thứ 8 trong bảng chữ cái tiếng Anh, mặc dù Lane coi chủ nghĩa quốc xã cùng tội ác của Adolf Hitler là giả và được dàn dựng lên bởi người Do Thái. Hệ tư tưởng của Lane là bài Hoa Kỳ, chủ nghĩa ly khai và chủ nghĩa dân tộc da trắng; ông coi việc trung thành với chính phủ Hoa Kỳ là "sự phản bội chủng tộc" và ủng hộ cụm từ viết tắt "Chủng tộc ta là Quốc gia ta" ("Our Race Is Our Nation", hay ORION), cho rằng Hoa Kỳ đang diệt chủng người da trắng như một phần của kế hoạch Trật tự Thế giới Mới nhằm xây dựng một chính phủ Do Thái toàn cầu. Chú thích Chủ nghĩa bài Do Thái Diệt chủng Chủ nghĩa Quốc xã Chủ nghĩa dân tộc da trắng Người da trắng thượng đẳng
443
19829389
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Hungary%20t%E1%BA%A1i%20Ukraina
Người Hungary tại Ukraina
Người Hungary tại Ukraina (, , tr. uhortsi v Ukraini) có số lượng 156.600 người theo điều tra nhân khẩu Ukraina năm 2001 và là dân tộc thiểu số lớn thứ ba trong cả nước. Người Hungary chủ yếu tập trung tại tỉnh Zakarpattia (đặc biệt là tại huyện Berehove và thành phố Berehove), tại tỉnh này họ là nhóm thiểu số lớn nhất và chiếm 12,1% tổng dân số (12,7% khi tính theo ngôn ngữ mẹ đẻ). Tại khu vực dọc biên giới Ukraina với Hungary (thung lũng sông Tisza), người Hungary chiếm đa số. Họ tập trung chủ yếu tại Zakarpattia (Ngoại Karpat), trong tiếng Hungary thì những người Hungary này được gọi là Kárpátaljai magyarok (người Hungary Ngoại Karpat), trong khi Zakarpattia được gọi là Kárpátalja. Lịch sử Vùng Ngoại Karpat là một phần của Hungary kể từ khi người Hungary chinh phục lưu vực Karpat vào cuối thế kỷ thứ 9, cho đến năm 1918. Về mặt lịch sử, đây là một trong các lãnh địa của Vương quốc Hungary trước khi nó được tách ra khỏi Vương quốc và gắn liền tạm thời với Tiệp Khắc mới được thành lập vào năm 1918, sau khi Áo-Hung tan rã do Chiến tranh thế giới thứ nhất. Điều này sau đó được xác nhận theo Hiệp ước Trianon vào năm 1920. Vùng Zakarpattia từng là một phần của Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina tồn tại trong thời gian ngắn vào năm 1918 và bị Vương quốc Romania chiếm đóng vào cuối năm đó. Sau đó khu vực được Hungary chiếm lại vào mùa hè năm 1919. Sau thất bại của tàn quân Hungary vào năm 1919, Hội nghị Hòa bình Paris đã ký kết Hiệp ước Trianon trao Zakarpattia cho Tiệp Khắc mới thành lập với tư cách là Rus' Hạ Karpat, một trong bốn vùng chính của Tiệp Khắc, các vùng còn lại là Bohemia, Moravia và Slovakia. Hungary tìm cách khôi phục biên giới lịch sử của mình và sửa đổi Hiệp ước Trianon. Vào ngày 2 tháng 11 năm 1938, Quyết định Wien thứ nhất tách một số lãnh thổ khỏi Tiệp Khắc, bao gồm cả miền nam Rus' Hạ Karpat có cư dân hầu hết là người Hungary và giao lại chúng cho Hungary. Phần còn lại được lập thành một khu tự trị trong Cộng hòa Tiệp Khắc thứ hai đoản mệnh. Sau khi Đức chiếm đóng Bohemia và Moravia vào ngày 15 tháng 3 năm 1939, và Slovakia tuyên bố là một nhà nước độc lập, Ruthenia tuyên bố độc lập (Cộng hòa Karpat-Ukraina) Chính phủ Teleki và Miklós Horthy của Hungary được Hitler thông báo vào ngày 12 tháng 3 rằng họ có 24 giờ để giải quyết vấn đề người Ruthenia. Hungary phản ứng ngay lập tức bằng việc chiếm đóng quân sự toàn bộ Ruthenia Karpat. Kết quả của việc sáp nhập là Hungary có được một lãnh thổ với 552.000 cư dân, 70,6% trong số đó là người Ruthenia, 12,5% là người Hungary, và 12% là người Đức Karpat. Khu vực này vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Hungary cho đến khi Thế chiến thứ hai tại châu Âu kết thúc, sau đó bị [[Liên Xô] chiếm đóng và sáp nhập. Hungary phải từ bỏ các lãnh thổ giành được theo Quyết định Wien trong Hiệp định đình chiến được ký tại Moskva vào ngày 20 tháng 1 năm 1945. Việc từ bỏ được xác nhận lại tại Hội nghị Hòa bình Paris năm 1946 và được ghi nhận trong Hiệp ước Hòa bình năm 1947. Năm 1944, khi Quân đội Liên Xô vượt qua biên giới Tiệp Khắc trước năm 1938, chính quyền Liên Xô từ chối cho phép các quan chức chính phủ Tiệp Khắc tiếp tục kiểm soát khu vực, và vào tháng 6 năm 1945, Tổng thống Edvard Beneš chính thức ký một hiệp ước nhượng lại khu vực này cho Liên Xô. Sau đó khu vực được sáp nhập vào Ukraina Xô viết. Sau khi Liên Xô tan rã, khu vực trở thành một phần của Ukraina độc lập với tên gọi tỉnh Zakarpattia. Tình hình của người Hungary tại Ukraina độc ​​lập Hungary là một trong các quốc gia đầu tiên công nhận nền độc lập của Ukraina. Tổng thống Hungary khi đó là Árpád Göncz được mời đến thăm khu vực, một hiệp ước cấp nhà nước vào tháng 12 năm 1991 thừa nhận rằng dân tộc Hungary thiểu số có các quyền lợi tập thể như cũng như cá nhân. Hiệp ước quy định việc bảo tồn bản sắc dân tộc, văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo của họ; giáo dục các cấp bằng tiếng mẹ đẻ; và sự tham gia của người dân tộc Hungary vào cơ quan địa phương chịu trách nhiệm về các vấn đề thiểu số. Việc người Hungary thiểu số tại Ukraina có cả quốc tịch Ukraina và quốc tịch Hungary là khá phổ biến, mặc dù hiện tại luật pháp Ukraina không công nhận quốc tịch kép. Trong bầu cử Nghị viện Châu Âu năm 2014 tại Hungary, Andrea Bocskor sống tại Ukraina (tại thành phố Berehove) được bầu vào Nghị viện Châu Âu (cho Fidesz). Do đó, Bocskor, người dân tộc Hungary và là công dân Hungary, trở thành thành viên được bầu đầu tiên của Nghị viện Châu Âu có cả hộ chiếu Ukraina. Kể từ năm 2017, quan hệ Hungary-Ukraina nhanh chóng xấu đi do vấn đề luật giáo dục của Ukraina. Luật giáo dục năm 2017 của Ukraina quy định tiếng Ukraina là ngôn ngữ bắt buộc của giáo dục tiểu học ở các trường công lập từ lớp 5 trở đi. László Brenzovics, vào thời điểm đó là người dân tộc Hungary duy nhất trong Verkhovna Rada (quốc hội của Ukraina), nói rằng "Có một loại chính sách có mục đích, ngoài việc thu hẹp quyền lợi của tất cả các nhóm thiểu số, còn cố gắng miêu tả nhóm thiểu số Hungary là kẻ thù trong công luận Ukraina." Tình hình kể từ đó vẫn tiếp tục có khó khăn, khi Hungary tiếp tục ngăn cản nỗ lực của Ukraina nhằm hội nhập vào EU và NATO do tranh chấp về quyền của người thiểu số. Quyền thiểu số Cư dân tại bảy ngôi làng của huyện Mukachivskyi có quyền lựa chọn học tiếng Hungary trong môi trường trường học hoặc trường học tại nhà. Trường Cao đẳng tiếng Hungary đầu tiên ở Ukraina nằm ở Berehovo là Cao đẳng II. Rákoczi Ferenc. Năm 2017 có 71 trường học Hungary ở Ukraina với 16.000 học sinh theo học. Tổ chức Liên đoàn Dân chủ Hungary tại Ukraina (UMDSZ) là tổ chức dân tộc Hungary duy nhất được đăng ký trên toàn quốc. Nó được thành lập vào tháng 10 năm 1991 bởi Liên đoàn văn hóa Hungary tại Ngoại Karpat (KMKSZ, đã đình chỉ tư cách thành viên từ năm 1995), Liên đoàn văn hóa Hungary tại Lviv và Hiệp hội người Hungary tại Kyiv. Liên đoàn Văn hóa Hungary tại Ngoại Karpat được liên kết với đảng chính trị KMKSZ – Đảng người Hungary tại Ukraina, được thành lập vào tháng 2 năm 2005. Vào tháng 3 năm 2005, Bộ Tư pháp Ukraina cũng cho đăng ký Đảng Dân chủ Hungary tại Ukraina theo sáng kiến của UMDSZ. Zoltan Lengyel được bầu làm thị trưởng Mukachevo sau cuộc bầu cử vào ngày 1 tháng 12 năm 2008. UMDSZ cũng giành chiến thắng tại các đô thị Berehove, Vinohradiv và Tiachiv trong cuộc bầu cử này. Nhân vật nổi bật Yozhef Sabo (József Szabó) Vasyl Rats (László Rácz) Ishtvan Sekech (István Szekecs) Yuriy Habovda Ernest Kesler (Ernő Keszler) Robert Hehedosh Nhân khẩu Dữ liệu sau đây theo điều tra dân số Ukraina năm 2001. Di sản văn hoá Di sản văn hóa Hungary tại Ukraina bao gồm các lâu đài thời trung cổ: Xem thêm Nhân khẩu Ukraina Quan hệ Hungary–Ukraina Giáo hội Công giáo Hy Lạp Hungary Người Ukraina tại Hungary Tham khảo Liên kết ngoài Website of the Cultural Federation of Hungarians in Subcarpathia Website of the Hungarian Democratic Federation in Ukraine Nhóm sắc tộc ở Ukraina Người Hungary
1,348
19829395
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20s%E1%BB%A9%20qu%C3%A1n%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20t%E1%BA%A1i%20Ph%C3%A1p
Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Pháp
Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Pháp (), thường gọi là Đại sứ quán Nam Việt Nam tại Pháp, là cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt Nam) tại thủ đô Paris của Pháp từ năm 1954 cho đến khi buộc phải đóng cửa vào tháng 4 năm 1975 do Sài Gòn thất thủ. Lịch sử Ban đầu gọi là Cao ủy Quốc gia Việt Nam tại Pháp được thành lập vào tháng 9 năm 1952, Sau khi Việt Nam Cộng hòa hình thành ngày 26 tháng 10 năm 1955, cơ quan này mới đổi sang tên gọi Cao ủy Việt Nam Cộng hòa tại Pháp về sau nâng cấp lên Đại sứ quán vào tháng 7 năm 1956, rồi đổi tên thành Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Pháp cho đến khi đóng cửa vào tháng 4 năm 1975. Danh sách Đại sứ Cao ủy Quốc gia Việt Nam → Việt Nam Cộng hòa tại Pháp (1952–1956) Tháng 9 năm 1952, Quốc gia Việt Nam thành lập Cao ủy tại Pháp. Năm 1956, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thiết lập quan hệ ngoại giao với Chính phủ Pháp. Cùng năm, cơ quan đại diện ngoại giao của hai nước được nâng cấp từ Cao ủy lên đại sứ quán. Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp (1956–1975) Tháng 7 năm 1956, hai nước đã thăng cấp đặc phái viên thường trú lên đại sứ. Xem thêm Quan hệ Pháp – Việt Nam Đại sứ quán Việt Nam tại Paris Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam Cộng hòa Danh sách cơ quan đại diện ngoại giao ở Pháp Danh sách cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa ở nước ngoài Tham khảo Paris Quận 17, Paris Quan hệ Pháp – Việt Nam Khởi đầu năm 1952 ở Việt Nam Chấm dứt năm 1975 ở Việt Nam Cơ quan đại diện ngoại giao tại Paris Cơ quan chính phủ thành lập năm 1952 Cơ quan chính phủ chấm dứt năm 1975 Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại nước ngoài Cơ quan đại diện ngoại giao của Quốc gia Việt Nam
344
19829396
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20s%E1%BB%A9%20qu%C3%A1n%20Ph%C3%A1p%20t%E1%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a
Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam Cộng hòa
Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam Cộng hòa (), thường gọi là Đại sứ quán Pháp tại Nam Việt Nam, là cơ quan đại diện ngoại giao của Pháp tại thủ đô Sài Gòn của Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt Nam), hoạt động cho đến khi Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì buộc phải đóng cửa. Lịch sử Ban đầu gọi là Cao ủy Pháp tại Quốc gia Việt Nam được thành lập vào năm 1949. Sau khi Việt Nam Cộng hòa hình thành ngày 26 tháng 10 năm 1955, nó được đổi tên thành Cao ủy Pháp tại Việt Nam Cộng hòa rồi về sau nâng cấp thành đại sứ quán vào năm 1956 và đổi tên thành Đại sứ Pháp tại Việt Nam Cộng hòa. Đại sứ quán bị giáng cấp xuống Tổng lãnh sự quán Pháp tại Sài Gòn vào ngày 24 tháng 6 năm 1965 sau khi Việt Nam Cộng hòa tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với Pháp. Đại sứ quán chỉ được tái lập vào năm 1973 sau khi Pháp và Việt Nam Cộng hòa khôi phục quan hệ ngoại giao cho đến khi đóng cửa vào năm 1975. Danh sách Đại sứ Cao ủy Pháp tại Việt Nam → Việt Nam Cộng hòa (1949–1956) Năm 1949, Pháp thành lập Cao ủy tại Việt Nam. Năm 1956, chính phủ Pháp thiết lập quan hệ ngoại giao với chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Cùng năm, cơ quan đại diện ngoại giao của hai nước được nâng cấp từ Cao ủy lên Đại sứ quán. Đại sứ Pháp tại Việt Nam Cộng hòa (1956–1965) Năm 1956, hai nước đã nâng cấp đặc phái viên thường trú của mình lên đại sứ. Tổng lãnh sự Pháp tại Sài Gòn (1965–1973) Ngày 24 tháng 6 năm 1965, Việt Nam Cộng hòa tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với Pháp. Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam Cộng hòa bị hạ cấp thành Tổng lãnh sự quán ở Sài Gòn. Đại sứ Pháp tại Việt Nam Cộng hòa (1973–1975) Năm 1973, Pháp và Việt Nam Cộng hòa nối lại quan hệ ngoại giao. Pháp mở lại đại sứ quán tại Việt Nam Cộng hòa. Xem thêm Quan hệ Pháp – Việt Nam Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Pháp Danh sách cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài kiêm nhiệm Việt Nam Danh sách cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài tại Việt Nam Cộng hòa Tham khảo Sài Gòn Quan hệ Pháp – Việt Nam Khởi đầu năm 1949 ở Việt Nam Chấm dứt năm 1975 ở Việt Nam Đại sứ quán tại Việt Nam Cộng hòa Cơ quan đại diện ngoại giao của Pháp Cơ quan chính phủ thành lập năm 1949 Cơ quan chính phủ chấm dứt năm 1975 Cơ quan đại diện ngoại giao tại Thành phố Hồ Chí Minh
471
19829400
https://vi.wikipedia.org/wiki/Camazotz
Camazotz
Camazotz là một linh hồn dơi phục vụ các chúa tể của thế giới ngầm trong Thần thoại Maya của cuốn thánh kinh Popol Vuh. Camazotz có nghĩa là “dơi tử thần” trong tiếng K’iche của người Maya tại Guatemala, có nguồn gốc sâu xa trong thần thoại Trung bộ Châu Mỹ (Mesoamerica). Sinh vật này được miêu tả như một loại dơi sống trong hang động rất nguy hiểm. Camazotz còn là sinh vật quái dị sinh sống trong hang động được gọi là “ngôi nhà của loài dơi” trong Popl Vuh. Ở Mesoamerica nói chung, con dơi thường gắn liền với màn đêm, cái chết và sự hiến tế. Trong Popol Vuh thì Camazotz là những linh hồn giống dơi mà Bộ đôi anh hùng Maya là Hunahpu và Xbalanque gặp phải trong quá trình thử thách ở thế giới ngầm Xibalba. Có nhiều giả thuyết lý giải về nguồn gốc của Camazotz, một trong số đó có đề cập đến việc chúng được sáng tạo dựa trên loài dơi hút máu khổng lồ đã tuyệt chủng ở thời kỳ Pleistocene hoặc Holocene. Có một số suy đoán cho rằng thần chết của người Maya cổ đại có liên quan đến một loài đã tuyệt chủng tên là Desmodus draculae là một loài dơi ma cà rồng mũi lá có nguồn gốc ở cả Trung Mỹ và Nam Mỹ. Trong biểu tượng của người Maya cổ điển, dơi mũi lá sẽ thở ra hơi thở độc hại, thường được miêu tả là linh hồn nahual hoặc wayob của một người mang bệnh tật đến một kẻ thù. Thuở xa xưa, có những tín ngưỡng sùng bái sinh vật này xuất hiện trong cộng đồng người da đỏ Zapotec ở Oaxaca, Mexico. Camazotz sống trong hang động có tên Zotzilaha. Người ta miêu tả Camazotz có thân hình gần giống người, đầu dơi và có mũi gần giống dao đá lửa. Camazotz thường tấn công các nạn nhân bằng vào cổ và chặt đầu họ. Camazotz xuất hiện một lần nữa trong chương II của Popol Vuh, nơi chúng ta thấy rằng một sứ giả từ thế giới ngầm trong hình dạng một người đàn ông với đôi cánh của một con dơi, xuất hiện trên bề mặt để môi giới một thỏa thuận giữa Chúa Tohil và loài người. Hình tượng Camazot được đưa vào đền thờ của bộ tộc Maya là Quiche và trở thành các truyền thuyết dơi tử thần được ghi lại trong văn học Maya. Camazots cuối cùng đã tìm thấy vị trí của mình trong văn hóa người Quiche, một bộ tộc Maya sống trong những khu rừng nhiệt đới mà ngày nay là Guatemala và Honduras. Người K'iche nhanh chóng đồng nhất thần dơi với thần Zotzilaha Chamalcan của họ, tức là thần lửa. Người ta đã tìm thấy những ngôi đền hình móng ngựa Nahua dành để thờ thần dơi. Bàn thờ của họ được làm bằng vàng ròng và hướng về phương Đông. Người ta tin rằng thần dơi có quyền năng chữa khỏi mọi bệnh tật, nhưng cũng có quyền cắt đứt sợi dây thần thánh của sự sống gắn kết thể xác với linh hồn. Các thầy tế Nahua thường cầu khẩn thần dơi khi mong ước về sức khỏe. Chú thích Tham khảo Brady, James E., and Jeremy D. Coltman, Bats and the Camazotz: Correcting a Century of Mistaken Identity. Latin-American Antiquity 27(2) 2016: 227–237. Thần thoại
582
19829405
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sarina%20Bolden
Sarina Bolden
Sarina Isabel Calpo Bolden (sinh ngày 30 tháng 6 năm 1996 tại Santa Clara, California, Hoa Kỳ) là một cầu thủ bóng đá từng thi đấu ở vị trí hậu vệ và tiền đạo cho câu lạc bộ đang thi đấu ở A-League Western Sydney Wanderers. Sinh ra tại Hoa Kỳ, cô thi đấu cho đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Philippines. Cô được biết đến là cầu thủ đầu tiên của bóng đá nữ Philippines ghi bàn thắng tại một kỳ Giải vô địch bóng đá nữ thế giới. Cô cũng là chủ nhân của bàn thắng duy nhất vào lưới của đội đồng chủ nhà New Zealand tại giải đấu năm 2023, đem về chiến thắng lịch sử cho bóng đá nữ Philippines trên đấu trường quốc tế. Tiểu sử Sarina Bolden sinh ngày 30 tháng 6 năm 1996 tại Santa Clara, California, Hoa Kỳ, có cha là người Hoa Kỳ và mẹ là người Philippines và có một người em trai. Cô từng theo học tại Trường Trung học Milpitas, nơi cô từng thi đấu cho đội bóng đá và bóng mềm nữ. Học vấn Cô từng tốt nghiệp Đại học Loyola Marymount, nơi cô đã từng thi đấu cho đội bóng đá nữ của trường đại học này. Cô đã có đội 6 bàn thắng cho đội bóng của mình vào năm 2016. Sự nghiệp câu lạc bộ Năm 2020, cô thi đấu cho câu lạc bộ Tân Bắc Hàng Nguyên thuộc Mulan League của Đài Loan. Sau đó, cô chuyển sang thi đấu cho câu lạc bộ San Francisco Nighthawks của Giải bóng đá nữ Ngoại hạng Hoa Kỳ. Năm 2021, cô ký hợp đồng với câu lạc bộ Chifure AS Elfen Saitama đang thi đấu tại WE League của Nhật Bản. Cô ra mắt Saitama trong trận thua 1–4 của đội bóng này trước Tokyo Verdy Beleza vào ngày 10 tháng 10 năm 2021, trận đấu mà cô được tung vào sân từ băng ghế dự bị từ phút thứ 62 của trận đấu. Vào tháng 12 năm 2022, cô chính thức chia tay Elfen Saitama để chuyển sang thi đấu cho câu lạc bộ của Úc Western Sedney Wanderers. Sự nghiệp quốc tế Vào cuối năm 2017, cô được triệu tập lên đội tuyển nữ Philippines và nhận được sự chú ý của Richard Boon, lúc đó đang là huấn luyện viên trưởng của đội. Sau đó, cô có tên trong danh sách chính thức của Philippines tham dự Cúp bóng đá nữ châu Á 2018 diễn ra tại Jordan. Trong trận đấu ra quân gặp chủ nhà Jordan, Bolden đã có trận ra mắt cho đội tuyển quốc gia. Cô ghi bàn thắng quyết định đem về chiến thắng 2–1 trước đội chủ nhà. Cô tiếp tục có tên trong danh sách chính thức của Philippines tham dự Cúp bóng đá nữ châu Á 2022 diễn ra tại Ấn Độ. Philippines giành vé vào vòng đấu loại trực tiếp lần đầu tiên trong lịch sử các lần tham dự Cúp bóng đá nữ châu Á. Trong trận đấu tứ kết gặp Đài Bắc Trung Hoa, cô ghi bàn thắng mở tỷ số và cũng là người thực hiện thành công trong cú sút penalty quyết định (hai đội hòa nhau 1–1 sau 120 phút) giúp bóng đá Philippines lần đầu tiên trong lịch sử có đại diện tham dự một giải đấu do FIFA tổ chức – Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 diễn ra tại Úc và New Zealand. Tại giải đấu đó, Bolden làm nên lịch sử khi trở thành cầu thủ đầu tiên của Philippines ghi bàn thắng tại một kỳ Giải vô địch bóng đá nữ thế giới khi ghi bàn thắng duy nhất, mang về thắng lợi 1–0 trước đội đồng chủ nhà New Zealand, qua đó mang về thắng lợi lịch sử cho bóng đá nữ Philippines. Bàn thắng quốc tế Danh hiệu Philippines Huy chương đồng Đại hội Thể thao Đông Nam Á: 2021 Giải vô địch bóng đá nữ Đông Nam Á: 2022 Đời tư Anh chị em họ của Bolden là Jalen Brown và Ryanne Brown đều là những cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp. Tham khảo Liên kết ngoài Nhân vật còn sống Sinh năm 1996 Hậu vệ bóng đá nữ Tiền đạo bóng đá nữ Người Philippines
710
19829407
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quan%20h%E1%BB%87%20Armenia%20-%20Nga
Quan hệ Armenia - Nga
Quan hệ song phương giữa Armenia thời hiện đại và Liên bang Nga được thiết lập vào ngày 3 tháng 4 năm 1992, mặc dù Nga đã là một bên giữ vai trò quan trọng ở Armenia kể từ đầu thế kỷ 19. Mối quan hệ lịch sử của hai nước bắt nguồn từ Chiến tranh Nga-Ba Tư năm 1826 đến 1828 giữa Đế quốc Nga và Qajar Ba Tư, sau đó Đông Armenia được nhượng lại cho Nga. Hơn nữa, Nga được coi là nước bảo hộ các thần dân Thiên chúa giáo trong Đế chế Ottoman, bao gồm cả người Armenia. Sau khi Liên Xô tan rã, Armenia đã chia sẻ cách tiếp cận của Nga nhằm củng cố Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Armenia và Nga đều là thành viên của một liên minh quân sự là Tổ chức Hiệp ước An ninh Tập thể (CSTO), cùng với bốn quốc gia thuộc Liên Xô cũ khác, một mối quan hệ mà Armenia thấy cần thiết cho nền an ninh của mình. Trong số các hợp đồng và thỏa thuận xác định quan hệ liên chính phủ - hiệp ước hữu nghị, hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau ngày 29 tháng 8 năm 1997 có một số tài liệu quy định các căn cứ của các đơn vị quân đội Nga và liên lạc viên ở Armenia. Armenia trở thành thành viên chính thức của Liên minh kinh tế Á-Âu vào ngày 2 tháng 1 năm 2015. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, quan hệ giữa Nga và Armenia đã bắt đầu xấu đi do các sự kiện như Chiến tranh Nagorno-Karabakh năm 2020, cuộc đụng độ Armenia-Azerbaijan tháng 9 năm 2022, cuộc xâm lược Ukraina của Nga và đặc biệt là cuộc đụng độ Nagorno-Karabakh năm 2023. Rạn nứt Mối quan hệ giữa chính phủ hai nước trở nên căng thẳng sau khi Nikol Pashinyan được bầu làm thủ tướng Armenia vào tháng 5 năm 2018. Pashinyan được các chính trị gia và truyền thông Nga so sánh với Petro Poroshenko của Ukraina, người được bầu làm tổng thống ngay sau cuộc cách mạng Ukraina thân phương Tây năm 2014. Căng thẳng càng gia tăng sau vụ bắt giữ cựu tổng thống Robert Kocharyan và tổng thư ký CSTO là Yury Khatchaturov cũng như các tranh chấp kinh doanh liên quan đến các công ty Nga hoạt động tại Armenia. Nga được xem là miễn cưỡng can thiệp công khai vào cuộc chiến Nagorno-Karabakh năm 2020 để ủng hộ Armenia do căng thẳng đang diễn ra giữa Putin và Pashinyan. Cuối cùng, Nga đã tổ chức các cuộc đàm phán hòa bình giữa Azerbaijan và Armenia, đỉnh điểm là thỏa thuận ngừng bắn vào ngày 10 tháng 10 năm 2020 sau đó đã bị cả hai bên phớt lờ. Chiến tranh tạm dừng khi các nhà lãnh đạo của bên tham chiến và tổng thống Nga ký thỏa thuận đình chiến ở Moskva vào ngày 9 tháng 11 năm 2020. Vào ngày 3 tháng 9 năm 2023, trong một cuộc phỏng vấn, thủ tướng Nikol Pashinyan tuyên bố rằng việc Armenia chỉ dựa vào Nga để đảm bảo an ninh của mình là một sai lầm chiến lược. Pashinyan tuyên bố, "Moskva đã không thể thực hiện và đang trong quá trình giảm bớt vai trò của mình ở khu vực Nam Kavkaz rộng lớn hơn" và "Liên bang Nga không thể đáp ứng nhu cầu an ninh của Armenia. Ví dụ này sẽ chứng minh cho chúng ta thấy rằng sự phụ thuộc vào chỉ một đối tác trong vấn đề an ninh là một sai lầm chiến lược." Pashinyan cáo buộc lực lượng gìn giữ hòa bình Nga được triển khai để duy trì thỏa thuận ngừng bắn đã không thực hiện nhiệm vụ của mình. Pashinyan xác nhận rằng Armenia đang cố gắng đa dạng hóa các thỏa thuận an ninh của mình, đáng chú ý nhất là với Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ. Vào tháng 3 năm 2022, sau khi Nga bắt đầu xâm lược Ukraina thì đã có hơn 40.000 chuyên gia và lập trình viên người Nga đã trốn đến Yerevan. Một nửa ở lại một thời gian ngắn rồi đi tiếp. Phần còn lại sử dụng kết nối internet giúp Armenia kết nối với thế giới trong khi Nga ngày càng bị cắt đứt liên hệ với thế giới bên ngoài. Ngoài các chuyên gia công nghệ thông tin, cuộc di cư còn có nhiều blogger, nhà báo và nhà hoạt động xã hội bị bắt vì chỉ trích cuộc chiến ở Ukraina cũng lưu vong qua đây. Các cuộc phỏng vấn chỉ ra rằng không ai trong số những người lưu vong gặp phải sự thù địch ở Yerevan. Họ có thể vào Armenia mà không cần thị thực hoặc hộ chiếu và ở lại sáu tháng trong khi tiếng Nga được sử dụng rộng rãi tại đây. Mối quan hệ giữa Armenia và Nga tiếp tục xấu đi trong suốt cuộc xâm lược Ukraina của Nga. Tháng 2 năm 2023, Armenia từ chối quay sang Moskva để đàm phán trong khi hành lang Lachin bị đóng cửa. Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov đã công khai thừa nhận lý do căn bản của Azerbaijan về hành động xâm lược năm 2020 Điều này càng leo thang khi Tòa án Hình sự Quốc tế tuyên bố vào ngày 17 tháng 3 năm 2023 rằng họ đã ban hành lệnh bắt giữ Putin. Vì Armenia là một bên ký kết Quy chế Roma, Armenia sẽ có nghĩa vụ pháp lý bắt giữ Vladimir Putin nếu ông ta vào lãnh thổ Armenia. Vào tháng 4 năm 2023, Nga ban hành lệnh cấm nhập khẩu các chế phẩm sữa của Armenia, được nhiều người coi là động thái trả đũa đối với Armenia Vào ngày 2 tháng 6 năm 2023, Thủ tướng Armenia Nikol Pashinyan tuyên bố rằng Armenia không phải là đồng minh của Nga trong bối cảnh cuộc chiến ở Ukraina. Vào ngày 3 tháng 9, Pashinyan tuyên bố thêm rằng việc dựa vào Nga làm người bảo đảm an ninh chính đã chứng tỏ là một sai lầm đối với Armenia. Ba ngày sau, chính phủ Nga bày tỏ lo ngại về ý định tổ chức các cuộc tập trận quân sự với Hoa Kỳ của Armenia, như một phần trong nỗ lực của Armenia nhằm cải thiện hơn nữa quan hệ quốc phòng với các nước phương Tây. Mối quan hệ thậm chí còn trở nên tồi tệ hơn sau cuộc đụng độ Nagorno-Karabakh năm 2023 và cuộc di cư sau đó của người dân Artsakh thuộc dân tộc Armenia. Thư ký Hội đồng An ninh Quốc gia Armenia là Armen Grigoryan cáo buộc lực lượng gìn giữ hòa bình Nga không bảo vệ được Nagorno-Karabakh điều này cũng được Pashinyan nhắc lại. Chủ tịch Hội đồng An ninh Nga Dmitry Medvedev cho biết Nga sẽ không bảo vệ Armenia trước cuộc tấn công của Azerbaijan, đồng thời chỉ trích mạnh mẽ Thủ tướng Armenia Nikol Pashinyan. Người phát ngôn của Tổng thống Nga là Dmitry Peskov bác bỏ cáo buộc từ Armenia rằng lực lượng gìn giữ hòa bình của nước này đã không bảo vệ được Nagorno-Karabakh khỏi cuộc tấn công của Azerbaijan, gọi đây là điều "vô căn cứ". Cơ quan truyền thông độc lập của Nga Meduza cho biết họ đã nhận được một tài liệu hướng dẫn từ Điện Kremlin lưu hành vào ngày 19 tháng 9 tới các cơ quan truyền thông nhà nước khuyến nghị đổ lỗi cho Armenia và phương Tây, thay vì Azerbaijan, về sự leo thang của xung đột ở Nagorno-Karabakh. Phát biểu tại Đại hội đồng Liên hợp quốc lần thứ 78 tại thành phố New York vào ngày 23 tháng 9 năm 2023, Bộ trưởng Ngoại giao Sergei Lavrov cáo buộc lãnh đạo Armenia đã "đổ thêm dầu vào lửa", ám chỉ xung đột và nhắc lại rằng các thỏa thuận được thực hiện sau sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 tuyên bố rằng biên giới hiện tại của các nước cộng hòa cấu thành trước đây là bất khả xâm phạm, từ đó công nhận Nagorno-Karabakh là một phần của Azerbaijan Vào ngày 25 tháng 9, Bộ Ngoại giao Nga đã công bố một tuyên bố chỉ trích kịch liệt Chính phủ Armenia, đánh dấu cột mốc thấp nhất trong quan hệ giữa hai nước kể từ khi Armenia độc lập vào năm 1991. Chú thích A N Quan hệ giữa thực dân và thuộc địa cũ
1,438
19829417
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20t%E1%BB%91i%20cao%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20Litva
Hội đồng tối cao Cộng hòa Litva
Hội đồng tối cao Cộng hòa Litva (Lietuvos Respublikos Aukščiausioji Taryba, còn được biết đến với cái tên Hội đồng tối cao - Seimas phục hồi, tiếng Litva: Aukščiausioji Taryba – Atkuriamasis Seimas), là cơ quan quản lý tối cao, được bầu vào năm 1990. Phiên họp đầu tiên được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 năm 1990, lần cuối cùng vào ngày 11 tháng 11 năm 1992. Quyền hạn Như đã nêu trong Luật cơ bản lâm thời của Cộng hòa Litva (1990), Hội đồng tối cao có các quyền hạn như sau: thông qua Hiến pháp của Cộng hòa Litva và sửa đổi nó kêu gọi bầu cử đại biểu trên khắp Cộng hòa Litva và xác nhận thành phần của Ủy ban bầu cử Cộng hòa phê duyệt dự thảo các chương trình cơ bản phát triển kinh tế và xã hội của Cộng hòa Litva; phê duyệt ngân sách điều chỉnh quan hệ tài sản ở nước ta giải thích luật pháp của Cộng hòa Litva thành lập các cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm trước Hội đồng tối cao Cộng hòa Litva; thiết lập hệ thống viện kiểm sát, tòa án và các cơ quan tư pháp khác của Cộng hòa Litva bầu Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và Thư ký Hội đồng tối cao bầu Tòa án tối cao Litva và các thẩm phán của tòa án khu vực và thành phố, bổ nhiệm Tổng kiểm sát viên Cộng hòa Litva; tổ chức các phiên điều trần thường xuyên, nhận báo cáo của các tổ chức do Hội đồng tối cao thành lập và bầu chọn, ngoại trừ Tòa án tối cao Litva khi cần thiết, tiến hành bỏ phiếu bất tín nhiệm bằng bỏ phiếu kín liên quan đến Cơ quan hành pháp của Cộng hòa Litva và các tổ chức khác do Hội đồng tối cao thành lập hoặc liên quan đến bất kỳ thành viên nào của họ, ngoại trừ Tòa án tối cao Litva thiết lập các biện pháp thích hợp để bảo đảm an ninh nhà nước và trật tự công cộng phân bổ lại cơ cấu lãnh thổ hành chính của Cộng hòa Litva thay đổi tên, trạng thái của các đơn vị hành chính - lãnh thổ xem xét các vấn đề liên quan đến chính sách đối ngoại của Cộng hòa Litva; phê chuẩn và từ bỏ các điều ước quốc tế của nước Cộng hòa thiết lập các giải thưởng nhà nước của Cộng hòa Litva ra quyết định tổ chức trưng cầu dân ý ban hành lệnh ân xá bãi bỏ các chỉ thị và nghị định của Cơ quan hành pháp, cũng như các quyết định của hội đồng khu vực và hội đồng thành phố của Cộng hòa nếu chúng mâu thuẫn với luật pháp hiện hành giải quyết các vấn đề quan trọng khác của nhà nước Hoạt động chính trị Ngay từ khi thành lập Hội đồng Tối cao vào ngày 11 tháng 3 năm 1990, Litva đã thông qua Đạo luật Tái lập Nhà nước Litva . Vào ngày 12 tháng 3, Hội đồng Tối cao đã thông qua Nghị quyết tuyên bố luật nghĩa vụ quân sự phổ cập của Liên Xô thông qua ngày 12 tháng 10 năm 1967 sẽ không có hiệu lực ở Cộng hòa Litva. Hội đồng cũng tuyên bố quốc hữu hóa tất cả tài sản của Liên Xô nằm ở Litva. Chỉ ba ngày sau, vào ngày 15 tháng 3, Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô đã thông qua một nghị quyết, không chấp nhận việc khôi phục nền độc lập của Cộng hòa Litva. Đại hội đã thông qua nghị quyết này với 1.463 đại biểu nhân dân bỏ phiếu tán thành, 98 phiếu chống và 128 phiếu trắng. Việc phong tỏa kinh tế từ Liên Xô khiên kinh tế của đất nước đình trệ và các quốc gia nước ngoài không công nhận nền độc lập của Litva. Nhưng vào ngày 6 tháng 9 năm 1991, sau nỗ lực đảo chính thất bại của Liên Xô năm 1991, chính phủ Liên Xô đã chính thức công nhận nền độc lập của Litva và các quốc gia vùng Baltic khác, đồng thời dỡ bỏ lệnh phong tỏa. Trong nửa đầu năm 1992, đa số trong quốc hội đã thay đổi. Cho đến cuối năm 1991, nhóm nghị viện Sąjūdis Thống nhất vẫn chiếm đa số. Các thành viên của liên minh vào cuối năm 1991 và đầu năm 1992 dần dần chuyển sang các nhóm nghị viện khác (ví dụ, Nhóm nghị viện Thứ bảy/Ôn hòa). Điều này dẫn đến cuộc tranh đấu nội bộ giữa nhóm nghị viện Sąjūdis Thống nhất (cùng với chính phủ do Vagnorius lãnh đạo) và một nhóm là 'Đa số mới' (). Điều này đã gây ra sự bế tắc trong quốc hội khi cả hai nhóm tổ chức các phiên họp riêng biệt hoặc nhóm nghị viện Sąjūdis Thống nhất tẩy chay các phiên họp chính thức. Vào ngày 9 tháng 7 năm 1992, Hội đồng Tối cao đã bỏ phiếu cho cuộc bầu cử nhanh chóng diễn ra vào ngày 25 tháng 10 năm 1992 . Thành phần Chủ tịch Phó Chủ tịch Tham khảo Lịch sử luật pháp Litva
885
19829434
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20qu%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20%C4%90%E1%BA%BF%20qu%E1%BB%91c%20Sasan
Danh sách quân chủ Đế quốc Sasan
Dưới đây là danh sách quân chủ của nhà Sasan, những người đã lật đổ sự cai trị của đế quốc tiền nhiệm Parthia tại trận Hormozdgan năm 224. Đế quốc thời kỳ đỉnh cao bao trùm toàn bộ Iran, vươn tới tận Thổ Nhĩ Kỳ và đảo Rhodes ở phía Tây và Pakistan ở phía Đông, cũng như bao gồm một phần lãnh thổ vùng Kavkaz, Yemen, Oman, Ai Cập, UAE, Syria, Jordan và vùng Trung Á. Vương triều Sassanids bắt đầu từ Ardashir I, một trong những quý tộc và vương phó Iran tại vùng Istakhr và kết thúc khi Yazdegerd III mất vào năm 651. Tuy nhiên giữa các thời điểm khi Boran mất và khi Yazdegerd III lên ngôi (khoảng giữa các năm 631 và năm 632) rất khó xác định người cai trị do những người kế nhiệm trong khoảng thời gian này bị phế truất hoặc bị các kẻ tiếm vị khác thuộc nhà Sasan cạnh tranh ngôi vị. Danh xưng Adashir, người khai sinh là đế quốc Sasan, là người đầu tiên sử dụng danh xưng "Shahanshah của người Iran" (Tiếng Ba Tư trung đại: šāhān šāh ī ērān; Tiếng Parthia: šāhān šāh ī aryān). Người kế nhiệm Adashir, Shapur I, đã để lại những ghi chép danh xưng cho những người tiền nhiệm mình trên bức phù điêu tại Ka'ba-ye Zartosht. Trên bức phù điêu này thì Adashir gọi họ bằng những danh xưng khác nhau và nhìn chung có vẻ như mang quyền lực tăng dần, cụ thể là: Xwaday (tức lãnh chúa) cho Sasan, Shah (vua) cho Papag, Shahanshah (tức vua của các vị vua) của người Iran cho Adashir I, và Shahanshah của người Iran và các dân tộc phi Iran (Tiếng Ba Tư trung đại: šāhān šāh ī ērān ud anērān) cho bản thân ông. Danh hiệu "Vua của các vị vua của người Iran và các dân tộc phi Iran" được thấy trên một đồng bạc của Shapur I, cho thấy rằng danh hiệu này được đưa ra sau chiến thắng của ông trước người La Mã và theo sau đó là việc sáp nhập các vùng đất không phải của Iran vào vương quốc Sasan. Danh hiệu này sau đó được sử dụng trên đồng xu của tất cả các vị vua Sasan sau Shapur I. Thời kỳ trị vì của Yazdegerd I (399 – 420) đánh dấu một bước chuyển quan trọng quan điểm chính trị của vương triều Sasan khi chuyển trọng tâm chính trị nhiều hơn về phía Đông thay vì thiên về phía Tây như trước đó do xung đột ở với các bộ tộc ở khu vực phía Đông Iran ngày nay. Xung đột với người Hung Iran gợi nhớ các cuộc xung đột mang tính chất truyền thuyết giữa người Kayani và các bộ lạc Turan được mô tả trong các ghi chép bằng tiếng Tân Avestan. Danh hiệu Ramshahr (người gìn giữ hoà bình trong các vùng đất [của mình]) - được - thêm vào các đồng tiền dưới thời trị vì của Yazdegerd I. Trong bài thơ viết bằng tiếng Ba Tư trung đại mang tên Ayadgar-i Zariran ("Di chúc của Zarer"), danh xưng này được sử dụng bởi người cai trị cuối cùng của vương triều Kayani -  Vishtaspa - cũng như sử dụng trong văn bản Hoả giáo của thế kỷ thứ 10 là Denkard. Sự quan tâm của người Sasan đối với hệ tư tưởng Kayani kéo dài cho đến khi đế quốc Sasan diệt vong. Bahram V trong các đồng xu hiếm hoi ở Pars có sử dụng danh xưng kirbakkar (nhân từ). Thời kỳ trị vì của Yazdegerd II đánh dấu việc đúc và cho in các đồng tiền với các dòng chữ mới: mazdēsn bay kay (Đức vua thờ phụng Mazda), thể hiện sự yêu mến đối những người cai trị nhà Kayani, những người cũng sử dụng tước hiệu kay này. Dưới thời Peroz I (459–484), tước hiệu shahanshah không xuất hiện trên các đồng xu của ông, chỉ xuất hiện dòng chữ kay Peroz ("Vua Peroz"). Tuy nhiên một con dấu khác của Peroz lại xuất hiện tước hiệu trên, chứng tỏ rằng đồng xu đôi khi cũng không thể hiện được đầy đủ tước hiệu cuả các vị quân chủ Sasan. Balash, anh trai và cũng là người kế vị của Peroz I, sử dụng tước hiệu hukay ("vị vua tốt"). Kavadh I (tv. 488–496, 498–531) là vị vua cuối cùng sử dụng tước hiệu kay trên đồng tiền của mình - với đồng tiền cuối cùng phát hành năm 513. Mặt sau các đồng tiền của ông có ghi tên của ông, tuy nhiên từ năm 504 dòng chữ abzōn (cầu mong sự thịnh vượng/phát triển) được thêm vào. Dưới thời kỳ trị vì thứ hai cuả Khosrau II (tv. 590, 591–628), chữ tượng hình GDH là xwarrah ("sự tráng lệ hoàng gia"). Ông kết hợp với dòng chữ abzōn trước đó và tạo nên dòng chữ: "Khosrow, người làm tôn lên vẻ tráng lệ hoàng gia (Khūsrōkhwarrah abzōt). Danh xưng shahanshah cũng được khôi phục trên các đồng xu của ông. Hai người kế vị ông, Kavadh II (tv. 628) và Ardashir III (tv. 628–630), đã hạn chế sử dụng tước hiệu này, dường như để tạo khoảng cách với Khosrow II. Về vị vua Người đứng đầu Đế quốc Sasan là [shahanshah] (vua của các vị vua), còn được gọi đơn giản là shah (vua). Sức khỏe và phúc lợi của ông luôn quan trọng và cụm từ "Cầu mong ông được bất tử" đã được dùng để đáp lại ông. Bằng cách nhìn vào đồng tiền Sasan xuất hiện từ thế kỷ thứ 6 trở về sau, người ta có thể nhận thấy rõ mặt trăng và mặt trời. Ý nghĩa của mặt trăng và mặt trời, theo lời của nhà sử học Iran [Touraj Daryaee], "gợi ý rằng nhà vua ở trung tâm thế giới và mặt trời và mặt trăng quay xung quanh ông. Như vậy, vị quân chủ Sasan trên thực tế là" vua của bốn góc thế giới," đó là một danh xưng cũ bắt nguồn từ các vị quân chủ vùng Lưỡng Hà." Nhà vua coi tất cả những người cai trị khác, chẳng hạn như người La Mã, người Thổ và người Trung Quốc, là bề dưới của ông. Nhà vua mặc quần áo sặc sỡ, trang điểm, đội vương miện rất nặng, trong khi bộ râu của ông được trang trí bằng vàng. Các vị vua Sasanian đầu tiên tự coi mình là người có nguồn gốc thần thánh; họ tự gọi mình là "bay" (thần thánh). Danh sách quân chủ Xem thêm Cây gia phả Sasan Danh sách vua Parthia Ghi chú Chú thích Nguồn
1,126
19829437
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20qu%E1%BA%A7n%20v%E1%BB%A3t%20M%E1%BB%B9%20M%E1%BB%9F%20r%E1%BB%99ng%202023%20-%20%C4%90%C3%B4i%20nam%20n%E1%BB%AF
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2023 - Đôi nam nữ
Anna Danilina và Harri Heliövaara là nhà vô địch, đánh bại Jessica Pegula và Austin Krajicek trong trận chung kết, 6–3, 6–4. Danilina trở thành tay vợt Kazakhstan đầu tiên vô địch đôi nam nữ Grand Slam, và Heliövaara trở thành tay vợt Phần Lan đầu tiên vô địch đôi nam nữ Mỹ Mở rộng. Storm Hunter và John Peers là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 1 trước Barbora Strýcová và Santiago González. Strýcová, cựu tay vợt số 1 thế giới ở nội dung đôi, thi đấu trận đấu cuối cùng của cô ở vòng tứ kết. Ivan Dodig có cơ hội hoàn thành Grand Slam sự nghiệp, nhưng thua ở vòng 1. Hạt giống Kết quả Chung kết Nửa trên Nửa dưới Vận động viên khác Đặc cách Thay thế Rút lui Desirae Krawczyk / Neal Skupski → thay thế bởi Alexa Guarachi / Andrés Molteni Peyton Stearns / Rajeev Ram → thay thế bởi Nadiia Kichenok / Máximo González Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính Giải quần vợt Mỹ Mở rộng - Đôi nam nữ Giải quần vợt Mỹ Mở rộng - Đôi nam nữ Đôi nam nữ Giải quần vợt Mỹ Mở rộng theo năm - Đôi nam nữ
200
19829448
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20V%C4%83n%20Hi%E1%BA%BFu%20%28nh%C3%A0%20ngo%E1%BA%A1i%20giao%29
Nguyễn Văn Hiếu (nhà ngoại giao)
Nguyễn Văn Hiếu (ngày 4 tháng 4 năm 1906 – ngày 23 tháng 9 năm 1995) là anh cả của cựu Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu, là luật sư và nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Úc, New Zealand, Ý, Tây Ban Nha và Hy Lạp. Tiểu sử Nguyễn Văn Hiếu sinh ngày 4 tháng 4 năm 1906, tại thành phố Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận, Liên bang Đông Dương. Hồi còn trẻ ông được đào tạo chuyên ngành luật ở Paris nước Pháp rồi về sau ra trường hành nghề luật sư. Dưới thời Pháp thuộc, ông làm công chức trong chính quyền thuộc địa. Tháng 12 năm 1963, ông được bổ nhiệm làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Úc. Ngày 17 tháng 3 năm 1964, ông làm lễ nhậm chức, và trình quốc thư lên chính phủ Úc vào tháng sau. Ông từ chức vào ngày 10 tháng 10 năm 1966 sau hai năm làm đại sứ tại đây. Ngoài ra, ông còn giữ chức vụ Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Ý, Hy Lạp và Tây Ban Nha. Nguyễn Văn Hiếu qua đời ngày 23 tháng 9 năm 1995 tại thành phố Houston, bang Texas, Hoa Kỳ. Tham khảo Sinh năm 1906 Mất năm 1995 Người Ninh Thuận Luật sư Việt Nam Nhà ngoại giao Việt Nam Người Mỹ gốc Việt Người Việt di cư tới Mỹ Đại sứ Việt Nam Cộng hòa Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa
251
19829449
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20V%C4%83n%20L%E1%BB%99c%20%28nh%C3%A0%20ngo%E1%BA%A1i%20giao%29
Nguyễn Văn Lộc (nhà ngoại giao)
Nguyễn Văn Lộc (ngày 4 tháng 7 năm 1915 – ngày 17 tháng 7 năm 2007) là nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức vụ Đại biện lâm thời Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Nhật Bản, Đại biện lâm thời Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Philippines và Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Bờ Biển Ngà cùng các chức vụ khác. Tiểu sử Nguyễn Văn Lộc sinh ngày 4 tháng 7 năm 1915, tại tỉnh Tân An, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương. Dưới thời Pháp thuộc, ông theo học chuyên ngành luật rồi về sau ra trường hành nghề luật sư. Từ năm 1952 đến năm 1962, ông được bổ nhiệm làm Vụ trưởng Vụ Tư pháp, Văn hóa, Lãnh sự và Hành chính Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa. Năm 1963, ông công du sang Nhật Bản trên cương vị quyền Trưởng Phái đoàn Bồi thường Việt Nam Cộng hòa tại Tokyo. Ngày 9 tháng 12 cùng năm, ông giữ chức Công sứ kiêm Đại biện lâm thời Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Nhật Bản, đến năm 1965 thì nộp đơn từ chức, và được Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nguyễn Duy Quang kế nhiệm. Từ năm 1966 đến 1967, ông chuyển sang làm Công sứ Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Philippines. Từ năm 1968 đến năm 1972, ông làm Công sứ kiêm Đại biện lâm thời Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Philippines. Từ năm 1972 đến năm 1975, ông giữ chức vụ Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Bờ Biển Ngà (từ năm 1974, ông còn kiêm chức Đại sứ tại Niger, Togo và Thượng Volta), đây cũng là lần cuối cùng ông làm Đại sứ tại nước này trước xảy ra biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nguyễn Văn Lộc qua đời ngày 17 tháng 7 năm 2007 tại Villeneuve-la-Garenne, Hauts-de-Seine, Pháp. Đời tư Nguyễn Văn Lộc đã kết hôn và có bốn người con. Tham khảo Sinh năm 1915 Mất năm 2007 Người Long An Luật sư Việt Nam Người Pháp gốc Việt Người Việt di cư tới Pháp Nhà ngoại giao Việt Nam Đại sứ Việt Nam Cộng hòa Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa
383
19829493
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A7n%20tr%C4%83ng
Thần trăng
Thần trăng hay Thần mặt trăng hay Nguyệt thần (Lunar deity/Moon deity) là một vị nữ thần đại diện cho Mặt trăng hoặc một khía cạnh của mặt trăng. Những vị thần này có thể có nhiều chức năng và truyền thống khác nhau tùy thuộc vào nền văn hóa, nhưng chúng thường có liên quan với nhau. Các vị thần mặt trăng và việc thờ cúng Mặt trăng có thể được nhận thấy trong hầu hết lịch sử được ghi lại dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhiều nền văn hóa đã ngầm liên hệ chu kỳ 29,5 ngày của mặt trăng với chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ, bằng chứng là nguồn gốc ngôn ngữ chung của các từ "kinh nguyệt" (Nenstruation) và "mặt trăng"/"nguyệt" (Moon) trong nhiều nhóm ngôn ngữ. Sự nhận dạng này không phổ biến, được chứng minh bằng thực tế là không phải tất cả các vị thần mặt trăng đều là nữ. Tuy nhiên, nhiều thần thoại nổi tiếng có nữ thần mặt trăng, bao gồm nữ thần Hy Lạp Selene, nữ thần La Mã Luna và nữ thần Trung Quốc Hằng Nga. Một số nữ thần bao gồm Artemis, Hecate và Isis ban đầu không có các khía cạnh của mặt trăng và chỉ có được chúng vào cuối thời cổ đại do sự đồng bộ hóa với vị thần mặt trăng trên thực tế là Hy Lạp-La Mã Selene/Luna. Các nền văn hóa có nam thần mặt trăng thường có nữ thần mặt trời và ngược lại. Trong tín ngưỡng Bakongo thì nữ thần trái đất và mặt trăng Nzambici là đối tác nữ của thần mặt trời Nzambi Mpungu. Một ngoại lệ như Ấn Độ giáo đề cao cả khía cạnh nam và nữ của thần mặt trời. Người Ai Cập cổ đại có thờ một số vị thần mặt trăng bao gồm Khonsu và Thoth, mặc dù Thoth là một vị thần phức tạp hơn. Thần Set tượng trưng cho mặt trăng trong Lịch ngày may mắn và ngày xui xẻo của người Ai Cập. Nhiều nền văn hóa được định hướng theo trình tự thời gian theo chu kỳ Mặt trăng (âm lịch), trái ngược với Mặt trời. Lịch Hindu duy trì tính toàn vẹn của tháng âm lịch và thần mặt trăng Chandra có ý nghĩa tôn giáo trong nhiều lễ hội Hindu (ví dụ: Karwa Chauth, Sankashti Chaturthi và trong các lần nhật thực). Hình ảnh Chú thích Thần thánh Tín ngưỡng
413
19829499
https://vi.wikipedia.org/wiki/Van%20E.%20Chandler
Van E. Chandler
Van Edgar Chandler (5 tháng 3 năm 1925 – 11 tháng 3 năm 1998) là một sĩ quan quân đội và phi công người Mỹ, ông đã bắn phá hủy 5 máy bay quân địch trong trận không chiến trong Thế chiến II, trở thành phi công trẻ nhất trong Quân đội Hoa Kỳ. Ông thực hiện các nhiệm vụ trong Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam, trước khi giải ngũ khỏi Không quân Hoa Kỳ vào năm 1974 với quân hàm đại tá. Đầu đời Chandler sinh ngày 5 tháng 3 năm 1925 tại Kemp, Texas. Binh nghiệp Tháng 2 năm 1943, ông tuyển quân vào Không lực Lục quân Hoa Kỳ nhưng lúc đầu bị từ chối vì còn trẻ tuổi. Tháng 3 năm 1943, ông được phép nhập ngũ và bắt đầu nhiệm vụ. Vào tháng 1 năm 1944, ông nhận phù hiệu phi công và bằng sắc phong hàm thiếu úy. Thế chiến II Vào tháng 6 năm 1944, Chandler được phân công vào Phi đoàn Chiến đấu số 336 (336th Fighter Squadron) thuộc Liên đoàn Chiến đấu số 4 (4th Fighter Group) tại Mặt trận Tác chiến Châu Âu. Từ căn cứ tại Không quân Hoàng gia Debden, ông thực hiện các nhiệm vụ trên chiếc North American P-51 Mustang. Trong khi thực hiện nhiệm vụ một tuần sau khi đến Anh, chiếc P-51 của Chandler gặp trục trặc và ông phải bỏ thoát qua Đức. Sau khi thoát ra, ông được một gia đình người Bỉ chăm sóc cho đến khi được Lục quân Anh giải cứu. Sau khi trở về đơn vị, ông lập chiến công trên không đầu tiên vào ngày 12 tháng 9, khi bắn hạ một chiếc Focke-Wulf Fw 190 trên Wiesbaden, Đức. Ông lập chiến công thứ hai vào ngày 6 tháng 11. Vào Lễ Giáng sinh năm 1944, ông bắn hạ một chiếc Fw 190 và Messerschmitt Bf 109 trên Koblenz. Ông đạt huy hiệu phi công ách vào đầu năm mới 1945, khi bắn hạ một chiếc Bf 109 trên Uelzen ở tuổi 19, khiến ông trở thành phi công trẻ nhất trong Quân đội Hoa Kỳ đạt được huy hiệu này. Ngày 29 tháng 1 năm 1945, ông được bổ nhiệm làm Trợ lý Sĩ quan Tác chiến và Pháo binh của Phi đoàn Chiến đấu 336. Trong Thế chiến II, Chandler được công nhận là đã bắn phá hủy 5 máy bay quân địch trong trận không chiến cộng với 4 chiếc bị phá hủy trên mặt đất khi bắn phá các sân bay của quân địch. Khi phục vụ trong 4th FG, ông điều khiển chiếc P-51 mang tên "Wheezy". Chiến tranh Lạnh Sau khi Thế chiến II kết thúc, Chandler được phân công vào Phi đoàn Chiến đấu số 76 (76th Fighter Squadron) ở Guam, đến tháng 12 năm 1948, ông được phân công đến Phi đoàn Chiến đấu số 61 (61st Fighter Squadron). Vào tháng 9 năm 1951, ông được thăng quân hàm thiếu tá đến tháng 12 cùng năm, ông được phân công vào Phi đoàn Chiến đấu số 25 (25th Fighter Squadron) thuộc Không đoàn Chiến đấu số 51 (51st Fighter Wing) tại Căn cứ Không quân Suwon ở Hàn Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên. Trong cuộc chiến tranh, ông được công nhận khi đã bắn hạ ba chiếc Mikoyan-Gurevich MiG-15 khi điều khiển chiếc F-86 Sabre, nâng tổng số chiến công của ông lên tám. Sau khi trở về từ Hàn Quốc, Chandler phục vụ trong Bộ Tư lệnh Phòng không tại Căn cứ Không quân Ent ở Colorado và sĩ quan giám sát Lockheed F-104 Starfighter tại Căn cứ Không quân Edwards ở California, từ năm 1952 đến năm 1956. Vào tháng 3 năm 1958, ông theo học tại Đại học Tham mưu Không quân Hoàng gia ở Luân Đôn, cùng năm, ông trở thành tư lệnh Phi đoàn Chiến đấu số 22 (22nd Fighter Squadron) tại Căn cứ Không quân Bitburg ở Tây Đức. Năm 1961, ông được chỉ định đến sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược tại Căn cứ Không quân Offutt ở Nebraska và vào tháng 8 năm 1967, ông được chỉ định đến sở chỉ huy Không quân Hoa Kỳ tại Lầu Năm Góc. Sau khi theo học tại Khoa Không chiến từ tháng 8 năm 1968 đến tháng 8 năm 1969, Chandler được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh Tác chiến của Không đoàn Chiến đấu số 31 (31st Fighter Wing) tại Căn cứ Không quân Tuy Hòa thời Việt Nam Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam. Ông thực hiện các nhiệm vụ trên chiếc North American F-100 Super Sabre trong chiến tranh cho đến tháng 8 năm 1970. Nhiệm vụ cuối của ông là tại Sân bay Quốc tế Duluth ở Minnesota, ông giữ chức vụ Phó phụ trách Tác chiến của Bộ Chỉ huy Phòng không Bắc Mỹ, từ tháng 6 năm 1972 cho đến khi giải ngũ khỏi Không quân Hoa Kỳ vào tháng 8 năm 1974. Gia đình Chandler kết hôn với Mary Elizabeth, nhũ danh Weber. Họ có một con gái và ba người cháu. Sau khi giải ngũ khỏi Không quân Hoa Kỳ, Chandler cùng gia đình chuyển đến Greeley, Colorado. Ông tốt nghiệp với bằng kinh doanh từ Đại học Bắc Colorado. Chandler mắc bệnh ung thư và qua đời vào ngày 11 tháng 3 năm 1998, ở tuổi 73. Theo nguyện vọng của Chandler, thi hài ông được hỏa táng và tro cốt rải trên Pawnee Buttes. Thành tích Huy chương Huy chương gồm: Congressional Gold Medal (2015) Tham khảo Ghi chú Chú thích Phi công Không lực Lục quân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai Phi công Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam Người Texas Quận Kaufman, Texas Chết vì ung thư
950
19829502
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20th%C6%B0%E1%BB%9Fng%20Ng%C3%B4i%20sao%20TVB%20Malaysia
Giải thưởng Ngôi sao TVB Malaysia
Giải thưởng Ngôi sao TVB Malaysia () là lễ trao giải thường niên tôn vinh những thành tựu chương trình tiếng Quảng Đông ở Malaysia. Nó được sản xuất bởi TVB Entertainment News, với Astro và MY FM là đối tác truyền thông. Buổi lễ trước đây được biết đến với tên gọi My Astro On Demand Favorites Awards (tiếng Trung : My Astro On Demand 我的最爱颁奖典礼), kế thừa của Astro Wah Lai Toi Drama Awards (tiếng Trung : Astro华丽台电视剧大奖). Kênh truyền hình Malaysia Astro Wah Lai Toi, do Astro trình bày, phát sóng các chương trình truyền hình Hồng Kông do TVB sản xuất. Năm 2005, Astro tổ chức lễ trao giải đầu tiên, Giải thưởng Phim truyền hình Astro Wah Lai Toi năm 2004, trao giải cho các nam nữ diễn viên Hồng Kông vì thành tích diễn xuất của họ trong các bộ phim truyền hình TVB. TVB Entertainment News đã đảm nhận việc sản xuất loạt giải thưởng vào năm 2013, đổi tên thành The TVB Star Awards. Kể từ đó, nó đã trở thành một sự kiện thường niên và được coi là khúc dạo đầu cho Giải thưởng kỷ niệm TVB của Hồng Kông. Các đề cử cho Giải thưởng Ngôi sao TVB do Astro và TVB cùng xác định cho các chương trình TVB chiếu trên Astro Wah Lai Toi trong suốt năm được chỉ định. Người chiến thắng được quyết định bởi công chúng Malaysia. Hiện tại, việc bình chọn được thực hiện thông qua ứng dụng di động do TVB và Astro sản xuất. Hạng mục Danh mục hiẹn hành Các hạng mục giải thưởng hiện tại bao gồm: Phim truyền hình TVB được yêu thích nhất của tôi, Nam diễn viên chính và Nữ diễn viên chính, Nam diễn viên chính và Nữ diễn viên vai phụ, Nhân vật chính kịch, Trên màn ảnh Cặp đôi và Bài hát chủ đề phim truyền hình. Các hạng mục này đã được trao từ năm 2004. Năm 2011, hạng mục Nam và Nữ diễn viên TVB được yêu thích nhất đã được bổ sung. Năm 2013, các giải thưởng Người dẫn chương trình TVB được yêu thích nhất của tôi, Chương trình tạp kỹ và Chương trình phong phú đã được bổ sung, nâng tổng số giải thưởng TVB được yêu thích nhất của tôi lên 13. Danh mục ngừng sản xuất hoặc đặc biệt Các danh mục bị ngừng sản xuất hoặc đặc biệt bao gồm: Cái tát khó quên nhất năm 2004. Năm 2005, các danh mục bao gồm: Phát súng yêu thích của tôi, Người đẹp yêu thích nhất của tôi, Hình tượng người cha yêu thích nhất của tôi và Hình tượng người mẹ yêu thích nhất của tôi. Hạng mục Nụ hôn khó quên nhất được trao vào năm 2004 và 2008. Nhân vật phụ được yêu thích nhất và Ngoại hình cực kỳ yêu thích của tôi đã được trao giải từ năm 2006 đến năm 2008. Cảnh khó quên nhất đã được trao giải trong những năm 2004–2008. Nhân vật phản diện khó quên nhất được trao giải vào các năm 2004, 2008 và 2009. Nhân vật huyền thoại được yêu thích nhất và Vua nổi tiếng xuất sắc được yêu thích nhất của tôi được trao vào năm 2012. Ngôi sao TVB đang lên ở Malaysia đã được trao giải vào năm 2014 và Giải chọn đặc biệt của Astro MY FM cho Bài hát chủ đề phim truyền hình TVB đã được trao ở 2015. Giải thưởng danh dự Giải thưởng Thành tựu Ngôi sao TVB được trao lần đầu tiên vào năm 2014. Năm Nhân vật TVB được yêu thích Tham khảo
611
19829507
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dwarf
Dwarf
Dwarf (số nhiều trong tiếng Anh: Dwarves) còn gọi là người lùn là một chủng loại sinh vật siêu nhiên trong văn hóa dân gian Đức. Có nhiều sự giai thoại về dwarf trong suốt lịch sử, họ thường được miêu tả là những sinh vật giống con người nhưng rất tháp bé thường sống trên núi và là những người thợ thủ công lành nghề. Trong các tác phẩm văn học thời kỳ đầu, chỉ có nam giới mới được gọi là dwarf. Tuy nhiên họ vẫn được mô tả là có chị và con gái, trong khi khái niệm về các dwarf nam và nữ chỉ xuất hiện trong văn học và văn hóa dân thời kỳ sau này. Dwarf tiếp tục xuất hiện trong nền văn hóa đại chúng hiện đại, chẳng hạn như trong các tác phẩm của JRR Tolkien và Terry Pratchett, loài dwarf thường có mối quan hệ gần guĩ nhưng khác biệt với loài elf. Tham khảo Thư mục Nguồn sơ cấp Nguồn thứ cấp Á nhân Nhân vật cổ tích kiểu mẫu
204
19829520
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nebuchadnezzar%20%28tr%C3%B2%20ch%C6%A1i%20%C4%91i%E1%BB%87n%20t%E1%BB%AD%29
Nebuchadnezzar (trò chơi điện tử)
Nebuchadnezzar là tựa game xây dựng thành phố được Nepos Games phát triển và phát hành cho Windows và Linux vào ngày 3 tháng 12 năm 2020. Game lấy bối cảnh diễn ra ở Lưỡng Hà cổ đại. Trò chơi này đã được so sánh với dòng game City Building của hãng Impressions Games, đặc biệt là phần thứ tư Pharaoh. Lối chơi phần chơi chiến dịch của game này giao nhiệm vụ cho người chơi xây dựng một số thành phố ở Lưỡng Hà cổ đại như Ur, Nineveh và Babylon. Phát hành Nebuchadnezzar được công bố vào ngày 2 tháng 11 năm 2019 và phát hành vào năm 2020. Ngày 19 tháng 11 năm 2020, trò chơi bị trì hoãn đến ngày 17 tháng 2 năm 2021. Một chiến dịch DLC mang tên The Adventures of Sargon được phát hành vào ngày 7 tháng 2 năm 2023. Đón nhận Nebuchadnezzar nhận được đánh giá "trái chiều hoặc trung bình" theo trang web tổng hợp đánh giá Metacritic. Rick Lane của PC Gamer tóm lược như sau: "Tôi thích rất nhiều thứ mà Nebuchadnezzar làm, từ cách trình bày tuyệt vời đến mô phỏng thành phố rất năng động. Nhưng các hệ thống cốt lõi hiện quá nghiêm khắc và khắc khổ so với lợi ích của việc xây dựng thành công thành phố của bạn. Những game tương tự như Anno 1800 và Dyson Sphere Program mang lại những phần thưởng hoành tráng hơn, ngoạn mục hơn với ít sự thất vọng hơn. Nebuchadnezzar không thiếu đẳng cấp nhưng cần tăng cường yếu tố vui nhộn". Nate Crowley của Rock Paper Shotgun chỉ trích việc thiếu nội dung: "Có đền thờ, nhưng không có tôn giáo. Không có giải trí. Không có chiến tranh. Không có bệnh tật. Thậm chí không có cả thuế nữa. Phải thừa nhận rằng cũng không có hỏa hoạn hay tội phạm, và tôi cũng không bỏ lỡ yêu cầu spam các tòa nhà không có mục đích để ngăn chặn những thảm họa nhỏ bé, liên tục. Nhưng nhìn chung, điều đó khiến bạn càng vui hơn khi có tượng đài để tùy chỉnh, bởi vì ngoài điều đó ra, tất cả chỉ là việc lập kế hoạch kho hàng mà thôi". Matt Wales của Eurogamer đã mô tả phần chơi chiến dịch trong game: "Sau đó, có sự lặp lại vốn có của mỗi nhiệm vụ trong phần chơi chiến dịch, yêu cầu người chơi thực hiện các bước cũ và nhiều hơn một chút mỗi lần để đạt được mục tiêu của mình. Tuy nhiên, đối với tôi, đó là một phần của sự hấp dẫn, và tôi đã phải đấu tranh để thoát khỏi những chu kỳ quen thuộc nhẹ nhàng của Nebuchadnezzar và sự mày mò về hậu cần trong tuần này, vui vẻ mất hàng giờ để theo nhịp mở rộng nhẹ nhàng của nó." Tại Lễ trao Giải Trò chơi của năm ở Séc năm 2021, Nebuchadnezzar đã giành được giải thưởng Giải pháp Công nghệ Hay nhất. Tham khảo Liên kết ngoài Trò chơi điện tử năm 2021 Trò chơi xây dựng thành phố Trò chơi điện tử độc lập Trò chơi trên Linux Trò chơi trên Windows Trò chơi điện tử một người chơi Lưỡng Hà cổ đại trong văn hóa đại chúng Trò chơi điện tử phát triển ở Cộng hòa Séc Trò chơi điện tử có hỗ trợ Steam Workshop
557
19829521
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pharaoh%20%28tr%C3%B2%20ch%C6%A1i%20%C4%91i%E1%BB%87n%20t%E1%BB%AD%29
Pharaoh (trò chơi điện tử)
Pharaoh là tựa game xây dựng thành phố đồ họa isometric được phát hành vào ngày 5 tháng 11 năm 1999. Game này được hãng Impressions Games tạo ra và do Sierra Studios phát hành dành cho Microsoft Windows. Sử dụng cùng một game engine và các nguyên tắc của Caesar III (cũng của hãng Sierra Entertainment), đây là trò chơi đầu tiên như vậy trong dòng game City Building của Sierra tập trung vào một nền văn minh khác của thời cổ đại. Người chơi giám sát việc xây dựng và quản lý các thành phố cũng như khu định cư ở Ai Cập cổ đại, quản lý vi mô mọi khía cạnh của thành phố để đảm bảo người dân được cung cấp thức ăn, việc làm, sức khỏe và được bảo vệ khỏi bệnh tật, thiên tai và chiến tranh. Bản mở rộng mang tên Cleopatra: Queen of the Nile được phát hành năm 2000 do hãng BreakAway Games phát triển. Năm 2001, cả trò chơi này và bản mở rộng đều được gộp lại thành Pharaoh Gold. Bản làm lại có tựa đề Pharaoh: A New Era được Triskell Interactive và Dotemu phát hành vào năm 2023. Lối chơi Pharaoh được chơi từ góc nhìn isometric 2D; mức độ phóng đại được cố định nhưng góc nhìn có thể được thay đổi ở góc 90 độ, ngược chiều kim đồng hồ hoặc theo chiều kim đồng hồ. Phần lớn việc điều khiển được quản lý thông qua phím tắt chuột và bàn phím, trong hệ thống giao diện tương tự như Caesar III. Có nhiều nút dành cho các loại công trình khác nhau như nhà ở và đường sá, xem thông điệp, sửa lỗi, xoay vòng theo chu kỳ qua các điểm rắc rối, bản đồ Ai Cập cổ đại và các khu vực xung quanh, một nhóm cố vấn (được gọi là Giám sát viên) cung cấp thông tin về sự phát triển của thành phố và bất kỳ vấn đề nào gặp phải và các lớp phủ trong game trình bày chi tiết các vấn đề và việc đáp ứng nhu cầu về nhà ở. Tất cả các khía cạnh của đời sống thành phố, chẳng hạn như nhà ở, tôn giáo, chiến tranh và thương mại, đều được thiết kế cẩn thận hòng phản ánh gần gũi nhất với các thành phố Ai Cập cổ đại thực tế vào thời đó, bao gồm cả hàng hóa và dịch vụ sẵn có. Tên của nhiều pharaoh khác nhau được sử dụng cùng với sự xuất hiện của các nhân vật lịch sử trong lịch sử cổ đại của Ai Cập và thông tin bách khoa hạn chế về phong tục tập quán của người Ai Cập cổ đại được cung cấp trong menu trợ giúp và tập sách hướng dẫn của trò chơi. Mặc dù trò chơi sử dụng deben làm tiền tệ, nhưng không có loại tiền kim loại tiêu chuẩn nào được biết là đã được sử dụng ở Ai Cập cổ đại. Mặc dù khía cạnh giống như giải đố của Pharaoh khiến mô phỏng không thực tế, trò chơi vẫn giữ đúng trình tự thời gian và niên biểu các sự kiện lớn trong lịch sử Ai Cập, bao gồm việc xây dựng tượng đài, chiến tranh và thảm họa quốc gia, sự sinh thành và cái chết của các nhà lãnh đạo nổi tiếng, cùng sự hưng vong của các thành phố cổ đại. Phần chơi Trò chơi có hai phần chơi – chiến dịch (Campaign) và xây dựng tự do (Free-build). Trong phần chơi chiến dịch, người chơi tập trung vào việc gầy dựng những thành phố qua các thời kỳ khác nhau của Ai Cập cổ đại, ban đầu xoay quanh các khu định cư du mục, trước khi được giao nhiệm vụ xây dựng các trung tâm thương mại, thành phố lớn và tượng đài cho các nhà lãnh đạo Ai Cập cổ đại khác nhau. Khi mục chơi chiến dịch tiến triển, người chơi sẽ được thăng hạng cho đến khi chính họ trở thành Pharaoh. Người chơi hoạt động trong năm thời kỳ lịch sử của Ai Cập cổ đại (sáu thời kỳ bao gồm Cleopatra), với thời kỳ đầu tiên đóng vai trò là phần hướng dẫn cơ bản. Trong các giai đoạn sau, người chơi có quyền lựa chọn giữa hai nhiệm vụ, thường là các lựa chọn thay thế về hòa bình và quân sự, nhưng chỉ cần hoàn thành một trong hai nhiệm vụ để tiếp tục phần chơi chiến dịch. Trong phần chơi xây dựng tự do, người chơi được lựa chọn khoảng hàng chục kịch bản độc lập. Một số không có điều kiện giành chiến thắng, cho phép xây dựng thành phố theo kiểu chơi "sandbox" có kết thúc mở, trong khi số khác đưa ra các mục tiêu cần đạt được. Trò chơi cung cấp công cụ tạo màn để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo các kịch bản do người dùng thiết kế cho phần chơi này. Đón nhận {{Video game reviews | GR = 82.45%<ref name="gamerankings">{{chú thích web |title=Pharaoh for PC |url=http://www.gamerankings.com/pc/198289-pharaoh/index.html |access-date=2018-03-18 |publisher=GameRankings |archive-url=https://web.archive.org/web/20180319085004/http://www.gamerankings.com/pc/198289-pharaoh/index.html |archive-date=2018-03-19 |url-status=usurped}}</ref> | GSpot = 8.2/10 | IGN = 9.0/10 | CGW = | NGen = | rev1 = Computer Games Strategy Plus| rev1Score = | PCGUS = 83% }} Phê bìnhPharaoh chủ yếu nhận được những đánh giá tích cực, với xếp hạng trung bình là 82,45% trên GameRankings. Daniel Erickson đã đánh giá phiên bản PC của trò chơi dành cho tạp chí Next Generation, xếp hạng 4 trên 5 sao và tuyên bố rằng "Xây dựng kim tự tháp và quản lý vùng ngập lũ kết hợp với nhau để tạo nên một công cụ xây dựng thành phố xuất sắc". Viện Hàn lâm Khoa học & Nghệ thuật Tương tác đã vinh danh Pharaoh là người lọt vào vòng chung kết "Thành tựu Chỉ đạo Nghệ thuật Xuất sắc" cho Giải thưởng Thành tựu Tương tác Thường niên lần thứ 3, giải thưởng cuối cùng được trao cho Final Fantasy VIII. Doanh số Tại thị trường Đức, Pharaoh ra mắt ở vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng doanh số bán game máy tính của Media Control vào nửa cuối tháng 11 năm 1999. Nó đã có sáu tuần đứng đầu bảng xếp hạng tính đến cuối năm, với vị trí thứ năm vào tháng 12. Năm sau, Pharaoh tiếp tục ở vị trí thứ 5 trong tháng 1 và đứng thứ 6 trong tháng 2. Tháng 4 năm 2000, Verband der Unterhaltungssoftware Deutschland (VUD) đã trao giải "Vàng" cho tựa game này, cho thấy doanh số bán được ít nhất 100.000 bản trên khắp Đức, Áo và Thụy Sĩ. Nó vẫn nằm trong top 10 của Media Control cho đến tháng 8 năm 2000, và trong top 20 cho đến tháng 11. Vào thời điểm đó, Pharaoh đã giữ vững vị trí trong top 30 của công ty trong suốt 13 tháng liền.Pharaoh đã trở thành một cú hit trên toàn thế giới. Theo MeriStation, doanh số toàn cầu kết hợp của nó với Caesar III đã vượt qua 1 triệu bản vào tháng 7 năm 2000. Bản mở rộng Game được bổ sung thêm một bản mở rộng mang tên Cleopatra: Queen of the Nile, do hãng BreakAway Games phát triển vào năm sau, mở rộng phần chơi chiến dịch chính của trò chơi sang thời kỳ Hy Lạp hóa. Cả bản gốc và bản mở rộng đều được nhắc đến phổ biến và có thể được mua dưới dạng một tựa game chung với tên gọi Pharaoh and Cleopatra. Di sản Phần tiếp theo Tựa game tiếp theo trong dòng City Building là Zeus: Master of Olympus được phát hành vào năm 2000. Trò chơi có một số thay đổi, bao gồm lấy bối cảnh ở Hy Lạp cổ đại cũng như những thay đổi đối với một số cơ chế về mặt lối chơi; thế nhưng về hầu hết các khía cạnh, nó được coi là rất giống với Pharaoh. Năm 2004, một trò chơi khác trong dòng game này vẫn lấy bối cảnh ở Ai Cập cổ đại: Immortal Cities: Children of the Nile. Bản làm lại Bản làm lại mang tên Pharaoh: A New Era được Triskell Interactive và Dotemu công bố vào tháng 8 năm 2020. Quá trình phát triển ban đầu dự kiến sẽ có mã mới cho các hệ thống máy tính hiện đại và giao diện người dùng được cập nhật, đồng thời bao gồm phần chơi chiến dịch từ cả Pharaoh và bản mở rộng Cleopatra: Queen of the Nile. Bản làm lại được phát hành vào ngày 15 tháng 2 năm 2023. Trò chơi tương tựNebuchadnezzar (2021) và Builders of Egypt (TBA) được so sánh với Pharaoh vì có lối chơi và bối cảnh tương tự nhau. Tham khảo Liên kết ngoài Ozymandias, một dự án nhằm cung cấp lối chơi nâng cao, có thể tùy chỉnh cho Pharaoh'' Trò chơi điện tử năm 1999 Trò chơi xây dựng thành phố Trò chơi trên Windows Trò chơi độc quyền Windows Trò chơi điện tử với bản mở rộng Trò chơi điện tử với đồ họa isometric Trò chơi của Impressions Games Trò chơi điện tử một người chơi Trò chơi của Sierra Entertainment Trò chơi điện tử lấy bối cảnh thời cổ đại Trò chơi điện tử lấy bối cảnh ở Sudan Trò chơi điện tử có nhân vật chính là nữ Trò chơi điện tử do Keith Zizza phổ nhạc Trò chơi điện tử lấy bối cảnh ở Ai Cập cổ đại Trò chơi điện tử phát triển ở Vương quốc Liên hiệp Anh
1,594
19829522
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pharaoh%3A%20A%20New%20Era
Pharaoh: A New Era
Pharaoh: A New Era là tựa game xây dựng thành phố được hãng Triskell Interactive thiết kế và do Dotemu phát hành. Đây là phiên bản làm lại của Pharaoh (1999). Lối chơi Người chơi xây dựng một thành phố ở Ai Cập cổ đại. Là một phiên bản làm lại, trò chơi bám sát bản gốc. Đồ họa được cập nhật và người chơi có thể phóng to để xem cận cảnh. Thông thường, các nhà tuyển dụng sẽ đến từng nhà để tìm người thất nghiệp để giao việc. A New Era có thể tùy ý bỏ qua nhữngn hà môi giới và chiêu mộ nhân công từ một nhóm toàn cầu, như trong Zeus: Master of Olympus. A New Era cũng đi theo mùa lũ của sông Nile. Phát triển Sau khi Triskell Interactive giới thiệu một trò chơi xây dựng thành phố cho Dotemu, Dotemu hỏi họ liệu họ có muốn làm lại một tựa game xây dựng thành phố khác hay không. Triskell đã chọn Pharaoh, và Dotemu đã cấp phép cho tựa game này từ hãng Activision. Dotemu phát hành Pharaoh: A New Era vào ngày 15 tháng 2 năm 2023.<ref>{{chú thích web|url=https://www.rockpapershotgun.com/pharaoh-a-new-era-will-revive-the-classic-citybuilder-this-february|title=Pharaoh: A New Era will revive the classic citybuilder this February|last=Smith|first=Graham|work=Rock Paper Shotgun|date=2023-01-25|accessdate=2023-06-22}}</ref> Đón nhậnPharaoh: A New Era nhận được đánh giá tích cực trên Metacritic. Rock Paper Shotgun nói rằng mặc dù trò chơi này thiếu một số tính phức tạp của những tựa game hiện đại, nhưng nó là "phiên bản hoàn hảo của một trò chơi kinh điển lạnh lùng". NPR đã gặp phải một số lỗi và cho rằng đồ họa mới trông quá giống một trò chơi di động, nhưng họ cho biết nó vẫn là một trò chơi xây dựng thành phố bổ ích. Gamepressure cho biết phiên bản làm lại là "một cơ hội tuyệt vời để khám phá lại tác phẩm kinh điển vượt thời gian này", mặc dù họ nhận thấy một số thành phần giao diện người dùng cần được cải thiện. Shacknews'' cảm thấy một vài lối chơi có phần cổ xưa nhưng nhìn chung gọi đó là "sự thay đổi xuất sắc của một trò chơi kinh điển". Tham khảo Liên kết ngoài Trò chơi điện tử năm 2023 Trò chơi của Dotemu Trò chơi trên Windows Trò chơi điện tử độc lập Trò chơi xây dựng thành phố Trò chơi độc quyền Windows Trò chơi điện tử một người chơi
404
19829526
https://vi.wikipedia.org/wiki/Scamander
Scamander
Scamander (; còn gọi là Skamandros () hay Xanthos () là một thần sông trong thần thoại Hy Lạp. Địa lý Sông Scamander được đặt theo tên của thần sông Scamander. Sông Scamander là một dòng sông bao quanh thành Troy. Thần Scamander đứng về phía những người thành Troy trong chiến tranh thành Troy. Gia đình Theo Hesiod, Scamander là con trai của Oceanus và Tethys. Có khi ông được mô tả là con trai của Zeus. Ông có với nymph Idaea một người con trai là vua Teucer. Ông cũng được đề cập là cha của Glaucia, người tình của Deimachus và Eurythemista, người có với Tantalus hai người con là Pelops và Niobe. Strymo hay Rhoeo, vợ của vua Laomedon cai trị thành Troy cũng được coi là con gái của ông. Thần thoại Scamander đứng về phía những người thành Troy trong chiến tranh thành Troy (quyển thứ XX Iliad, 73/74; XXI), sau khi người anh hùng Hy Lạp Achilles xúc phạm đến ông. Scamander được cho là đã cố gắng giết chết Achilles ba lần, và người anh hùng chỉ được cứu sống nhờ sự can thiệp của Hera, Athena và Hephaestus. Ở đây, ông được nhân cách hóa từ hình ảnh sông Scamander chảy từ núi Ida qua vùng đồng bằng dưới thành Troy, rồi nhập vào eo biển Hellespont ở phía bắc của thành. Theo Homer, những người Hy Lạp dựng trại gần cửa sông, và những trận đánh của họ với người Troy xảy ra trên đồng bằng sông Scamander. Trong quyển XXII của Iliad (149ff), Homer khẳng định dòng sông Scamander có hai con suối: một con suối là dòng nước ấm, con suối còn lại là dòng nước lạnh vào bất kể mùa nào. Cũng theo Homer, Scamander được các vị thần gọi là Xanthos, còn con người gọi ông là Scamander, cái tên chỉ ra rằng cái tên trước ám chỉ vị thần và tên sau ám chỉ chính dòng sông. Trong một câu chuyện của Pseudo-Plutarch, Scamander tức giận vì những điều bí mật của nữ thần Rhea. Ông tự trầm mình xuống dòng sông Xanthus nên sau này dòng sông được đổi tên thành Scamander. Xem thêm Sông Karamenderes Chú thích Tham khảo Hesiod, Theogony, in The Homeric Hymns and Homerica with an English Translation by Hugh G. Evelyn-White, Cambridge, Massachusetts., Harvard University Press; London, William Heinemann Ltd. 1914. Online version at the Perseus Digital Library. Homer, The Iliad with an English Translation by A.T. Murray, Ph.D. in two volumes. Cambridge, Massachusetts., Harvard University Press; London, William Heinemann, Ltd. 1924. Online version at the Perseus Digital Library. Tsotakou-Karveli. Lexicon of Greek Mythology. Athens: Sokoli, 1990. Thần thoại Hy Lạp Nam thần Hy Lạp Các vị thần trong Iliad Con của Zeus Nhân vật trong thần thoại Hy Lạp
462
19829531
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p%20%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Tilsit
Hiệp ước Tilsit
Hiệp ước Tilsit (tiếng Pháp: Traités de Tilsit, tiếng Đức: Friede von Tilsit, tiếng Nga: Тильзитский мир, chuyển tự Tilzitski mir) là hai hiệp định được Hoàng đế Pháp Napoléon I ký tại thị trấn Tilsit vào tháng 7 năm 1807, sau chiến thắng của ông tại Friedland. Thỏa thuận đầu tiên được ký kết vào ngày 7 tháng 7, giữa Napoléon và Hoàng đế Nga Alexander, khi họ gặp nhau trên một chiếc bè ở giữa sông Neman. Thỏa thuận thứ hai được ký với Vương quốc Phổ vào ngày 9 tháng 7. Các hiệp ước được thực hiện với cái giá phải trả là Vua Frederick William III của Phổ đồng ý đình chiến vào ngày 25 tháng 6 sau khi Grande Armée chiếm được Berlin và truy đuổi ông ta đến biên giới cực Đông của Phổ. Ở Tilsit, ông đã nhượng lại khoảng một nửa lãnh thổ của mình. Từ những vùng lãnh thổ đó, Hoàng đế Napoléon đã tạo ra các nước cộng hòa chị em với Đế chế Pháp, được chính thức hóa và công nhận tại Tilsit, gồm có: Vương quốc Westphalia, Công quốc Warsaw và Thành bang Tự do Danzig; các lãnh thổ khác được trao cho các quốc gia phụ thuộc của Pháp và Nga. Napoléon không chỉ củng cố quyền kiểm soát Trung Âu mà còn có Nga và đồng minh Phổ cùng ông chống lại 2 kẻ thù còn lại là Vương quốc Anh và Thụy Điển, gây ra các cuộc chiến tranh Anh-Nga và Chiến tranh Phần Lan. Thông qua Hiệp ước Tilsit cũng đã giúp giải phóng lực lượng Pháp ở mặt trận phía Đông cho Chiến tranh Bán đảo ở mặt trận phía Tây. Trung Âu lại trở thành chiến trường vào năm 1809 khi Đế quốc Áo và Anh giao chiến với Pháp trong Chiến tranh Liên minh thứ Năm. Hiệp ước Pháp-Nga (7 tháng 7) Hiệp ước đã chấm dứt chiến tranh giữa Đế quốc Nga và Đế quốc Pháp, 2 nhà nước bắt đầu một liên minh khiến phần còn lại của lục địa châu Âu gần như bất lực. Hai nước bí mật đồng ý hỗ trợ lẫn nhau trong các tranh chấp. Pháp cam kết hỗ trợ Nga chống lại Đế quốc Ottoman trong khi đó Nga đồng ý tham gia Hệ thống phong tỏa Lục địa chống lại Đế quốc Anh. Napoléon cũng thuyết phục Alexander tấn công người Anh và xúi giục gây hấn với Phần Lan chống lại Thụy Điển để buộc Thụy Điển gia nhập Hệ thống phong tỏa Lục địa. Cụ thể hơn, Sa hoàng đã đồng ý sơ tán Wallachia và Moldavia, những nơi đã bị quân Nga chiếm đóng trong Chiến tranh Nga – Thổ Nhĩ Kỳ (1806–1812). Quần đảo Ionian và Cattaro (Kotor), đã bị các đô đốc Nga Ushakov và Senyavin chiếm giữ, sẽ được giao lại cho người Pháp. Đổi lại, Napoléon đảm bảo chủ quyền và giữ nguyên hiện trạng của Công quốc Oldenburg và một số nhà nước nhỏ khác do họ hàng người Đức của Sa hoàng cai trị. Hiệp ước Pháp-Phổ (9 tháng 7) Hiệp ước với Phổ đã tước bỏ khoảng một nửa lãnh thổ của nước này, bao gồm: Cottbus được chuyển cho Sachsen, tả ngạn sông Elbe được trao cho Vương quốc Westphalia mới thành lập, Białystok được trao cho Đế quốc Nga (dẫn đến việc thành lập Tỉnh Belostok), và hầu hết đất đai của Ba Lan thuộc quyền sở hữu của Phổ kể từ Cuộc phân chia thứ hai và thứ ba đã trở thành Công quốc Warsaw gần như độc lập. Phổ phải giảm quân đội xuống còn 43.000 người và vào ngày 9 tháng 3 năm 1808, Pháp ấn định mức cống nạp từ Phổ là 154.500.000 franc (= 41,73 thaler Phổ), trừ đi 53.500.000 franc đã được quyên góp trong thời kỳ Pháp chiếm đóng đang diễn ra. Số tiền này đã được hạ xuống còn 120 triệu franc vào ngày 1 tháng 11 năm 1808. Charles-Maurice de Talleyrand-Périgord đã khuyên Hoàng đế Napoléon theo đuổi những điều khoản nhẹ nhàng hơn; các hiệp ước đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong sự ghẻ lạnh của ông với hoàng đế. Cho đến năm 1812, những người chiếm đóng Pháp đã trưng dụng tiền bạc và hiện vật từ nhiều công ty và cá nhân khác nhau, đặc biệt là bằng cách gửi lính đến các thành phố, những khoản đóng góp bổ sung lên tới từ 146 đến 309 triệu franc, theo các tính toán khác nhau. Nợ của chính phủ Phổ tăng vọt từ năm 1806 đến năm 1815 với 200 triệu thaler, tổng cộng là 180,09 triệu khoản nợ chịu lãi, 11,24 triệu trái phiếu kho bạc không hợp nhất không chịu lãi và 25,9 triệu khoản nợ cấp tỉnh trước đây do chính phủ hoàng gia đảm nhận. Các khoản nợ của các thành phố, đặc biệt là các khoản nợ của Berlin thường được thanh toán, không được chính phủ Phổ gánh chịu. Kể từ khi các chủ nợ cho rằng Phổ mắc nợ quá mức vào năm 1817, trái phiếu chính phủ lãi suất 4% đã được giao dịch trên thị trường chứng khoán với tỷ lệ chênh lệch từ 27 đến 29%, vào năm 1818 thậm chí với mức chiết khấu 35%, khiến lãi suất thực tăng lên. đến 6,15%. Khi tái cơ cấu một phần các khoản nợ vào năm 1818 bằng khoản vay 5 triệu bảng Anh (= 30 triệu bảng Anh) với lãi suất 5% tại thị trường tài chính Luân Đôn, chính phủ Phổ đã phải chấp nhận mức chênh lệch 28⅓%, do đó phải trả lãi suất hiệu dụng hàng năm là 6,98%. Khi Hiệp ước đang được xây dựng, một nhà quan sát đã lưu ý rằng vua Phổ đang đi lại trên bờ sông Neman; Napoléon "giơ tay, và Phổ sẽ không còn tồn tại" (McKay). Do đó, nhiều nhà quan sát ở Phổ và Nga coi hiệp ước này là bất bình đẳng và là một sự sỉ nhục quốc gia. Những người lính Nga từ chối tuân theo mệnh lệnh của Napoléon, như Sự cố Lisbon đã chứng minh cho toàn bộ châu Âu. Kế hoạch kết hôn với em gái sa hoàng của Napoléon đã bị hoàng gia Nga cản trở. Sự hợp tác giữa Nga và Pháp cuối cùng đã tan vỡ vào năm 1810 khi sa hoàng bắt đầu cho phép các tàu trung lập cập bến các cảng của Nga. Năm 1812, Napoléon vượt sông Neman và xâm lược Nga, chấm dứt mọi dấu vết của liên minh. Những tổn thất về lãnh thổ và dân số của Phổ Lãnh thổ của Vương quốc Phổ bị thu hẹp hơn một nửa theo các điều khoản của hiệp ước Tilsit, từ 5.700 xuống còn 2.800 dặm vuông của Phổ (323.408,4 đến 158.867,28 km2 (124.868,68 đến 61.339,00 dặm vuông)). So với 9,75 triệu dân mà đất nước này có trước hiệp ước, lãnh thổ còn lại của Phổ không còn quá 4,5 triệu dân. Nguồn thu của nhà nước, trước đây lên tới 40 triệu thaler mỗi năm, nay đã giảm với tỷ lệ còn lớn hơn; các tỉnh được nhượng lại khá giàu có và màu mỡ, và hàng triệu thaler đã được chi vào việc cải thiện chúng. Hầu như tất cả những gì Phổ có được nhờ sự chia cắt Ba Lan (1772–1795) đều bị lấy đi. Sachsen, cựu liên minh của Phổ, là nơi tiếp nhận các tỉnh; và Nga, đồng minh hùng mạnh hơn trước đây, đã giành được lãnh thổ với dân số 200.000 người. Sau đây là bảng liệt kê những tổn thất về lãnh thổ và dân số mà Phổ phải gánh chịu (không có sự mua lại của Phổ kể từ năm 1772) theo các điều khoản của hiệp ước Tilsit: Hậu quả Chiến tranh Liên minh thứ Tư đã kết thúc. Chiến tranh Bán đảo bắt đầu vào ngày 19 tháng 11 năm 1807 và Chiến tranh Liên minh thứ năm bắt đầu vào năm 1809. Sông Neman đã bị vượt qua ngay từ đầu cuộc xâm lược của Pháp vào Nga năm 1812. Sau khi kết thúc Chiến tranh Napoléon năm 1815, Đại hội Viên sẽ khôi phục nhiều lãnh thổ của Phổ. Bằng cách ký kết các hiệp ước này, Pháp đã bỏ mặt Ba Tư và Ottoman, trong khi các nhà cai trị của những nước này trước đây đã hy vọng vào sự giúp đỡ của Pháp theo các hiệp ước với Pháp (bao gồm Hiệp ước Finckenstein), trước sự xâm lược của Nga, và dẫn đến việc mất một phần của Ba Tư ở vùng Kavkaz, chẳng hạn như các nước cộng hòa ngày nay là Azerbaijan, Gruzia và Armenia. Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Hòa ước Pháp Hòa ước Nga Hòa ước Phổ Hiệp ước Chiến tranh Napoleon Công quốc Warszawa Pháp năm 1807 Đức năm 1807 Đế quốc Nga năm 1807 Phổ năm 1807 Hiệp ước năm 1807 Hiệp ước của Đế quốc Nga Hiệp ước Đệ Nhất Đế chế Pháp Hiệp ước Vương quốc Phổ
1,513
19829540
https://vi.wikipedia.org/wiki/Simoeis
Simoeis
Simoeis hay Simois ( Simóeis) là một dòng sông ở đồng bằng thành Troy, ngày nay được gọi là Dümruk Su (Dümrek Çayı), và tên của vị thần cai quản nó trong thần thoại Hy Lạp. Sông Simoeis là một dòng sông nhỏ bắt nguồn từ núi Ida hoặc chính xác hơn là núi Cotylus, chảy qua thành Troy, nhập vào sông Scamander chảy dưới thành. Dòng sông này thường xuyên được nhắc đến trong Iliad, và được đề cập là một dòng sông chảy xiết trên núi. Nó cũng được nhà địa lý cổ đại Strabo, Ptolemy, Stephanus của Byzantium Pomponius Mela, và Pliny Lớn ghi chú lại. Ngày nay, dòng chảy của nó đã bị thay đổi đến mức nó không còn là phụ lưu của sông Scamander mà chảy thẳng vào eo biển Hellespont. Gia đình Như các thần sông khác, Simoeis là con trai của Oceanus và Tethys. Simoeis có hai người con gái được gả vào hoàng tộc thành Troy. Một người con gái là Astyoche lấy Erichthonius, và người con gái khác là Hieromneme lấy Assaracus. Thần thoại Khi các vị thần tham gia chiến tranh thành Troy, Simoeis hỗ trợ cho quân Troy. Scamander, một thần sông khác cũng đứng về phía quân Troy kêu gọi Simoeis trợ giúp ông chiến đấu lại với Achilles (Iliad, 21.311-15). Trước khi Simoeis kịp đáp ứng yêu cầu trợ giúp của Scamander, Hephaestus đã cứu được Achilles bằng việc dùng lửa khuất phục Scamander. Tham khảo March, J. Từ điển thần thoại cổ của Cassell. Luân Đôn, 1999. Thần thoại Hy Lạp Nam thần Hy Lạp Các vị thần trong Iliad Nhân vật trong thần thoại Hy Lạp
276
19829551
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%93i
Ngồi
Ngồi là một động tác và tư thế nghỉ ngơi cơ bản trong đó trọng lượng cơ thể được trợ lực chủ yếu từ các đốt xương chậu với mông tiếp xúc với mặt đất hoặc một bề mặt nằm ngang như mặt ghế thay vì bằng chi dưới như khi đứng hoặc ngồi xổm, hoặc quỳ gối. Khi ngồi, toàn thân ít nhiều thẳng đứng, mặc dù đôi khi nó có thể dựa vào các vật thể khác để có tư thế thoải mái hơn. Ngồi quá nhiều trong ngày có thể gây ra những rủi ro đáng kể cho sức khỏe, với một nghiên cứu cho thấy những người ngồi thường xuyên trong thời gian dài có thể có tỷ lệ tử vong cao hơn những người không thường xuyên ngồi lì. Theo một đánh giá toàn cầu, một người trung bình ngồi 4,7 giờ mỗi ngày, đại diện cho 47% dân số trưởng thành trên toàn cầu. Hiệp hội Chiropractic Anh cho biết vào năm 2006 rằng 32% dân số nước Anh dành hơn 10 giờ mỗi ngày để ngồi. Tư thế bắt chéo chân phổ biến là phần dưới của cả hai chân gập về phía cơ thể, bắt chéo nhau ở mắt cá chân hoặc bắp chân, đặt cả hai mắt cá chân xuống sàn, đôi khi bàn chân đặt dưới đầu gối hoặc đùi. Tư thế này được gọi là tư thế của thợ may từ tư thế làm việc truyền thống của thợ may. Trong thần thoại và ma thuật dân gian khác nhau, ngồi là một hành động khi làm phép mà kết nối người ngồi với những người khác hay trạng thái hoặc địa điểm khác. Quyền được ngồi chỉ về luật pháp hoặc chính sách trao cho người lao động quyền được bố trí chỗ ngồi phù hợp tại nơi làm việc. Nhân viên thu ngân thường ngồi khi làm việc ở nhiều nước châu Âu. Điều này một phần là do nhiều chuỗi bán lẻ lớn ở châu Âu cho phép khách hàng tự đóng gói hàng tạp hóa thay vì nhờ nhân viên thu ngân đóng gói. Ở phần lớn Châu Âu, nhân viên thu ngân phải ngồi khi làm việc, trong khi đứng lâu trong khi làm việc là tiêu chuẩn ở hầu hết Bắc Mỹ, Châu Á và Úc. Chú thích Xem thêm Tọa thiền (ngồi thiền) Bán già phu tọa Padmāsana (Kiết già/Liên hoa tọa) Siddhasana (Tư thế toàn thiện) Ngồi lên mặt Tư thế con người Động tác
419
19829556
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B3c%20v%C3%A0ng
Tóc vàng
Tóc vàng hoặc tóc vàng óng (Blond/blonde) hay tóc vàng hoe là màu tóc của con người với đặc trưng là hàm lượng sắc tố đen eumelanin thấp. Màu sắc thấy được thu được phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, nhưng luôn có một chút màu hơi vàng. Màu sắc của mái tóc có thể từ màu vàng rất nhạt (do sự phân bố sắc tố không đều) đến màu vàng "dâu" hơi đỏ hoặc màu vàng nâu (màu "cát"). Đôi khi, tình trạng tóc vàng và đặc biệt là sự xuất hiện của các đặc điểm tóc vàng trong trong cộng đồng chủ yếu là người da đen hoặc da màu. Vì màu tóc có xu hướng tối dần theo độ tuổi nên tóc vàng tự nhiên ít phổ biến hơn ở tuổi trưởng thành. Tóc vàng tự nhiên chủ yếu được tìm thấy ở những người sống trong hoặc có nguồn gốc từ những người sống ở nửa phía bắc châu Âu và có thể đã tiến hóa cùng với sự phát triển của làn da sáng giúp tổng hợp vitamin D hiệu quả hơn do mức độ ánh sáng mặt trời ở Bắc Âu thấp hơn những nơi khác. Tóc vàng cũng đã phát triển ở những cộng đồng khác, mặc dù nó thường không phổ biến và có thể được tìm thấy ở những người bản địa ở Quần đảo Solomon, Vanuatu và Fiji, chúng cũng xuất hiện trong số những người Berber ở Bắc Phi và một số người châu Á. Trong văn hóa phương Tây, mái tóc vàng từ lâu đã gắn liền với vẻ đẹp và sức sống. Aphrodite là nữ thần tình yêu và sắc đẹp của Hy Lạp được miêu tả là có mái tóc vàng óng ả. Ở Hy Lạp và La Mã cổ đại, tóc vàng thường gắn liền với gái mại dâm, những người nhuộm tóc bằng thuốc nhuộm nghệ tây để thu hút khách làng chơi. Người Hy Lạp coi người Thracia và nô lệ là tóc vàng và người La Mã gắn tóc vàng với người Celt và người Đức ở phía bắc. Trong thế giới Hy Lạp cổ đại, Iliad của Homer đã miêu tả Achilles như một nam chiến binh lý tưởng đẹp trai, cao lớn, khỏe mạnh và tóc vàng. Ở Tây Âu trong thời Trung cổ, mái tóc dài màu vàng được lý tưởng hóa như một hình mẫu vẻ đẹp của phụ nữ. Nữ thần Bắc Âu Sif và nữ anh hùng thời trung cổ Iseult đều được miêu tả là có mái tóc vàng và trong tác phẩm nghệ thuật thời trung cổ thì các nhân vật như Eve, Mary Magdalene và mẹ Maria thường có mái tóc vàng. Trong văn hóa phương Tây đương đại, phụ nữ tóc vàng thường bị coi là hấp dẫn quyến rũ nhưng không được thông minh. Trong phần lớn nền văn hóa đại chúng phương Tây đương đại, phụ nữ tóc vàng được coi là hấp dẫn tình dục (gợi cảm, quyến rũ, hấp dẫn) đối với đàn ông hơn những phụ nữ có màu tóc khác. Ví dụ, Anita Loos đã phổ biến ý tưởng này trong cuốn tiểu thuyết Gentlemen Prefer Blondes xuất bản năm 1925 của bà. Một số phụ nữ cho biết họ cảm thấy người khác mong đợi họ trở nên vui vẻ hơn sau khi làm sáng màu tóc của họ. Ca sĩ kiêm nhạc sĩ Madonna đã phổ biến kiểu tóc ngắn nhuộm vàng sau khi phát hành album phòng thu năm 1986, và ảnh hưởng đến cả nền thời trang những năm 1980 cũng như nhiều nữ nhạc sĩ tương lai như Christina Aguilera, Lady Gaga và Miley Cyrus. Tương tự như vậy ở nhiều nền văn hóa phương Đông (Châu Á, Trung Đông) đàn ông tóc vàng thường được coi là biểu tượng cho sự nam tính của phương Tây như nam tính quá mức, tán tỉnh và hấp dẫn tình dục. Những mô tả về mối quan hệ giữa đàn ông châu Âu tóc vàng và phụ nữ Ả Rập tóc đen thậm chí còn được sử dụng như một câu chuyện ngụ ngôn về chủ nghĩa thực dân châu Âu, đặc biệt là liên quan đến Algeria thuộc Pháp. Chú thích Màu tóc
719
19829559
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A0ng%20trong%20ph%E1%BB%91
Làng trong phố
Làng trong phố (tên khác: Phố trong làng 2) là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do NSƯT Nguyễn Mai Hiền làm đạo diễn. Phim phát sóng vào lúc 21h00 từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần bắt đầu từ ngày 31 tháng 7 năm 2023 và kết thúc vào ngày 8 tháng 9 năm 2023 trên kênh VTV1. Nội dung Chuyện phim bắt đầu từ việc hồ nuôi cá của Mến và Hiếu bị xã thu lại để chuẩn bị mặt bằng xây dựng một nhà máy. Trong khi Mến tiếp tục ở lại quê thì Hiếu quyết định sẽ lên thành phố cùng Hoài. Hoài đang là công nhân may trên thành phố. Hiếu suy nghĩ đơn giản rằng sẽ nhanh chóng kiếm được việc làm rồi cả gia đình cũng sớm ổn định. Diễn viên Diễn viên chính Nguyễn Duy Hưng vai Hiếu Doãn Quốc Đam vai Mến Trần Vân vai Hoài Ngô Lệ Quyên vai Thương Phạm Tiến Lộc vai Hùng Đào Phương Anh vai Nhung Diễn viên phụ Hoàng Thanh Dương vai Ông Hoạch Nguyễn Huyền Trang vai Bà Thu NSƯT Lý Thanh Kha vai Ông Ẩn Đào Hoàng Yến vai Mỹ Lệ Ngô Thủy Tiên vai Bưởi Linh Chi vai Thoan Huyền Trang vai Dành Hoàng Du Ka vai Bản Dương Văn Thái vai Nịch Tiến Ngọc vai Quản đốc Ngọc Sơn Tùng vai Sơn Đào Trúc Mai vai Dung (vợ Sơn) Phùng Đức Hiếu vai Đông Tú An vai Tình Nguyễn Ngọc Gia Phúc trong vai Cò (Trí) Mai Huê trong vai Xuân Cùng một số diễn viên khác... Sản xuất Bộ phim do NSƯT Nguyễn Mai Hiền làm đạo diễn, kịch bản do Nguyễn Mạnh Cường và Lê Anh Thúy thực hiện. Đây là phiên bản nối tiếp Phố trong làng và là dự án mới nhất của Nguyễn Mai Hiền sau thành công của tác phẩm trước đó là Hành trình công lý. Duy Hưng và Doãn Quốc Đam là hai diễn viên đảm nhận vai chính trong phim, ngoài ra bộ phim còn có sự góp mặt của Trần Vân, Ngô Lệ Quyên, Tiến Lộc,... Đây là bộ phim đánh dấu lần đầu chạm ngõ màn ảnh nhỏ của diễn viên Đào Phương Anh và là bộ phim đầu tay của cô sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sân khâu - Điện ảnh. Buổi họp báo ra mắt bộ phim được tổ chức vào ngày 19 tháng 7 năm 2023, tác phẩm chính thức lên sóng VTV1 (nối sóng Nơi giấc mơ tìm về) từ ngày 31 tháng 7 cùng năm, vào lúc 21h00 thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần, với số tập là 30. Vì một số lí do cá nhân, diễn viên Duy Hưng, người đảm nhận vai diễn Hiếu trong phim, vắng mặt khỏi buổi họp báo. Tham khảo Liên kết ngoài Làng trong phố trên VTV Giải trí Làng trong phố trên Kinh Tế Đô Thị Làng trong phố - Tập 1 trên VTVGo Phim truyền hình Việt Nam ra mắt năm 2023 Chương trình truyền hình nhiều tập của VFC Phim truyền hình Việt Nam phát sóng trên kênh VTV1
555
19829565
https://vi.wikipedia.org/wiki/D.%20S.%20Senanayake
D. S. Senanayake
Don Stephen Senanayake (; ; 21 tháng 10 năm 1884 – 22 tháng 3 năm 1952) là một chính khánh người Tích Lan. Ông là Thủ tướng đầu tiên của Tích Lan và đã nổi lên như là một nhà lãnh đạo cho phong trào giành độc lập của Sri Lanka dẫn đến việc thiết lập chế độ tự trị ở Tích Lan. Ông được xem như là "Quốc phụ" của đất nước Sri Lanka. Sinh ra trong một gia đình doanh nhân ở làng Botale, Senanayake được đào tạo tại S. Thomas' College, Mutwal trước khi có thời gian ngắn làm thư ký tại Tổng cục Khảo sát. Tham gia công việc kinh doanh của gia đình, ông quản lý tài sản riêng của gia đình và Mỏ than chì Kahatagaha. Cùng với các anh trai của mình, Senanayake trở nên tích cực trong phong trào ôn hòa phát triển thành phong trào độc lập sau bạo loạn Sinhalese-Hồi giáo năm 1915, trong đó anh em nhà Senanayake bị bỏ tù 46 ngày mà không bị buộc tội. Năm 1924, ông được bầu vào Hội đồng Lập pháp Tích Lan từ Negombo mà không có đối thủ, trở thành Thư ký của nhóm thành viên không chính thức của Hội đồng Lập pháp. Năm 1931, ông được bầu vào Hội đồng Nhà nước Tích Lan, nơi ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Đất đai. Ông được bầu vào Quốc hội Tích Lan đầu tiên thành lập chính phủ và giữ chức Thủ tướng đầu tiên của Tích Lan từ năm 1947 cho đến khi ông qua đời năm 1952. Tuổi thiếu thời và giáo dục Ông sinh ra tại làng Botale ở Hapitigam Korale (hiện được gọi là Mirigama) vào ngày 21 tháng 10 năm 1884 với Don Spater Senanayake (1847–1907) và Dona Catherina Elizabeth Perera Gunasekera Senanayake (1852–1949). Spater Senanayake đã kiếm được nhiều tiền từ graphite khai thác và vào thời điểm đó, ông đang mở rộng sang các đồn điền và đầu tư vào nhượng quyền cho thuê arrack, sau này ông được trao danh hiệu Mudaliyar vì hoạt động từ thiện của mình. Stephen Senanayake có hai anh trai, Don Charles "D.C." Senanayake và Fredrick Richard "F. R." Senanayake; và một chị gái, Maria Frances Senanayake, người đã kết hôn với F. H. Dias Bandaranaike. Sự nghiệp ban đầu Sau khi học xong, ông làm thư ký tại Tổng cục Khảo sát, nhưng đã rời đi sau một thời gian học việc. Ông đã cùng với anh trai mình là D. C. Senanayake điều hành công việc kinh doanh rộng lớn của cha mình. Ông làm việc với tư cách là người trồng trọt, giới thiệu loại cây cao su thương mại mới cho các đồn điền của gia đình. Anh ta quản lý Mỏ than chì Kahatagaha thuộc sở hữu của gia đình vợ anh trai anh ta là F. R. Senanayake. F. R. Senanayake đã kết hôn với con gái út của Mudaliyar Don Charles Gemoris Attygalle. Ông là thành viên của Hiệp hội Sản phẩm Vùng thấp và của Câu lạc bộ Phương Đông. Năm 1914, ông được bổ nhiệm làm thành viên ủy ban chính phủ được cử đến Madagascar để nghiên cứu và báo cáo về ngành khai thác than chì của họ. Thủ tướng đầu tiên (1947-1952) Với sự gia nhập của mình, Senanayake bắt đầu quá trình thành lập các thể chế cần thiết cho một quốc gia độc lập. Trong khi hầu hết các thể chế trong nước đều tồn tại, Ceylon vẫn phụ thuộc vào Anh về thương mại, quốc phòng và các vấn đề đối ngoại. Ông từ chối chức hiệp sĩ, nhưng vẫn duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Anh và là người Tích Lan đầu tiên được bổ nhiệm vào Hội đồng Cơ mật vào năm 1950. Thủ tướng Sri Lanka Chính khách Sri Lanka
648
19829567
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cung%20thi%C3%AAn%20v%C4%83n%20Eise%20Eisinga
Cung thiên văn Eise Eisinga
Cung thiên văn Hoàng gia Eise Eisinga () là một công trình kiến ​​trúc có từ thế kỷ 18 ở Franeker, Friesland, Hà Lan. Nó hiện là một bảo tàng và mở cửa cho công chúng tham quan. Mô hình vũ trụ cơ học này nằm trong Top 100 Di sản Hà Lan kể từ năm 1990 và là một Di sản thế giới dự kiến từ tháng 12 năm 2011. Vào tháng 9 năm 2023, nó đã chính thức trở thành một Di sản thế giới của UNESCO. Đây là mô hình vũ trụ cơ học hoạt động lâu đời nhất trên thế giới. Lịch sử Mô hình vũ trụ này được xây dựng từ năm 1774 đến năm 1781 bởi Eise Eisinga, một thợ chải len và nhà thiên văn học nghiệp dư. Cung thiên văn cơ khí của Eise Eisinga được xây dựng trên trần gỗ tại phòng khách trong ngôi nhà lịch sử của ông nằm ven con kênh. Willem I của Hà Lan đã rất ấn tượng với cung thiên văn nên đã mua lại ngôi nhà và nó trở thành Cung thiên văn của hoàng gia. Bảo tàng bao gồm phòng thiên văn, phòng chiếu nơi phim tài liệu được trình chiếu và các triển lãm đặc biệt dựa trên thiên văn học hiện đại. Các phần khác được trưng bày thường xuyên là cơ sở chải len trước đây của Eisinga và bộ sưu tập các dụng cụ thiên văn lịch sử. Những thiết bị trong bộ sưu tập bao gồm kính thiên văn Georgia, octan đo độ thế kỷ 18 và Teluri, một mô hình giáo dục về Mặt trời, Trái đất và Mặt trăng. Bảo tàng cũng là một quán cà phê và là nhà rang cà phê Van Balen trước đây. Năm 2018, Cung thiên văn đã kỷ niệm 250 năm ngày Eisinga chuyển đến thành phố Franeker vào năm 1768, sáu năm trước khi ông bắt đầu làm việc tại Cung thiên văn. Công trình được liệt vào danh sách Tượng đài Hà Lan và nhờ những nỗ lực không ngừng trong việc bảo tồn nó đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào tháng 9 năm 2023. Mô tả Mô hình vũ trụ cơ học là một cung thiên văn, mô hình hoạt động của Hệ Mặt trời. Mô hình được sơn màu xanh hoàng gia lấp lánh và được viền bằng sơn vàng sáng bóng. Giữa trần nhà là Mặt trời, còn Trái Đất được tượng trưng bằng một quả cầu vàng treo lơ lửng bằng một sợi dây. Các cung Hoàng đạo cũng được mô tả. Cung thiên văn cơ học giống như kim đồng hồ di chuyển giống như trong thực tế nhưng ở quy mô thu nhỏ. Nó chính xác nhưng không hoàn hảo. Ví dụ, con lắc được làm từ một loại kim loại duy nhất nên sự dao động của nó chịu ảnh hưởng của nhiệt độ. Dưới trần nhà là phòng khách với hầu hết các công trình cơ khí tại đây. Nó được điều khiển bởi một đồng hồ quả lắc, có 9 quả cân hoặc ao Tham khảo Liên kết ngoài Eisinga Planetarium at Atlas Obscura Eise Eisinga Planetarium at Jusonline.nl UNESCO inscription at UNESCO Di sản thế giới tại Hà Lan Bảo tàng Hà Lan
551
19829568
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nessus%20%28th%E1%BA%A7n%20tho%E1%BA%A1i%29
Nessus (thần thoại)
Trong thần thoại Hy Lạp, Nessus () là một nhân mã nổi tiếng bị Heracles giết chết, và máu độc trong cơ thể anh ta đã giết chết lại Heracles. Anh ta là con trai của Centauros. Anh ta tham chiến trong trận đánh với những người Lapith và trở thành người lái đò sông Euenos. Thần thoại Nessus được biết đến trong câu chuyện Cái áo của Nessus. Sau khi chở Deianeira, vợ của người anh hùng Heracles qua sông, anh ta cố gắng cưỡng hiếp cô. Heracles thấy được khi đi qua sông và bắn một mũi tên tẩm máu độc của mãng xà Hydra vào ngực Nessus. Trong lúc hấp hối, Nessus làm một điều ác ý là nói với Deianeira rằng máu từ cơ thể anh ta sẽ giúp Heracles chung thủy với cô mãi mãi, mặc dù anh ta biết máu của mình đã bị nhiễm độc từ máu mãng xà Hydra. Deianeira không biết gì nên tin lời của Nessus. Sau này, khi Heracles có tình cảm với Iole, Deianira bôi máu nhân mã lên chiếc áo choàng lông sư tử rồi đưa nó cho chồng. Heracles đến dự một cuộc tụ họp của những người anh hùng. Trong khi đó, Deianeira bất cẩn làm đổ mất một phần máu nhân mã xuống sàn. Trước sự kinh hoàng của cô, nó bắt đầu bốc cháy từ ánh sáng mặt trời mọc. Cô ingay lập tức nhận ra đó là chất độc và cho người tới đưa tin cảnh báo Heracles, nhưng đã quá muộn. Heracles nằm chết dần trong đau đớn khi ngọn lửa từ sức nóng của chất độc trên chiếc áo choàng đang thiêu rụi da anh. Anh chết đi trên giàn hỏa thiêu làm bằng cành sồi. Heracles sau đó được Zeus, cha anh đưa lên đỉnh núi Olympus và được các vị thần chào đón nồng nhiệt vì những chiến công anh hùng của anh. Một chủ đề tương tự cũng xuất hiện trong một số dị bản nhất định của câu chuyện về Medea. Vở kịch Trachiniae (Những người phụ nữ Trachis) chủ yếu được dựa trên câu chuyện thần thoại này. Tham khảo Thư mục F. Diez de Velasco, "Nessos", Lexicon Iconographicum Mythologiae Classicae, Munich-Zurich, Artemis Verlag, vol. VI,1, 1992, 838–847 & VI,2, 1992, 534–555. Liên kết ngoài Dự án Perseus– Nessus và Cái chết của Hercules Dự án Perseus – Apollodorus Theoi Project – Nessus Thần thoại Hy Lạp Nhân vật trong thần thoại Hy Lạp
412
19829579
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jules%20Michelet
Jules Michelet
Jules Michelet (; 21 tháng 8 năm 1798 - 9 tháng 2 năm 1874) là một nhà sử học và nhà văn người Pháp. Ông được biết đến nhiều nhất với tác phẩm đa tập Histoire de France (Lịch sử Pháp), theo dõi lịch sử Pháp từ thời kỳ đầu tiên cho đến Cách mạng Pháp. Ông được coi là một trong những người sáng lập nền sử học hiện đại. Michelet chịu ảnh hưởng của Giambattista Vico. Ông ngưỡng mộ sự nhấn mạnh của Vico về vai trò của con người và phong tục của họ trong việc định hình lịch sử, đây là một sự thay đổi lớn so với sự nhấn mạnh vào các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự. Chú thích Đọc thêm Roland Barthes. Michelet (1978);English translation by Richard Howard (1992). Burrows, Toby. "Michelet in English". Bulletin (Bibliographical Society of Australia and New Zealand) 16.1 (1992): 23+. online ; reviews all the translations into English. Lionel Gossman. "Jules Michelet and Romantic Historiography" in Scribner's European Writers, eds. Jacques Barzun and George Stade (New York: Charles Scribner's Sons, 1985), vol. 5, 571–606 Lionel Gossman. "Michelet and Natural History: The Alibi of Nature" in Proceedings of the American Philosophical Society, vol. 145 (2001), 283–333 Liên kết ngoài ; all in French. Nhà sử học Pháp Thế kỉ 18
221
19829584
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%C6%A1ng%20V%C4%83n%20%C4%90%C3%B4ng
Vương Văn Đông
Trung tá Vương Văn Đông (ngày 5 tháng 3 năm 1930 – ngày 21 tháng 4 năm 2018) là sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa cùng với Đại tá Nguyễn Chánh Thi lãnh đạo cuộc đảo chính năm 1960 nhằm lật đổ chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Nỗ lực đảo chính thất bại nên ông cùng Đại tá Thi và Trung tá Phạm Văn Liễu lên chiếc C-47 trốn sang Campuchia và sau đó được Cựu hoàng Norodom Sihanouk cho phép tị nạn tại đây. Ông từng theo học khóa sĩ quan ở Fort Leavenworth, bang Kansas nước Mỹ. Lưu vong tại Campuchia được ít lâu ông bèn chạy sang Pháp vào tháng 4 năm 1963. Sau khi hay tin nhóm tướng lĩnh dưới quyền Dương Văn Minh đã phát động đảo chính thành công giết chết Diệm vào đầu tháng 11 năm 1963, ông mới quyết định hồi hương. Mặc dù vậy, Hội đồng Quân nhân Cách mạng không trao cho ông bất kỳ chức vụ chính thức nào trong tân chính phủ, thay vào đó họ lại muốn bắt giữ ông vì nghi ngờ ý định đảo chính. Đúng lúc đó, một tổ chức thuộc Đảng Cộng sản tại Sài Gòn đã lén giúp ông tìm cách trốn sang Pháp định cư và chẳng bao giờ quay trở lại Việt Nam nữa. Sang đây rồi, ông âm thầm sinh sống ở Paris cho đến khi qua đời ngày 21 tháng 4 năm 2018 vì bệnh tật ở tuổi 88, sau một tháng điều trị tại Bệnh viện Deauville ở Normandy. Tham khảo Sinh năm 1930 Mất năm 2018 Người Pháp gốc Việt Người Việt di cư tới Pháp Sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa
286
19829585
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9%20Qu%E1%BB%91c%20Th%C3%B4ng
Vũ Quốc Thông
Vũ Quốc Thông (ngày 22 tháng 11 năm 1916 – 1987) là giáo sư, chính khách người Việt Nam, từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Xã hội và Y tế Việt Nam Cộng hòa. Tiểu sử Vũ Quốc Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại tỉnh Nam Định, Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương. Năm 1951, ông rời bỏ ngành tư pháp và chuyển sang giảng dạy tại Đại học Hà Nội với chức danh giáo sư luật. Dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Xã hội và Y tế từ tháng 5 năm 1955 đến tháng 11 năm 1956. Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, ông bị chính quyền cộng sản bắt giam trong trại cải tạo mãi cho đến năm 1980 mới được trả tự do. Vũ Quốc Thông qua đời vì bạo bệnh vào năm 1987. Gia đình Vũ Quốc Thông là anh trai của Giáo sư Vũ Quốc Thúc, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa. Vợ ông là bà Lâm Thị Tính qua đời ngày 22 tháng 9 năm 2013 tại Olympia, Washington, Mỹ. Tham khảo Họ Vũ Sinh năm 1916 Mất năm 1987 Người Nam Định Bộ trưởng Việt Nam Cộng hòa Chính khách Việt Nam Cộng hòa Tù nhân lương tâm Tổ chức Ân xá Quốc tế bị Việt Nam giam giữ
218
19829586
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B5%20V%C4%83n%20Ba
Võ Văn Ba
Võ Văn Ba (1923 – ngày 8 tháng 6 năm 1975) là điệp viên Việt Nam Cộng hòa và CIA trong Chiến tranh Việt Nam. Tiểu sử Thân thế Võ Văn Ba sinh năm 1923 tại tỉnh Long An, Liên bang Đông Dương. Sự nghiệp Ông gia nhập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (VC) và làm cán bộ ở tỉnh Tây Ninh. Vào giữa thập niên 1960, ông được Cục Cảnh sát Đặc biệt Việt Nam Cộng hòa tuyển mộ và từ năm 1969 trở đi, ông đồng ý làm gián điệp cho cả Việt Nam Cộng hòa và CIA. Ông cung cấp cho đầu mối liên lạc của mình thư từ và kế hoạch từ Trung ương Cục miền Nam (COSVN), tổng hành dinh chính trị và quân sự của Bắc Việt nắm quyền kiểm soát cuộc nổi dậy ở miền Nam Việt Nam. Khi kết thúc sự nghiệp, ông đang giữ chức Bí thư Đảng ủy huyện Phú Khương, tỉnh Tây Ninh, chịu trách nhiệm tuyển mộ thành viên của đạo Cao Đài. Frank Snepp, người từng là nhân viên CIA tại Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn từ năm 1969 đến khi Sài Gòn thất thủ vào tháng 4 năm 1975, mô tả Võ Văn Ba là tài sản tình báo quan trọng nhất của cuộc chiến, nói rằng ông ấy tương đương với việc có một điệp viên trong hầm trú ẩn của Hitler. Bị bắt và cái chết Khi chính thể Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trước cuộc tổng tấn công mùa xuân năm 1975 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phía Bắc Việt đã bắt giữ nhiều sĩ quan tình báo và quân đội Việt Nam Cộng hòa, trong đó có một người tên là Phương đã xác định Võ Văn Ba là điệp viên của Việt Nam Cộng hòa. Ông bị bắt tại tỉnh Tây Ninh vào ngày cuối cùng của cuộc chiến là ngày 30 tháng 4 năm 1975. Theo nguồn tin của Bắc Việt, ông đã tự sát trong khi ở trong tù chờ xét xử vào ngày 8 tháng 6 năm 1975. Tham khảo Sinh năm 1923 Mất năm 1975 Người Long An Người cộng sản Việt Nam Điệp viên Việt Nam Cộng hòa
367
19829587
https://vi.wikipedia.org/wiki/Milli%20Bus
Milli Bus
Milli Bus (Pashto/Ba Tư: ملي بس, Xe buýt Quốc gia), còn được đánh vần thành Millie Bus, là dịch vụ xe buýt liên tỉnh do chính phủ điều hành hoạt động trên khắp Afghanistan. Hoạt động này nằm dưới sự quản lý của Bộ Giao thông Vận tải và Hàng không Dân dụng Afghanistan. Hoạt động Hãng Milli Bus Enterprise là đơn vị chuyên vận hành dịch vụ xe buýt chủ yếu ở Kabul, cùng với các dịch vụ ở những nơi khác bao gồm tỉnh Panjshir, Parwan, Kandahar và Maidan Wardak. Xe buýt Milli là một trong những phương tiện giao thông rẻ nhất ở Kabul, thường dẫn đến tình trạng quá tải trong giờ cao điểm. Lịch sử Milli Bus có từ cuối thập niên 1920. Năm 1979, công ty cũng vận hành hệ thống xe điện bánh hơi. Cơ sở hạ tầng của Millie Bus bao gồm bãi đậu xe, nhà xưởng và khu hành chính đã bị phá hủy sau năm 1992 do cuộc nội chiến bùng nổ ở Kabul. Có thông tin cho rằng vào năm 2001, sau khi chế độ Taliban kết thúc, chỉ có 50 xe buýt vẫn còn hoạt động ở Kabul. Khoảng 1.000 xe buýt nhận được dưới dạng hàng viện trợ từ Ấn Độ, Iran, Nhật Bản và Pakistan trong khoảng thời gian một thập kỷ sau sự sụp đổ của chính phủ Taliban trước đây. Năm 2014, có thông tin cho rằng nhiều xe buýt loại này đều không hoạt động do hỏng hóc và hầu hết chúng đều được nhập khẩu nên việc thiếu phụ tùng thay thế đã cản trở hoạt động sửa chữa. Trong khuôn khổ Dự án Xây dựng Thể chế Quốc gia của Quỹ Phát triển Liên Hợp Quốc, một bộ phận bảo dưỡng được thành lập và nhóm nhân viên, kỹ sư phải trải qua khóa đào tạo về bảo trì xe buýt cũng như các lĩnh vực khác như sát hạch lái xe từ hãng ô tô lớn Tata Motors của Ấn Độ. Năm 2015, hoạt động của Millie Bus ở Kabul là chủ đề của một bộ phim tài liệu từ hãng Ariana Television Network. Tham khảo Afghanistan Công ty điều hành xe buýt Vận tải xe buýt ở Afghanistan
371
19829591
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nghi%E1%BA%BFn%20r%C4%83ng
Nghiến răng
Nghiến răng là tình trạng nghiến răng hoặc cắn chặt hàm quá mức. Đây là một hoạt động không bình thường của miệng, không liên quan đến chức năng bình thường như ăn hoặc nói. Nghiến răng là một hành vi phổ biến, với tỷ lệ mắc bệnh từ 8% đến 31% trong dân số nói chung. Có một số triệu chứng thường liên quan đến nghiến răng, bao gồm đau cơ hàm, nhức đầu, răng nhạy cảm, mòn răng và hư hỏng các phục hồi răng. Các triệu chứng có thể rất nhẹ và người bệnh không nhận thức được tình trạng của mình. Nếu không được điều trị, theo thời gian, nhiều răng sẽ bắt đầu mòn đi cho đến khi toàn bộ răng bị mất. Có hai loại nghiến răng chính: nghiến răng khi ngủ (nghiến răng ban đêm) và nghiến răng khi thức (nghiến răng ban ngày). Tổn thương răng có thể tương tự nhau ở cả hai loại, nhưng các triệu chứng của nghiến răng ban đêm thường nặng hơn khi thức dậy và cải thiện trong ngày, trong khi các triệu chứng của nghiến răng ban ngày có thể không xuất hiện khi thức dậy và sau đó nặng hơn trong ngày. Nguyên nhân của nghiến răng chưa được hiểu rõ hoàn toàn, nhưng có thể liên quan đến nhiều yếu tố. Nghiến răng ban ngày phổ biến hơn ở phụ nữ, trong khi nam và nữ bị ảnh hưởng bởi nghiến răng ban đêm với tỷ lệ ngang nhau. Nghiến răng ban ngày được cho là có nguyên nhân khác với nghiến răng ban đêm. Có một số phương pháp điều trị đang được sử dụng, nhưng có rất ít bằng chứng về hiệu quả mạnh mẽ của bất kỳ phương pháp điều trị cụ thể nào. Chú thích Bệnh Răng Miệng
306
19829592
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A3%20quan
Vợ quan
Vợ quan (tên cũ: Lưới tình) là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Mega GS do NSƯT Nhâm Minh Hiền làm đạo diễn. Phim được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của tác giả Ðường Ðạt Thiên. Phim phát sóng vào lúc 19h45 hàng ngày bắt đầu từ ngày 12 tháng 6 năm 2022 và kết thúc vào ngày 28 tháng 7 năm 2022 trên kênh SCTV14. Nội dung Vợ quan xoay quanh cặp vợ chồng Thiếu Phong (NSƯT Trương Minh Quốc Thái) - Phó Giám đốc Sở Xây dựng thành phố Nam Đông và Thùy Như (Thân Thúy Hà) - một bác sĩ giỏi chuyên môn, lại khéo ứng xử, giao tiếp, giúp chồng chu toàn các mối quan hệ xã hội. Diễn viên NSƯT Trương Minh Quốc Thái trong vai Thiếu Phong Thân Thúy Hà trong vai Bác sĩ Thùy Như Chu Anh trong vai Thiên Thư Khánh Huyền trong vai Bà Lan NSƯT Hữu Châu trong vai Ông Mạnh Thanh Hiền trong vai Thùy Dương Huy Cường trong vai A Phón Quốc Thảo trong vai Ông Minh NSƯT Hạnh Thúy trong vai Bà Thùy Ma Ran Đô trong vai Thanh Phú Yeye Nhật Hạ trong vai Huỳnh Nhi Quang Thảo trong vai Đình Hàm Trọng Nhân trong vai Duy Khương Đoàn Minh Tài trong vai Tài Euro Nguyễn Quốc Trường Thịnh trong vai Thái Công Tử NSƯT Mạnh Dung trong vai Ông Bảy Thân NSƯT Thanh Dậu trong vai Bà Bảy Thân Nguyễn Công Nương trong vai Mèo Con Phúc An trong vai Bà Tràng Vũ Hương Thơm trong vai Bà Hoài Bảo Trí trong vai Ông Xuân Hoàng Thanh trong vai Bác sĩ Việt Huỳnh Trang Nhi trong vai Bà Kiều Hà Phương Thương trong vai Bà Tuyết Lê Văn Dũng trong vai Ông Quyền Xuân Hiệp trong vai Ông Cương Quốc Tân trong vai Ông Cường Sao Mai trong vai Huệ Dương Mỹ Dung trong vai Ngọc Lâm Minh Cường trong vai Năm Lý Minh Hoàng trong vai Ông Quang NSƯT Phi Điểu trong vai Bà Chín Nguyễn Quỳnh trong vai Y tá Nương Cụg một số diễn viên khác.... Ca khúc trong phim Bài hát trong phim là ca khúc "Yêu hay dừng lại" do Minh Đăng sáng tác và Mandy Thanh Trúc thể hiện. Giải thưởng Tham khảo Phim truyền hình Việt Nam ra mắt năm 2022
360
19829599
https://vi.wikipedia.org/wiki/V.%20I.%20Lenin%20t%E1%BA%A1i%20Razliv%20v%C3%A0o%20n%C4%83m%201917
V. I. Lenin tại Razliv vào năm 1917
V. I. Lenin tại Razliv vào năm 1917, nhan đề gốc tiếng Nga là В. И. Ленин в Разливе в 1917 году, là một bức tranh sơn dầu được sáng tác bởi họa sĩ người Nga A. A. Rylov vào năm 1934. Tới năm 1959, Viện Bảo tàng Nga ở Sankt-Peterburg còn lưu giữ hai phiên bản khác nhau của bức tranh này. Thời Liên Xô, tác phẩm này trở thành chủ đề được giảng dạy trong các buổi học tiếng Nga trên lớp. Nhà sử học nghệ thuật Alexey Fedorov-Davydov cho rằng bức tranh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai dòng tranh lịch sử và phong cảnh, với phong cách trữ tình và kỷ niệm, và có thể được coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất buổi cuối sự nghiệp hội họa của Rylov. Lịch sử sáng tác và số phận của bức tranh Khoảng thời gian nương náu ngoài vòng pháp luật của V. I. Lenin tại Razliv vào mùa hè năm 1917 là một trong những chủ đề nổi bật của nền hội họa Liên Xô. Các tác phẩm như Lenin và Stalin ở Razliv [Ленин и Сталин в Разливе] (1940) bởi N. N. Zhukov, Lenin ở Razliv [Ленин в Разливе] (1948) bởi А. А. Plastov, Lenin ở Razliv [Ленин в Разливе] (1949) bởi nhóm Kukryniksy, Y. M. Sverdlov và V. I. Lenin ở Razliv [Я. М. Свердлов у В. И. Ленина в Разливе] (1937) bởi А. М. Lyubimov, S. K. Ordzhonikidze và V. I. Lenin ở Razliv [Г. К. Орджоникидзе у В. И. Ленина в Разливе] (1953) bởi V. А. Serov, Lenin ở Razliv [Ленин в Разливе] (1953) bởi E. S. Shcherbakov và V. I. Lenin ở Razliv [B. И. Ленин в Разливе] (1950) bởi G. V. Kiyanchenko, cùng nhiều tác phẩm khác, được chính quyền Xô viết bảo trợ và khuyến khích nhằm xây dựng hình tượng hoàn mỹ về vị lãnh tụ Đảng, nhà cách mạng và nhà tư tưởng vang danh toàn cầu. Bối cảnh lịch sử và đặc điểm nghệ thuật Nội dung bức tranh dựa trên một sự kiện lịch sử có thật vào năm 1917. Sau cuộc biểu tình bất thành vào những ngày Tháng Bảy 1917 ở Petrograd, Chính phủ Lâm thời Nga ban lệnh truy nã gắt gao các nhà lãnh đạo Đảng Bolshevik. Theo một số sử liệu, tư lệnh Quân khu Petrograd lúc bấy giờ, Tướng Pyotr Polovtsev, đã cho phép chỉ huy tiểu đoàn truy bắt có quyền được xử bắn Lenin ngay tại chỗ. Với tình hình đó, Lenin nhanh chóng chạy khỏi Petrograd để tìm nơi trú ẩn an toàn hơn. Tham khảo Thư mục
422
19829600
https://vi.wikipedia.org/wiki/Konstantin%20Aleksandrovich%20Zubov
Konstantin Aleksandrovich Zubov
Konstantin Aleksandrovich Zubov (; 20 tháng 9 năm 1888 – 22 tháng 11 năm 1956) là một diễn viên, đạo diễn điện ảnh và sân khấu và nhà sư phạm Liên Xô (sau này là Nga). Ông được phong danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân Liên Xô năm 1949. Tác phẩm (chọn lọc) 1916 — Nelli Raintseva 1917 — Revolutionary 1928 — The Lame Gentleman 1933 — Marionettes 1940 — Yakov Sverdlov Tham khảo Liên kết ngoài Константин Зубов tại kino-teatr.ru Sinh năm 1888 Mất năm 1956 Nam diễn viên Nga thế kỷ 20 Đạo diễn điện ảnh Đế quốc Nga Nam diễn viên Đế quốc Nga Thành viên Xô viết Tối cao Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga, 1955–1959 Cựu sinh viên Viện Nghệ thuật Biểu diễn Nhà nước Nga Nghệ sĩ Nhân dân Liên Xô Nghệ sĩ Nhân dân Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga Người nhận Huân chương Cờ đỏ Lao động Giáo viên kịch nghệ Nga Đạo diễn điện ảnh Nga Nam diễn viên điện ảnh Nga Nam diễn viên sân khấu Nga Đạo diễn sân khấu Nga Giáo viên kịch nghệ Liên Xô Đạo diễn điện ảnh Liên Xô Nam diễn viên điện ảnh Liên Xô Nam diễn viên sân khấu Liên Xô Đạo diễn sân khấu Liên Xô Chôn cất tại Nghĩa trang Novodevichy
208
19829605
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A0n%20da%20s%C3%A1ng
Làn da sáng
Làn da sáng (Light skin) hay làn da trắng là màu da của con người có mức sắc tố eumelanin cơ bản đã thích nghi với môi trường có bức xạ tia cực tím thấp. Làn da trắng sáng thường được tìm thấy nhiều nhất ở các nhóm dân cư bản địa ở Châu Âu, Trung Á và Đông Bắc Á được đo thông qua độ phản xạ của da. Những người có sắc tố da sáng thường được gọi là "da trắng" dù rằng cách sử dụng này có thể mơ hồ ở một số quốc gia nơi chúng được dùng để chỉ cụ thể đến các nhóm dân tộc hoặc cộng đồng người nhất định mang đặc điểm này. Làn da trắng sáng cùng với đặc điểm tóc vàng, mắt xanh, mũi lõ là những đặc trưng về nhân chủng học của người da trắng thuộc đại chủng Âu. Đại cương Những người có sắc tố da sáng có làn da có lượng eumelanin thấp và có ít melanosome hơn những người có sắc tố da sẫm màu. Làn da sáng mang lại khả năng hấp thụ tia cực tím tốt hơn, giúp cơ thể tổng hợp lượng vitamin D cao hơn cho các quá trình của cơ thể như phát triển canxi. Mặt khác, những người da sáng sống gần xích đạo, nơi có nhiều ánh sáng mặt trời, có nguy cơ bị suy giảm folate cao hơn. Do hậu quả của sự suy giảm folate, họ có nguy cơ bị tổn thương DNA, dị tật bẩm sinh và nhiều loại ung thư, đặc biệt là ung thư da. Những người có làn da sẫm màu sống xa vùng nhiệt đới có lượng vitamin D thấp, điều này cũng có thể dẫn đến các biến chứng về sức khỏe, cả về thể chất và tinh thần, bao gồm nguy cơ mắc bệnh tâm thần phân liệt cao hơn. Hai quan sát này hình thành nên "giả thuyết vitamin D–folate", cố gắng giải thích lý do tại sao các cộng đồng người di cư khỏi vùng nhiệt đới đến các khu vực có bức xạ tia cực tím thấp lại tiến hóa để có sắc tố làn da sáng. Sắc tố da là sự thích nghi mang tính tiến hóa với các mức độ bức xạ UV khác nhau trên khắp thế giới. Những người có làn da sáng sống trong môi trường có bức xạ tia cực tím cao có những ảnh hưởng tới sức khỏe. Các tập quán văn hóa khác nhau làm tăng các vấn đề liên quan đến tình trạng sức khỏe của làn da sáng, ví dụ như tắm nắng ở những người da sáng. Sự phân bố của các cộng đồng người có làn da sáng có mối tương quan chặt chẽ với mức độ bức xạ cực tím thấp ở các khu vực nơi họ sinh sống. Trong lịch sử, những người có làn da sáng hầu như chỉ sống xa xích đạo, ở những vùng vĩ độ cao với cường độ ánh sáng mặt trời thấp. Lịch sử sắc tố của con người ở châu Âu cho thấy những người săn bắt hái lượm tại bán đảo Scandinavia có mức độ biến đổi sắc tố ánh sáng cao hơn so với tổ tiên của họ đến từ các khu vực khác ở Châu Âu cho thấy sự thích nghi với điều kiện ánh sáng yếu. Một số nhà nghiên cứu đã bày tỏ sự thận trọng về những dự đoán về sắc tố da. Do quá trình thuộc địa hóa, chủ nghĩa đế quốc và sự di cư ngày càng tăng của người dân giữa các khu vực địa lý trong những thế kỷ gần đây, dân số mang làn da sáng ngày nay được tìm thấy trên khắp thế giới. Chú thích Mà da người Di truyền học loài người
645
19829607
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ethan%20Mbapp%C3%A9
Ethan Mbappé
Ethan Mbappé Lottin (sinh ngày 29 tháng 12 năm 2006) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Paris Saint-Germain tại Ligue 1. Đầu đời Sinh ra tại Montreuil, Seine-Saint-Denis, Mbappé lớn lên trong một gia đình có truyền thống thể thao, với anh trai Kylian và anh trai nuôi Jirès Kembo Ekoko đều trở thành cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp. Cha của họ là người gốc Cameroon và mẹ của họ là người gốc Algérie. Sự nghiệp thi đấu Paris Saint-Germain Ethan tiếp bước cả hai người anh trai của mình khi gia nhập đội bóng địa phương, AS Bondy vào năm 2015. Sau hai năm gắn bó với AS Bondy, Mbappé gia nhập gã khổng lồ nước Pháp, Paris Saint-Germain vào năm 2017, cùng thời điểm đội bóng mang về anh trai Kylian theo dạng cho mượn. Anh ghi bàn trong trận ra mắt cho đội U-12. Mbappé ký hợp đồng mới có thời hạn 3 năm với PSG vào tháng 6 năm 2021. Vào ngày 16 tháng 12 năm 2022, ở tuổi 15, anh có trận ra mắt với đội 1 của câu lạc bộ trong trận thắng 2-1 trước Paris FC. Trước mùa giải 2023–24, anh được triệu tập để tham gia chuyến du đấu ở châu Á và có trận đầu tiên cho PSG trong trận thắng 3–0 trước Jeonbuk Hyundai Motors vào ngày 3 tháng 8. Anh được điền tên vào đội hình thi đấu của PSG lần đầu tiên vào ngày 15 tháng 9 năm 2023 trên băng ghế dự bị không được sử dụng trong trận thua 2-3 trên sân nhà trước Nice. Sự nghiệp quốc tế Mbappé được gọi triệu tập lên đội tuyển U-16 Pháp vào tháng 11 năm 2021. Phong cách thi đấu Không giống như anh trai Kylian, một tiền đạo nổi tiếng với tốc độ nhanh như chớp, Ethan là một tiền vệ thuận chân trái, có kỹ thuật. Đời tư Vào tháng 1 năm 2022, Mbappé dính vào một vụ tai nạn giao thông nhỏ, sau khi chiếc xe anh đang lái bị một người lái xe say rượu đâm phải. Sau khi vụ tai nạn này xảy ra, anh không hề gặp phải chấn thương nghiêm trọng nào. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 2006 Nhân vật còn sống Tiền vệ bóng đá Tiền vệ bóng đá nam Cầu thủ bóng đá Pháp Cầu thủ bóng đá nam Pháp Người Pháp gốc Cameroon Người Pháp gốc Algérie Người Pháp gốc Kabyle‎ Cầu thủ bóng đá Paris Saint-Germain F.C. Cầu thủ bóng đá Ligue 1
422
19829609
https://vi.wikipedia.org/wiki/Noelia%20Voigt
Noelia Voigt
Noelia Victoria Voigt (sinh ngày 1 tháng 11 năm 1999) là một người mẫu và hoa hậu người Mỹ từng đăng quang Hoa hậu Mỹ 2023. Cô sẽ đại diện cho Hoa Kỳ tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2023 vào ngày 18 tháng 11 năm 2023 tại El Salvador. Tiểu sử Cô sinh ra ở Sarasota, Florida với mẹ là người Venezuela, Jackeline Coromoto Briceño đến từ Zulia, và cha là người Mỹ, Jack David Voigt, một cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp. Voigt vào Đại học Alabama ở Tuscaloosa, Alabama để theo đuổi bằng cử nhân về thiết kế nội thất. Cuộc thi sắc đẹp Hoa hậu Mỹ 2023 Sau khi giành vị trí Á hậu 1 tại Hoa hậu Alabama Hoa Kỳ lần thứ hai liên tiếp, cô chuyển đến Thành phố Salt Lake, Utah vào tháng 4 năm 2023 và tranh danh hiệu Hoa hậu Utah Hoa Kỳ 2023. Sau khi giành chiến thắng trong cuộc thi ở bang nhận nuôi, cô đã giành được danh hiệu Hoa hậu. quyền đại diện cho Utah tại Hoa hậu Mỹ 2023 vào ngày 29 tháng 9 năm 2023 tại Reno, Nevada, trở thành chủ nhân danh hiệu tiểu bang người Mỹ gốc Venezuela đầu tiên của họ. Tại cuộc thi, sau khi vượt qua Top 20 ở phần thi áo tắm và trang phục dạ hội, cô đã lọt vào Top 5 cùng các đại diện đến từ Hawaii, Pennsylvania, Texas và Wisconsin. Ở vòng hỏi đáp cuối cùng, Noelia được hỏi: “Là đại sứ thương hiệu cho Hoa hậu Mỹ, bạn sẽ đóng góp gì cho tổ chức?” mà cô ấy đã trả lời: Tôi tin rằng khả năng kết nối với mọi người là tài sản cực kỳ quan trọng mà một Hoa hậu Mỹ nên có. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là một quốc gia vô cùng đa dạng, có lẽ là một trong những quốc gia đa dạng nhất trên toàn thế giới. Vì vậy, việc có thể kết nối với mọi người là điều quan trọng. Là một phụ nữ Mỹ gốc Venezuela song ngữ, tôi dự định kết nối với cộng đồng người đó vì Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là một quốc gia đa dạng và Hoa hậu Hoa Kỳ cần có khả năng đại diện cho mọi cộng đồng bất kể xuất thân, chủng tộc, dân tộc của họ, bất cứ điều gì và tôi muốn trở thành Hoa hậu Mỹ. Noelia cuối cùng đã được trao vương miện bởi đương kim sắp mãn nhiệm Morgan Romano của North Carolina với tư cách là Hoa hậu Hoa Kỳ 2023, trở thành người chiến thắng người Mỹ gốc Venezuela đầu tiên và người chiến thắng người gốc Tây Ban Nha thứ năm sau Laura Harring năm 1985, Lynnette Cole năm 2000, Susie Castillo năm 2003 và Nia Sanchez năm 2003. 2014. Cô trở thành người phụ nữ thứ ba từ Utah đăng quang Hoa hậu Mỹ sau 63 năm. Chiến thắng của cô đã giúp cô có quyền đại diện cho Hoa Kỳ tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2023, được tổ chức tại El Salvador vào ngày 18 tháng 11. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1999 Người Mỹ Miss USA Nữ giới Mỹ Nữ người mẫu Mỹ Hoa hậu Hoa Kỳ
540
19829617
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%B7c%20quy%E1%BB%81n%20da%20tr%E1%BA%AFng
Đặc quyền da trắng
Đặc quyền da trắng (White privilege) hay gọi đầy đủ là đặc quyền của người da trắng là đặc quyền xã hội mang lại đặc lợi cho người da trắng so với những người không phải da trắng ở một số xã hội và quốc gia, đặc biệt nếu họ ở cùng hoàn cảnh xã hội, bối cảnh chính trị hoặc cùng hoàn cảnh kinh tế. Đặc quyền đặc lợi của người da trắng bắt nguồn từ chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc châu Âu, và việc buôn bán nô lệ Đại Tây Dương, đặc quyền của người da trắng đã phát triển trong những hoàn cảnh mà các thể chế xã hội luôn tìm cách bảo vệ các đặc quyền của chủng tộc da trắng, các quyền công dân khác và các quyền hoặc lợi ích đặc biệt khác. Đặc quyền của người da trắng được tiếp cận là một hiện tượng xã hội đan xen với yếu tố chủng tộc và sự phân biệt chủng tộc. Thuật ngữ này được sử dụng trong các thảo luận với tâm điểm là những lợi ích tiềm ẩn nhất mà người da trắng sẽ có được trong một xã hội nơi sự phân biệt chủng tộc là phổ biến và người da trắng được coi là bình thường, thay vì gây bất lợi cho những người là đối tượng của sự phân biệt chủng tộc. Chủ nghĩa thực dân châu Âu, liên quan đến một số mối liên hệ quan trọng sớm nhất của người châu Âu với người bản địa, có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển đặc quyền của người da trắng. Đại cương Trong nghiên cứu về đặc quyền của người da trắng và lĩnh vực nghiên cứu rộng hơn về người da trắng, cả hai đều đi tiên phong ở Hoa Kỳ, các quan điểm học thuật như lý thuyết phê phán chủng tộc sử dụng khái niệm này để phân tích cách phân biệt chủng tộc và xã hội phân biệt chủng tộc ảnh hưởng đến cuộc sống của người da trắng hoặc da trắng Ví dụ, học giả người Mỹ Peggy McIntosh đã mô tả những lợi thế mà người da trắng ở các xã hội phương Tây được hưởng và những người không phải da trắng không được trải nghiệm là "một gói tài sản vô hình không thể kiếm được". Đặc quyền của người da trắng biểu thị cả những lợi thế thụ động rõ ràng và ít rõ ràng hơn mà người da trắng có thể không nhận ra rằng họ có, điều này giúp phân biệt nó với những thành kiến hoặc thành kiến công khai. Chúng bao gồm những khẳng định mang tính văn hóa về giá trị của chính mình, được cho là có địa vị xã hội cao hơn, và sự tự do đi lại, mua sắm, làm việc, vui chơi và ngôn luận một cách tự do. Những tác động này có thể được thấy được trong bối cảnh nghề nghiệp, giáo dục và góc độ cá nhân. Khái niệm đặc quyền của người da trắng cũng bao hàm quyền thừa nhận tính phổ quát trong trải nghiệm của bản thân, đánh giá người khác là khác biệt hoặc đặc biệt trong khi coi bản thân là bình thường. Một số học giả cho rằng thuật ngữ này sử dụng khái niệm "da trắng" để thay thế cho giai cấp hoặc các đặc quyền xã hội khác hoặc để đánh lạc hướng khỏi những vấn đề sâu xa hơn về sự bất bình đẳng. Những người khác nói rằng không phải người da trắng là người thay thế mà nhiều đặc quyền xã hội khác tự động có mối liên hệ với nó, đòi hỏi sự phân tích phức tạp và cẩn thận để xác định xem người da trắng góp phần tạo nên đặc quyền như thế nào. Các nhà bình luận khác đề xuất các định nghĩa thay thế về người da trắng và các ngoại lệ đối với hoặc giới hạn bản sắc da trắng, cho rằng khái niệm đặc quyền của người da trắng bỏ qua những khác biệt quan trọng giữa các nhóm dân cư và cá nhân da trắng và cho rằng khái niệm về người da trắng không thể bao gồm tất cả người da trắng. Họ lưu ý vấn đề thừa nhận sự đa dạng của người da màu và sắc tộc trong các nhóm này. Một số nhà bình luận người da trắng đã nhận thấy rằng "khái niệm nghe có vẻ học thuật về đặc quyền của người da trắng" đôi khi gợi lên sự thủ thế và hiểu lầm ở người da trắng, họ đổ lỗi một phần là do khái niệm đặc quyền của người da trắng nhanh chóng được đưa vào tâm điểm chú ý thông qua các chiến dịch truyền thông xã hội của người da màu như phong trào Black Lives Matter. Là một khái niệm học thuật mới được đưa vào phổ biến gần đây, khái niệm đặc quyền của người da trắng thường bị những người không phải là học giả hiểu sai, một số học giả, sau khi nghiên cứu đặc quyền của người da trắng trong nhiều thập kỷ, đã rất ngạc nhiên trước sự phản đối gần đây của các nhà phê bình cánh hữu kể từ khoảng năm 2014. Chú thích Phân biệt chủng tộc Người da trắng thượng đẳng
916
19829619
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20t%C3%AD%20hon
Người tí hon
Người tí hon là một nhóm sinh vật trong văn hóa dân gian của nhiều nền văn hóa trong lịch sử nhân loại như Ireland, Hy Lạp, Philippines, Quần đảo Hawaii, New Zealand, Đảo Flores, Indonesia và người Mỹ bản địa. Trong thế giới giả tưởng, người tí hon giống như là sinh vật đối lập với người khổng lồ. Văn hóa dân gian của thổ dân châu Mỹ Truyền thuyết kể về một chủng tộc "người tí hon" sống trong rừng gần những ngọn đồi đầy cát, đôi khi gần những tảng đá nằm dọc theo những vùng nước lớn, chẳng hạn như Ngũ Hồ. Họ thường được mô tả là "những người lùn tịt có khuôn mặt đầy lông" trong các câu chuyện, các hình minh họa khắc đá cho thấy họ có sừng trên đầu và đi theo nhóm từ 5 đến 7 người trên mỗi chiếc ca nô. Những người tí hon thường chơi khăm mọi người, chẳng hạn như ca hát rồi trốn khi có người tò mò tìm kiếm bản nhạc. Người ta cho rằng những người tí hon rất yêu thương trẻ em và sẽ đưa chúng đi nếu chúng bị cha mẹ ngược đãi, nếu đứa trẻ đó mồ côi hoặc bị bỏ rơi trong rừng. Các truyền thuyết khác nói rằng người tí hon nếu bị người lớn phát hiện thì họ sẽ cầu xin đừng tiết lộ về sự tồn tại của họ, họ sẽ khen thưởng những người giữ lời bằng cách giúp đỡ khi người đó cần. Có những miêu tả khác nhau về người tí hon là người tốt hay xấu tùy vào văn hóa từng vùng. Chú thích
278
19829625
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hobgoblin
Hobgoblin
Hobgoblin là một sinh vật sống trong nhà của con người, xuất hiện trong văn hóa dân gian Anh. Hobgoblin từng được coi là hữu ích nhưng với sự truyền bá của Kito giáo thì chúng lại bị coi là tinh quái. Shakespeare xác định nhân vật Puck trong tác phẩm Giấc mộng đêm hè của ông là một hobgoblin. Từ nguyên Thuật ngữ "hobgoblin" xuất phát từ "hob" (elf). Từ này được biết đến có thể bắt nguồn từ khoảng năm 1530, mặc dù nó có thể đã được sử dụng một thời gian trước đó. Văn hóa dân gian Hobgoblin trông giống họ hàng thân thiết của chúng là brownie. Chúng có vẻ ngoài nhỏ bé, người đầy lông, thường được tìm thấy trong nhà của con người, chúng làm những công việc lặt vặt quanh nhà, ví dụ như lau bụi và ủi đồ. Thông thường, phần thưởng duy nhất để đổi lấy những việc chúng làm là thức ăn. Trong khi brownie là những sinh vật hiền lành, thì hobgoblin lại tinh nghịch hơn. Chúng dường như cũng có thể thay đổi hình dạng, như đã thấy trong một trong những đoạn độc thoại của Puck trong Giấc mộng đêm hè. Robin Goodfellow có lẽ là kẻ tinh nghịch và khét tiếng nhất trong đồng loại, chúng có thể tinh nghịch, đáng sợ và thậm chí nguy hiểm. Chú thích
230
19829629
https://vi.wikipedia.org/wiki/Esther%20Supreeleela
Esther Supreeleela
Esther Supreeleela (, sinh ngày 18 tháng 5 năm 1994) tên thật là Areerat Supreeleela (อารีรัตน์ สุปรีย์ลีลา) là một nữ diễn viên trẻ nổi tiếng ở Thái Lan. Cô từng là một net idol trước khi đến với con đường diễn xuất. Sau đó, cô đã ký hợp đồng với Channel 3. Mặc dù cô tham gia diễn xuất đã nhiều lần nhưng phía bên công ty lại không đầu tư quảng bá cho cô, cái tên Esther hoàn toàn chìm nghỉm giữa bầu trời sao CH3 nên sau ba năm hoạt động dưới sự quản lý của công ty, gia đình Est đã huỷ hợp đồng với CH3. Esther từ đó nổi lên như "Diều gặp gió" và đang là một diễn viên trẻ tự do rất nổi tiếng, thành công hiện nay Est giờ đây đã tốt nghiệp tại trường đại học Bangkok Thonburi. Tiểu sử Est là nữ diễn viên gốc Thái – Malaysia sinh sống tại Thái Lan, bố là người Thái và mẹ là người Malaysia. Est sinh ngày 18 tháng 5 năm 1994, là chị cả trong gia đình, em trai tên Timothy Supreeleela và cô gái út tên là Abigail Supreeleela. Tên của cô – Esther, có nghĩa là ngôi sao trong tiếng Hebrew. Trước khi học đại học, cô đã từng tốt nghiệp tại trường Quốc tế Heathfield. Est bắt đầu các công việc trong ngành giải trí khi mới 12 tuổi, phần lớn công việc là người mẫu ảnh cho các tờ báo tuổi teen và nhãn hàng quảng cáo. Năm 15 tuổi, Est tham gia cuộc thi MISS CAWAII 2009, mã số 31. Đến năm 17 tuổi, Est bắt đầu tham gia diễn xuất trong bộ sitcom Mắt Công Hoàng Gia / หลวงตามหาชน (Luang Dtam Ha Chon) và được mọi người biết đến là một nữ diễn viên tân binh. Sau bộ phim này cô còn tham gia nhiều phim khác như บ่วง / Buang (đóng với Tanawat Wattanaputi), สุภาพบุรุษจุฑาเทพ / Soo Pha Bu Rus Ju Tha Taep (tập คุณชายรณพีร์ / Khun Chai Ronapee),... đều thuộc CH3. Sau khi huỷ hợp đồng với CH3, Est càng nổi bật hơn khi là một diễn viên tự do. Est lần đầu tiên tham gia bộ phim Giao dịch tình yêu / เล่ห์รตี (Leh Ratree) dưới danh nghĩa diễn viên tự do cùng với Sean Jindachot, bộ phim nhận được phản hồi tốt từ phía người xem. Sau đó, Est tiếp tục tham gia bộ phim Bangkok... Nơi tình yêu bắt đầu / กรุงเทพ..มหานครซ้อนรัก (Kroong Taep... Mahanah Korn Saun Ruk) đảm nhận vai Summer. Năm 2016, cô kết hợp với nam diễn viên Puttichai Kasetsin qua hai bộ phim là Puer Tur (Vì em) – một bộ phim đầy bi kịch và bộ phim Series Chàng hoàng tử trong mơ cô thủ vai phần một – trong Series này, phần này được nhận được phản hồi tích cực từ giới trẻ và cộng đồng mạng. Cùng lúc đó, cô tiếp tục tái ngộ với Sean Jindachot trong Series Cô vịt xấu xí phần 4: Thiên đường mỹ nam và phim Yêu dùm cô chủ phiên bản 2016 – phim từng thành công phiên bản 2008 trước đó. Năm 2017, cô đóng phim với ca sỹ kiêm diễn viên Sukrit Wisedkaew trong phim tình cảm hài "Em là định mệnh của anh" – bộ phim là phiên bản chuyển thể từ phim truyền hình ăn khách Đài Loan Định mệnh anh yêu em do Trần Kiều Ân và Nguyễn Kinh Thiên thể hiện. Bộ phim này gây thu hút sự chú ý không chỉ ở Thái Lan mà còn lan rộng các quốc gia khác trong đó có Việt Nam, nhờ sự ăn ý của cặp diễn viên chính này khiến khán giả mong muốn cả hai nhận dự án tiếp theo. Cuối năm, cô tiếp tục tái ngộ với Puttichai qua phim Series My Dear Loser Series: Happy Ever After. Năm 2018, cô tái hợp với Bie qua phim Chẳng phải định mệnh của nhau cũng nhận được phản hồi tốt. Năm 2019, Esther trở lại phim điện ảnh qua vai Jeed trong phim Thách yêu hai năm với Prama Imanothai, qua đó Esther tới Việt Nam vào tháng 9 để quảng bá bộ phim công chiếu tại Việt Nam. Sự nghiệp diễn xuất Hoạt động khác MV รักชนะทุกอย่าง – อัสนี / Ruk Cha Na Took Yahng – Asani พร้อมหรือยัง – รอน AF5 / Praum Reu Yanhg – Ron AF5 เหงาเหมือนกันหรือเปล่า – ต้อล AF4 / Ngao Meuan Gun Reu Bplao – Tol AF4 ขอเป็นคนสุดท้าย – วรกร ศิริสรณ์ / Kor Bpen Kon Soot Tai – Vorakorn Sirisorn กินข้าวยัง? – บี้ เดอะสตาร์ / Gin Kao Yanhg? – Sukrit Wisedkaew เจ็บจริง – Atom ชนกันต์ / Jep Jing – Atom Chanakan Quảng cáo Eversense Chupa Chups กระดาษ IDEA WORK / Kradas IDEA WORK Lactacyd Teens วอลล์ คอนเนตโต้ สตรอเบอร์รี่ / Walls Cornetto Strawberry Blink Vite 150 12 Plus ภาพนิ่งโค้ก / Pap Ning Cok PAN ANTI COMEDONE เครื่องปรับอากาศ SHARP / Kreuang Prab Akas SHARP BIORE MAKEUP REMOVER แมคโดนัลด์ ฟุตบอลโลก 2014 ชุด บราซิลเลี่ยนชิคเก้นเบอร์เกอร์ / McDonald Football Lok 2014 Chud Brazil Liang Chicken Buger กูลิโกะ ป๊อกกี้ ชุด Pocky (Always) / Glico Pocky Chud Pocky (Always) với Ungsumalynn Sirapatsakmetha HOOQ với Mario Maurer Senka Thailand Chương trình truyền hình 2piece 2please với Worranit Thawornwong Thể hiện ca khúc เสียงที่ไม่พูดไป / Siang Tee Mee Poot Bpai | Ost Leh Game Ruk (Ván cược tình yêu) (2020) If It Ain't You (ft. Tào Dục Thần) (2021) Chú thích Sinh năm 1994
906
19829658
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A3nh%20th%E1%BB%95%20da%20tr%E1%BA%AFng
Lãnh thổ da trắng
Lãnh thổ da trắng (White ethnostate) hay lãnh địa da trắng hay Nhà nước da trắng/Quốc gia da trắng/Tiểu bang da trắng trắng là một khu vực bang/tiểu bang/nhà nước/lãnh thổ được đề xuất thiết lập, nơi mà những người cư trú tại đó hoặc quyền công dân của lãnh thổ này sẽ chỉ giới hạn dành cho người da trắng và những người còn lại không phải người da trắng như người da đen, người châu Á, người Do Thái, người Trung Đông, người Bắc Phi và người gốc Tây Ban Nha sẽ bị loại khỏi quyền công dân. Những nỗ lực trong lịch sử nhằm thiết lập một vùng lãnh thổ quốc gia dân tộc của người da trắng bao gồm ở Nam Phi vào thời kỳ Apartheid nơi mà người dân da đen bị đẩy vào các biệt khu Bantustan thông qua nhiều cách thức thủ đoạn khác nhau, bao gồm việc trục xuất và phân biệt chủng tộc, với mục đích thành lập các quốc gia riêng biệt sau khi được thanh lọc sắc tộc cục bộ trong khu vực, trong đó khu vực lớn nhất sẽ chuyển sang lãnh thổ của người da trắng. Trong Vùng văn hóa tiếng Anh (Anglosphere) thì người bản địa ở các quốc gia tương ứng của họ cũng sẽ bị loại khỏi quyền công dân, chẳng hạn như người da đỏ bản địa của Hoa Kỳ, Canada, Úc và New Zealand. Tại Hoa Kỳ, những đề xuất thành lập một nhà nước như vậy được đưa ra từ các phe phái theo chủ nghĩa Da trắng thượng đẳng và Chủ nghĩa dân tộc da trắng như Ku Klux Klan và Tân Quốc xã (Neo-Nazis). Một số phe phái này cho rằng một phần nhất định của đất nước nên có đa số là người da trắng và các phe phái khác cho rằng toàn bộ đất nước nên có đa số là người da trắng. Hầu hết các phong trào sắc tộc da trắng đều hình dung ra một nhà nước sẽ chỉ có người theo đạo Tin lành Anglo-Saxon da trắng và/hoặc những người gốc Bắc Âu được sinh sống tại nơi đây. Thiết lập Trong lịch sử cũng như thời hiện đại thì ở vùng Tây Bắc Hoa Kỳ (Bang Washington, Oregon, Idaho và một phần của Montana) đã được nhiều người theo chủ nghĩa người da trắng thượng đẳng đề xuất làm địa điểm thành lập một quốc gia dân tộc da trắng. Sứ mệnh Lãnh thổ Tây Bắc này được quảng bá nhiệt thành từ các nhân vật như Richard Girnt Butler, Robert Miles, Robert Jay Mathews, David Lane và Harold Covington, cùng với tổ chức khủng bố người da trắng thượng đẳng The Order, tổ chức Neo-Nazi, Christian Identity, Nhà nước Aryan, nhóm đầu trọc quyền lực da trắng Volksfront và Mặt trận Tây Bắc, cùng những nhóm khác. Lãnh thổ Tây Bắc cũng có sự chồng chéo lỏng lẻo với Phong trào độc lập Cascadia khi cũng tìm cách tạo ra một nước cộng hòa độc lập giữa Tây Bắc và các vùng của Bắc California ở Hoa Kỳ và British Columbia ở Canada. Một số người có tư tưởng cực hữu sử dụng cụm từ American Redoubt để mô tả một cuộc di cư tương tự đến Tây Bắc Hoa Kỳ. Các khu vực khác đã được một số nhóm nhất định coi là địa điểm cho một quốc gia dân tộc da trắng tiềm năng, đáng chú ý nhất là miền Nam Hoa Kỳ đã được đề xuất là một quốc gia dân tộc da trắng từ những "Người theo chủ nghĩa dân tộc miền Nam" tự xưng Liên đoàn các quốc gia dân tộc da trắng miền Nam (LS), do lịch sử chủ nghĩa ly khai của khu vực và do khu vực này từng là một quốc gia độc lập được gọi là Liên minh miền Nam Hoa Kỳ (1861–1865) Ngược lại, Ozarks từng là "điểm nóng" của những người theo phong trào Bản sắc Cơ đốc giáo, bao gồm Giáo hội Israel và nhiều thành viên khác nhau của phong trào Ái quốc Cơ đốc giáo, những người đã thành lập các trại huấn luyện bán quân sự để chuẩn bị cho trận Armageddon sắp tới. Từ 1901 đến 1973, Nước Úc duy trì một loạt chính sách, gọi chung là Chính sách nước Úc trắng (White Australia policy) nhằm tích cực hạn chế việc nhập cư của những người di cư không phải da trắng. Chính sách này bắt nguồn sau khi Úc thông qua Đạo luật hạn chế nhập cư 1901 nhằm cấm những người không phải người châu Âu di cư vào nước này. Những chính sách này dần dần bị bãi bỏ trong những năm sau đó, và Đạo luật hạn chế nhập cư 1901 bị bãi bỏ vào năm 1958 và được thay thế bằng Đạo luật di cư 1958. Chính sách Nước Úc trắng chấm dứt triệt để vào năm 1973, sau khi chính phủ Whitlam thông qua đạo luật coi việc lựa chọn người di cư trên cơ sở chủng tộc là bất hợp pháp. Tương tự như Chính sách của người Úc da trắng thì "Chính sách của người da trắng New Zealand" ("White New Zealand Policy") bao gồm luật cấm người châu Á và những người không phải người châu Âu nhập cư vào nước này. Sau Thế chiến thứ hai, một bản ghi nhớ do Bộ Ngoại giao New Zealand công bố năm 1953 đã mô tả mục đích của chính sách này một cách rõ ràng hơn. Luật pháp không được nới lỏng cho đến những năm 1970 và 1980. Bộ Văn hóa và Di sản New Zealand đã mô tả chính sách này như sau: "Việc nhập cư của chúng tôi dựa trên nguyên tắc rằng chúng tôi đang và có ý định duy trì là một quốc gia phát triển của châu Âu. Đó chắc chắn là sự phân biệt đối xử đối với người châu Á - thực tế là đối với tất cả những người không thuộc châu Âu hoàn toàn thuộc chủng tộc và màu da châu Âu. Trong khi chúng tôi đã làm nhiều việc để khuyến khích nhập cư từ châu Âu, chúng tôi làm mọi cách để ngăn cản dòng người nhập cư từ châu Á". Ở Nam Phi, sau khi chế độ Apartheid chấm dứt thì một số tổ chức dân tộc chủ nghĩa Afrikaner, bao gồm Afrikaner Weerstandsbeweging bắt đầu thúc đẩy ý tưởng về một Volkstaat sẽ được thành lập ở khu vực Miền Tây Hảo Vọng. Vào tháng 1 năm 2010, Beeld, một tờ báo tiếng Nam Phi, đã tổ chức một cuộc khảo sát trực tuyến. Trong số 11.019 người được hỏi, có 56% (6.178 người) cho biết họ sẽ chuyển đến Volkstaat nếu khu vực này được thiết lập, hơn 17% (1.908 người) cho biết họ sẽ cân nhắc việc chuyển đến nó và 27% (2.933 người) cho biết họ sẽ không xem xét đến việc chuyển sang đó cư trú vì họ không tin rằng đó là một lựa chọn khả thi. Vào tháng 11 năm 1965, Thủ tướng Nam Rhodesia Ian Smith tuyên bố nền độc lập của Nam Rhodesia trong nỗ lực bảo tồn văn hóa da trắng bằng cách ngăn chặn người châu Phi da đen cai trị đất nước. Chú thích Phân biệt chủng tộc Người da trắng thượng đẳng
1,243
19829668
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%A5c%20Ch%E1%BA%A5p%20ph%C3%A1p%20v%C3%A0%20Qu%E1%BA%A3n%20l%C3%BD%20H%C3%A0nh%20ch%C3%ADnh%20%C4%90%C3%B4%20th%E1%BB%8B
Cục Chấp pháp và Quản lý Hành chính Đô thị
Cục Chấp pháp và Quản lý Hành chính Đô thị, thường được viết tắt là Thành Quản (), là một cơ quan chính quyền địa phương được thành lập ở mọi thành phố tại Trung Quốc đại lục. Cơ quan này thường là một phần của Cục Quản lý Đô thị trực thuộc thành phố (). Nó chịu trách nhiệm thực thi công tác quản lý đô thị của thành phố. Điều này bao gồm các quy định của địa phương, quy định về diện mạo thành phố, môi trường, vệ sinh, an toàn lao động, kiểm soát ô nhiễm, sức khỏe và có thể liên quan đến việc thực thi quy hoạch, phủ xanh, công nghiệp và thương mại, bảo vệ môi trường, các vấn đề đô thị và nước ở các thành phố lớn. Lịch sử Cục Chấp pháp và Quản lý Hành chính Đô thị được thành lập vào năm 2001/2002 cho tất cả các thành phố lớn ở Trung Quốc đại lục nhằm cải thiện quản trị thành phố khi các thành phố trở nên đông đúc hơn và các vấn đề đô thị trở nên phức tạp hơn. Nhân viên của Cục là công chức không có quyền hành như cảnh sát. Các quan chức của cơ quan này có trách nhiệm trấn áp những người bán hàng rong không có giấy phép. Theo BBC, "Kể từ khi cơ quan này ra đời cách đây 10 năm, đã nhiều lần bị dư luận chỉ trích về việc họ sử dụng vũ lực quá mức. Lực lượng cảnh sát bán chuyên trách này, được trang bị mũ bảo hiểm bằng thép và áo chống đâm, thường được giới quan chức địa phương sử dụng làm người giải quyết vấn đề". Nhìn chung, Thành Quản đóng vai trò là cơ quan chính thức được các thành phố trên khắp Trung Quốc tuyển dụng "để giải quyết tội phạm cấp độ thấp". Tuy nhiên, cơ quan này bị người dân Trung Quốc không ưa vì thói lạm dụng quyền lực của họ. Dư luận chỉ trích Hầu hết các vấn đề liên quan đến thói côn đồ của chính quyền không phải do lực lượng cảnh sát thông thường - lực lượng công an, vốn chịu trách nhiệm về an ninh công cộng - mà là lực lượng Thành Quản. Họ được huấn luyện kém, là những nhân viên thực thi pháp luật cấp thấp nhất, thường là những người vốn thất nghiệp. Chính quyền cho họ công việc thực thi những điều luật thông thường, như dọn dẹp các hàng quán đường phố không giấy phép. Thành Quản từng tham gia vào một số vụ án cấp cao làm nổi bật sự bất bình của công chúng đối với hành vi lạm dụng quyền lực của họ. Một vụ án cấp cao liên quan đến Thôi Anh Kiệt đã giết một người thuộc đội Thành Quản vào năm 2006 sau một cuộc đối đầu ở Bắc Kinh. Sự ủng hộ của công chúng đối với Thôi Anh Kiệt trước và trong phiên tòa có thể đã ảnh hưởng đến sự khoan hồng dành cho Thôi với bản án tử hình giảm nhẹ. Sau một vụ việc ở thành phố Thiên Môn, tỉnh Hồ Bắc vào tháng 1 năm 2008, trong đó giám đốc một công ty xây dựng tên là Ngụy Văn Hoa bị đánh chết vì quay phim hành động của Thành Quản trong một vụ tranh chấp địa phương về việc đổ rác, các cuộc kêu gọi trên toàn quốc đã được đưa ra. bãi bỏ đơn vị. Hàng nghìn tin nhắn được đăng tải trên Internet và các cuộc biểu tình đã diễn ra ở tỉnh Hồ Bắc. Cũng có một số quan chức Thành Quản cấu kết với tội phạm có tổ chức. Một báo cáo năm 2012 của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền ghi lại các hành vi lạm dụng của Thành Quản, "bao gồm hành hung những người bị nghi ngờ vi phạm luật hành chính, một số trong đó dẫn đến thương tích nghiêm trọng hoặc tử vong, giam giữ bất hợp pháp và tịch thu tài sản một cách bất hợp pháp". Có nhiều trường hợp vào năm 2011 và 2012 trên khắp Trung Quốc khi các sĩ quan cảnh sát bị các nhóm nhân viên Thành Quản tấn công khi ứng phó với các vụ việc Thành Quản sử dụng bạo lực và lạm dụng. Năm 2012, cơ quan Thành Quản ở Vũ Hán tuyên bố thành lập một sư đoàn nội bộ kiểu 'dân quân' hoặc bán quân sự. Năm 2013, người bán dưa hấu Đặng Chính Gia được cho là đã bị Thành Quản đánh chết bằng chính chiếc cân của mình. Thi thể của anh được người dân trên đường bảo vệ để ngăn chặn cơ quan chức năng thu giữ và "bảo quản bằng chứng". Bạo lực xảy ra sau đó. Các tiểu blog nổi tiếng đã kêu gọi chấm dứt cái được gọi là tổ chức "côn đồ" này. Năm 2014, một người đàn ông đang quay phim Thành Quản bạo hành một người phụ nữ bán hàng rong thì bị đánh đập dã man bằng búa cho đến khi nôn ra máu. Anh ta được tuyên bố đã chết trên đường đến bệnh viện. Năm sĩ quan Thành Quản bị người dân quây đánh dữ dội, và bốn người được xác nhận đã chết sau đó, kèm theo những bức ảnh được đăng trên Sina Weibo. Ảnh hưởng văn hóa Do tiếng xấu này mà Thành Quản đã trở thành mục tiêu phổ biến của các trò đùa và meme trên mạng của công chúng Trung Quốc. Tạp chí Time đưa tin rằng việc đánh đập các viên chức Thành Quản đã trở thành tin tức phổ biến đến mức từ "Thành Quản" thậm chí còn mang một nghĩa khác trong tiếng Trung. "Đừng quá Thành Quản" là một lời kêu gọi không bắt nạt hoặc khủng bố. Nói cách khác từ, "Thành Quản" theo nghĩa đen đã trở thành đồng nghĩa với "bạo lực"."Thành Quản đến kìa!", một cụm từ thường được những người bán hàng rong bất hợp pháp hét lên để cảnh báo người khác bỏ chạy trong trường hợp có cuộc kiểm tra của Thành Quản, đã trở thành một điểm nhấn nổi tiếng trên mạng Internet của Trung Quốc. Ngoài ra còn có những câu nói đùa châm biếm rằng Thành Quản thực chất là lực lượng dự bị chiến lược bí mật của Trung Quốc, "chi nhánh thứ năm của Quân Giải phóng", vì khả năng gây ra "sự hủy diệt hàng loạt" của họ. Những câu nói như "Hãy cho tôi 300 Thành Quản, tôi sẽ chinh phục..." và "Trung Quốc cam kết không là nước đầu tiên sử dụng Thành Quản vào bất kỳ lúc nào hoặc trong bất kỳ trường hợp nào nhằm gìn giữ hòa bình và ổn định thế giới" đã lan truyền rộng rãi trong cộng đồng mạng Trung Quốc trong những năm gần đây. Cơ cấu hành chính Cục này thường được cơ cấu thành hai văn phòng và sáu phòng ban. Phòng Hành chính Ban Quản lý Tổng hợp Ban Quản lý Diện mạo Thành phố Ban Quản lý Chấp pháp Ban Pháp chế Ban Thông tin Ban Quản lý Quảng cáo Ngoài trời Phòng Giám sát Tham khảo Liên kết ngoài Những Bài báo tiếng Anh viết về Thành Quản Điều 106 Luật Công chức Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Đứng trên pháp luật? Các quan chức chấp pháp bắt nạt của Trung Quốc Điều 10 và Điều 11 Quy định Thành phố Thượng Hải về Văn phòng Cấp dưới Quận Thủ tục Quản lý Giấy Chứng nhận Thi hành Luật Hành chính Thành phố Thượng Hải Điều 16 và Điều 17 Luật Xử phạt Vi phạm Hành chính Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Sự tàn bạo của 'cảnh sát bán chuyên trách' của Trung Quốc đang bị giám sát chặt chẽ Điều 17, khoản 2 và Điều 70 Luật Cưỡng chế Hành chính Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Đại hội Đại biểu Nhân dân và Ủy ban Thường vụ Địa phương Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Quy định của Thành phố Thượng Hải về Thực thi Luật Hành chính trong Công tác Quản lý Đô thị Báo cáo của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền: “Đánh hắn, lấy đi mọi thứ” Sự lạm dụng của Cảnh sát Bán chuyên trách Thành Quản Trung Quốc Bê bối chính trị ở Trung Quốc Áp bức chính trị ở Trung Quốc Cơ quan chính phủ Trung Quốc Khởi đầu năm 2001 ở Trung Quốc Cơ quan thực thi pháp luật Trung Quốc Tổ chức bán quân sự có trụ sở tại Trung Quốc
1,455
19829671
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20r%E1%BB%95%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%202027
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2027
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2027 (tiếng Anh: 2027 FIBA Basketball World Cup, tiếng Ả Rập: كأس العالم لكرة السلة 2027) là giải đấu thứ 20 của Giải vô địch bóng rổ thế giới dành cho các đội tuyển bóng rổ nam do Liên đoàn Bóng rổ Quốc tế tổ chức. Giải đấu do Qatar đăng cai tổ chức và là giải đấu thứ 3 có 32 đội tham dự. Giải đấu này cũng đánh dấu lần đầu tiên Giải vô địch bóng rổ thế giới được tổ chức tại một quốc gia nằm trong khối Ả Rập, và cũng đánh dấu lần thứ 3 liên tiếp giải đấu được tổ chức tại châu Á sau Trung Quốc tại giải đấu năm 2019 cùng với liên minh Philippines, Nhật Bản và Indonesia tại giải đấu năm 2023. Qatar cũng trở thành quốc gia Hồi giáo thứ ba giành quyền đăng cai một Giải vô địch bóng rổ thế giới sau Thổ Nhĩ Kỳ tại giải đấu năm 2010 và Indonesia tại giải đấu năm 2023. Giải đấu được đánh dấu là vòng loại cho Thế vận hội Mùa hè 2024, với 2 đội xuất sắc nhất đến từ châu Mỹ và châu Âu, và đội tuyển xuất sắc nhất đến từ châu Âu, châu Á và châu Đại Dương, vượt qua vòng loại cùng với đội chủ nhà Hoa Kỳ. Đức là nhà đương kim vô địch của giải đấu, sau khi đánh bại Serbia với tỷ số 83–77 tại trận chung kết của giải đấu năm 2023. Lựa chọn chủ nhà Trong cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương FIBA tại Khu vực Đại đô thị Manila, Philippines diễn ra vào ngày 28 tháng 4 năm 2023, FIBA ​​​​đã thông báo rằng Qatar sẽ giành quyền đăng cai giải đấu vào năm 2027. Quốc gia chủ nhà được lựa chọn thông qua một cuộc bỏ phiếu nhất trí. Các đội tuyển Vòng loại Với tư cách là đội chủ nhà của giải đấu, Qatar được đặc cách tham dự giải đấu. 80 đội tuyển thuộc 4 khu vực của FIBA tham dự vòng loại của giải đấu sau khi đã vượt qua vòng loại của các giải đấu thuộc các cấp độ châu lục (Giải vô địch bóng rổ châu Phi 2025, Giải vô địch bóng rổ châu Mỹ 2025, Giải vô địch bóng rổ châu Á 2025, Giải vô địch bóng rổ châu Âu 2025). Đối với khu vực châu Âu và châu Mỹ, các đội không vượt qua vòng loại châu lục sẽ phải tham dự vòng sơ loại tại các khu vực nói trên. Đối với khu vực châu Á/châu Đại Dương và châu Phi, các đội tuyển tham dự Giải vô địch bóng rổ châu Phi và Giải vô địch bóng rổ châu Á sẽ tham dự vòng loại ở cả hai châu lục này. Vòng loại thứ nhất của vòng loại các khu vực châu Phi, châu Mỹ và châu Á/châu Đại Dương sẽ có 16 đội, trong khi châu Âu có 32 đội tham dự. Các đội thi đấu ở nhóm A được chia thành các bảng đấu có 4 đội, thi đấu theo thể thức thể thức vòng tròn một lượt tính điểm, thi đấu trên sân nhà – sân khách. 3 đội đứng đầu mỗi bảng sẽ giành vé vào vòng loại thứ hai, các đội được chia thành 10 bảng, bao gồm 4 bảng đấu thuộc khu vực châu Âu và các khu vực châu Phi, châu Mỹ và châu Á/châu Đại Dương, mỗi khu vực 2 bảng đấu. Các đội vẫn sẽ giữ nguyên số điểm mình có được từ vòng 1 và sẽ gặp 3 đội tuyển còn lại ở trong các bảng đấu khác vẫn theo thể thức thi đấu trên sân nhà – sân khách. 31 đội tuyển xuất sắc nhất sẽ giành vé tham dự Giải vô địch bóng rổ thế giới 2027, cùng với đội chủ nhà Qatar. Các đội tuyển đã vượt qua vòng loại Địa điểm thi đấu Trong một đoạn video chính thức về việc đấu thầu đăng cai cho giải đấu, Qatar đề xuất 4 địa điểm để tổ chức giải đấu. Theo FIBA, Qatar được lựa chọn là quốc gia đăng cai giải đấu do cả 4 địa điểm được đề xuất đều nằm "ở cùng một thành phố" và di chuyển cách nhau 30 phút. Có 3 trong số 4 địa điểm trên, bao gồm Nhà thi đấu Thể thao Lusail, Nhà thi đấu Ali Bin Hamad al-Attiyah và Nhà thi đấu bóng ném Duhail, nơi đã từng tổ chức thành công Giải vô địch bóng ném nam thế giới 2015. Aspire Dome là một nhà thi đấu đa năng được xây dựng để tổ chức nhiều môn thể thao trong cùng một sự kiện. Nhà thi đấu này đã từng tổ chức thành công Đại hội Thể thao châu Á 2006, Giải vô địch điền kinh trong nhà thế giới 2010 và Giải vô địch thể dục nghệ thuật thế giới 2018. Cả 4 địa điểm này đều sẽ tiếp tục được sử dụng cho Đại hội Thể thao châu Á 2030. Sự chuẩn bị của Qatar trước giải đấu Lễ bàn giao Buổi lễ bàn giao diễn ra trong thời gian nghỉ giữa giờ ở trận chung kết của giải đấu năm 2023 giữa Đức và Serbia tại Nhà thi đấu SM Mall of Asia Arena, Pasay, Philippines chính thức bàn giao quyền đăng cai giải đấu từ ba nước chủ nhà – Philippines, Nhật Bản và Indonesia sang Qatar. Các thành viên của Hội đồng Trung ương FIBA là Manuel V. Pangilinan (người Philippines), Yuko Mitsuya (người Nhật Bản) và thành viên của Hội đồng Đại diện Nhân dân Budi Djiwandono (người Indonesia) đã chuyền bóng cho Chủ tịch của FIBA ​​​​lúc đó là Hamane Niang (người Mali), sau đó chuyền cho Chủ tịch Liên đoàn bóng rổ Qatar kiêm Giám đốc Tiếp thị và Truyền thông của ​​​​Ủy ban Olympic Qatar Mohammed Saad Al Sheikha Asma Al Thani. Thể thức thi đấu Tương tự như 2 giải đấu vào năm 2019 và 2023, giải đấu sẽ thi đấu với 3 giai đoạn - giai đoạn vòng bảng, vòng 2 và vòng cuối cùng. Ở giai đoạn vòng bảng, 32 đội tuyển sẽ được chia thành 8 bảng đấu, mỗi bảng 4 đội (A–H), các đội cùng bảng sẽ thi đấu theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm. Hai đội đầu bảng sẽ giành vé vào vòng 2, còn hai đội cuối bảng sẽ phải thi đấu vòng phân hạng để xác định các đội xếp vị trí từ 17 đến 32. Ở vòng 2, sẽ có 4 bảng đấu (I–L) mỗi bảng 4 đội đi tiếp từ giai đoạn vòng bảng, 2 đội cùng bảng ở giai đoạn vòng bảng không gặp nhau ở vòng này, họ sẽ gặp 2 đội tuyển xuất sắc nhất ở bảng đấu khác (ví dụ như 2 đội ở bảng A gặp 2 đội ở bảng B) và gặp nhau một lần. Hai đội đứng đầu mỗi bảng sẽ giành vé tham dự vào vòng cuối cùng. Các đội bị loại ở tứ kết sẽ gặp nhau tại vòng phân hạng để xác định các đội xếp vị trí thứ 5 đến thứ 8. Tài trợ Xem thêm Giải vô địch bóng rổ nữ thế giới 2026 Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Giải vô địch bóng rổ thế giới 2027 Giải vô địch bóng rổ thế giới
1,249
19829674
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A3nh%20di%E1%BB%87n%20da%20tr%E1%BA%AFng
Hãnh diện da trắng
Hãnh diện da trắng (White pride) là niềm kiêu hãnh của người da trắng và quyền lực của người da trắng với những biểu hiện chủ yếu được các tổ chức theo thuyết người da trắng thượng đẳng, chủ nghĩa dân tộc da trắng, chủ nghĩa phát xít, Chủ nghĩa Tân quốc xã và chủ nghĩa thượng đẳng của người da trắng sử dụng nhằm kêu gọi quan điểm phân biệt chủng tộc hoặc nghiên cứu về phân biệt chủng tộc. Nó cũng là khẩu hiệu được nhóm Stormfront nổi tiếng hậu Ku Klux Klan sử dụng và là một thuật ngữ được sử dụng để làm cho quan điểm phân biệt chủng tộc/chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trở nên dễ chấp nhận hơn đối với công chúng, những người có thể có tiền sử liên hệ đến các hành vi lạm dụng với các thuật ngữ chủ nghĩa dân tộc da trắng, chủ nghĩa phát xít mới và người theo chủ nghĩa da trắng thượng đẳng. Một số người ủng hộ luận điểm quyền lực thuộc về người da trắng đã cam kết lật đổ chính phủ Hoa Kỳ và thành lập một quốc gia dân tộc da trắng bằng cách sử dụng các chiến thuật bán quân sự. Phong trào quyền lực của người da trắng (White power movement) nổi lên từ thời kỳ Việt Nam có chung một số đặc điểm chung với các phong trào phân biệt chủng tộc trước đó ở Hoa Kỳ, nhưng nó không chỉ đơn thuần là gây tiếng vang. Không giống như các lần lặp lại trước đây của Ku Klux Klan và chủ nghĩa thượng đẳng của người da trắng, phong trào quyền lực của người da trắng không tuyên bố phục vụ chính quyền nhà nước, thay vào đó, quyền lực của người da trắng coi chính quyền nhà nước là mục tiêu tranh đấu của mình, tuyên chiến chống lại chính phủ liên bang vào năm 1983. Các nhà xã hội học Betty A. Dobratz và Stephanie L. Shanks-Meile đã xác định tuyên ngôn tranh đấu "Quyền lực của người da trắng! Niềm hãnh diện của người da trắng!" (White Power! White Pride!) là "một câu khẩu hiệu được sử dụng nhiều của những người ủng hộ phong trào thượng đẳng da trắng". Các nhà khoa học chính trị và xã hội thường lập luận rằng ý tưởng về "niềm hãnh diện của người da trắng" là một nỗ lực nhằm mang lại một bộ mặt công chúng trong sạch hoặc dễ chấp nhận hơn cho quyền lực tối cao của người da trắng hoặc chủ nghĩa thượng tôn của người da trắng và đó là lời kêu gọi đối tượng rộng rãi hơn với hy vọng kích động bạo lực chủng tộc lan rộng hơn. Chú thích Phân biệt chủng tộc Người da trắng thượng đẳng Phong trào xã hội
480
19829675
https://vi.wikipedia.org/wiki/Salamander%20%28sinh%20v%E1%BA%ADt%20th%E1%BA%A7n%20tho%E1%BA%A1i%29
Salamander (sinh vật thần thoại)
Salamander là một sinh vật thần thoại có hình dạng giống thằn lằn và được cho là có ái lực với lửa, đặc biệt là nguyên tố hỏa. Salamander thường đi cùng với Undine, Gnome và Sylph là bốn tinh linh đại diện cho bốn nguyên tố cổ điển. Truyền thuyết thời Trung cổ và Phục hưng Loài sinh vật thần thoại này có những phẩm chất tuyệt vời mà các nhà phê bình thời cổ đại, trung cổ gán cho loài kỳ nhông ngoài tự nhiên. Nhiều phẩm chất trong số này bắt nguồn từ những đặc điểm có thể kiểm chứng được của sinh vật tự nhiên nhưng thường bị phóng đại. Một số lượng lớn truyện thần thoại, thần thoại và biểu tượng đã kể về loài sinh vật này qua nhiều thế kỷ. Hình tượng Trong văn hóa Châu Âu, Salamander thường được miêu tả là một con thằn lằn (hoặc rồng) được bao bọc bởi một ngọn lửa hừng hực. Francis I của Pháp đã sử dụng Salamander làm biểu tượng cá nhân của mình. Xem thêm Hỏa (nguyên tố) Nguyên tố cổ điển Gnome Undine Sylph. Chú thích Văn hóa dân gian châu Âu Truyền thuyết siêu nhiên Sinh vật huyền thoại Động vật trong văn hóa đại chúng
209
19829679
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sylph
Sylph
Sylph (còn gọi là Sylphid) là tinh linh gió bắt nguồn từ các tác phẩm thế kỷ 16 của Paracelsus, Sylph được mô tả là những sinh vật vô hình và là đại diện của nguyên tố không khí. Các tác phẩm văn học và kỳ ảo đã lấy cảm hứng từ khái niệm của Paracelsus. Trong văn học Sylph được nhắc đến trong cuốn tiểu thuyết tiếng Đức Simplicius Simplicissimus năm 1668, mặc dù tác giả dường như coi họ là những tinh linh nước. Một trong những cuộc thảo luận nổi tiếng nhất về Sylpj đến từ Alexander Pope. Trong bài thơ của Pope, nhân vật nữ chính Belinda được một đội quân sylph bé nhỏ theo dõi, họ chăm sóc và bảo vệ vẻ đẹp của cô. Sự tương đồng với Tiên tộc Sylph được kết hợp với tiên tộc trong trong vở ballet La Sylphide, cũng như sự đồng nhất của họ với tiên tộc trong truyền thuyết thời trung cổ về xứ sở thần tiên. "Sylph" đã được sử dụng trong ngôn ngữ chung như một thuật ngữ để chỉ các linh bé nhỏ, tinh linh nguyên tố hoặc biểu tượng của không khí. Các tác phẩm kỳ ảo đôi khi nhắc đến Sylph trong tác phẩm của họ. Xem thêm Không khí (nguyên tố) Nguyên tố cổ điển Salamander Gnome Undine. Chú thích Văn hóa dân gian châu Âu Truyền thuyết siêu nhiên
232
19829684
https://vi.wikipedia.org/wiki/Undine
Undine
Undine (cũng gọi là Ondine) là một tinh linh gắn liền với nguyên tố thủy, xuất phát từ các tác phẩm về giả kim thuật của Paracelsus. Các nhà văn sau này đã miêu tả Undine thành một thủy tinh linh đúng nghĩa, họ liên tục được nhắc đến trong văn học và nghệ thuật hiện đại, cũng như các tác phẩm kỳ ảo. Từ nguyên Thuật ngữ Undine lần đầu tiên xuất hiện trong các tác phẩm giả kim của Paracelsus, một nhà giả kim và bác sĩ thời Phục hưng. Tinh linh nguyên tố Paracelsus tin rằng mỗi nguyên tố trong số bốn nguyên tố cổ điển gồm thổ, thủy, phong, hỏa đều là nơi sinh sống của các tinh linh khác nhau. Bao gồm Undine của nước, Salamander của lửa, Gnome của đất, Sylph của gió. Ông mô tả những tinh linh nguyên tố là "những thực thể tâm linh, vô hình của thiên nhiên... Một số tinh linh có hình dạng giống con người và sinh sống trong tinh linh giới, con người không thể biết đến tinh linh vì các giác quan của con người không có khả năng hoạt động vượt quá giới hạn của nhân giới." Trong văn hóa đại chúng Xem thêm Nguyên tố thủy Salamander Gnome Sylph Nguyên tố cổ điển Chú thích Văn hóa dân gian châu Âu Truyền thuyết siêu nhiên
225
19829709
https://vi.wikipedia.org/wiki/Valent%C3%ADn%20Carboni
Valentín Carboni
Valentín Carboni (sinh ngày 5 tháng 3 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá người Argentina chơi ở vị trí tiền vệ tấn công cho câu lạc bộ Serie A Monza, theo dạng cho mượn từ Inter Milan. Từng đại diện cho cả Ý và Argentina ở cấp độ trẻ quốc tế, Carboni hiện thi đấu cho đội tuyển U-20 quốc gia Argentina. Vào tháng 9 năm 2022, Carboni được The Guardian đưa vào danh sách 60 tài năng xuất sắc nhất thế giới sinh năm 2005. Sự nghiệp câu lạc bộ Những năm đầu Sinh ra ở Buenos Aires, thời thơ ấu Carboni đã chơi futsal tại đội cơ sở Club Lafuente ở Lanús; năm 2013, khi mới 8 tuổi, anh bắt đầu chơi bóng khi gia nhập học viện trẻ của Lanús. Vào tháng 7 năm 2019, Carboni gia nhập đội trẻ của đội bóng nước Ý Catania, cùng với anh trai Franco và cha Ezequiel, người vừa đảm nhận cả hai vai trò huấn luyện viên đội trẻ và trưởng bộ phận phát triển đội trẻ của câu lạc bộ. Inter Milan Một năm sau, sau khi thu hút được sự quan tâm của một số câu lạc bộ nổi tiếng ở châu Âu, tiền vệ này và anh trai đều gia nhập câu lạc bộ Serie A Inter Milan với mức phí chuyển nhượng ước tính 300.000 euro. Carboni nhanh chóng vượt qua cấp độ trẻ Nerazzurri, trở thành một phần của đội U-19 kể từ đầu mùa giải 2021–22 và giúp đội giành chức vô địch U-19 quốc gia vào năm 2022. Khi bắt đầu mùa giải 2022–23, trong khi tiếp tục góp mặt cho đội Primavera ở giải quốc gia và UEFA Youth League, Carboni bắt đầu tập luyện với đội một của Inter Milan dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên trưởng Simone Inzaghi. Tiền vệ này sau đó đã ra mắt đội chuyên nghiệp vào ngày 1 tháng 10 năm 2022, lúc 17 tuổi 206 ngày, vào sân thay cho Federico Dimarco ở phút thứ 88 trong trận thua 2–1 trước Roma. Sau đó, vào ngày 1 tháng 11, anh có trận ra mắt UEFA Champions League, thay thế Joaquín Correa ở phút thứ 76 trong trận thua 2–0 ở vòng bảng trước Bayern Munich. Vào tháng 7 năm 2023, Carboni ký hợp đồng mới dài hạn với Inter Milan. Cho mượn đến Monza Vào ngày 15 tháng 7 năm 2023, Carboni chính thức gia nhập câu lạc bộ Serie A Monza theo dạng cho mượn kéo dài một mùa giải. Sự nghiệp quốc tế Nhờ có hai quốc tịch, Carboni đủ điều kiện đại diện cho cả Ý và Argentina ở cấp độ quốc tế. Năm 2019, anh tham gia một số trại huấn luyện cùng đội tuyển U-15 quốc gia Ý; sau đó, anh tiếp tục chơi cho đội tuyển U-17 quốc gia Ý từ năm 2021 đến năm 2022. Vào tháng 3 năm sau, anh chuyển sang thi đấu cho Argentina và được triệu tập chính thức lần đầu lên đội tuyển quốc gia Argentina cùng anh trai, sau khi được đưa vào danh sách sơ bộ cho các trận đấu vòng loại FIFA World Cup 2022 với Venezuela và Ecuador. Vào tháng 5 năm 2022, anh được huấn luyện viên trưởng Javier Mascherano đưa vào đội tuyển U-20 Argentina tham dự Giải Maurice Revello ở Pháp, khi Albiceleste cuối cùng cán đích ở vị trí thứ năm, sau khi giành chiến thắng trong trận play-off với Nhật Bản. Vào tháng 10 năm 2022, anh được huấn luyện viên trưởng Lionel Scaloni đưa vào đội hình sơ bộ của Argentina tham dự FIFA World Cup 2022 tại Qatar, dù không lọt vào danh sách 26 người cuối cùng. Vào tháng 3 năm 2023, anh lại được gọi vào đội tuyển quốc gia Argentina để thi đấu hai trận giao hữu với Panama và Curaçao. Vào tháng 5 cùng năm, anh được đưa vào đội hình cuối cùng tham dự Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2023 tại Argentina. Trong trận ra mắt vào ngày 20 tháng 5, anh ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 2-1 trước Uzbekistan. Phong cách thi đấu Carboni là một tiền vệ tấn công thuận chân trái, chủ yếu hoạt động ở vai trò số 10, nhưng cũng có thể chơi ở vị trí tiền đạo trung tâm, tiền vệ cánh lùi ở cánh phải hoặc tiền vệ trung tâm (mezzala). Là một cầu thủ thanh lịch, điềm tĩnh và sáng tạo, anh thường xuyên di chuyển giữa các tuyến tấn công của đội mình, bất kể khi đang giữ quyền kiểm soát bóng, tìm kiếm đồng đội qua những đường chuyền hoặc pha phối hợp chạm đầu tiên, hoặc trực tiếp thực hiện cú sút từ cự ly ngắn hoặc xa. Mặc dù chủ yếu được đánh giá cao nhờ những đóng góp trong tấn công, nhờ tầm nhìn, kỹ thuật cá nhân và kỹ năng rê bóng, Carboni cũng đã chứng tỏ được hiệu quả trong khía cạnh phòng thủ, đặc biệt là nhờ tốc độ thi đấu của anh. Anh coi người đồng hương Lionel Messi là nguồn cảm hứng lớn nhất của mình. Tháng 9 năm 2022, Carboni được The Guardian đưa vào danh sách 60 tài năng xuất sắc nhất thế giới sinh năm 2005. Đời tư Carboni là con trai của cựu cầu thủ bóng đá người Argentina Ezequiel Carboni. Anh trai Franco của anh (sinh năm 2003) cũng là một cầu thủ bóng đá: cả hai đã thi đấu cùng nhau ở đội trẻ Lanús, Catania và Inter Milan. Anh còn có hai người em là Cristiano (sinh năm 2009) và Alma (sinh năm 2016). Thống kê sự nghiệp Danh hiệu U-19 Inter Milan Campionato Primavera 1: 2021–22 Inter Milan Supercoppa Italiana: 2022 Á quân UEFA Champions League: 2022–23 Tham khảo Liên kết ngoài Hồ sơ tại trang chủ Inter Milan Sinh năm 2005 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá từ Buenos Aires Cầu thủ bóng đá nam Argentina Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Argentina Cầu thủ bóng đá nam Ý Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Ý Vận động viên Argentina gốc Ý Vận động viên Ý gốc Argentina Tiền vệ bóng đá nam Cầu thủ bóng đá Serie A Cầu thủ bóng đá Club Atlético Lanús Cầu thủ bóng đá Calcio Catania Cầu thủ bóng đá Inter Milan Cầu thủ bóng đá A.C. Monza Cầu thủ bóng đá nam Argentina ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nam nước ngoài ở Ý Vận động viên Argentina ở Ý
1,074
19829710
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20%C4%91a%20d%C3%A2n%20t%E1%BB%99c
Chủ nghĩa đa dân tộc
Chủ nghĩa đa dân tộc là sự cùng tồn tại của hai hay nhiều nhóm dân tộc (cộng đồng) cùng sống trong một chính thể. Khái niệm này nhằm chỉ đến quốc gia có nhiều cộng đồng, mà mỗi cộng đồng có văn hóa, ngôn ngữ, nguồn gốc, lịch sử riêng; phân biệt với quốc gia có nhiều sắc tộc. Từ khái niệm này, nhà nước đa dân tộc tồn tại khi một quốc gia có nhiều nhóm dân tộc mà không nhóm nào chiếm ưu thế hơn hẳn. Nền dân chủ đa dân tộc công nhận các cơ quan cầm quyền của những cộng đồng khác nhau, thậm chí là một nhóm người tự quản. Nhà nước đa dân tộc giúp tránh sự chia rẽ trong xã hội vì quan điểm chính trị. Trong nhà nước đa dân tộc, công dân có thể mang quốc tịch theo nhóm dân tộc của mình bên cạnh quốc tịch truyền thống. Thuật ngữ này được ghi nhận lần đầu vào thập niên 1980, xuất phát từ phong trào chính trị của những người bản địa ở Bolivia. Tính đến năm 2022, Bolivia và Ecuador là nhà nước đa dân tộc được hiến định. Bolivia Năm 2009, Quốc hội Bolivia thông qua hiến pháp mới và đổi tên nước thành Nhà nước Đa dân tộc Bolivia, xuất phát từ thực tế nước này có nhiều sắc dân bản địa, các nhóm người bản địa có quyền tự quyết từ lâu trong lịch sử; và các nhóm này cần được trao thêm quyền. Hiến pháp năm 2009 công nhận nhiều quyền tự chủ ở cấp địa phương và ở các vùng, kêu gọi phát triển một nền kinh tế hỗn hợp giữa sở hữu nhà nước, tư nhân, và các cộng đồng bản địa. Chile Chủ nghĩa đa dân tộc vẫn là một chủ đề được tranh cãi gay gắt ở Chile. Chính quyền của tổng thống Michelle Bachelet (2014–2018) đề xuất cải cách hiến pháp nhưng không xem xét tính đa dân tộc theo yêu cầu của các nhóm người bản địa. Năm 2022, dự thảo hiến pháp Chile được công bố để người dân tham gia thảo luận, nhưng đề xuất về tính đa dân tộc đã bị bác bỏ và không xuất hiện trong bản thảo này. Trước khi đề xuất thành lập một nước Chile đa dân tộc bị bác bỏ, đây là một vấn đề thu hút sự quan tâm của dư luận, đặc biệt là khi những người bản địa muốn lập một vùng tự quản ở miền nam Chile nhằm giải quyết xung đột giữa người Mapuche với chính quyền Chile. Cựu đại sứ Chile ở Israel José Rodríguez Elizondo chỉ trích đề xuất này, cho rằng đây là một nước đi của Bolivia nhằm chống lại quyền tiếp cận chủ chủ quyền Thái Bình Dương của Chile. Xem thêm Chủ nghĩa dân tộc Nhà nước liên bang Nhà nước đơn nhất Chủ nghĩa đa văn hóa Chủ nghĩa bản địa bài ngoại Tham khảo Chủ nghĩa dân tộc Chủ nghĩa đa dân tộc Học thuyết chính trị Chủ nghĩa đa văn hóa Chính trị văn hóa Phi tập trung hóa
522
19829720
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%BF%20qu%E1%BB%91c%20Shunga
Đế quốc Shunga
Triều đại Shunga (IAST: Śuṅga) là triều đại thứ 7 của Magadha và kiểm soát hầu hết phía Bắc của tiểu lục địa Ấn Độ từ khoảng năm 185 đến 73 trước Công nguyên. Vương triều được thành lập bởi Pushyamitra Shunga, sau khi giành lấy ngai vàng của Magadha từ tay Đế quốc Maurya. Kinh đô của Đế quốc Shunga là Pataliputra, nhưng các hoàng đế sau này như Bhagabhadra cũng cai trị tại Besnagar (Vidisha hiện đại) ở phía Đông Malwa. Pushyamitra cai trị trong 36 năm và được kế vị bởi con trai ông là Agnimitra. Có mười người cai trị Shunga. Tuy nhiên, sau cái chết của Agnimitra, vị vua thứ 2 của triều đại, đế chế nhanh chóng tan rã: các chữ khắc và tiền xu cho thấy rằng phần lớn miền Bắc và miền Trung Ấn Độ bao gồm các vương quốc nhỏ và các thành bang độc lập với bất kỳ quyền bá chủ nào của Shunga. Triều đại này nổi tiếng với nhiều cuộc chiến tranh với cả thế lực nước ngoài và bản địa. Họ đã chiến đấu với Kalinga, triều đại Satavahana, Vương quốc Ấn-Hy Lạp và có thể cả Pañcāla và triều đại Mitras (Mathura). Nghệ thuật, giáo dục, triết học và các hình thức học tập khác nở rộ trong thời kỳ này, bao gồm các tượng nhỏ bằng đất nung, các tác phẩm điêu khắc bằng đá lớn hơn và các di tích kiến trúc như phù đồ ở Bharhut và Đại phù đồ nổi tiếng ở Sanchi. Những người cai trị Shunga đã giúp thiết lập truyền thống tài trợ của hoàng gia cho việc học tập và nghệ thuật. Chữ viết được đế quốc sử dụng là một biến thể của chữ Brahmi và được dùng để viết tiếng Phạn. Người Shunga là những người bảo trợ quan trọng cho nền văn hóa vào thời điểm mà một số bước phát triển quan trọng nhất trong tư tưởng Ấn Độ giáo đang diễn ra. Mahabhashya của Patanjali được sáng tác trong thời kỳ này. Nghệ thuật cũng phát triển cùng với sự nổi lên của phong cách nghệ thuật Mathura. Hoàng đế Shunga cuối cùng là Devabhuti (83–73 TCN). Ông đã bị ám sát bởi tể tướng Vasudeva Kanva và được cho là rất thích bầu bạn với phụ nữ. Triều đại Shunga được thay thế bởi Triều đại Kanva kế vị Shunga vào khoảng năm 73 trước Công nguyên. Notes Tham khảo Trích dẫn Nguồn "The Legend of King Ashoka, A study and translation of the Ashokavadana", John Strong, Princeton Library of Asian translations, 1983, "Dictionary of Buddhism" by Damien KEOWN (Oxford University Press, 2003) Aśoka and the Decline of the Mauryas, Romila Thapar, 1961 (revision 1998); Oxford University Press, "The Yuga Purana", John E. Mitchiner, Kolkata, The Asiatic Society, 2002, Liên kết ngoài Medallions from Barhut Shunga art in North India (Bharhut and Bodgaya) Đế quốc Shunga Cựu đế quốc châu Á Nhà nước Hindu Các vương quốc và đế quốc Ấn Độ Vương quốc Bihar Magadha Năm 185 TCN Thế kỷ 1 TCN
508