text
stringlengths
78
4.36M
title
stringlengths
4
2.14k
len
int64
18
943k
gen
stringclasses
1 value
Ngày 5/7, Cơ quan Khí tượng Iceland (IMO) cho biết khoảng 2.200 trận động đất đã được ghi nhận ở khu vực quanh thủ đô Reykjavik của Iceland trong vòng 24 giờ qua, dấu hiệu cho thấy một vụ phun trào núi lửa có thể sắp xảy ra. Theo IMO, các cơn địa chấn bắt đầu từ khoảng 16h00 – giờ địa phương ngày 4/7 (tức 23h00 cùng ngày – giờ Hà Nội) ở bên dưới núi Fagradalsfjall, ngọn núi thuộc hệ thống núi lửa trên bán đảo Reykjanes, cực Tây Nam Iceland. Núi lửa này đã phun trào 2 đợt trong năm 2021 và 2022. IMO nêu rõ: “Khoảng 2.200 trận động đất đã được ghi nhận và những trận lớn nhất đã làm rung chuyển phần Tây Nam Iceland”, đồng thời cho biết thêm rằng hoạt động địa chất rất có thể tiếp tục xảy ra. 7 trận động đất trong số trên có độ lớn 4, được coi là động đất nhẹ. Hoạt động địa chấn cũng khiến cơ quan này nâng cảnh báo hàng không từ mức màu xanh lá lên màu cam, đồng nghĩa với việc cảnh báo các hãng hàng không về nguy cơ núi lửa phun trào. Tháng 4/2010, khoảng 100.000 chuyến bay đã phải hủy, ảnh hưởng đến hơn 10 triệu hành khách, sau một đợt phun trào lớn của núi lửa Eyjafjallajokull, cách bờ biển phía Nam Iceland khoảng 150 km. Những cột tro bụi lớn phủ kín bầu trời trong nhiều tuần liền, gây ra đợt gián đoạn giao thông hàng không dài nhất trong thời bình cho tới khi đại dịch COVID-19 bùng phát. Iceland là đất nước có núi lửa hoạt động nhiều nhất và lớn nhất ở châu Âu. Trong 2 năm qua, nham thạch từ núi lửa Fagradalsfjall, cách thủ đô Reykjavik 40 km, đã thu hút hàng trăm nghìn lượt khách tham quan đến chụp ảnh.
Iceland ghi nhận khoảng 2.200 trận động đất trong vòng 24 giờ
315
Ennedi Massif thuộc phía Đông Bắc của Chad (quốc gia ở Trung Phi), diện tích khoảng 60 nghìn km2 và đỉnh cao nhất cao 1.450m so với mực nước biển. Cao nguyên Ennedi Massif nằm sâu trong sa mạc Sahara thuộc Chad, nổi tiếng kỳ vĩ với những khối núi đá kỳ dị, biển cát mênh mông và “ít được khám phá chỉ xếp sau Mặt trăng”. Nơi đây tập trung nhiều vết tích của con người thời tiền sử, có đến 75% khu vực vẫn chưa được thám hiểm. Ennedi Massif thuộc phía Đông Bắc của Chad (quốc gia ở Trung Phi), có diện tích khoảng 60 nghìn km2 và đỉnh cao nhất cao 1.450m so với mực nước biển. Khoảng cách từ thủ đô N’Djamena đến Ennedi Massif xa tới 1 nghìn km, đường sá gập ghềnh, thường mất khoảng 4 ngày mới tới nơi. Chad là quốc gia không yên bình. Hàng chục năm qua, nơi đây luôn chìm trong đảo chính, xung đột sắc tộc và chiến tranh với Libya. Vì vừa quá xa xôi lại vừa nằm trong đất nước nhiều chiến sự, Ennedi Massif ít được các nhà khoa học tiếp cận, ước tính 75% diện tích vẫn ngoài tầm mắt của các nhà nghiên cứu. Mặc dù tư liệu ít ỏi, Ennedi Massif vẫn lừng danh toàn cầu nhờ biệt danh “tường sa mạc”. Cảnh quan của nó gây ấn tượng mạnh với các dãy đá cao ngất, dài dặc, hình thù đa dạng và không có cây cối mọc do quá khô hạn. Nhìn từ xa, các dãy đá này giống hệt như bức tường chắn ngang sa mạc. Đến gần, “tường sa mạc” không liền mạch. Theo suy đoán, gió và mưa chính là các tác nhân phân bố và tạc hình. Trải qua hàng triệu năm, chúng gọt đẽo đá thành những tòa tháp, mái vòm, cột, vách, dãy núi đá… Hình vẽ, khắc trên đá ở Ennedi Massif cho thấy cuộc sống và tiến trình phát triển của con người tại nơi này. Ảnh: Kate Eshelby, Hơn 7 nghìn năm trở về trước, Ennedi Massif là vùng thảo nguyên rộng lớn, tươi tốt nhờ lượng mưa hàng năm khoảng 250mm/năm. Tuy nhiên, khoảng giữa thế kỷ VI TCN, lượng mưa dần giảm xuống. Thế kỷ V, nó chỉ còn 150mm/năm và thế kỷ III thì thấp tận 50mm/năm. Trước khi trở thành mảnh đất sa mạc, Ennedi Massif là một trong các khu vực sinh cư của người tiền sử. Theo nghiên cứu khảo cổ, họ có thể xuất hiện ở đây từ khoảng năm 8000 TCN, sau đó định cư đông đúc từ khoảng năm 5000 TCN trở đi, với nhiều nhóm săn bắn và hái lượm, biết chế tạo đồ gốm và rất thích nghệ thuật vẽ tranh. “Tường sa mạc” với những bề mặt đá nhẵn nhụi, cao rộng là địa điểm yêu thích của các họa sĩ tiền sử. Họ chủ yếu vẽ con người và động vật theo nguyên mẫu đời thực, để lại cho hậu thế những tác phẩm tranh vẽ và tranh khắc trên đá phô bày cuộc sống đời thường. Đó là cảnh con người làm việc cùng gia súc, đi săn, chạy nhảy… Trong số các hình vẽ – khắc, đàn ông nhiều hơn phụ nữ, động vật được thuần hóa nhiều hơn động vật hoang dã. Càng niên đại thấp, các bức tranh càng bộc lộ chi tiết về sinh hoạt đời thường hơn, cho thấy tiến trình phát triển công cụ, trí khôn… như đã biết chế tạo xe ngựa và dùng ngựa kéo xe, phát hiện bệnh di truyền… “Với chúng tôi, Ennedi Massif giống như cuốn sách lịch sử mở mà tổ tiên để lại”, Angèle Aloumbe – nhân viên Công viên châu Phi chia sẻ. Trong Ennedi Massif không có nhà cửa hay đường sá, gần như vắng bóng người. “Mỗi lần đến đây, tôi đều có cảm giác như xuyên không về thời TCN, lặng ngắm các tác phẩm nghệ thuật trên đá và xúc động rơi nước mắt”, anh nói tiếp. Nhờ được đưa vào danh sách Di sản Thế giới, Ennedi Massif đang dần thu hút du khách. Ảnh: Kate Eshelby, Đúng như lời anh Aloumbe nói, Ennedi Massif là một trong những vùng đất vẫn còn hoang sơ nhất thế giới. Nhờ nằm rất sâu trong sa mạc, nó gần như ngoài tầm mắt của con người. “Khi một nhà khảo cổ người Italia đến đây, chỉ trong vòng nửa giờ, ông ấy đã tìm được một mảnh gốm có niên đại 7 nghìn năm”, hướng dẫn viên du lịch Andrea Bonomo kể. Vào năm 2001, tại phía Tây của Ennedi Massif, người ta phát hiện hộp sọ linh trưởng 7 triệu năm tuổi, đặt tên là Toumaï. So với Lucy ở Ethiopia chỉ 3,2 triệu năm tuổi, nó già hơn rất nhiều. Ngoài Toumaï, các nhà khảo cổ còn tìm thấy các hóa thạch cùng loài khác, chứng minh được Toumaï không phải trường hợp đặc biệt. Một số người bắt đầu tin, cái nôi của loài người có khả năng là Chad chứ không phải thung lũng Rift (Ethiopia). Dù khô nóng, Ennedi Massif vẫn là địa bàn sinh sống của nhiều loại động – thực vật. Bị cản trở vì các vấn đề an ninh, đường sá, chiến sự, giới nghiên cứu mới chỉ xác nhận được nó có ít nhất 199 loài chim di cư tạm nghỉ khi bay ngang. Tại các vũng, hẻm, hồ nước của Ennedi Massif, có cá sấu sa mạc sinh trưởng. Chúng đặc trưng bởi cơ thể ngắn, được đặt biệt danh “cá sấu tròn”. Nhờ máy bẫy ảnh, các nhà khoa học phát hiện trong Ennedi Massif có quần thể đà điểu Bắc Phi quý hiếm đang sống. Họ kỳ vọng, những loài bị cho là tuyệt chủng như linh dương sừng kiếm, báo Sudan, hổ Ennedi… cũng đang sống sót ở đâu đó trên cao nguyên hẻo lánh này. Năm 2016, Ennedi Massif được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới. Kể từ năm 2018, nó được Công viên châu Phi hợp tác với Chính phủ Chad, đồng bảo vệ và khai thác các tiềm năng, đặc biệt là tiềm năng du lịch. Năm 2019, 50 km2 của Ennedi Massif được Chad chỉ định là khu bảo tồn văn hóa và tự nhiên.
Kỳ quan địa chất bí ẩn nhất châu Phi
1,056
Đảo Hà Nam ( Quảng Yên – Quảng Ninh ) vùng đất phù sa cổ có 34km đê biển bao trọn, gia cố hiện đại theo từng thời kỳ. Vùng này thấp hơn mực nước biển 2m, diện tích 60km2 và có khoảng 7 vạn dân chia làm 8 xã hành chính. Cuộc sống bình yên, dân giã của đảo Hà Nam, Yên Hưng, Quảng Ninh. Ảnh: TTH. Năm 1434, vua Lê Thái Tông khuyến khích dân chúng đi khai hoang mở đất, phát triển nông nghiệp để làm giàu dân, mạnh nước. Hồi đó, đảo Hà Nam là đượng đất kín gió, được phù sa bọc lại, lại có nước ngọt, có hệ thống ao hồ, kênh rạch chằng chịt có thể canh tác nông nghiệp. Vùng đất ven biển này phát triển lên đông đúc dân cư, duy trì nhiều nghề thủ công, mỹ nghệ với bàn tay tài hoa của người thợ mang dấu ấn thành Thăng Long. Đất và người đều hay cả, cũng vì thế mà đảo Hà Nam sinh sôi dần lên trù phú. Đặc biệt là, dân đảo Hà Nam luôn khắc ghi công ơn khởi sinh của 17 vị cao niên ưu tú dắt theo con cháu ở Kim Liên, Hoài Đức của thành Thăng Long xưa tìm về đây lập nghiệp. Các vị Tiên công của đảo Hà Nam đã quai đê biển, khơi thông kênh mương để thau chua rửa mặn cho đất, vừa cấy lúa nước, trồng hoa màu vừa đi biển đánh bắt nuôi trồng thủy hải sản. Họ đều là những người giỏi giang các nghề khác nhau và giàu ý chí cho nên bây giờ con cháu các vị ở đảo Hà Nam cũng nhiều người giỏi nghề thủ công mỹ nghệ, giỏi chuyên môn. Hiện nay, nghề thủ công đan thuyền nan hai mái, đan ngư cụ đăng, đó, lờ bắt cá tôm vẫn tồn tại. Không phải là làng nghề thủ công mỹ nghệ như những vùng quê khác, mà nghề đan thuyền và đan ngư cụ ở đảo Hà Nam là nghề phục vụ đời sống, sản xuất ra nông cụ. Hiện nay, 17 vị Tiên công được thờ tự tại các nhà thờ tổ danh giá của các dòng họ. Nhiều nhà thờ tổ được công nhận là di tích lịch sử. Dấu ấn của các vị Tiên công lập làng còn lại đến ngày nay phải kể đến là các câu đối, sắc phong của các đình chùa miếu trong đảo Hà Nam còn ghi quê quán các vị lập làng là thành Thăng Long. Ở đây, dân chúng còn duy trì nhiều tập quán văn hóa mà xưa kia chỉ có ở đất Thăng Long như hát đúm, hát cửa đình. Trong dân có hội đua thuyền (nhân bản từ đất kinh kỳ). Đặc biệt, vào dịp ra giêng, tiễn ngày Tết hằng năm, các cụ cao niên trong làng trên 70 tuổi đều được con cháu rước trên kiệu ra đình làm lễ mừng thọ. Đây là lệ làng tồn tại từ lâu ở đảo Hà Nam nhưng lại rất hiếm thấy ở các vùng thôn quê khác. Đình Phong Cốc trên đảo Hà Nam – ngôi đình cổ có kiến trúc tuyệt đẹp còn lại của Việt Nam. Ảnh: TTH. Thị xã Quảng Yên cũng là vùng có cảnh quan, địa lý và văn hóa khác biệt hoàn toàn so với các vùng dân cư khác của tỉnh Quảng Ninh. Sở hữu di sản chiến thắng Bạch Đằng và bãi cọc cửa sông 2 lần làm quân thù xâm lược bạt vía kinh hồn, thị xã Quảng Yên giàu truyền thống và mật độ di sản văn hóa vật thể dày đặc. Chỉ là một thị xã nhỏ bé nhưng có Bảo tàng Chiến thắng Bạch Đằng lưu giữ nhiều hiện vật lịch sử quốc gia có giá trị. Còn ở đảo Hà Nam, xã nào cũng có đình, chùa, miếu thờ, nhà thờ dòng họ. Đáng chú ý, có ngôi đình lâu đời cổ kính ở Trung Bản thờ vị anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Trong đền có pho tượng ông xõa tóc, tay cầm trâm cài tương ứng với câu chuyện tướng quân đánh giặc xổ tóc đứng bên bờ Bạch Đằng giang búi lại tóc trong lịch sử. Vì vậy, ngôi đình cổ cho đến nay vẫn là địa điểm nghiên cứu của các sử gia và khách du lịch đến đây thì không thể bỏ qua việc tham quan ngôi đình này. Chính vì những yếu tố lịch sử đặc biệt đó, làng quê ở đây nhuốm màu cổ kính, dung dị dù dân cư sung túc, thịnh vượng hơn hẳn những vùng khác. Từ nền móng quai đê biển để lập ra vùng dân cư an hòa xen với đất nông nghiệp, dân tinh thông nghề nông, thạo sông nước, không bị ảnh hưởng của nước triều dâng nên đảo Hà Nam vững vàng, giàu có. Dân ta có lệ “phú quý sinh lễ nghĩa” nên đảo Hà Nam sính việc phụng thờ, trọng giỗ chạp, ưa thích tín ngưỡng vào loại bậc nhất đồng bằng Bắc Bộ. Trước đây, đình Phong Cốc, ngôi đình lớn làm bằng cột lim khổng lồ có kiến trúc tinh xảo bề thế đi liền với một cái chợ làng họp ở ngay trong hàng hiên, nhìn ra một bến nước. Ngày nay, để bảo vệ ngôi đình cổ trứ danh, chính quyền địa phương di dời chợ ra chỗ khác và cắt cử người bảo vệ đình. Ngoài không gian đẹp tuyệt và cổ kính, đình Phong Cốc còn có cửa chính là một bức tranh nổi tiếng với hình rồng và phượng được điêu khắc gỗ khéo léo. Đình thờ Thần Nông và tứ vị Thánh nương nên nơi này thường diễn ra lễ hội xuống đồng hằng năm, thi bơi chải ngoài cửa đình, thi cấy lúa, nhổ mạ, duy trì lệ làng, nếp sống đi liền với canh tác nông nghiệp. Tồn tại gần 600 năm an lạc, thái hòa, đảo Hà Nam ngày nay là di sản của cha ông thể hiện ý chí chinh phục đất đai, tài trí sử dụng tài nguyên đất, nước và sông ngòi để phục vụ đời sống con người. Nếu không có bàn tay con người, vùng đảo vẫn chỉ là một cù lao lau sậy mà thôi. Với bờ biển dài và nhiều vô vàn những vũng áng ngập mặn ven biển, cửa sông, nhưng Việt Nam không có nhiều vùng đất quai đê bảo hộ khép kín để tạo ra một vùng dân cư an toàn dưới mực nước biển như đảo Hà Nam. Trong bối cảnh các khu dân cư ven biển thường bị triều dâng tấn công và xâm nhập mặn nghiêm trọng do biến đổi khí hậu, nhịp sống an hòa như đảo Hà Nam là một niềm mơ ước, một bài học về quai đê biển, và điều tiết thủy lợi nội đồng, sống sung túc với tam nông. Ngày nay, đảo Hà Nam đã có cầu nối với trung tâm thị xã Quảng Yên nên gọi là bán đảo chứ không còn là đảo nữa. Mặt khác, đường cao tốc Hải Phòng – Quảng Ninh cũng được phóng ngang qua hòn đảo với phương châm làm ảnh hưởng ít nhất có thể tới khu dân cư lâu đời này. Với mục tiêu vươn lên làm du lịch rất mạnh mẽ trên cơ sở vốn liếng văn hóa truyền thống lịch sử lâu đời, đảo Hà Nam sẽ là điểm đến mới ấn tượng bên cạnh di sản Hạ Long.
Đảo Hà Nam – dấu ấn văn hóa tinh hoa thành Thăng Long xưa ở vùng cửa biển Đông Bắc
1,267
Với quan niệm “thiên địa nhân hợp nhất”, trong thời trung đại phương Đông con người và thiên nhiên gần gũi, giao hòa nên thơ vịnh cảnh là một chủ đề sâu đậm được các nhà Nho tâm đắc. Ngày nay nhìn từ ký hiệu học văn hóa người ta lại thấy thơ vịnh cảnh của người xưa là dấu hiệu cảm quan sinh thái rất đáng chú ý của mối quan hệ đậm đà nhân tính giữa con người và thiên nhiên – điều mà thời đương đại đang tìm kiếm. Từ góc độ này sẽ thấy các biểu tượng trong thơ vịnh cảnh như là cầu nối, như là sứ giả giữa con người và thiên nhiên. Luôn mang một chiều sâu văn hóa, theo thời gian biểu tượng được bồi đắp, tích luỹ thêm các lớp mã ý nghĩa mới. Là hạt giống của cây văn hóa cổ xưa gieo vào mảnh đất đương đại, nảy mầm, lớn lên cho hoa quả ý nghĩa mới, vì thế biểu tượng luôn mang tính truyền thống. Giải mã biểu tượng cũng là một cách tìm về truyền thống. Bài viết xin được tìm hiểu về thơ vịnh ngày hè trong thơ Nguyễn Trãi và thơ thời Hồng Đức. Hoa sen. Thơ Nôm Nguyễn Trãi xuất hiện nhiều hình tượng cây hòe: “ Rồi hóng mát thuở ngày trường/ Hòe lục đùn đùn tán rợp trương/ Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ/ Hồng liên trì đã tịn mùi hương ” (Bảo kính cảnh giới 43). Cảnh ngày hè có sắc đỏ của hoa lựu bên hiên nhà, có hương vị của sen hồng dưới ao và hình ảnh cây hòe cành lá tươi tốt sum xuê cứ vươn lên trời xanh. Ông có bài vịnh riêng về hòe: “ Mống lành nẩy nẩy bởi hòe trồng/ Một phát xuân qua một phát trông/ Có thuở ngày hòe trương tán lục/ Đùn đùn bóng rợp cửa tam công ” (Hòe). “Mống lành” (từ cổ) chỉ con cháu tài giỏi. Câu hai ý nói mỗi mùa xuân qua lại xem hòe lớn lên được bao nhiêu, tức rất quan tâm đến nó. Cảnh ngày hè trong thơ Ức Trai không thể thiếu hòe: “ Vì ai cho cái đỗ quyên kêu/ Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu/ Lại có hòe hoa chen bóng lục/ Thức xuân một điểm não lòng nhau ” (Cảnh hè). Thơ ông có nhiều những “giấc hòe an”, “giấc hòe”, “cành hòe”… nên có đủ căn cứ để khẳng định hòe là một tín hiệu thẩm mỹ đặc biệt trong thơ Ức Trai. Hòe cũng xuất hiện nhiều trong thơ Hồng Đức: “ Đằng đẵng ngày chầy giương tán nắng/ Đùn đùn bóng rợp phù màn hoè ” (Vịnh cảnh mùa hè); “ Rợp rợp màn hoè bóng mới xây/ Choi chói hoa vàng đưa gió/ Đun đùn tán lục gương mây ” (Màn hoè); “ Liễu phất tơ xanh mềm lướt lướt/ Hòe giương tán lục xếp trùng trùng ” (Tháng tư)… Nhưng dễ nhận ra chịu ảnh hưởng thơ Ức Trai, từ hình ảnh đến cảm hứng, tình điệu… Dựa trên cơ sở tần số xuất hiện có thể hình dung ngày xưa các cụ ta thường trồng nhiều cây hòe. Lá hòe xanh thẫm, tán rộng, hoa màu vàng, ngoài ý nghĩa thẩm mỹ, cây hòe cho bóng mát, hoa hòe còn là một vị thuốc quý. Cây hòe gần gũi, thân quen lại nhiều lợi ích nên đi vào thơ Nguyễn Trãi, thơ Lê Thánh Tông – những đại trí thức yêu nước, gần dân, thương dân như lẽ tự nhiên vậy. Hoa hòe nở vào mùa hạ nên vịnh mùa hè không thể thiếu biểu tượng này. Nhưng hòe còn là một biểu tượng của chiều sâu văn hóa sâu xa nhiều triết lý. Dù yêu hòe nhưng khi tả, cụ Nguyễn Trãi vẫn “đặt” nó ở “cửa tam công” biểu tượng của vị thế vương giả, quyền lực, học vấn (Đùn đùn bóng rợp cửa tam công). “Tam công” lại là một điển tích, sách “Tống sử” kể Vương Hộ đời Tống từng tự tay trồng ba cây hòe ở sân và nói con cháu ta sẽ có người làm đến chức Tam công. Từ đó người ta lấy “sân hòe” để chỉ cha mẹ với ý biết ơn công lao phụ mẫu: “ Sân hoè đôi chút thơ ngây/ Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mìn h” (Truyện Kiều). Đi vào văn hóa cây hòe biểu trưng cho việc đỗ đạt làm quan. Không chỉ Nguyễn Trãi nói nhiều đến “giấc hòe”, có trong cả “Truyện Kiều” ( Giấc Nam Kha khéo bất bình/ Bừng con mắt dậy thấy mình tay không ). Đời nhà Đường một tác giả tên là Lý Công Tá trong sách “Nam Kha ký” kể câu chuyện Thuần Vu Phần giữa trưa hè ngủ dưới gốc hòe mơ được đến nước Hòe An, được nhà vua xứ này gả công chúa xinh đẹp, lại được phong làm Nam Kha Thái thú… Bỗng chàng ta giật mình tỉnh dậy, té ra chỉ là giấc mơ. Vu Phần chỉ biết thở than: “ Giữa giấc mộng và đời thực sao cách nhau xa đến thế !”. Điển tích này rất hay được các nhà Nho mượn để triết lý về sự chảy trôi của thời gian, đời người cũng chỉ gói gọn trong giấc mơ mà thôi. Còn là triết lý về mơ và thực. Mơ thì luôn đẹp nhưng hão huyền,… Từ đó “giấc hòe” cũng là giấc mơ: “ Tiếng sen sẽ động giấc hoè/ Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần ” (Truyện Kiều). Đặt vào bối cảnh thơ Ức Trai có thể hiểu ông triết lý về công danh cũng hão huyền như giấc mơ vậy (!?). Cành hoa hòe. Mùa hè đến hoa sen nở. Ban ngày sen khoe sắc. Ban đêm sen tỏa hương.Ức Trai đưa cảm nhận ấy vào thơ: “ Lầm nhơ chẳng bén, tốt hòa thanh/ Quân tử kham khuôn được thử danh/ Gió đưa hương đêm nguyệt tĩnh/ Trinh làm của có ai tranh ” (Hoa sen). “Lầm” nghĩa là bùn (từ cổ). Thật khó biết Nguyễn Trãi học ca dao (Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn) hay ca dao học Nguyễn Trãi. “Kham khuôn” là bắt chước, ý câu hai nói chỉ có bậc quân tử mới bắt chước được sen. “Trinh làm của” ý nói sự trinh tiết trong trắng của sen là của báu khó ai tranh được. Bài thơ ngắn ca ngợi sen chủ yếu ở phương diện phẩm chất. Thơ Hồng Đức cũng vịnh sen: “ Đùn đùn mây họp cháu con lắm/ Ngần ngật dù che dòng dõi sang/ Ca ngợi ả Tây lừng thủy quốc/ Mặt bằng Lang sáu đượm thiên hương ” (Lại vịnh sen). Tả lá sen bằng từ ngữ miêu tả vũ trụ và con người (Đùn đùn mây họp cháu con lắm). Lá sen như mây hội tụ làm chiếc dù “che dòng dõi sang”. Hai câu sau ca ngợi sen như người đẹp qua hai điển tích. “Ả Tây” tức Tây Thi, người con gái tuyệt đẹp đời Xuân Thu thường hay hái hoa sen (nên càng đẹp thêm). “Lang sáu” có từ tích Tương Xương Tông thời nhà Đường được Vũ Tắc Thiên sủng ái gọi là Lục Lang. Có người khen mặt Lục Lang đẹp như hoa sen nhưng Tắc Thiên Hoàng hậu khẳng định hoa sen đẹp như mặt Lục Lang mới đúng! Không biết cái đẹp nào là chuẩn mực thẩm mỹ cho cái đẹp nào, chỉ biết cả hai cùng rất đẹp, như lẫn vào nhau, nâng đỡ nhau. Cả trong thơ Nguyễn Trãi và thơ Hồng Đức đều vang lên âm thanh của con cuốc cuốc và tiếng ve. Ức Trai băn khoăn với tiếng cuốc kêu: “ Vì ai cho cái đỗ quyên kêu ”. Đỗ quyên là tên gọi khác của con chim cuốc. Khi về ẩn ở “Côn Sơn quê cũ”, thơ Ức Trai dường như còn khắc khoải hơn với “ trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn ”. Một tiếng ve có gì đấy đượm buồn: “ Lao xao chợ cá làng ngư phủ/ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương ”. Từ láy “lao xao” cho thấy chợ cá ở xa, khác với “dắng dỏi” nghĩa inh ỏi, ram ran ở gần. Tiếng ve như tiếng đàn cầm (cầm ve) gọi hoàng hôn về bao phủ lấy ngôi lầu im lặng. Cảnh nên thơ, trữ tình, có âm thanh nhưng chỉ là “dĩ động tả tĩnh” càng làm không gian vắng lặng. Cùng đối tượng thẩm mỹ tiếng cuốc, tiếng ve, thơ Hồng Đức vui vẻ hơn: “ Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc/ Cành kia dắng dỏi gảy cầm ve ” (Vịnh cảnh mùa hè). Thơ Hồng Đức có dùng từ “khắc khoải” nhưng vẫn thấy đó chỉ là cái vỏ ngôn ngữ chứ không thấy chiều sâu của tâm trạng: “Khắc khoải đã đau lòng cái cuốc/ Băn khoăn thêm tức ngực con ve” (Nắng hè). Chim cuốc, tiếng Hán gọi là đỗ quyên hay đỗ vũ, tử quy thường sống trong bụi rậm hoặc góc ao chuôm. Thời điểm cuối xuân đầu hạ cuốc thường cất tiếng kêu khắc khoải. Điển tích ghi ở sách “Sưu thần ký” vua nước Thục tên Đỗ Vũ tức Thục Vọng đế vì ăn chơi để mất nước nên khi chết hóa thành con chim cuốc kêu thảm thiết “cuốc, cuốc”. Đi vào văn chương điển được mở rộng nội hàm chỉ những ai phiêu bạt đất khách quê người mà nhớ về cố hương “ Khúc đâu êm ái xuân tình/ Ây hồn Thục đế hay mình đỗ quyên ” (Truyện Kiều). Tiếng cuốc vọng vào thơ Nguyễn Trãi mang nghĩa rộng rãi về niềm ưu tư, cảm hoài với quê hương. Âm thanh ấy càng da diết hơn những khi nhà thơ sống trong tâm trạng “bất đắc chí”. Thơ Hồng Đức rất chú ý tới cách dùng tính từ cực tả và nhấn mạnh vào từ láy, phép điệp: “ Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi/ Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè/ Cuốc cuốc, cuốc hằng khua mõ cuốc/ Ve ve, ve lại gẩy cầm ve ” (Lại vịnh nắng hè 3). Hình tượng có hồn nhờ khai thác những hình ảnh mang tính đặc trưng riêng biệt, ngộ nghĩnh, sống động, thi vị: “ Bẻo lẻo đầu ghềnh con bố cốc/ Lênh đênh mặt nước cái đè he ” (Nắng hè). “Bố cốc” tức chim tu hú thường kêu vào đầu hè để nhắc người dân cấy lúa (bố cốc). “Cái đè he” tức cá he mình to, dài, đầu giống đầu lợn, sống ở biển, mùa hè thường nổi từng đàn…!
Cảnh ngày hè – cách nay 6 thế kỷ! – Tác giả: Nguyễn Thanh Tú
1,766
Chính phủ ngày 5/7 ban hành Nghị quyết số 93/NQ-CP về nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững giai đoạn 2023 – 2030. Mục tiêu chung của Nghị quyết là thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách lớn đã đề ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII trong bối cảnh nước ta đang triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2021 – 2025 và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021 – 2030. Trong đó trọng tâm là: Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế; bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; nhanh chóng phục hồi kinh tế vượt qua các tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19; chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và hiệu quả nhằm thu hút nguồn lực bên ngoài cho phát triển, tăng cường sự gắn kết lợi ích với các đối tác và nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, bảo đảm an ninh quốc gia. Chuyển hóa các lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế thành kết quả cụ thể tăng trưởng xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ Mục tiêu cụ thể của Nghị quyết là chuyển hóa các lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế đã đạt được thành kết quả cụ thể trong việc tăng trưởng xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ; nâng cao khả năng hấp thụ khoa học công nghệ và hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế; thúc đẩy phát triển các khu vực kinh tế trong nước, xác lập vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu; hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật đầy đủ, hiện đại, hội nhập hơn. Cùng với đó, nâng cao mức độ và chất lượng hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng đóng góp tích cực vào quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thu hẹp khoảng cách phát triển so với các nước phát triển hơn trong khu vực và thế giới. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các tác động tiêu cực từ bên ngoài; tăng cường khả năng ứng phó và xử lý linh hoạt hiệu quả trước các diễn biến trên thế giới có thể xảy ra đe dọa ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động xuất nhập khẩu, giao dịch thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế của các ngành kinh tế. Hoàn thiện hệ thống phòng vệ thương mại để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Đồng thời, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam; tạo điều kiện, môi trường để các doanh nghiệp phát triển ổn định, vững chắc… Để đạt được các mục tiêu, Nghị quyết đưa ra 5 giải pháp quan trọng, bao gồm: Cải cách, hoàn thiện thể chế kinh tế; Cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh; Thực thi hiệu quả các FTA; Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hậu Covid-19 và phát triển bền vững; Hội nhập toàn diện trên các lĩnh vực văn hóa xã hội, khoa học công nghệ, an ninh quốc phòng. Về cải cách, hoàn thiện thể chế kinh tế, Nghị quyết triển khai mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính nhất là các thủ tục liên quan đến đầu tư, xuất nhập khẩu, thuế,… và cắt giảm các điều kiện kinh doanh bất hợp lý, các thủ tục không cần thiết để đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong quá trình tra cứu và thực thi. Xây dựng cơ chế, chính sách để thúc đẩy xây dựng khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát của các lĩnh vực kinh tế – xã hội áp dụng các sản phẩm, dịch vụ, giải pháp, mô hình kinh doanh mới/tích hợp để có chính sách quản lý phát triển kịp thời và phù hợp nhằm thúc đẩy kinh tế số, sáng tạo, khởi nghiệp… Cải thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo tính bình đẳng, minh bạch Về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, Nghị quyết đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả cải thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo tính bình đẳng, minh bạch, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh mang đến sự ổn định và dễ dự đoán của chính sách. Tích cực triển khai các chương trình xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, du lịch, xây dựng thương hiệu; phát triển thương mại điện tử để tăng cường khả năng giao dịch, tìm kiếm, mở rộng thị trường… Để thực thi hiệu quả các FTA, Nghị quyết đưa ra giải pháp tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành; phát huy hiệu quả cơ chế tham vấn giữa cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp trong quá trình đề xuất, lựa chọn đối tác và xây dựng phương án đàm phán các FTA mới cũng như trong việc tháo gỡ những khó khăn trong việc tiếp cận thị trường xuất khẩu; ký kết các thỏa thuận công nhận lẫn nhau về kết quả đánh giá sự phù hợp trong các lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh và tiềm năng xuất khẩu. Tiếp tục thực thi đầy đủ, nghiêm túc các cam kết về hội nhập kinh tế quốc tế và các cam kết trong các FTA; nghiên cứu, đề xuất phương án đàm phán các FTA mới cũng như nâng cấp một số FTA đã ký kết; nghiên cứu và tập trung triển khai có hiệu quả các FTA mà Việt Nam đã tham gia, đặc biệt là kế hoạch thực thi các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, UKVFTA và RCEP…
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế
1,065
Chế Lan Viên (1920-1989) là nhà thơ lớn của dân tộc, một gương mặt tiêu biểu, độc đáo của thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông để lại một di sản văn chương đồ sộ, tiếp tục gây ngạc nhiên cho nhiều thế hệ đi sau. Ông là nhà thơ sử dụng màu sắc một cách thuần thục, duyên dáng nhất. Khi đi vào nghệ thuật, màu sắc không tồn tại như một yếu tố vật chất đơn thuần, mà nó gắn liền với chủ đề, tư tưởng, đề tài của một tác phẩm cụ thể. Do đó, có thể nhận xét chung rằng, từ màu sắc bên ngoài được phản ánh vào tác phẩm, ta có thể nhận ra màu sắc bên trong – màu sắc tâm hồn – của một nhà văn, nhà thơ. Bất kỳ nghệ sĩ nào cũng đều có những cách chọn lựa riêng, xử lý riêng về màu sắc. Về phương diện hội họa, Chế Lan Viên có một góc trời riêng về bảng màu đa dạng. Ông là họa sĩ trong thơ ca. Với ông, màu trắng, qua từng chặng đường sáng tác, đều để lại dấu ấn khó quên. Sắc độ màu trắng không chỉ có ý nghĩa thẩm mỹ, sâu xa hơn, phản ánh cái nhìn nghệ thuật về con người và cuộc đời của Chế Lan Viên. Trong cả đời thơ, với nhiều cung bậc tình cảm, nghĩ suy, Chế Lan Viên nói đến màu trắng 154 lần. Màu trắng được dùng như một tính từ, một động từ vị ngữ, một danh từ. Thời kỳ Điêu tàn (1937), màu trắng không gợi nên sự tinh khiết, thanh sạch, mà nó gắn liền với xương trắng, sọ trắng, não trắng , đó là, “ một khớp xương ma trắng rợn”, “nền giấy trắng như xưa trong bãi chém”, “thành sọ trắng của ma thiêng”, “não trắng rủ nhau tuôn”. Một thế giới ma quái, màu sắc nhuốm yếu tố hư linh hiện ra, như Hoài Thanh nhận xét “ Giữa đồng bằng văn học Việt Nam ở nửa thế kỉ hai mươi, nó (Điêu Tàn) đứng sững như một cái tháp Chàm, chắc chắn và lẻ loi, bí mật ” (Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam, NXB Thiều Quang, Sài Gòn, 1967, trang 229). Màu sắc trong Điêu tàn tượng trưng cho sự kinh hãi, tàn lụi, chìm đắm trong cô đơn, lạnh lẽo, hoảng sợ, vì thế, trong 36 bài thơ, với 9 màu, chủ yếu trắng, xanh, đen mờ, màu sắc ấy cùng với hình ảnh cõi chết, cõi xa xôi, sọ, xương, đầu lâu, pháp trường đã làm nên một thế giới đầy hư linh, rùng rợn, ma quái (Xem thêm: Huỳnh Văn Hoa, Màu sắc, một phương diện mỹ học trong tập thơ Điêu tàn của Chế Lan Viên , báo Giáo dục và Thời đại, số đặc biệt cuối tháng 10 (số 174), ngày 30 – 10 – 2010). Vậy mà, vào những năm 60 trở đi, nhiều bài thơ có màu trắng lại mang tâm tình, cảm xúc đầy chân tình, thương mến và trân trọng cuộc sống của Chế Lan Viên. Ở thơ Chế Lan Viên, bắt đầu từ Ánh sáng và Phù sa (NXB Văn học, HN, 1960), màu trắng đã đi vào những ngõ ngách riêng tư của đời thường, của trầm tư, suy tưởng. Một làn mây trắng bay ngang cũng làm chạnh lòng thương nhớ. Người đọc cũng khó quên hình ảnh: mây trắng – em – nỗi nhớ đan lồng vào nhau, gợi mãi không thôi. Hai phương trời chỉ một phong thư mây trắng: Màu trắng là màu mây của em Trắng trời anh lại nhớ em thêm Em đi muôn dặm thư về chậm Chỉ lấy màu mây trắng nhắn tin. (Mây của em) Ở một bài tứ tuyệt khác, bài Hoa tháng ba , viết về hoa xoan, một thứ hoa nở trắng vào tháng ba. Tháng ba của mùa xuân, thời gian cây xoan ra hoa. Hai câu đầu nói về thời gian. Các câu sau là tâm trạng. Nhịp thơ chuyển từ 2/2/2 sang 4/4, rồi 3/4, cuối cùng 3/3/2, đó là cung bậc của nhớ thương, vừa bâng khuâng vừa ngùi ngùi cảm xúc. Hoa xoan có mùi hắc, không thơm, song, cái hương thơm đặc biệt ấy, như Nguyễn Du viết, là thứ “hương gây mùi nhớ”, vì thế, cũng khiến cho tâm hồn nhà thơ như chùng lại, ngần ngại qua vườn , sợ mùi hương, sợ mùi hương … nhắc mình . Hai lần nhắc lại “sợ mùi hương” là nhắc mình về nỗi nhớ “em”, người đang ở phương xa. Mượn hương để nói người là nét riêng của Chế Lan Viên. Một bài thơ bình dị, sâu lắng và tinh tế: Tháng ba nở trắng hoa xoan Sáng ra mặt đất lan tràn mùi hương Không em, anh chẳng qua vườn Sợ mùi hương, sợ mùi hương … nhắc mình (Hoa tháng ba) Đến màu trắng thế sự, man mác buồn, nỗi buồn từ ngàn lau thời Nguyễn Du thổi lại, bạc xóa đến bây giờ: Man mác hoa lau trắng Đường về thăm Nguyễn Du Ngàn lau từ Nguyễn thấy Bạc xóa đến bây giờ (Hoa lau trắng) Trong Truyện Kiều , hình ảnh vi lô là hình ảnh cây lau, cỏ lau nhuốm màu buồn (Xem Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều , NXB KHXH, HN, 1974, trang 434). Hai lần Nguyễn Du mô tả vi lô đều mượn từ láy mang sắc điệu bi ai để mô tả thời gian của buổi chiều hiu hắt và trời thu riêng lẻ, cô độc, một người: Gió chiều như giục cơn sầu Vi lô hiu hắt như màu khẩy trêu (Câu 263, 264) Vi lô san sát hơi may Một trời thu để riêng ai một người (Câu 913, 914) Ngày trước, hoa lau đã trở thành sắc màu xao xuyến nơi bến Tầm Dương tiễn biệt trong mấy câu thơ của Bạch Cư Dị: Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu Người xuống ngựa, khách dừng chèo Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti (Tỳ bà hành – Bạch Cư Dị) “Lau lách đìu hiu” đã làm cho cuộc chia ly trên bến khuya giữa kẻ ở người đi, giữa tiếng sáo, tiếng đàn và lời ca của người tài nữ đã làm không gian thêm ngơ ngẩn, đoạn trường. Ở những bài thơ ngắn, tập trung trong Hái theo mùa, NXB Tác phẩm mới, HN, 1977, Hoa trên đá, NXB Văn học, HN, 1984, Chế Lan Viên thường viết những bài thơ ngắn về hoa, trong đó có hoa lau, lại là hoa lau trắng ! Màu sắc ấy mang sắc thái tâm tình gì, ẩn sau đó là tâm trạng nào, không gian hoa lau, thời gian hoa lau nở và sự cô đơn, niềm nhung nhớ và lạnh lẽo của con người ? Bao câu hỏi đặt ra, tìm câu trả lời không dễ. Trong bài Thử thách (Hoa trên đá, NXB Văn học, HN, 1984), Chế Lan Viên viết về cành lau – nỗi nhớ và màu mây. Ngỡ như, trong sắc trắng hoa lau, có nỗi nhớ của tình yêu: Trắng màu lau đã cho mình nỗi nhớ Chịu cách xa mình để nói một màu mây Mùa thu với hoa lau, một kết hợp của thời gian và không gian. Khi ngàn lau cười trong nắng, cũng là lúc đón mua thu về, rồi hồn thu sẽ đi, điều còn lại chỉ ngàn lau xao xác trắng, một màu trắng cô đơn. Đó là, Lau mùa thu , bài ngũ ngôn tứ tuyệt viết về đời lau: Ngàn lau cười trong nắng Hồn của mùa thu về Hồn mùa thu sắp đi Ngàn lau xao xác trắng Hãy đọc Lau biên giới, bài thơ nằm trong tập Hoa trên đá (1984) : Ai đi biên giới cho lòng ta theo với Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình Bạt ngàn lau trắng ở tận cùng bờ cõi Suốt một đời cùng với gió giao tranh. Mở đầu bài thơ là lời cầu khiến, xin với người đi biên giới cho lòng theo. Một lời cầu xin tha thiết, chân tình: theo với . Theo ai để lên biên giới ? Xin thưa, theo với những người đang cầm súng chiến đấu, bảo vệ “ở tận cùng bờ cõi” như dòng thơ đã nhấn mạnh. Câu thơ như mắc nợ. Cần nhớ là, vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, cuộc chiến biên giới phía bắc của nước ta là thiêng liêng. Hiểu thế, để thấy rằng, cả bài thơ là sự sẻ chia cảm động, nghĩa tình. Nơi ấy, chỉ có người lính với bạt ngàn lau trắng của biên cương, giữ từng thước đất của tổ quốc. suốt một đời, lặng lẽ, cô đơn cùng lau trắng, gió hút và mây trời. Chiến đấu bảo vệ “bờ cõi”, đương nhiên”, còn chiến đấu với chính mình, với “bạt ngàn lau trắng”, “có một mình” mới dũng cảm biết bao ! Đọc Lau biên giới của Chế Lan Viên, gợi nhớ Nguyễn Minh Châu với truyện ngắn Cỏ lau , thao thức với những dòng: “ với biết bao nỗi lo toan tính đầy hối hả trong thời bình, mỗi con người chúng ta có lẽ đôi khi cũng là một cánh rừng cỏ lau đầy sức sống, rất chóng lãng quên những người lính đã ngã xuống ”. Ở Huế, về mùa hè, những hồ trong thành nội, sen thường nở. Những cánh sen trắng muốt, lung linh, bọc ven cổ thành, làm nên nét riêng của Huế. Và, cũng chỉ ở Huế mới có. Chế Lan Viên gọi đấy là Sen Huế: Trắng muốt mùa sen trắng cổ thành Ngỡ như mùa hạ Huế chờ anh Mượn ai tà áo bay màu lụa Bọc lấy mùa hương ấy để dành Huế với nhà thơ như người bạn cũ. Sen nở chờ tác giả. Tình cố tri đó khiến cho người nghệ sĩ muốn mượn một tà áo lụa bọc lấy hương ấy để dành. Suy nghĩ thật độc đáo. Người ta chỉ có thể bọc bàn, bọc ghế, bọc sách, bọc vở, vậy mà có người tính đến việc bọc lấy mùa hương . Lòng yêu hoa, yêu người, yêu Huế đến thế là cùng ! Chả vậy, ba lần nhà thơ nói đến mùa: mùa sen, mùa hạ, mùa hương . Ba mùa quyện lẫn, tôn lên vẻ đẹp của Huế. Một bài thơ hay viết về Huế. Nhiều sắc màu các loài hoa trong thơ Chế Lan Viên đưa lại vẻ đẹp riêng của tâm hồn, làm nên bao xuyến xao, rung động, bao nỗi niềm thương nhớ, bao trạng thái hồi hộp, chờ mong, bao ấn tượng khó quên: Anh tặng em chùm hoa sắc trắng, Nhưng khi yêu, anh yêu đỏ hoa hồng. Tuổi năm mươi lòng yêu như lửa đỏ, Nhưng bên ngoài vẫn cứ trắng như không (Hoa trắng đỏ) Bài thơ với hai gam màu chủ đạo: trắng và đỏ. Hai màu đan xen, xoắn quyện vào nhau, chỉ ngọn lửa tình yêu nồng cháy, đầy thi vị. Thi vị ở chỗ, tuổi năm mươi, qua rồi thời tuổi trẻ, nhưng vẫn nồng nàn, đằm thắm. Màu trắng, tượng trưng cho sự tinh khiết, thanh cao. Màu đỏ, biểu hiện sự mãnh liệt, rực cháy. Hai lần nhà thơ dùng từ “nhưng” nhằm nhấn mạnh độ nóng của tình yêu. Một định đề tưởng tương phản nhưng lại hài hòa, thống nhất. Bài thơ có màu sắc triết luận, đưa người đọc đến một cảm nhận sâu sắc về năng lượng bất diệt của tình yêu. Hiếm thấy một bài thơ tình tinh tế, thiết tha như thế ở tuổi năm mươi trải nghiệm. Đúng là, ông đã cảm thụ màu sắc của hoa theo kiểu rất Chế Lan Viên. Những chùm hoa kim anh trắng, nở dọc các suờn núi cao biên giới, nơi những con chim hiền lành như ngừng tiếng hót, tất cả chìm trong phút lặng im linh thiêng ấy, khi Người đi tìm hình của Nước, sau ba mươi năm, về đến mảnh đất thiêng của Tổ quốc. Phút giây đó, cả Tố Hữu và Chế Lan Viên đều sử dụng màu trắng, màu trắng của hoa và màu trắng của sự khiết lành, chờ đón : – Ôi sáng xuân nay xuân 41 / Trắng rừng biên giới nở hoa mơ / Bác về im lặng con chim hót / Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ (Tố Hữu – Theo chân Bác) Và, Chế Lan Viên viết : – Nở trắng hoa kim anh trên biên giới, Bác về / Xa nước ba mươi năm một câu Kiều, Người vẫn nhớ (Người thay đổi đời tôi – Người thay đổi thơ tôi) – Mùa bioóc-cà ơi, mùa bioóc – cà ơi / Trắng hoa núi khắp sườn cao biên giới – Đầu lau lao xao, bông ngả đón mình / Mây quá trắng trên trời chừng muốn nói (Cách mạng, chương đầu) Trong thơ, Chế Lan Viên còn sử dụng màu trắng trong phương thức đối lập ở một câu thơ, một ý thơ vừa để tạo câu, vừa lập nên ngữ nghĩa mới: – Cồn cát trắng trắng lan bên nhà trắng / Hàng cây xanh xanh dải đến trời xanh (Im lặng, tập thơ Gửi các anh ) – Trắng trên Trường Thành mây trắng bay / Tím dưới Trường Thành hoa tím nở (Mây và hoa trên Vạn Lý Trường Thành) – Mỗi mai hồng, áo trắng đến thăm tôi (Ý nghĩ mùa xuân) – Thơ ta áo trắng mặc màu trời xanh (Đi ra ngoại ô) – Có ngờ đâu cồn cát trắng mây xanh Gặp Nguyễn nơi đây trên đất Quảng Bình … (Gửi Kiều cho em năm đánh Mỹ) – Cả xứ sở trắng một màu mây trắng ! (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?) Như thời gian và không gian nghệ thuật, màu sắc là một tín hiệu thẩm mỹ phản ánh thế giới tâm hồn của chủ thể sáng tạo. Chế Lan Viên là một thi sĩ – họa sĩ tài hoa. Phép sử dụng màu và sự phối màu tinh tế của Chế Lan Viên đã đưa lại nhiều bài thơ hay, đầy cá tính sáng tạo trong thơ ca Việt. Goethe có một câu nói rất hay: “Hãy để ta cảm thụ màu sắc theo cách của ta”. Nhận định ấy phù hợp với màu sắc trong thơ Chế Lan Viên, trong đó có màu trắng. ——————–
Màu trắng trong thơ Chế Lan Viên – Tác giả: Tiến sĩ Huỳnh Văn Hoa
2,310
William Shakespeare (1564 – 1616) là một kịch tác gia, thi sĩ và diễn viên người Anh. Ông được coi là nhà văn viết bằng tiếng Anh vĩ đại nhất. Sự nghiệp của William Shakespeare đã mang đến cho ông những kỷ lục thế giới mà sinh thời có lẽ ông chưa từng nghĩ đến. Theo nhà báo Kevin Lynch, tính đến năm 2014 thì William Shakespeare là nhà soạn kịch “ăn khách” nhất thế giới, với doanh số từ các vở kịch và thơ của ông đạt hơn bốn tỉ bảng trong gần 400 năm kể từ khi ông qua đời. Ông cũng là tác giả có tác phẩm được dịch nhiều thứ 3 trong lịch sử. Một cảnh trong bộ phim hài – lãng mạn Shakespeare in Love ( Shakespeare đang yêu ) do John Madden làm đạo diễn. Hamlet là vở kịch dài nhất trong số 37 vở kịch của Shakespeare, sáng tác khoảng từ năm 1599 đến năm 1601. Vở kịch này bao gồm 4.042 dòng, tổng cộng 29.551 từ. Hamlet còn chứa phần thoại dài nhất trong số 1.277 phần thoại của Shakespeare. Chỉ tính riêng nhân vật Hamlet, trong vai hoàng tử Đan Mạch, đã có 1.569 dòng, tổng cộng 11.610 từ. Assassination (cuộc ám sát) là từ mà Shakespeare sử dụng sớm nhất trong văn học viết bằng tiếng Anh. Theo Từ điển tiếng Anh Oxford, từ này xuất hiện trong tác phẩm Macbeth của William Shakespeare, viết vào năm 1605. First Folio là quyển sách đầu tiên chứa đựng toàn bộ các vở kịch của William Shakespeare được in vào năm 1623. Vào thời đó, nhà xuất bản chỉ in 750 bản First Folio , đến năm 2014 giới nghiên cứu phát hiện chỉ còn 228 bản. Vào ngày 8.10.2001, nhà Christie’s đã bán đấu giá 1 trong 5 bản First Folio tại thành phố New York ( Mỹ ) với giá 6.166.000 USD (4.156.947 bảng Anh). Đây là mức giá cao nhất cho một quyển sách xuất bản từ thế kỷ 17. Shakespeare là tác giả có nhiều vở kịch và thơ được chuyển thể thành phim, với rất nhiều phiên bản. Sinh thời, có lẽ ông không hề nghĩ rằng các vở kịch và sonnet (thơ ngắn) của ông được chuyển thể thành 420 phim truyện và phim truyền hình. Hamlet đứng đầu danh sách với 79 phiên bản, tiếp theo là Romeo và Juliet với 52 phiên bản, còn Macbeth thì được quay 36 lần. Shakespeare in Love là một bộ phim hài-lãng mạn của Mỹ năm 1998, do John Madden làm đạo diễn. Phim này mô tả mối tình hư cấu giữa Viola de Lesseps (Gwyneth Paltrow) và Shakespeare (Joseph Fiennes) trong giai đoạn Shakespeare đang viết vở kịch Romeo và Juliet. Đây là bộ phim thành công, thu về 289 triệu đô la trên toàn thế giới và trở thành bộ phim có doanh thu cao thứ 9 trong năm 1998, đặc biệt là đã giành được 3 giải Quả cầu vàng; 2 giải thưởng của Hiệp hội Diễn viên Điện ảnh; 4 giải thưởng Điện ảnh của Viện Hàn lâm Anh và 7 giải Oscar trong Lễ trao giải Oscar lần thứ 71… Sean Shannon, người Canada, có thể nói trôi chảy với tốc độ đáng kinh ngạc. Anh đã đoạt danh hiệu Kỷ lục thế giới Guinness cho người kể chuyện nhanh nhất vào năm 1995, sau khi đọc thuộc lòng đoạn độc thoại nổi tiếng trong Hamlet “To be, or not to be” chỉ trong 23,8 giây!. Chân dung nhà viết kịch và nhà thơ người Anh William Shakespeare khoảng năm 1600. Một kỷ lục gia khác là Adrian Hilton (người Anh) đã đọc thuộc lòng toàn bộ tác phẩm của Shakespeare trong thời lượng ấn tượng là 110 giờ 46 phút tại cuộc thi “Bardathon”, thuộc Lễ hội Shakespeare, tổ chức ở Nhà hát Shakespeare’s Globe, London năm 1987. Ngày 3.7.2005, có tổng cộng 7.104 học sinh biểu diễn khoảng 368 tác phẩm như một phần của Lễ hội Trường học Shakespeare của Vương quốc Anh. Điều này cũng đã tạo ra kỷ lục thế giới. Nếu tranh của danh họa Pablo Picasso bị giả mạo nhiều nhất thì tác phẩm của Shakespeare cũng bị làm giả không kém. William Henry Ireland, con của một người bán sách và cổ vật, đã tạo ra một số bản thảo, giả mạo là tác phẩm của Shakespeare, xuất hiện ở London từ năm 1794-1795. Nhà báo Kevin Lynch cho biết, trong số đó có thư từ giữa Shakespeare và Bá tước xứ Southampton; một bức thư và bài thơ tình gửi đến Anne Hathaway; hai hợp đồng nhà hát; lời thú tội tâm hồn của Shakespeare; một bức thư Nữ hoàng Elizabeth gửi cho ông; những bản chỉnh sửa một số vở kịch nổi tiếng của Shakespeare cùng với hai vở kịch lịch sử chưa từng công bố. Một cảnh trong vở kịch Hamlet của William Shakespeare, biểu diễn tại nhà hát Why Not Theatre ở Toronto, Canada. Ban đầu, một số nhà phê bình văn học đầy uy tín và những nhân vật nổi tiếng khác đã đánh giá số “hàng giả” của William Henry Ireland là chân thực, đến nỗi, Vortigern , một trong những vở kịch ngụy tác, đã được trình diễn năm 1796. Cuối cùng, giới nghiên cứu đã nhận ra được sự giả mạo đó, bởi vì có một số vở kịch và tài liệu bị coi là đáng ngờ: ngày tháng không được kiểm đếm, một số sự kiện có thể không hợp lý, đặc biệt là có một số lỗi chính tả, văn phong và ngôn ngữ kỳ quặc, không giống William Shakespeare.
Nhà văn William Shakespeare và những kỷ lục thế giới
912
Tên lửa Ariane 5 rời bệ phóng thực hiện sứ mệnh cuối cùng của mình ngày 5/7 tại Kourou, Pháp. Ảnh: ariancespace. Ngày 5/7, tên lửa Ariane 5 của châu Âu được phóng lần cuối từ Guiana, lãnh thổ thuộc Pháp ở Nam Mỹ, mang theo 2 vệ tinh liên lạc quân sự và kết thúc 27 năm vận hành của chương trình Ariane 5. Theo Reuters , thiết bị phóng 3 tầng cao 53m chính thức rời bệ phóng của mình ở sân bay vũ trụ Kourou của Pháp trong sứ mệnh thứ 117 và cũng là nhiệm vụ cuối cùng lúc 7h tối giờ địa phương ngày 5/7. Nội dung trên một webcast trực tiếp cho thấy 2 vệ tinh liên lạc quân sự cũng được triển khai theo lịch trình ngay sau đó khoảng 30 phút. Nhận định về vụ phóng, Giám đốc điều hành Arianespace Stephane Israel cho : “Ariane 5 hiện đã kết thúc và Ariane 5 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình”. Vụ phóng ban đầu được lên kế hoạch vào ngày 16/6 nhưng đã bị trì hoãn do “sự dư thừa của một chức năng quan trọng trên Ariane 5”, theo một thông báo trên Twitter của Arianespace, nhà điều hành tên lửa. Tới ngày 23/6, ArianeGroup, nhà sản xuất phương tiện, đã công bố ngày ra mắt được cập nhật sau khi công ty thay thế 3 dây chuyền liên quan đến tên lửa đẩy rắn được xác định là có vấn đề. Nhiệm vụ đưa các vệ tinh Syracuse 4B của Pháp và Heinrich Hertz (H2Sat) của Đức lên quỹ đạo địa tĩnh đánh dấu 27 năm Ariane 5 phục vụ cho châu Âu. Trong khi đó, sứ mệnh kế nhiệm của nó là Ariane 6 đã bị trì hoãn vì lý do kỹ thuật cho đến năm 2024 mới đưa vào sử dụng. Trên thực tế, Châu Âu cho tới những năm gần đây vẫn luôn phụ thuộc vào tên lửa Ariane 5 và sức tải hơn 11 tấn của nó cho các nhiệm vụ hạng nặng, cũng như tên lửa Soyuz của Nga cho các tải trọng trung bình và Vega của Italy cho các sứ mệnh nhỏ. Tuy nhiên, Nga năm 2022 đã rút quyền truy cập Soyuz của châu Âu trong bối cảnh căng thẳng về Ukraine và các lệnh cấm vận áp đặt lên nước này trong khi tên lửa nâng cấp Vega C vẫn chưa thể cất cánh sau thất bại trong lần phóng thứ 2 vào tháng 12/2022. Tại thời điểm đó, sứ mệnh thất bại này thậm chí còn được người đứng đầu Cơ quan Vũ trụ châu Âu gọi là “khủng hoảng” phóng vào vũ trụ. Về phía Giám đốc điều hành Airbus, công ty đồng sở hữu nhà sản xuất ArianeGroup với Safran của Pháp, ông Guillaume Faury nhận định hồi tháng 6 trong khuôn khổ Diễn đàn Hàng không Paris rằng chính khoảng cách này đã làm nổi bật “sự dễ bị tổn thương” của châu Âu trong lĩnh vực không gian. Ông khẳng định mọi áp lực do đó đang “đổ dồn lên Ariane 6”. Lần phóng thử nghiệm đầu tiên của Ariane 6 dự kiến vào cuối năm nay tùy thuộc vào các cuộc thử nghiệm sẽ được thực hiện vào mùa hè. Vốn kế hoạch vận hành thương mại đầu tiên của tên lửa này sẽ được tiến hành vào năm tới. Ban đầu do Pháp, Đức và Vương quốc Anh dẫn đầu, dòng tên lửa Ariane của Châu Âu đi tiên phong trong các lần ra mắt thương mại nhưng hiện phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ SpaceX của Elon Musk. Động thái này đã thúc đẩy sự phát triển của Ariane 6 theo hướng rẻ hơn để có thể cạnh tranh tốt hơn với tên lửa Falcon 9. Quá trình phát triển dòng tên lửa này bắt đầu vào năm 1973, với chiếc Ariane 1 đầu tiên cất cánh vào năm 1979. Chuyến bay đầu tiên của Ariane 5 năm 1996 đã kết thúc thất bại khi tên lửa đi chệch hướng sau 40 giây và tự hủy. Tuy nhiên, tên lửa này cũng tham dự vào nhiều sự kiện quan trọng khi ra mắt, trong đó bao gồm vụ phóng Kính thiên văn James Webb vào năm 2021, hợp tác với NASA và Cơ quan Vũ trụ Canada, cũng như sứ mệnh Rosetta theo dõi sao chổi của Châu Âu – sứ mệnh đã triển khai tàu thăm dò hạ cánh vào năm 2014.
Tên lửa Ariane 5 của châu Âu thực hiện sứ mệnh cuối cùng
752
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. (Ảnh: Tư liệu). Theo thông tin từ nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã qua đời vào 5 giờ sáng nay 6/7, thọ 74 tuổi. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh năm 1949 tại Quảng Bình . Bà là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1978. Bà đã tham gia khóa đào tạo tại Học viện Gorki (Liên Xô cũ) và là ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III và IV. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ là tác giả của nhiều tác phẩm thơ, truyện thiếu nhi được độc giả nhiều thế hệ yêu thích, như “Trái tim sinh nở” (thơ, 1974); “Bài thơ không năm tháng” (thơ, 1983); “Danh ca của đất” (truyện thiếu nhi, 1984); “Nai con và dòng suối” (truyện thiếu nhi, 1987); “Phần thưởng muôn đời” (truyện thiếu nhi, 1987); “Hái tuổi em đầy tay” (thơ, 1989); “Nhạc sĩ Phượng Hoàng” (truyện thiếu nhi, 1989); “Mẹ và con” (thơ, 1994); “Đề tặng một giấc mơ” (thơ, 1998); “Cốm non” (thơ, 2005); Tuyển tập thơ và truyện thiếu nhi (2006); “Hồn đầy hoa cúc dại” (thơ, 2007); “Khoảng trời – Hố bom” (thơ, 1972); “Chuyện cổ nước mình” (thơ , 1978). Năm 2005, tập thơ Cốm non (Green rice) của bà được dịch ra tiếng Anh, in và phát hành tại Hoa Kỳ . Một số bài thơ của bà đã được in trong sách giáo khoa, tiêu biểu là bài “Chuyện cổ nước mình”. Trang trưng bày về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ và nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường tại Bảo tàng Văn học Việt Nam. (Ảnh: Bảo tàng Văn học Việt Nam). Trong sự nghiệp sáng tác, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ từng giành nhiều giải thưởng như: Giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1971-1973; Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam cho tập thơ “Bài thơ không năm tháng”; Giải A thơ của Ủy ban toàn quốc các Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1999; Giải A thơ Giải thưởng văn học Nghệ thuật Cố đô (1998-2004) của UBND tỉnh và Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế. Bài thơ “Khoảng trời và hố bom” được giải Nhất cuộc thi thơ trên Báo Văn nghệ năm 1971-1973, lúc nhà thơ vừa tròn đôi mươi. Năm 2007, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đoạt Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật với 3 tập thơ: “Trái tim sinh nở” (1974), “Bài thơ không năm tháng” (1983) và “Đề tặng một giấc mơ” (1988). Nói về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều viết: “Từ mấy chục năm trước, tôi đã gọi chị là một thiên thần bay xuống trần gian bởi gương mặt chị đẹp và thánh thiện, bởi tâm hồn chị trong sáng vô ngần và bởi những câu thơ của chị luôn vang lên như những khúc ca của yêu thương, dịu dàng và mang một đẹp mong manh nhưng đầy lan tỏa”.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ qua đời
512
Ngày Quốc tế Nụ hôn (Kissing day) được bắt nguồn từ nước Anh vào năm 2000. Năm nay Ngày Quốc tế Nụ hôn được diễn ra vào ngày Thứ 5 (6/7/2023) Mặc dù được gọi là Ngày Quốc tế Nụ hôn nhưng nhiều người không chỉ chạm môi với nhau mà sẽ dùng nhiều kiểu hôn khác nhau để thay thế, vừa thể hiện tình cảm mà còn tôn trọng đối phương. Mỗi nụ hôn sẽ mang đến một thông điệp với ý nghĩa khác nhau. Chính vì vậy, khi hôn đối phương, mỗi người sẽ lựa chọn cách hôn khác nhau sao cho phù hợp với mối quan hệ, mức độ tình cảm của cả hai cũng như cách mà họ muốn thể hiện thông điệp.
Ngày Quốc tế Nụ hôn 6/7: Ý nghĩa của các kiểu hôn
123
Một góc đảo Hòn Sơn. Ảnh: kgtv.vn. Hòn Sơn là một đảo nhỏ thuộc huyện Kiên Hải , tỉnh Kiên Giang với diện tích 11,5 km2, nằm cách thành phố Rạch Giá khoảng 65 km về phía Tây. Với nét đẹp còn hoang sơ, cùng với việc chú trọng xây dựng hình ảnh du lịch an toàn, thân thiện, đảo Hòn Sơn tạo được ấn tượng tốt đẹp với du khách gần xa khi đến tham quan. Đảo Hòn Sơn có sự quần tụ của 7 ngọn núi, trong đó cao nhất là đỉnh Ma Thiên Lãnh với chiều cao 450 m so với mực nước biển. Nhiều du khách trẻ khi đến với Hòn Sơn thường không bỏ qua hành trình chinh phục đoạn đường hơn 1.200 m đến đỉnh Ma Thiên Lãnh để ngắm toàn cảnh biển đảo, đến với những bãi biển đẹp, hoang sơ, nước biển xanh màu ngọc bích… Một số bãi biển được nhiều người biết đến ở Hòn Sơn là bãi Bàng, bãi Thiên Tuế, bãi Giếng, bãi Nhà, bãi Bấc… Những bãi biển này có bãi cát trắng dài, xen lẫn những bãi đá độc đáo, xung quanh là những rặng dừa xanh mát tạo nên những khung cảnh thơ mộng. Đến với Hòn Sơn, ngoài bơi lội và chụp ảnh, du khách còn có thể trải nghiệm các hoạt động lặn ngắm san hô và câu cá. So với một số đảo du lịch nổi tiếng ở tỉnh Kiên Giang như Phú Quốc, Nam Du, đảo Hòn Sơn được khai thác phát triển du lịch muộn hơn. Tuy nhiên, nơi đây có lượng khách đến tham quan, khám phá ngày càng tăng. Theo chia sẻ của nhiều du khách, điểm thu hút của Hòn Sơn chính là nét đẹp còn hoang sơ, giá cả các dịch vụ du lịch, ẩm thực khá bình dân. Du khách Trần Văn Sang, ngụ thành phố Châu Đốc , tỉnh An Giang chia sẻ: Đây là lần thứ 2 anh đến du lịch ở Hòn Sơn. Điều làm anh và nhóm bạn thích đến nơi đây chính là phong cảnh biển đảo còn hoang sơ. Không chỉ vậy, giá cả các dịch vụ nơi đây khá bình dân và người dân địa phương rất thân thiện, mến khách. Các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch ở Hòn Sơn thực hiện nghiêm các chủ trương, quy định của chính quyền địa phương, ngành Du lịch tỉnh Kiên Giang về xây dựng du lịch chất lượng, an toàn, thân thiện, nhằm góp phần phát triển bền vững ngành công nghiệp không khói này. Ông Huỳnh Minh Kha, quản lý Khu Du lịch Bãi Bàng, xã Lại Sơn cho biết: “Khu Du lịch Bãi Bàng đặt tiêu chí xây dựng và phát triển du lịch lâu dài nên coi trọng cung cách phục vụ khách, đồng thời kinh doanh đúng giá đã niêm yết. Ở đây, nguồn hải sản dồi dào, có sẵn ở địa phương tạo điều kiện cho Khu du lịch cung ứng với giá bình dân nhằm hấp dẫn du khách”. Đảo Hòn Sơn bắt đầu phát triển mạnh du lịch từ năm 2018 đến nay. Thống kê của ngành chức năng địa phương, trung bình mỗi năm, xã đảo này đón hơn 550.000 lượt khách. Đặc biệt, trong 6 tháng đầu năm 2023, lượng khách đến Hòn Sơn đạt hơn 450.000 lượt người. Du lịch Hòn Sơn phát triển, góp phần phát triển du lịch huyện Kiên Hải cũng như tỉnh Kiên Giang. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Lại Sơn Giang Văn Tài thông tin thêm, xác định du lịch là một trong những ngành thế mạnh để phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập cho người dân trên địa bàn, Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã đã và đang triển khai nhiều mặt công tác nhằm giúp du lịch phát triển bền vững. Xã tăng cường bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội; thường xuyên kiểm tra chất lượng các dịch vụ du lịch về giá cả, an toàn thực phẩm; tăng cường giữ gìn vệ sinh môi trường. Xã đã đề ra mục tiêu xây dựng du lịch Hòn Sơn văn minh, an toàn và thân thiện. Theo ông Bùi Quốc Thái, Giám đốc Sở Du lịch Kiên Giang, để phát huy tiềm năng, thế mạnh du lịch biển đảo trên địa bàn, ngành cần thực hiện nhiều giải pháp như nâng cao hiệu quả hợp tác, liên kết, xúc tiến, quảng bá, phát triển sản phẩm du lịch và hình thành, phát triển các tuyến du lịch biển đảo mới để kết nối Kiên Giang với các tỉnh, thành phố trong và ngoài nước. Ngành tăng cường tuyên truyền kết hợp kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành quy định của pháp luật về kinh doanh du lịch; quy định về giá, niêm yết giá, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, đảm bảo vệ sinh môi trường, an toàn, vệ sinh thực phẩm. Tỉnh tiếp tục đầu tư phát triển hạ tầng du lịch và nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, nhất là cơ sở lưu trú du lịch được đầu tư khá, đáp ứng nhu cầu nghỉ dưỡng, lưu trú cho du khách khi đến các đảo tham quan du lịch, trong đó tập trung ở các hòn đảo đang có nhiều tiềm năng du lịch như: Phú Quốc, Nam Du, Hòn Sơn, Hòn Tre,…Tỉnh tăng cường năng lực và phương tiện vận tải an toàn đến các vùng du lịch biển đảo. “Cùng với những giải pháp trên, ngành Du lịch tỉnh phối hợp với các huyện, thành phố xây dựng chương trình, chính sách khuyến mãi thu hút khách du lịch; phục vụ du khách với tinh thần trách nhiệm và thái độ văn minh, lịch sự, tận tâm. Ngành tiếp tục khảo sát các sản phẩm du lịch, đề xuất chính sách ưu đãi đầu tư, tạo môi trường đầu tư kinh doanh du lịch thuận lợi, thông thoáng cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Công tác đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao được tăng cường đi đôi với cải thiện, nâng cao chất lượng phục vụ du khách. Ngành đẩy mạnh truyền thông chính sách miễn visa cho khách du lịch quốc tế đến Phú Quốc để thu hút khách nước ngoài”, Giám đốc Sở Du lịch Kiên Giang Bùi Quốc Thái nhấn mạnh. Những định hướng đúng đắn, sự quan tâm sâu sát trong triển khai thực hiện nhiều mặt công tác của ngành chức năng, chính quyền địa phương, cùng tinh thần, trách nhiệm của những người làm du lịch chính là đòn bẩy thúc đẩy ngành công nghiệp không khói phát triển bền vững, góp phát triển kinh tế, xã hội của huyện Kiên Hải nói riêng, tỉnh Kiên Giang nói chung.
Khám phá nét đẹp hoang sơ của đảo Hòn Sơn
1,134
Sáu tháng đầu năm 2023, cả nước có 26 địa phương ghi nhận tăng trưởng GRDP trên 6,5%, trong đó Hậu Giang tăng trưởng GRDP cao nhất cả nước, đạt 14,21%. !function(e,i,n,s){var Theo Tổng cục Thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2023, cả nước có 59 tỉnh, thành phố ước đạt tăng trưởng dương và 4 tỉnh tăng trưởng âm, trong đó với tốc độ tăng trưởng GRDP 6 tháng đầu năm 2023 dự báo ước đạt 14,21%, tỉnh Hậu Giang tiếp tục khẳng định vị trí dẫn đầu khu vực vùng Đồng bằng sông Cửu Long và vươn lên đứng đầu cả nước./.
[Infographics] Tăng trưởng GRDP 6 tháng năm 2023 của 63 địa phương
101
Sạt lở nghiêm trọng tại Đà Lạt. Từ đầu năm 2023 đến nay, thiên tai đã làm 49 người chết, mất tích, 36 người bị thương, thiệt hại về kinh tế khoảng hơn 308 tỷ đồng. Theo báo cáo của Cục Quản lý Đê điều và Phòng chống thiên tai, tại Việt Nam, từ đầu năm đến nay đã chịu ảnh hưởng của 19/22 loại hình thiên tai trong đó đã xảy ra 1 Áp thấp nhiệt đới, 27 trận mưa lớn, ngập lụt, sạt lở đất; 148 trận dông lốc, sét, mưa đá; 211 vụ sạt lở bờ sông, 137 trận động đất và 2 đợt rét đậm, rét hại; 11 đợt gió mạnh, sóng lớn trên biển… Riêng từ đợt nghỉ lễ từ 29/4 – 3/5/2023, đã xảy ra dông lốc, mưa đá tại 8 tỉnh miền núi phía Bắc gây thiệt hại lớn về kinh tế ước tính khoảng 35 tỷ đồng. Đặc biệt mùa hè năm nay đến sớm, gay gắt và khốc liệt hơn trung bình nhiều năm. Từ tháng 3 đến tháng 5, xuất hiện nhiều đợt nắng nóng kỷ lục so với cùng kỳ những năm trước tại khu vực Tây Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Tính đến ngày 5/7, thiên tai đã làm 49 người chết, mất tích, 36 người bị thương, thiệt hại về kinh tế khoảng hơn 308 tỷ đồng (bằng 0,6 lần thiệt hại về người và 0,057 lần thiệt hại về kinh tế so với cùng kỳ năm 2022). Theo Cục Quản lý Đê điều và Phòng chống thiên tai, trong 6 tháng đầu năm 2023, mặc dù công tác quản lý điều hành, ứng phó với thiên tai đã đạt được nhiều kết quả tích cực nhưng vẫn còn tồn tại khó khăn, hạn chế như: Một số nhiệm vụ triển khai muộn hơn so với kế hoạch do phải tập trung xây dựng Đề án kiện toàn tổ chức bộ máy, sắp xếp lại tổ chức sau khi có quy định chức năng nhiệm vụ. Vướng mắc trong việc thực hiện các quy định về phân cấp quản lý tài chính dẫn đến một số nhiệm vụ thực hiện bị chậm tiến độ do thay đổi về quy mô tổ chức trong khi các văn bản phân cấp của Bộ cho Cục không còn hiệu lực nhưng các nhiệm vụ vẫn triển khai theo kế hoạch đã được phê duyệt. Tiến độ triển khai công tác khắc phục hậu quả thiên tai ở một số địa phương còn chậm, không dứt điểm mặc dù đã có quy định của pháp luật. Trình độ chuyên môn và kiến thức quản lý nhà nước của một bộ phận công chức trẻ còn hạn chế, chưa có thực tiễn; năng lực tham mưu, báo cáo chưa đáp ứng yêu cầu.
49 người chết và mất tích do thiên tai trong 6 tháng đầu năm 2023
467
Vật thể khổng lồ màu đỏ cam hiện ra trong dữ liệu thu thập bởi siêu kính viễn vọng không gian James Webb có thể chính là hình ảnh của thiên hà quái vật của chúng ta 5 tỉ năm sau. Kính viễn vọng không gian James Webb do NASA phát triển và điều hành chính vừa ghi nhận một thiên hà lạ lùng mang tên NGC 3256. Nó khổng lồ, có màu đỏ cam, xoáy cực gắt với các tua dài chứa đầy bụi và sao, tỏa sáng như một con bạch tuộc rực rỡ. Theo tờ Space, các nhà khoa học gọi nó là “đống đổ nát từ cuộc đụng độ của các Titan vũ trụ”. Titan là những vị thần khổng lồ sơ khai trong thần thoại Hy Lạp . Hai thiên hà cổ đại từng tạo nên NGC 3256 cũng vậy. NGC 3256 có thể là tương lai của cặp đôi “quái vật” Ngân Hà – Tiên Nữ – Ảnh: NASA. Nói cách khác, NGC 3256 dị biệt vì nó là tàn tích của một vụ sáp nhập thiên hà chưa quá lâu trước khoảnh khắc mà James Webb bắt được, khi thiên hà mới hình thành từ sự kiện đó hãy còn hỗn loạn. Màu cam đỏ của thiên hà trong hình ảnh vừa được NASA phát hiện là dấu hiệu của sự hình thành các ngôi sao trẻ mạnh mẽ, phát ra ánh sáng hồng ngoại. James Webb chính là một công cụ để nắm bắt tia hồng ngoại cực tốt từ không gian sâu. Thiên hà này cực lớn bởi là kết quả vụ đụng độ của hai thiên hà thuộc nhóm “quái vật” trong vũ trụ, tức to lớn giống thiên hà chứa Trái Đất Milky Way (Ngân Hà). “Nghiên cứu về những vụ va chạm vũ trụ này có thể cung cấp cho các nhà thiên văn rất nhiều điều về cách các thiên hà giống Ngân Hà của chúng ta phát triển bằng cách hợp nhất với các thiên hà khác” – các nhà khoa học NASA cho biết. Vì sự tăng trưởng thiên hà theo cách này cũng dẫn đến sự hợp nhất và lớn lên của các lỗ đen nên việc nghiên cứu thiên hà đỏ cam này cũng giúp giải quyết bí ẩn về các lỗ đen quái vật to lớn nhất, có thể to bằng hàng triệu cho đến hàng tỉ Mặt Trời. Với chúng ta, đó có thể là “cửa sổ thời gian” nhìn vào quá khứ lẫn tương lai: Ngân Hà được cho là đạt được kích thước khủng khiếp này nhờ trên dưới 20 vụ sáp nhập thiên hà. Trong tương lai, có 2 vụ sáp nhập được dự đoán là cuộc đối đầu với thiên hà vệ tinh Đám mây Magellan Lớn và thiên hà khổng lồ Tiên Nữ (Andromeda), xảy ra vào khoảng 2 tỉ và 4-5 tỉ năm sau. Trong đó, cuộc đụng độ Ngân Hà – Tiên Nữ được dự báo sẽ giống với sự kiện vừa được quan sát, bởi cả hai đều là những “Titan” trong thế giới thiên hà. Các vụ va chạm thiên hà thường không hủy hoại các thiên thể bên trong nó mà ngược lại còn kích thích hình thành sao mới mạnh mẽ, tuy nhiên cũng có khả năng cao nó làm thay đổi vị trí của hệ Mặt Trời và từng hành tinh bên trong hệ. Kịch bản không may được dự đoán là Trái Đất có thể bị văng khỏi “vùng sự sống” và bị tuyệt chủng, nếu như 5 tỉ năm sau sự sống vẫn còn tồn tại ở đây. Anh Thư
NASA vô tình chụp được tương lai của ‘quái vật’ chứa Trái Đất
593
Nhân kỷ niệm 75 năm ngày sinh (1948 – 2023) và 35 năm ngày mất (1988 – 2023) của tác giả Lưu Quang Vũ, từ ngày 22/7 đến ngày 31/8, tại sân khấu Nhà hát Kịch Việt Nam (số 1 Tràng Tiền, Hà Nội ) sẽ diễn ra chương trình nghệ thuật ‘Thói đời – Lưu Quang Vũ: Lăng kính, sân khấu và cuộc đời’, tri ân những đóng góp của ông cho nền sân khấu kịch nói nước nhà. Các nghệ sỹ biểu diễn 4 vở kịch đặc sắc của cố tác giả Lưu Quang Vũ gồm: “Bệnh sĩ”, “Người tốt nhà số 5”, “Nguồn sáng trong đời” và “Người trong cõi nhớ”. Cố tác giả Lưu Quang Vũ là hiện tượng đặc sắc của sân khấu thế kỷ XX. Ông là một trong những tác giả đã có công lớn trong việc tạo nên diện mạo cho sân khấu kịch, đưa loại hình nghệ thuật này lan tỏa sâu rộng vào đời sống văn hóa của người Việt, đặc biệt là những người yêu sân khấu. Những tác phẩm của ông chặt chẽ về kết cấu, đậm tính nhân văn, đặc biệt là tính dự báo. Những người làm sân khấu đều thừa nhận, tới thời điểm này vẫn chưa có nhà viết kịch Việt Nam nào vượt qua được tên tuổi Lưu Quang Vũ. Những vở kịch của Lưu Quang Vũ luôn toát lên vẻ giản dị mà thâm trầm, là sự đúc kết về những vấn đề muôn thuở của nhân loại như tình yêu, tình cảm gia đình, lẽ sống – chết, hạnh phúc và nhân cách con người… Những xung đột trong kịch luôn xoay quanh hỉ, nộ, ái, ố thường nhật; khó khăn mà ai cũng từng gặp phải; trăn trở, suy tư xuất phát từ chính mối quan hệ mật thiết giữa con người và xã hội trong thế giới nhân vật đa dạng, phong phú, đủ các hạng người… Tất cả được tổng hòa dưới lăng kính nghệ thuật riêng biệt, đậm chất Lưu Quang Vũ, được chuyển tải một cách tự nhiên vào tác phẩm. Trong đó, “Bệnh sĩ” là vở đạt doanh số biểu diễn kỷ lục, khán giả không chỉ được cười với các tình tiết, ngôn ngữ thoại vô cùng hài hước mà còn thấm được thói đời sĩ hão luôn tồn tại trong mọi thời đại. “Nguồn sáng trong đời” lại khiến người xem nghẹn lòng và rơi nước mắt về câu chuyện đấu tranh tư tưởng của kỹ sư Toàn trước cái chết khi mắc bệnh hiểm nghèo: Chết phải được toàn thây hay chết để đem lại nguồn sáng cho người khác? Hay những câu chuyện đầy ẩn ý với giá trị nhân văn sâu sắc trong vở “Người tốt nhà số 5”, “Người trong cõi nhớ”. Có thể nói, kịch Lưu Quang Vũ vừa khắc họa được những vấn đề lớn, có ý nghĩa xã hội, vừa chứa đựng những triết lý sâu sắc có khả năng tác động đến người xem theo phương thức riêng, mang đến giá trị riêng. Trong tất cả các tác phẩm kịch của Lưu Quang Vũ, dù xã hội đó có hỗn loạn, đen tối đến đâu thì vẫn tỏa sáng những giá trị tốt đẹp. Ông luôn để thế hệ trẻ được nhận ra và tiếp nối những giá trị ấy như cách mà anh thuyền trưởng trong “Bệnh sĩ” thoát ra khỏi sự lừa dối và quyết định sống đúng với bản thân mình; nhân vật Hiệp trong vở “Người tốt nhà số 5” dù có bị đuổi ra khỏi ngôi nhà chung vẫn chọn làm người tốt… Chương trình Nghệ thuật “Thói đời – Lưu Quang Vũ: Lăng kính, sân khấu và cuộc đời” góp phần tái hiện lại không gian nghệ thuật Lưu Quang Vũ, từ đó truyền tải những giá trị đạo đức và triết lý nhân sinh sâu sắc tới khán giả Thủ đô. Đây cũng là dịp khán giả có cơ hội được thưởng thức những tác phẩm để đời của ông, cùng sống lại ký ức đầy xúc cảm được tái hiện trên sân khấu Nhà hát Kịch Việt Nam.
Chương trình nghệ thuật tưởng nhớ tác giả Lưu Quang Vũ
691
Xung đột, biến đổi khí hậu và bất ổn tài chính đã khiến nhu cầu nhân đạo toàn cầu tăng lên mức kỷ lục, tuy nhiên, nguồn ngân sách eo hẹp đang là thách thức lớn. (Nhấp chuột vào ảnh để xem kích thước chuẩn) Để nhịp cầu nhân đạo tiếp tục được nối dài, Liên hợp quốc kêu gọi các nhà tài trợ tăng nguồn lực hỗ trợ, đồng thời khẳng định thế giới cần nỗ lực hơn nữa nhằm giải quyết tận gốc nguyên nhân dẫn đến các cuộc khủng hoảng./.
[Infographics] Khủng hoảng ngân sách cho hoạt động nhân đạo toàn cầu
91
Nhà văn Phùng Văn Khai. CHUYÊN MỤC TIẾNG NÓI NHÀ VĂN: Tôi đã quá đỗi bi ai khi đọc bài viết của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ về việc gia đình chị, khu phố ở đó bị cắt điện trong đỉnh điểm nắng nóng mùa hè. Chị kể từ thời bao cấp đã phải cơ hàn chịu tai ách thiếu thốn trăm bề, trong đó có điện. Thời bao cấp đã qua. Nhiều chục năm đã qua. Hôm nay, ngành điện bỗng như ông trời cúp cắt đông, tây, nam, bắc thỏa thích theo ý mình, bất chấp từ thượng tầng đến bách dân ra sao cũng là một chuyện lạ kỳ. Chúng ta, có lẽ nào phấn đấu đến hôm nay, để ngay như việc điện đóm cũng trở thành lệ thuộc tùy tiện như vậy. Ngành điện, nhiều trăm nghìn nhân công, tuyển dụng thế nào, sử dụng thế nào đều có vẻ như chuyện một chiều độc tôn của ngành. Nói trắng ra như một vị Đại biểu Quốc hội, chúng ta hoàn toàn có thể tiết chế chỉ còn một nửa số người trong ngành khỏi cồng kềnh mới có thể vững mạnh lưới điện quốc gia. Nhưng mọi chuyện đều như trò đùa, khi ngành điện công nhiên và khó hiểu đưa ra biểu đồ cắt điện toàn quốc các tỉnh, thành, quận, huyện như đúng rồi. Và cắt điện thật. Nhân dân mặc kệ. Doanh nghiệp mặc kệ. Sống chết mặc bay! Rồi thượng tầng lập tức có sự chấn chỉnh, đã kỷ luật, những người có trách nhiệm cao nhất đã phải đối diện với chất vấn, đối diện với hành lang pháp lý và pháp luật. Đó là một chỉ dấu trong xã hội văn minh. Tuy nhiên, trên các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội phản ánh, điện vẫn thiếu và vẫn mất một cách thường xuyên, không theo quy luật nào, càng không theo nguyên tắc mà tivi đã nói. Thì biết hỏi ai? Ngày trước, đã rất nhiều lần, các Đại biểu quốc hội đều như không tin vào mắt mình khi giá thịt lợn trên tivi một đằng, mà ra chợ mua về cho người thân ăn một nẻo, đến mức thiếu tướng Sùng Thìn Cò – Đại biểu Quốc hội đã mạnh mẽ phát biểu rằng: “ Muốn m ua thịt đúng giá hãy lên tivi mà mua”. Hội trường Quốc hội vỗ tay ầm ầm. Nước chảy mây trôi cũng không hề thuyên giảm. Khi cắt điện theo sự tính toán của ngành điện, đất nước đã vô cùng thiệt hại. Người đứng đầu ngành điện lập tức bị kỷ luật. Người dân hả hê. Báo chí dường như có những vùng đất khẳng định chủ quyền. Chính thể có băn khoăn không lại là một câu chuyện khác. Một sự thật không ai thống kê là niềm tin suy giảm không chỉ riêng về ngành điện, có điện hay không, cắt điện hay không, mà chính là tại sao ở một quốc gia trăm triệu dân, lại có thể xuất hiện những sự việc như vậy? Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ, trong sự hoảng hốt của mình khi đưa con về vùng nông thôn cách đây mấy chục năm đã sợ hãi về sự thiếu trách nhiệm với nhân dân trong đời sống thường nhật của họ, đến hôm nay đặt ra những câu hỏi, chờ đợi sự trả lời đã nhận về im lặng. Đó là do đâu? Chúng ta có lẽ nào không dám đặt ra những câu hỏi và trả lời câu hỏi? Đến bao giờ ngành điện trưởng thành? Một câu hỏi ngớ ngẩn? Một câu hỏi không ai có trách nhiệm trả lời? Một câu hỏi đổ xuống đầu quần chúng nhân dân? Một câu hỏi xe chỉ luồn kim đổ bừa lên trên, xuống dưới? Trùng trùng những câu hỏi có lẽ nào người ngành điện mũ ni che tai, vinh thân phì gia, ngậm miệng ăn tiền suốt đời im lặng? Ôi chao! Chúng ta còn hai khu vực mà không riêng gì ngành điện phải phục vụ, còn là tất thảy phải gánh vác đầu đuôi gốc rễ: Đó chính là phụ nữ và trẻ em. Phụ nữ và trẻ em không chỉ là niềm tin lẽ sống của chúng ta, còn là danh dự của chúng ta, còn là thể diện của chúng ta. Điện mất! Người bị phương hại đầu tiên chính là trẻ em. Chúng khóc. Chúng ta giải thích. Giải thích như thế nào đây? Đều là không thỏa đáng. Chẳng nhẽ nói dối cho ngành điện? Có lẽ nào tìm cách bịt mồm những câu hỏi bé bỏng? Hoặc như dùng tiền mua về một chiếc máy nổ, thắp sáng quạt mát chờ giờ có điện? Vô cùng nhiều phương án được những người hiểu biến và có trách nhiệm thực thi. Đó cũng là một câu chuyện bình thường. Nhưng còn những người khu vực khác? Những người chân lấm tay bùn không có tiền bạc, kiến thức cũng chỉ một hai, con cháu đang ốm sốt, cha mẹ già đang hấp hối, những đám cưới, đám ma mùa hè nóng nực cần phải có điện để xử lý công việc thông thường thì phải làm sao đây? Hỏi xã, hỏi huyện, hỏi tỉnh càng là mò kim đáy bể, miệng nói tai liền miệng đấy tự nghe oan ức nỗi gì? Câu chuyện cứ thế lan truyền đông, tây , nam , bắc. Âu cũng là lẽ cuộc đời trong cõi dương gian. Trách nhiệm của những người nắm giữ quyền lực ngành điện hiện nay đã và đang ở đâu? Các người này có bao giờ lắng nghe và thấu hiểu những cơ hàn thực tiễn muôn dân ngóc ngách phố phường đang phải đóng từng số điện? Người đứng đầu ngành điện đột nhiên đối diện pháp luật có khiến cho những người còn lại phải giật mình, biết rõ nặng nhẹ, lấy những bài học coi tiền làm kế sách tiến thủ trong bước đường phía trước chăng? Hay rút cục, cũng là kẻ trước người sau dẫm vào bước chân lấm láp của nhau, chìm đắm trong tiền tài bất chính? Ngành điện của chúng ta, phải thấy vẻ đẹp nhất chính là từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, không phải của riêng một cá nhân nào, một khu vực nào như hiện nay. Các anh, chị ngành điện, hãy đừng đổ lỗi cho ai, rào đón hoặc sợ sệt ai, càng không nuông chiều ai, nhất là nuông chiều đồng tiền thập thò hàng ngày quyến rũ các anh các chị mà dứt khoát đứng về phái nhân dân, đứng về phía những con người đã đổ mồ hôi và xương máu, tạo ra những dòng điện sáng. Vẫn biết rằng, trong những cuộc phải dứt bỏ quyền lợi về vật chất như vậy, nó sẽ vừa đớn đau, vừa mệt mỏi, nhưng có lẽ nào, các anh các chị không hướng tới sự nhân văn và trưởng thành của người Việt mà dấn bước. Xin chúc ơn các chị, các anh hãy mạnh mẽ bước qua! ———————–
Một bức tâm thư về ngành điện – Nhà văn Phùng Văn Khai
1,191
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại cuộc gặp mặt. Nhân kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2023), ngày 6/7, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã gặp mặt đoàn đại biểu người có công tiêu biểu tỉnh Nam Định . Thủ tướng cho biết, với trách nhiệm và nghĩa tình sâu nặng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ tiếp tục quan tâm, chăm lo để đời sống vật chất, tinh thần của người có công ngày càng đầy đủ và tốt đẹp hơn. Trải qua các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, hàng vạn người con ưu tú của quê hương Nam Định đã hăng hái lên đường tòng quân cứu nước; hàng chục nghìn người tham gia dân công hỏa tuyến, thanh niên xung phong phục vụ ở khắp các chiến trường, cùng quân và dân cả nước viết nên trang sử vẻ vang của dân tộc. Trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang đó, tỉnh Nam Định có trên 36.000 liệt sĩ; 2.902 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; trên 25.000 thương binh, 16.000 bệnh binh; trên 800 cán bộ lão thành cách mạng, tiền khởi nghĩa; gần 1.600 người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt, tù đày; trên 10.000 người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; với tổng số trên 200.000 người có thành tích tham gia kháng chiến đã được tặng thưởng huân chương, huy chương kháng chiến, bằng khen các loại. Phát biểu tại buổi gặp mặt, Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ vui mừng, xúc động được gặp mặt đoàn đại biểu người có công tiêu biểu tỉnh Nam Định – vùng đất “địa linh nhân kiệt”, quê hương của nhiều danh nhân văn hóa, chính trị, quân sự, trong đó có Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, cố Tổng Bí thư Trường Chinh. Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng trân trọng gửi tới các lão thành cách mạng, các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng Lực lượng vũ trang, các thương binh, bệnh binh, thân nhân gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng cả nước nói chung và tỉnh Nam Định nói riêng, lời thăm hỏi chân tình, những tình cảm sâu nặng và lòng biết ơn sâu sắc nhất. “Xác định vác ba lô lên đường là sẵn sàng hy sinh, nhiều người đã mãi mãi không trở về, máu thịt các anh, các chị đã hòa quyện vào sông núi. Nhiều hài cốt liệt sĩ chưa xác định được danh tính. Có người được may mắn trở về nhà nhưng đã để lại một phần thân thể của mình nơi chiến trường, hoặc bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam. Có không ít những đứa trẻ sinh ra trong hòa bình, nhưng phải chịu rất nhiều thiệt thòi, mang trong người di chứng nặng nề của chiến tranh mà không có gì bù đắp được” – Thủ tướng nói và nhấn mạnh, ngày hôm nay chúng ta được sống trong hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc bởi có sự hy sinh to lớn của lớp lớp các thế hệ cha anh đi trước, của hàng triệu người con ưu tú đã cống hiến trí tuệ, công sức, máu xương, anh dũng hy sinh cho sự nghiệp cách mạng cao cả của dân tộc. Thủ tướng khẳng định: Đảng, Nhà nước và nhân dân không bao giờ quên những người có công với Tổ quốc, với đất nước, luôn dành cho những người có công những tình cảm trân trọng, cao quý, nhân văn. Sự bù đắp dù có nỗ lực bao nhiêu cũng không thể bằng những hy sinh, mất mát to lớn của các anh hùng, liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, gia đình có công với cách mạng. Thủ tướng bày tỏ xúc động trước những cựu chiến binh, thương binh nặng đã nêu gương sáng trong cuộc chiến chống đói nghèo, lạc hậu, vươn lên làm giàu, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động, tích cực góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Đây thực sự là những tấm gương sáng về nghị lực, niềm tin, như lời Bác Hồ kính yêu từng căn dặn: “Thương binh tàn nhưng không phế”. Nhắc tới đời sống của một bộ phận thương bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, gia đình người có công với cách mạng còn khó khăn, Thủ tướng yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương, trong đó có tỉnh Nam Định tiếp tục phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, quán triệt sâu sắc và triển khai hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chỉ thị của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác người có công với cách mạng, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Bên cạnh đó, kế thừa và phát huy kết quả đã đạt được, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách, pháp luật đối với người có công, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn với tinh thần không có người có công nào không được hưởng chính sách ưu đãi. Thủ tướng yêu cầu, tiếp tục nghiên cứu, thực hiện việc nâng mức trợ cấp xã hội, trợ cấp ưu đãi phù hợp; tăng cường thu hút nguồn lực xã hội, đẩy mạnh phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”; góp phần bù đắp những mất mát, thiệt thòi của người có công và gia đình có công với cách mạng. Nhân dịp này, Thủ tướng mong muốn những thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, người có công với cách mạng tỉnh Nam Định nói chung, 40 đại biểu tiêu biểu có mặt tại buổi gặp mặt nói riêng tiếp tục phát huy truyền thống, phẩm chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, mãi là những tấm gương sáng, tích cực tham gia xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp. Thủ tướng mong những người có công tiếp tục đóng góp xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, vận động để nhân dân hiểu rõ, nắm vững và cùng nhân dân thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, giáo dục thế hệ trẻ tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của cha anh, của những người đi trước, luôn luôn đổi mới sáng tạo, thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, viết nên những trang sử vẻ vang mới, đưa đất nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu, xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Nhắc lại lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: Các chiến sĩ đã hy sinh xương máu để giữ gìn đất nước. Các chiến sĩ thật xứng đáng với Tổ quốc và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên những người con yêu quý như thế, Thủ tướng cho biết với trách nhiệm và nghĩa tình sâu nặng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ tiếp tục quan tâm, chăm lo để đời sống vật chất, tinh thần của người có công ngày càng đầy đủ và tốt đẹp hơn.
Tiếp tục quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người có công
1,251
Các nhà thiên văn học của NASA gần đây đã phát hiện ra một cấu trúc hình chữ thập giống như cây thánh giá nằm ở trung tâm của thiên hà. Sử dụng kính viễn vọng và công nghệ tiên tiến, các nhà khoa học của NASA đã liên tục quan sát không gian rộng lớn và làm sáng tỏ những bí ẩn của vũ trụ. Trong số vô số những kỳ quan thiên thể, việc phát hiện một cấu trúc hình chữ thập ở giữa thiên hà nổi bật như một khám phá hấp dẫn. Cấu trúc hình chữ thập, bao gồm bụi và khí vũ trụ, kéo dài một khoảng cách đáng kinh ngạc – hàng nghìn năm ánh sáng. Hình dạng đặc biệt của nó giống với biểu tượng cây thánh giá của Cơ đốc giáo, gợi lên sự tò mò và kinh ngạc giữa các nhà khoa học và công chúng. Khám phá của NASA đã mở ra một lĩnh vực khám phá mới, khi các nhà thiên văn bắt tay vào nhiệm vụ giải mã nguồn gốc, thành phần và các lực cơ bản đã hình thành nên cấu trúc đặc biệt này. Bản chất liên ngành của cuộc điều tra tập hợp các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm vật lý thiên văn, vũ trụ học và nghiên cứu tôn giáo, thúc đẩy nỗ lực hợp tác để làm sáng tỏ những bí ẩn của hiện tượng thiên thể này. Bức ảnh được chụp bởi Kính viễn vọng Không gian Hubble của NASA, cho thấy một cấu trúc hình chữ thập trong không gian sâu thẳm trông giống như một cây thánh giá. Theo hubblesite.org, nơi công bố hình ảnh đầu tiên, hình chữ thập là do “sự hấp thụ của bụi và đánh dấu vị trí chính xác của một lỗ đen” hình thành. Việc xác định một cấu trúc hình chữ thập ở giữa thiên hà đã làm dấy lên một loạt giả thuyết và suy đoán về nguồn gốc và ý nghĩa có thể có của nó. Một số nhà khoa học đề xuất rằng sự hình thành có thể là hệ quả của các quá trình vật lý thiên văn tự nhiên, chẳng hạn như sự tương tác của từ trường và nhiễu loạn vũ trụ. Những người khác lại cho rằng cấu trúc đặc biệt này là dấu hiệu của sự đối xứng vũ trụ. Ngoài các giải thích khoa học, cấu trúc hình chữ thập cũng đã khuấy động các cuộc thảo luận trong công chúng. Một số coi nó như một dấu hiệu hoặc biểu tượng vũ trụ, thúc đẩy những phản ánh về sự giao thoa giữa khoa học và tâm linh. Sự hội tụ giữa khám phá khoa học và chiêm nghiệm siêu hình này bổ sung thêm một khía cạnh hấp dẫn cho việc khám phá liên tục ý nghĩa của cấu trúc. Trong khi các lý thuyết tiếp tục xuất hiện, điều quan trọng là phải tiếp cận khám phá này với sự nghiêm túc khoa học và tinh thần cởi mở. NASA và các cộng tác viên của mình đang tiến hành các quan sát, mô phỏng và phân tích dữ liệu mở rộng để phân biệt các cơ chế cơ bản chịu trách nhiệm cho sự hình thành của giao thoa vũ trụ quyến rũ này. Cuộc điều tra tỉ mỉ nhằm mục đích làm sáng tỏ các quá trình vật lý và hiện tượng vũ trụ đã tạo nên cấu trúc bí ẩn này. Cấu trúc chữ thập được tìm thấy bởi Kính viễn vọng Hubble của NASA. Các nhà thiên văn học sử dụng kính viễn vọng MeerKAT tại Đài thiên văn vô tuyến Nam Phi ở Cape Town, Nam Phi , đã phát hiện ra rằng hình dáng thật của cấu trúc này là “hình chữ X”. Các nhà thiên văn học giài thích rằng trên thực tế có nhiều thiên hà hoạt động mạnh và có các luồng sóng vô tuyến khổng lồ kéo dài đến tận không gian giữa các thiên hà. Thông thường chúng có 2 luồng sóng vô tuyến sẽ đi ngược chiều nhau và được một hố đen khổng lồ ở giữa thiên hà cung cấp năng lượng. Tuy nhiên, một số phức tạp hơn và dường như có bốn tia và tạo thành chữ ‘X’ trên bầu trời. Điều này được hình thành nhờ vào 3 nguyên nhân chính. Đầu tiên có thể là do biến đổi chiều quay của hố đen ở trung tâm thiên hà trong hàng triệu năm, thứ hai là do trung tâm của cấu trúc có hai hố đen mà mỗi hố lại liên kết với một cặp tia vô tuyến, hoặc lý do có thể là vật chất rơi ngược trở lại thiên hà bị chệch hướng và hình thành 2 nhánh của chữ ‘X’. Bức ảnh cho thấy thiên hà chữ ‘X’ PKS 2014-55 có các tia vô tuyến chĩa ra các hướng, trong đó các tia trẻ hơn ở gần hố đen trung tâm hơn và vùng chịu ảnh hưởng của các ngôi sao và khí ở thiên hà trung tâm. Mũi tên uốn cong biểu thị hướng của dòng chảy ngược hình thành nên các thành tố theo đường nằm ngang của chữ ‘X’. Việc phát hiện ra cấu trúc hình chữ ‘X’ ở giữa thiên hà có ý nghĩa to lớn đối với sự hiểu biết của chúng ta về vũ trụ. Bằng cách nghiên cứu các tính chất và đặc điểm của sự hình thành, các nhà khoa học có thể thu được những hiểu biết có giá trị về sự tiến hóa của các thiên hà, động lực học của bụi và khí vũ trụ cũng như sự tương tác phức tạp của các lực vũ trụ. Để làm sáng tỏ thêm những bí mật của cấu trúc đặc biệt này, NASA và các cơ quan vũ trụ quốc tế đang lên kế hoạch cho các sứ mệnh và chiến dịch quan sát trong tương lai. Những sáng kiến này nhằm mục đích thu thập dữ liệu bổ sung, tinh chỉnh các mô hình hiện có và tiết lộ những hiểu biết mới về hiện tượng vũ trụ. Bằng cách sử dụng các công cụ tiên tiến và đài quan sát trong không gian, các nhà khoa học hy vọng sẽ tìm hiểu sâu hơn những bí ẩn của cấu trúc đầy cảm hứng này. Việc NASA phát hiện ra một cấu trúc đặc biệt này ở giữa thiên hà đánh dấu một cột mốc quan trọng trong hành trình khám phá vũ trụ của chúng ta. Khám phá này thu hút trí tưởng tượng, truyền cảm hứng cho cả nghiên cứu khoa học. Nguồn: Historyofyesterday; Sci.news
NASA phát hiện cấu trúc giống như cây thánh giá ở giữa thiên hà
1,119
Hơn 40 năm làm thơ, với hàng chục tập thơ là khoảng thời gian không phải ngắn, Huy Trụ đã để lại một gia tài khá đồ sộ. Anh đã gặt hái được nhiều thành công và có những đóng góp không nhỏ trên văn đàn thi ca Việt Nam. Bạn đọc biết đến thơ anh với nhiều cung bậc cảm xúc. Mới đây Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã ấn hành tập thơ: “Buồn vui con chữ”, tập hợp, đúc kết cả một đời sáng tác thi ca đặc sắc nhất của anh. Có rất nhiều bài viết của nhiều tác giả giới thiệu thơ anh đến với bạn đọc trong nước và quốc tế; tất cả hầu như đều có chung một nhận xét: Thơ Huy Trụ rõ nét với hai nguồn cảm hứng chủ đạo, đó là tụng ca và tự bạch. Về mặt hình thức, Huy Trụ viết nhiều, viết hay, tìm tòi cách biểu đạt phong phú ở tất cả thể loại thơ, nhưng đặc sắc nhất vẫn là thơ lục bát. Trong tập thơ này độ phủ sóng của thể thơ lục bát vẫn là rộng khắp. Đối tượng xao động nhiều nhất trong sáng tác của Huy Trụ là nhân vật “em” với nhiều cung bậc trữ tình. Bởi thế mà anh luôn nói được cái riêng chung để người đọc thấy có một phần mình trong đó. Đồng thời, tính triết lý trong thơ Huy Trụ nặng sự trải nghiệm, nhiều câu thơ gây được ấn tượng mạnh với người đọc. Anh xác tín nỗi ưu tư ấy bằng niềm yêu rất mãnh liệt; đó là niềm yêu được chạm tận đáy đời sống lứa đôi: “Mới hay dẫu chỉ một ngày/ Không em, nửa trái đất này chung chiêng” (Một ngày). Và Huy Trụ đã đi hết mình với phức điệu của cảm xúc ấy: “Mới hay còn chút tơ lòng/ Vẫn dăng mắc, vẫn thầm mong đợi người” (Tơ lòng). Nỗi niềm trong thơ còn đan bện trong tầng sâu, ẩn mật của tư duy triết luận đã làm bệ phóng nghệ thuật thơ anh: bay bổng, lãng mạn mà chắt lọc, suy tư; giản dị, đời thường mà cảm động sâu sắc: “Tóc em thả suốt dọc đường/ Để anh toàn nhặt nỗi buồn vu vơ/ Nỗi buồn đứt nối câu thơ/ Nuôi anh sống với gió mưa một đời”. Ngay trang thơ đầu tiên, ta bắt gặp 6 câu thơ ẩn chứa triết lý, suy ngẫm: “Sợ gì ghế thấp… ghế cao/ Khi nằm xuống cỏ… ghế nào cũng xanh/ Sông đau cuộn thác… dâng ghềnh/ Người đau… con mắt coi khinh cả trời!…”. Thơ Huy Trụ luôn mượt mà bay bổng nhưng khi viết về địa danh “Sông Mã xanh” thì thơ anh biến tấu, thay đổi, làm mới, biến chúng thành của riêng mình: “Chiều nay sông Mã rất xanh/ Con sông vốn rất hiền lành như ai…/ Bể dâu mấy thuở lở bồi/ Đời sông chẳng khác đời người lênh đênh”. Anh tìm chữ giống như tìm vàng, dày công đãi cát và khi đã gặp, nó làm cho câu thơ rực sáng, găm vào trí nhớ người đọc, khiến người đọc day dứt: “Thơ là rượu của thế gian/ Phải đâu nước lã… rót tràn mời nhau/ Để đời nhớ được một câu/ Bạc đầu người viết… chắc đâu đã thành” (Gửi bạn làm thơ). Mặt khác, thơ Huy Trụ luôn có chiều sâu cảm xúc, chủ đề đa dạng, thơ anh luôn có sự vận động con chữ tạo hình mới lạ. Đó là hình ảnh với sắc màu có chiều sâu gây ấn tượng. Có lúc trải hồn quê bên dòng sông hiền hòa, là con đê cỏ, là bánh đúc, bánh đa… Người đọc bị cuốn hút theo cảm xúc khi tác giả “vẽ” nơi lưu giữ hồn làng như bảo tàng thơ vậy: “Làng là bánh đúc, bánh đa/ Là con đê cỏ vắt qua cánh đồng/ Làng là một quả táo chua/ Thương cho Thị Kính quét chùa, chịu oan”. Bởi vậy, ai nấy đều tìm thấy quê mình ở một góc bức tranh ấy. Quê hương: nơi dòng sông hiền hòa xanh trong ấy, nhiều phen vật vã gồng mình trong giông bão: “Chả bao giờ sông thầm lặng em ơi/ Cả những lúc lòng sông phơi trắng cát/ Không sóng nổi chồm bờ thì sóng ngầm xoáy đất/ Đừng thấy trăng lên lơ đễnh gác con sào” (Sông Mã). Trong không gian thơ anh luôn hướng nội với ánh diện đa chiều. Phần thơ thế sự của anh luôn có bức xạ của ngọn lửa thấm đẫm chất nhân sinh. Tôi bị ám ảnh với những câu thơ trong bài: Về với Xứ Thanh. “Một lần về với Xứ Thanh/ Nghe sông Mã khúc độc hành “Huầy dô”/ Rừng gió cuộn, biển sóng xô/ Một đời dân, mấy đời vua mới thành”. Tính tượng trưng thi ca của Huy Trụ mỗi lúc một rõ rệt. Chính vì thế thơ anh luôn có một sắc diện riêng trong cấu tứ. “Ghế quyền chức, bã hư danh/ Hiền tài hun đúc soi mình vượt lên…/ Bạc tiền loáng ánh phù vân/ Bao nhiêu mặt đất níu chân mặt người”. Các chủ đề về tình yêu, hạnh phúc, vẻ đẹp thiên nhiên, quê hương, đất nước là dòng chảy xuyên suốt trong thơ anh. Từ mạch nguồn ấy, cha mẹ, quê hương luôn là niềm thi hứng lớn lao cho anh. Trong không gian nghệ thuật của Huy Trụ còn là ẩn dụ suy tư và chiêm nghiệm, cảm xúc thơ dâng đầy từ bản thể nhưng có giá trị triết mỹ về nghệ thuật cao. Quan trọng hơn, từ đó gợi lên vẻ đẹp về niềm tin mà thi ca mang đến cho con người; nhà thơ xác tín: “Cái danh đâu chỉ mà chơi/ Càng không thể để tiếng cười điêu toa…/ Chả chi cũng gọi là nhà/ Cái hương phải thật, cái hoa phải nồng” (Ngôi chùa). Có lẽ trong tất cả các nhà thơ viết về sông Mã, Huy Trụ là người mang trong mình niềm trắc ẩn thầm kín sâu xa nhất. Và đáng chú ý nhất là sự bay bổng và đầy mê đắm về nhân tình thế thái và tình yêu; được thoát ra từ một hồn thơ đa cảm mà rất đỗi tinh tế. “Sông Mã” đã khắc họa một cái tôi trữ tình đậm chất Huy Trụ, một tình yêu với quê hương đất nước. Cái tôi ấy trong bài thơ nhận được nhiều sự đồng cảm dâng trào, sẻ chia của bạn đọc. Trong những cung bậc nhân thế ấy, ta thực sự trân trọng một tài hoa, một tâm hồn như nhà thơ Huy Trụ. Và anh nổi tiếng một thời về bài thơ “Sông Mã”, của xứ Thanh: “Một tiếng “huầy dô” xô con đò dọc/ Người trên bờ cũng ướt đẫm mồ hôi…/ Chả bao giờ sông bình lặng em ơi/ Cả những lúc lòng sông phơi trắng cát/ Không sóng chồm bờ thì sóng ngầm xoáy đất/ Đừng thấy trăng lên, lơ đễnh gác con sào…”. Không dừng lại ở đó, Huy Trụ đúc kết và nâng lên chiều sâu triết luận: “Đã sống đất này, dám chấp nhận cùng nhau/ Một câu nói nửa rừng, nửa biển…/ Đi hết lòng nhau để cùng đến bến/ Khúc sông sâu, bồi lở thường tình…/ Riêng một điều em nhận ở đất Thanh/ Cái giàu có ẩn trong từng con sóng/ Nên dòng sông trước khi ra biển rộng/ Hắt lên tay người, bão lũ với phù sa” (Sông Mã). Có thể nói, đây là bài thơ mang cảm hứng ngợi ca quê hương, đất nước, là sự khắc nghiệt của dòng sông, cũng như giá trị văn hóa rất riêng của người Thanh Hóa với nhiều chiêm cảm đời thường và dự cảm trước hiện thực của cuộc sống… Có nhiều nhà lý luận phê bình đã viết, đọc thơ Huy Trụ mới biết anh là thi sĩ si tình, luôn soi rọi ngóc ngách tâm hồn, những dáng hình của người đẹp: “Ào xuống nước thả vai trần em tắm/ Thịt da nào sánh với thịt da em”… Khi thì viết: Em đẹp quá để ta thành ngơ ngẩn/ Cúc mùa thu vàng tím cả sang đông”. Trên một bình diện khác, Huy Trụ đã bước vào thi đàn bằng một tâm hồn đa sầu, đa cảm của cái tôi trong sáng, đắm say, bừng sáng thanh âm thành thực của con tim: “Nửa đời buộc nắng cho thơ/ Buộc trăng cho gió, buộc đò cho sông/ Buộc hương cho những cánh đồng/ Buộc em cho sợi tơ lòng ngổn ngang” (Gom nhặt mà yêu). “Buồn vui con chữ” của Huy Trụ không quá đỗi ồn ào với những trải nghiệm mới mẻ của thi ca. Sự sáng tạo của anh nằm ở sự tự nhiên của cảm xúc, sự thôi thúc của cõi lòng. Mê đắm trong nguồn nội cảm ấy nên thơ anh da diết, cháy bỏng, gần gũi, bình dị, đời thường. Mỗi bài thơ của anh là một lát cắt, tâm trạng, suy tư. Những câu thơ cất lên từ tiếng lòng chân thành khiến mọi thứ xung quanh hay một khoảnh khắc đều có thể thành thơ. Không có vẻ đẹp nào bằng vẻ đẹp của tâm hồn đang yêu: “Một lần em, một lần anh/ Cái vu vơ nhất cũng thành câu thơ/ Nửa đời đi ngẩn vào ngơ/ Anh như hoa dại vật vờ tay em…”. Thơ ca như một dòng sông chở nặng phù sa bồi đắp cho cuộc sống tốt tươi. Đó cũng là mạch nguồn chảy dài suốt chặng đường thi ca mà Huy Trụ tôn thờ. Từ sâu nhất trong tôi, luôn luôn nghĩ anh là một thi sĩ có chân tài, một nhà thơ lớn. Chúc cho anh tiếp tục gặt hái được nhiều thành công hơn nữa trên con đường sáng tác thi ca của mình.
Nửa đời buộc nắng cho thơ – Tác giả: Triều Nguyệt
1,672
Tảng đá này có gì đặc biệt mà giá của nó lại khủng như vậy? Năm 1989, một người ở Blaubeuren, thuộc vùng Swabia, nước Đức đang đào rãnh đặt cáp trong vườn nhà bất ngờ tìm thấy một tảng đá lớn. Ban đầu, người đàn ông định vứt bỏ tảng đá cản trở này. Thế nhưng, nó quá nặng và rất khó vận chuyển, vì thế ông ta đã lăn nó tới góc vườn và đặt nó ở đó. Người đàn ông bỏ quên mất tảng đá này ở đây trong suốt nhiều năm. Mãi tới năm 2015, ông mới chợt nhớ tới tảng đá đó. Lúc này, tảng đá bị mưa gió bào mòn không ít. Sau đó, ông đã dùng xe kéo chuyển nó xuống tầng hầm nhà mình. Tảng đá được tìm thấy trong vườn của người đàn ông bị bỏ quên trong hơn 30 năm. (Ảnh: DLR). Tới tận tháng 1 năm 2020, trong một lần tình cơ gặp gặp Heike Rauer, Giám đốc Viện Nghiên cứu Hành tinh tại Trung tâm Hàng không Vũ trụ Đức (DLR) và Jürgen Oberst, người giám sát Mạng cầu lửa châu Âu cùng Dieter Heinlein, chuyên gia về thiên thạch của DLR, ông đã kể về tảng đá của mình. Ông lấy một mảnh vỡ nặng 23,4 gram từ tảng đá và gửi tới chuyên gia. Theo Dieter Heinlein, chuyên gia về thiên thạch, chỉ cần nhìn bằng mắt thường ông nhận thấy trên bề mặt của mảnh vỡ có sự hiện diện của sắt. Vị chuyên gia dùng chiếc cưa kim cương cắt nhỏ nó ra. Thứ tìm được bên trong mảnh vỡ khiến ông vô cùng kinh ngạc. Bên trong mảnh vỡ là ma trận của các chondrule với kích thước milimet. Chondrule là loại hạt tròn thường được tìm thấy trong một Chondrit. Chondrule được tạo thành từ silicat, kim loại và sunfua và chúng dường như hình thành dưới dạng các giọt nóng chảy ở nhiệt độ cao trong tinh vân Mặt Trời sơ khai. Chondrit được hình thành từ cách đây khoảng 4,56 tỷ năm khi nhiều loại bụi và hạt nhỏ có mặt từ đầu trong Hệ mặt trời , tụ lại tạo thành các tiểu hành tinh cổ xưa, tuy nhiên là loại tích tụ có kích thước đủ nhỏ để không ở trạng thái tan chảy. Có thể thấy, tảng đá mà ông lão tìm thấy là khối thiên thạch có tuổi đời lên tới hàng tỷ năm. Trong con mắt của các nhà khoa học, nó là “trầm tích vũ trụ” chứa rất nhiều thông tin về Hệ mặt trời hình thành thế nào. Hóa ra tảng đá này là một khối thiên thạch trị giá hàng triệu USD. (Ảnh: DLR). Sau khi kiểm tra kỹ lưỡng, khối thiên thạch được xác nhận trọng lượng lên tới hơn 30kg. Nó được công nhận là khối thiên thạch lớn nhất được tìm thấy ở Đức. Các chuyên gia đã đặt tên cho khối thiên thạch là “Blaubeuren” theo vị trí mà nó rơi xuống. Họ cũng cho biết thêm “Blaubeuren” là kết quả của một vụ va chạm dữ dội trong vũ trụ. Tảng thiên thạch này còn được định giá lên tới 5 triệu USD (hơn 115 tỷ đồng). Nó đang được trưng bày tại Bảo tàng Tiền sử Đức. (Nguồn: DLR)
Đào vườn đụng trúng tảng đá, hóa ra là khối thiên thạch trị giá hàng triệu USD
550
Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Ảnh: Thanh Vũ/TTXVN. Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã ký ban hành Nghị quyết số: 98/2023/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP Hồ Chí Minh . Nghị quyết này quy định thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP Hồ Chí Minh về quản lý đầu tư; tài chính, ngân sách nhà nước; quản lý đô thị, tài nguyên, môi trường; ngành, nghề ưu tiên thu hút nhà đầu tư chiến lược vào Thành phố; quản lý khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; tổ chức bộ máy của chính quyền Thành phố và thành phố Thủ Đức. Về quản lý đầu tư, Hội đồng nhân dân Thành phố quyết định bố trí vốn đầu tư công để hỗ trợ giảm nghèo, giải quyết việc làm thông qua việc giao Ủy ban nhân dân Thành phố ủy thác cho Ngân hàng Chính sách xã hội chi nhánh TP Hồ Chí Minh thực hiện chính sách cho vay hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, giải quyết việc làm. Hội đồng nhân dân Thành phố quy định tiêu chí, điều kiện, mức, nội dung, hình thức và thời gian hỗ trợ. Về thí điểm mô hình phát triển đô thị theo định hướng phát triển giao thông công cộng (TOD): Hội đồng nhân dân Thành phố quyết định sử dụng ngân sách địa phương để triển khai dự án đầu tư công độc lập nhằm thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các dự án đầu tư theo đồ án thiết kế đô thị riêng, đồ án quy hoạch đô thị vùng phụ cận các nhà ga thuộc các tuyến đường sắt được cấp có thẩm quyền phê duyệt, vùng phụ cận các nút giao thông dọc tuyến đường Vành đai 3 thuộc địa phận Thành phố để thu hồi đất, chỉnh trang, phát triển đô thị, thực hiện tái định cư, tạo quỹ đất để đấu giá lựa chọn nhà đầu tư các dự án đầu tư phát triển đô thị, thương mại, dịch vụ theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục đầu tư, xây dựng đối với dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được thực hiện theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục của dự án đầu tư công nhóm A theo tiêu chí quy định của pháp luật về đầu tư công. Đối với vùng phụ cận các nhà ga, các nút giao thông, Ủy ban nhân dân Thành phố được quyết định điều chỉnh mật độ xây dựng, chỉ tiêu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội so với quy định tại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch xây dựng đối với khu vực đô thị hiện hữu nhưng phải bảo đảm đáp ứng về hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và các chỉ tiêu quy hoạch kiến trúc được xác định trong nội dung đồ án quy hoạch phân khu, quy hoạch chung Thành phố. Việc thu hồi đất đối với các dự án phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây: dự án đã được phê duyệt chủ trương đầu tư và thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn của Thành phố; vị trí, ranh giới, diện tích đất thu hồi của dự án trong vùng phụ cận đã được xác định trong đồ án quy hoạch đô thị, đồ án thiết kế đô thị riêng, quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện. Về các dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (dự án PPP), ngoài các lĩnh vực đầu tư theo phương thức đối tác công tư quy định tại Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Thành phố được áp dụng đầu tư theo phương thức đối tác công tư đối với các dự án đầu tư trong lĩnh vực thể thao và văn hóa. Trình tự, thủ tục thực hiện các dự án quy định tại điểm này thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công tư và quy định khác của pháp luật có liên quan. Quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án PPP trong lĩnh vực y tế, giáo dục – đào tạo, thể thao và văn hóa do Hội đồng nhân dân Thành phố quy định. Thành phố được áp dụng loại hợp đồng xây dựng – vận hành – chuyển giao (hợp đồng BOT) đối với dự án đầu tư xây dựng nâng cấp, mở rộng, hiện đại hóa công trình đường bộ hiện hữu, phù hợp theo quy hoạch được phê duyệt đối với loại đường phố chính đô thị, đường trên cao. Về tài chính, ngân sách nhà nước, Nghị quyết quy định: Hội đồng nhân dân Thành phố quyết định áp dụng trên địa bàn: phí, lệ phí chưa được quy định trong Danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí; điều chỉnh mức hoặc tỷ lệ thu phí, lệ phí đã được cấp có thẩm quyền quyết định đối với các loại phí, lệ phí được quy định trong Danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí, trừ án phí, lệ phí Tòa án và các loại phí thuộc nguồn thu của ngân sách trung ương hưởng 100%. Ngân sách Thành phố được hưởng 100% số thu tăng thêm từ các khoản thu do việc điều chỉnh chính sách phí, lệ phí để đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội và các nhiệm vụ chi khác thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách Thành phố; các khoản thu này không dùng để xác định tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách Thành phố. Việc thí điểm thực hiện chính sách phí, lệ phí trên địa bàn Thành phố phải bảo đảm có lộ trình, phù hợp với khả năng và yêu cầu phát triển của Thành phố; tạo môi trường sản xuất, kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp; bảo đảm sự thống nhất của thị trường, không cản trở lưu thông hàng hóa, dịch vụ; thực hiện điều tiết hợp lý đối với hàng hóa, dịch vụ và nguồn thu nhập hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên địa bàn Thành phố; bảo đảm công khai, minh bạch, cải cách hành chính nhà nước. Căn cứ dự toán ngân sách nhà nước hằng năm đã được Quốc hội quyết định, Thủ tướng Chính phủ giao và tình hình thực tế của Thành phố, Hội đồng nhân dân Thành phố quyết định dự toán, phân bổ ngân sách Thành phố bảo đảm phù hợp với định hướng cơ cấu lại ngân sách nhà nước, phát triển kinh tế – xã hội và các lĩnh vực quan trọng theo quy định của Quốc hội và Chính phủ. Thành phố thực hiện cơ chế tạo nguồn thực hiện cải cách tiền lương theo quy định. Liên quan đến tổ chức bộ máy chính quyền của Thành phố, Nghị quyết nêu rõ: Hội đồng nhân dân Thành phố thành lập Sở An toàn thực phẩm là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Sở An toàn thực phẩm trên cơ sở chuyển chức năng quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm, việc cấp giấy chứng nhận kiểm dịch sản phẩm động vật ra khỏi địa bàn Thành phố từ Sở Y tế, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công Thương cho Sở An toàn thực phẩm. Ủy ban nhân dân huyện thuộc Thành phố có không quá 3 Phó Chủ tịch. Đối với phường, xã, thị trấn có quy mô dân số từ 50.000 người trở lên thì Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn có không quá 3 Phó Chủ tịch. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/8/2023. Nghị quyết số 54/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội hết hiệu lực kể từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành.
Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP Hồ Chí Minh
1,420
Để thu hút du khách quốc tế, nhiều quốc gia Đông Nam Á đã xây dựng, thiết kế các slogan (khẩu hiệu) du lịch cùng biểu tượng riêng nhằm quảng bá du lịch một cách ấn tượng và hiệu quả nhất. (Nhấp chuột vào ảnh để xem kích thước chuẩn). Slogan của du lịch Việt Nam là Timeless Charm (Vẻ đẹp bất tận) trong khi của Thái Lan là Amazing Thailand (Thái Lan diệu kỳ), của Malaysia là Malaysia Truly Asia (Malaysia, một châu Á đích thực)./.
[Infographics] Slogan du lịch của các quốc gia Đông Nam Á
85
Nắng nóng tại Miami, Florida, Mỹ, ngày 26/6/2023. Ảnh minh họa: AFP/TTXVN. Mỹ tiếp tục hứng chịu thời tiết khắc nghiệt khi dông bão, hỏa hoạn nghiêm trọng và sóng nhiệt hoành hành ở hầu hết các khu vực trên cả nước. Dông mạnh kèm theo mưa đá lớn và lốc xoáy được dự báo sẽ xuất hiện trên khắp khu vực đồng bằng High Plains miền Tây nước Mỹ trong ngày 6/7. Theo Cơ quan Thời tiết quốc gia Mỹ (NWS), hiện tượng thời tiết này sẽ mở rộng sang khu vực đồng bằng Trung và Nam của nước này với lượng mưa được dự báo sẽ vượt mức an toàn. Nền nhiệt tiếp tục gia tăng trên khắp khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương trong tuần này. Cơ quan chức năng Mỹ ngày 6/7 đã đưa ra cảnh báo nhiệt độ cao và nắng nóng gay gắt tại một số điểm trên cả nước. Theo NWS, nắng nóng nguy hiểm sẽ kéo dài khắp miền Nam nước Mỹ từ sa mạc của bang California đến bang Louisiana và một số khu vực của bang Mississippi cho đến cuối tuần này và tuần tới. NWS cho biết Mỹ đã ghi nhận sự gia tăng đột biến các cuộc gọi và số lượt thăm khám của các bệnh nhân tại bệnh viện do các bệnh liên quan đến nắng nóng trong thời gian giữa và cuối tháng 6, đặc biệt là ở các khu vực miền Nam. Đợt nắng nóng dai dẳng đã làm tăng nguy cơ cháy rừng. Khu vực Bắc Arizona phát đi cảnh báo Cờ đỏ – mức cảnh báo cháy cao nhất – về nguy cơ cháy rừng trong 2 ngày 6 – 7/7 do gió mạnh và thời tiết khô hạn. Gió mạnh và độ ẩm tương đối thấp cũng được dự báo sẽ xuất hiện trên một vùng rộng lớn của bang Arizona. Theo NWS, các hạn chế đốt lửa trại vẫn được áp dụng tại hầu hết các khu vực công cộng trên toàn khu vực. Các chuyên gia cảnh báo các hiện tượng thời tiết cực đoan, vốn cướp đi nhiều sinh mạng hơn cả bão và lốc xoáy, có thể sẽ gia tăng tại Mỹ trong tương lai. Theo NWS, mỗi năm ở Mỹ, dông bão tạo ra 20 đến 25 triệu tia sét đánh xuống đất, cướp đi sinh mạng của hơn 20 người và khiến hàng trăm người bị thương. Người cao tuổi và những người có bệnh nền như tiểu đường, béo phì, bệnh tim… đặc biệt có nguy cơ về sức khỏe trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
Thời tiết cực đoan bao trùm nước Mỹ
434
Sáu tháng đầu năm 2023, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu , trừ dầu khí tăng 2,41%. Sáng 7-7, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu khóa VII, nhiệm kỳ 2020-2025, tổ chức hội nghị lần thứ 16. Hội nghị thảo luận, cho ý kiến các báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ sáu tháng đầu năm và các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sáu tháng cuối năm 2023. Báo cáo sơ kết ba năm của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng và phát triển đô thị Long Hải giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và Kết luận về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 14. Ngoài ra, hội nghị còn cho chủ trương theo thẩm quyền đối với các nội dung trình Kỳ họp thứ 14 HĐND tỉnh khóa VII về điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 nguồn vốn ngân sách tỉnh và bổ sung nhiệm vụ thu, chi ngân sách năm 2023. Hội nghị lần thứ 16 đánh giá tình hình thực hiện phát triển kinh tế – xã hội sáu tháng đầu năm 2023 của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Ảnh: TK. Phát biểu khai mạc hội nghị, ông Phạm Viết Thanh, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, nhấn mạnh sáu tháng đầu năm kinh tế tỉnh tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức… Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) trừ dầu khí tăng 2,41%. Để đạt mục tiêu tăng trưởng (GRDP) trừ dầu khí đạt 8,1% như đã đề ra và tăng trưởng bình quân 7,6%/năm cho cả nhiệm kỳ 2020-2025 là thách thức rất lớn đối với tỉnh. Trong sáu tháng đầu năm 2023, Bà Rịa-Vũng Tàu đã khởi công nhiều tuyến đường giao thông kết nối quan trọng. Ảnh: BQLDA. Một điểm đáng chú ý theo ông Thanh là tỉnh đã hoàn thành công tác lập quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; tổ chức khởi công đồng loạt dự án đầu tư xây dựng cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu giai đoạn 1, cầu Phước An và đường ven biển Vũng Tàu – Bình Thuận. Tập trung xây dựng các đề án nhằm cụ thể hóa triển khai thực hiện Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Ông Phạm Viết Thanh, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Ảnh: PL. Theo ông Thanh, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn có mặt hạn chế, yếu kém cần khắc phục. Đây là những vấn đề quan trọng, cấp bách cần tập trung phân tích, làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm của ngành, địa phương mình để có giải pháp chấn chỉnh, khắc phục dứt điểm trong thời gian tới. Dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng kinh tế Bà Rịa-Vũng Tàu vẫn có những điểm sáng. Ảnh minh họa: TK. Dự báo tình hình sáu tháng cuối năm 2023 còn nhiều khó khăn, thách thức, tạo áp lực lớn lên công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, tình hình kinh tế- xã hội đang dần chuyển biến tích cực, một số chỉ tiêu, lĩnh vực quan trọng đã có bước tăng trưởng, tuy còn thấp nhưng có xu hướng phục hồi. Do vậy, ông Phạm Viết Thanh đề nghị hội nghị tập trung nghiên cứu, thảo luận nhằm đề ra các giải pháp có trọng tâm, trọng điểm để thúc đẩy, phát triển kinh tế-xã hội tỉnh thời gian tới. “Đề nghị các đại biểu bám sát tình hình thực tế, chủ động phân tích, dự báo, xây dựng các phương án, kịch bản lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, phản ứng nhanh đối với những vấn đề phức tạp, cấp bách, chưa có tiền lệ, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ trong năm 2023…” – ông Thanh, nhấn mạnh.
Bà Rịa-Vũng Tàu: Hoàn thành quy hoạch tỉnh và nhiều tuyến cao tốc
690
Chiếc rìu đá lửa khổng lồ, cổ vật gây chú ý nhất trong kho báu 800 món đồ tạo tác 300.000 năm - Ảnh: ARCHAEOLOGY. Kho báu vừa lộ diện tại Học viện Hàng hải ở hạt Kent – Anh gây bối rối cho các nhà khoa học bởi những thứ chứa trong đó như được làm ra để phục vụ cuộc sống của những người khổng lồ. Cuộc khai quật dẫn đầu bởi TS Letty Ingrey và các đồng nghiệp từ Viện Khảo cổ học thuộc University College London (UCL – Anh ), Đại học Wales và Cơ quan Khảo cổ Wessex. Họ đã khai quật được một tập hợp gồm 800 công cụ đá có tuổi đời ít nhất 300.000 năm. Đó là một kho báu khảo cổ cực lớn, được chế tác bằng các nguyên liệu quý giá nhất trong thời đại đồ đá, ví dụ như đá lửa; đồng thời được tạo hình một cách hết sức kỳ lạ. Đáng chú ý nhất trong kho báu là 2 công cụ đá lửa cực lớn, được mô tả là những chiếc rìu tay khổng lồ, lớn hơn rất nhiều so với rìu tay mà người cổ đại thường sử dụng. “Chúng có đầu nhọn dài và được gia công tinh xảo, phần đế dày hơn rất nhiều ro với rìu cùng thời” – theo Sci-News. Cái rìu lớn nhất có độ dài lên tới 29,5 cm và là một trong những rìu tay dài nhất từng được khai quật ở Anh, góp thêm vào bộ sưu tập những chiếc rìu khổng lồ khác từng được khai quật ở vùng Thames và Medway. “Những chiếc rìu thủ công này lớn đến mức khó có thể tưởng tượng làm thế nào mà chúng có thể được cầm và sử dụng dễ dàng” – TS Ingrey nói. Và đó là điều thú vị nhất: Rất có thể chúng không được dùng để làm việc mà mang tính biểu tượng, giống như cách con người hiện đại chế tác ra những thanh kiếm, con dao tinh xảo với mục đích trang trí, làm trang sức hơn là sử dụng. Nó là một minh chứng về sức mạnh và kỹ năng của những người sản xuất và sở hữu. Điều đó hoàn toàn gây sốc với niên đại 300.000 năm của các món đồ. 300.000 năm chính là mốc mà loài người hiện đại Homo sapiens (Người Tinh Khôn) chúng ta mới vừa chập chững ra đời. Kho báu này được nghi ngờ là thuộc về người anh em cùng chi Homo, ra đời sớm hơn khoảng nửa triệu năm và đã từng cùng chung sống với tổ tiên chúng ta hàng chục ngàn năm: Người Neanderthals. Một số bằng chứng cho thấy nền văn hóa người Neanderthals đã bắt đầu trong khu vực thời điểm đó, thậm chí có thể có thêm vài loài người sơ khai khác. Nhưng dù họ là ai, kho báu khảo cổ quý giá này là minh chứng cho thấy những con người khác loài đã tiến hóa đến mức nào từ trước khi Homo sapiens chúng ta xuất hiện. Các công cụ với trình độ chế tác cao cũng cho phép họ tồn tại trong kỷ băng hà khắc nghiệt giai đoạn đó, điều mà các nhà khoa học luôn thắc mắc. Các kết quả vừa được công bố trên tạp chí khoa học Archaeology.
Đào được kho báu ‘sốc’ 300.000 năm do loài người khác chôn giấu
554
Nhà thơ Vi Thùy Linh. Có thể nói, ở nước ta, tới giờ, Vi Thùy Linh là người có nhiều ‘sự kiện’ thơ nhất. Chị bước chân vào làng thơ khi còn rất trẻ và gây được ‘đột biến’ ngay; trở thành hội viên trẻ nhất của Hội Nhà văn Việt Nam ở thời điểm được kết nạp. Vi Thùy Linh là một giọng thơ lạ, luôn cất lên một mình, tự tin để tự mình mới. Chị có nhiều cái “đầu tiên” với thơ Việt: được mời dự Liên hoan thơ quốc tế tại Pháp; đêm thơ đầu tiên tại Trung tâm Văn hóa Pháp Hà Nội 2005, tái bản 2 tập thơ “Khát”, “Linh” vào năm 2007; nữ thi sĩ đầu tiên thực hiện đêm thơ tại Vancouver (Canada); tour trình diễn 7 thành phố châu Âu; đêm nghệ thuật “Bay cùng ViLi” tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Có thể nói, chị là người tiên phong đưa thi ca ra không gian lớn. Chị luôn “ầm ào” với thơ khi ngoài thơ, nhưng thơ chị kỹ và chặt chẽ tới từng hình ảnh nhỏ, tinh tế tới từng dấu câu, lấy tên mình ra làm đối tượng của chính thơ mình như chị rất ít người: “Ninh Bình choàng ôm Linh bay lên/Mỗi ngày mới hãy tẩy tồn bụi cũ/Từ những vết sẹo, nếp hằn đau nhớ/Cần lệnh “xóa vĩnh viễn” của quên”. Nhà thơ Văn Công Hùng chọn và giới thiệu. VÂN VI Không đủ thời gian chọn mua vải, kiên nhẫn tới nhà may Vi thường mua đồ may sẵn Từ quần áo thường ngày đến thời trang hàng hiệu Đa dạng thiết kế, chất liệu, mặc ngay. Sau nhiều lần lao vào cơn mưa, đêm-ngày Tôi muốn may đo áo rộng Có áo nào che cả khoảng trời không? Thợ bậc nhất Thủ đô hay nhà thiết kế trứ danh Chọn vải, cắt may cho Vi chiếc áo Che an toàn mưa bão nếu lỡ đang chạy xe trên phố Làm râm nắng gắt bỏng da khi hay phải đội nắng trưa Kéo khuất mọi vỉa hè đầy rác Phủ lấp kín những gì xấu xí Và đôi khi cũng cần trùm đỡ bụi, nóng cho những hàng cây. Địa chỉ may đo chiếc áo ở đâu đây? Không GPS, công nghệ tối tân nào định vị cho Vi nhà may ấy Dẫu hành trình trải đủ ngả thành phố theo bản đồ trên giấy Dù huy động 4.500 xe taxi G7 Da sạm, tóc trắng theo thời gian chẳng quyền phép nào cản nổi Đeo kính đen to bản vẫn chói mắt không ngắm kỹ được da trời Cứ đổi màu… khoác áo… trút áo… Mây trôi. DÂY MƯA Có con chuồn chuồn kim màu tím bay vào phòng tôi, loay hoay đậu mặt gương Nó soi mình, còn tôi nhìn Linh thoáng vội Không nhìn độ cao của nó mà đoán thời tiết được Minh họa: H.T Chẳng để ý dự báo, mùa thường trực mưa. Những con chuồn chuồn, các loài chim trú đâu Rừng càng ngày càng rộc Tôi học bản lĩnh từ loài bay bé nhỏ Gắng vững vàng che con qua bão gió Nước trời giải nhiệt muôn loài, kịp cứu thủy điện vận hành cầm cự qua mức nước chết Người mẹ một mình Thăng-bằng-trên-dây-mưa… RU Đâu cứ đêm mới ru Bất cứ khi nào khẽ lắng mình Hình ảnh anh che chở… Minh họa: Huyền Trang Tóc mùa thu suối mỏng Chảy thầm vai anh Mọi mặt nước của ái thành Bỗng sạch, trong… nối nhau lãng bạc Không gợn sóng nào thả dấu ngã duyệt binh Khi em ngã vào triền lưu linh… Triền ấy, ngực anh vòng tay anh Chẳng cần lời ru nào nữa Phiến môi mải mê ngón mềm yên yên Em như quả hồng chín dần lúc thiếp… Giấc thu say đấy Sống-yêu lộng lẫy Ru anh ru em…
Gương mặt thơ: Vi Thùy Linh
598
Thủy điện tích nước được cho là nguyên nhân gây ra động đất ở Kon Tum. Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ, tỉnh Kon Tum đã phải hứng 10 trận động đất liên tiếp, trong đó trận có cường độ mạnh nhất là 4.2, người dân ở đây cảm nhận rõ rung lắc của mặt đất, bờ tường. Từ sáng đến đầu giờ chiều ngày 7/7, Trung tâm Báo tin Động đất và Cảnh báo sóng thần, Viện Vật lý Địa cầu liên tiếp phát đi các bản tin thông báo động đất. Trận động đất đầu tiên xảy ra vào lúc 1 giờ 17 phút 13 giây, có độ lớn 3.1 độ Richter xảy ra tại vị trí có tọa độ 14.799 độ vĩ Bắc, 108.618 độ kinh Đông, độ sâu chấn tiêu khoảng 10km. Động đất xảy ra tại khu vực huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Cấp độ rủi ro thiên tai cấp 0. Tiếp đó lúc 9 giờ 31 phút 31 giây, trận động đất có độ lớn 3.9 độ Richter xảy ra tại vị trí có tọa độ 14.783 độ vĩ Bắc, 108.331 độ kinh Đông, độ sâu chấn tiêu khoảng 8.1km. Động đất xảy ra tại khu vực huyện Kon Plong, tỉnh Kon Tum. Sau đó, tại huyện Kon Plong, tỉnh Kon Tum liên tiếp xảy ra 9 trận động đất khác với các cường độ khác nhau. Trận động đất gần nhất được ghi nhận vào vào hồi 11 giờ 09 phút 02 giây. Trận động đất này có độ lớn 2.5 độ Richter, xảy ra tại vị trí có tọa độ 14.889 độ vĩ Bắc, 108.269 độ kinh Đông), độ sâu chấn tiêu khoảng 8.1km. Động đất xảy ra tại khu vực huyện Kon Plong, tỉnh Kon Tum. Hiện các trận động đất này đang được Trung tâm báo tin động đất và cảnh báo sóng thần – Viện Vật lý Địa cầu tiếp tục theo dõi. Trao đổi với báo chí, ông Trần Văn Nết, Chủ tịch UBND xã Đăk Tăng (huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum) cho biết, trong số 9 trận động đất thì có 4 trận động đất diễn ra từ 9h31 phút đến 9h48 phút ông cảm nhận rõ nhất. “Lúc ấy, tôi đang ngồi họp tại hội trường ở UBND xã thì cảm nhận có rung lắc nhẹ ở bờ tường. Các đợt rung lắc kéo dài khoảng 2 đến 3 giây. Hiện tại, trên địa bàn xã chưa ghi nhận thiệt hại gì về người và tài sản sau liên tiếp các trận động đất trong sáng ngày 7/7”, ông Nết nói. Theo các chuyên gia động đất, trận động đất có độ lớn 4.2 có thể cảm nhận rõ rung chấn trên mặt đất tại khu vực xung quanh nơi xảy ra động đất. Động đất tại khu vực huyện Kon Plông xảy ra thường xuyên và liên tục kể từ năm 2021 đến nay. Những ngày gần đây, tần suất xảy ra và độ lớn của các trận động đất tại khu vực này có xu hướng tăng dần. Khu vực này ghi nhận trận động đất có độ lớn cao nhất trong nhiều năm trở lại đây là 4,7, xảy ra vào chiều 23/8/2022. Theo TS Nguyễn Xuân Anh, Viện trưởng Viện Vật lý Địa cầu, động đất kích thích cũng xảy ra theo chu kỳ, có những thời điểm động đất xảy ra dồn dập, có thời kỳ yên tĩnh hơn, liên quan chặt chẽ đến quá trình vận hành tích nước của hồ chứa thủy điện.động đất tại Kon Plông được nhận định có thể kéo dài trong nhiều năm tới. Tuy nhiên, động đất cực đại ở khu vực này ít khả năng vượt quá 5 độ. Viện trưởng Nguyễn Xuân Anh cho biết từ tháng 6/2021, Viện Vật lý địa cầu đã cử cán bộ đến khu vực này để thiết lập thêm các trạm quan trắc nhằm tìm hiểu rõ hơn và cảnh báo kịp thời các hiện tượng địa chất nguy hiểm xảy ra. Đầu tháng 9/2022, tỉnh Kon Tum đã hoàn thành việc xây dựng, lắp đặt mới 3 trạm quan trắc cảnh báo động đất tại thủy điện Thượng Kon Tum, nâng tổng số trạm quan trắc thuộc khu vực hoạt động của thủy điện này lên 6 trạm. Số liệu động đất ghi nhận được tại khu vực huyện Kon Plông cho thấy động đất xảy ra thường xuyên hơn trong thời gian gần đây và có xu hướng tăng lên về độ lớn. Khu vực tỉnh Kon Tum nói chung và huyện Kon Plông nói riêng thuộc đới đứt gãy nhỏ. Các nghiên cứu trước chỉ ra rằng các trận động đất tại khu vực này có độ lớn không quá 5,0. Viện Vật lý địa cầu thường xuyên thông báo về hoạt động động đất đến chính quyền và người dân tại khu vực này. Để có kết luận chính xác, thời gian theo dõi hoạt động động đất phải đủ lớn, các cán bộ thuộc viện tiếp tục theo dõi thêm và xử lý số liệu các trận động đất tại huyện Kon Plông. Viện trưởng Nguyễn Xuân Anh khuyến cáo người dân và chính quyền khu vực này cần quan tâm đến các yếu tố kháng chấn trong xây dựng; các cấp chính quyền cần thường xuyên tuyên truyền, hướng dẫn cho người dân các biện pháp phòng, tránh, giảm thiểu thiệt hại khi xảy ra động đất mạnh.
10 trận động đất liên tiếp ở Kon Tum có bất thường?
906
Là một trong 7 lăng vua triều Nguyễn ở Huế , lăng Khải Định có nét riêng về cảnh quan, kiến trúc, chứa đựng giá trị độc đáo. Đây là một điểm đến ấn tượng tại cố đô. Vua Khải Định (1885 – 1925) – vị vua thứ 12 triều Nguyễn, tên thật là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, là con trưởng của vua Đồng Khánh và là thân sinh của vua Bảo Đại. Ông lên ngôi năm 1916 và trị vì tới khi mất – năm 1925. Mặc dù ở ngôi chưa tới 10 năm nhưng ông đã cho xây rất nhiều cung điện, dinh thự cho bản thân và hoàng tộc như điện Kiến Trung, cung An Định, cửa Hiển Nhơn, cửa Chương Đức… Cũng như nhiều vị vua tiền nhiệm, vua Khải Định đã cho xây Ứng Lăng – lăng mộ của chính mình từ khi còn sống. Để xây dựng Ứng Lăng, vua Khải Định đã cho mời nhiều thầy địa lý chọn đất hợp phong thủy là vùng núi Châu Chữ cách kinh thành Huế khoảng 10km về phía nam. Lăng tọa lạc ở sườn tây của một ngọn đồi, dưới chân đồi có khe Châu Ê chảy qua. Ở phía trước, ngay trên trục chính có một ngọn đồi thấp dùng làm tiền án, hai bên là núi Chóp Vung và núi Kim Sơn. So với các lăng vua trước, lăng Khải Định có mặt bằng nhỏ hẹp nhất, nhưng lại là công trình đòi hỏi nhiều nhất về công sức, thời gian và tiền của. Lăng được xây dựng trong 11 năm (1920 – 1931) trong bối cảnh nước nhà bị đô hộ, khó khăn về kinh tế. Để có kinh phí xây dựng, vua Khải Định đã xin chính phủ bảo hộ cho phép ông tăng thuế điền 30% trên cả nước và lấy số tiền đó để làm lăng. Hành động này của vua Khải Định đã bị lên án gay gắt. Vua Khải Định qua đời tháng 11-1925. Tới tháng 1-1926, quan tài của vua được đưa lên Ứng Lăng trong một lễ tang trọng thể, sau khi quàn trong Hoàng cung gần 3 tháng. Sau đó, công việc xây lăng vẫn tiếp tục, tới năm 1931 mới hoàn thành. Triều Nguyễn có 13 vua nhưng chỉ có 7 lăng mộ. Vì hoàn cảnh lịch sử, có vua không có lăng (vua Hiệp Hòa), hoặc táng chung vào lăng vua khác (vua Kiến Phúc, Thành Thái, Duy Tân). Vua Bảo Đại – vị vua cuối cùng đã thoái vị, sau đó sống lưu vong nên không có lăng. Như vậy, lăng Khải Định là lăng mộ cuối cùng của triều Nguyễn. Lăng Khải Định có bố cục đối xứng theo một trục thần đạo, trải dài từ thấp lên cao trên sườn dốc của ngọn đồi. Diện tích xây dựng của lăng nhỏ nhưng mật độ xây dựng dày đặc, không có mặt nước, diện tích cây xanh rất khiêm tốn. Từ dưới lên trên, các công trình được bố trí trên 5 cấp sân với 127 bậc thang. Công trình Ứng Lăng hoàn toàn khác biệt với các lăng và hệ thống kiến trúc cung đình triều Nguyễn ở cả hình thức kiến trúc và sử dụng vật liệu. Nếu như phần lớn vật liệu xây dựng 6 lăng vua Nguyễn tiền nhiệm là gỗ, đá, vôi gạch… khai thác và sản xuất trong nước thì hầu hết vật liệu xây dựng lăng Khải Định phải nhập ngoại: Sắt, thép, xi măng, kính, ngói ardoise mua từ Pháp, sành sứ phải đặt ở Giang Tây (Trung Quốc). Hệ thống kết cấu là bê tông cốt thép – một loại vật liệu và kỹ thuật xây dựng du nhập từ phương Tây. Bên cạnh đó, công trình còn có hệ thống điện, hệ thống chống sét. Hình thức kiến trúc công trình là một sự pha trộn nhiều trường phái, phản ánh rất rõ lịch sử – văn hóa trong buổi giao thời và phần nào cả tính cách của vua Khải Định – khá “ăn chơi”, vọng ngoại. Có thể thấy điều đó qua những trụ cổng hình tháp mang phong cách kiến trúc Ấn Độ; trụ biểu dạng phù đồ (stoupa) của Phật giáo; hàng rào như những cây thánh giá của Thiên Chúa giáo, nhà bia với những hàng cột bát giác và vòm cửa theo lối Roman biến thể… Tuy vậy, các kiến trúc này được xử lý khá khéo léo, ăn nhập và hòa hợp với nhau trong tổng thể. Cung Thiên Định – công trình chính của lăng nằm ở vị trí cao nhất, được chia thành 5 không gian: Hai bên là tả, hữu trực phòng; chính giữa phía trước là điện Khải Thành – nơi đặt án thờ vua; bên trong là chính tẩm (nơi đặt mộ vua), bên trên mộ có bức tượng đồng dát vàng vua Khải Định được đúc theo tỷ lệ 1:1; trong cùng là khám thờ đặt long khám, long vị và các đồ tế khí. Cung Thiên Định được trang trí nội thất tinh xảo bằng nghệ thuật khảm sành sứ. Những nghệ nhân giỏi đã dùng hàng vạn mẩu sành sứ và thủy tinh đủ màu sắc đắp nổi thành hàng ngàn hình ảnh sinh động, như bộ tranh tứ thời, ngũ phúc, bát bửu, bộ đồ trà, mâm ngũ quả… Đặc biệt, trên trần 3 gian giữa điện Khải Thành có bức tranh “Cửu long ẩn vân” do nghệ nhân Phan Văn Tánh vẽ rất cầu kỳ. Lăng Khải Định dù có những hạn chế về cảnh quan nhưng lại có nét độc đáo riêng bởi hình thức mới mẻ so với các lăng tẩm khác. Ở đó có dấu ấn của cuộc giao lưu văn hóa Đông – Tây; có không ít yếu tố hiện đại đã hòa nhập vào dòng nghệ thuật kiến trúc truyền thống của dân tộc. Nhà nghiên cứu Phan Thuận An đánh giá về công trình này: “Lăng Khải Định là một tác phẩm mỹ thuật tổng hòa của nhiều dòng văn hóa, một điểm giao thoa giữa mỹ thuật kim – cổ, Đông – Tây. Nó phản ánh rõ nét phong cách sống của vua Khải Định và đánh dấu giai đoạn giao thoa, hội nhập giữa hai nền văn hóa Á – Âu của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX”. Bài và ảnh: Hà Thành
Lăng Khải Định: Dấu ấn kiến trúc Đông – Tây
1,067
Nhà báo Nguyễn Quang Thọ vừa cho ra mắt cuốn sách ‘Người Việt nói tiếng Việt’ với mong muốn mang đến cho độc giả một cách tiếp cận mới với những vấn đề còn đang vướng mắc, cung cấp ngữ liệu cho nhiều thành ngữ, tục ngữ bị bỏ sót, trao đổi về những lời giải nghĩa chưa chuẩn và lưu ý vài sai sót kỹ thuật khá nghiêm trọng trong từ điển… “ Người Việt nói tiếng Việt ” của tác giả – nhà báo Nguyễn Quang Thọ, như cuốn cẩm nang đề cập đến những sưu tập, khảo cứu về thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt trước nay bị các từ điển bỏ sót, hoặc trao đổi lại phần giải nghĩa. Ban đầu, tác giả do phải tìm hiểu, tham khảo thêm ngữ nghĩa của từ ngữ, các câu nói… để phục vụ cho nghiệp vụ báo chí và nghiên cứu nên đã tham khảo nhiều nguồn từ điển như, Đại từ điển Tiếng Việt (NXB Văn hóa – Thông tin, 1998 do Nguyễn Như Ý chủ biên); Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (của Nguyễn Lân, NXB Khoa học Xã hội, 1997); Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam (của Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào, NXB Văn hóa – Thông tin, 2001); Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam trong hành chức (NXB Khoa học xã hội, 2015 do Đỗ Thị Kim Liên chủ biên)… Vậy nhưng, sau khi nghiên cứu các cuốn sách này, tác giả Nguyễn Quang Thọ nhận thấy sự thiếu vắng của nhiều thành ngữ mà mọi người hay sử dụng trong cuộc sống ngày nay. Theo quy luật không ngừng phát triển của xã hội, trong khi vốn tiếng Việt lại vô cùng phong phú, nhiều từ ngữ mới xuất hiện, dãy thành ngữ cần tìm ra giải nghĩa trọn vẹn ngày một nhiều hơn. Đây thật sự là một thách thức nhưng cũng đầy thú vị mà tác giả Nguyễn Quang Thọ muốn dấn thân để tìm cho ra lời giải. Trong một thời gian dài khoảng 10 năm, nhà báo Nguyễn Quang Thọ đã mày mò, tìm hiểu các nguồn tư liệu, tài liệu, từ điển… và chính khoảng thời gian đó ông đã ghi chép tư liệu để rồi hình thành nên “chất liệu” cho tập sách “Người Việt nói tiếng Việt”. Công việc này đã khiến ông phát hiện ra còn có nhiều, rất nhiều câu thành ngữ, tục ngữ bị bỏ sót hoặc đã thâu nhận nhưng cách giải thích theo ông nhận thấy là chưa thỏa đáng, cần hiểu theo cách khác. Tác giả mày mò, cặm cụi một cách nhẫn nại ghi chép và bắt đầu quá trình viết từ 1 từ đến hơn 100.000 từ. Dần dà tác giả thấy cần đối chiếu với những từ điển của các tác giả khác. Càng nhiều lần sử dụng từ điển, chúng ta sẽ càng học được nhiều hơn, hiểu kỹ hơn và yêu quí hơn tiếng mẹ đẻ, nhưng đồng thời cái cảm giác tiếc nuối, xót xa xen lẫn lo âu cũng lớn dần lên khi thấy nhiều từ ngữ bị bỏ sót hoặc giải nghĩa sai lệch. Thành quả của quá trình này là cuốn sách “ Người Việt nói tiếng Việt ” dày hơn 380 trang, sưu tập hơn 600 thành ngữ và tục ngữ không có mặt trong từ điển, mặc dù rất thông dụng trong đời sống. “ Người Việt nói tiếng Việt ” gồm ba phần chính: Chương 1: Mắt thấy tai nghe; Chương 2: Nói gần nói xa, chẳng qua nói thật; Chương 3: “Đánh trống qua cửa nhà sấm”; Ghi thêm: Trông người lại ngẫm đến ta; Nhìn vào miệng người bình dân; Lời cuối sách. Với cuốn sách này, người đọc sẽ thấy những thành ngữ, tục ngữ còn bị bỏ sót, hoặc từ điển giải thích mà tác giả Nguyễn Quang Thọ cho rằng chưa chính xác như: Nhạt như nước ốc ao bèo; Bầu sao nấu nước ao cũng ngọt; Làm ruộng thì gia, làm nhà thì tốn; Bảo hoàng hơn vua … Hoặc các từ thú vị mà chúng ta sẽ bắt gặp và nghe thấy đâu đó trong đời sống thường ngày như: Để Mị nói cho mà nghe; Ăn cơm trước kẻng; Chạy mất dép; Tiền trao cháo múc; Nằm mơ giữa ban ngày; Mảnh tình vắt vai; Xuống dốc không phanh; Hái ra tiền; Nói cho vuông; Cầm đèn chạy trước ô tô; Nhà mặt phố, bố làm quan; Nóng chảy mỡ; Thấy thương luôn; Thở oxy; Liều ăn nhiều; Khóc tiếng Miên; Ngon nhức nách; Tới luôn đi bác tài; Được ăn cả, ngã nằm luôn; Trả dép tôi về; Lặn không sủi tăm … Tác giả- nhà báo Nguyễn Quang Thọ tại buổi giao lưu, giới thiệu tác phẩm “Người Việt nói tiếng Việt”. Ngoài ra, do còn là một nhà nghiên cứu đã từng tốt nghiệp cao học với đề tài “Thành ngữ so sánh tiếng Đức (đối chiếu với tiếng Việt)”, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2005), nên trong tập sách này, ông Thọ đã trình bày quan điểm về thành ngữ, thành ngữ là gì – vốn là vấn đề mà trước nay nhiều nhà nghiên cứu chưa đồng thuận. Điều này, cho thấy đây còn là tập sách có xu hướng đi sâu vào lãnh vực chuyên môn của các nhà ngôn ngữ học. Tại buổi giao lưu, trò chuyện nhân ra mắt cuốn sách, tác giả Nguyễn Quang Thọ chia sẻ: “ Cuốn sách này không giúp bạn trả lời được hết mọi câu hỏi, thậm chí còn làm bạn đặt ra nhiều câu hỏi, nhưng chúng tôi hy vọng đem đến cho bạn đọc một cách tiếp cận mới với những vấn đề còn đang vướng mắc, cung cấp ngữ liệu cho nhiều thành ngữ, tục ngữ bị bỏ sót, trao đổi về những lời giải nghĩa theo chúng tôi là chưa chuẩn và lưu ý vài sai sót kỹ thuật khá nghiêm trọng trong từ điển… Vốn từ của một dân tộc là vô cùng lớn, không ai biết hết được. Muốn biết nhiều thì phải học nhiều. Học từ lúc nằm nôi cho tới khi xuống lỗ. Mỗi ngày sống là một ngày điền dã”. Tiếp lời tác giả, nhà văn, nhà báo Lê Minh Quốc cho biết: “Không những thế, nhà báo Nguyễn Quang Thọ còn bổ sung thêm một loạt từ mới/ cách nói mới vừa xuất hiện trong đời sống gần đây, đa dạng, biến hóa tài tình trong hành trình phát triển của tiếng Việt. Không chỉ kỳ công mà còn là một trong những cách thể hiện tấm lòng mình về tình yêu máu thịt dành cho tiếng Việt. Mà, một khi yêu lấy tiếng Việt tận xương tủy cũng chính là yêu lấy non sông gấm vóc nước Việt đấy thôi”. “ Người Việt nói tiếng Việt ” của tác giả – nhà báo Nguyễn Quang Thọ do Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành, vừa ra mắt bạn đọc đầu tháng 7/2023. Tập sách như một cẩm nang đề cập đến những sưu tập, khảo cứu về thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt trước nay bị các từ điển bỏ sót, hoặc trao đổi lại phần giải nghĩa. Tác giả Nguyễn Quang Thọ sinh năm 1949 tại xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, lớn lên tại Hà Nội. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đức tại trường Đại học Tổng hợp Các Mác, thành phố Leipzig, Cộng hòa Dân chủ Đức năm 1979 (nay là Đại học Tổng hợp Leipzig); đề tài cao học của ông “Thành ngữ so sánh tiếng Đức (đối chiếu với tiếng Việt)” được bảo vệ thành công tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2005). Ông từng là Biên tập viên NXB Thanh Niên; Chủ biên tập san Văn hóa & Đời sống, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (1991-1992); Tổng Biên tập báo Yêu Trẻ từ 1997-2010.
“Người Việt nói tiếng Việt”- Cẩm nang mở rộng của thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt
1,343
Theo một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Nature Astronomy, hơn một tỷ năm sau vụ nổ Big Bang – vụ nổ khai sinh ra vũ trụ, thời gian trôi qua chậm hơn năm lần so với hiện nay. Phát hiện này cũng đồng nghĩa với việc, dự đoán chính của thuyết tương đối rộng của Einstein là chính xác. Theo đó, khi các nhà thiên văn học quan sát vũ trụ xa xôi, họ không chỉ nhìn ngược thời gian về khi vũ trụ còn sơ khai. Họ cũng thấy nó chuyển động chậm hơn hiện tại, theo thuyết tương đối rộng của Einstein . Được cho là được tạo ra bởi vụ nổ Big Bang cách đây 13,8 tỷ năm, vũ trụ đã không ngừng giãn nở kể từ đó đến nay. Tuy nhiên, tốc độ mở rộng của nó không phải là hằng số. Khi vũ trụ già đi, thời gian cũng tăng tốc theo, theo lập luận của nghiên cứu vừa được công bố. Sự giãn nở thời gian của vũ trụ được thu thập từ các nghiên cứu về 190 chuẩn tinh, những lỗ đen lớn nhất và sáng nhất được nhìn thấy ở trung tâm của các thiên hà ở những nơi xa xôi nhất vũ trụ – tức chúng được sinh ra vào thời kỳ sơ khai của vũ trụ. Các chuẩn tinh được sử dụng làm ‘đồng hồ vũ trụ’ để đo thời gian trôi qua ngay từ khi tuổi của vũ trụ bằng một phần mười hiện tại. Ở đây, nhóm nghiên cứu đã đạt được đột phá khi nghiên cứu các chuẩn tinh ở các bước sóng ánh sáng khác nhau, giúp chuẩn hóa tiếng ‘tích tắc’ của chúng. “Nếu bạn ở đó, trong vũ trụ sơ khai này, một giây sẽ giống như một giây—nhưng từ vị trí của chúng ta, hơn 12 tỷ năm sau trong tương lai, khoảng thời gian ban đầu đó dường như kéo dài,” Giáo sư Geraint Lewis, từ Trường Vật lý và Viện Thiên văn học Sydney tại Đại học Sydney, tác giả chính của nghiên cứu, cho biết. “Nhờ Einstein , chúng ta biết rằng thời gian và không gian đan xen vào nhau. Kể từ buổi bình minh của thời gian trong điểm kỳ dị của Big Bang, vũ trụ đã và đang giãn nở”, ông nói. “Sự giãn nở không gian này có nghĩa là những quan sát của chúng ta về vũ trụ sơ khai dường như chậm hơn nhiều so với dòng chảy thời gian ngày nay.” Các nhà thiên văn học trước đây từng sử dụng siêu tân tinh làm ‘đồng hồ’ để đo sự giãn nở thời gian. Tuy nhiên, những nghiên cứu khi đó chỉ cung cấp bằng chứng về sự chậm lại của thời gian trong một nửa vòng đời của vũ trụ. Đó là bởi vì rất khó để phát hiện các vụ nổ siêu tân tinh trong suốt những năm đầu của vũ trụ. “Trong khi các siêu tân tinh hoạt động giống như một tia sáng đơn lẻ, khiến chúng dễ dàng nghiên cứu hơn, thì các quasar phức tạp hơn, giống như một màn bắn pháo hoa đang diễn ra”, giáo sư Lewis cho biết. “Những gì chúng tôi đã làm là làm sáng tỏ màn trình diễn pháo hoa này, cho thấy rằng chuẩn tinh cũng có thể được sử dụng làm dấu hiệu tiêu chuẩn của thời gian cho vũ trụ sơ khai.” Tham khảo Forbes
Einstein đã đúng: Các nhà khoa học phát hiện thời gian trôi chậm gấp 5 lần hiện tại khi vũ trụ còn sơ khai
575
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều – Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam. Cải cách giáo dục nước nhà thực sự là một thách thức khổng lồ. Bởi có quá nhiều vấn đề cần được điều chỉnh, thay đổi và xóa bỏ. Việc thay đổi không chỉ là sứ mệnh của ngài Bộ trưởng và các đồng sự của ngài mà của tất cả: hệ thống chính trị, các thầy cô giáo, học trò và phụ huynh. Em Nguyễn Trần Ban Mai (Trường THCS Phan Huy Chú, Thạch Hà) đỗ thủ khoa vào trường THPT chuyên Hà Tĩnh với bài thi môn văn dài 21 trang giấy. Chuyện ở trên có gì đặc biệt không? Không có gì đặc biệt cả. Một bài thi 1 trang và một bài thi 100 trang chỉ nói với chúng ta về số trang. Nhưng nếu bài thi 1 trang và bài thi 100 trang cùng được chấm 10 điểm thì thật tuyệt vời. Chúng ta không thể lấy bài 1 trang điểm 10 thay cho bài 100 trang điểm 10 được. Vì sao, vì mỗi bài có nghệ thuật riêng của nó. Nghệ thuật viết dài và nghệ thuật viết ngắn. Lâu nay, ta vẫn gặp những tác phẩm viết dài mà không thừa và viết ngắn mà không thiếu. Ta có thể thay trường thiên tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa cho Ông già và biển cả được không? Không. Vì mỗi tác phẩm ấy mang lại một nghệ thuật riêng biệt và kỳ vĩ. Bài thi dài 21 trang đã được các thầy cô bảo lãnh về chất lượng với điểm rất cao. Đó là chuyện rất thông thường. Điều bất thường là có những người đã mang cái “21 trang” của một học sinh ra để dè bỉu và có thể nói đã làm tổn thương cô học sinh ấy. Với một học sinh hay một người trẻ thì cho dù đúng sai thế nào chúng ta có nên hành xử như thế không ? Chúng ta đang bàn rất nhiều về giáo dục, nhưng câu chuyện trên lại vi phạm bản chất nhân văn của một nền giáo dục. Nhà văn Kim Lân (1920 – 2007). ( Ảnh). Truyện ngắn “Vợ nhặt ” của nhà văn Kim Lân được lấy làm đề thi tốt nghiệp môn Văn THPT năm nay đã bị một số người phê phán là cũ và lạc hậu, nói về chuyện đói rét một thời thì làm sao đất nước “ngóc đầu ” lên được vv… Bàn về câu chuyện này, tôi xin lược trích một số điểm trong bài viết của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoài Nam. Lược trích ý kiến của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoài Nam: “Nếu bảo nó cũ, thì “Truyện Kiều ” với “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ” còn cũ hơn, “Bình Ngô đại cáo ” còn cũ hơn nữa, và văn thơ Lý Trần thì khỏi nói, xưa như trái đất. Đề nghị: tống cổ hết ra khỏi sgk. Để “bắt kịp” với đời sống văn chương đương đại, nên ra ngoài đường mà bắt, mới kịp, không ai cấm. Ý tôi là hãy chịu khó ra Đinh Lễ hoặc lên tiki mà mua sách mới về đọc. Đừng tìm ở sách giáo khoa. Vì khi có tác phẩm được chọn vào sách giáo khoa, ấy là lúc tấm bia đã được gắn cho một sự nghiệp sáng tác. Và không có cách nào để sách giáo khoa “bắt kịp” với đời sống hết, ngoài việc mỗi năm lại biên soạn mới một lần. Đấy là việc bất khả. Bảo “ Vợ nhặt ” nói toàn chuyện khốn khổ đói khát, xa lạ và không hợp với bây giờ, thì ơ hay, cái xa lạ và sự không hợp chẳng phải là một trong những lý do khiến người ta tìm đến văn chương hay sao? Để hiểu nó và thấy nó không còn xa lạ nữa, bất chấp độ lùi thời gian hay khoảng cách địa lý”. Hoạ sỹ Thành Chương đang hoàn thiện khu tưởng niệm nhà văn Kim Lân có tên Cõi Kim Lân. Đấy là một Cõi của Chữ. Một ý tưởng sáng tạo độc đáo và mang tính tư tưởng của họa sỹ Thành Chương, con trai cả nhà văn Kim Lân. Cám ơn nhà phê bình văn học Nguyễn Hoài Nam đã có ý kiến rất rõ ràng. Ngày nay nước Anh vẫn xuất bản, đọc, dạy, diễn, nghiên cứu Shakespeare. Mỗi thời đại đều có những vấn đề khác nhau, nhưng vấn đề chung nhất, lớn nhất và muôn thuở là vấn đề con người và số phận họ. Những tác phẩm xuất sắc về nghệ thuật và chứa đựng số phận con người cần được đọc và thấu hiểu ở mọi thời đại. Theo cách nhìn của tôi, Bộ giáo dục và đào tạo, đứng đầu là ngài Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn đã và đang nỗ lực trong sự đổi mới nền giáo dục. Chỉ việc quyết định bỏ văn mẫu cũng đã cho thấy tư duy mới và sự kiên quyết của ngài Bộ trưởng và đồng sự. Cải cách giáo dục nước nhà thực sự là một thách thức khổng lồ. Bởi có quá nhiều vấn đề cần được điều chỉnh, thay đổi và xóa bỏ. Việc thay đổi không chỉ là sứ mệnh của ngài Bộ trưởng và các đồng sự của ngài mà của tất cả: hệ thống chính trị, các thầy cô giáo, học trò và phụ huynh. Chúng ta thử nhìn lại một cách nghiêm túc gia đình nhỏ bé của mình thì chúng ta cũng nhận ra rằng: để thay đổi một điều gì đó trong ngôi nhà của mình thôi nhiều lúc chúng ta cũng không làm được hoặc phải nhẫn nại vô cùng trong một thời gian dài. Theo tôi biết, các nhà lãnh đạo giáo dục đang âm thầm chuẩn bị cho những đột phá trong thời gian tới. Hy vọng họ thuận buồm xuôi gió. Sự lên tiếng của xã hội về giáo dục và các lĩnh vực khác là vô cùng cần thiết. Nhưng xã hội cũng cần quan sát kỹ từng bước đi của nền giáo dục Việt Nam để nhận ra những tín hiệu quan trọng cho một lộ trình mới. Và chúng ta cần biết chờ đợi và hy vọng từ những tín hiệu đó.
Từ một bài thi và một đề thi – Tác giả: Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
1,046
Lực lượng cứu hộ Pakistan cho biết 8 trẻ em đã thiệt mạng trong trận lở đất ngày 6/7 ở huyện Shangla thuộc tỉnh Khyber Pakhtunkhwa, Tây Bắc nước này. Vụ việc xảy ra khi một nhóm trẻ em đang tụ tập chơi ở khu đất dưới chân cồn cát và bị chôn vùi do lở đất. Sau hoạt động tìm kiếm, cứu nạn kéo dài nhiều giờ, lực lượng cứu hộ của quân đội Pakistan và các tình nguyện viên địa phương đã đưa được 8 thi thể và một em nhỏ bị thương ra khỏi đống đổ nát. Theo lực lượng cứu hộ, vụ lở đất xảy ra do mưa lớn trút xuống khu vực kể từ ngày 5/7. Pakistan hứng chịu mưa lớn kể từ tháng trước, gây lũ lụt và lở đất khiến ít nhất 50 người, trong đó có 8 trẻ em nói trên, thiệt mạng và gần 90 người bị thương. Hầu hết các trường hợp thiệt mạng ghi nhận ở tỉnh Punjab và chủ yếu là do sập nhà và điện giật. Cục Khí tượng Pakistan cho biết mưa lớn có thể tiếp tục xảy ra trên toàn quốc trong những ngày tới và cảnh báo nguy cơ lũ lụt ở lưu vực các con sông lớn ở Punjab. Giai đoạn gió mùa hằng năm tại Pakistan thường kéo dài từ tháng 6 đến tháng 9, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nước tưới cho các vụ mùa, bổ sung nước cho các hồ và đập chứa trên cả nước, nhưng đồng thời cũng gây nhiều thiệt hại. Theo tổ chức môi trường Germwatch, Pakistan đứng thứ 8 trong danh sách những quốc gia dễ bị tổn thương vì thời tiết cực đoan do biến đổi khí hậu. Năm 2022, khoảng 1/3 diện tích đất của Pakistan đã chìm trong nước lũ, cướp đi sinh mạng của hơn 1.700 người và làm hư hại khoảng 2 triệu ngôi nhà.
Lở đất ở Tây Bắc Pakistan, nhiều trẻ em thiệt mạng
321
Sáng nay (08/7), Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Trà Vinh tổ chức buổi nói chuyện chuyên đề về văn học với các diễn giả là lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam. Buổi nói chuyện thu hút trên 100 đại biểu là hội viên Chi hội Văn học, Chi hội Văn nghệ Khmer thuộc Hội Văn học Nghệ thuật Trà Vinh và sinh viên, học sinh đến từ các trường trên địa bàn thành phố Trà Vinh . Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Trà Vinh tham dự buổi nói chuyện. Với 02 chuyên đề chính “50 năm phát triển Văn học Việt Nam, gắn với Đề cương Văn hóa 1943” và chuyên đề “Những kỹ năng và kinh nghiệm sáng tác văn học với các tác giả và người yêu văn học Trà Vinh” lần lượt do 02 Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam và Nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam trình bày. Lãnh đạo Hội Văn học Nghệ thuật Trà Vinh tặng hoa 02 diễn giả. Đây là hoạt động có nhiều ý nghĩa nhằm giúp đội ngũ tác giả, những người yêu thích văn học ở Trà Vinh có thêm nhiều kiến thức về văn học, về những định hướng, kỹ năng trong sáng tác… Qua đó, góp phần giúp các tác giả có thêm những tác phẩm văn học có nội dung, tư tưởng tốt phục vụ bạn đọc; đồng thời quảng bá hình ảnh đất nước, con người Trà Vinh với bạn bè gần xa. Tin, ảnh: B Á THI
Trên 100 đại biểu tiếp thu các chuyên đề về văn học
258
Cuốn sách ‘Họa sĩ Trịnh Hữu Ngọc – Di sản đặc biệt của Mỹ thuật Đông Dương’ là tâm huyết của tác giả Trịnh Lữ, viết về sự nghiệp hội họa, thực hành và giảng dạy thiết kế nội thất gỗ của người cha đã khuất. Cuốn sách Họa sĩ Trịnh Hữu Ngọc – Di sản đặc biệt của Mỹ thuật Đông Dương , tác giả Trịnh Lữ vừa được Omega Plus phát hành. Tại buổi ra mắt sách, tác giả khẳng định bố mình – họa sĩ Trịnh Hữu Ngọc chưa bao giờ đánh mất bản sắc Việt Nam trong các tác phẩm. “Việt Nam là một dân tộc rất giản dị, rất thông minh, biết học hỏi tri thức khác thành của mình, họa sĩ Trịnh Hữu Ngọc cũng yêu những điều xung quanh một cách giản dị như thế. Do vậy, bản sắc dân tộc ở các tác phẩm của ông được toát ra một cách tự nhiên”, họa sĩ Trịnh Lữ nói. Họa sĩ Trịnh Lữ cho biết: “Năm 2017, tôi đã xuất bản cuốn sách đầu tiên về cha. Nhưng hơn 5 năm qua, tôi phát hiện thêm nhiều tư liệu mới về sự nghiệp của cụ nên trong cuốn sách này bổ sung rất nhiều câu chuyện, thông tin mới, khái niệm mới về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng mỹ thuật. Đây không chỉ là cuốn sách dành tặng cho gia đình, bạn bè mà tôi mong những câu chuyện trong đó sẽ được lan tỏa nhiều hơn đến với độc giả và giúp cho các nhà nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật có thêm nhiều kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực này. Từ đó, phát triển sáng tạo ngành mỹ thuật Việt Nam hơn nữa”. Tác giả Trịnh Lữ cùng nhiều khách mời trong giới mỹ thuật tại buổi ra mắt sách. Cuốn sách Họa sĩ Trịnh Hữu Ngọc – Di sản đặc biệt của Mỹ thuật Đông Dương là tâm huyết của ông Trịnh Lữ, viết về sự nghiệp hội họa, thực hành và giảng dạy thiết kế nội thất gỗ của cha ông, cố họa sĩ Trịnh Hữu Ngọc – một người con Việt Nam được đào tạo bởi trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đầu thế kỷ 20, một người nghệ sĩ miệt mài với biết bao dấu ấn trong hội họa, thiết kế nội thất của Việt Nam . Qua gần 400 trang, sách giới thiệu hơn 600 hình ảnh và tranh vẽ, giúp độc giả khám phá chân dung cố họa sĩ Trịnh Hữu Ngọc, từ cuộc đời và sự nghiệp, đến chi tiết các di sản đặc biệt của ông ( Tác phẩm từ thời sinh viên, Đồ gỗ Mémo, Tác phẩm minh họa, Tranh sơn ta, Từ Ấn tượng đến Thiền họa ). Các câu chuyện nghề được kể trong sách cho thấy một họa sĩ tài năng, đặc biệt là sự tiến bộ về tư tưởng sáng tạo. Một trong số đó là những đồ gỗ theo lối mới: tiết kiệm diện tích, dễ dàng lắp ghép, phù hợp với nhân trắc học người Việt. Những sáng tạo này được thực hiện vào thời điểm nước nhà có nhiều thay đổi, nhờ đó ông Trịnh Hữu Ngọc đã đóng góp cho quê hương cả trong chiến tranh lẫn giai đoạn đổi mới, xây dựng đất nước.
Sách ‘Họa sĩ Trịnh Hữu Ngọc – Di sản đặc biệt của Mỹ thuật Đông Dương’
548
Bầu trời mây ngũ sắc tại chung cư IDICO rạng sáng 8-7. Ảnh: THIỆN HỢP. Rạng sáng 8-7, hiện tượng mây ngũ sắc xuất hiện tại một số khu vực thuộc Q.Tân Phú và Q.11 ( TP.HCM ). Nhiều người dân ở chung cư IDICO ( quận Tân Phú ) cho biết bất ngờ và thú vị khi thức dậy thấy những đám mây có các màu sắc đẹp mắt như vậy. Đi tập thể dục buổi sáng tại công viên Văn hóa Đầm Sen ( Q.11 ), chị Nguyễn Hương chia sẻ: “Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được thấy trời lạ vậy. Quả là thiên nhiên luôn chứa đựng những điều thú vị, bất ngờ”. Mây ngũ sắc là một hiện tượng thiên nhiên kỳ thú. Hiện tượng này xuất hiện là do nhiễu xạ, khi ánh sáng mặt trời bị phản xạ và khúc xạ qua các đám mây cho thấy những màu khác nhau trên những đám mây tầng cao. Mây ngũ sắc xuất hiện phổ biến trong mây trung tích, mây dạng thấu kính, và những đám mây li ti. Mây ngũ sắc cũng xuất hiện tại công viên Văn hóa Đầm sen tạo nên không gian thơ mộng. Ảnh: THIỆN HỢP. Theo quan niệm của người dân ở các quốc gia như Đài Loan, Trung Quốc, Singapore,… khi những đám mây ngũ sắc xuất hiện, được xem là biểu hiện của vận may, cát tường. Đối với các quốc gia như Scotland, Canada,… mây ngũ sắc xuất hiện báo hiệu thời tiết rất khắc nghiệt đang đến gần. Theo kinh nghiệm nghiên cứu khoa học của các nhà khí tượng thủy văn, mây ngũ sắc ở mỗi địa phương sẽ có hình dạng, dãy màu loang khác nhau nhưng điểm chung là khi xuất hiện, mây ngũ sắc báo hiệu thời tiết nắng nóng kéo dài, các đám mây ngưng tụ thành giọt nước nhưng không thể mưa được. Mây ngũ sắc (tên tiếng Anh là Cloud iridescence) là hiện tượng xuất hiện của màu sắc trong một đám mây. Nó là một hiện tượng khá phổ biến, thường thấy nhất trong mây trung tích, mây ti tích và mây ti. Thời gian gần đây, Việt Nam nhiều lần xuất hiện hiện tượng mây ngũ sắc hay còn gọi là mây “lưỡi trai” nhưng không phải lúc nào cũng có thể quan sát được hiện tượng này.
Vẻ đẹp kỳ ảo của bầu trời mây ngũ sắc tại TP.HCM
388
Nước sạch đóng vai trò rất quan trọng đối với sức khỏe và cuộc sống, đây là nguồn tài nguyên quý giá với muôn loài. Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA) cho biết các nhà khoa học của họ đã thêm ‘một bước gần hơn tới sứ mệnh khám phá vũ trụ’. Hệ thống Hỗ trợ Kiểm soát Môi trường và Sự sống (ECLSS) này có thể lọc được gần như toàn bộ nước thải của các phi hành gia bằng một hệ thống mới chưng cất mồ hôi, nước tiểu và hơi ẩm khác trong cabin thành nước uống sạch. Phi hành gia NASA Kayla Barron thay thế bộ lọc trong Bộ xử lý nước sạch của trạm vũ trụ. Ảnh: NASA. NASA cho biết 98% nước thải trên trạm vũ trụ đã được thu hồi thành công. Jill Williamson, người quản lý các hệ thống phụ về nước cho biết, “Cách lọc nước này tương tự như cách xử lý nước trên đất liền nhưng có nhiều thách thức về vi trọng lực. Các phi hành gia không hề uống nước tiểu, thực tế sản phẩm thu được còn tinh khiết hơn nước uống ở địa cầu”. Theo ông Williamson, các hệ thống như ECLSS sẽ đóng vai trò then chốt trong các sứ mệnh du hành tương lai của NASA . “Lượng nước và dưỡng khí được đưa lên tàu càng ít, càng có thêm nhiều thiết bị khoa học được mang theo”, ông kết luận.
Biến nước thải thành nước uống
245
Ảnh đồ họa mô tả "quái vật vũ trụ" từ thế giới cổ xưa và xa xôi - Ảnh: ESO. Các nhà khoa học thậm chí đã vấp phải lầm lẫn lớn khi bắt đầu tìm hiểu về vật thể bí ẩn vừa làm gợn sóng không – thời gian, lóa mắt 2 kính viễn vọng không gian của NASA. Theo Live Science, vật thể mang tên J221951 là một trong những thứ sáng nhất từng được các nhà thiên văn phát hiện. Nó nằm cách xa Trái Đất tận 10 tỉ năm ánh sáng, nhưng vì quá sáng nên ban đầu bị lầm lẫn là một vụ nổ sao cách chúng ta chưa đến 1 tỉ năm ánh sáng. Trong nghiên cứu mới, các nhà thiên văn học dẫn đầu bởi TS Matt Nicholl từ Trường Đại học Queen’s Belfast (Anh) đã cố gắng xác định nguồn gốc của ánh sáng chói lòa mà hai kính viễn vọng không gian Hubble và Neil Gehrels Swift của NASA cùng ghi nhận. Điều ngạc nhiên đầu tiên xảy ra khi các nhà nghiên cứu cố lần theo đường đi của sóng hấp dẫn từ nó, một gợn sóng chuyển động rất nhanh trong không – thời gian. Giả thuyết ban đầu họ đưa ra là một vụ nổ do 2 sao neutron va chạm. Sao neutron dạng “thây ma” của các ngôi sao khổng lồ và có thể gây ra một vụ nổ “kilonova”, sáng hơn siêu tân tinh (supernova) thông thường rất nhiều. Nhưng nó không thể là kilonova, vì kilonova thường xuất hiện với ánh sáng màu xanh lam, sau đó chuyển sang màu đỏ chỉ sau vài ngày. Vật thể quái dị này xanh trong nhiều tháng, tức nó mạnh, nóng, sáng hơn rất nhiều. Dữ liệu các tháng sau đó của hai kính viễn vọng NASA tìm ra điểm mấu chốt: Nó thẳng hàng với một thiên hà mờ và xa xôi, nằm cách chúng ta tới 10 tỉ năm ánh sáng. Khoảng cách này đồng nghĩa ánh sáng từ nó cũng mất xấp xỉ 10 tỉ năm để đi được đến Trái Đất, với sai số chút ít do tác động từ các vật thể trên đường đi, tạo thành hình ảnh ghi nhận được. Nói cách khác, chúng ta đang nhìn xuyên không – thời gian vào một thiên hà tồn tại khi vũ trụ chỉ hơn 1/4 tuổi hiện tại, chứng kiến một sự kiện rực sáng 10 tỉ năm trước. “Quái vật” rực rỡ đó cuối cùng được xác định là một lỗ đen khổng lồ, vừa trỗi dậy trong một vụ bùng phát dữ dội, nên phát sáng thành một dạng chuẩn tinh. Lỗ đen thường sáng như vậy khi nó may mắn có được một bữa ăn lớn. Dù nguyên do gì khiến nó phát sáng thì khoảnh khắc ngàn năm có một này đã giúp các nhà khoa học nhìn thấy nó, vì lỗ đen ngủ yên thì hoàn toàn tối đen. Một lỗ đen “quái vật” như vậy trong vũ trụ sơ khai cũng là một vật thể ngoài mong đợi, phá vỡ lý thuyết lâu đời rằng buổi bình minh của vũ trụ rất đơn điệu. Nó góp thêm vào các bằng chứng gần đây cho thấy vũ trụ phát triển nhanh đến không ngờ trong vài tỉ năm đầu, nơi thiên hà được ồ ạt sinh ra, va chạm và sáp nhập nhiều lần. Chính những vụ sáp nhập đó khiến các lỗ đen siêu khối ở trung tâm các thiên hà đó sáp nhập và tạo ra các “quái vật” khổng lồ, giống như Sagittarius A* của Milky Way (Ngân Hà), chính là thiên hà chứa Trái Đất , một “người khổng lồ” đã trải qua ít nhất gần 20 lần sáp nhập.
Vật thể ‘không thể tin nổi’ hiện về từ thế giới 10 tỉ năm trước
619
Anh Nguyễn Bảy đứng trước Phù điêu Đản sinh Brahma Mỹ Sơn E1 - một hiện vật đang làm hồ sơ đề nghị công nhận bảo vật quốc gia năm 2023. Ảnh: TIỂU YẾN. Bảo vật quốc gia đóng vai trò quan trọng trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử, văn hóa một vùng đất. Vì vậy, để công nhận một hiện vật, mẫu vật, tác phẩm nghệ thuật, mỹ thuật, di tích, bộ sưu tập… là bảo vật quốc gia đòi hỏi quy trình xét duyệt cẩn thận, chính xác nhằm bảo đảm sự công bằng, minh bạch, tạo cơ sở cho hoạt động bảo vệ, quản lý và phát triển tốt nhất các giá trị của bảo vật. Với những cán bộ đã, đang công tác tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm, quá trình làm hồ sơ đề nghị Thủ tướng Chính phủ công nhận 6 bảo vật quốc gia luôn là kỷ niệm đẹp và đáng tự hào. Nhà nghiên cứu Võ Văn Thắng , nguyên Giám đốc Bảo tàng Điêu khắc Chăm nhớ lại, năm 2012, lãnh đạo bảo tàng quyết định làm hồ sơ đề nghị Thủ tướng Chính phủ công nhận 3 hiện vật Chăm có giá trị, gồm Đài thờ Trà Kiệu, Đài thờ Mỹ Sơn E1 và Tượng Bồ tát Tara là bảo vật quốc gia. Đây là lần đầu tiên Việt Nam tổ chức đợt công nhận bảo vật quốc gia và bảo tàng xem đây là nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, lịch sử của những hiện vật giá trị đang được trưng bày, lưu giữ tại đây. Được biết, đó là 3 hiện vật tiêu biểu của nền văn hóa Chămpa nên công tác làm hồ sơ diễn ra khá thuận lợi. Dù vậy, trong suốt quá trình đó, ông Thắng cùng mọi người tỉ mẩn rà soát từng trang tài liệu, sắp xếp, tổng hợp, cũng như bổ sung, đánh giá toàn bộ nội dung. Đặc biệt, có rất nhiều thông tin hay, quý giá đã được phát hiện, bổ sung trong giai đoạn này. Theo ông Thắng, việc làm hồ sơ hiện vật không đơn thuần là đáp ứng các quy định của Luật Di sản văn hóa về xét duyệt bảo vật quốc gia, mà rộng hơn, là cơ hội để bảo tàng hệ thống lại thông tin hiện vật nhằm phục vụ công tác lưu trữ, tuyên truyền và quảng bá sau này. Mỗi lần làm hồ sơ hiện vật, người làm công tác nghiên cứu như ông Thắng có thêm cơ hội tiếp cận thông tin mới, đa chiều và sâu sắc hơn. Đơn cử, để hoàn thành bộ hồ sơ đề nghị công nhận Đài thờ Trà Kiệu là bảo vật quốc gia, đội ngũ cán bộ bảo tàng đã chắt lọc thông tin từ hàng ngàn trang tài liệu và hàng trăm bài viết của các nhà nghiên cứu, học giả trong và ngoài nước. Đặc biệt, trong quá trình làm hồ sơ, cán bộ bảo tàng luôn tôn trọng ý kiến đánh giá, lý giải đa chiều (thậm chí trái chiều) của các nhà nghiên cứu, học giả về một sự vật, hiện tượng liên quan. Ví dụ, năm 1930, Jean Przyluski đăng bài nghiên cứu trên tạp chí Nghệ thuật Á Châu, diễn giải các nhân vật trên Đài thờ Trà Kiệu theo một truyền truyết về vương quốc Phù Nam (Przyluski 1930). Một năm sau, George Coedes có bài trên tạp chí Trường Viễn đông Bác cổ Pháp, không tán thành các lý giải của Przyluski, mà cho rằng các cảnh chạm khắc trên đài thờ là những mẫu chuyện về thần Krisna (Coedes 1931). Thú vị hơn, hơn 50 năm sau, nhà nghiên cứu Trần Kỳ Phương, trong bài viết “Đọc lại Đài thờ Trà Kiệu”, không tán thành cách giải thích của Coedes và đưa ra cách đọc các chạm khắc trên đài thờ theo một chuyện kể về đám cưới của Rama và Sita trong trường ca Ramayana. Nhà nghiên cứu Võ Văn Thắng cho rằng, trong 6 bảo vật quốc gia đang được lưu giữ tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm, Đài thờ Trà Kiệu là một bảo vật có giá trị ở nhiều khía cạnh. Đây là đài thờ Chămpa duy nhất còn tương đối nguyên vẹn với phần bệ vuông ở dưới và bệ yoni tròn ở trên. Cấu tạo của hệ yoni với hai thớt tròn đối xứng qua hai lớp cánh sen và một chiếc linga 3 tầng đặt trong lòng là một cấu tạo tiêu biểu của tổ hợp yoni-linga trong văn hóa cổ Ấn Độ, đã được tiếp thu ở Chămpa. Đài thờ có các đường nét điêu khắc hết sức tinh tế, sống động và phong phú, đủ để khái quát thành các tiêu chí nền tảng của phong cách nghệ thuật, tiêu biểu cho một bước phát triển trong nghệ thuật Chămpa. Trong khi đó, các hồ sơ bảo vật quốc gia Đài thờ Mỹ Sơn E1, Tượng bồ tát Tara, Đài thờ Đồng Dương, Tượng thần Ganesha… cũng cung cấp nhiều thông tin quan trọng, hữu ích cho quá trình nghiên cứu, đánh giá giá trị lịch sử, văn hóa sau này của vùng đất Chămpa xưa. Theo quy định tại Khoản 21, Điều 1, Luật Di sản văn hóa sửa đổi năm 2009, những hiện vật được công nhận bảo vật quốc gia phải đáp ứng các tiêu chí sau: độc bản; hình thức độc đáo; có giá trị đặc biệt, tiêu biểu, liên quan đến một sự kiện trọng đại của đất nước hoặc liên quan đến sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân tiêu biểu, là tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng, là sản phẩm được phát minh, sáng chế tiêu biểu, có giá trị thực tiễn cao, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển ở một giai đoạn lịch sử nhất định, hoặc có thể là mẫu vật tự nhiên chứng minh cho các giai đoạn hình thành và phát triển của lịch sử trái đất, lịch sử tự nhiên… Phó Giám đốc Bảo tàng Điêu khắc Chăm Trần Đình Hà khẳng định, việc làm hồ sơ công nhận bảo vật quốc gia tại bảo tàng được thực hiện đúng quy định của ngành văn hóa, như lựa chọn những hiện vật bảo đảm đầy đủ các tiêu chí nêu trong Thông tư 13/2010/TT-BVHTTDL ngày 30-12-2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về nội dung hồ sơ công nhận bảo vật quốc gia. Ông Hà cho hay, hiện nay, có rất nhiều hiện vật ở Bảo tàng Điêu khắc Chăm đáp ứng 3 tiêu chí: là hiện vật gốc; độc bản; có hình thức độc đáo và tiêu biểu, đại diện cho một phong cách nghệ thuật trong điêu khắc Chămpa. Sau khi chọn ra hiện vật bảo đảm đầy đủ tiêu chí trên, bảo tàng tiến hành nghiên cứu, xây dựng bộ hồ sơ khoa học cũng như sưu tầm tư liệu liên quan như công trình nghiên cứu, bài viết, ảnh, sách, tạp chí… của các học giả trong và ngoài nước. Khi hoàn thành hồ sơ dự thảo, bảo tàng tổ chức lấy ý kiến của Hội đồng khoa học và chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện hồ sơ trình Sở Văn hóa và Thể thao. Hồ sơ sau khi được Hội đồng thẩm định hiện vật thuộc Sở Văn hóa và Thể thao thẩm định, sẽ trình lên UBND thành phố trước khi chuyển Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thủ tướng Chính phủ theo quy định. Hiện nay, ngoài 6 bảo vật quốc gia được công nhận, Bảo tàng Điêu khắc Chăm đang tiếp tục hoàn thiện hồ sơ đề nghị Thủ tướng Chính phủ công nhận 3 hiện vật điêu khắc Chăm là bảo vật quốc gia, gồm Tượng Shiva Mỹ Sơn C1, Phù điêu Đản sinh Brahma Mỹ Sơn E1 và Phù điêu Apsara Trà Kiệu. Trực tiếp dự thảo hồ sơ 3 hiện vật này, anh Nguyễn Bảy, Di sản viên, Phòng Sưu tầm – Bảo quản và trưng bày, Bảo tàng Điêu khắc Chăm cho biết, các nội dung, hình ảnh, số liệu trong hồ sơ hiện vật đang được rà soát kỹ lưỡng, cẩn thận từng con chữ, số liệu, bảo đảm thông tin hiện vật được cung cấp đầy đủ, chính xác và chân thực nhất. “Ngoài nguồn tư liệu nghiên cứu, điền dã dồi dào, phong phú thì hiện nay có không ít tài liệu liên quan đến hiện vật điêu khắc Chăm được viết bằng tiếng Pháp và chữ viết Chăm, gây khó khăn trong quá trình dịch thuật. Do đó, để hoàn thiện bộ hồ sơ, đội ngũ nghiên cứu phải tham khảo ý kiến của rất nhiều chuyên gia, học giả, nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, nghệ thuật, mỹ thuật nhằm đi đến thống nhất chung”, anh Bảy chia sẻ. Có thể nói, ngoài những giá trị về mặt mỹ thuật, điêu khắc, thì mỗi hồ sơ bảo vật quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và lan tỏa giá trị lịch sử, văn hóa cho đời sau. Đây là nguồn sử liệu quý giá, không chỉ cung cấp kiến thức cho các nhà nghiên cứu, mà còn giúp chúng ta hiểu sâu hơn về quá khứ hình thành và phát triển của mỗi vùng đất, mỗi dân tộc. Nhà nghiên cứu Bùi Văn Tiếng: “Đề nghị công nhận hiện vật nào đó đang được bảo tồn tại địa phương mình là bảo vật tức là đã thừa nhận ở một mức độ nhất định giá trị văn hóa hoặc giá trị lịch sử hoặc cả hai – cả giá trị văn hóa và giá trị lịch sử – của hiện vật. Nhưng để được thừa nhận ở tầm cấp cao hơn, hồ sơ của từng bảo vật phải nêu bật được những giá trị ấy bằng lập luận chặt chẽ, bằng thái độ khách quan khoa học và quan trọng hơn là bằng dữ liệu chân thật và chính xác về nguồn gốc xuất xứ của hiện vật; phải thuyết phục được cấp có thẩm quyền rằng đây là hiện vật thực, đúng với niên đại và lý lịch đã nêu trong hồ sơ; nhất là phải giải trình một cách thuyết phục mọi khả năng tồn nghi. Chẳng hạn một khẩu thần công từng xông pha chiến trận như các khẩu thần công ở Thành Điện Hải – không thể còn nguyên vẹn những chạm khắc ban đầu về nguồn gốc xuất xứ khi mới vừa được tạo tác, nên đem tiêu chí này để xem xét công nhận bảo vật thì sẽ thiếu công bằng với những khẩu thần công đầy chiến công chưa được “chấm công” ấy. Tính tiêu biểu là tiêu chí khó nhất để lập hồ sơ xin công nhận một hiện vật nào đó là bảo vật, bởi để khẳng định hiện vật này là tiêu biểu cho một trường phái hội họa hay trường phái kiến trúc… cần phải đối chiếu với những hiện vật cùng loại, chẳng hạn như con rồng triều Lý khác với con rồng triều Trần, cũng khác với con rồng triều Nguyễn, và chỉ có thể xác định con rồng này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tạo hình của một triều đại nào đó khi đã thẩm định bằng cách so sánh với những con rồng được tạo tác cùng thời điểm và khác thời điểm”.
Hồ sơ bảo vật: Nguồn tư liệu quý
1,934
Tàu vũ trụ Solar Orbiter đã phát hiện ra những trận mưa nhật hoa ở khoảng cách 49 triệu km so với Mặt Trời. Ảnh: Solar Orbiter EUI. Theo Space, mới đây, các nhà thiên văn học đã phát hiện những vệt sáng trông giống như mưa sao băng xuất hiện trên bề mặt Mặt Trời. Quan sát được thực hiện bởi tàu vũ trụ Solar Orbiter của Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA), đánh dấu lần đầu tiên những tác động này được phát hiện. Khác với sao băng trên Trái Đất là vật chất không gian bốc cháy khi chúng đi vào bầu khí quyển, sao băng trên Mặt Trời là những khối plasma khổng lồ rơi xuống bề mặt ngôi sao với tốc độ đáng kinh ngạc. Trên Trái Đất, hầu hết thiên thạch không thể xuất hiện trên bề mặt do bầu khí quyển dày đặc. Tuy nhiên, bầu khí quyển của Mặt Trời – vành nhật hoa – lại mỏng hơn nhiều. Và do đó, những khối thiên thạch không bị loại bỏ hoàn toàn khi chúng rơi xuống. Chúng hoàn toàn có thể tiếp cận bề mặt Mặt Trời một cách nguyên vẹn. Quá trình này có thể tạo ra sự phát sáng ngắn nhưng mạnh, đồng thời gia tăng vật chất sao và sóng xung kích, làm nóng lại khí trong vành nhật hoa phía trên các tác động, hình thành mưa nhật hoa. Các nhà khoa học cho rằng phát hiện này có thể giúp giải đáp bí ẩn tại sao vành nhật hoa nóng hơn nhiều so với các lớp bề mặt Mặt Trời. Theo các nhà nghiên cứu, mưa nhật hoa – ngoại trừ cấu tạo của nó – tuân theo các định luật vật lý giống như mưa ở đây trên Trái Đất. Thay vì được tạo thành từ nước, mưa nhật hoa hình thành khi nhiệt độ cục bộ giảm xuống, khiến cho plasma Mặt Trời co cụm lại thành những khối siêu dày đặc. Đạt đến kích thước rộng tới 250 km, những khối plasma này sau đó rơi xuống bề mặt của Mặt Trời dưới dạng cơn mưa lửa với tốc độ lên tới 100 km/giây. Tàu vũ trụ Solar Orbiter đã phát hiện ra những trận mưa nhật hoa ở khoảng cách 49 triệu km so với Mặt Trời. Tàu thăm dò được trang bị máy ảnh độ phân giải cao và bộ thiết bị viễn thám nhạy bén đã thấy rằng có khí được làm nóng đến khoảng 1 triệu độ C, đồng thời bị nén dưới những cơn mưa nhật hoa. Hiện tượng này chỉ kéo dài vài phút và là kết quả của các khối plasma rơi xuống. “Vùng vành nhật hoa quá nóng, chúng tôi không thể thăm dò nó tại chỗ bằng tàu vũ trụ. Tuy nhiên, quỹ đạo của Solar Orbiter đủ gần Mặt Trời để có thể phát hiện các hiện tượng xảy ra bên trong vành nhật hoa, chẳng hạn như tác động của ‘mưa’. Điều này cho phép chúng tôi có cuộc thăm dò gián tiếp về môi trường vành nhật hoa để hiểu về thành phần và nhiệt động học của nó”, nhà nghiên cứu Patrick Antolin (Đại học Northumbria, Anh ) nói.
Sao băng’ rơi xuống Mặt Trời
537
N hà thơ Hungary Petofi Sando. Khi còn là cô sinh viên khoa Sinh học, tôi đã chép những vần thơ của nhà thơ Hungary Petofi Sando: Tự do và ái tình/ Vì các ngươi ta sống/ Vì tự do muôn đời/ Tôi hi sinh tình ái. May mắn, thế hệ của chúng tôi đã không phải hi sinh tình ái. Sau này khi nhập vào văn chương tôi đã chọn đứng về phía những người yếu thế để trình bày lên trang viết của mình những khổ đau. Truyện ngắn Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (1989) của tôi là câu chuyện về những trải nghiệm khổ đau cả về thể xác lẫn tinh thần của một cô gái trẻ trong ca nạo phá thai. Khi truyện ngắn được in, nhiều người đọc đã bị sốc bởi vấn đề tôi đưa ra khá trần trụi. Nhiều người cũng rất tò mò về tác giả: Cô ta đã đứng ở đâu trong tác phẩm này? Là thủ phạm? Hay chính là nạn nhân? Bởi từng trang viết sống động đến như thế. Sau hơn 30 năm vẫn nhiều người đưa ra những câu hỏi đó. Văn chương luôn hấp dẫn người đọc bởi sự huyền bí giữa nhà văn và tác phẩm của họ là vậy. Rồi đến I am Đàn bà , người đọc tiếp tục thắc mắc Y Ban đã đứng ở chỗ nào khi viết tác phẩm này. Tất nhiên không phải là nhân vật Thị được rồi. Nhưng có một chỗ rất nghi, đấy là sự ẩn ức về tình dục. Có phải Y Ban viết về sex là do quá ẩn ức về tình dục? Độc giả cứ muốn chẻ hoe đời sống của tác giả để lí giải tác phẩm của họ. Không sao. Hay mà. Lại thêm một huyền thoại nữa về nhà văn được bồi đắp. Một phần sự thật khi viết I am Đàn bà , đó là khi tôi đọc một mẩu tin trên báo nói về một người đàn bà phải ra tòa vì tội quấy rối tình dục, người phụ nữ làm ôsin chăm sóc một người bị liệt. Mẩu tin không hề nói đó là người đàn bà của nước nào. Tôi đã ngồi cả một buổi chiều buồn bã và tự vấn. Thực chất tôi là một người đàn bà truyền thống. Tôi nghĩ người đàn bà có thể phạm tội ăn cướp lừa đảo… thậm chí giết người nhưng không thể phạm tội quấy rối tình dục. Như một quan tòa, tôi đã nghĩ ra nhiều chi tiết để bao biện cho tội lỗi của Thị, vì thế khi truyện ngắn được in có một số ý kiến cho rằng truyện ngắn quá thừa các chi tiết không liên quan… Truyện ngắn Cái Tý (1998) của tôi viết về một đứa trẻ gái ở một vùng quê nghèo nhưng đã có cái bản năng vĩnh cửu của một người đàn bà Việt tần tảo lo toan: “Chú biết không, chú cũng nên lấy vợ để được chia ruộng chứ không lấy cái gì mà ăn. Nhưng không biết chú có được tiêu chuẩn xã cho ruộng không nhỉ. Chắc là không rồi, vì chú ở nơi khác đến. Thế thì để cháu vậy. Cháu mà lấy chồng cũng được chia ruộng riêng. Nhưng mà lâu quá, những 8 năm nữa mới đủ tuổi…”. Cái Tý nói thế nhưng nó đã biết thế nào là bổn phận của người làm vợ đâu. Mà từ trong tim, nó thấy người đàn ông đó thật gần gũi như cha mẹ nó vậy. Nó muốn được ôm ấp vào lòng như mẹ vẫn ngày ngày ôm ấp em bé của nó. Có lẽ lúc biết nhớ, nó luôn chỉ được đứng bên cạnh để nhìn mẹ ôm ấp hết đứa em nọ đến đứa em kia nối đuôi nhau ra đời. Nó nghĩ rằng, hai năm nữa, khi làm vợ người đàn ông, nó sẽ được ôm ấp vào lòng như mẹ, một cử chỉ mà chưa khi nào bố làm. Nó bỗng muốn nhào vào lòng người đàn ông mà gọi bố ơi. Nhưng sao kia, người đàn ông đó cười mà mắt lại ngấn nước. Và, ánh mắt nhìn nó mới yêu mến làm sao. Nó đến bên cạnh người đàn ông, khẽ đụng vào vai. Người đàn ông ôm choàng nó, thổn thức: “Con ta”. Tim nó ngân vọng: “Cha ơi”. Trong một bức thư gửi cho con trai, tôi đã viết: “Mẹ là nhà văn, nhà báo, bố là nhà điêu khắc. Những đồng tiền của bố mẹ kiếm được là từ những tác phẩm nghệ thuật, những tác phẩm văn chương. Và… tất nhiên những đồng tiền của mẹ kiếm được cả từ những bài báo “Do Dự” nữa con à. Mẹ đặt tên cho những bài báo của mẹ là “Do Dự” vì chúng chẳng thể hiện quan điểm nào của mẹ. Mẹ chỉ viết chúng để lấy nhuận bút.” Tuy nhiên khác với những bài báo “Do Dự” để lo cho cuộc sống thì những tác phẩm văn học thường được tôi đẩy đến tận cùng. Trong tiểu thuyết Công viên cứu hộ loài người tôi đã để hai con chó (Tom và Terry) bàn luận về đồng tiền như thế này: “Ơ hay, có gì xúc động thế mà phải khóc chứ. Câu chuyện đang hay mà. Hình như tôi đã nghĩ ra được điều gì hay ho trong đầu. Tom đi vòng quanh ba lần rồi đĩnh đạc ngồi xuống. Tôi đã tìm ra thủ phạm đang giết hại loài người, đó là tiền. Loài người đang bị phụ thuộc bởi đồng tiền. Tôi lấy ví dụ nhé, ông chủ của tôi, ông ấy có yêu thương chúng tôi không? Tôi khẳng định là có. Tôi cảm nhận được điều đó qua bàn tay ông ấy vuốt ve tôi. Rồi ông ấy bị đồng tiền làm cho lóa mắt khi ông ấy chứng kiến canh bạc chọi chó. Đồng tiền chảy vào túi rất dễ. Ông ấy mới luyện chúng tôi để đi chọi. Tôi đã nhìn thấy những đồng tiền sau buổi tôi thắng cuộc, nhiều lắm. Và vẻ mặt hỉ hả của ông chủ tôi. Mặc cho tôi đau đớn rên rỉ đêm ấy ông chủ mở đại tiệc ăn mừng. Ông ấy làm nhiều thức ăn ngon, nhiều rượu ngon và có nhiều cô gái đẹp, nõn nà thơm phức vây quanh. Họ ăn uống tưng bừng rồi từng cặp họ giao phối. Tôi nhìn thấy một cặp rất gần, còn họ không nhìn thấy tôi. Cô gái trẻ lắm, còn người đàn ông kia thì đã già và bặm trợn. Cô gái rên rỉ đau đớn và máu chảy dài xuống chân. Tôi rất thương cô gái đó. Tôi muốn nhảy ra cắn nát mặt người đàn ông kia. Nhưng tôi không thể, tôi bị xích và tôi đang bị thương. Bỗng nhiên cô gái trẻ ngừng khóc và rên rỉ. Cô ấy cười có vẻ rất hạnh phúc khi người đàn ông già bặm trợn đưa cho cô ta hai cọc tiền. Cô ta lấy những đồng tiền lau vết máu đang chảy xuống chân, rồi cô ta nhảy lên người đàn ông. Bỗng chốc có sự thay đổi, người đàn ông kia mới là nạn nhân của cô ta. Tôi đã căm ghét đồng tiền từ khi đó. Nếu loài người không muốn bị diệt vong thì loài người phải khai tử đồng tiền…”. Đến nay tôi đã viết 7 cuốn tiểu thuyết, 2 truyện vừa, 150 truyện ngắn, gần 200 truyện ngắn mini và 1 tập thơ. Tôi không thể nhớ hết cảm xúc trước khi viết một tác phẩm nhưng tôi vẫn nhớ những trận vừa khóc vừa viết Chín khúc hát ru của thiên thần hay Mẹ không thể xin lỗi con … Và vừa viết vừa cười. Các truyện ngắn mini khiến tôi vừa viết vừa cười nhiều nhất. Ví dụ truyện ngắn Đơn vị đo lường mới : “Chủ quán đâu đong cho một mồm rượu”. Hay như truyện ngắn Khi chim biến thành gà : Ở đời, chim là chim mà gà là gà. Vậy mà ở nhà kia có chuyện rất hóm: chim biến thành gà. Chuyện là thế này: “lão Phật gia” được biếu một con hỉ tước, nó hót rất hay. Lông đen mượt, cái đuôi vểnh vểnh. Con trai lão không muốn hỉ tước sa vào cảnh cá chậu chim lồng bèn xây một cái nhà be bé chừng khoảng một mét vuông, lại dựng một cây khô cho hỉ tước chuyền từ cành nọ sang cành kia hót líu lo và vẩy vẩy cái đuôi hỉ tước. Hỉ tước sung sướng hạnh phúc được vài tháng thì trong cái nhà một mét vuông có thêm một thành viên mới. Một cục thịt be bé lởm chởm vài cái lông, chỉ nhảy lò cò không biết bay. Đuôi trụi thùi lủi chẳng có cái lông nào. Cậy ma cũ hỉ tước bay xuống mổ vào cái lưng trụi của cục thịt kia. Cục thịt chạy tán loạn rồi đứng nép vào một góc. Hỉ tước sung sướng nhảy lên cành hót líu lo. Buổi chiều “lão Phật gia” mở cửa căn nhà be bé gọi cục cục cục. Cục thịt lò cò chạy ra. “Lão Phật gia” giơ tay ẵm cục thịt nựng nựng: – Công công. Con công hay múa, nó múa làm sao? Nó chụm chân vào nó xòe cánh ra. Lớn nhanh lên mọc lông mọc cánh múa cho ông xem nhé. Chết, sao lưng công có vết mổ thế này. A mày, cái con thổ tả kia mày dám à? Hỉ tước thì ông cũng cho vào lò nướng. “Lão Phật gia” tìm cái gậy khua loạn xạ vào nhà be bé. Hỉ tước sợ mất mật nhảy như cào cào rồi nép vào một chỗ trốn. Từ đấy hỉ tước không dám mổ cái cục thịt kia nữa. Hỉ tước suy ngẫm về thân phận của mình: Có cánh thì để làm gì chứ? Cũng sà xuống đất để mổ cám trong khay. Có lông đuôi để làm gì chứ? Nước trong cóng chỉ để uống chứ có tắm được đâu. Hót hay thì để làm gì chứ? Nhà này làm gì có thời gian để nghe chim hót. Hỉ tước để mà làm gì chứ? Cái cục thịt trụi thui lủi kia là vật báu rồi. Thế thì cần gì lông cổ lông cánh lông đuôi. Hỉ tước bèn vặt dần đám lông mượt mà óng ánh mà chủ nhân trước của hỉ tước đã dày công chăm sóc trước khi tặng vào cái nhà be bé. Bây giờ thì hỉ tước cũng trụi thui lủi, chỉ còn sót lại vài cái lông lưa thưa. Cục thịt trụi thui lủi kia nhìn hỉ tước tưởng đồng loại, đến gần rúc rúc tìm hơi ấm. Hỉ tước muốn mổ cho mấy nhát, nhưng sợ, lại thôi. “Lão Phật gia” mở nhà be bé để đưa vào mấy con giun cho cục thịt trụi thui lủi. Cục thịt nép vào tay “lão Phật gia” để được vuốt ve. “Lão Phật gia” nâng cục thịt trên tay âu yếm: – Công lớn nhanh lên mọc lông đẹp rồi múa cho ông xem nào. Con công hay múa, nó múa làm sao? Nó chụm chân vào nó xòe cánh ra là lá la la. Thôi vào ăn giun đi. “Lão Phật gia” thả công vào nhà be bé. Hỉ tước cũng muốn được “lão Phật gia” nựng nọt bèn cọ vào tay lão. Lão rụt vội tay vào, réo lên: – Cái thổ tả gì thế này? Ối đồng bào anh em láng giềng ơi, con thổ tả này bị Ebola rồi. Mày xéo ngay đi, xéo! “Lão Phật gia” lấy cái que xua hỉ tước ra khỏi nhà be bé. Hỉ tước vội lủi vào một xó. Hỉ tước không biết khóc. Nó chỉ nấc lên: – Ôi cái thân tôi gà chẳng ra gà chim chẳng ra chim biết sống thế nào đây. Hay là mắc bệnh Ebola để chết quách đi cho rồi… Tôi thuộc tuýp nhà văn sống rồi mới viết nên rất dám dấn thân. Tôi trân trọng mọi cung bậc cảm xúc của ái ố hỉ nộ tham sân si. Và khi nào các cảm xúc dâng đầy muốn nổ tung ra thì tôi ngồi vào bàn viết.
Tôi đã đứng ở vị trí nào khi viết? – Tác giả: Y Ban
2,053
Có hai câu thơ của tác giả Lan Tử Viên mà tôi đọc được vào một sáng mùa hè: ‘Cuộc đời tuy nhỏ bé/ Đi mãi vẫn khôn cùng’. Rồi ý thơ này bỗng nảy ra trong đầu tôi sau những trang viết cuối cùng cuốn tiểu thuyết ‘Bố con cá gai’. Di sản của cuộc đời còn có thể là gì nếu không phải là tình yêu thương. Đây hẳn là điều mà người đọc sẽ nhận ra sau những khóc nghẹn và đau nhói khi đọc hơn 300 trang sách của nhà văn Cho Chang – In. Cuộc đời con người chỉ là một chấm đen bé xíu giữa thế giới rộng lớn, nhưng cuộc đời “khôn cùng” bởi nỗi cô đơn và những đau đớn nghiệt ngã đôi khi không thể nào đong đếm được, thậm chí cho đến khi con người ta nằm xuống, có những điều vẫn cứ còn khắc khoải. Hình ảnh biểu tượng cho tác phẩm này là con cá gai – bảo vệ trứng cá gai khi cá gai mẹ bỏ đi, rồi khi cá gai con trưởng thành, cá gai bố sẽ đâm vào vách đá chết, cũng như người cha Jong Ho Yeon đã hy sinh cả cuộc đời mình cho con. Jong Ho Yeon sinh ra và lớn lên trong bất hạnh, mẹ bỏ đi, cha vì bất lực trước cuộc đời quá khó khăn, đã bỏ anh lại ở đồn công an và tập tễnh với một bên chân giả đi sâu mãi vào bóng tối. Và, giữa những khổ sở về vật chất và sự cô độc giữa cuộc đời không một điểm tựa, anh đã lớn lên tử tế, đã sống chân thật với chính mình, đã luôn khao khát yêu thương. Thật may mắn khi giữa đường đời gập ghềnh chông chênh, Jong Ho Yeon vẫn có thể yêu thương, kết hôn và có con. Dẫu anh đau đớn khi người vợ rời bỏ, nhưng anh còn có con trai nhỏ, ý nghĩa của cuộc đời anh từ đó xoay quanh bé Daum. Anh đã dành mọi thứ cho đứa con trai nhỏ bị bệnh máu trắng. Cho đến cuối cùng, khi xác thân đau đớn vì bệnh tật, khi đã bán một bên giác mạc để trả viện phí ghép tủy cho con, khi giữa mịt mờ, lo lắng, ấm ức khiến anh nghĩ “biết nói lời hy vọng gì cho chính mình đây?”, thì anh vẫn khao khát dành “cả tấm lòng” mình cho con trai và thấy may mắn vì có thể còn làm điều gì đó cho con trước khi ra đi. Người cha ấy, và có lẽ cũng là rất nhiều người cha trên đời này, dù khổ sở ra sao vẫn cố gắng đứng vững vì con, dù những cơn đau hành hạ vẫn đứng tì trán vào cửa kính cười với con trong phòng vô trùng bằng bên mắt còn lại. Và, ngay cả giữa cơn đau vì căn bệnh ung thư gan, điều mà người cha nghĩ cũng là: “Khi con nói con đau, thì bố chỉ biết là đau thôi, chứ không thể tưởng tượng ra con đau đớn nhường nào”… Cuốn sách khiến người đọc đau lòng không chỉ bởi sự hy sinh của người cha, mà còn bởi sự hiểu chuyện và tấm lòng yêu bố vô bờ, ý chí vượt qua bệnh tật đau đớn của cậu bé Daum 10 tuổi. Độc giả làm sao cầm nổi nước mắt khi cậu bé nói: “Nhưng vì chỉ nhìn thấy một mắt nên giống như chỉ có một nửa của bố thôi vậy. Hóa ra điều làm nên bố tôi chính là đôi mắt…”. Và cả khi tỉnh dậy sau ca ghép tủy, câu đầu tiên cậu bé nói với bố là “Mắt của bố… vẫn… đau à?”. Phải chăng tiểu thuyết “Bố con cá gai” của nhà văn Cho Chang – In được viết từ chính nỗi đau mất cha từ năm 6 tuổi, viết từ nỗi đau của một người bạn chứng kiến cảnh con đau đớn vì bệnh nan y mà không thể chịu đựng thay, và viết bằng cảm xúc khi được làm cha một đứa trẻ, nên đã thực sự chạm đến sâu thẳm tình yêu thương nơi trái tim người đọc. Tin rằng, dù không biết về cái chết của bố, dù sống ở nước Pháp xa xôi không còn được ở bên bố, nhưng Daum sẽ trở thành một người hạnh phúc và tử tế đúng nghĩa như cái tên. Bởi di sản to lớn mà cậu bé nhận được từ bố không chỉ là tập thơ của bố với lời đề tặng: “Bố mong Daum hãy yêu cuộc sống, và nhận được thật nhiều tình yêu từ cuộc sống”, mà hơn hết là tình yêu thương đong bằng trọn vẹn cuộc đời của bố.
Di sản của cuộc đời là tình yêu thương – Tác giả: Phan Nữ
811
Trung tâm Ngân Hà - chính là "dải Ngân Hà" mà chúng ta thường thấy trên bầu trời - trong góc nhìn từ Trái Đất, với lỗ đen quái vật được đánh dấu ở giữa - Ảnh: SCITECH DAILY. Dữ liệu từ vệ tinh Gaia đã gây sốc khi tiết lộ loại quái vật mà nhân loại cố đi tìm bằng các siêu kính viễn vọng lại ngập tràn ở nơi mà chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy trên bầu trời đêm. Ngay trong “trái tim” của thiên hà chứa Trái Đất Milky Way (Ngân Hà), 1.300 ngôi sao ra đời từ buổi bình minh vũ trụ vừa lộ mặt trong dữ liệu vệ tinh Gaia của Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA). Có những ngôi sao trong số đó thậm chí xuất hiện vào thời điểm chưa đến 1 tỉ năm sau vụ nổ Big Bang, tức hiện đã gần 13 tỉ năm tuổi. Phát hiện gây sốc này đến từ cuộc nghiên cứu dẫn đầu bởi nhà thiên văn học Anke Arentsen từ Đại học Cambridge ( Anh ), vừa được trình bày tại Hội nghị thiên văn học quốc gia Anh. Họ đã dựa vào tính nghèo kim loại của các ngôi sao sơ khai, theo Science Alert. Như nhiều nghiên cứu đã chứng minh, vũ trụ sơ khai rất đơn điệu về mặt hóa học, hầu như chỉ toàn hydro và heli. Tuy nhiên, chính các ngôi sao cấu thành từ các nguyên tố đơn giản này đã tạo nên các nguyên tố nặng hơn nhờ phản ứng tổng hợp hạt nhân. Cuối đời, chúng chết đi và bổ sung cho vũ trụ những nguyên tố mới nặng hơn. Qua hàng tỉ năm, hàng tỉ thế hệ sao đã khiến vũ trụ phong phú về mặt hóa học như ngày nay. Các nhà nghiên cứu đã soi thẳng vào trung tâm của Ngân Hà và tìm ra được 8.000 ứng cử viên sao nghèo kim loại, sau đó sàng lọc còn 1.300 ngôi sao được xác định là tàn tích của “buổi bình minh vũ trụ”. Khám phá này hứa hẹn mở ra những chân trời mới cho các nghiên cứu nhằm tìm hiểu vũ trụ đã bắt đầu như thế nào. Việc phát hiện các vật thể cổ đại ở gần như thế là một kho báu vô song, bởi ngoài chúng ra thì các nhà khoa học hầu như chỉ trông đợi việc tìm hiểu quá khứ thông qua các siêu kính viễn vọng chụp các vật thể cách chúng ta hàng tỉ năm ánh sáng. Nguyên tắc cơ bản của hình ảnh là chúng ta thấy chúng vào thời điểm mà ánh sáng bắt đầu di chuyển từ chúng đến mắt chúng ta, do đó hình ảnh từ nơi cách hàng tỉ năm ánh sáng cũng là hình ảnh của hàng tỉ năm trước, với sai số nhỏ do tác động từ các vật thể trên đường đi. Vì vậy, nghiên cứu về vũ trụ xa xôi cũng là nghiên cứu về vũ trụ quá khứ. Với các ngôi sao cổ đại vừa phát hiện, chúng rất có thể sinh ra trong một thiên hà cổ đại nào đó trước hàng loạt vụ sáp nhập kinh hoàng tạo nên Ngân Hà khổng lồ ngày nay. Các nhà khoa học đang lập bản đồ quỹ đạo của chúng để tìm hiểu thêm về điều này.
‘Quái vật’ 13 tỉ tuổi ẩn nấp rất gần Trái Đất, lộ mặt bất ngờ
559
Trái đất đang trải qua những ngày nắng nóng kỷ lục. Chỉ trong vòng một tuần, nhiệt độ trung bình của Trái đất đã 3 lần tăng tới mức kỷ lục – một dấu hiệu cho thấy, tình trạng biến đổi khí hậu đang tiến vào giới hạn chưa từng thấy. Các chuyên gia của Liên hợp quốc cảnh báo, nếu không có hành động mang tính đột phá, các hiện tượng thời tiết cực đoan này ngày càng diễn biến nghiêm trọng, tương lai của con người sẽ đối mặt với hàng loạt hiểm họa. Ông Kevin Anderson, chuyên gia về năng lượng và khí hậu quốc tế nhận xét: “Thách thức giảm lượng khí thải hiện nay khó khăn hơn nhiều so với 5 hay 10 năm trước bởi đây là một vấn đề tích lũy. Mỗi khi chúng ta đốt một số nhiên liệu hóa thạch, hoặc chúng ta có một tập quán hoặc tiêu chuẩn nông nghiệp, thói quen đưa khí thải vào khí quyển, những khí thải đó tích tụ năm này qua năm khác trong khí quyển. Nếu thói quen này vẫn duy trì, khí hậu ngày càng khắc nghiệt hơn”. Dữ liệu không chính thức từ các nhà nghiên cứu Mỹ cho thấy, nhiệt độ trung bình hằng ngày của hành tinh đã tăng lên 17,23 độ C vào ngày 7-7, vượt qua hai kỷ lục nhiệt trước đó được ghi nhận trong tuần. Hôm 4-7, nhiệt độ được ghi nhận là 17,18 độ C, hôm 3-7 là 17,01 độ C. Đây là những mốc nhiệt độ cao nhất kể từ năm 1979 trong dữ liệu của Trung tâm dự báo môi trường quốc gia Mỹ. Trên khắp thế giới, những đợt nắng nóng đến sớm và kéo dài đã khiến nhiều người tử vong, mùa màng bị ảnh hưởng, làm dấy lên lo ngại về an ninh lương thực và khan hiếm nguồn nước, góp phần gây ra những đám cháy rừng chưa từng có. Trong đợt nắng nóng cuối tháng 6 vừa qua, tại bang Texas (Mỹ) nhiệt độ lên tới 48 độ C. Còn tại Mexico, nhiệt độ tăng vọt, từ tháng 3-2023, đã khiến ít nhất 112 người tử vong. Nắng nóng ở Ấn Độ cũng gây ra cái chết cho ít nhất 44 người ở bang Bihar. Anh cũng ghi nhận tháng 6 nóng nhất từ năm 1884… Nhiệt độ trung bình toàn cầu được dự báo tiếp tục tăng cho đến cuối tháng 7 hoặc đầu tháng 8. Theo Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO), nhiệt độ sẽ tăng cao hơn mức trung bình lịch sử khi xảy ra hiện tượng thời tiết El Nino ở Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, hoạt động của con người, trong đó chủ yếu là đốt nhiên liệu hóa thạch, đang tiếp tục thải ra khoảng 40 tỷ tấn khí thải gây hiệu ứng nhà kính CO2 mỗi năm cũng là nguyên nhân khiến Trái đất nóng lên một cách đáng báo động. Nhiều nhà khoa học nhất trí rằng, biến đổi khí hậu đang đi tới những giới hạn chưa từng thấy trước đây. Trong phiên họp thứ 53 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc vừa diễn ra, Tổng Thư ký Antonio Guterres nhấn mạnh, những con số mới nhất chứng minh rằng, biến đổi khí hậu đang nằm ngoài tầm kiểm soát. Nếu tiếp tục trì hoãn các biện pháp cần thiết, thế giới sẽ bước vào một tình huống thảm khốc. Cao ủy Liên hợp quốc về nhân quyền Volker Turk đã cảnh báo biến đổi khí hậu là mối hiểm họa đối với nhân loại, có thể khiến tương lai con người chìm trong nghèo đói và đối mặt loạt hệ lụy nghiêm trọng khác. Dù diễn biến thời tiết cực đoan xảy ra thường xuyên hơn trong những năm gần đây, song các quốc gia trên thế giới vẫn chưa đặt ra những mục tiêu tham vọng hơn về khí hậu. Các cuộc đàm phán khí hậu ở Bonn ( Đức ) mới đây chỉ đạt tiến bộ nhỏ trong những vấn đề chủ chốt như nhiên liệu hóa thạch và tài chính trước thềm Hội nghị lần thứ 28 Các bên tham gia công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP28) ở Dubai, Các tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE). Với tình hình như hiện nay, nhiều nhà khoa học cảnh báo, nhiệt độ trung bình toàn cầu có thể tăng lên hơn 29 độ C, vượt ngưỡng giới hạn chịu đựng của con người, và khiến hơn 2 tỷ người – tương đương 20% dân số thế giới – phải đối mặt với nguy hiểm vào cuối thế kỷ này. Trong bối cảnh không còn nhiều thời gian để hành động, Hội nghị lần thứ 28 Các bên tham gia công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP28) ở Dubai, Các tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE) vào tháng 11 và tháng 12 tới được kỳ vọng sẽ giải quyết những vấn đề then chốt nhưng cũng hết sức khó khăn, bao gồm cả việc loại bỏ nhiên liệu hóa thạch, nhằm đạt mục tiêu hạn chế mức tăng nhiệt độ toàn cầu ở mức 1,5 độ C. Kết quả của hội nghị sẽ đóng vai trò quan trọng vào việc hình thành và định hướng cho các hành động chiến lược để bảo vệ khí hậu từ các quốc gia trong tương lai.
Nhiệt độ Trái đất liên tục tăng kỷ lục: Thế giới đối mặt với hàng loạt hiểm họa
910
Trong việc xây dựng hình tượng thơ, các tác giả hiện đại xử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật mà trước đây rất dè dặt, thủ pháp “lạ hóa” là một. “Lạ hóa” (theo Wikipedia) là những thủ pháp nghệ thuật theo đó, sự vật được miêu tả hiện ra không phải như ta đã biết, mà như một cái gì mới mẻ, “khác lạ”. Nó tạo ra một cảm thụ “khác lạ” đối với sự vật và hiện tượng quen thuộc. Xét về hiệu ứng thẩm mỹ, lạ hóa gây nên sự “ngạc nhiên và hiếu kỳ” ở chủ thể tiếp nhận, làm nảy sinh một thái độ tiếp nhận tích cực đối với thực tại. Cái quy ước hình tượng nghệ thuật phải được thể hiện như dạng thức có thật tránh xa các biểu hiện khác lạ “lang thang giữa những điều phi lý” (Thomas Hobbes) của đời sống, ngày nay đã thay đổi. Đó là sự kết hợp các yếu tố thực và ảo, kết hợp ý thức lẫn vô thức , cả cái khả giải lẫn cái bất khả giải chi giao! Những yếu tố khác lạ phi thực ( ước lệ, viễn tưởng, kỳ ảo, kỳ dị và những cách biến dạng khác nhau ) xuất hiện trong tác phẩm tạo một không khí nghệ thuật đặc biệt, có tính huyền ảo, khác lạ. Hiện thực phô bày bởi cái nhìn hư tưởng bên trong kết hợp với những ảo giác cảm nhận bên ngoài gợi nhiều liên tưởng táo bạo, mới lạ. Bằng những thủ pháp này bài thơ tạo được những hiệu ứng thẩm mỹ phong phú đa dạng “đánh thức các giác quan” mới mẻ của người đọc! Thủ pháp lạ hóa được tạo thành bởi nhiều yếu tố, trong đó yếu tố siêu thực (phi thực – không như trong thực tế) kết dính tất cả. Tiền đề, những yếu tố khác lạ phi thực đã có từ lâu trong các sáng tạo dân gian dựa trên những cái kỳ ảo để miêu tả hiện thực, sau này được tiếp nối ở một số tác giả văn học viết. Ca dao: Bao giờ cho đến tháng ba/ Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng/ Hùm nằm cho lợn liếm lông/ Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi/ Nắm xôi nuốt trẻ lên mười/ Con gà be rượu nuốt người lao đa ; ngoài nghịch dị, yếu tố siêu thực được xử dụng khá đậm trong bài ca dao cổ này. Trong thơ của Hồ Chí Minh cũng có những bài xử dụng thủ pháp này. Tứ cuả bài thơ ( Vãn cảnh – Nhật ký trong tù ) khá độc đáo: Một bông hoa nở trong nhà ngục Tĩnh Tây “mù mịt tối”, nơi chỉ biết cỏ tiền tài vật lợi, ai nào chú ý gì đến một đời hoa… Hoa nở, hoa tàn chúng thảy vô tình. Hoa biết chỉ có một tù nhân sau song sắt là hiểu cho nỗi đau khổ của mình nên đêm đêm hoa tìm đến kể cho Ngườỉ nghe nỗi trắc ẩn: Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng/ Hoa nở hoa tàn thảy vô tình. Hương hoa bay thấu vào trong ngục/ Kể với tù nhân nỗi bất bình (Vãn cảnh) Bài thơ viết cách đây hơn tám mươi năm, nay đọc lại vẫn mới tươi đầy xúc cảm. Nó mới vì cái vẻ hư ảo pha màu siêu thực trong thủ pháp xây dựng hình tượng. Đặc biệt thơ Hàn Mạc Tử , chất siêu thực tràn đầy, nói về ông, nhà phê bình Phan Cự Đệ đã nhận xét: “ Nhà thơ đã có những so sánh ví von, những đối chiếu kết hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc và kinh dị đối với người đọc ”. Một nhận xét có thể đề từ chung cho cả dòng thơ kiểu này. Thơ đương đại, khá nhiều tác giả xử dụng yếu tố siêu thực như một thành tố không thể thiếu trong thủ pháp lạ hóa ở phương diện biểu cảm của ngôn ngữ. Quả vậy, nói về sự trôi chảy của thời gian bất định và sự nhập cuộc hữu hạn của con người có tác giả viết: … Ngày mềm nhũn đang chảy từ chiếc đồng hồ cát đến con lợn đất/ Bụi trên bàn chờ hoá kiếp trần gian/ Thời gian ơi cho tôi quá giang một đoạn (Thi Nguyên – Trên bàn viết ) Nói về sự “ra đi” (cái chết) của người đời: … Buổi sáng chết rồi là có thật/ người ta chở nỗi buồn trắng muốt khoang xe/ băng qua những nắm đất sè sè/ chẳng còn ai nghe buổi sáng nói gì/ dù là một câu rất khẽ/ Ơ kìa đàn chim se sẻ mổ ngày rách toác thế kia (Đặng Thiên Sơn – Biến mất ) Nói về sự gắn bó và phát triển của cái mới trong thơ ca và trong đời sống: … Em cơ?i bo? mo?i trang phu?c pha l? n??t v??/ c??i bo? mo?i t? duy hi?nh th??c ?a? kh? ?i?nh na?t b??n ca?n/ hoa? nh??p va?o c? th?? ta ?ang t??c ha?nh v?? ph?a a?nh sa?ng/ hay ?o?ng c??a/ t?? huy??n ho??c mi?nh/ va? ch?? ch??t? ̉i bỏ mọi trang phục pha lê nứt vỡ/ cởi bỏ mọi tư duy hình thức đã khô đình nát bến cạn/ hoà nhập vào cơ thể ta đang tốc hành về phía ánh sáng/ hay đóng cửa/ tự huyễn hoặc mình/ và chờ chết? ( Phan Hoàng – Em nóng dần lên ) Thơ bây giờ có những liên tưởng táo bạo, những ám thị phi lý tính che dấu trong một hình thức ngôn ngữ tưởng đơn giản nhưng là những “mật mã” ở tầng sâu ý tưởng. Thời gian, không gian, đồ vật, con người, được nhào nặn trong một mô thức tưởng tượng khác chiều. Tất cả không thực mà có thực. Để góp phần lạ hóa các hình ảnh các thi sĩ xử dựng nhiều thi tiết đậm màu siêu thực. Nguyễn Việt Chiến khi xây dựng hình ảnh Thúy Kiều trong bài thơ cùng tên đã viết: … trước mùa trăng sinh nở/ Nguyễn Du là người mộng du ân ái cùng trăng… nhưng chưa đến nửa đêm thì Truyện Kiều đã viêt xong/ và Nguyễn Du đạp mây trở về sông Tiền Đường/ để lại môt bông trăng thức trong chiếc bình đêm/ thức chầm chậm/ đến sáng thì nở/ nở thành một nàng Kiều trắng trong/ giữa vẫn đục cõi người/ khi Nguyễn Du về/ bụi giang hồ/ trần thế vẫn như xưa/ ông lại gặp trăng đêm/ nở một đóa sũng sờ/nở chầm chậm đến sáng thì tắt/ nở chầm chậm đến sáng rồi chết ( Trăng Nguyễn Du – Tạp Chí Thơ, 2012). Cái hình ảnh “đóa trăng – nàng Kiều” đẹp sững sờ đó được phô diễn cũng bằng một ngôn ngữ, một thể tài rất giản dị, rất tự nhiên, mê hoặc người đọc một cách liêu trai đại diện cho một bút pháp thơ hiện đại! Từ những yếu tố đơn lẻ có tính tu từ ngôn ngữ nhiều tác giả đã nâng cấp siêu thực thành một thành tố của thủ pháp lạ hóa của phương thức tư duy khi xây dựng hình tượng nghệ thuật. Thơ đương đại, bên cạnh các tác giả vẫn quen cách viết phân mảnh, bài thơ bố cục tùy hứng, các khổ các phần liên kết theo mạch tình cảm, lại có nhiều tác giả sáng tạo tập trung vào hình tượng chính, hình tượng tổng thể, yếu tố trí tuệ chi phối nhiều trí tưởng tượng, cái tứ hình thành trước trong tâm trí nhà thơ sau đó hiện trên mặt giấy và được tô điểm thêm. Nhà thơ ít chú ý các biện pháp đơn lẻ (thần cú, nhãn tự) mà định hướng vào “hình tượng tổng thể” của toàn bài thơ. Để kiến tạo cái hình tựợng tổng thể đầy tính thẩm mỹ đó nhà thơ không thể cảm gì viết nấy mà phải suy nghĩ, phải sắp xếp, hay nói theo thuật ngữ cổ điển phải “cấu tứ”. Cấu tứ là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của các nhà thơ, tuy nhiên các tác giả cũ quen cấu tứ theo lối sắp xếp ý cảnh trên cái nền tả thực, các tác giả đương đại khi cấu tứ lại ưa xử dụng lối nói ẩn, gợi ý gián tiếp thông qua nhiều chi tiết, hình ảnh giàu màu sắc siêu thực , qua những ẩn dụ có tính tượng trưng, ước lệ tạo một góc nhìn mới khác lạ với sự vật. Nó buộc người đọc phải suy nghĩ mong khám phá nhiều tầng nghĩa trong các thông điệp mà tác giả gửi gắm… Một trong số các nhà thơ đề cao việc dụng công lập tứ là Vũ Quần Phương. Những bài thơ gần đây cách lập tứ của ông có pha màu siêu thực tạo một mỹ cảm mới lạ. Bài Chè sen là một tiêu biểu. Tứ bài thơ xoay quanh mối liên kết hoa và chè . Chè ngon nhờ ướp hoa sen, nhà thơ hình tượng hóa một tương quan: chỉ biết rằng hoa thác/ thì chè thành hương bay. Một tương quan vừa thực vừa ảo, một tương quan đời thường thành một sự hy sinh lý tưởng cuả phía này cho vẻ đẹp phía kia. Màu sắc siêu thực dẫn dụ người đọc ngay từ lời thơ mở đầu: Hoa khâm liệm/ cho chè bằng chính thân hoa/ chôn những sợi móc câu/ vào tầng hương ngát/ sương đêm ngoài kia – nước mắt/ khóc cho hoa/ hay khóc cho chè. Câu thơ đọc lên tưởng vô tình mà thấm thía: Nói về cây cỏ nhưng ám dụ về nhân sinh, về con người đấy! Cái chu kỳ “hoa thác cho chè thành hương bay” cứ lặp đi lặp lại gợi một nhiệm màu của kiếp nhân sinh: nước mắt – sương đêm khóc thương đưa tiễn hoa về đất nhưng không phải khóc vì thương tiếc một hình hài đã biến mất mà chỉ đưa tiễn một sự hoài thai hương và sắc hiển hiện dâng hiến mùa sau. Sương đâu có khóc hoa/ sương tiễn hoa về đất/ rồi sương lại hòa trong đầm nước/ lại đón hương và sắc/ những mùa sen sau. Và tác giả chiêm nghiệm một sự đời, một triết lý thiền gia: Tôi nâng chén chè sen/ ngạt ngào hương mùa hạ/ tôi uống chè hay sen/ không biết/ chỉ biết rằng hoa thác/ thì chè thành hương bay. Nhờ vào sự dụng công lập tứ có tính lạ hóa quan hệ chè và hoa sen, trộn lẫn hư thực mà bài thơ gợi nhiều ý tưởng và xúc cảm mới mẻ, sâu xa nơi người đọc, nó tránh được sự nhàm chán mà ta thường gặp. Hoàng Vũ Thuật có bài Người câu gió, tác giả nêu một thông điệp về quá trình nhận thức của con người trên con đường đi tìm ý nghĩa đời sống, khám phá vũ trụ . Biểu tượng gió được trình bày trong một kết cấu tương nghịch : Xung quanh biểu tượng gió là những thi tiết siêu thực “gió thổi căng phồng túi càn khôn bên hông”, ngồi câu gió với “sợi dây mảnh mai con người cố gắng nhẫn nại trên đồi” xuyên qua thời gian “tóc xanh hóa thành tóc trắng” để tìm hiểu “lối đi, gương mặt” của gió… Tác giả tư biện một nhận thức khả kính: Việc làm vô vọng “hai bàn tay trắng trở về”. Đời sống con người hữu hạn mà thế giới tự nhiên cũng như xã hội bao gồm những chân lý tương đối trong đó là vô hạn, không bao giờ đi được hết sự tìm hiểu của mình. … Không ai nhận ra lối đi của gió/ không ai nhận ra gương mặt gió/ anh nhẫn nại ngồi câu trên đồi/ sợi dây mảnh mai/… một ngày câu hai bàn tay trắng trở về/ một đời câu tóc xanh hóa thành tóc trắng/ lịch trình gió buốt chưa thôi/ gió vô hồi ngàn sau chưa hết/ có nhận ra ta trong hữu hạn kiếp người. Ngoài lối xây dựng hình tượng thơ có tính biểu tượng khác lạ với nhiều thi tiết siêu thực, bài thơ kết cấu theo lối tương nghịch nhân quả: tác giả ngày nào cũng lên đồi “câu gió” mong sẽ bắt được, khám phá nhiều điều nhưng vô ích vì gió thổi “ngàn sau chưa hết mà kiếp người hữu hạn” đành tay trắng trở về, khắc họa khá sâu tính triết lý của bài thơ! Thơ đương đại có nhiều thay đổi để tiến gần đời sống, cập nhật đời thường với tâm lý con người bây giờ. Trong không khí bộn bề của sự tìm tòi đổi mới, nhiều tác phẩm tạo những nét riêng khó nhầm lẫn, gây được nhiều ấn tượng sâu sắc với công chúng yêu thơ. Tác phẩm tạo một mỹ cảm mới mẻ nhờ sự đổi thay về các thủ pháp nghệ thuật, đặc biệt thủ pháp lạ hóa cách xây dựng hình tượng mở rộng biên độ tái tạo cuộc sống nghiêng về phía tượng trưng ước lệ, siêu thực, như lời nhận xét của nhà lý luận phê bình Nga: “… cả hình thức lãng mạn, cả hình thức ước lệ, cả viễn tưởng, cả kỳ ảo, cả kỳ dị, cả những cách biến dạng khác nhau, nếu chúng trợ giúp cho nhà văn tái tạo sâu sắc hơn, tinh tế hơn trung thành hơn, diễn cảm hơn bức tranh về thực tại trong sự chuyển hoá hêt sức phức tạp từ hiện tại đến tương lai ” (1) . Thủ pháp “lạ hóa” kết dính các hình thức này bằng yếu tố siêu thực vượt qua cái nhìn trực cảm quen thuộc đến bến bờ liên tưởng mới lạ có một cảm xúc thích thú tích cực hơn! Hay nói một cách khác trong các hình thức này ít nhiều đều có yếu tố siêu thực. Trong quá trình phát triển, có thể có một vài tìm tòi chưa thật thích hợp với thị hiếu truyền thống, nhưng trong chừng mực nào đó cũng ít nhiều tạo được một khuynh hướng đổi mới cho thơ ca cũng như sự tiếp nhận của bạn đọc. ______ 1. Chuyễn dẫn theo Lại Nguyên Ân: A.I.Ocharenko – Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa ngày nay , Nxb Văn hoc, Moskova1977
“Lạ hóa” trong thơ – Tác giả: Hà Quảng
2,359
Dòng sông đầu tiên được nhắc đến trong ‘Dạt dào sông nước’ chính là sông Hồng , một trong những dòng sông lớn và nổi tiếng nhất miền Bắc Việt Nam. Giúp người đọc hiểu rõ hơn về những dòng sông, hồ, đầm… nổi tiếng ở dải đất hình chữ S, nhóm tác giả Nguyễn Như Mai, Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Quốc Tín cùng viết “Dạt dào sông nước”. Với cách trình bày khoa học, dễ hiểu, tác phẩm độc đáo, ý nghĩa này hứa hẹn là cuốn sách địa lí gối đầu giường cho mọi lứa tuổi. Ảnh minh họa/INT. Giúp người đọc hiểu rõ hơn về những dòng sông, hồ, đầm… nổi tiếng ở dải đất hình chữ S, nhóm tác giả Nguyễn Như Mai, Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Quốc Tín cùng viết “Dạt dào sông nước”. Với cách trình bày khoa học, dễ hiểu, tác phẩm độc đáo, ý nghĩa này hứa hẹn là cuốn sách địa lí gối đầu giường cho mọi lứa tuổi. Dòng sông đầu tiên được nhắc đến trong “Dạt dào sông nước” chính là sông Hồng, một trong những dòng sông lớn và nổi tiếng nhất miền Bắc Việt Nam hay theo như tên của chương hai thì đây chính là “cái nôi của nền văn minh sông Hồng”. Điều đó khẳng định sự vĩ đại và quan trọng của dòng sông luôn mang nặng phù sa này. Trước khi được biết đến với cái tên thể hiện màu nước đặc trưng ấy, “Sông Hồng còn có nhiều tên gọi. Một trong các tên gọi dân gian là sông Cái. Cái trong tiếng Việt cổ có nghĩa là Mẹ”, cuốn sách tiết lộ. Một điều thú vị nữa là “sông Hồng lại là tên gọi mới mẻ nhất, xuất phát từ… tiếng Pháp”. Đây là thông tin mà có lẽ không nhiều người biết đến khi cái tên tưởng chừng dân dã nhất từ màu nước của dòng sông lại được dịch ngược từ tiếng Pháp: Fleuve Rouge. Không chỉ thế, từ chi tiết, sông Hồng vắt mình qua miền Bắc Việt Nam trước khi đổ ra biển và tạo ra nền văn minh lúa nước cùng một khu vực đồng bằng rộng lớn màu mỡ trong đó có Thủ đô Hà Nội , cuốn sách giới thiệu về tên gọi “Hà Nội” – “Địa danh Hà Nội được “diễn Nôm” là thành phố “trong sông”, tức được sông ngòi bao quanh”. Cuốn sách ‘Dạt dào sông nước’ nằm trong bộ ‘Thiên nhiên đất nước chúng ta’ do NXB Kim Đồng ấn hành. Ảnh: Anh Sơn. Rồi thì, theo câu chuyện về sự khởi nguồn: Hồng Hà được tạo nên bởi ba dòng sông: Sông Thao, sông Đà và sông Lô, tác phẩm đưa người đọc du hành qua từng dòng sông bằng du thuyền. Không chỉ miêu tả chân thực những đặc điểm địa lí của dòng sông mà các tác giả cặn kẽ kể chuyện dòng nước hòa trong các câu chuyện lịch sử được đan cài vào từng địa danh. Cách viết này thật khéo léo, không gây quá tải thông tin đối với độc giả. Mỗi dòng sông lớn lại được tạo ra từ nhiều phụ lưu và mỗi phụ lưu lại có những mẩu kiến thức chờ được người đọc thu nạp. Cứ như vậy với dòng sông Hồng là mạch chính, nhóm tác giả lần lượt giới thiệu được cơ bản hầu hết các dòng sông quan trọng ở miền Bắc một cách dễ hiểu và dễ nhớ giống như một sơ đồ tư duy. Ngoài ra, những công trình kiến trúc, văn hóa độc đáo gắn liền với sông nước như cầu Long Biên, đê sông Hồng cũng hiện diện trên trang sách thật gần gũi với độc giả. Tiếp tục bằng những trang viết khoa học mà chi tiết như thế, chuyến thuyền “Dạt dào sông nước” đưa mọi người đến miền Tây với dòng Cửu Long hay lướt qua hệ thống sông Đồng Nai – Vàm Cỏ. Như nhiều tài liệu địa lí khác, cuốn sách vẽ ra bức tranh tổng quan về chín “cửa rồng” ngày đêm đổ ra biển cũng như những kênh rạch chằng chịt. Tuy nhiên trên bức tranh đó “Dạt dào sông nước” còn điểm lên các chi tiết độc đáo của chợ nổi hay những công sức kiến thiết quê hương của thế hệ đi trước: “Ngày nay tuy đã có giao thông đường bộ thuận lợi, tại các thành phố đã có những chợ lớn, trung tâm thương mại, siêu thị, nhưng hình thức chợ nổi không mất đi, mà còn trở thành một nét đặc sắc thu hút khách du lịch”. Cũng từ những dòng chảy này, tác giả đặt ra những vấn đề nhức nhối về môi trường nước “sống chung cùng hưởng, cùng bảo vệ”. Đó là việc khai thác quá mức dòng sông Mekong – thượng nguồn sông Cửu Long – khi hàng chục đập thủy điện được xây dựng khiến tắc nghẽn dòng chảy, ảnh hưởng đến hệ sinh thái, môi trường. Những vấn đề đó sẽ là mục tiêu để các bạn trẻ sau khi được truyền tình yêu sông nước từ cuốn sách cần có trách nhiệm tìm lời giải trong tương lai. Ngoài những dòng sông, hồ nước, đầm, phá cũng là một phần quan trọng của sông nước Việt Nam. Tác phẩm này đã gợi ý rất nhiều địa điểm hồ, đầm phá đẹp, hoang sơ để những người đam mê du lịch có thể đến và khám phá. Các hồ nước cho dù là nhân tạo hay tự nhiên đều được các tác giả gắn với mẩu chuyện lí thú và khẳng định vai trò quan trọng với khu vực xung quanh. Nhiều trang sách được minh họa sinh động. Ảnh: Anh Sơn. Có những hồ nhân tạo đã tạo nên một biểu tượng của tinh thần lao động của nhân dân Việt Nam như “công trình thủy điện Hòa Bình được coi là “Công trình thế kỉ 20” của đất nước”. Đến thăm những công trình như thế này không chỉ là một chuyến đi chơi mà còn là một bài học cho thế hệ trẻ về một khoảng thời gian khó khăn mà thế hệ trước đã vượt qua và chinh phục thiên nhiên thành công. Bên cạnh đó, có vai trò quan trọng không kém những khu vực chứa nước, các mạch nước ngầm cũng được nhóm tác giả nhắc đến như một nguồn tài nguyên tuyệt vời “Việt Nam có tài nguyên nước ngầm tương đối phong phú, đứng hàng thứ 34 trong tổng số 155 quốc gia”. Nước ngầm tại Việt Nam khá dồi dào và là một trong những nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt của nhân dân từ xa xưa, gắn liền với hình ảnh giếng nước. “Dạt dào sông nước” được khép lại bằng vấn đề nhức nhối đã lâu nhưng khó chữa không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Đó là sự ô nhiễm nguồn nước, cạn kiệt tài nguyên nước… qua đó một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của những dòng nước mát. Vì vậy, “Dạt dào sông nước” là một cuốn sách lý thú không thể bỏ qua cho những ai đam mê và muốn tìm hiểu về sông nước, đồng thời cũng rất bổ ích khi chứa đựng nhiều thông tin thời sự, các vấn đề về môi trường nước luôn được cộng đồng quan tâm.
Đất nước của những dòng sông
1,232
Địa hình đặc biệt của Utopia Planitia được cả Mỹ và Trung Quốc quan tâm - Ảnh: NASA. Trước khi bị bão bụi tấn công và mất liên lạc, robot Zhurong của Trung Quốc đã có phát hiện đột phá về điều đã xảy ra trên Sao Hỏa 400.000 năm trước. Từ lâu đã có những bằng chứng lẻ tẻ cho thấy giả thuyết về một Sao Hỏa từng giống như Trái Đất nhưng trở nên chết chóc và tĩnh lặng từ khoảng 3 tỉ năm trước có vẻ như không đúng. Khám phá bộ dữ liệu mà Zhurong (Chúc Dung) để lại trước khi mất tích, các nhà khoa học Trung Quốc đã có phát hiện bất ngờ. Theo tờ Space , những dấu hiệu lạ thường đến từ các cồn cát hình lưỡi liềm tọa lạc trên bãi cát gợn sóng của khu vực gọi là Utopia Planitia. Kết hợp dữ liệu của tàu đổ bộ Zhurong và tàu quỹ đạo Tianwen-1 (Thiên Vấn 1), nhà khoa học Li Chunlai từ Đài Quan sát thiên văn quốc gia thuộc Học viện Khoa học Trung Quốc- (CAS) đã phát hiện ra các cấu trúc được gọi là TAR – giống như những rặng núi – hình thành phía trên các cồn cát khổng lồ này có màu sẫm hơn hẳn bản thân cồn cát. Các phân tích cũng thấy gió gây ra hiện tượng xói mòn giúp “tạo hình” các TAR cũng đi theo hướng ngược lại với những gì tạo nên phần vật liệu sáng màu hơn bên dưới. Các phân tích cho thấy một sự biến đổi khí hậu toàn diện – có thể là kết thúc kỷ băng hà – đã điêu khắc nên những hình dạng phức tạp và lạ lùng trên hành tinh chưa thực sự “chết” này – Ảnh: CAS. Các cồn cát khổng lồ được hình thành khoảng 400.000 năm đến 2,1 triệu năm trước, tức “TAR đen tối” xưa nhất chỉ 400.000 năm. Điều này là minh chứng rõ ràng cho việc khí hậu Sao Hỏa với các chu trình thời tiết phức tạp đã có biến đổi lớn và toàn diện vào khoảng 400.000 về trước. Giả thuyết lớn nhất là sự xuất hiện và biến mất của một kỷ băng hà lạ lùng, khác với Trái Đất, khi các cực của Sao Hỏa ấm hơn; trong khi bụi và hơi nước di chuyển về phía vĩ độ trung bình và lắng đọng lại. Hiểu được khí hậu cổ đại trên Sao Hỏa là điều mà các nhóm khoa học gia thế giới đang “chăm sóc” hành tinh này luôn mong muốn, bởi điều đó có thể giúp họ tái hiện lại cách Sao Hỏa đã tiến hóa, hiểu được những gì đã xảy ra ở đó, sự sống ra đời và biến mất như thế nào hoặc có thể lẩn trốn ở đâu… Rất tiếc sau phát hiện này Zhurong đã bị mất liên lạc với Trái Đất . Trong các hình ảnh mà tàu quỹ đạo của NASA chụp được, nó dường như đã bị vùi lấp trong những cơn bão bụi cực đoan của hành tinh đỏ, khiến các tấm pin mặt trời bị phủ kín và robot cạn năng lượng. Robot Zhurong là một tàu đổ bộ dạng xe tự hành, khá giống các chiến binh Curiosity và Perseverance của NASA cũng đang hoạt động trên Sao Hỏa . Tuy nhiên 2 robot NASA chạy bằng năng lượng hạt nhân nên sống sót trong bão bụi.
Trung Quốc công bố phát hiện lạ của robot Sao Hỏa trước khi ‘chết’
569
Trân trọng giới thiệu tiếp với bạn đọc cuốn sách ‘Phong trào nông dân Tây Sơn và Đại Đô đốc Tây Sơn Bùi Hữu Hiếu’ của PGSTS Cao Văn Liên, do NXB Thanh Niên ấn hành. Phong trào Tây Sơn là một phong trào vĩ đại của giai cấp nông dân thế kỷ XVIII. Phong trào đã làm tròn nhiệm vụ giai cấp lật đổ ách thống trị của chúa Nguyễn ở Đàng Trong và chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Từ nhiệm vụ giai cấp, phong trào đã vươn lên làm nhiệm vụ dân tộc, đánh bại các thế lực xâm lược Xiêm-Thanh, bảo về độc lập đất nước. Phong trào đã thu hút không chỉ đông đảo quần chúng tham gia mà còn thu hút nhiều tướng lĩnh, nhiều Đô đốc và Đại Đô đốc. Tuy nhiên sau khi phong trào thất bại vào năm 1802, do sự đàn áp khốc liệt của Vương triều Nguyễn mà số tướng lĩnh Tây Sơn cho đến nay lịch sử tìm ra không đầy đủ, quá ít so với qui mô của phong trào, có người chỉ biết giai đoạn đầu mà không biết giai đoạn cuối do phải bôn tẩu trốn tránh. Cuốn sách “Phong trào Tây Sơn và Đại đô đốc Bùi Hữu Hiếu” góp phần làm sáng tỏ một Đại Đô đốc nhà Tây Sơn mà Lịch sử ít biết đến, là một ý kiến nhỏ góp vào công cuộc tìm kiếm đưa Đại đô đốc Bùi Hữu hiếu vào lịch sử dân tộc. CHƯƠNG I. CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN VIỆT NAM TỪ KHI RA ĐỜI CHO ĐẾN THẾ KỶ XVIII. Chế độ phong kiến Việt Nam ra đời và phát triển cho đến thế kỷ XV:Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương thuộc Đông Nam Châu Á. Hình dạng đất nước kéo dài từ địa đầu Móng Cái đến mũi Cà Mâu uốn cong hình chữ S. Diện tích khoảng 331.700km2, bao gồm 63 tỉnh và thành phố, 6.099 quận huyện, 10.554 phường xã. Dân số tính đến năm 2004 khoảng 81 triệu người bao gồm 54 dân tộc anh em, trong đó riêng dân tộc Kinh chiếm 83% dân số, phân bố chủ yếu ở các vùng đồng bằng ven biển, trung du và đô thị. 53% các dân tộc khác chiếm 17% dân số phân bố chủ yếu ở các vùng miền núi, biên giới, những địa bàn chiến lược quan trọng của đất nước. Tuy nhiên một trong những đặc điểm quan trọng của dân tộc Việt Nam là sống xen kẽ nhau giữa các tộc người. Các dân tộc Việt Nam thuộc Đại chủng Môn gôlôit (Đại chủng da vàng), tiểu chủng Nam Á. Căn cứ vào lịch sử ngôn ngữ và lịch sử cư trú, lịch sử văn hóa của các tộc người trên đất Việt Nam thì các dân tộc đều có nguồn gốc anh em với nhau. Sự gần gũi giữa các dân tộc thể hiện ở các nhóm ngôn ngữ: Nhóm ngôn ngữ Tày-Thái, nhóm ngôn ngữ Việt -Mường, nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me, nhóm ngôn ngữ Hán-Tạng. 54 thành phần dân tộc đều có nền văn hóa riêng của mình, tạo nên một nền văn hóa Việt Nam phong phú nhiều mầu sắc, đậm đà bản sắc dân tộc. 54 thành phần dân tộc tạo nên dân tộc quốc gia Việt Nam. Dân tộc quốc gia Việt Nam hình thành từ khi hình thành nhà nước đầu tiên-nhà nước Văn Lang. Dân tộc Việt Nam có truyền thống nhất, đoàn kết bền vững lâu đời trong lịch sử bảo vệ, xây dựng đất nước. Dân tộc quốc gia Việt Nam ra đời sớm, thuộc loại hình dân tộc mà Các Mác và F. Ăng ghen gọi là dân tộc tiền tư bản. Theo hai ông, thời điểm ra đời của loại hình dân tộc này là vào lúc công xã nguyên thủy tan rã, lúc nhà nước đầu tiên xuất hiện. Việt Nam là một trong những nơi mà loài vượn đặc biệt đã chuyển hóa thành người, một trong những cái nôi của nhân loại. Trải qua quá trình hàng triệu năm, Vượn đặc biệt chuyển biến thành Vượn-Người, Vượn -Người tiến hóa thành Người-Vượn, thành Người Tinh Khôn và cuối cùng thành người Hiện Đại Hômôsapiêng. Người Hômôsapiêng đã trải qua xã hội cộng sản nguyên thủy hàng vạn năm, Bầy người là cộng đồng người đầu tiên và tiến hóa lên Thị tộc, Bộ lạc, Liên minh bộ lạc. Xã hội cộng sản nguyên thủy Việt Nam tan rã vào thế kỷ XV tr. CN, Việt Nam bước vào xã hội có giai cấp đầu tiên, xã hội chiếm hữu nô lệ, nhà nước Văn Lang với 18 đời Hùng Vương cai trị. Kế tục nhà nước Văn Lang là nhà nước Âu Lạc do An Dương Vương sáng lập từ nửa sau thế kỷ III tr. CN. Nhà nước Văn Lang-Âu Lạc là hai nhà nước chiếm hữu nô lệ, sản sinh trên cơ sở xã hội nô lệ không điển hình với hình thức nhà nước quân chủ sơ khai. Đây là bước tiến hóa nhảy vọt của người Lạc Việt cổ qua hàng triệu năm phát triển. Nhà nước Văn Lang- Âu Lạc đã tạo nên nền văn minh sông Hồng rực rỡ mà tiêu biểu là nền văn hóa Đông Sơn huy hoàng sáng chói. Năm 179 tr. CN, nước Âu Lạc bị Triệu Đà của nước Nam Việt tiêu diệt. Lãnh thổ Âu lạc bị sáp nhập vào lãnh thổ Nam Việt, một quốc gia cát cứ của Trung hoa sau khi nhà Tần sụp đổ (bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây). Sau khi nhà Tần diệt vong, từ năm 206 đến 202 tr. CN nổ ra cuộc chiến tranh Hán (Lưu Bang) Sở( Hạng Vũ). Năm 202 tr. CN Lưu Bang diệt Hạng Vũ, lập ra nhà Hán. Năm 111 tr. CN nhà Hán tiêu diệt nước Nam Việt, Âu Lạc trở thành thuộc địa của phong kiến Hán đến phong kiến Đường tổng cộng hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Trong thời kỳ này Việt Nam trải qua sự thống trị của các triều đại phong kiến Trung Hoa: -Từ năm 111 tr. CN đến năm 220 nhà Hán:Tây Hán từ 111 tr.CN đến năm 8 sau CN. Đông Hán từ năm 8 đến 220. -Từ năm 220 đến 280 nhà Đông Ngô trong cục diện Tam quốc -Từ năm 280 đến năm 316 nhà Tấn -Từ năm 316 đến năm 581 nhà Lương (Một trong các triều đại của cục diện Nam- Bắc triều ) -Từ năm 581 đến năm 618: Nhà Tùy -Từ năm 618 đến năm 907 nhà Đường -Từ năm 907 đến năm 938 nhà Đường sụp đổ, Trung quốc bước vào cục diện 5 đời 10 nước. Nhân cơ hội đó họ Khúc (Khúc Thừa Dụ, con là Khúc Thừa Hạo, cháu là Khúc Thừa Mỹ) nổi dậy giành quyền tự chủ cho đất nước. Năm 903 Khúc Thừa Mỹ bị Nam Hán, một nước cát cứ trong cục diện 5 đời 10 nước của Trung quốc, lãnh thổ thuộc tỉnh Quảng Đông, kinh đô Phiên Ngung (Quảng Châu) đánh bại. Việt Nam lại thuộc Nam Hán. Năm 931 Dương Đình Nghệ đánh bại quân Nam Hán giành lại quyền tự chủ. Năm 937 Dương Đình Nghệ bị tùy tướng là Kiều Công Tiễn giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Kiều Công Tiễn cầu cứu quân Nam Hán để bảo vệ địa vị của mình. Ngô Quyền đã giết chết Kiều Công Tiễn và đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938. Chiến thắng Bạch Đằng đã kết thúc 1.000 năm thống trị của phong kiến Trung Quốc đối với nước ta. Việt Nam già̀nh được độc lập, mở ra một thời đại mới trong trong lịch sử tiến hóa của dân tộc:Thời đại xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập. Năm 939 Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa (Nay thuộc Đông Anh, Hà Nội), bắt đầu đặt nền móng xây dựng một quốc gia phong kiến với thiết chế nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền. Triều Ngô tồn tại được 27 năm với 3 đời vua: Ngô Vương (938-944), Hậu Ngô Vương gồm hai vua là Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn, Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập (905-965)[1]. (Con nữa) ———————– [1] : Quỳnh Cư-Đỗ Đức Hùng. Các triều đại Việt Nam. NXB ThanhNiên, H. N, 1999, tr58. .
Phong trào nông dân Tây Sơn và Đại Đô đốc Tây Sơn Bùi Hữu Hiếu (Kỳ 1) – Tác giả: PGS TS Cao Văn Liên
1,412
Ảnh minh họa. (Ảnh: AFP/TTXVN). Ba con thuyền, chở tổng cộng ít nhất 300 người, đã mất tích nửa tháng qua kể từ khi xuất bến rời làng Kafountine ở phía Nam Senegal nhằm cố gắng tới được Tây Ban Nha. Nhóm hỗ trợ người di cư “Walking Borders” ngày 9/7 cho biết ít nhất 300 người đi trên ba chiếc thuyền chở người di cư từ Senegal đến Quần đảo Canary của Tây Ban Nha đã mất tích. Theo Walking Borders, hai chiếc thuyền – một chiếc chở khoảng 65 người và chiếc còn lại mang theo từ 50-60 người – đã mất tích 15 ngày kể từ khi xuất bến rời Senegal nhằm cố gắng tới được Tây Ban Nha. Trong khi đó, chiếc thuyền thứ ba chở theo khoảng 200 người rời Senegal hôm 27/6. Gia đình của những người di cư mất tích không nhận được thông tin từ họ kể từ lúc rời khỏi Senegal. Cả ba con thuyền đều xuất phát từ làng Kafountine ở phía Nam Senegal, cách Tenerife – một hòn đảo thuộc Quần đảo Canary – khoảng 1.700km. Walking Borders chia sẻ: “Các gia đình đang hết sức lo lắng… Họ (những người di cư mất tích) đã rời bỏ đất nước vì tình trạng bất ổn ở Senegal.” Quần đảo Canary, nằm ở ngoài khơi bờ biển Tây Phi, đã trở thành điểm đến chính của những người di cư cố gắng tìm đường tới Tây Ban Nha, mặc dù số lượng nhỏ hơn nhiều so với những người đang tìm cách vượt Địa Trung Hải để tới đất liền Tây Ban Nha. Mùa Hè hàng năm là khoảng thời gian diễn ra nhiều hoạt động vượt biển nhất của những người di cư. Tuyến đường di cư trên Đại Tây Dương, một trong những tuyến đường chết chóc nhất thế giới, thường được người di cư từ khu vực châu Phi Hạ Sahara sử dụng. Theo thống kê của Tổ chức Di cư Quốc tế thuộc Liên hợp quốc, năm 2022, ít nhất 559 người, trong đó có 22 trẻ em, đã thiệt mạng trong những nỗ lực hướng tới Quần đảo Canary./.
300 người di cư mất tích trong lúc vượt biển đến Tây Ban Nha
351
Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một khối kiến trúc cổ và độc đáo. Nhắc đến những công trình kiến trúc độc đáo của Hà Nội không thể không nhắc đến Văn Miếu – Quốc Tử Giám (tọa lạc tại số 58 Quốc Tử Giám, quận Đống Đa , Hà Nội ). Trải qua hơn 1.000 năm với những biến thiên của lịch sử, Văn Miếu vẫn vẹn toàn được nét cổ kính, tôn nghiêm. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một quần thể kiến trúc ấn tượng được xây dựng từ thời nhà Lý. Với bề dày lịch sử cùng với nét kiến trúc cổ độc đáo, Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xem là một trong những di sản đặc biệt của quốc gia. Khu di tích này cũng là một trong những điểm du lịch Hà Nội nổi tiếng được du khách gần xa mến mộ. Cũng giống như nhiều công trình khác, Văn Miếu – Quốc Tử Giám trải qua nhiều triều đại với những hưng thịnh, tàn suy cùng nhiều lần tu tạo, đổi tên mới có vị trí và không gian kiến trúc như hiện tại. Văn Miếu – Quốc Tử Giám không chỉ là một minh chứng lịch sử mà còn trở thành một biểu tượng văn hóa của Việt Nam. Lối kiến trúc phương Đông với sự ảnh hưởng đậm đặc của Nho – Phật giáo thể hiện rõ nét trong từng chi tiết của không gian. Từ chất liệu (chủ yếu là gỗ lim, gạch nung và ngói mũi hài,…) cho đến những lớp ngói, hoa văn đều được trang trí một cách tỉ mỉ và sang trọng. Văn Miếu – Quốc Tử Giám được biết đến là trường đại học đầu tiên của khu vực Đông Nam Á xây dựng tại kinh thành Thăng Long xưa, đây là nơi hội tụ những giá trị văn hóa, lịch sử của dân tộc. Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 (đời vua Lý Thánh Tông) là nơi thờ các thánh hiền đạo nho (Khổng Tử, Mạnh Tử…). Năm 1076, Lý Nhân Tông lập thêm Quốc Tử Giám ở phía sau, ban đầu là nơi học của các hoàng tử, sau mở rộng thu nhận cả những học trò giỏi trong thiên hạ. Đến đời Vua Trần Minh Tông (1314 – 1329), nhà giáo Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử Giám Tư nghiệp (Hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp cho các hoàng tử. Năm 1370, sau khi ông mất, vua Trần Nghệ Tông đã cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử. Năm 2010, 82 bia đá các khoa thi tiến sĩ triều Hậu Lê và Mạc ở Văn Miếu Quốc Tử Giám – địa điểm du lịch Hà Nội duy nhất được công nhận là Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một trong những điểm đến nổi tiếng nhất tại Hà Nội. Quần thể kiến trúc nơi đây bao gồm: Hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám. Trong đó, kiến trúc chủ thể là Văn Miếu (nơi thờ Khổng Tử) và Quốc Tử Giám. Với hơn 700 năm hoạt động, đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước, Quốc Tử Giám là biểu tượng cho nền khoa cử thời phong kiến. Không gian Văn Miếu được chia thành 5 lớp được gắn kết bởi các bức tường gạch có cửa thông. Khu vực thứ nhất từ Văn Miếu Môn (cổng vào Văn Miếu) vào là khu Nhập Đạo với 3 gian lợp ngói và 3 cổng chính là Đại Trung, Thành Đức và Đạt Tài. Khu vực thứ 2 trong quần thể Văn Miếu là Khuê Văn Các. Sử sách ghi lại Khuê Văn Các được xây dựng từ năm 1805 với kiến trúc độc đáo – tượng trưng cho hình ảnh sao Khuê tỏa sáng trên bầu trời. Ngày nay Khuê Văn Các là hình ảnh biểu trưng cho Hà Nội cũng như nét đẹp văn hóa – kiến trúc Việt. Tiếp theo Khuê Văn Các là khu Bia Tiến Sĩ. Nơi đây ghi danh 1.307 vị Tiến sĩ của 82 khoa thi từ triều Lê (từ khoa thi 1442 đến thời Nguyễn). Bia Tiến Sĩ được chạm khắc tinh xảo bằng loại đá xanh trên lưng rùa tượng trưng cho sự biết ơn, tôn trọng tới các bậc kì tài của đất nước. Khu thứ tư trong nội tự Văn Miếu Quốc Tử Giám là là sân Đại bái. Trước đây nơi này thờ bài vị của 72 học trò xuất sắc của Khổng tử và thầy giáo nổi tiếng Chu Văn An . Cuối cùng là nhà Thái Học, chính là trường Quốc Tử Giám xưa. Tên Thái Học được vua Lê Hiển Tông đổi vào năm 1785 và được gọi cho đến ngày nay. Rùa đá mang trên lưng tấm bia lớn tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Văn Miếu – Quốc Tử Giám có tường bao quanh xây bằng gạch Bát Tràng. Bên trong khung tường, những mái kiến trúc cổ ẩn hiện dưới cành lá sum suê của những tán cây cổ thụ khiến cho nơi đây mang một cảnh sắc hoàn toàn khác biệt với bên ngoài, tạo sự thu hút đặc biệt đối với du khách. Năm 1988, thành phố Hà Nội ra quyết định thành lập Trung tâm Hoạt động văn hóa, khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám là đơn vị quản lý di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Kể từ đó đến nay, công tác bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị di tích này đạt được nhiều kết quả quan trọng. Các hạng mục như: Cổng Tam quan, Khuê Văn Các, điện Đại Thành, giếng Thiên Quang… được tu bổ; việc tái dựng khu Nhà Thái học, phục dựng Phương đình trên gò Kim Châu – những hạng mục bị hư hỏng cùng thời gian – được các chuyên gia đánh giá cao. Mỗi năm khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám đón hàng triệu lượt khách trong nước và quốc tế đến tham quan. Trình diễn thư pháp tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Trước những yêu cầu mới trong phát triển công nghiệp văn hóa, xây dựng Thành phố sáng tạo, Văn Miếu – Quốc Tử Giám tiếp tục có những bước chuyển mình thành một không gian sáng tạo. Giám đốc Trung tâm Hoạt động văn hóa, khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám Lê Xuân Kiêu cho biết: “Khi Hà Nội gia nhập Mạng lưới các Thành phố sáng tạo của UNESCO, chúng tôi thấy việc phát triển những không gian sáng tạo là cần thiết. Nhưng với một di tích như Văn Miếu – Quốc Tử Giám thì triển khai thế nào cũng khá mông lung. Song, dần dần từng bước chúng tôi tìm ra giải pháp. Trung tâm đang tích cực triển khai theo hướng đưa di tích trở thành không gian tạo cảm xúc cho sáng tạo, không gian tổ chức các hoạt động sáng tạo, không gian trưng bày các sản phẩm sáng tạo… để hình thành nên những giá trị mới cho cộng đồng, cho xã hội, đưa giá trị di sản mang hơi thở của cuộc sống đương đại. Nhưng dù hoạt động như thế nào, thì nền tảng các hoạt động của di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám luôn là tôn vinh đạo học, tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc”. Văn Miếu – Quốc Tử Giám bây giờ không chỉ là một địa chỉ tham quan, mà từng bước trở thành một không gian văn hóa với nhiều hoạt động phong phú, sinh động, điển hình như các chương trình giáo dục di sản, các cuộc triển lãm, trưng bày, các cuộc thi tìm hiểu, sáng tác về Văn Miếu – Quốc Tử Giám, về thầy giáo Chu Văn An – người thầy tiêu biểu của đất nước Việt Nam… Trong đó, riêng mảng giáo dục di sản, thực hiện kế hoạch “Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục tuyên truyền về di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám”, Trung tâm đã xây dựng hơn 30 chủ đề giáo dục di sản và tổ chức cho hàng trăm đoàn học sinh các cấp đến trải nghiệm tại đây. Văn Miếu – Quốc Tử Giám bây giờ không chỉ là một địa chỉ tham quan, mà từng bước trở thành một không gian văn hóa với nhiều hoạt động phong phú, sinh động. Các chương trình giáo dục di sản đa dạng về chủ đề, xây dựng theo phương pháp mới, lần đầu thực hiện ở các bảo tàng di tích Việt Nam, đáp ứng nhu cầu đổi mới trong phương pháp dạy và học ở các nhà trường, phù hợp với các lứa tuổi, phát triển kỹ năng cho học sinh. Phục vụ cho công tác giáo dục, Trung tâm cho ra đời Phòng Trải nghiệm cùng di sản, là địa điểm hoạt động, trải nghiệm của nhóm học sinh đi theo lớp hoặc trẻ em đi theo gia đình, cũng là nơi khách tham quan có thể tham gia các hoạt động trải nghiệm, tìm hiểu chuyên sâu… Trung tâm Hoạt động văn hóa, khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám cũng đang đẩy mạnh số hóa, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu số di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, hệ thống công nghệ thông tin để phục vụ cho bảo tồn, quảng bá. Hiện trung tâm đang triển khai việc xây dựng chương trình tái hiện lại câu chuyện về lịch sử Văn Miếu – Quốc Tử Giám bằng ngôn ngữ nghệ thuật, ánh sáng, âm nhạc, kỹ xảo cùng hiệu ứng sinh động, hấp dẫn, thí dụ như biểu diễn sân khấu thực cảnh với chủ đề Hành trình đạo học, trải nghiệm các sinh hoạt của trường Quốc Tử Giám kết hợp với trải nghiệm công nghệ thông qua kính thực tế ảo. Ứng dụng các công nghệ hiện đại: Chiếu 3D, thực tế ảo AR/VR, 3D Hologram, 3D Mapping để khách tham quan trải nghiệm những giá trị của Văn Miếu – Quốc Tử Giám… Trong cuộc tọa đàm nhân 35 năm ra đời, hoạt động của Trung tâm Hoạt động văn hóa, khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám, các nhà khoa học đều đồng thuận với định hướng phát triển Văn Miếu – Quốc Tử Giám thành không gian sáng tạo trên cơ sở khai thác giá trị di sản, đạo học; đề xuất một số giải pháp phát triển công nghiệp văn hóa tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám: Biểu tượng văn hoá của Việt Nam
1,788
Bộ trưởng Môi trường Colombia cảnh báo việc diện tích rừng Amazon mất đi đến mức không thể phục hồi được sẽ gây ra những hậu quả không thể đảo ngược đối với tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu. Khoảng rừng Amazon bị chặt phá tại Brazil. (Ảnh: AFP/TTXVN). Trước những tác động không ngừng gia tăng do biến đổi khí hậu, ngày 9/7, các quốc gia thuộc lưu vực sông Amazon đã tham dự hội nghị cấp cao tại Colombia nhằm đề ra chiến lược cứu khu rừng nhiệt đới lớn nhất và đa dạng sinh học nhất thế giới. Phát biểu tại hội nghị ở thành phố Leticia, Bộ trưởng Môi trường Colombia Susana Muhamad nêu rõ, căn cứ trên góc độ khoa học, để bảo tồn rừng Amazon, cần giữ vững 80% diện tích “lá phổi xanh” này của Trái Đất và quản lý không để diện tích phá rừng vượt 20%. Tuy nhiên, tỷ lệ phá rừng Amazon hiện đã lên tới 17%. Tại hội nghị có sự tham dự của đại diện các nước gồm Bolivia, Brazil, Colombia, Ecuador, Guyana, Peru, Suriname và Venezuela, Bộ trưởng Susana cảnh báo việc diện tích rừng Amazon mất đi đến mức không thể phục hồi được sẽ gây ra những hậu quả không thể đảo ngược đối với tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu. Cũng trong khuôn khổ sự kiện này, Tổng thống Brazil Luiz Inacio Lula da Silva và người đồng cấp Colombia Gustavo Petro đã thảo luận việc hợp tác khu vực nhằm ngăn chặn nạn phá rừng cũng như bảo vệ rừng Amazon. Tổng thống Lula da Silva nhấn mạnh rằng chính phủ nước này cam kết “xóa sổ” nạn phá rừng trái phép vào năm 2030, đồng thời cho rằng đây là một cam kết mà các quốc gia trong lưu vực Amazon có thể cùng nhau đưa ra tại hội nghị thượng đỉnh sắp tới ở thành phố Belem của Brazil. Rừng nhiệt đới Amazon được ví là “lá phổi xanh của Trái Đất” do hấp thụ khí carbon dioxide (CO2) đang khiến Trái Đất ấm lên và nhả khí oxy cần cho sự sống. Chính vì vậy, vai trò bảo vệ rừng Amazon của các quốc gia thuộc lưu vực Amazon có ý nghĩa sống còn đối với cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Hội nghị tại Leticia diễn ra trước Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia Amazon do Brazil đăng cai tại Belem vào tháng 8 năm nay. Hội nghị sắp tới là nỗ lực nhằm thúc đẩy các quốc gia thuộc Tổ chức Hiệp ước Hợp tác Amazon cùng hành động để bảo tồn rừng nhiệt đới này và thúc đẩy phát triển bền vững trong khu vực đang bị đe dọa do nạn khai thác gỗ, khai thác rừng bất hợp pháp, cũng như do hoạt động buôn lậu động vật và buôn ma túy. Trong một diễn biến tích cực, Chính phủ Brazil tuần qua thông báo dưới thời chính quyền của Tổng thống Lula da Silva, nạn phá rừng Amazon tại nước này trong 6 tháng đầu năm nay đã giảm 1/3 so với cùng kỳ năm ngoái./.
Hội nghị cấp cao tại Colombia hướng tới chiến lược bảo vệ rừng Amazon
525
Lượng cổ vật cực lớn đã được thu thập từ hầm mộ cổ bên bờ biển Cyprus - Ảnh: PETER FISHCHER. Hầm mộ cổ đại 1.300-1.500 tuổi vừa được khai quật bên bờ biển Đông Nam đảo Cyprus có thể là nơi an nghỉ của các thành viên một hoàng tộc chưa từng biết, với hơn 500 bảo vật bên trong. Theo Heritage Daily, hầm mộ cổ nói trên đã được phát hiện nhờ từ kế, một thiết bị hay dùng trong các khảo sát địa vật lý nhằm phát hiện các dị thường từ tính ở sâu bên trong lòng đất. Từ trường dị thường khiến tàn tích này lộ diện không phải một hiện tượng bí ẩn nào, mà đơn giản vì số lượng đồ tạo tác kim loại phong phú bên trong, cho thấy những người trong mộ cực kỳ giàu có. Trước đó khu vực này đã gây nghi ngờ vì trong quá trình cày xới để canh tác, nông dân đã nhiều lần tìm thấy các mảnh gốm vỡ không thuộc về thời hiện đại. Đây là một trong số những cụm mộ cổ xa hoa nhất khu vực Địa Trung Hải, bao gồm hai phòng chôn cất có kích thước lên tới 4×5 m, thông với nhau, có thể đi vào thông qua một lối đi hẹp dẫn lên mặt đất. Cuộc khai quật dẫn đầu bởi GS Peter Fishcher từ Đại học Gothenburg ( Thụy Điển ) đã đem lên hơn 500 bảo vật làm bằng kim loại quý, đá quý, ngà voi, gốm sứ cao cấp, cùng một số vũ khí bằng đồng. Hầu hết các báu vật này hoặc nguyên liệu làm nên chúng đều được nhập khẩu từ các nền văn minh lân cận, làm tăng thêm độ xa hoa của ngôi mộ cổ. Vàng và ngà voi là loại nhập khẩu từ Ai Cập , đá quý từ Afghanistan , Ấn Độ và Sinai, trong khi hổ phách được đem về từ vùng Baltic. Các cuộc khai quật cũng tiết lộ một số hài cốt được bảo quản tốt. Đáng chú ý nhất là bộ xương một phụ nữ với hàng chục bình gốm, đồ trang sức quý và gương tròn bằng đồng đặt xung quanh. Một số cá nhân, cả nam và nữ, còn đeo vương miện và vòng cổ với mặt dây chuyền quý giá có thể được sản xuất tại Ai Cập hàng thế kỷ trước thời của họ. Tất cả các cổ vật càng có giá trị vô song với niên đại 1.300-1.500 năm của hầm mộ. Tư liệu về các triều đại cổ xưa trong khu vực còn hạn chế nên các nhà khoa học vẫn chưa thể xác định được những vị quý tộc nào an nghỉ trong hầm mộ nói trên.
Từ trường dị thường làm lộ ra mộ cổ đầy vàng, đá quý, ngà voi
449
Cuốn du ký "Có hẹn với Bulgaria". Hình ảnh đất nước, con người Bulgaria cũng như dấu ấn của người Việt ở xứ sở hoa hồng được tái hiện sống động trong cuốn sách của Tina Yuan –-cô gái thành thạo 4 ngoại ngữ, từng một mình đi đến hơn 100 quốc gia. Chiều 8/7, tại Hà Nội , cây bút Tina Yuan đã có buổi giới thiệu cuốn sách du ký Có hẹn với Bulgaria (NXB Thanh niên). Cây bút Tina Yuan tên thật là Nguyễn Thị Thương, sinh ra ở Việt Nam, hiện sống và làm việc tại Singapore . Cô tốt nghiệp 2 văn bằng Thạc sĩ ngành Luật Truyền thông và ngành Kinh doanh toàn cầu của Đại học Coventry (Anh). Tina Yuan đam mê lịch sử, văn hóa, kinh doanh, ưa xê dịch và khám phá những điều mới mẻ, từng một mình đi đến hơn 100 quốc gia. Trước Có hẹn với Bulgaria , cô đã phát hành cuốn Lỡ hẹn với Paris và được nhiều độc giả quan tâm. Bên cạnh đó, cô là người rất tích cực tham gia các hoạt động thiện nguyện, vì cộng đồng. Cô đã mở nhiều lớp học dạy tiếng Anh miễn phí cho người lao động và cô dâu Việt tại Singapore. Từ trái qua: Phó Chủ tịch hội Việt – Bulgaria tại Hà Nội Nguyễn Vũ Cân, Tina Yuan và diễn viên Minh Tiệp – Giám đốc Trung tâm Phát triển công nghiệp văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) – trò chuyện giao lưu tại buổi ra mắt sách. Chồng của Tina Yuan là người Bulgaria, bởi vậy cô có rất nhiều dịp tham quan, trải nghiệm tại đất nước này. Những công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn văn hóa và lịch sử, những điệu múa dân gian quyện hòa với âm nhạc, phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp cũng như những con người ấm áp, hồn hậu ở xứ ở hoa hồng đã mang đến cho Tina Yuan rất nhiều cảm xúc để cô viết nên cuốn du ký Có hẹn với Bulgaria. Chia sẻ về ấn tượng của mình khi đọc cuốn du ký của Tina Yuan, nhà thơ Dương Kỳ Anh – nguyên Tổng Biên tập Báo Tiền Phong – cho biết: “Tôi đang đọc một cuốn du ký mà theo tôi là tác giả đi qua những chặng đường, những nơi mình đến không chỉ là để khám phá những vùng đất lạ mà còn để khám phá chính bản thân mình, để hiểu chính mình!”. Được biết, một phần doanh thu của cuốn sách Có hẹn với Bulgaria sẽ được Tinay Yuan dành cho công tác thiện nguyện.
Khám phá xứ sở hoa hồng cùng ‘Có hẹn với Bulgaria’
428
Mùa rươi là cuốn tiểu thuyết thứ năm của Phạm Quang Long, cũng khá bề thế vạm vỡ như 4 cuốn trước đó, được xuất bản đều đặn trong khoảng 6-7 năm gần đây: Lạc giữa cõi người (NXB Hội Nhà Văn, 2016); Bạn bè một thuở (NXB Lao Động, 2017); Cuộc cờ (NXB Hà Nội, 2018); Chuyện làng (NXB Công an Nhân dân, 2020); Mùa rươi (NXB Văn Học, 2022). Trong đó, tiểu thuyết Bạn bè một thuở là tác phẩm đầu tư “đặt hàng” của Bộ Quốc phòng và tiểu thuyết Chuyện làng đã được Giải thưởng chính thức Cuộc thi sáng tác đề tài Vì an ninh Tổ quốc do Bộ Công an và Hội nhà văn Việt Nam tổ chức 2 năm 2019-2020. Trong 5 cuốn tiểu thuyết kể trên, thì có 2 cuốn viết về đề tài nông thôn, đó là Chuyện làng và Mùa rươi . Người đọc dễ dàng nhận ra 2 tác phẩm đều viết về cùng một ngôi làng và cũng có thể nói Mùa rươi là phần 2 của Chuyện làng . Thật vậy, Chuyện làng là những câu chuyện của một ngôi làng Bắc bộ những năm 1945-1975. Dĩ nhiên, Chuyện làng có không khí Cách mạng tháng Tám 1945, có những năm đánh Tây, có cải cách ruộng đất, có phong trào hợp tác hóa, có những nỗ lực và hi sinh của hậu phương lớn miền Bắc vì tiền tuyến lớn miền Nam… Trong ngôi làng ấy cũng có những anh nông dân khôn vặt láu cá, có những cán bộ dấm dúi chấm mút ăn vụng, có những xã viên “chân trong chân ngoài” v.v… Những người nông dân ấy của Chuyện làng tiếp tục hiện diện trong Mùa rươi , đồng hành cùng công cuộc chấn hưng “tam nông” trong sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước những năm đầu thế kỷ XXI… Tất nhiên, cái ngôi làng “bé tí” trong Mùa rươi , cùng những người nông dân của làng, đã khác xa cái thời Chuyện làng vài chục năm trước đó. Tất cả những hủ tục và mỹ tục của làng trong Mùa rươi đều chịu tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường. Cái xấu thì cộng hưởng công phá; cái đẹp thì phai nhạt lụi tàn; nhiều giá trị truyền thống bị đảo lộn… Làng bắt đầu thay đổi từ chuyện lấp ao bán đất làm nhà, mọc lên cái “phố Tấn” xanh đỏ nhấp nháy, xập xình karaoke… Ngày xưa dân ngụ cư thì lép vế khép nép, nay có tiền thì vênh vang kệch cỡm. Ngày xưa “đầu đường, xó chợ’ là mạt hạng thì nay đó là những “tấc đất tấc vàng”. Rồi nữa: Ngày xưa cán bộ tham lam chỉ “chấm mút” tí công điểm hoặc bớt xén nông sản lúc ăn chia, nay thì ăn từ đấu thầu dự án, từ dồn điền đổi thửa, từ những công ty cánh hẩu “sân sau”… Mùa rươi cũng đặt ra rất nhiều vấn đề thời sự của nông nghiệp, nông dân và nông thôn hiện nay; từ chuyện “đầu ra” cho nông sản thông qua câu chuyện trồng đinh lăng toan chuyện làm ăn lớn, rốt cuộc chỉ được mấy hũ rượu ngâm nhâm nhi; đến trình độ canh tác của nông dân thời sản xuất hàng hóa, thông qua chuyện nuôi rươi cũng đồng ấy, nước ấy nhưng nhà thì trúng lớn, nhà thì trắng tay… Đặc biệt là những cái được và những cái mất từ thực tiễn xây dựng nông thôn mới. Hãy nghe tâm tư của một nhân vật tích cực trong tiểu thuyết: “Xây dựng nông thôn mới, hiện đại hóa nông thôn, nông nghiệp là mặt trận hàng đầu… thì đúng rồi. Nhưng cái nào đúng, cái nào sai, sai đúng đến đâu… các ông đã nghĩ kỹ cả chưa? Chỉ riêng cái làng tôi đây sau mấy chục năm thay đổi theo chỉ thị của các ông cũng chẳng còn ra cái làng nữa… Còn những chuyện khác thì coi trọng đồng tiền quá nên làm hỏng nhiều thứ quá. Tệ nhất là tình làng nghĩa xóm bây giờ… Hiện đại hóa mà làm hỏng con người thì tôi chả mong hiện đại hóa làm gì?” (tr.303). Đọc Mùa rươi , thấy rõ nỗi niềm trăn trở đầy trách nhiệm của tác giả trước những vấn nạn của xã hội và quốc nạn của đất nước. Từ những ấu trĩ cực đoạn đến những dốt nát và trục lợi trong việc đập phá đình chùa trước đây và xây mới hiện nay, đến những xuống cấp của đạo đức xã hội và sự vô cảm của con người trong đời sống “hiện đại”. Đặc biệt là sự tha hóa, biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Đã có người làng phải thốt lên: “Đảng của Cụ Hồ là Đảng cộng sản thật. Các cụ ấy vào Đảng là để hi sinh cả tính mạng cho dân cho nước. Còn bây giờ ở quê tôi, người ta vào Đảng là để hưởng thụ chứ không ai chịu hi sinh gì cả” (tr.297). Tác giả mượn lời của một nhân vật là “cộng sản ngoài Đảng” để chỉ ra một sự thật trong nhiều tổ chức Đảng hiện nay: “Trong Đảng nói là dân chủ, nói hết, phê bình và tự phê bình để giúp nhau tiến bộ… Phê bình đúng còn khó nghe nữa là phê bình chưa đúng. Có người miệng nói phê bình để giúp nhau tiến bộ, nhưng có khi phê lại là để vùi dập, có khi khen nhau lại là khen cho chết hẳn” (tr.163). Còn nói về vấn đề “tam nông” thì: “Nhà nước còn nợ nông dân nhiều lắm. Cái gì cũng dựa vào nông dân, nhưng nông dân thì thiệt nhất, con cái nông dân khổ nhất, nông thôn ít được chú ý nhất. Hàng hóa nông dân làm ra nuôi cả xã hội, nhưng xã hội chả coi người nông dân ra gì. Hàng hóa bán cho nông dân thì đắt, mua hàng của nông dân thì rẻ, ruộng đất của nông dân cứ lấy vô tội vạ, ông nào thích thì ra một cái quyết định thu hồi, mà đền bù thì chả được là bao…” (tr 303). Hoặc như những nhận xét của ông Đỉnh về lớp cán bộ hiện nay ở làng Hà Đồng của ông: “Ngày xưa cán bộ ít được học hành, họ cũng có những lúc sai nhưng họ gần dân hơn, không nói một đằng làm một nẻo. Sao giờ cán bộ được học nhiều hơn, nhưng làm ăn thì chán thế. Lại lắm trò lưu manh hơn…” (tr.299). Tiểu thuyết Mùa rươi có một thế thống nhân vật khá phong phú và đa dạng, làm nên một xã hội thu nhỏ đủ các giai tầng, đủ loại đối tượng… để tác giả triển khai những ý tưởng nghệ thuật của mình. Cùng là những người lính trở về từ chiến trường, có người vẫn giữ được phẩm chất của người chiến sĩ như ông Đỉnh, ông Thủy; nhưng có người bị cuốn hút vào dòng xoáy của tiền và quyền như ông Tân. Cùng đi xuất khẩu lao động trở về, có kẻ thì rởm đời, hơm hĩnh, trọc phú và ma mãnh như tay Hẹn; nhưng có người thì chí thú làm ăn từ đồng vốn gom góp được ở xứ người để làm giàu và đóng góp cho cộng đồng như ông Tiến. Có những nhân vật chỉ xuất hiện đôi lần trong những hoàn cảnh cụ thể nhưng đủ khơi lên niềm hi vọng vào những cán bộ chân chính như anh Tâm. Có những nhân vật trẻ người nhưng không non dạ như Hiên, như Thao… khiến cho người đọc yên lòng tin tưởng vào thế hệ tương lai của làng, hiểu rộng ra là tương lai của đất nước. Ấn tượng nhất là nhân vật lão Hoản và ông Đỉnh trưởng thôn. Lão Hoản là một gã thô lỗ, tục tằn, khôn vặt, “đòn xóc 2 đầu” nhưng lại có tài thượng thặng chế biến các món ăn dân dã. Lão là nhân vật không thể thiếu của bất kỳ làng quê Việt nào dẫu ở thời đại nào. Sự hấp dẫn của những món ăn do lão chế biến chính là “chất quê” cố hữu của lão, là hồn cốt của làng quê, là tàn dư không thể đoạn tuyệt của “nhà quê”. Đặc biệt thú vị là nhân vật ông Đỉnh, một cựu chiến binh từng chỉ huy cả đại đội công binh ở chiến trường, từng hơn chục năm có chân trong chi ủy của làng; nhưng cũng ở làng, ông từng bị “án oan” phải ra khỏi Đảng; khi oan khuất được sáng tỏ thì vì tự ái mà ông tự nguyện làm “người cộng sản ngoài Đảng ở cái làng này”. Ông vẫn được dân làng tín nhiệm bầu làm trưởng thôn vì ông còn “làm việc cho dân, cho làng, vẫn bảo vệ cái đúng, đấu tranh chống cái sai, cái xấu…” (tr.297). Ông Thủy cũng là một cán bộ tích cực của xã nhận xét về ông Đỉnh: “Chả bài vở lý luận gì nhưng ông này nắm chuyện của làng như trong lòng bàn tay, từ ruộng đất đến con người… Lúc nào trông Đỉnh cũng ung dung, nhưng té ra ông ấy tính toán được, lại tính giỏi” (tr.60). Đến như Chủ tịch huyện chỉ mới gặp và nói chuyện với Đỉnh một lúc cũng phải công nhận: “Đúng là ông nông dân này vừa hiểu biết, vừa dám nói ra những cái mình nghĩ một cách rành rẽ và công bằng. Cũng có bực bội nhưng không cực đoan…” (tr 296). Văn xuôi Việt Nam trước tới nay đã có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng về đề tài nông thôn, nhưng viết về “nông thôn mới” thời hội nhập và phát triển, với những cái được và mất, vui và buồn… trong mối quan hệ hữu cơ với nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị-xã hội như tiểu thuyết Mùa rươi thì còn khá hiếm. Điều đáng nói là giá trị của tác phẩm không chỉ ở tính thời sự, mà trước hết và trên hết là ở chủ đề tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Thiết nghĩ, đây là một tiểu thuyết đáng đọc, không chỉ đối với công chúng của văn chương.
Nông thôn mới nhìn từ “Mùa rươi” – Tác giả: Mai Nam Thắng
1,734
Theo đánh giá của các chuyên gia UNESCO, công tác bảo tồn giá trị di sản thế giới Tràng An gắn với phát triển bền vững đã có sự cân bằng tương đối tốt - Ảnh: VGP/Diệp Anh. Thách thức cho phát triển của các đô thị di sản có được danh hiệu của UNESCO không hề nhỏ, nhất là các đô thị di sản hỗn hợp văn hóa và thiên nhiên thế giới như Tràng An. Khu di sản, quần thể danh thắng Tràng An nằm ở rìa phía nam của đồng bằng châu thổ sông Hồng thuộc tỉnh Ninh Bình , có diện tích 6.226 ha và vùng đệm rộng 6.026 ha, trên địa bàn của các huyện: Hoa Lư , Gia Viễn , Nho Quan và các thành phố Tam Điệp , Ninh Bình. Khu di sản gồm ba khu vực được bảo vệ là: Khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư, khu danh thắng Tràng An – Tam Cốc – Bích Động và khu rừng đặc dụng Hoa Lư; chứa đựng tất cả giá trị cảnh quan đặc sắc và các giá trị văn hóa liên quan. Theo thống kê hiện có khoảng hơn 20.000 dân sinh sống trong vùng lõi khu di sản. Ngày 25/6/2014, Quần thể danh thắng Tràng An được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới. Đây là di sản thế giới hỗn hợp đầu tiên ở Việt Nam và Đông Nam Á với các bằng chứng về quá trình tương tác của người cổ xưa với cảnh quan thiên nhiên và nỗ lực thích ứng của họ với những biến cố môi trường trong hơn 30.000 năm. Khu di sản Quần thể danh thắng Tràng An cũng đóng vai trò quan trọng trong đời sống tín ngưỡng không chỉ cho người dân địa phương mà cả người dân từ các khu vực khác. Khách hành hương chiếm phần lớn lượng khách đến thăm quan di sản, đặc biệt trong các dịp lễ hội, số lượng khách có thể lên tới 35.000 lượt khách/ngày. Với giá trị đặc sắc, độc đáo về cảnh quan, văn hóa lịch sử ở tầm nhân loại, Tràng An có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Ninh Bình, tạo thế và lực đưa Ninh Bình trở thành trung tâm du lịch lớn của Việt Nam, hàng năm thu hút lượng lớn khách du lịch trong nước và quốc tế đến tham quan. Tốc độ tăng trưởng lượng khách đến Ninh Bình giai đoạn 2010 – 2019 bình quân đạt trên 11%/năm. Năm 2019, toàn tỉnh đón được gần 7,65 triệu lượt khách, trong đó khách nội địa là 6,58 triệu lượt, khách quốc tế là 970.000 lượt. Doanh thu du lịch đạt trên 3.600 tỷ đồng. Riêng các khu, điểm du lịch trong vùng lõi di sản, năm 2019 đón được trên 3,1 triệu lượt, trong đó khách quốc tế khoảng 650.000 lượt, với tốc độ tăng trưởng khách khoảng 9,7%/năm. Các hoạt động du lịch, dịch vụ và bảo tồn di sản đã mang lại thu nhập và lợi ích trực tiếp cho người dân địa phương, từ đó tạo nên mối quan hệ mật thiết, gắn bó của cộng đồng dân cư đối với di sản, nâng cao ý thức, trách nhiệm của từng người dân, đảm bảo hài hòa giữa giữ gìn cảnh quan tự nhiên, bảo tồn và phát huy giá trị di sản và phát triển du lịch. Theo đánh giá của các chuyên gia UNESCO, công tác bảo tồn giá trị di sản thế giới Tràng An gắn với phát triển bền vững đã có sự cân bằng tương đối tốt, hài hòa giữa bảo vệ môi trường, quản lý nhà nước, người dân và doanh nghiệp. Chủ trương và chính sách phát triển bền vững gắn với đảm bảo sinh kế cho người dân đã làm thay đổi bộ mặt nhiều địa phương trong khu di sản, làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang dịch vụ du lịch, nhiều nghề thủ công truyền thống được khôi phục, nhiều ngành nghề mới, sinh kế mới được tạo ra, đặc biệt đã có sự gắn kết giữa các hoạt động du lịch với nông nghiệp và trải nghiệm cuộc sống của người dân. Công tác an ninh trật tự, vệ sinh môi trường được đảm bảo, cơ sở vật chất kỹ thuật luôn được đầu tư và nâng cấp; văn hóa, văn minh du lịch đã được nâng cao, chất lượng nguồn nhân lực và công tác phục vụ, đón tiếp khách du lịch đã cơ bản đi vào nề nếp; công tác quảng bá xúc tiến du lịch luôn được chú trọng, hình ảnh và thương hiệu du lịch của các khu, điểm du lịch trong Quần thể danh thắng Tràng An ngày càng được khẳng định. Danh hiệu Di sản của UNESCO đã thực sự đóng vai trò là hạt nhân, là trung tâm thúc đẩy phát triển du lịch trong toàn tỉnh, khẳng định được vị trí du lịch Ninh Bình trên thị trường du lịch trong nước và quốc tế. Hoạt động phát huy các giá trị Di sản gắn với phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh trong Quần thể danh thắng Tràng An được thực hiện khá tốt, thể hiện qua sự tham gia của cộng đồng địa phương vào các hoạt động sinh kế có liên quan đến dịch vụ du lịch, phát huy giá trị của di sản. Mới đây, tại Hội nghị quốc tế về phát huy giá trị các danh hiệu UNESCO phục vụ phát triển bền vững tại Việt Nam diễn ra tại Ninh Bình, ông Michel Croft, Quyền trưởng Văn phòng UNESCO tại Hà Nội cho biết, ông đã theo dõi và chứng kiến những thành tựu từ mô hình hợp tác công-tư tại Ninh Bình từ những năm đầu tiên tỉnh Ninh Bình xây dựng danh hiệu cho di sản. Đây là bài học rất thành công của Ninh Bình khi kêu gọi hiệu quả sự quan tâm và tham gia của nhiều đối tác khu vực công và khu vực tư trong việc xây dựng và duy trì bền vững công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản thế giới đã được công nhận, có thể áp dụng cho nhiều khu di sản thế giới khác ở Việt Nam. Ông Firmin Edouard Matoko, Trợ lý Tổng Giám đốc UNESCO về ưu tiên châu Phi và quan hệ đối ngoại cho rằng, để phát huy giá trị các danh hiệu UNESCO cần phải có cơ chế, chính sách rất đặc thù cho những khu vực đô thị, từ đó vừa phát triển kinh tế vừa bảo tồn và phát huy giá trị của di sản. Nhu cầu của mọi người là cần có việc làm, đặc biệt là thế hệ trẻ, vì vậy chính sách cần phải áp dụng khác nhau giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, Di sản Tràng An còn đối mặt với nhiều thách thức để phát triển một cách bền vững, thành một điểm đến hấp dẫn của du lịch khu vực và quốc tế. Đó là, việc giải quyết hài hòa giữa bảo tồn di sản và phát triển kinh tế – xã hội. Hiện nay, số lượng khách du lịch đến tham quan các khu, điểm du lịch trong khu Di sản tăng nhanh kéo theo nhu cầu cao về lưu trú du lịch, đặc biệt ở các khu vực có cảnh quan tự nhiên và khu dân cư nằm xen kẽ; loại hình cơ sở lưu trú dạng homestay tự phát tăng nhanh, chủ yếu tập trung trong vùng lõi của di sản. Công tác quản lý đất đai, các hoạt động xây dựng, kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch, sử dụng tài nguyên du lịch trong khu di sản chưa nghiêm, có vi phạm kéo dài chưa xử lý triệt để; công tác nghiên cứu khoa học, nhất là nghiên cứu về văn hóa, đa dạng sinh học còn ít, chưa có những công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về các giá trị của di sản. Công tác đầu tư, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, bảo vệ cảnh quan môi trường chưa tương xứng với vị thế và tầm vóc của di sản; các dự án đầu tư về cơ sở hạ tầng du lịch trong khu Di sản triển khai còn chậm; sản phẩm du lịch trong khu di sản còn trùng lặp, đơn điệu, thiếu các chương trình du lịch chuyên sâu về khảo cổ học, khám phá di sản gắn với các giá trị, truyền thống văn hóa – lịch sử về vùng đất Cố đô Hoa Lư . Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển bền vững trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa và thách thức của biến đổi khí hậu cùng các vấn đề xã hội khác, tỉnh Ninh Bình luôn xác định quan điểm phát triển bền vững dựa trên nền tảng các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, nhất là hệ thống di sản văn hóa và thiên nhiên, các danh hiệu UNESCO, tập trung xác định con người là trung tâm, là mục tiêu của phát triển bền vững, tăng cường sinh kế bền vững cho người dân trong vùng di sản. Đối với cộng đồng sống trong khu vực di sản, bên cạnh việc tạo điều kiện, khuyến khích cộng đồng vận dụng những kinh nghiệm, tri thức truyền thống mà họ tích lũy được trong việc bảo vệ, phát huy giá trị di sản, cần có cơ chế chia sẻ lợi ích với cộng đồng từ hoạt động bảo tồn di sản và phát triển du lịch bền vững, tạo điều kiện cho người dân tham gia vào các hoạt động bảo vệ di sản, bảo tồn các di tích lịch sử – văn hóa, các di sản văn hóa phi vật thể đang nắm giữ, phát triển đa dạng sinh học, tạo công ăn việc làm cho cộng đồng sống trong khu vực di sản. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện mô hình hợp tác công – tư trong quản lý, phát huy giá trị di sản, tạo động lực cho phát triển bền vững. Tại Ninh Bình, sự đồng thuận giữa chính quyền, người dân và doanh nghiệp, cùng sự tham vấn của các nhà khoa học đã tạo nên những kết quả đáng ghi nhận trong việc bảo vệ và trao truyền các giá trị của di sản, góp phần bảo tồn di sản và phát triển một cách bền vững. Những năm qua, mô hình hợp tác công – tư đang được triển khai ở các khu, điểm du lịch tại Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới Quần thể danh thắng Tràng An dựa trên ba trụ cột chính: Cơ quan quản lý nhà nước – doanh nghiệp – cộng đồng dân cư địa phương. Trong thời gian tới, tỉnh Ninh Bình tiếp tục hoàn thiện mô hình hợp tác công – tư trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản, tập trung vào các vấn đề liên quan cơ chế phối hợp quản lý, chia sẻ lợi ích, sự phối hợp và trách nhiệm giữa các bên liên quan nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn di sản gắn với phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các nhiệm vụ cấp thiết trong bảo tồn phát huy giá trị di sản gắn với phát triển bền vững gồm: Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không thể tái tạo, hạn chế tác hại của thiên tai, chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học. Tỉnh Ninh Bình cũng tập trung tăng cường năng lực quản lý và phát triển nguồn nhân lực bền vững. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn có tính chuyên nghiệp cao, được trang bị và nắm vững những quy định của Luật Di sản văn hóa và những văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, cũng như những quy định của Công ước và Hiến chương quốc tế về Di sản thế giới; được trang bị các phương pháp khoa học về bảo tồn; có năng lực phối hợp và liên kết với các chuyên gia trên nhiều lĩnh vực khác nhau, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn để quản lý và triển khai trên thực tế các hoạt động quy hoạch, thiết kế, bảo quản, tu bổ, tôn tạo, phục hồi di sản. Đặc biệt, nâng cao công tác tuyên truyền cho cộng đồng, đặc biệt tại nơi có di sản được khai thác du lịch, nhằm làm cho cộng đồng thấy được tầm quan trọng và giá trị của di sản, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm, tự giác đối với việc bảo vệ di sản, môi trường nói chung và môi trường du lịch nói riêng.
Để Tràng An giữ vững danh hiệu Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới
2,202
Phố Hàng Buồm xưa. Vào giữa thập niên 80 thế kỷ trước, chúng tôi thường lui tới trụ sở Hội Văn nghệ Hà Nội ở 19 Hàng Buồm (phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm , Hà Nội ). Cánh viết văn trẻ ở Hà Nội ngày đó rất mê tờ Báo Người Hà Nội. Tôi quen nhà thơ Tô Hà (1939-1991), một biên tập thơ khó tính nhưng rất hiền hậu. Có lần ông mắng tôi vì cái tội cứ nghĩ nhà thơ Nguyễn Bính đã làm mấy câu: “Anh đi đấy? Anh về đâu?/ Cánh buồm nâu… cánh buồm nâu… cánh buồm” tại bến Giang Khẩu đầu phố Hàng Buồm ngày xưa. Thế rồi ông kể chuyện tôi nghe. Phố cổ Hàng Buồm (phường Hà Khẩu) hình thành từ thời Lê – Trịnh (1553-1788) trên nền tảng hồn cốt ngàn năm của Đền Bạch Mã (số nhà 76). Đầu phố nằm ngay trên bến cửa sông Tô nối với sông Hồng chảy về đường Nguyễn Siêu hiện nay (phía sau dãy số nhà chẵn Hàng Buồm). Các cửa hàng dọc bờ sông buôn bán chủ yếu là bị cói, buồm vải, mành, lưới, gió và cột thuyền… Phía sau Đền Bạch Mã còn có chợ Bạch Mã nhộn nhịp suốt ngày đêm. Chợ ngày càng đông vui từ khi người Quảng Đông tràn tới buôn bán hàng trăm mặt hàng mới lạ. Vào cái đận đó (giữa thế kỷ 19) những người Hà thành bán buồm, lưới và các đồ cói thất cơ lỡ vận dạt về mấy phố lân cận. Các thương nhân người Hoa xây dựng nhà cửa và Hội quán rất đình đám. Hàng Buồm dài tới 300 mét nhiều quán hàng ăn Quảng Đông thu hút khách tấp nập ngày đêm. Đặc biệt, món thịt quay nổi tiếng vẫn được con cháu họ giữ nghề cho tới ngày nay. Tuy phố Hàng Buồm được mở mang phồn thịnh bậc nhất ngày đó nhưng người Hoa lại luôn gìn giữ và tôn trọng hương lễ Đền Bạch Mã (76 Hàng Buồm). Đây là di trấn kinh thành phía Đông được xây dựng từ thời nhà Đinh (Bạch Mã tối Tứ Linh). Do quy định của triều đình qua các niên đại, dần dần người Hoa đã được Việt hóa. Họ sống, tuân thủ pháp luật và các nghi lễ tâm linh nên hòa đồng với văn hóa bản địa. Hơn nữa, Đền Bạch Mã linh thiêng được coi là vũ trụ thần linh của người Việt án ngữ tạo nên chân đế vững mạnh cho đến nay. Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, một vị thần gốc của Hà Nội cổ và đã được nhiều đời vua tu sửa và tôn tạo. Cùng với biểu tượng thần Ngựa trắng, đền được coi là một di sản kiến trúc tâm linh độc đáo. Sự uy nghiêm của Đền Bạch Mã như một biểu tượng thể hiện sức mạnh dựng nước và giữ nước của ông cha ta hàng ngàn năm qua. Đường phố Hàng Buồm men theo dòng sông Tô từ Chợ Gạo tới ngã tư Hàng Ngang – Hàng Đường và Lãn Ông. Ngã phố ấy tạo nên trục thương mại từ bến bãi Hà Khẩu kết nối với chợ Cầu Đông. Hình ảnh kẻ chợ rộn ràng được ghi lại trong ca dao: “ Ngày đêm trên bến dưới thuyền/ Phố vui tấp nập bon chen bất thường/ Mặt ngoài có phố Hàng Đường/ Hàng Mây, Hàng Mã. Hàng Buồm, Hàng Chum/ Tiếng Ngô tiếng Nhắng um um/ Lên lầu xem điếm tổ tôm đánh bài …”. Có lẽ vì thế chăng nên tôi luôn có mặc cảm rằng nhà thơ Nguyễn Bính đã tới ngã Hàng Buồm này và tức cảnh: “ Hôm nay dưới bến xuôi đò/ Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau …”. Hóa ra không phải, nhà thơ Tô Hà giải thích thi sĩ Nguyễn Bính mãi tới năm 1918 mới ra đời mà trong khi đó thực dân Pháp đã cho lấp sông Tô Lịch (làm đường Nguyễn Siêu) từ năm 1889. Đầu phố Hàng Buồm. Hàng Buồm đã mất nghề bán lưới, bán buồm, còn mất cả bến bãi nhộn nhịp sông nước ngày nào. Không ít nhà thơ đã nhớ đến cảnh xưa bến cũ nên viết: “ Hàng Buồm chẳng còn cánh buồm/ Thuyền đậu nơi nào em đến/ Sông Hồng cách xa biền biệt/ Bãi ngô cát trắng mùa xuân ” (Thái Thăng Long). Riêng nhà thơ Nguyễn Ngọc Phú tôi đoán chắc cũng đã từng ám ảnh cánh buồm nâu một thuở Nguyễn Bính nên đã viết: “ Hàng Buồm vắng cánh buồm nâu/ Hay buồm em đem giấu/ Để ta neo đến bạc đầu ” (Hàng Buồm). Còn tôi vẫn cứ thẫn thờ với những ô cửa tò vò trên những mái nhà xanh rêu đầu phố. Cô bé ngày xưa ấy e thẹn mà chỉ “Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau”. Và đó chính là hồn phố mà tôi thường mơ tìm về những ô cửa thầm kín đó đây. Vào thời kỳ Đổi mới, nền kinh tế thị trường manh nha phát triển, Báo Người Hà Nội là nơi thu hút những cây bút giỏi nhất của Thủ đô. Chúng tôi càng hồ hởi mỗi khi tới ngôi nhà số 19 Hàng Buồm để hóng chuyện của nhà văn Tô Hoài. Cái duyên ông kỳ lạ lắm, cứ thủ thỉ nhẹ nhàng thấm ngọt từng lời. Lần ấy nhà văn chỉ sang số nhà 26 rồi nói đó chính là bệnh viện dã chiến của Trung đoàn Thủ đô hồi 1947. Sau đó, ông đọc mấy câu thơ của một chiến sĩ in trên Báo Vệ quốc đoàn ngày đó. Những câu thơ mang hơi hướng kiêu hùng lãng tử: “ Mùa xuân đi không tiếc nửa đời hương/ Em lòng ơi giữ lấy giấc mơ hường/ Ai mải miết một trời son phấn/ Ta hùng anh lừng hát tiến lên đường” (Mạc Tần). Rồi ông cho biết đây chính là linh hồn, cái tứ cho nhạc sĩ Lương Ngọc Trác sáng tác ca khúc mới động viên chiến sĩ Thủ đô. Tôi đã từng nghe có lần nhạc sĩ Lương Ngọc Trác bộc bạch, khi bị thương trong trận đánh ở Hàng Hòm, ông được khênh về binh trạm số 26 phố Hàng Buồm (2/1947). Những câu thơ của Mạc Tần tình cờ ông đọc được trên giường bệnh đã tạo dựng hình tượng âm nhạc để khởi phát cho giai điệu “Mơ đời chiến sĩ”. Những câu nhạc đầu tiên được viết ra trong tiếng súng vang lên từ mặt trận chợ Đồng Xuân. Khói lửa còn cháy lan cả vào bệnh viện. Tới năm giờ chiều bài hát đã hoàn tất. Mặc cho đôi chân bị thương, nhạc sĩ Lương Ngọc Trác đã đứng bật dậy lưng tựa vào tường và cất tiếng hát. Các chiến sĩ trên giường bệnh đều say sưa lắng nghe lời ca: “ Mùa xuân đi in dấu hằn đau thương/ Em lòng ơi giữ lấy giấc mơ hồng/ Ai mải miết cuộc đời quen êm ấm/ Ta ra đi cùng tiếng hát trên đường …”. Một nhịp điệu hành khúc thôi thúc những chiến sĩ lên đường ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946). Không khí thật sôi sục mãnh liệt, phơi phới thanh xuân. Hàng Buồm còn có một kỳ nhân mà ít người biết tới nhưng anh em văn nghệ thì không lạ gì. Đó chính là quái kiệt Bổng “Hàng Buồm” ở số nhà 93. Sinh thời ông như một cái bóng thoắt ẩn thoắt hiện khi tiếp xúc với những nhà văn hay họa sĩ đường thời. Ông luôn nhặt nhạnh và thu gom những bản thảo viết tay hoặc những bức tranh còn chưa hoàn thành. Lẽ dĩ nhiên ông Bổng còn sưu tầm cả những tác phẩm hoàn chỉnh nhưng đa phần là di sản sót lại của các nhà văn nhà thơ hay họa sĩ. Ông có thể ngồi lì hàng ngày bên họa sĩ Bùi Xuân Phái đề chờ nhặt những bức tranh hỏng đã bị ông Phái vò xé rồi vứt vào sọt rác. Vậy mà ông Bổng thu gom về rồi là phẳng hay dán lại những bức tranh rác ấy rồi nửa đêm mò đến nhà Bùi Xuân Phái xin chữ ký. Chính vì thế mà Bổng “Hàng Buồm” có nhiều tranh của ông Phái nhất. Sau đó là tranh của Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng; thậm chí cả tranh Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn và Văn Cao. Hơn nữa, Bổng “Hàng Buồm” còn có duyên với những bản thảo viết tay và bút tích của các văn sĩ. Nào là Phùng Quán, Hoàng Cầm, Trần Dần… đều có cả. Trong số đó tư liệu, bản thảo và bút tích của nhà văn Nguyễn Tuân là một kỷ lục. Sau này ông Bổng không biết bằng cách nào còn gom được 20 bản thảo của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Điều thú vị nhất là khi kỷ niệm 45 năm thành lập, Báo Văn nghệ đã phải mượn ông Bổng hàng chục bản in kẽm tác phẩm của tất cả các họa sĩ đã vẽ minh họa cho báo. Nghĩ giỏi đến thế là cùng. Giờ phố Hàng Buồm nằm trong vùng phố đi bộ cuối tuần. Không gian bến đò ô cửa tò vò như vẫn còn đâu đó làm con phố đượm nét hoài cổ hoang liêu mỗi khi hoàng hôn dịu lắng. Cho dù nhà Hội Quán người Hoa (số 22 Hàng Buồm) đã trở thành Trung tâm nghệ thuật thành phố nhưng vẫn còn đó Đền Quán Đế (số nhà 28), đình Hàng Thịt (số 8) và đặc biệt là Đền Bạch Mã. Bến nước con đò xưa nay còn đâu nhưng các di sản còn lại luôn lung linh ánh sáng rực rỡ của Thăng Long ngàn năm. Những đêm cuối tuần các đào nương đã tới hát cùng với nhịp phách xốn xang một thuở. Đó là âm sắc gợi nhớ những ký ức kỳ vĩ của văn hóa ngàn năm. Không gian sân Đền Bạch Mã đêm về mênh mang cùng sóng nhạc ngày xưa: “Hồng hồng, Tuyết tuyết/ Nhớ ngày nào chửa biết cái chi chi/ Mười lăm năm thấm thoát có xa gì/ Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ tơ liễu …”.
Hàng Buồm lộng gió cửa sông – Tác giả: Vương Tâm
1,713
Núi lửa Karangetang phun tro bụi. (Nguồn: lokmat times). Người đứng đầu cơ quan địa chất Indonesia cho biết núi lửa Karangetang bao gồm hai miệng núi lửa đang hoạt động, đã phóng tro nóng xa tới 2km về phía Đông Nam. Sáng 10/7 (giờ địa phương), núi lửa Karangetang trên đảo Siau, ngoài khơi bờ biển North Sulawesi, đã phun trào. Chính quyền địa phương đã đưa cảnh báo người dân và khách du lịch cần tránh xa khu vực nguy hiểm này. Người đứng đầu cơ quan địa chất Indonesia, ông Sugeng Mujiyanto cho biết núi lửa Karangetang bao gồm hai miệng núi lửa đang hoạt động, đã phóng tro nóng xa tới 2km về phía Đông Nam. Ông đề nghị người dân và du khách tại khu vực cần tránh các hoạt động trong bán kính từ 2,5-3,5 km quanh các miệng núi lửa, do có những nguy cơ tiềm ẩn từ dòng dung nham và mây nóng. Kể từ tháng 5/2023, Indonesia đã nâng mức cảnh báo lên cấp độ 3, mức cao thứ hai trong hệ thống cảnh báo núi lửa, khi ngọn núi lửa cao 1.784m này bắt đầu ghi nhận các hoạt động ngày càng tăng. Trước đó, ngày 9/6, Trung tâm Giảm thiểu Thảm họa Địa chất và Núi lửa Indonesia (PVMBG) cho biết núi lửa Anak Krakatau nằm ở eo biển Sunda, tỉnh Lampung, đã phun tro bụi cao 3.000m. Núi lửa phun trào cột tro bụi bốc lên cao tới 3.000m. Hoạt động phun trào được ghi lại trên địa chấn kế với biên độ tối đa là 50mm và kéo dài 13 phút 22 giây. Tới 10h, núi lửa vẫn bốc khói dày đặc cao 50-300m. Mức độ cảnh báo núi lửa Anak Krakatau đã được nâng lên cấp 3 trong thang cảnh báo 4 cấp độ của Indonesia, trong khi người dân được khuyến cáo tránh các hoạt động trong bán kính 5km quanh miệng núi lửa. Núi lửa Anak Krakatau từng gây ra một số cơn sóng thần trong lịch sử. Vào ngày 22/12/2018, núi lửa này đã phun trào mạnh, gây ra một vụ lở đất dưới nước, kéo theo sóng thần tấn công một số khu vực ven biển ở các tỉnh Banten và Lampung khiến 437 người thiệt mạng và hàng nghìn người bị thương. Ngày 26/4/2022, giới chức Indonesia cảnh báo khả năng hoạt động của ngọn núi lửa này gây ra sóng thần. Ngày 28/3 vừa qua, Anak Krakatoa cũng phun trào nhiều lần với cột tro bụi cao tới 2.500m./.
Núi lửa ở Indonesia phun trào, phóng tro nóng xa tới 2km
416
Lãnh đạo UBND TP Cần Thơ trao cờ lưu niệm cho các đơn vị tham gia ngày hội. Sáng 10/7, Cần Thơ khai mạc Ngày hội Du lịch ‘Văn hóa Chợ nổi Cái Răng’ lần thứ VII năm 2023, hưởng ứng Ngày Du lịch Việt Nam (9/7). Năm nay, lễ hội được tổ chức quy mô khá lớn với nhiều hoạt động sôi nổi như Chương trình văn nghệ chào mừng Ngày hội Du lịch “Văn hóa Chợ nổi Cái Răng”; gian hàng phát triển du lịch, thương mại dịch vụ đến từ TP Hồ Chí Minh, các tỉnh ĐBSCL; Hội thi Trưng bày mô hình ghe, tàu – cây bẹo mua bán nông sản; Hội thi “Nét đẹp áo bà ba xưa và nay” quận Cái Răng lần thứ I năm 2023; thưởng thức đờn ca tài tử trên sông;… Ngày hội là dịp để các doanh nghiệp được trực tiếp gặp gỡ, liên kết, hợp tác trong kinh doanh; lắng nghe nhận xét, đánh giá của du khách, các đơn vị lữ hành, các nhà quản lý, cơ quan truyền thông để từng bước nâng chất, phấn đấu đưa vùng đất Cái Răng – Cần Thơ trở thành điểm du lịch hấp dẫn hơn nữa trong thời gian tới. Phát biểu tại lễ khai mạc, ông Nguyễn Quốc Cường – Chủ tịch UBND quận Cái Răng cho biết: Chợ nổi Cái Răng cũng là địa điểm thuận lợi cho việc quảng bá sản phẩm địa phương, giới thiệu trực tiếp cho du khách trong và ngoài nước. Chợ nổi Cái Răng đã trở thành thương hiệu du lịch trong và ngoài nước; đứng trong top 10 Chợ nổi ấn tượng Châu Á và Thế giới. Quận Cái Răng được xem là đầu mối về giao thông vận tải nội vùng; các hạng mục công trình giao thông trọng điểm quốc gia và thành phố đi qua như: Quốc lộ 1A, Cảng Cái Cui, dự án đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông; dự án Đường vành đai phía Tây; dự án xây dựng cầu Trần Hoàng Na; dự án Kè bờ sông Cần Thơ – Ứng phó biến đổi khí hậu,… Trưng bày mô hình ghe, tàu – cây bẹo mua bán nông sản tại ngày hội. Hàng năm, quận xây dựng kế hoạch vừa bảo tồn, phát triển Chợ nổi Cái Răng; vừa phục vụ tốt hoạt động du lịch, đang trên đà tăng trưởng mạnh. Tổng kinh phí đầu tư cho đề án bảo tồn phát triển chợ nổi hơn 63 tỷ đồng cho 13 công trình hạng mục và đang tiếp tục thực hiện. Ông Nguyễn Thực Hiện, Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ phát biểu tại ngày hội. Nhằm phát triển Chợ nổi Cái Răng một cách hiệu quả, theo hướng bền vững, thực sự trở thành điểm du lịch hấp dẫn, lãnh đạo TP Cần Thơ đề nghị UBND quận Cái Răng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các sở, ngành có liên quan tập trung đẩy mạnh đề án “Bảo tồn và phát triển Chợ nổi Cái Răng”; Đồng thời đổi mới công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của xã hội về du lịch, đặc biệt là người dân chợ nổi Cái Răng; hướng dẫn, tập huấn người dân kiến thức, kỹ năng làm du lịch, tạo sinh kế cho người dân từ hoạt động du lịch trên chợ nổi; Tập trung xây dựng sản phẩm và dịch vụ du lịch có chất lượng, đặc biệt quan tâm cảnh quan môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm và công tác bảo đảm an toàn, an ninh trật tự tại chợ nổi.
Cần Thơ khai mạc ngày hội Văn hóa Chợ nổi Cái Răng
605
Đại tá, nhà báo, nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Hồng. Suốt 50 năm cầm máy “lưu giữ dáng hình đất nước” , từ thời chiến đến thời bình, Đại tá Trần Hồng đã có cho mình gia tài nhiều người mơ ước. Căn phòng làm việc của Đại tá Trần Hồng chỉ chừng 20 mét vuông trên gác hai khu tập thể cũ thuộc báo Quân đội nhân dân . Đây cũng là căn phòng duy nhất trong tòa nhà không cho thuê và có người cựu phóng viên duy nhất ở lại cùng gia tài nhiếp ảnh. Căn phòng ngập tràn ảnh và sách, vừa vặn kê một bộ bàn ghế mây. Chiếc ghế dài bên trong khó mà nhận ra được bởi đã bị bao phủ đầy ảnh và sách. Hầu hết là các bức ảnh chiến trường, ảnh hân dung Mẹ Việt Nam anh hùng và ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp . Khối “tài sản” đồ sộ ấy mới chỉ là phần thấy được bằng mắt. Số còn lại là kỷ niệm sống mãi trong tâm niệm người chiến sĩ nhân dân, phải cảm nhận bằng tấm lòng mới mới khiến người ta đắm say và thêm yêu những bức ảnh. Vào chiến trường được một năm, năm 1969, Trần Hồng được điều động từ Trường Sơn ra Bắc vào Trường Tuyên huấn Trung ương (nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền) để học khóa Báo chí đầu tiên. Tốt nghiệp, ông bắt đầu sự nghiệp phóng viên chiến trường. Lần tác nghiệp đầu tiên ở nhà tù Tuol Sleng của tộc người Polpot là một ký ức ám ảnh với ông: “Đến giờ tôi không dám nghĩ lại, nhưng lúc đấy vẫn phải nhảy vào chụp”. Xứng đáng thay đó là bộ ảnh duy nhất kịp ghi lại thời khắc này, bởi ngay sau đó quân giải phóng của ta đã dọn dẹp hiện trường. Đoàn 15 người NHK Nhật Bản tới sau 15 phút phải ra về tay trắng dù đi 1.500km chỉ để chụp bộ ảnh, tiếc ngây người. Bộ ảnh sau này được chọn ra 25 tấm mang tên “Tố cáo tội ác của bọn diệt chủng Khmer” gửi đến Liên Hợp Quốc. Đó cũng là bộ ảnh ông thấy tuyệt nhất khi đó. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Hồng cũng có giây phút trọn vẹn niềm vui như câu chuyện chụp các bức ảnh ở mặt trận Lạng Sơn”. Chỉ trong vòng 3 ngày, các bức ảnh đó đã sớm có trên khắp mặt báo. Ông hóm hỉnh kể rằng “Nhờ có nó mà tôi được đi báo cáo kinh nghiệm, khắp cả báo Nhân Dân, báo Hà Nội. Thế là bỏ mất 3 tuần không được đi tiếp!”. Mặt trận khói lửa “tôi luyện” ông với nhiều “ngón nghề” đặc biệt. Ở mặt trận Tây Nam, những bức ảnh được tráng phim chỉ với 1 chiếc đèn pin, 1 miếng lá chuối non cắt tròn ốp lên kính, rồi tìm người về Hà Nội để gửi. Những tấm ảnh gửi về có thể chậm, nhưng chưa bao giờ mất. “Tôi rất biết ơn những người vận chuyển, vì họ yêu và tin báo Quân đội nhân dân nên phóng viên chúng tôi được thơm lây. Khi thấy ảnh được đăng lên báo, tìm lại được cái người đấy thì quý lắm, phải ôm lấy đến chết mà thôi. Sướng lắm.” Đến nay, rất nhiều tấm phim âm bản được ông giữ lại. Hai ngăn dưới của tủ sách cạnh bàn trà, ông chế thành tủ sấy khóa cẩn thận. Một hộp bánh quy bằng sắt đầy ắp những gói giấy trắng đựng từng miếng phim. Người nghệ sĩ nhiếp ảnh thật biết cách làm người ta no nê con mắt! Ông vừa dốc lấy phim ra tay vừa bật cười nhận đây là phong cách tẩn mẩn của người già. Khi giơ bất kì kỳ tấm ảnh nào lên soi qua ánh sáng từ ban công nhỏ, ông chỉ mất 1-2 giây để nhận ra đó là bức ảnh gì, chụp ở đâu. Phải yêu những khoảnh khắc ấy nhường nào mới thân thuộc được đến thế. Mẹ Việt Nam anh hùng là đề tài ông đã theo đuổi từ lúc bắt đầu nghiệp nhiếp ảnh đến nay và có 4 cuộc triển lãm. Cơ duyên bắt đầu từ chuyến về phép với mẹ 15 ngày. Khi đó ông đã là sĩ quan quân đội. Một lần được mẹ gội đầu, ông thấy ánh mắt mẹ như lấp lánh lên ánh sáng lạ. Nhìn ra đấy là niềm vui của bất kỳ bà mẹ nào khi được chăm sóc cho con từ việc nhỏ nhất, ông chợt nghĩ: Niềm vui nhỏ nhoi đấy thôi mà nhiều mẹ Việt Nam ta không còn có được niềm vui ấy nữa, vì các con mẹ đã ra trận và mãi mãi không trở về. Tốt nghiệp, ông về làm việc tại báo Quân đội nhân dân , tranh thủ thời gian hoàn thành xong nhiệm vụ để thực hiện bộ ảnh “Chân dung mẹ”. Khi xa cách người mẹ ở quê nhà, đó như là sự khuây khỏa nỗi nhớ đối với ông. Có một bà mẹ ở Bắc Giang đến giờ ông còn nhớ như in: “đội chiếc nón rách, một mình liêu xiêu giữa cánh đồng”. Xin chụp không thành, ông thuyết phục mẹ: “Con xa quê ở tận trong Hà Tĩnh, được gặp và chụp ảnh bà là con như vơi đi nỗi nhớ mẹ”. Bà mẹ thoáng ngập ngừng nhưng rồi mẹ xua tay chỉ ông về phía Lễ tuyên dương bà mẹ Việt Nam anh hùng. “Chú vào mà chụp các bà ấy, còn tôi và hàng trăm bà mẹ ở Hà Bắc này chỉ có 1 con là liệt sỹ và không được phong là mẹ Việt Nam anh hùng”. Trước khi đi, mẹ quay lại nói một câu khiến ông đau đáu mãi: “Chú ơi, nhưng mẹ nào lại muốn con mình chết nhiều để được làm anh hùng.” Một tháng sau, nhân cơ hội được gặp Chủ tịch nước Lê Đức Anh, ông xin thưa ngay điều còn bất cập trong công tác tuyên dương mẹ Việt Nam anh hùng: “Việc phân chia nỗi đau các bà mẹ để người này được làm mẹ Việt Nam anh hùng, người kia không được hoàn toàn phi nhân văn, không nên so sánh mẹ nào có nhiều con hy sinh hơn.” Chủ tịch nước đã thuận tình với ý kiến của ông. Đến nay, khi người ta thấy một Trần Hồng với mái đầu như cước bạc dưới ven nắng, ông ấy vẫn nói về tình yêu không nghỉ với hành trình chụp “Chân dung Mẹ”: “Tôi không bỏ được… Với tôi mẹ nào cũng là mẹ Việt Nam Anh hùng, dù là hy sinh một người con, nhiều người con hay hy sinh cả thiên chức làm mẹ.” Nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Hồng bên Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1996. Ngay từ những ngày còn cầm máy ở chiến trường, Trần Hồng đã mơ có một ngày được chụp ảnh chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Vậy mà mãi tới năm 1992, ông mới có duyên may mắn được gặp Đại tướng. Đó là trong cuộc triển lãm ảnh tại Hà Nội và Quảng Bình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã dành thời gian tới dự. Đại tướng xem rất kỹ những bức ảnh về chiến tranh của Trần Hồng và ngồi xuống cuốn sổ lưu niệm viết thủ bút rằng: “Những tấm ảnh, những bức tranh như thơ, như nhạc. Qua hình ảnh ghi lại, người xem rất xúc động với những tình cảm, nỗi đau thương và niềm vui qua những con mắt làm cho người xem nhớ mãi. Chúc Trần Hồng, người nghệ sĩ – chiến sĩ có những tác phẩm lớn”. Đọc những dòng chữ do đích thân Đại tướng viết, Trần Hồng vô cùng xúc động như không tin vào mắt mình. Ông cứ nghĩ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp với trăm công nghìn việc, vậy mà người vẫn dành khoảng thời gian quý giá để xem các cuộc triển lãm ảnh về chiến tranh, xem rất kỹ và có những dòng thủ bút vừa bình dị vừa sâu sắc còn rất có con mắt nghệ thuật phê bình. Với tấm lòng quý trọng và biết ơn sâu sắc vị Đại tướng của nhân dân, nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Hồng đã xin gặp và thực hiện những bức ảnh với tất cả những cảm xúc thăng hoa nhất, chân thật nhất về Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Những bức ảnh của Trần Hồng dung dị chất đời thường mà vẫn toát lên thần thái vừa uy nghiêm vừa minh triết về vị tướng của nhân dân. Tác giả (bìa phải) và Đại tá, nhà báo, nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Hồng (bìa trái). Năm tháng thời gian miệt mài, từ phóng sự “Một ngày với Đại tướng” để đến nay, nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Hồng đã có một “gia tài” gần 2000 bức ảnh về Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông cũng đã có một số cuộc triển lãm ảnh gây tiếng vang, được giới chuyên môn đánh giá cao về vị tướng huyền thoại của dân tộc. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã về với thế giới của người hiền, song những huyền thoại về ông trong đó có những bức ảnh của Đại tướng của Trần Hồng vẫn còn lại mãi với thời gian, vừa như những chứng tích, vừa như niềm tin bất biến. Đó cũng là những vẻ đẹp nhân văn nhất về hình ảnh bộ đội cụ Hồ. Giờ đây, mỗi lần nhắc lại hành trình 50 năm với nghề báo và nghiệp riêng, mắt ông sáng long lanh như ống kính mắt cá của chiếc máy phim ông trân quý. Chiếc Canon dây đeo đã sờn nhưng vỏ máy còn “bền” lắm, như cái tâm người nhiếp ảnh kính nghiệp. Tác giả Trần Mai Chi. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Hồng – người phóng viên chiến trường đã đi qua biết bao đạn bom, thử thách, những chuyển động lớn lao của thời cuộc, niềm tin và hạnh phúc của nhân dân cũng chính là hoàn thành giấc mơ nghệ sĩ – chiến sĩ của mình. Các tác phẩm nhiếp ảnh của ông đã như thay lời muốn nói về những đóng góp máu xương vô bờ bến của nhân dân và người chiến sĩ, những người mẹ anh hùng, những vị tướng huyền thoại đã đi vào sử sách trong đó có những tấm ảnh trung thực và bình dị của ông.
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Hồng – Gia tài của một “mắt thần” áo lính – Tác giả: Trần Mai Chi
1,757
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tiếp Đại sứ Pháp Nicolas Warnery. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN. Chiều 10/7, tại Phủ Chủ tịch, tiếp Đại sứ Cộng hòa Pháp Nicolas Warnery tới chào nhân kết thúc nhiệm kỳ công tác, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng mong muốn và tin tưởng, dù trên bất cứ cương vị nào, Đại sứ sẽ tiếp tục dành những tình cảm tốt đẹp về đất nước, con người Việt Nam, là cầu nối thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hữu nghị truyền thống và Đối tác chiến lược Việt Nam – Pháp. Chúc mừng Đại sứ Nicolas Warnery hoàn thành xuất sắc nhiệm kỳ công tác, đóng góp tích cực vào việc vun đắp quan hệ Đối tác chiến lược giữa hai nước, Chủ tịch nước đánh giá hợp tác Việt Nam – Pháp có nhiều bước tiến quan trọng. Nhắc lại cuộc gặp Tổng thống Pháp Emmanuel Macron tại London trong chuyến tham dự Lễ Đăng quang Nhà Vua Anh Charles III tháng 5 vừa qua, Chủ tịch nước cho biết, đã trao đổi, mong muốn sớm đón Ngài Tổng thống thăm Việt Nam để cùng thống nhất các định hướng phát triển quan hệ hai nước trong tương lai. Đại sứ Nicolas Warnery nêu rõ, mặc dù trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là đại dịch COVID-19, Việt Nam và Pháp vẫn duy trì hiệu quả quan hệ hợp tác. Đại sứ bày tỏ cảm kích trước việc Việt Nam đã trao tặng khẩu trang kịp thời, góp phần hỗ trợ Pháp ứng phó với COVID-19 trong thời gian dịch diễn biến căng thẳng. Chia sẻ vinh dự và tự hào được đóng góp vào việc thúc đẩy quan hệ hai nước trong nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam, Đại sứ cho biết, Pháp chủ trương phát triển mạnh mẽ quan hệ với Việt Nam trong mọi lĩnh vực cả song phương và trên các diễn đàn khu vực, quốc tế. Năm 2023, hai nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1973 – 2023) và tròn 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược, Đại sứ cho biết, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron mong muốn sớm gặp lại Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng để cùng trao đổi, thúc đẩy hợp tác toàn diện giữa hai nước, đặc biệt là chính trị, ngoại giao, kinh tế, thương mại, đầu tư, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, năng lượng và ứng phó với biến đổi khí hậu bởi Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong lĩnh vực này. Pháp cũng sẵn sàng hợp tác với Việt Nam bảo tồn các công trình văn hóa, di sản kiến trúc Pháp, nhất là cầu Long Biên – một biểu tượng của Thủ đô Hà Nội qua năm tháng… Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tiếp Đại sứ Pháp Nicolas Warnery. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN. Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cảm ơn tình cảm, đóng góp của Đại sứ Nicolas Warnery dành cho Việt Nam; tán thành với những đề xuất của Ngài Đại sứ về việc thúc đẩy hợp tác toàn diện hai nước. Chủ tịch nước nhấn mạnh, 50 năm qua, quan hệ Việt Nam – Pháp đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, nhất là thời gian 10 năm từ khi thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược. Việt Nam cảm ơn Pháp đã hỗ trợ hàng triệu liều vaccine, góp phần giúp Việt Nam ứng phó với COVID-19. Để tăng cường quan hệ hai nước trong thời gian tới, Chủ tịch nước đề nghị hai bên tiếp tục thúc đẩy các cuộc tiếp xúc, trao đổi, các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao. Qua Đại sứ, Chủ tịch nước trân trọng gửi lời mời và cho biết, Việt Nam sẵn sàng đón Tổng thống Emmanuel Macron sang thăm Việt Nam vào thời gian thích hợp. Chủ tịch nước đề nghị hai bên thúc đẩy trao đổi đoàn ở cấp địa phương; xúc tiến nhiều hơn nữa các hoạt động giao lưu nhân dân, qua đó làm sâu sắc hơn quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai dân tộc. Việt Nam hoan nghênh các chương trình, dự án hợp tác của doanh nghiệp hai nước; mong muốn Pháp sớm phê chuẩn Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA) nhằm tối ưu hóa tiềm năng hợp tác song phương. Trao đổi với Đại sứ về hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực bảo tồn những công trình văn hóa, di sản kiến trúc mang sắc thái Pháp tại các tỉnh, thành phố của Việt Nam, Chủ tịch nước mong muốn phía Pháp tiếp tục quan tâm, hỗ trợ để việc duy tu, bảo tồn này được triển khai hiệu quả. Đánh giá cao quan điểm của Pháp về vấn đề Biển Đông, Chủ tịch nước mong muốn Pháp tiếp tục ủng hộ lập trường của ASEAN và Việt Nam về bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng không, hàng hải trên Biển Đông và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tiếp Đại sứ Pháp Nicolas Warnery
867
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì Phiên họp BCĐ liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế. Ảnh: Văn Điệp/TTXVN. Từ lợi thế, kinh nghiệm thành công trong quá trình chuyển đổi số, cần có sự chuẩn bị về lộ trình, hoạch định của nhà nước trong việc lựa chọn lĩnh vực ưu tiên trong hội nhập kinh tế quốc tế để xây dựng nền kinh tế xanh, bảo vệ thiên nhiên. Đây là nhấn mạnh của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp Ban Chỉ đạo liên ngành về hội nhập kinh tế quốc tế (Ban Chỉ đạo), chiều 10/7, tại Trụ sở Chính phủ. Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà khẳng định, công tác hội nhập kinh tế quốc tế là một điểm sáng trong quá trình phát triển của đất nước. Tuy nhiên, Việt Nam chưa có được chính sách chủ động, chuẩn bị đầy đủ năng lực nhằm tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA) và hội nhập kinh tế hiệu quả. “Thế giới đang đứng trước những thay đổi toàn diện về địa chính trị, kinh tế, thương mại, cạnh tranh giữa các nước lớn… cùng với xu thế tất yếu của kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo, giảm phát thải ròng khí nhà kính bằng 0 (net zero)…, cần xác định cách tiếp cận phù hợp, biến các thách thức này thành lợi thế, cơ hội phát triển”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh. Theo đó, Nhà nước cần đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế kết hợp với thực hiện các mục tiêu toàn cầu; thể chế hóa, tạo môi trường pháp lý, chính sách, tiêu chuẩn, quy chuẩn, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, người dân ngang hàng với các đối tác quốc tế; lựa chọn những thương hiệu quốc gia để xây dựng thành thương hiệu quốc tế. Từ lợi thế, kinh nghiệm thành công trong quá trình chuyển đổi số, Phó Thủ tướng cho rằng cần có sự chuẩn bị về lộ trình, hoạch định của Nhà nước trong việc lựa chọn một số lĩnh vực ưu tiên trong hội nhập kinh tế quốc tế, để xây dựng nền kinh tế xanh, bảo vệ thiên nhiên và sử dụng năng lượng tái tạo… “Trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian tới, không chỉ là ưu đãi về đất đai, thuế, nhân công giá rẻ, mà còn là năng lượng xanh, nguồn nhân lực chất lượng cao, tài nguyên số, các giải pháp thực hiện ứng phó biến đổi khí hậu thông qua trồng rừng, net zero…”, Phó Thủ tướng lấy ví dụ. Tại cuộc họp, Phó Thủ tướng cũng cho ý kiến chỉ đạo về công tác tổng kết, đánh giá 10 năm thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; trong đó chú trọng đưa ra giải pháp nâng cao sự phối hợp triển khai giữa các lĩnh vực hội nhập trong một chiến lược hội nhập tổng thể, làm cơ sở xây dựng những định hướng mới cho công tác hội nhập trong giai đoạn tới. Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương khẩn trương triển khai công tác rà soát các hiệp định thương mại tự do đã ký thuộc lĩnh vực, nhiệm vụ quản lý được giao. “Cần tận dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài để đào tạo con người, thay đổi tư duy, nhận thức, phương thức làm việc, nắm bắt được công nghệ, mở ra những lĩnh vực mới dựa trên đầu tư công nghệ cao”, Phó Thủ tướng gợi mở. Theo báo cáo của Bộ Công Thương, cơ quan Thường trực của Ban Chỉ đạo, thời gian qua, công tác hội nhập kinh tế quốc tế đạt được nhiều kết quả quan trọng như góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế; nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm; thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại; góp phần tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đến nay, Việt Nam đã và đang tham gia 17 hiệp định thương mại tự do, chuẩn bị đàm phán tham gia một số hiệp định thương mại song phương, đa phương. Các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia có độ phủ rộng hầu hết các châu lục với trên 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20. 15 hiệp định thương mại tự do có hiệu lực góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu, củng cố thị trường truyền thống, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia vào các thị trường tiềm năng trên thế giới. Ở tất cả các thị trường Việt Nam có hiệp định thương mại tự do đều ghi nhận tăng trưởng xuất khẩu vượt trội, năm sau cao hơn năm trước. Bên cạnh đó, về chính trị, ngoại giao, việc tham gia các hiệp định thương mại tự do góp phần nâng cao vị thế đối ngoại của đất nước, tăng cường đan xen lợi ích với các đối tác chủ chốt, góp phần bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định phục vụ phát triển đất nước. Năm 2022 (năm đầu tiên tất cả 15 hiệp định thương mại tự do đã ký có hiệu lực thực thi), tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam với các thị trường đối tác hiệp định thương mại tự do đạt 526 tỷ USD, chiếm 72% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với toàn thế giới; trong đó xuất khẩu đạt 238 tỷ USD, chiếm gần 64% kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó, tận dụng ưu đãi thuế quan của hiệp định thương mại tự do năm 2022 đạt 78,3 tỷ USD, tương đương 33,6% tổng kim ngạch xuất khẩu đi các thị trường này. So sánh với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, đây là tỷ lệ khá lạc quan. Tuy nhiên, những hạn chế trong thực thi các hiệp định thương mại tự do thời gian qua thể hiện trên một số mặt liên quan đến tăng trưởng xuất khẩu đi các thị trường đã có hiệp định thương mại tự do chưa có sự vượt trội so với một số thị trường chưa có hiệp định thương mại tự do; tỷ lệ sử dụng ưu đãi thuế quan hiệp định thương mại tự do đang có xu hướng giảm và diễn tiến không ổn định với từng hiệp định… Tại cuộc họp, các thành viên Ban Chỉ đạo cũng thảo luận và cho ý kiến đánh giá công tác hội nhập kinh tế quốc tế trong năm qua. Một số ý kiến cho rằng, công tác thực thi và tận dụng cam kết hiệp định thương mại tự do đã gắn với cải cách thể chế, chính sách, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, từng lĩnh vực ngành hàng, hướng tới tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững, ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, các ngành hàng xuất khẩu chủ lực đang đối mặt với những thách thức lớn từ sự suy giảm của thị trường, nhất là các thị trường chủ lực…
Lựa chọn lĩnh vực ưu tiên trong hội nhập kinh tế quốc tế để xây dựng nền kinh tế xanh
1,256
Để có 2 tập Thơ ngắn ra đời trong 5 năm (Tập 1 năm 2015, tập 2 năm 2019) thì Nguyễn Hoa đã sáng tác khoảng chừng 30 năm có lẻ. Như vậy sự hình thành Thơ ngắn đủ độ dài hơn một thế hệ để ổn định giá trị chính mình. 2 tập Thơ ngắn khoảng 120 bài. Bài dài nhất 8 câu, ngắn nhất 3 câu. Có mấy bài lục bát, mấy bài 4 câu, 5 câu, 6 câu. Phần bao trùm là thơ tự do. Thế mạnh của thơ tự do là ít chú ý đến vần điệu, mà chỉ cần phát triển ý, thơ tự do vì thế thường dài, khó thuộc. Ý thức được điều này, học được từ cách nói của ca dao tục ngữ thành ngữ, của các thể thơ ngắn trong và ngoài nước, Nguyễn Hoa cô chữ lại, bó câu lại, bài thơ còn vài câu, ý gọn tứ rõ ảnh thật và trong như một câu hát. Khác với niêm luật của thơ truyền thống và thơ cổ điển phương đông, thơ Nguyễn Hoa thường hay đi từ biểu tượng đến hình tượng. Chính cái đa dạng của biểu đạt văn xuôi tạo thế cho anh “thôi xao” mà có câu thơ lóng lánh. Anh lại chú ý đến lôgic của đối tượng nên cách cảm của anh dẫn đến cách nói hấp dẫn. Ta xem bài Với Bông hồng : “ Ngoài cửa sổ phòng tôi/ Bông hồng nở/ Tôi muốn hái/ Tặng em/ Nhưng không nỡ/ Làm trống đi một chấm đỏ của trời xanh ” . Ở đây có sự liên kết của bông hồng, trời xanh, em và tôi. Người thường thì phải em mới số một, và bông hồng chắc ở trên tay. Người thơ có đắn đo nhưng rồi chọn cái đẹp thiên nhiên hài hòa. Thế là đụng đến mỹ học rồi. Hay bài Mặt đất ươm cây : “ Khi những con chữ/ Mảnh vụn trái tim tôi/ Vỡ…/ Được đặt lên bàn tay bạn như hạt giống nhỏ/ Và Bạn ơi/ Tôi làm sao không sung sướng/ Được ngã nhào thành mặt đất ươm cây! ”. Phải phủ định đi, phải qua cái tận cùng, thậm chí là cái chết, để hồi sinh lại, để phục sinh lại, để mà “ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa! – thơ Nguyễn Đình Thi”. Bài này vừa Chân vừa Thiện. Nó giúp ta nhìn được cái khẳng định trong cái phủ định, mà ta hay gọi là lạc quan. Giọng điệu triết lý trữ tình là âm hưởng chủ đạo trong Thơ ngắn Nguyễn Hoa. Bài thơ Mỗi một : “ Mỗi sớm/ Một nụ hôn/Mỗi chiều/ Một mong đợi/ Mỗi khát/ Một đời người thì đầu là trữ tình giữa là tâm trạng kết là triết lý. Đang từ trạng ngữ thời gian với những cụ thể, tự dưng mở ra một trạng thái, mà có lý. Bài Cõi người : “ Buồn một trăng mọc/ Buồn một trời sao chín mọc/ Đơn cô/ Hoang sơ/ Buồn một nỗi buồn/ Đợi chờ/ Buồn ngàn nỗi buồn/ Người tới…/ Hôi hổi/ Cõi người! ” trên tác giả dùng số từ để liệt kê. Bài thơ chuyển cũng từ số từ nhưng là ngàn, vậy là nhiều, là tập thể rồi. Vẫn buồn nhưng là chia sẻ. Mà thơm ngon vì nó hôi hổi như miếng bánh ấy. Thăm thẳm lắm. Từng là một người lính, nay làm văn, tạm chuyển từ khẩu súng sang cây bút, không lạ gì chủ đề giữ nước, chiến tranh, những hy sinh mất mát cứ đeo bám lấy anh, tạo cho anh có một quan điểm nhất quán về lịch sử, về kẻ thù, về hòa bình. Trong Chiến Tranh (1) : “ Những người lính/ Chết trong chiến tranh/ Đau không chỉ riêng mẹ/ Cả nhân loại tội tình/ Đã giết đi tuổi trẻ! ” Giết đi tuổi trẻ là giết đi mùa xuân của nhân loại. Trong Chiến Tranh (2) : “ Trong chiến tranh/ Những người đàn ông/ Thử thách lòng mình/ Dũng cảm/ Còn những người phụ nữ/ Ngoài dũng cảm/ Đó là sự đợi chờ/ Trong cô đơn! ”. Những người vợ, những người mẹ, những người yêu họ anh hùng làm sao. Nguyễn Hoa đã nói hộ cho ta một nỗi niềm ngưỡng phục. Nhân vật trữ tình trong Thơ ngắn Nguyễn Hoa cũng đa dạng nhưng đều có chiều sâu nhân bản và lý tưởng. Họ trước hết là những người mẹ, người vợ, con cái… nhưng nhiều nhất vẫn là em và người lính – đồng chí. Trong bài Ngọn Gió , mẹ vẫn nghèo khổ lắm: “ Cồn cát dài trắng muốt/ Những mái nhà loi thoi/ Hàng dương xanh không khuất/ Cửa mở ngóng sóng khơi/ Mẹ gày nắng bạc vai/ lửa trời vàng vẫn đổ ” để tình con hiếu thảo như một cách ví hay: “ Thơ con như ngọn gió/ Từ biển về mẹ ơi ” . Cả bài thơ cấu tứ như câu chuyện. Khi đặt cái tinh thần là thơ ví như ngọn gió mát là làm mát lòng mẹ, mới hiểu câu triết ly nước mắt chảy xuôi để càng thương mẹ hơn. Ta chỉ cho mẹ được có vậy thôi. Bài Trước Mồ Mẹ lòng riêng mà nói chung: “ Ngày đông trước mồ mẹ/ Mẹ ơi! Con gọi mẹ một tiếng/ Chỉ lời gió xạc xào/ Mẹ ơi! Mẹ ơi – Con gọi mẹ hai tiếng/ Chỉ cỏ khẽ rùng mình/ Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ ơi – con gọi mẹ ba tiếng/ Trăng mờ tỏ hương khói se hanh/ Vẳng nghe tiếng mẹ: Kỳ con ” . Ba câu gọi. Gọi một tiếng, hai tiếng động đến thiên nhiên. Lần gọi ba tiếng động đến lòng người. Lòng mẹ thương con kể cả khi đã khuất. Nhưng trong Thơ ngắn Nguyễn Hoa, bài thơ Đất Gụi Gần mới là đặc sắc cho thi pháp của anh khi viết về mẹ: “ Cha áo cỏ xanh – Mẹ non trẻ/ Con áo cỏ xanh – Mẹ luống già/ Đường dài cha đi – Mẹ bước khỏe/ Đường ngắn con đi – Mẹ chân chậm/ Gặp mặt cha, con – Mẹ mùa xuân/ Cha mẹ không còn – con tóc trắng/ Trời cao xanh – Đất gụi gần! ”. Những cặp so sánh đều tương hợp hoặc tương phản có lý. Kết trời đất như thế là như thành ngữ. Cái quan trọng là sự khẳng định luân lý tự nhiên. Nó là thế. Nó nhất định phải thế. Chúng ta dựng nên nó, Giữ gìn nó chính vì cái chân lý hiển nhiên đó. Bài thơ có kết nhịp 4/3 chắc khỏe. Nhân vật trữ tình xuất hiện gần như nhiều nhất trong Thơ Ngắn Nguyễn Hoa là Em. Không ngờ Nguyễn Hoa đa tình đến thế. Em ở ngoài đời, em ở trong mơ. Em ở miền núi rừng, em ở miền sông biển. em ở khi xa, khi gần, đều thiết tha, đắm say, tan biến. Hãy xem Muối : “ Em là muối/ Ướp nỗi đau/ Tươi mãi! ” . Tình mà có nỗi đau đến chết như vậy thì tình phải sâu lắm. Và kỷ niệm không thể quên được ấy được ướp giữ tươi mãi nó mới đẹp ấm làm sao! Nhưng tình yêu phải có ngọt ngào. Thì đây Xuân Quánh Ngọt : “ Trời non non/ Lộc biêng biếc/ Em thơm ngon/ Xuân quánh ngọt/ Trời non non… ”, có lẽ không cần bình gì thêm. Tôi muốn dẫn một bài chốt nói về em. Bài Mùa Hạ: “ Tràn trề mưa mùa hạ/ Nở bung cả đất trời/ Vàng cao xanh nắng hạ/ Cuồn cuộn trôi sông đầy/ Ngất ngây em mùa hạ/ Chín thơm anh giữa ngày! ”. Cái ngất ngây em làm chín thơm anh là độ hóa thân hòa quyện cao trào của tình yêu làm ta cũng bỗng dưng khát thèm mà mơ mộng! Những bài thơ có địa danh cụ thể cũng đóng một vai trò không nhỏ làm nên diện mạo Thơ ngắn Nguyễn Hoa. Ở đây chủ đề yêu đất nước quê hương được cụ thể hóa. Bài Ở Chùa Keo : “ Hội làng mở/ Anh gõ vào khánh đá chùa Keo/ Đá vang cung bậc đá/ Còn anh?/ Ngoài kia ào ạt trận mưa mùa hạ/ Sấm nổ/ Còn anh?/ Ngoài kia cánh đồng lúa đang mát xanh/ Hoa lúa trổ/ còn anh? ”. Quá khứ trong vang hiện về, hiện tại động ầm đã đến, tương lai sáng tươi vẫy gọi, còn anh? Chả lẽ cứ tồn tại hay không tồn tại mãi sao? Bài thơ này cú pháp và giọng điệu đơn giản, nhưng ẩn cái triết lý trong trữ tình thì thủ pháp thật cao tay. Bài Đêm Trăng Cần Thơ : “ Trăng vàng chín đêm/ Mênh mang sông lên/ Miệt vườn bừng dậy/ Cỏ cây múa nhảy/ Hương thơm tràn đầy…/ Đất trời hây hây/ Ngất ngây thành phố/ Ninh Kiều tôi say/ Bến bờ xuân lạ… ” là một bức tranh hàm chứa sức sống bao đời của đất nước con người phương Nam. Còn nhiều bài thuộc dạng này, nhưng tôi chỉ xin chọn bài Hoàng Sa . Nỗi đau mất đất lại phải chịu đựng sự trắng trợn. Mà vẫn phải nhẫn. Mà vẫn phải nói. Nói với tổ tiên, với đất đai, với cỏ cây, với linh thiêng, rằng chúng tôi vẫn hiện diện, cả dân tộc tôi đang hiện diện, không vấp lại nỗi đau Trọng Thủy – Mỵ Châu: “ Bãi cát vàng – Bãi cát vàng – Bãi cát vàng/ Hoàng Sa – Hoàng Sa – Hoàng Sa/ Sóng chìm sóng nổi/ Bao ngôi mộ gió/ Hồn người/ Từ Lý Sơn gọi/ Xương thịt cây dâu thiêng/ Đang nói, đang nói, đang nói…/ Có tôi, có tôi, có tôi!/ Ba trăm năm không mỏi! ”. Để cây dâu đại diện là hay. Cái cây dâu của phụ tử của mái nhà cổ tích thành hình tượng của hôm nay đấu tranh giữ đất tiếp nối 300 năm không mỏi thì ý tứ tinh trầm đến thế. Trên tôi đã nhắc tới một chút kỷ niệm với bài Chim Sơn Ca . Xưa nay Xướng ca vô loài đã là thành ngữ. Nó cũng là một sự thật. Tài hoa cỡ như Đào Duy Từ cũng còn phải bỏ đất Bắc hà mà đi. Nhưng dù tiếng đại bác có gầm thì chim họa mi có ngừng hót không? Không. Bài thơ nói hộ cho người nghệ sỹ hãy cứ là mình, dẫu có… Chim Sơn Ca: “ Bình minh/ Chim sơn ca mải mê cất cao tiếng hót/ Chùm lá biếc rung ring/ Người đi săn/ Giương súng lên rình!/ Mà không hay biết/ Chim sơn ca vẫn hót/ cho cả số phận mình! ” Chất trữ tình ôm lấy chất triết lý, dẫn dắt chất triết lý, tạo thế bất ngờ. Đã thức ngộ đến thế thì cảnh giới thiền vẫn có, bất chấp là động hay là tĩnh. Đây là một trong những bài thơ ngắn của Nguyễn Hoa được độc giả và đồng nghiệp đón nhận nhiều nhất. Để nói về Thơ ngắn Nguyễn Hoa cũng như sự đóng góp về thi pháp hiện thực triết lý trữ tình của anh trong Thơ ngắn chắc không thể nói hết trong một bài. Những giá trị của nó rồi sẽ được nhiều người, được cả thời gian nữa cảm nhận. Bài viết này chỉ ghi lại một lao động miệt mài và lặng lẽ của một người thơ khiêm nhường nhưng trân trọng thành quả của mình. Và đó là một điều đáng quý.
Nguyễn Hoa và những bài thơ ngắn
1,872
Đây là con sông duy nhất của miền Bắc không chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam để đổ ra Biển Đông mà chảy ngược lại sang Trung Quốc. Sông Kỳ Cùng (Lạng Sơn) là con sông duy nhất ở miền Bắc không chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam để đổ vào biển Đông. Sách “Địa chí Lạng Sơn” (NXB Chính trị Quốc gia -1999) ghi: “Sông Kỳ Cùng là sông lớn nhất của Lạng Sơn cũng như của khu vực miền núi Đông Bắc, có chiều dài 243km, diện tích lưu vực 6.660km2… Sông Kỳ Cùng bắt nguồn từ vùng núi Bắc Xa, ở huyện Đình Lập, chảy từ Đông Nam lên Tây Bắc theo hướng dốc của địa hình qua Lộc Bình, Điềm He, Na Sầm, Thất Khê. Tại đây sông Kỳ Cùng uốn khúc chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam tới biên giới Trung Quốc, đổ vào lưu vực sông Tây Giang”. 2. Tên gọi khác của dòng sông này là gì? Lạng Sơn nổi tiếng là vùng đất có ba chữ Kỳ gồm sông Kỳ Cùng, phố chợ Kỳ Lừa và núi Kỳ Cấp. Vì thế, con sông chảy qua vùng đất này còn được gọi là Tam Kỳ (có nơi gọi Tam Cờ, vì từ kỳ trong tiếng Hán có nghĩa là cờ). Cho đến những năm 40 của thế kỷ XX, sông Kỳ Cùng vẫn còn được gọi là sông Tam Kỳ. 3. Núi Tô Thị, chùa Tam Thanh nằm ở đâu Lạng Sơn? Núi Tô Thị và chùa Tam Thanh nằm ở phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn . Trên đỉnh núi Tô Thị từng có hòn đá mang hình người phụ nữ bồng con, đang nhìn về phương xa. Vì vậy, nhân dân trong vùng còn gọi nơi đây là núi Vọng Phu. 4. Tỉnh Quảng Bình sở hữu dòng sông “chảy ngược” nào? Sông Kiến Giang ở tỉnh Quảng Bình còn được người dân gọi với tên “Nghịch Hà”. Thay vì chảy theo hướng Đông – Nam như nhiều con sông miền Trung khác, sông Kiến Giang lại chảy theo hướng Đông – Bắc. Hàng năm, sông Kiến Giang thu hút du khách tới tỉnh Quảng Bình nhờ lễ hội đua thuyền truyền thống. Ngoài ra, khu vực sông Kiến Giang cũng nổi tiếng với điệu hò khoan Lệ Thủy, một loại hình nghệ thuật dân gian được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. 5. Khu vực sông Kiến Giang là quê hương của vị tướng nổi tiếng nào? Sông Kiến Giang dài khoảng 58km, chảy qua địa phận huyện Lệ Thủy , tỉnh Quảng Bình . Đây chính là quê hương của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ngoài ra, Lệ Thủy cũng là nơi sinh ra của danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh . Người có công lớn giúp chúa Nguyễn mở cõi phương Nam.
Dòng sông chảy ngược duy nhất ở miền Bắc có tên là gì?
463
Các vết nứt khiến dung nham trào ra mọi hướng. (Nguồn: Reuters). Theo thông báo của Cơ quan Khí tượng Iceland , dung nham núi lửa phun trào vào lúc16h40 giờ GMT (23h40 đêm 10/7 theo giờ Việt Nam) tại một vùng trũng nhỏ phía Bắc núi Litli Hrutur. Cơ quan Khí tượng Iceland cho biết ngày 10/7, một ngọn núi lửa đã phun trào gần thủ đô Reykjavik của nước này. Đây là lần thứ 3 trong vòng 2 năm qua xảy ra hiện tượng tương tự trong khu vực này. Theo thông báo của Cơ quan Khí tượng Iceland, dung nham núi lửa phun trào vào lúc16h40 giờ GMT (23h40 đêm theo giờ Việt Nam) tại một vùng trũng nhỏ phía Bắc núi Litli Hrutur. Giáo sư Thorvaldur Thordarson tại Đại học Iceland cho biết có 3 vết nứt khiến dung nham trào ra mọi hướng. Tổng chiều dài của các vết nứt này từ 200-300m. Theo Giáo sư Thordarson, đây là một vụ phun trào với cường độ nhẹ, do đó không gây ra các mối đe dọa trên diện rộng. Tuy nhiên, ông cảnh báo đợt phun trào có thể kéo dài từ vài ngày đến hơn nửa năm như năm 2021, hoặc thậm chí lâu hơn, từ đó có thể đe dọa cơ sở hạ tầng trong khu vực. Truyền thông địa phương đăng tải hình ảnh đám khói lớn bốc lên từ mặt đất cũng như một dòng dung nham lớn tràn ra tại địa điểm cách thủ đô Reykjavik khoảng 30km. Nơi ghi nhận vụ phun trào mới nhất chỉ cách địa điểm xảy ra 2 lần phun trào trong 2 năm qua vài km. Đợt dung nham phun trào tại thung lũng Geldingadalur vào ngày 19/3/2021 kéo dài 6 tháng. Đợt phun trào tiếp theo xảy ra ngày 3/8 năm ngoái tại thung lũng Meradalir và kéo dài 3 tuần. Trước đợt phun trào năm 2021, núi lửa đã “ngủ yên” trong 8 thế kỷ, song các nhà nghiên cứu cho rằng chu kỳ gia tăng hoạt động mới này có thể kéo dài vài năm. Tuần trước, hàng nghìn trận động đất nhỏ đã được ghi nhận tại khu vực trên, báo hiệu magma dưới mặt đất đang dịch chuyển và sắp xảy ra một vụ phun trào. Giới chức trách Iceland đã khuyến cáo người dân không nên đến khu vực này trước khi cơ quan chức năng đánh giá tình hình do đây là nơi có địa hình hiểm trở, không có tuyến kết nối giao thông. Iceland nằm giữa Mid-Atlantic Ridge, vết nứt dưới đáy đại dương ngăn cách các mảng kiến tạo Á-Âu và Bắc Mỹ. Quốc đảo ở Bắc Đại Tây Dương này hiện có 33 hệ thống núi lửa được coi là đang hoạt động và đây là hệ thống núi lửa lớn nhất tại châu Âu. Trung bình các vụ phun trào xảy ra 5 năm một lần. Vào tháng 4/2010, khoảng 100.000 chuyến bay đã bị hủy bỏ, khiến hơn 10 triệu du khách mắc kẹt sau vụ núi lửa Eyjafjallajokull phun trào dữ dội./.
Núi lửa tiếp tục phun trào gần thủ đô Reykjavik của Iceland
498
Ảnh minh họa. Đến 2025, vùng đồng bằng sông Cửu Long tập trung phát triển 8 trung tâm đầu mối về nông nghiệp tại khu vực có điều kiện thuận lợi về hạ tầng và nguồn nước. Đồng thời, phát triển hệ thống đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp tại 4 hành lang phát triển và các khu vực động lực phát triển… Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định 816/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050… Kế hoạch nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 28/2/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; xây dựng lộ trình tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án nhằm thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp quy hoạch đã đề ra. Trong đó, đến 2025, tập trung phát triển 8 trung tâm đầu mối về nông nghiệp tại khu vực có điều kiện thuận lợi về hạ tầng và nguồn nước bao gồm: Trung tâm đầu mối tổng hợp ở TP.Cần Thơ gắn với phát triển dịch vụ logistic ở Hậu Giang, để bổ trợ cho TP.Cần Thơ thực hiện vai trò là trung tâm logistic của vùng; xây dựng 7 trung tâm đầu mối có chức năng thu gom, phân loại, chế biến nông sản. Cụ thể là 2 trung tâm đầu mối ở An Giang, Đồng Tháp gắn với vùng sinh thái nước ngọt; 3 trung tâm đầu mối ở Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng gắn với thủy sản; 2 trung tâm đầu mối ở Tiền Giang, Bến Tre gắn với trái cây, rau màu. Giai đoạn đến 2030, hoàn thiện xây dựng hệ thống các trung tâm đầu mối đã được xác định trong quy hoạch vùng, gắn với tiến trình đầu tư xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi. Đồng thời, quy hoạch và phát triển các thị trấn nông – công nghiệp gắn với trung tâm đầu mối về nông nghiệp và tăng cường liên kết với hệ thống đô thị, có vai trò trung tâm của vùng, tiểu vùng, nhằm thúc đẩy việc đào tạo, chuyển giao công nghệ trong sản xuất nông nghiệp và đẩy mạnh thương mại, dịch vụ logistic, kết nối thị trường các sản phẩm nông sản. Xây dựng và phát triển hiệu quả vùng nguyên liệu chủ lực, tập trung gắn với quá trình tích tụ đất đai đảm bảo phục vụ lâu dài, bền vững cho các cơ sở chế biến nông nghiệp – thủy sản của vùng. Bên cạnh đó, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung tạo thuận lợi cho việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế; đẩy mạnh cơ giới hóa đồng bộ các khâu sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ giúp giảm tối đa chi phí sản xuất, vật tư nông nghiệp và từng bước bớt dần lao động trong nông nghiệp. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển vùng nguyên liệu với lộ trình phát triển những trung tâm đầu mối về nông nghiệp và đầu tư xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông, dịch vụ logistic. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ trong nông nghiệp; nâng cao chất lượng nông lâm thủy sản vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Cụ thể, xây dựng và triển khai Chương trình nghiên cứu, đào tạo, chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Chương trình thí điểm các mô hình nông nghiệp thông minh, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Chương trình ứng dụng blockchain vào nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long. Triển khai đồng bộ, đầy đủ hoạt động thẩm định, chứng nhận, hậu kiểm cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông lâm thủy sản; chuyển đổi số trong lĩnh vực chất lượng, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc nông lâm thủy sản; đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động kiểm nghiệm an toàn thực phẩm… Ngoài ra theo kế hoạch còn phát triển hệ thống đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp tại 4 hành lang phát triển và các khu vực động lực phát triển. Trong đó, chú trọng nâng cao tính tập trung và tăng mật độ; phát triển công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thông tin; công nghiệp điện chú trọng phát triển năng lượng tái tạo; đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, liên tỉnh, hệ thống logistic, hạ tầng kỹ thuật của khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp và các đô thị có vai trò là trung tâm của vùng, tiểu vùng. Chú trọng thu hút đầu tư phát triển sản phẩm chế biến xuất khẩu có tính cạnh tranh cao kết hợp xây dựng, phát triển thương hiệu nông lâm thủy sản vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Xây dựng, thực hiện kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực cho sản xuất công nghiệp của địa phương theo từng thời kỳ; Chương trình hợp tác đào tạo giữa các cơ sở đào tạo nghề với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, thành phố trong vùng. Đồng thời, từng bước xây dựng hệ thống đô thị, nông thôn, hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội đồng bộ, hiện đại; nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ giáo dục – đào tạo, y tế, du lịch có khả năng cạnh tranh ở cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế tại thành phố Cần Thơ và trung tâm chuyên ngành tại các đô thị: Mỹ Tho, Tân An, Long Xuyên, Rạch Giá, Cà Mau, Sóc Trăng. Trong giai đoạn đến 2025, tập trung đầu tư xây dựng mới và nâng cấp hạ tầng tại khu vực tập trung dân cư các hành lang phát triển, khu vực phát triển động lực của vùng đảm bảo khả năng tiếp cận tốt đối với dịch vụ thiết yếu; ưu tiên đầu tư xây dựng mới và nâng cấp hệ thống cấp nước sạch hoặc nước thô tại các khu vực khó khăn về nguồn nước; xây dựng và triển khai Chương trình dự trữ nước ngọt chiến lược không chỉ cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long mà còn cho cả vùng Đông Nam Bộ ; xây dựng hệ thống hạ tầng phòng, chống thiên tai, bảo vệ và phát triển rừng ven biển ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 – 2030; bảo vệ, phục hồi và phát triển rừng ngập mặn ven biển gắn với bảo vệ bờ biển. Xây dựng và triển khai Chương trình phát triển thương hiệu du lịch Đồng bằng sông Cửu Long tầm cỡ quốc tế về du lịch nông nghiệp – nông thôn, du lịch sinh thái và du lịch biển; phát triển du lịch gắn với bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên và bảo tồn các giá trị văn hóa – lịch sử của vùng; xây dựng và triển khai Chương trình bảo tồn và phát triển các hành lang đa dạng sinh học liên tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, chú trọng bảo vệ và phát triển các vùng đất ngập nước quan trọng hay khu vực đa dạng sinh học cao. Đặc biệt, xây dựng và ban hành Chiến lược quản lý rủi ro lũ, ngập lụt vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2100 để xác định các định hướng, giải pháp căn cơ, dài hạn cho vấn đề sụt lún, biến đổi khí hậu, nước biển dâng…
Phát triển 8 trung tâm đầu mối về nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long
1,339
Hội nghị thẩm định Quy hoạch Thành phố Hải Phòng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Dự thảo Quy hoạch TP. Hải Phòng định hướng xây dựng cảng Nam Đồ Sơn gắn với việc thành lập Khu kinh tế ven biển Nam Hải Phòng và kết nối đường cao tốc ven biển, sân bay Tiên Lãng. Chiều 10/7, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Chủ tịch Hội đồng thẩm định tỉnh chủ trì Hội nghị thẩm định Quy hoạch Thành phố Hải Phòng thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, hiện cả nước đang gấp rút tiến hành lập quy hoạch theo quy định của Luật Quy hoạch và Hải Phòng là địa phương thứ 43 được tiến hành thẩm định; cùng với đó là các quy hoạch vùng cũng đang được thực hiện. Vừa qua các địa phương, bộ, ngành các chuyên gia đã tham gia rất tích cực vào công tác hoàn thiện các báo cáo quy hoạch của các địa phương nhằm đẩy nhanh tốc độ; quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 cũng đã được Quốc hội thông qua. Đánh giá cao Thành phố Hải Phòng đã quan tâm, phối hợp với các bộ, ngành nhằm đẩy nhanh tiến độ lập, để tiến hành thẩm định, Bộ trưởng cho biết, đây là cơ hội quý để đánh giá quá trình phát triển, xem đâu là tiềm năng, điểm nghẽn, rào cản trong phát triển; sắp tới phải làm gì để tạo động lực, tư duy, tầm nhìn, giá trị mới. Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, thành phố Hải Phòng có nhiều điều kiện phát triển trong thời gian tới nhưng cũng đối diện với nhiều thách thức. Hải Phòng có vị trí đặc biệt quan trọng của cả nước, nằm giữa hai hành lang quan trọng; có cảng biển quan trọng và có đầy đủ 5 phương thức vận tải giao thông, song phải phải xác định được vị thế, vai trò, sứ mệnh của Hải Phòng đối với vùng và cả nước; lưu ý về vấn đề phát triển kinh tế cân bằng với môi trường, xã hội; về khu công nghiệp; đô thị hóa; ô nhiễm môi trường; phát triển nguồn nhân lực. Theo Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng Nguyễn Văn Tùng, với vị thế chiến lược là cửa ngõ chính ra biển của các địa phương miền Bắc, kết nối các tuyến giao thông hàng hải quốc tế, Quy hoạch thành phố Hải Phòng đã xác định mục tiêu, định hướng là một cực phát triển quan trọng trong tam giác phát triển Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh; là động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và cả nước. Đặc biệt, Quy hoạch đã định hướng xây dựng cảng Nam Đồ Sơn gắn với việc thành lập Khu kinh tế ven biển Nam Hải Phòng và kết nối đường cao tốc ven biển, sân bay Tiên Lãng nhằm khai thác tiềm năng lợi thế về kinh tế biển, mở rộng không gian phát triển kinh tế, tăng cường liên kết vùng. Theo báo cáo được trình bày tại Hội nghị, Quy hoạch TP. Hải Phòng xác định mục tiêu phát triển thành phố đến năm 2030 là xây dựng và phát triển Hải Phòng trở thành thành phố cảng biển lớn, đi đầu cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển đổi số; là động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả nước; có công nghiệp hiện đại, thông minh, bền vững; có dịch vụ phát triển hiện đại, là trung tâm du lịch biển quốc tế, kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại kết nối thuận lợi với trong nước và quốc tế bằng cả đường bộ, đường sắt, hàng hải, đường hàng không và đường thủy nội địa; trung tâm logistics quốc tế hiện đại. Bên cạnh đó, Hải Phòng sẽ trở thành trung tâm quốc tế về giáo dục, đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao ngang tầm với các thành phố tiêu biểu ở Châu Á; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Trong thời kỳ quy hoạch, Thành phố tập trung thực hiện 3 đột phá phát triển là Cảng biển và logistics; Chuyển đổi số; Du lịch. Tầm nhìn đến năm 2050, Hải Phòng là thành phố cảng lớn trong khu vực và thế giới, thành phố hàng hải toàn cầu với ba trụ cột phát triển chính: dịch vụ cảng biển; công nghiệp xanh, thông minh, hiện đại và trung tâm du lịch biển quốc tế; có trình độ phát triển cao, môi trường sống tốt, thân thiện với tự nhiên và thích ứng với biến đổi khí hậu, ngang tầm với các thành phố cảng hàng đầu Châu Á và thế giới. Nhằm sắp xếp, bố trí không gian hợp lý, bảo đảm tính khoa học, phù hợp với điều kiện tự nhiên, tiềm năng, lợi thế của từng khu vực, khắc phục xung đột phát triển giữa các ngành kinh tế trụ cột, Quy hoạch thành phố Hải Phòng bố trí không gian phát triển thành phố theo 4 vùng chức năng: Công nghiệp – cảng biển; Du lịch, Nông nghiệp cân bằng sinh thái và Vùng biển – hải đảo. Góp ý cho dự thảo báo cáo, TS. Cao Viết Sinh, nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, quan điểm phát triển được nêu trong dự thảo báo cáo Quy hoạch rất tốt nhưng có phần dàn trải, cần rút gọn còn 5 – 6 nội dung. “Hải Phòng cần có tư duy đột phá đi đầu”, ông Sinh nói. Tại phiên họp, các chuyên gia, thành viên Hội đồng thẩm định đã bỏ phiếu thông qua Quy hoạch với điều kiện có chỉnh sửa, bổ sung.
Quy hoạch Thành phố Hải Phòng: Mở rộng không gian phát triển kinh tế
1,024
Nhà thơ Hoàng Trung Thông (1925-1993). Ảnh: TL Nhà thơ Hoàng Trung Thông là con người tài hoa, đa năng mà cuộc đời và sự nghiệp phong phú mang những dấu ấn khác biệt đáng để hậu thế tiếp tục quan tâm. Ông sinh ngày 5/5/1925 quê ở xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu , tỉnh Nghệ An và mất ngày 4/1/1993. Năm nay kỷ niệm 30 năm ngày mất của nhà thơ họ Hoàng, ông vừa được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật lần thứ 6. Trước đó, ông cũng được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001. “ Bàn tay ta làm nên tất cả/ Có sức người sỏi đá cũng thành cơm “. Hai câu thơ quen thuộc đề cao tinh thần lao động trong “Bài ca vỡ đất” của nhà thơ Hoàng Trung Thông viết từ năm 1948 được đưa vào sách giáo khoa mà thế hệ chúng tôi học thuộc lòng. Hai câu thơ giản dị, sâu sắc mang tính triết lý nhân sinh, phần nào thể hiện tinh thần thi ca trong suốt sự nghiệp của ông. Ở phương diện lãnh đạo, Hoàng Trung Thông được xem là “quan văn nghệ” khi từng giữ các trọng trách: Tỉnh ủy viên Nghệ An, Ủy viên Tiểu ban Văn nghệ Trung ương, Tổng biên tập Báo Văn Nghệ và Tổng biên tập Tạp chí Tác phẩm mới của Hội Nhà văn Việt Nam, Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, Vụ trưởng Vụ Văn nghệ Ban Tuyên huấn Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương), Viện trưởng Viện Văn học và Tổng biên tập Tạp chí Văn học (nay là Tạp chí Nghiên cứu Văn học). Ông được biết đến là người có tiếng nói quan trọng trong nhiều vụ việc văn hóa văn nghệ giữa lúc đất nước còn bị chia cắt hai miền vì chiến tranh. Về chuyên môn nghề nghiệp, Hoàng Trung Thông là nhà nghiên cứu văn học, tác giả các tập phê bình, tiểu luận: “Chặng đường mới của văn học chúng ta” (1961), “Cuộc sống thơ và thơ cuộc sống” (1979)… Ông còn là dịch giả Hán văn và Nga văn, với các tác phẩm dịch thuật về thơ Đỗ Phủ, Lục Du, Puskin, Mayakovsky, Simonov… và tham gia dịch, nghiên cứu thơ thời Lý – Trần, đề thơ ở từ đường Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Đặc biệt, ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu hàng đầu thế hệ kháng chiến chống Pháp, xuất bản các tập thơ: “Đường chúng ta đi” (1960), “Những cánh buồm” (1964), “Đầu sóng” (1968), “Tiếng thơ không dứt” (1989)… Có thể nói, định danh “quan văn nghệ” của Hoàng Trung Thông chẳng qua là nhiệm vụ quản lý hành chính, còn chủ yếu ông là người hoạt động nghiên cứu, dịch thuật, sáng tác văn học chuyên nghiệp. Điều đó đã thể hiện qua phong thái và ứng xử của ông. PGS-TS Lưu Khánh Thơ của Viện Văn học cho biết: “Năm 1975, nhà thơ Hoàng Trung Thông về làm Viện trưởng Viện Văn học theo lời mời của Giáo sư Đặng Thai Mai. Trái với tư thế nghiêm nghị, mực thước của vị Viện trưởng tiền nhiệm, nhà thơ Hoàng Trung Thông có tác phong giản dị gần gũi của một cán bộ quần chúng và sự phóng khoáng, thoải mái của người nghệ sĩ, nên các lớp cán bộ trẻ rất dễ gần. Ông ghé vào đâu, anh em có thể thoải mái nói chuyện hàng giờ với ông. Gặp ở ngoài đường, có thể cùng nhau tạt vào một quán nước chè, muốn bàn gì với ông cũng nhanh và tiện. Những lúc tỉnh táo, ông nói chuyện hấp dẫn, dí dỏm với những ý kiến sâu sắc, uyên bác về văn học”. Khi nhà thơ Hoàng Trung Thông đang là Viện trưởng Viện Văn học, có chủ trương của Nhà nước phong học hàm giáo sư cho các chuyên gia ở viện nghiên cứu. Đây là vinh dự lớn không chỉ của thời còn hiếm học vị học hàm ấy, mà ngay cả bây giờ cũng là mục tiêu đáng mơ ước của nhiều người. Tuy nhiên, dù Hoàng Trung Thông được ủng hộ tuyệt đối nhưng ông đã thẳng thừng từ chối: “Tôi là nhà thơ. Thế đủ rồi. Còn giáo sư gì nữa”. “Nhiều ý kiến cho rằng, thơ Hoàng Trung Thông có phần tỉnh táo, hiển ngôn, thiếu phần mượt mà. Thực tế, thơ ông giàu suy tư, suy tưởng và chân tình, chân thành, chân thật. Với Hoàng Trung Thông, chính sự chân thật đã “cứu” thơ ông, giúp thơ ông gần với đời, gần với lối nói mộc mạc, bình dị”. PGS-TS Nguyễn Hữu Sơn nguyên Viện phó Viện Văn học nhận xét và cho biết thêm: “Hoàng Trung Thông dường như cũng dự cảm được cái “tạng” của thơ mình nên đã tiếp nhận và hóm hỉnh đùa vui: “Chế Lan Viên chưa bao giờ khen thơ tôi mà khi viết thường nói thơ tôi phải say hơn nữa. Tôi cố uống rượu để cho say mà thơ tôi vẫn tỉnh như mọi người đều nói”. Chính với tình bạn, tình người đã lan truyền và khiến Chế Lan Viên cảm xúc viết bài thơ cũng rất mực chân thành, ân nghĩa: “ Ông thì hay say/ Tôi thì quá tỉnh ” (Gửi Trạng Thông họ Hoàng)”. “Bài ca vỡ đất” cùng với “Anh chủ nhiệm” viết năm 1962 là hai bài thơ tiêu biểu của Hoàng Trung Thông khắc ghi hình ảnh một thời về con người và đất nước: Ít người biết rằng, bài thơ “Anh chủ nhiệm” là kết quả từ một chuyến đi thực tế sáng tác ở Nam Định của nhà thơ Hoàng Trung Thông cùng một đoàn nhà văn được sự hướng dẫn của tác giả tiểu thuyết “Bão biển” – nhà văn Chu Văn lúc ấy đang là Trưởng ty Văn hóa tỉnh Nam Hà (về sau tách trở lại thành hai tỉnh Nam Định và Hà Nam). Hình ảnh nhân vật trong bài thơ của Hoàng Trung Thông là ông Trần Sĩ Tưởng – Chủ nhiệm Hợp tác xã cấp cao Mỹ Thắng tiên tiến ở huyện chiêm trũng Bình Lục vốn là vùng quê nghèo khó ven sông Châu. Vào thời kháng chiến chống Pháp, Trần Sĩ Tưởng tham gia Mặt trận Việt Minh, được kết nạp Đảng Cộng sản, nhưng trong Cải cách ruộng đất bị vu oan là “Quốc dân đảng” nên bị khai trừ Đảng, về sau sửa sai ông được kết nạp Đảng trở lại. Nhờ thừa kế kinh nghiệm tính toán làm ăn giỏi từ cha mẹ, Trần Sĩ Tưởng cùng vợ đã sản xuất, làm ăn phát đạt rồi đem áp dụng cho hợp tác xã khi được bà con tín nhiệm bầu làm chủ nhiệm. Thú vị hơn, ông Trần Sĩ Tưởng chính là anh ruột của Đại tá, nhà báo Trần Nhung từng là Trưởng phòng Biên tập Thời sự Quốc tế Báo Quân đội Nhân dân và Tổng biên tập Báo Cựu chiến binh. Cuối đời, khi trở về với con người đích thực chính mình nhất, phẩm chất nghệ sĩ càng thể hiện mạnh mẽ trong thơ Hoàng Trung Thông. Tập thơ cuối cùng “Mời trăng” xuất bản năm 1992 của ông mang tính hướng nội, phản ánh những xung động khắc khoải bung phá vượt thoát trong tâm hồn, như bài “Biển” ông viết: “ Tôi/ như cây/ nhổ ra/ khỏi đất/ Tôi/ như cá/ ra/ khỏi/ biển khơi “. Nhà thơ Hoàng Trung Thông còn là người thích xê dịch và nổi tiếng yêu quý bạn bè văn nghệ, chơi thân với các nhà thơ Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Anh Thơ, Mộng Tuyết hay các họa sĩ Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm, Diệp Minh Châu, Mai Văn Hiến,… Khi trải qua ngọt đắng thăng trầm đời người, bạn bè đồng nghiệp là điểm tựa cho cuộc sống nhẹ nhàng hơn. Như ông gửi gắm qua bài thơ “Nhìn” xúc động viết tặng họa sĩ Mai Văn Hiến:
Những dấu ấn khác biệt của Hoàng Trung Thông
1,352
Machu Picchu là một thành phố cổ đã được xây dựng giữa dãy núi Andes và rừng nhiệt đới Amazon thuộc Peru. Giống như một mảnh ghép của lịch sử bị bỏ quên, mãi tới năm 1911, thành phố Machu Pichu mới được khám phá và may mắn thay, nó vẫn giữ được hiện trạng tốt với nhiều dấu tích của người Inca còn sót lại. Thành phố cổ Machu Picchu là một kiệt tác kiến trúc tuyệt vời, nằm trên một sườn núi ở độ cao hơn 2.300m, giống như một thành phố lơ lửng trong mây. Thành phố Machu Picchu được xây dựng hơn 500 năm trước và ngay cả trong khu vực dễ xảy ra động đất, nó vẫn đứng vững. Điều đặc biệt hơn là những khối đá ở đây được xếp chồng lên nhau hoàn hảo đến mức khó tin, thậm chí không thể nhét một tấm thẻ ATM vào giữa các viên đá. Điều này khiến người ta thắc mắc: Làm thế nào mà người Inca lại xây dựng được một thành phố quy mô lớn như vậy? Con người thời đó chưa có công cụ đục đá, máy móc xây dựng hiện đại, phương tiện vận chuyển hiện đại, làm sao vận chuyển những tảng đá lên đỉnh núi và lắp ghép một cách chính xác? Trong quá khứ, từng có một quốc gia bí ẩn ở Nam Mỹ cổ đại, đó là Đế chế Inca xuất hiện vào khoảng thế kỷ 11 sau Công nguyên. Quốc gia này rất phát triển khi so với thời đại bấy giờ và họ đã đạt được những thành tựu to lớn về thiên văn và lịch sử. Tuy nhiên, Đế chế Inca cũng rất bí ẩn bởi đây là nền văn minh lớn duy nhất vào thời điểm đó không có ngôn ngữ viết. Do thiếu các ghi chép bằng văn bản, lịch sử của Đế chế Inca luôn là ẩn số đối với mọi người. Phần lớn những gì chúng ta biết về Đế chế Inca ngày nay đều đến từ các ghi chép của người Tây Ban Nha, những người đã xâm chiếm khu vực này để cướp bóc và chinh phục Đế chế Inca cổ đại. Mặc dù đế chế cổ đại này đã diệt vong nhưng nó đã để lại một địa điểm bí ẩn: Machu Picchu. Thành phố này thường được gọi là “Thành phố đã mất của người Inca” vì nó không bị người Tây Ban Nha phát hiện, phá hủy trong cuộc chinh phục Peru của người Tây Ban Nha. Mãi đến năm 1911, khi nhà sử học người Mỹ Hiram Bingham đang tìm kiếm kinh đô của Đế chế Inca, ông mới phát hiện ra thành phố trên đã ngủ quên trên đỉnh núi ở độ cao hơn 2.300m này. Bằng chứng khảo cổ cộng với những nghiên cứu gần đây về các văn bản thời kỳ đầu thuộc địa cho thấy Machu Picchu không phải là một thành phố thông thường, mà chỉ là một thị trấn nghỉ dưỡng của giới quý tộc Inca. Machu Picchu đã được NESCO bình chọn là di sản thế giới vào năm 1983 và tổ chức New World Wondeful bình chọn là kỳ quan thế giới năm 2007. Đầu tiên phải kể đến kỹ thuật xây dựng của người Inca. Những viên đá trong toàn bộ tàn tích Machu Picchu, bất kể kích thước nào, đều có thể được xếp khít lại với nhau. Các chi tiết ăn khớp giữa các viên đá được xử lý rất tốt, đẹp đến khó tin. Thành phố này được cho là có thể chịu được những trận động đất lớn từ 9 độ richter trở lên. Xét đến việc Peru nằm trên vành đai động đất Thái Bình Dương và thường xuyên hứng chịu động đất, Machu Picchu có thể đứng ở độ cao hơn 2.300 mét trong hơn 500 năm, điều này đủ để chứng minh kỹ năng kiến trúc tinh xảo của người Inca cổ đại. Ngoài ra, việc sắp xếp các khối đá ở Machu Picchu cũng có những quy tắc độc đáo riêng. Những viên đá bên dưới tương đối lớn và hầu hết chúng có hình dạng không đều. Người ta nói rằng sự sắp xếp này có thể làm tăng số lượng bề mặt tiếp xúc khi rung lắc trong trận động đất, do đó phân tán lực theo các hướng khác nhau và giảm thiệt hại do động đất gây ra. Các căn nhà ở Inca đều được xây bằng đá mài nhẵn, ghép chặt vào nhau mà không cần tới vữa. Cũng vì vậy nên mỗi ngôi nhà ở đây đều không đồng đều về kích thước cũng như hình dáng. Nền tảng của Machu Picchu là một trong những lý do quan trọng khiến nó có thể đứng sừng sững. Nơi đây có khí hậu ẩm ướt, mưa nhiều nên rất dễ bị sạt lở. Để ổn định thế núi, người Inca cổ đại đã nghĩ ra một cách, đó là cấu trúc ruộng bậc thang. Thiết kế này không chỉ có thể giải quyết vấn đề thoát nước mà còn ổn định được cấu trúc tổng thể. Góc nghiêng của các bức tường đá chính xác là năm độ, đây là góc ổn định có thể chuyển phần lớn trọng lượng xuống đất. Cấu trúc ruộng bậc thang được chia thành ba lớp, lớp trên cùng là lớp đất màu, lớp thứ hai là lớp cát, dưới cùng là một số sỏi và đá tương đối lớn. Một lợi thế của thiết kế này là sau khi trời mưa, nước có thể nhanh chóng thấm xuống đất thay vì chảy xuống sườn đồi, do đó tránh được sạt lở đất. Tuy nhiên, kỹ thuật như vậy rõ ràng là rất khó đối với người cổ đại. Làm thế nào mà họ làm được điều đó khi không có các công cụ đo lường và kiến thức chuyên sâu? Ngoài những cân nhắc sâu sắc về thiết kế, việc xử lý đá thành nhiều hình dạng khác nhau, thậm chí còn khó khăn hơn. Các khối đá ở các công trình lớn đồng thời cũng có độ nghiêng chụm vào nhau và ngàm kết nối để chống động đất, nhờ vậy chúng có tồn tại đến ngày nay, sau nhiều biến động lịch sử. Các chuyên gia phát hiện ra rằng độ cứng của những viên đá này là sáu trên thang đo độ cứng Mohs, trong khi đồng và sắt lần lượt là ba và bốn. Từ đó có thể thấy được rằng độ cứng của đồng và sắt không bằng đá tại Machu Picchu, do đó việc chế tác những viên đá ở đây không thể đến từ những công cụ bằng sắt hoặc đồng. Vì vậy, mọi người suy đoán rằng những viên đá tại Machu Picchu là kết quả của việc dùng đá va vào đá, nhưng rõ ràng là công cụ bằng đá không thể làm cho chúng trơn tru như vậy, bởi vì đá chắc chắn sẽ bị nứt trong quá trình này. Do đó, những người thợ xây dựng đã phải sử dụng một kỹ năng rất cao để tạo hình những viên đá và làm cho chúng thật nhẵn. Vậy, ai mới thực sự là người đã dựng toàn bộ thành phố? Bất chấp nhiều năm khám phá và nghiên cứu, người ta biết rất ít về lịch sử của thành phố này và người đã xây dựng nó. Lúc đầu, người ta tin rằng thành phố được xây dựng bởi nền văn minh Inca vì phong cách xây dựng của nó có nét giống với phong cách kiến trúc của nền văn minh Inca, nhưng khi nghiên cứu sâu hơn, mọi người bắt đầu nghi ngờ tuyên bố này. Trước hết, trình độ kỹ thuật của nền văn minh Inca lúc bấy giờ không đủ để xây dựng một thành phố quy mô lớn như vậy, và phong cách kiến trúc ở đây cũng có rất nhiều điểm khác so với nền văn minh Inca. Ngoài ra, cách những viên đá lớn và sỏi nhỏ trong thành phố được xếp chồng lên nhau cũng cho thấy rằng thành phố có khả năng được xây dựng bởi hai nhóm người. Tới Machu Picchu không phải là một hành trình đơn giản. Không hề có phương tiện xe khách hay tàu hỏa từ thành phố tới thẳng đây. Người ta suy đoán rằng sau khi những người xây dựng đầu tiên rời đi, nền văn minh Inca mới đến đây và tiếp tục xây dựng thêm. Có thể thấy từ thành phố Cusco gần đó, sau khi người Tây Ban Nha chiếm đóng vào năm 1532, nhiều ngôi nhà mới đã được xây dựng. Nhưng mỗi khi có một trận động đất lớn, nhà cửa của họ sẽ sụp đổ, trong khi đó nền móng kiến trúc của thành phố này vẫn không bị ảnh hưởng. Ngay cả những tòa nhà do người dân địa phương xây dựng ngày nay cũng bị động đất đánh sập, và có lẽ đây là bằng chứng rõ ràng hơn về kỹ năng xây dựng phi thường của những người thợ xây dựng thành phố. Vậy những người xây dựng với kỹ năng kiến trúc phi thường này là ai? Cho đến năm 2012, ai đó đã tìm thấy một cánh cổng đá ở Machu Picchu, dường như đã bị các thế hệ sau chặn lại. Một số chuyên gia đã sử dụng máy dò kim loại để tìm hiểu và phát hiện ra rằng có một chất kim loại trong cửa, điều này tạo ra sự quan tâm lớn. Một số người suy đoán rằng bí mật của những người xây dựng có thể được chôn cất ở đây, nhưng Chính phủ Peru đã từ chối cho người mở cửa vì sợ rằng việc loại bỏ đá sẽ gây ra sự sụp đổ và hư hỏng cho toàn bộ cấu trúc tổng thể của Machu Picchu. Những người xây dựng Machu Picchu là ai và cách họ xây dựng như thế nào vẫn còn là một bí ẩn. Một nền văn minh Inca không có chữ viết, bánh xe và đồ sắt làm sao có thể xây dựng nên một thành phố thần kỳ như vậy? Nguồn: Zhihu
Tàn tích Machu Picchu của người Inca ẩn chứa bí mật gì?
1,708
Sạt lở đất tại Lâm Đồng sáng 29-6-2023 khiến 2 người chết. Ảnh: Báo Lâm Đồng. Từ đầu năm 2023 đến nay, thiên tai xảy ra bất thường, cực đoan, trái quy luật ngay từ những tháng đầu năm trên các vùng, miền cả nước với 21/22 loại hình thiên tai (trừ sóng thần), trong đó có 1.072 trận thiên tai đã được thống kê. Theo Bộ Xây dựng, năm 2022, tình hình thiên tai cũng diễn ra đặc biệt phức tạp tại nhiều khu vực trong cả nước, với hầu hết các loại hình thường gặp, gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Thực hiện Công điện của Thủ tướng Chính phủ về tập trung khắc phục hậu quả sạt lở đất tại tỉnh Lâm Đồng và chủ động ứng phó sạt lở trong mùa mưa lũ, Bộ Xây dựng vừa có công văn gửi UBND các tỉnh, thành phố về việc phòng, chống thiên tai bảo đảm an toàn cho người, nhà ở và công trình xây dựng mùa mưa bão năm 2023. Theo đó, Bộ Xây dựng đề nghị các địa phương tuyên truyền, phổ biến và yêu cầu người dân thực hiện các biện pháp phòng, chống thiên tai theo các tài liệu hướng dẫn về nhà an toàn phòng, chống bão lũ; khuyến cáo lắp đặt bồn nước cho nhà và công trình; quy trình kiểm định các công trình ăng ten thu phát sóng viễn thông, truyền thanh, truyền hình… Các địa phương tiếp tục triển khai thực hiện việc rà soát, cập nhật, bổ sung các giải pháp ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu vào quy hoạch đô thị, khu dân cư phù hợp với đặc điểm địa hình, khí hậu và những khu vực thường xuyên chịu ảnh hưởng bởi thiên tai như lũ ống, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất; xác định mức độ ảnh hưởng với các tần suất mưa lũ xảy ra ở từng khu vực trên địa bàn để lựa chọn địa điểm tái định cư bảo đảm an toàn cho người dân; cảnh báo và chủ động di dời nhân dân đến nơi an toàn ở các khu vực có nguy cơ ngập lụt, nước biển dâng bởi bão mạnh, siêu bão, các khu vực dân cư sinh sống tại vùng đồi núi có nguy cơ sạt lở đất, lũ quét, các khu vực thoát lũ ở hạ lưu các hồ chứa… Bộ Xây dựng cũng đề nghị các địa phương rà soát, kiểm tra hệ thống tiêu thoát nước của khu vực đô thị nhằm bảo đảm việc chống ngập úng khi mưa, lũ; kiểm tra các biện pháp bảo đảm an toàn cho công trình đầu mối hạ tầng kỹ thuật, hệ thống hạ tầng kỹ thuật trong đô thị; kiểm soát quy trình cắt tỉa cây xanh đô thị bảo đảm an toàn trong mùa mưa bão; bảo đảm an toàn điện và cung cấp nước sạch cho các vùng bị úng ngập. Đối với các công trình đang khai thác, sử dụng: Yêu cầu người dân, chủ sở hữu thực hiện gia cố, giằng chống bảo đảm an toàn nhà ở trước mùa mưa bão. Các công trình sử dụng mái tôn, mái fibro xi măng, trần nhựa, cửa kính, công trình gắn panô, biển quảng cáo, bồn chứa nước trên cao phải được kiểm tra, rà soát và có biện pháp sửa chữa, gia cường. Các công trình xây dựng tại các khu vực có nguy cơ sạt lở đất như bờ sông, bờ suối, lũ ống, lũ quét phải có đánh giá, cảnh báo cho nhân dân…
Cả nước xảy ra 1.072 trận thiên tai từ đầu năm 2023 đến nay
604
Một nhóm các nhà vật lý thiên văn Trung Quốc đã đưa ra kịch bản tử thần về nguồn phát ra các chớp sóng vô tuyến kỳ lạ, liên tục quấy nhiễu các đài quan sát trên khắp địa cầu nhiều năm qua. Chớp sóng vô tuyến (FRB) là một trong những loại tín hiệu vũ trụ gây tò mò nhất. Từ nhiều năm qua, trên khắp hành tinh, các đài quan sát liên tiếp bắt được nhiều tín hiệu vô tuyến dạng này, với tính chất đa dạng: Có cái chỉ lóe lên một lần, có cái lặp đi lặp lại theo chu kỳ, có cái lặp lại bất quy tắc… Nhiều giả thuyết được đặt ra về thứ phát ra chớp sóng vô tuyến: va chạm lỗ đen, va chạm sao neutron (xác chết của các ngôi sao khổng lồ), do người ngoài hành tinh phát đi… Một sao neutron cực mạnh, loại được gọi là “sao từ” – Ảnh đồ họa từ NASA. Trong một nghiên cứu vừa công bố trên tạp chí khoa học Monthly Notices of the Royal Astronomical Society , TS Qin Wu và các cộng sự từ Trường Thiên văn và khoa học vũ trụ thuộc Đại học Nam Kinh ( Trung Quốc ) đã lần theo một tín hiệu như vậy từ thiên hà SGR J1935+2154. Các manh mối đưa ra một kịch bản chưa ai nghĩ đến trước đây: Một sao neutron bị tấn công. Dạng sao “thây ma” này tuy kích thước chỉ từ một quả bưởi đến một thành phố, nhưng sở hữu năng lượng cực mạnh, có thể tới 1 triệu lần từ trường Trái Đất. Nghiên cứu mới chỉ ra khi một tiểu hành tinh bất ngờ đâm vào sao neutron, nó có thể giải phóng chớp sóng vô tuyến. Tín hiệu cực nhanh, mạnh này chính là do ngôi sao “quái vật” nhanh chóng xé nát kẻ tấn công. Điều này góp phần lý giải việc vụ bùng nổ sóng vô tuyến dạng này tuy là một trong những sự kiện mạnh nhất vũ trụ nhưng chỉ kéo dài vài phần ngàn giây. Vào năm 2020, một nguồn gốc khá chắc chắn của một chớp sóng vô tuyến phát ra ngay từ bên trong thiên hà chứa Trái Đất Milky Way ( Ngân Hà ) cho thấy đó có thể là một sao từ. Sao từ là dạng “cao cấp” của sao neutron, siêu dày đặc và mạnh hơn các sao neutron thông thường, với từ trường có thể mạnh gấp 4 triệu lần từ trường Trái Đất. Ngôi sao từ này đột nhiên bị trục trặc và thay đổi tốc độ quay. Chỉ một cú rùng mình của nó cũng đã đủ giải phóng năng lượng khủng khiếp, thành một chớp sóng vô tuyến “dội” tới tận Trái Đất.
Sự thật ‘chết chóc’ về tín hiệu vô tuyến lạ truyền đến Trái Đất
458
Các ngọn núi thuộc quần thể Danh thắng Ngũ Hành Sơn. Ngày 11/7, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 822/QĐ –TTg ngày 11/7/2023 phê duyệt Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Danh lam thắng cảnh quốc gia đặc biệt Ngũ Hành Sơn, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Theo đó, phạm vi lập quy hoạch có diện tích 1.049.701 m2, được xác định theo bản đồ khoanh vùng Khu vực bảo vệ I và Khu vực bảo vệ II của Danh lam thắng cảnh quốc gia đặc biệt Ngũ Hành Sơn ( phường Hòa Hải , quận Ngũ Hành Sơn ). Ranh giới lập quy hoạch gồm Phía Đông giáp đường Trường Sa và các khu nghỉ dưỡng (resort) ven biển; phía Tây giáp sông Cổ Cò; phía Nam giáp sông Cổ Cò và khu dân cư hiện trạng; phía Bắc giáp đường Phạm Hữu Nhật và khu tái định cư Hòa Hải 2. Việc quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Danh lam thắng cảnh quốc gia đặc biệt Ngũ Hành Sơn nhằm hướng đến 6 mục tiêu: Quản lý và bảo vệ danh thắng Ngũ Hành Sơn hài hòa với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, dịch vụ du lịch; đây sẽ là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, bảo tồn di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, các giá trị cảnh quan đặc trưng, hệ sinh thái của khu vực danh lam thắng cảnh. Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị danh thắng Ngũ Hành Sơn trở thành không gian văn hóa, không gian tổ chức lễ hội kết hợp điểm vui chơi giải trí đặc sắc của thành phố Đà Nẵng; kết nối với các điểm di tích, danh thắng nổi tiếng khác của thành phố Đà Nẵng và các địa phương lân cận để tạo thành chuỗi sản phẩm du lịch phong phú, là điểm đến quan trọng trên hành trình du lịch “Con đường Di sản miền Trung”. Đồng thời, việc quy hoạch còn nhằm mục tiêu xác định ranh giới và các khu vực bảo vệ, phát huy giá trị của danh thắng Ngũ Hành Sơn; tạo cơ sở để quản lý và cắm mốc giới, phân khu chức năng, xác định chỉ tiêu sử dụng đất cho khu vực bảo vệ của danh thắng, khu dân cư, khu vực bảo vệ môi trường sinh thái và các phân khu chức năng khác. Ngoài ra, định hướng tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan và bố trí hệ thống hạ tầng kỹ thuật (nâng cấp và xây mới) phù hợp với các giai đoạn bảo tồn và phát huy giá trị; bảo đảm kết nối hài hòa, đồng bộ với cảnh quan, môi trường xung quanh, với quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng và các quy hoạch khác có liên quan. Cùng với đó là định hướng kế hoạch, lộ trình và các nhóm giải pháp tổng thể quản lý, đầu tư xây dựng, bảo quản, tu bổ, phục hồi, phát huy giá trị danh thắng Ngũ Hành Sơn và khu vực vùng đệm gắn với phát triển du lịch bền vững. Đây còn là căn cứ pháp lý để xây dựng quy định quản lý, bảo vệ, kiểm soát không gian quy hoạch kiến trúc cảnh quan khu vực danh thắng và các khu vực liền kề; lập, thẩm định, phê duyệt, triển khai các dự án thành phần bảo quản, tu bổ, phục hồi và phát huy giá trị danh lam thắng cảnh theo quy hoạch được duyệt. Tạo điều kiện, cơ chế, nguồn lực thu hút, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển bền vững tại khu vực. Nội dung quy hoạch gồm: Quy hoạch phân khu chức năng; Quy hoạch không gian, kiến trúc cảnh quan; Định hướng phát triển du lịch; Quy hoạch hạ tầng kỹ thuật; Nhóm dự án thành phần và phân kỳ đầu tư; Giải pháp, cơ chế thực hiện quy hoạch. Thủ tướng Chính phủ giao UBND thành phố Đà Nẵng công bố quy hoạch, tiến hành cắm mốc giới, di dời các hộ dân trong khu vực danh thắng Ngũ Hành Sơn theo hồ sơ quy hoạch được duyệt; cập nhật ranh giới, diện tích Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Danh lam thắng cảnh quốc gia đặc biệt Ngũ Hành Sơn vào hồ sơ khoa học xếp hạng di tích và Quy hoạch thành phố Đà Nẵng, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của thành phố Đà Nẵng phù hợp với từng thời kỳ. Đồng thời, xây dựng lộ trình thu hồi đất, để bàn giao triển khai kế hoạch bảo vệ và thực hiện các dự án thành phần bảo tồn, tu bổ, tôn tạo hoặc xây dựng mới theo kế hoạch, phù hợp với điều kiện thực tế về kinh tế – xã hội của địa phương; phê duyệt các nhóm dự án thành phần, trên cơ sở quy hoạch được duyệt; quản lý hoạt động bảo tồn, tu bổ, tôn tạo và xây dựng mới theo Điều lệ quản lý quy hoạch được duyệt. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu UBND thành phố Đà Nẵng chỉ đạo các đơn vị chức năng và chủ đầu tư tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm, khai quật khảo cổ học nhằm bổ sung tài liệu, cứ liệu khoa học về Danh lam thắng cảnh quốc gia đặc biệt Ngũ Hành Sơn, làm căn cứ để thẩm định và quyết định đầu tư các nhóm dự án thành phần, theo thứ tự ưu tiên, phù hợp với khả năng cân đối nguồn vốn đầu tư, trên cơ sở quy hoạch được phê duyệt. UBND thành phố Đà Nẵng chủ động cân đối, bố trí nguồn vốn ngân sách địa phương; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, huy động các nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để triển khai thực hiện quy hoạch theo đúng kế hoạch. Sau khi các quy hoạch cấp quốc gia, Quy hoạch thành phố Đà Nẵng thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được cấp có thẩm quyền quyết định hoặc phê duyệt, UBND thành phố Đà Nẵng có trách nhiệm rà soát nội dung Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Danh lam thắng cảnh quốc gia đặc biệt Ngũ Hành Sơn. Tin, ảnh: Trần Lê Lâm
Thủ tướng phê duyệt Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Ngũ Hành Sơn
1,067
Hành tinh gương soi LTT9770 b - Ảnh: NASA/ESA. Hành tinh không nên tồn tại LTT9770 b là tấm gương vĩ đại nhất vũ trụ với bề mặt bao phủ bởi những đám mây bằng thủy tinh và muối titan. Theo Live Science, LTT9770 b phản chiếu tới 80% ánh sáng từ ngôi sao mẹ, là độ phản chiếu lớn nhất từng được ghi nhận và vượt xa các hành tinh khác. Để so sánh, Trái Đất của chúng ta chỉ phản chiếu 30% ánh sáng Mặt Trời. Hành tinh kỳ lạ được phát hiện lần đầu vào năm 2020 bởi các nhà nghiên cứu thuộc dự án TESS của NASA. TESS là chiến binh săn ngoại hành tinh hàng đầu của cơ quan này, với hơn 5.000 ngoại hành tinh đã được nó tìm thấy. Phát hiện ban đầu này cho thấy đây là một hành tinh khí khổng lồ – tức dạng giống Sao Mộc – nằm cách Trái Đất khoảng 260 năm ánh sáng và nặng hơn khoảng 5 lần, quay quanh sao mẹ sau mỗi 19 giờ. Trong nghiên cứu mới vừa công bố trên tạp chí khoa học Astronomy and Astrophysics, nhóm khoa học gia từ nhiều viện, trường ở Pháp , Chile , Ý , Anh , Mỹ và Thụy Sĩ đã sử dụng Cheops, một tàu vũ trụ dạng vệ tinh của Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) để tìm hiểu kỹ hơn về LTT9770 b. Họ đã sốc nặng khi phát hiện sự thật về hành tinh này, một thế giới nóng bỏng đến nỗi có những đám mây gần như bằng kim loại và thủy tinh, đổ mưa titan xuống mặt đất. Các tính chất lạ lùng khiến nó trở thành hành tinh sáng nhất từng được phát hiện và phá vỡ nhiều lý thuyết thiên văn lâu đời. Các đám mây kim loại của hành tinh có thể giải thích cho sự tồn tại kỳ lạ này, thay vì cả bầu khí quyển bị thổi bay với khoảng cách quá gần sao mẹ.
Nóng: Châu Âu chụp được hành tinh làm bằng gương soi
325
Các bà mẹ và trẻ em chờ được khám sức khỏe tại trại tị nạn ở Baidoa, Somalia. Ảnh: AFP/TTXVN. ‘Hãy tưởng tượng một thế giới – với 8 tỷ người – mỗi người có một tương lai với đầy hứa hẹn và tiềm năng. Và bây giờ chúng ta hãy mở mắt ra để nhìn vào thực tại khi 4 tỷ phụ nữ và trẻ em gái – một nửa nhân loại – đang bị phân biệt đối xử chỉ vì giới tính của họ’. Thông điệp mà Giám đốc điều hành Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) Natalia Kanem đưa ra nhân Ngày Dân số thế giới 11/7 năm nay nêu bật thực trạng về sự bất bình đẳng trong bức tranh dân số thế giới, khi những người phụ nữ với thiên chức sản sinh ra những công dân tương lai của hành tinh vẫn chưa được đảm bảo những quyền cơ bản, trong đó có quyền quyết định về khả năng sinh sản của bản thân. Chính vì thế, LHQ chọn chủ đề của Ngày Dân số thế giới 2023 là “Phát huy sức mạnh của bình đẳng giới: Nâng cao tiếng nói của phụ nữ và trẻ em gái để giải phóng tiềm năng vô hạn của thế giới”. Thống kê cho thấy gần 70% trong số 800 triệu người chưa biết đọc trên thế giới là phụ nữ. Hơn 40% phụ nữ trên thế giới không thể tự quyết định về sức khỏe sinh sản, tình dục và được đảm bảo các quyền liên quan sinh sản, trong khi chưa đến 25% số phụ nữ tại các nước thu nhập thấp và trung bình có được quyền tự quyết sinh nở theo mong muốn. Và cứ 2 phút trên thế giới lại có một người phụ nữ tử vong vì nguyên nhân liên quan thai sản và sinh nở, ở những nơi xảy ra xung đột số ca tử vong cao gấp 2 lần. Ngày Dân số thế giới năm nay hướng tới mục tiêu nâng cao nhận thức về tác động của sự gia tăng dân số tới phụ nữ, các điều kiện kinh tế và tình trạng nghèo đói. Chiếm khoảng 49,7% trong số 8 tỷ người trên thế giới, nhưng phụ nữ và trẻ em gái thường bị bỏ qua trong các cuộc thảo luận về nhân khẩu học, các chính sách dân số chưa chú trọng quyền của phụ nữ. Tình trạng bất bình đẳng này xảy ra ở nhiều nơi, trong nhiều lĩnh vực chính là nguyên nhân sâu xa khiến nhiều phụ nữ và trẻ em gái không được đến trường, không được tạo điều kiện để tham gia lực lượng lao động và các vị trí lãnh đạo, làm hạn chế khả năng đưa ra quyết định về chính sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục của bản thân, làm gia tăng nguy cơ bị bạo hành, chịu đựng những thói quen tai hại và cả những ca tử vong đáng tiếc. Đáng chú ý, hiện nay còn rất nhiều phụ nữ chưa thể quyết định vấn đề sinh sản của bản thân, mà chịu sự chi phối từ gia đình và xã hội. Tỷ lệ sinh diễn biến theo hướng quá cao hoặc quá thấp đều có thể tác động tới lựa chọn sinh sản của người phụ nữ, với những hậu quả sau đó sẽ lan rộng, từ thân thể của chính họ đến tương lai, gia đình và cộng đồng. LHQ nêu bật sự cần thiết phải giải quyết tình trạng bất bình đẳng, thúc đẩy các quyền và cơ hội ngang bằng, đảm bảo tiếng nói của phụ nữ và trẻ em gái được lắng nghe và ghi nhận, đồng thời nhấn mạnh tiềm năng tạo đột phá mà bình đẳng giới mang lại giúp khai mở tương lai tươi sáng hơn cho tất cả, hiện thực hóa giấc mơ của toàn bộ 8 tỷ người trên Trái Đất. Trong đó, khi hướng tới một xã hội toàn cầu, thế giới cần đảm bảo quyền tự quyết về vấn đề sức khỏe sinh sản và tình dục của người phụ nữ, không để các yếu tố như phân biệt giới, ép buộc hay bạo lực tác động, quyền được tiếp cận những dịch vụ về sinh sản hợp túi tiền và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Đây đều là những quyền thiết yếu, đặc biệt là với phụ nữ bởi vì trong suốt lịch sử phát triển của loài người, thân thể người phụ nữ từng không ít lần bị coi là công cụ để đạt được những mục đích kiểm soát xã hội chính trị hay tôn giáo. Hơn nữa, với chủ đề về bình đẳng giới trong ngày nhận thức về dân số, LHQ muốn đề cao những tiêu chuẩn về quyền con người, cụ thể là người phụ nữ, trong kế hoạch hóa gia đình. Đó là không có phân biệt giới, tôn giáo, tuổi tác, xu hướng tình dục, tình trạng hôn nhân, tình trạng khuyết tật hay ngôn ngữ, xuất thân… trong việc đưa ra quyết định kế hoạch hóa gia đình. Cần đảm bảo mọi dịch vụ giúp kế hoạch hóa gia đình có sẵn và dễ tiếp cận với tất cả mọi người. Mọi cá nhân đều được trao quyền quyết định về sức khỏe sinh sản mà không chịu sự ép buộc. Các nhà lãnh đạo và hoạch định chính sách cần có trách nhiệm đảm bảo các quyền con người không bị vi phạm khi đưa ra chính sách liên quan kế hoạch hóa gia đình. Trong thông điệp Ngày Dân số thế giới, Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres nêu rõ: “Phân biệt giới gây hại cho tất cả, từ phụ nữ, trẻ em gái đến nam giới và cả các bé trai, đầu tư cho phụ nữ sẽ nâng đỡ tất cả mọi người, mọi cộng đồng và quốc gia”. Theo Giám đốc điều hành UNFPA Natalia Kanem, khi giải phóng toàn bộ tiềm năng của phụ nữ và trẻ em gái, khuyến khích và nuôi dưỡng những mong muốn về cuộc sống, gia đình và sự nghiệp của họ, chúng ta sẽ khuyến khích khả năng của một nửa thế giới để lãnh đạo, mang đến những ý tưởng, sáng kiến sáng tạo cho một xã hội tốt đẹp hơn. Sức sáng tạo, trí tuệ, nguồn lực và sức mạnh từ những người phụ nữ và trẻ em gái là nền tảng quan trọng giúp giải quyết bài toán nhân khẩu học cũng như nhiều thách thức khác đang đe dọa thế giới, trong đó có thể kể đến biến đổi khí hậu và xung đột. Thúc đẩy bình đẳng giới, khai phá tiềm năng và trao quyền cho một nửa của nhân loại để tạo ra một thế giới công bằng hơn, ổn định hơn và bền vững hơn.
Tiềm năng của một nửa nhân loại
1,153
Hình ảnh 2 mặt trời cùng xuất hiện trên bầu trời được cắt ra từ video của anh Tiêu. (Ảnh cắt từ video). Chúng ta đều biết chỉ có một mặt trời trên bầu trời, thế nhưng người đàn ông dưới đây đã quay được cảnh hai mặt trời cùng hiện diện. Chuyện gì đã xảy ra? Theo tờ Quảng Châu Nhật báo, vào ngày 7 tháng 7 năm 2023, một người đàn ông họ Tiêu ở Nghi Tân, Tứ Xuyên, Trung Quốc bất ngờ đăng tải một video quay lại cảnh 2 mặt trời xuất hiện trên bầu trời. Những hình ảnh trong video cho thấy, mặt trời thứ nhất đang phát ra ánh sáng chói chang, trong khi mặt trời thứ 2 tỏa sáng mờ hơn. Đây quả là một cảnh tượng thực sự hiếm thấy. Anh Tiêu cho biết, đây là lần đầu tiên anh nhìn thấy 2 mặt trời. Anh cũng đặt câu hỏi với cư dân mạng rằng liệu rằng đây có phải là hiện tượng nào đó của vũ trụ không? Video được đăng tải đã thu hút sự chú ý của nhiều người. Cư dân mạng cũng vô cùng bất ngờ với hiện tượng này. Nhiều người còn hài hước bình luận rằng hóa ra có tận 2 mặt trời cùng hiện diện nên gần đây mới có nắng nóng bất thường như vậy. Ảnh chụp 4 mặt trời cùng xuất hiện tại Sơn Tây, Trung Quốc. (Ảnh: Sohu) Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng hiện tượng này không phải mới mẻ. Trước đó vào ngày 28 tháng 2 năm 2023, một người dân ở Vận Thành, một địa cấp thị thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc đã chụp được ảnh 4 mặt trời cùng xuất hiện trên trời. Trong bức ảnh, 4 mặt trời xếp thành hàng ngang và mặt trời ở ngoài cùng bên trái là sáng nhất, các mặt trời khác thì tỏa sáng ít hơn. Vậy hiện tượng có nhiều mặt trời trên bầu trời là gì? Hiện tượng nhiều mặt trời cùng xuất hiện có vẻ rất kỳ diệu nhưng trên thực tế có thể giải thích theo cơ sở khoa học. Theo các chuyên gia thiên văn học, đây là hiện tượng Parhelion. Tên của hiện tượng parhelion bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là para-helios. Trước đây, hiện tượng Parhelion từng được ghi chép trong các tư liệu từ thời cổ đại. Hiện tượng nhiều mặt trời cùng xuất hiện trên bầu trời được gọi là Parhelion. (Ảnh: Sohu). Theo mô tả của trang SkyBrary, Parhelion là một trong những hiện tượng khí quyển kỳ lạ nhất. Nó là một hiện tượng khí quyển do mặt trời gây ra dù nó cũng có thể được coi như là một hiện tượng có nguồn gốc thiên văn. Parhelion thường xuất hiện trong một số điều kiện môi trường duy nhất và trong một thời gian ngắn. Đặc biệt là khi các đám mây gần mặt trời tương đối dày. Parhelion là hai tia sáng nhỏ hình thành ở cả hai phía của mặt trời khi gặp một loại mây nhất định. Những loại mây cần thiết để tạo điều kiện xảy ra hiện tượng này gọi là mây ti. Những đám mây này có hình dạng giống như sợi tơ và bông gòn. Loại mây này có chứa các tinh thể băng hoạt động như các lăng kính nhỏ. Những tinh thể băng này làm khúc xạ tia nắng của mặt trời. Điều này có nghĩa là chúng sẽ làm lệch một phần tia sáng mặt trời đến một nơi khác tạo thành điểm cận nhật. Từ đó, con người có thể thấy một mặt trời phía sau đám mây nhưng kém sáng hơn so với mặt trời thật. . Hiện tượng này cũng xuất hiện ở những vùng băng giá có nhiệt độ thấp. (Ảnh: Sohu). Không phải lúc nào hiện tượng Parhelion này cũng xảy ra. Nhiều khi những đám mây ti chỉ xuất hiện ở một phía của mặt trời và chỉ hình thành một điểm cận nhật. Do đó, chúng ta không thể nhìn thấy toàn bộ mặt trời thứ hai. Đôi khi hiện tượng Parhelion này xuất hiện dưới dạng một đốm sáng hình tròn. Với hình dạng này, mặt trời thứ hai sẽ ít sáng hơn. Thông thường, hiện tượng Parhelion xảy ra vào sáng sớm hoặc hoàng hôn khi mặt trời ở dưới đường chân trời. Parhelion thường xuất hiện chính xác ở độ nghiêng 22 độ so với mặt trời, do góc khúc xạ của tia sáng. Hiện tượng nhiều mặt trời trên bầu trời rất hiếm khi xảy ra. (Ảnh: Sohu). Ngoài ra, ở những khu vực có băng tuyết cũng có thể xảy ra hiện tượng Parhelion như miền bắc nước Mỹ nơi có nhiệt độ -20 độ C vào mùa đông. Ở những nơi này có điều kiện môi trường hoàn hảo đủ để các tinh thể băng trong các đám mây ti hình thành điểm cận nhật. Để có thể chiêm ngưỡng hiện tượng Parhelion, chúng ta cần đáp ứng được 2 điều kiện. Thứ nhất, các đám mây ti cần gần với mặt trời . Thứ hai, tầng mây phải mỏng, độ truyền ánh sáng phải tốt, hơn nữa, góc giữa mặt trời, các tinh thể băng của mây ti và người quan sát phải vừa phải, chỉ cần lệch một chút là sẽ không thể thấy được. Nguồn: Gzdaily, Sohu
Người dân bất ngờ chụp được cảnh cực hiếm nhiều ‘mặt trời’ xuất hiện cạnh nhau: Vì sao?
892
Trong số các nhà văn tiền chiến nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám, nhà thơ Thanh Tịnh là một trường hợp đặc biệt. Những câu thơ về Huế của ông luôn thuộc nằm lòng trong những người xa Huế: Có bao người Huế không về nữa/ Gửi đá ven rừng chép chiến công/ Có mồ liệt sĩ nâng lòng đất/ Buồm phá Tam Giang gió thổi lòng (Nhớ Huế quê tôi). Chất thơ Thanh Tịnh đã sớm lọt vào con mắt xanh của Hoài Thanh – Hoài Trân trong Thi nhân Việt Nam đã cho Thanh Tịnh cùng với bạn văn chương ở Huế có chỗ đứng trong văn học. Thanh Tịnh sinh ngày 12 tháng 12 năm 1911 tại Dương Nỗ, huyện Phú Vang , tỉnh Thừa Thiên – Huế , tên thật là Trần Văn Ninh. Năm lên sáu tuổi đổi là Trần Thanh Tịnh. Ông học trung học rồi đi dạy tư, dạy Việt văn, viết báo cộng tác với các tờ Thần Kinh Tạp Chí (Huế), Hà Nội Báo, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Phong Hóa, Ngày Nay, Thanh Nghị, Tinh Hoa, Phụ Nữ Thời Đàm (Hà Nội) với những bút danh khác nhau: Thinh Không, Pát-tê (Pathé) Thanh Thanh, Trịnh Thuần… Sau Cách mạng Tháng Tám, ông làm Tổng Thư ký Hội Văn hóa Trung bộ; gia nhập bộ đội năm 1948, phụ trách đoàn kịch Chiến Thắng. Các nhà văn quân đội tại trụ sở Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2022. Với các nhà văn quân đội, khoảng thời gian nhà thơ Thanh Tịnh làm Tổng biên tập Văn nghệ quân đội chính là khoảng thời gian xôm tụ với các tên tuổi từ Vũ Cao, Lưu Trung Dương, Từ Bich Hoàng, Nguyễn Khải, Hữu Mai, Vũ Tú Lan, Nguyên Ngọc, Nguyễn Trọng Ánh, Hồ Phương, Nguyễn Thi, Tạ Hữu Thiện, Xuân Thiêm, Nam Hà, Xuân Sách, Xuân Thiều, Triệu Bôn, Nguyễn Minh Châu,… mà nhà thơ Thanh Tịnh làm Thư ký tòa soạn (1957), tiếp đó, năm 1963 ông làm Tổng biên tập đến năm 1970. Phải làm thủ trưởng của các tài năng văn học cỡ như vậy mà “sếp” Thanh Tịnh vẫn ung dung tự tại, dung hòa được tất thảy các cá tính chính bởi khí chất của ông. Khí chất: Đã dậy sóng, sông Hương đang dậy sóng/ Xua, xua tan rác rưởi úa dòng xanh/ Cờ lại sáng lên sáng rực cả kinh thành/ Quàng khăn đỏ cố đô xưa trẻ lại… Tôi cầm bút chữ chăng đèn trên giấy/ Mà nghe tim đập nhịp Tiến quân ca/ Thấy quân đi sưởi ấm đất quê nhà/ Nghe tiếng sấm phía Thu Bồn giội sét (Sông Hương dậy sóng) đã trở thành một sức hút để quy tụ các văn nhân hàng đầu trong quân đội. Với tư cách là nhà văn quân đội, ông đi khắp các chiến trường trong chống Pháp, chống Mỹ để sáng tác. Các tác phẩm được xuất bản: Sức mồ hôi (tập ca dao, 1995); Những giọt nước biển (tập truyện ngắn, 1957); Độc tấu sáng tác và biểu diễn (1969); Đi từ giữa một mùa sen (trường ca, 1973); Thi ca (tuyển thơ, ca dao, trường ca, 1980). Là những sáng tác chủ chốt của Thanh Tịnh. Một điều đáng quý ở Thanh Tịnh là sự đóng góp vào kho tàng dân gian một sáng tạo mới: độc tấu. Ông đã sáng tác và trình diễn loại tấu này ngay trên bước đường hành quân và rất được phổ biến trong quần chúng nhân dân. Thanh Tịnh là người hiểu biết sâu sắc về truyền thống văn hóa Việt Nam, nhất là văn hóa Huế. Hơn năm mươi năm cầm bút, Thanh Tịnh không chỉ là nhà văn, nhà thơ, nhà báo mà còn là nhà văn hóa. Ông đã đi nhiều nơi, viết nhiều thể loại. Ngoài những tác phẩm đã in thành sách còn một khối lượng lớn các bài báo; đó là những tư liệu đáng quý giúp chúng ta khi tìm hiểu, nghiên cứu về ông. Nhà văn Phùng Văn Khai trao giải tặng thưởng Văn nghệ Quân đội 2022. Nhà văn Nguyễn Khải, một trong những cây đa cây đề của Văn nghệ quân đội đã viết về ông: “Tháng 8 năm 1955, tôi và một số anh làm báo của nhiều quân khu và sư đoàn được Tổng cục Chính trị triệu tập về trại viết truyện anh hùng quân đội. Họp xong, cả bọn đang đứng ở ngoài hành lang nhìn ngó, bàn tán, lính quân khu mới lên Tổng cục thấy cái gì cũng hay, cũng lạ, cũng muốn hỏi. Những người tôi muốn hỏi, muốn xem mặt nhiều lắm. Họ là những tác giả được bạn đọc trong quân đội ngưỡng mộ từ lâu: Vũ Tú Nam, Vũ Cao, Từ Bích Hoàng, Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm… Nhưng tôi chưa từng nghe tên Thanh Tịnh. Trong kháng chiến, anh thường tới các đơn vị thuộc các đại đoàn chủ lực biểu diễn độc tấu, vừa là đọc thơ vừa là kịch độc diễn, một thể loại nghệ thuật rất độc đáo, đứng đâu, ngồi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng có thể biểu diễn được, nghe nói được bộ đội rất hoan nghênh. Được giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam (1951-1952). Thơ văn của anh đến với quần chúng không qua chữ in, báo chí mà bằng con người thật, với tài kể chuyện, tài ứng khẩu nhưng những người ở xa như chúng tôi thì không được biết. Cho nên, tôi mới thắc mắc khi thấy một ông bộ đội cao to ngoài bốn chục tuổi, có một chiếc răng vàng ở khóe miệng, lại đi đôi giày săng đá cỡ đại, đang kể một chuyện gì đó chắc là buồn cười lắm vì thấy mấy anh làm báo của sư đoàn 308 và 304 đứng vây quanh cười ầm ầm. Tôi bèn hỏi Phùng Quán, cũng là một nhân vật nổi danh của ngày ấy tôi mới được làm quen mấy bữa trước: “Ông ấy là ai thế? Cũng là dân văn nghệ à?” Phùng Quán nhìn tôi như cậu phán tòa sứ nhìn anh dân quê: “Cậu thật không biết ông ấy là ai à? Cậu đã đọc truyện ngắn của Thanh Tịnh chưa?” À, Thanh Tịnh thì biết, hồi nhỏ có đọc mấy cái truyện ngắn Quê mẹ; Ngậm ngải tìm trầm … và có thuộc mấy đoạn trong bài thơ Trường học làng tôi . Khi đó tôi mới ồ lên thích thú” Đó là những trang văn trung thực và sinh động mà Nguyễn Khải mô tả vị thủ trưởng của mình, là phong vị chung của các nhà văn trong ngôi nhà số 4. Thanh Tịnh là người viết truyện ngắn có tên tuổi trên các báo Phong Hóa, Ngày Nay, Thanh Nghị trước cách mạng cùng thời với Thạch Lam, Hồ Dzếnh. Văn chương đối với ông là niềm say mê, hết lòng phục vụ. Theo nhà văn Nguyễn Khải, Thanh Tịnh có quá nhiều sự đam mê. Nghề dạy học cũng là một cái mê, nghề hướng dẫn du lịch cũng rất mê, làm báo cũng mê, biểu diễn độc tấu và đóng kịch hình như ông mê hơn cả. Ông không thể sống một mình mà phải luôn luôn có bè bạn, không thể làm việc trong lặng lẽ mà phải luôn luôn đứng trước đám đông, sống trong đám đông hò hát, nói chuyện vui và biểu diễn độc tấu. Suốt những năm đánh Pháp, ông sáng tạo ra nghệ thuật độc tấu vừa đi vừa viết vừa diễn. Bài độc tấu đầu tiên của Thanh Tịnh là bài Bắn cả hai , làm ở gần chùa Trầm vào mùa xuân năm 1947. Chiến thắng sông Lô thì ông có bài: Ai biết không sông Lô/ Nơi nước sông xây mồ/ Quân hung tàn tham ô (?)/ Sông Lô! Hoan hô!/ Ai biết không sông Lô/ Nơi lũ quân hung đồ/ Trời bập bềnh nhấp nhô/ Sông Lô! Hoan hô! – Những bài thơ để đọc trước đám đông, hiểu được ngay và được hưởng ứng tức thì. Tác giả hô hoan hô thì bộ đội đứng nghe có thể hô liền theo: Hoan hô! Người diễn và người nghe lập tức hòa làm một. Rồi anh diễn kịch, đóng vai đao phủ trong vở Đề Thám xuất quân của Thế Lữ, đóng vai mật thám trong vở Cụ Đạo và sư ông do ông gợi ý và Thế Lữ dàn dựng. Thật lạ lùng, Thanh Tịnh người hiền lành vui vẻ mà toàn nhận các vai sát thủ! Ông nói vui: “Chả là người mình cao lớn, giọng nói lại vang to, dễ gây được ấn tượng khủng khiếp”. Với anh em văn nghệ quân đội thế hệ 6x, 7x, 8x,… dường như Thanh Tịnh không hề xa xôi mà rất gần gũi. Hôm chúng tôi làm cuộc đối thoại với Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, con trai của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh – một người bạn đồng hương xứ Huế thiết thân của nhà thơ Thanh Tịnh, anh Vịnh bảo ngày nhỏ rất hay đến Văn nghệ quân đội vào phòng bác Thanh Tịnh nghịch đồ đạc. Phòng Thanh Tịnh luôn rất nhiều đồ. Ngày đó, những lúc rỗi rãi, Đại tướng Nguyến Chí Thanh thường ra trò chuyện, thậm chí nằm dài cả buổi tối với Thanh Tịnh. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh chính là người quyết định cho các nhà văn quân đội sử dụng ngôi nhà số 4, một trong những biệt thự cổ đẹp nhất Thành phố Hà Nội, cũng là một dấu mốc lịch sử. Trong ngôi nhà lịch sử, đã có nhiều nhà văn nhà thơ được đặt tên phố, tên đường, tên trường học. Đó là: Nguyễn Thi, Thanh Tịnh, Phùng Quán, Vũ Cao, Nguyễn Minh Châu, Xuân Thiều. Đó cũng chính là niềm tự hào lớn của chúng tôi. Nhà Thơ Thanh Tịnh chính là người viết câu thơ mà nhiều người lầm tưởng là ca dao: Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong. Ông từ lâu đã về với thế giới của người hiền, song thơ Thanh Tịnh, văn chương của ông, các giai thoại về ông vẫn luôn được chúng tôi nhắc nhớ.
Nhà thơ Thanh Tịnh, Ước gì để lại mùa sau – Một câu một chữ đậm màu dân gian – Tác giả: Nhà văn Phùng Văn Khai
1,678
Tên của Nguyễn Văn Lạc được TP HCM sử dụng đặt tên cho một con đường (ảnh trên) ở quận Bình Thạnh và một con đường nữa mang tên Học Lạc tại quận 5(ảnh dưới). Ảnh: TẤN THẠNH. Yêu nước và đấu tranh bằng thơ ca linh hoạt và uyển chuyển, cốt sao cho các tác phẩm của mình đến được với dân nên còn nhiều tác phẩm dù ông không ghi tên nhưng vẫn được dân chúng nhớ và cho là của Học Lạc. Người Nam Kỳ trước đây thường truyền tai nhau, bài thơ chữ Nôm – 8 câu, mỗi câu 7 chữ – mở đầu bằng 4 câu như sau: “Vành mâm xôi đề “Thằng Lạc” Nghĩ mình ti tiểu không đài các. Văn chương chẳng phải bọn mèo quào Danh phận không ra cái cóc rác!”. Chữ “Lạc” ở câu đầu tiên, chính là tên của người có tính danh đầy đủ là Nguyễn Văn Lạc. Nhà nghèo nhưng học giỏi, nên được triều đình đặc ân xếp vào ngạch học sinh, được cấp lương ăn học, nên được gọi tên ghép với “ngạch” là “Học sinh Lạc”, rồi “gọi tắt” thành “Học Lạc”. Học Lạc là người làng Mỹ Chánh, về sau, dời nhà về chợ Thuộc Nhiêu, đều trên đất Mỹ Tho ( Tiền Giang ngày nay). Ngạch Học sinh dù thứ bậc rất thấp nhưng cũng vẫn khiến Học Lạc có chút phận chức sắc trong hương đảng. Do đó, theo hương lệ, hằng năm, đến ngày lễ Kỳ Yên, phải mang ra đình, nộp một mâm xôi, tế thần. Năm ấy, chơi ngông, Học Lạc tự xưng mình là “Thằng”, khi đề tên (đánh dấu) vào mâm xôi cúng, bị các chức sắc “vai trên” trách phạt tội bất kính. Bài thơ giải trình lý do viết chữ “Thằng” vào mâm xôi của Học Lạc, có tên là “Tạ hương đảng” (Xin lỗi các chức sắc trong làng). Tiếng là tạ lỗi nhưng lại rất ngang tàng, coi thói quan liêu – hách dịnh của các chức sắc hương thôn lúc bấy giờ, chẳng ra gì. Do đó, rất được dân chúng ưa thích và truyền tụng. Người Nam Kỳ xưa, mến mộ Học Lạc, còn truyền tai nhau một thi phẩm nữa, cũng đầy tính trào lộng: “Năm Kỷ Sửu, tuổi vừa bốn tám Lấy gương soi, ngẫm lại, luống cười thầm: Tóc tơ đã nhuốm điểm hoa râm Nhỏ rồi lớn, lớn rồi già, già trối kệ!”. Vẫn là giọng thơ ngang tàng, pha chút triết lý khôi hài về cuộc đời (thế sự đương thời) nhưng nhờ đó, người ta biết được: Năm Kỷ Sửu, dương lịch là năm 1899, Học Lạc 48 tuổi (tuổi ta, tức 47 “tuổi Tây”)! Suy ra: nhà thơ trào phúng của đất Nam Kỳ sinh năm 1842! Học Lạc sống tuổi 20 của mình khi thực dân Pháp đến xâm chiếm đất Nam Kỳ. Nhà thơ mất ở tuổi 73 – vào năm Ất Mão (1915), khi đất Nam Kỳ đã bị người Pháp biến thành thuộc địa. Không cầm vũ khí như Trương Định, Nguyễn Trung Trực… chống lại kẻ xâm lược ngoại bang và tay sai bản xứ, cũng không như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị… dùng ngòi bút làm vũ khí trực tiếp “đâm mấy thằng gian…”, nhưng Học Lạc với tài làm thơ trào phúng bằng giọng thơ “vần trắc” (trúc trắc) “rất Nam Kỳ” của mình, đả kích thật sâu cay những kẻ/ và thói/ hư đốn lúc đương thời, đã chính là một người làm hoa cho đất quê hương phương Nam của ông, một cách thật là đặc sắc. Những con vật thường ngày trong cuộc sống của người dân Nam Kỳ, thường được Học Lạc lấy đấy làm đề tài ngâm vịnh nhưng là để lồng vào đấy thân phận và hình ảnh xấu xí của những kẻ cường hào, hống hách như ở bài vịnh “Con Tôm”: Đướng Học Lạc ở quận 5 – TP HCM. “Chẳng phải vương công, chẳng phải hầu Học đòi đai kiếm, lại mang râu Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích…”. Rồi hạ một câu phê phán rất độc địa, đúng thực chất bằng ngôn ngữ dân gian: Vịnh “Con Trâu” cũng thế, đấy là những kẻ cường hào, dù “đánh bóng cuộc đời” bằng nhiều cách: “Mài sừng cho lắm, cũng là trâu!”. Với thực chất ngu đần kém cỏi mà dân gian đã đúc kết sẵn rồi: “Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ Năm giây đàn gẩy biết chi đâu!”. Đặc biệt, hình tượng “Chó chết trôi” được Học Lạc lồng vào để chỉ những kẻ làm tay sai cho giặc, hại dân, hại nước, là điều cảnh báo thật sâu cay về thân phận và số phận, khi hết đời: “Sống thì bắt thỏ, thỏ kêu rêu Thác, thả dòng sông, xác nổi phều Vằn vện xác còn phơi lững thững Thứ tha danh hãy nổi lều phều Tới lui bịn rịn bầy tôm tép Đưa đón lao xao lũ quạ diều Một trận gió dồn cùng sóng dập Tan tành xương thịt biết bao nhiêu!”. “Đánh” vỗ mặt bọn cường hào, tay sai cho giặc như thế, Học Lạc cũng còn có những bài ý nhị hơn, ca ngợi những người yêu nước, trong đó có thủ khoa Nguyễn Hữu Huân; đồng thời bóng gió mà trách cứ triều đình Huế đã “bán rẻ” đất Nam Kỳ như ở trong bài “Thuộc Nhiêu tức cảnh” – nơi định cư của ông, cũng là nơi hoạt động đánh giặc sôi nổi của những chiến sĩ yêu nước như Nguyễn Hữu Huân: “Đất linh bồi đắp cuộc Ba Giồng Cảnh Thuộc Nhiêu nhiều khách ngộp trông Đường thẳng ngựa biên chân ngán bước Rạch cua cá lội mến quên sông Tướng văn giỏi kẻ thêu rồng cọp Miếu võ thờ tay chí bá tông Cứng cát thú quê vui tục cũ Thềm dâu ruộng lúa dễ cho không!”. Yêu nước và đấu tranh bằng thơ ca linh hoạt và uyển chuyển, cốt sao cho các tác phẩm của mình đến được với dân nên còn nhiều tác phẩm dù ông không ghi tên nhưng vẫn được dân chúng nhớ và cho là của Học Lạc. Nỗi niềm tâm sự của người dân mất nước, khi “Tức cảnh ban chiều” trước những nhăng nhố của xã hội thuộc địa như vẽ ra sau đây, đã được coi là của Học Lạc đấy: “Ngó ra ngoài ngõ gió đìu hiu Xem thấy cảnh trời, trời đã chiều Ham hố trẻ con đua múa hát Đứa thì làm tướng, đứa làm yêu (tinh)”. Những bài thơ vạch trần thói bon chen bỉ ổi, hèn hạ của Tổng đốc Định Tường Nguyễn Kim Tri, chê bai sự hèn nhát của võ quan Hộ đốc Mỹ Tho Nguyễn Công Nhàn: “Giặc tới Bến Tranh, run lập cập/Tàu vô Cửa Tiểu, chạy bỏ càng”… cũng được nhiều người Nam Kỳ cho là của Học Lạc. Và cùng thời, cùng giọng với những Tú Xương, Nguyễn Khuyến… ở ngoài Bắc, Học Lạc luôn được người Phương Nam – cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX – coi trọng và nhìn nhận là nhà thơ trào phúng ưu thời mẫn thế. Tài năng của đất Nam Kỳ lục tỉnh, với những tác phẩm xuất sắc kể thêm làm ví dụ, như bài “Ông làng hát bội” sau đây: “Chi chi trong khám sắp ngang hàng, Nghĩ lại thì ra các bợm làng Trong bụng trống trơn mang giữ cổ Trên đầu trọc lóc bít khăn ngang Vào buồng gọi tổ, châu đầu lạy Ra rạp rằng con, nịt nách mang Dám hỏi hàm ân người lớp trước Hay là một lũ những quân hoang?”.
Học Lạc và giọng cười trào phúng của người Nam Kỳ – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lan
1,238
Ấn bản The Great Gatsby có chữ ký của F Scott Fitzgerald được coi là vật phẩm "đinh" trong phiên đấu giá. Ảnh: CHRISTIE’S IMAGES LIMITED 2023. Được biết đến với vai trò tay trống của nhóm nhạc huyền thoại Rolling Stones, nhưng ngoài sân khấu, Charlie Watts là một nhà sưu tập văn học hiện đại cuồng nhiệt. Thư viện của Charlie Watts có hàng chục ấn bản văn học quý hiếm, bao gồm cả ấn bản đầu tiên cuốn The Great Gatsby có chữ ký của F Scott Fitzgerald và cuốn The Hound Of The Baskervilles có chữ ký của Arthur Conan Doyle. Hai năm sau khi Charlie Watts qua đời, một số tác phẩm quý đó sẽ được đem ra đấu giá. Ngoài ra, bộ sưu tập kỷ vật nhạc jazz của ông cũng được rao bán. Ấn bản The Great Gatsby có chữ ký của F Scott Fitzgerald được coi là tác phẩm quan trọng hàng đầu trong phiên đấu giá, với ước tính mang về khoảng 200.000-300.000 bảng Anh. Fitzgerald đã dành tặng cuốn sách này cho nhà biên kịch MGM Harold Goldman, người làm việc cùng ông trong bộ phim hài năm 1938 A Yank In Oxford . Dòng chữ tặng có nội dung: “Dành cho Harold Goldman, hình tượng ‘Gatsby’ gốc trong câu chuyện này. Cảm ơn vì đã để tôi tiết lộ những bí mật về quá khứ của anh ấy”. Nằm trong phiên đấu giá còn có bản in thử cuốn Brideshead Revisited của Evelyn Waugh. Cuốn sách này được tác giả gửi cho bạn bè để lấy ý kiến của họ vào năm 1944. Waugh sau đó đã thực hiện một số thay đổi khi ra mắt tác phẩm, bao gồm viết lại phần kết và thay đổi một số tên nhân vật. Một vật phẩm đáng chú ý khác là ấn bản đầu tiên của cuốn H ound Of The Baskervilles được tác giả Arthur Conan Doyle ký tên kèm dòng chữ: “Tôi đã đi lang thang ở Dartmoor trước khi viết cuốn sách này”, đề cập đến bối cảnh của cuốn sách. Những vật phẩm nổi bật khác bao gồm các ấn bản sách hiếm của Agatha Christie, PG Wodehouse và James Joyce. Watts sưu tầm sách là để thỏa mãn niềm đam mê văn học. Ảnh: Reuters. Paul Sexton, người viết cuốn tiểu sử về Watts, Charlie’s Good Tonight , nói: “Ông ấy rất vui khi sưu tập những tác phẩm này. Ông ấy coi trọng khoảng thời gian ở nhà nên thường đọc sách trên hành trình di chuyển. Văn học là một phần rất quan trọng trong cuộc sống của ông.” Paul chia sẻ thêm: “Tôi không nghĩ Watts sưu tập vì biết chúng sẽ trở nên có giá trị. Ông ấy chỉ đơn giản là muốn sở hữu những tác phẩm tuyệt vời này”. Nhà đấu giá Christie sẽ trưng bày những tác phẩm nổi bật này ở Los Angeles từ 25 – 29/7, New York từ 5 – 8/9 và London từ 20 – 27/9. Sau đó, chúng sẽ được bán đấu giá theo hai phiên: trực tiếp tại trụ sở của Christie ở London vào ngày 28/9 và trực tuyến từ ngày 15-29/9.
Đấu giá bộ sưu tập sách hiếm của thành viên Rolling Stones
512
Người Neanderthals có thể gặp thảm kịch bởi tác động đồng thời của siêu núi lửa và chính tổ tiên chúng ta - Ảnh đồ họa: Stephane De Sakutin. Người Neanderthals, họ hàng gần với Homo sapiens chúng ta, với thể chất và nhiều kỹ năng như siêu nhân, đã biến mất bí ẩn khoảng 40.000 năm trước. Sự tuyệt chủng bất ngờ của người Neanderthals là câu đố mà nhiều nhóm nghiên cứu khắp thế giới đã nỗ lực tìm kiếm những năm qua. Nghiên cứu mới dẫn đầu bởi giáo sư Benjamin Black từ Trường Đại học Rutgers ( Mỹ ) vừa đưa ra một kịch bản khả dĩ. Đó là “sát thủ” Campi Flegel, một siêu núi lửa gần TP Naples nước Ý, được các nhà địa chất chứng minh là có một lịch sử hoạt động đáng sợ. Trong chuỗi bằng chứng mới nhất, ngọn núi trải rộng trên bán kính 12-15 km ở miền Nam nước Ý này tiết lộ nó từng tạo ra một vụ phun trào thảm khốc khoảng 40.000 năm về trước, theo Live Science. Thời điểm đó trùng khớp với thời gian mà các nhà cổ nhân học ước tính người Neanderthals và châu Âu lục địa cũng chính là khu vực sinh sống chủ yếu của loài người cổ đại này. Nằm gần núi lửa Vesuvius gây ra thảm họa Pompeii gần 2.000 năm trước và đang có dấu hiệu hoạt động lại, Campi Flegel khiến người hiện đại cũng phải lo lắng. Vì vậy, đó là một thảm họa quá lớn mà những người cổ đại có thể ứng phó. Nhất là vụ phun trào 40.000 năm trước được xác định là vụ phun trào núi lửa khủng khiếp nhất châu Âu trong vòng 200.000 năm qua và là một trong những vụ bùng nổ lớn hàng đầu kể từ khi nhân loại bắt đầu xuất hiện trên Trái Đất. Mô hình của GS Black và các cộng sự cho thấy nhiệt độ sẽ giảm từ 2 đến 4 độ C ở châu Âu vào năm ngay sau vụ bùng nổ của Campi Flegel, đủ để gây ra một kỷ băng hà nhỏ – nhưng đột ngột và đủ dẫn đến hậu quả thảm khốc. Tuy các cộng đồng Neanderthals không ở đủ gần để hứng chịu thảm họa trực tiếp, nhưng biến đổi khí hậu từ thảm họa gián tiếp đủ gây hại nghiêm trọng cho họ trong bối cảnh phải cạnh tranh tài nguyên với người Homo sapiens đang tiến hóa vượt bậc và ngày một lan rộng. Bình luận về nghiên cứu, nhiều nhà khoa học cho rằng chưa thể nói Campi Flegel là sát thủ trực tiếp giết chết người Neanderthals, nhưng có thể góp phần như phát súng mở màn đẩy họ đến bờ vực tuyệt chủng. Người Neanderthals , qua các bằng chứng khảo cổ vài năm gần đây nhất, được chứng minh là một loài có thể chất và kỹ năng săn bắn vượt trội so với Homo sapiens chúng ta. Họ cũng có thể phát triển một số kỹ năng dệt sợi, rèn luyện công cụ tốt hơn tổ tiên trực tiếp của chúng ta trong cùng thời điểm. Mặc dù hôn phối dị chủng khá phổ biến, nhưng hai cộng đồng vẫn có sự cạnh tranh nhất định, nhất là khi môi trường trở nên khó sống. Người Neanderthals cũng ăn tạp nhưng không đa dạng như Homo sapiens, bởi có cơ thể “lực sĩ” và nhu cầu đạm cao. Họ cũng kém Homo sapiens trong một số kỹ năng liên quan đến tổ chức xã hội và thích nghi, do đó dễ thành kẻ thất bại trước sự hiệp đồng của thảm họa tự nhiên và sự cạnh tranh của giống loài được mệnh danh là “Người Tinh Khôn” chúng ta. Vì vậy, Campi Flegel có thể là “sát thủ” mở màn thảm kịch đối với người họ hàng “siêu nhân” này.
Tìm ra sát thủ khiến loài ‘siêu nhân’ não lớn hơn chúng ta biến mất
642
Cảng biển Hải Phòng sẽ được đẩy mạnh số hóa để phục vụ xuất nhập khẩu. Thành phố Hoa phượng đỏ được quy hoạch trở thành trung tâm logistics quốc tế hiện đại. Địa phương này cũng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực dịch vụ cảng biển và logistics. Mở rộng không gian phát triển khu kinh tế ven biển trên địa bàn thành phố… Thực hiện nhiệm vụ đẩy nhanh tiến độ lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch của từng địa phương, chiều 10/7/2023, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã trực tiếp chủ trì Hội nghị Thẩm định quy hoạch thành phố Hải Phòng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Báo cáo tại hội nghị, Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng Nguyễn Văn Tùng đã sơ bộ trình bày Quy hoạch với 3 đột phá phát triển cho Hải Phòng trong thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đột phá thứ nhất là cảng biển và logistics. Theo đó, xây dựng thành phố Hải Phòng trở thành trung tâm logistics quốc tế hiện đại. Xây dựng cảng cửa ngõ Lạch Huyện và cảng Nam Đồ Sơn thành cụm cảng cửa ngõ quốc tế có chức năng trung chuyển container. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực dịch vụ cảng biển và logistics. Mở rộng không gian phát triển khu kinh tế ven biển trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Đột phá thứ hai của Hải Phòng là chuyển đổi số toàn diện theo Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, phấn đấu đề Hải Phòng trở thành một trong những địa phương đi đầu cả nước về chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số, xã hội số và kinh tế số. Phát triển mạnh kinh tế số, trước hết là ba trụ cột kinh tế: công nghiệp công nghệ cao, cảng biển – logistics, du lịch – thương mại. Hình thành và phát triển môi trường số an toàn, tiện ích, phục vụ tối đa nhu cầu sản xuất, kinh doanh và đời sống của dân cư. Đột phá thứ ba là du lịch. Theo đó, quy hoạch nêu rõ mục tiêu xây dựng quần thể du lịch biển Hải Phòng (Cát Bà – Đồ Sơn) có sức hấp dẫn cao thu hút mạnh mẽ khách du lịch quốc tế và trong nước, phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mạnh của thành phố. Liên kết với các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là Quảng Ninh và các tỉnh Duyên hải Đông Bắc, trở thành trung tâm du lịch kết nối với khu vực và thế giới. Tầm nhìn đến năm 2050, Hải Phòng là thành phố cảng lớn trong khu vực và thế giới, thành phố hàng hải toàn cầu với ba trụ cột phát triển chính: dịch vụ cảng biển; công nghiệp xanh, thông minh, hiện đại và trung tâm du lịch biển quốc tế; có trình độ phát triển cao, môi trường sống tốt, thân thiện với tự nhiên và thích ứng với biến đổi khí hậu, ngang tầm với các thành phố cảng hàng đầu châu Á và thế giới. Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đánh giá cao thành phố Hải Phòng đã có nỗ lực đẩy nhanh tiến độ xây dựng và lập Quy hoạch, với những định hướng phát triển Khu Kinh tế mới; Khu Thương mại tự do… Đồng thời ông Nguyễn Chí Dũng cũng nhấn mạnh đây là cơ hội quý để Hải Phòng đánh giá lại quá trình phát triển, nhận diện rõ đâu là tiềm năng, đâu là điểm nghẽn, rào cản; xác định thời gian tới sẽ làm gì để tận dụng các cơ hội phát triển với tư duy mới, tầm nhìn mới. Theo đánh giá của đơn vị tư vấn lập quy hoạch, Hải Phòng hiện vẫn tồn tại 5 yếu điểm nếu không được khắc phục, sẽ rất khó bứt phá phát triển kinh tế biển nói riêng và toàn bộ kinh tế Hải Phòng nói chung. Đó là dịch vụ cảng còn manh mún trong tổ chức, không hình thành được hệ thống tổ chức logistics hiện đại và không giảm được chi phí logistics trên mỗi đơn vị hàng hóa; chậm triển khai 4 bến cảng Lạch Huyện. Đáng lo ngại nhất lả suốt hàng thập kỷ qua, hầu hết hoạt động vận tải biển đều do các công ty nước ngoài đảm nhận. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thủy vốn là một trong những thế mạnh của Hải Phòng, nhưng hiện gặp không ít khó khăn khi muốn phục hồi lại vị thế và vai trò cần có. Du lịch biển Hải Phòng cũng có thể coi là một khâu yếu nếu so sánh với một số tỉnh, thành phố ven biển khác như: Quảng Ninh , Huế , Đà Nẵng , Khánh Hòa , Bà Rịa – Vũng Tàu .
Hải Phòng được quy hoạch phát triển với 3 mũi đột phá nào?
839
Ảnh minh họa. Trong tiếng Việt, dãy số cơ sở được gọi tên là: Không, Một, Hai, Ba, Bốn, Năm, Sáu, Bảy, Tám, Chín. Đứng từ góc độ ngôn ngữ, số Hai là đơn vị có nhiều điểm đặc biệt hơn cả. 1. Có thể nói rằng, so với tất cả những đơn vị định danh chỉ số còn lại, số 2 trong tiếng Việt là đơn vị mang nhiều tên gọi nhất. Có tới 9 đơn vị ngôn ngữ có thể được sử dụng để biểu đạt về số 2, mỗi đơn vị lại mang theo nó những giá trị ngữ nghĩa và cách sử dụng đặc thù, cụ thể gồm có: Hai, Đôi, Nhị, Nhì, Lưỡng, Song, Thứ, Cặp, Đúp. “Hai” có thể xem là đơn vị ngôn ngữ mang tính điển mẫu cao nhất và phổ biến nhất, thông dụng nhất khi được dùng để biểu thị số 2. Sắc thái của nó được xem là trung tính, có thể diễn đạt về ý niệm số 2 trong nhiều hoàn cảnh, bối cảnh hơn cả. Trong Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học), “Hai” được định nghĩa là “số tiếp theo số một trong dãy số tự nhiên”. Trong thi ca, “Hai” được sử dụng trong những ngữ cảnh mang tính chất miêu tả thông thường, ít nhiều mang tính chất số học: Thủa còn thơ ngày hai buổi đến trường Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ Ai bảo chăn trâu là khổ Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao (Quê hương – Giang Nam) Trong diễn đạt về tình yêu đôi lứa, “Hai” được sử dụng trong những hoàn cảnh khi hai người vẫn còn có những khoảng cách, chia xa, chưa thực sự là của nhau, chưa thực sự hạnh phúc và viên mãn. Biểu đạt rất tinh tế này sẽ hoàn toàn khác nếu ta so sánh với sắc thái của “Đôi”: Đời hai ta, đời hai ta, gắn bó với hai sông Anh Vàm Cỏ Tây, em Vàm Cỏ Đông Mỗi tối chiều lên, chao sóng nước Bìm bịp kêu xao xác cả hai dòng (Thì thầm với dòng sông, thơ: Hoài Vũ, nhạc: Thuận Yến) Cùng mang gốc thuần Việt nhưng “Đôi” khác hẳn với “Hai”, thường được dùng để chỉ những “tập hợp gồm hai vật cùng loại, hai cá thể tương ứng với nhau và làm thành một đơn vị về mặt chức năng, công dụng hoặc sinh hoạt”. Trong đời sống thường ngày của người Việt, ta vẫn thường quen thuộc với những cách nói như: đôi đũa, đôi giày, đôi găng tay. Khi dùng “đôi” để biểu thị cho những mối quan hệ xã hội, sắc thái thân thiết, tình cảm được nổi hẳn lên, có thể thấy điều này qua các diễn đạt như: đôi bạn, đẹp đôi, đôi lứa. Trong thi ca, khi diễn đạt về tình yêu nam nữ, “đôi” rõ ràng thể hiện một sự khăng khít, gắn bó bền chặt hơn nhiều so với “hai”: Đôi ta như thể con ong Con quấn con quýt con trong con ngoài (Ca dao) “Đôi” đi vào tên gọi của những tác phẩm văn học nổi tiếng như “Đôi lứa xứng đôi” của Nam Cao; tiểu thuyết lãng mạn “Đôi bạn” của nhà văn Nhất Linh. Hai đơn vị thuần Việt còn lại biểu thị số 2 là “Thứ” và “Cặp”. Thứ được dùng để biểu thị số 2 chủ yếu trong bối cảnh gia đình, khi nói về vợ và con. Vợ thứ được xem là người vợ lấy lần hai, trong mối tương quan với người vợ cả (lấy lần đầu). Tương tự như vậy, con thứ là khái niệm dùng để chỉ người con sinh ra thứ hai, sau con trưởng. Tiếng Việt vì thế còn có các từ “trưởng nam” và “thứ nam”. Trong học tập, thi cử và xếp hạng của người xưa, tiếng Việt cũng có cách diễn đạt “đỗ hạng thứ”. “Cặp” so với “Đôi” có nhiều biểu hiện tương đồng về ngữ nghĩa, cũng dùng để chỉ “tập hợp gồm hai cá thể, hai vật cùng loại đi đôi với nhau thành như một thể thống nhất”. Ta vẫn thường nghe người ta nói: cặp môi, cặp mắt, cặp vợ chồng. Thậm chí, “cặp” là danh từ chỉ đồ vật với ý nghĩa “hai thanh cứng để kẹp đồ vật và giữ chặt lại” cũng xuất phát từ “cặp” với ý nghĩa chỉ số 2. Có một biểu hiện khác biệt rất tinh tế của “cặp” so với “đôi”. Đó là tính khăng khít, bền chặt và bất khả ly của “đôi” rõ ràng cao hơn so với “cặp”. Vì thế, khi nghe người ta nói: “Chúng nó đang cặp với nhau” thì cũng có một ngụ ý rằng, hai người đó chỉ mới có quan hệ tình cảm với nhau thôi và chưa hứa hẹn điều gì lâu dài cả, có lẽ có thể chia tay bất cứ lúc nào. Nhưng nếu vẫn là hai cá thể ấy nhưng được diễn đạt bởi câu: “Chúng nó là một đôi” thì hình như mức độ bền chặt cao hơn, mang đến cho người nghe niềm tin sâu sắc hơn về tính nghiêm túc, có ý thức trách nhiệm của hai cá thể này. 2. Chuyển qua những đơn vị ngôn ngữ biểu thị số 2 mang nguồn gốc vay mượn, ta có bốn đơn vị vay mượn từ tiếng Hán là nhị, nhì, lưỡng, song. “Nhị” là đơn vị biểu thị số thứ tự một cách khách quan, tương đương về giá trị ngữ nghĩa cơ bản nếu ta so với “hai”. “Nhị” tham gia cấu tạo một số đơn vị từ ngữ trong tiếng Việt như nhị diện, nhị hỉ, nhị nguyên, nhị phân . Nhị cũng được dùng để chỉ tên một loại nhạc cụ dân tộc gồm hai dây. Nhị cũng đi vào thành ngữ qua đơn vị “độc nhất vô nhị”. “Nhì” được xem là một biến âm của “nhị”, chủ yếu được dùng trong cách diễn đạt với ý nghĩa xếp hạng, chẳng hạn “về nhì”, “thứ nhì”. So với Nhị, Nhì đi vào nhiều thành ngữ của người Việt hơn: Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống Thứ nhất cày nỏ, thứ nhì bỏ phân “Lưỡng” và “Song” cũng đều biểu thị ý niệm số 2, cùng đi vào tham gia cấu tạo một loạt những từ ngữ quen thuộc được sử dụng trong tiếng Việt. Về “lưỡng”, ta có các đơn vị thông dụng như: lưỡng chiết, lưỡng cư, lưỡng lự, lưỡng phân, lưỡng quyền (hai gò má), lưỡng thê . Về “song”, ta có các đơn vị thông dụng như: song hỉ, song kiếm, song hành, song ngữ, song phương, song sinh, song song, song tấu, song thai, song thân, song thất lục bát, song tiết, song toàn . Đơn vị cuối cùng biểu thị số 2 có nguồn gốc từ tiếng Anh, chữ “đúp” trong tiếng Việt hiện nay vốn bắt nguồn từ chữ “double”. Chữ “đúp” hiện nay chỉ được sử dụng trong một vài tổ hợp mà có lẽ tiêu biểu nhất là “cú đúp”, thường dùng để chỉ việc cầu thủ ghi được hai bàn thắng trong một trận bóng, hoặc một vận động viên hai lần lập công trong một trận đấu thể thao nói chung. Ngoài ra, người Việt cũng sử dụng “đúp” trong trường hợp học sinh phải học lại hai lần một cấp độ nào đó, chẳng hạn, “nó bị đúp lớp hai”, “học đúp”. 3. Trở lại với định danh điển mẫu và thông dụng nhất là Hai, ngoài giá trị số học như những đơn vị khác, Hai còn tham gia vào những đơn vị ngôn ngữ biểu hiện những ý nghĩa tâm lý – văn hóa. Trong tiếng Việt, ta thấy có sự hoạt động của một loạt đơn vị như: hai mang, hai lòng, hai mặt mang sắc thái tiêu cực, nhằm phê phán sự không chung thủy, tráo trở, lật lọng, phản bội của con người. Cũng diện đạt về mặt biểu hiện tâm lý nhưng có sắc thái trung tính hơn là “nước đôi”. Ta vẫn thường nghe nhiều nhà nghiên cứu văn hóa nói về “tâm lý nước đôi” trong ứng xử của người Việt, chẳng hạn vừa trọng lý vừa trọng tình, vừa thích tiền vừa chê tiền… Tìm hiểu về số 2 và những biểu hiện của nó trong ngôn ngữ, ta thấy được sự phong phú, sống động, linh hoạt và giàu sức biểu cảm, sáng tạo của người Việt./.
Phiếm luận về số 2 – Tác giả: TS. Đỗ Anh Vũ
1,402
Ảnh: minh họa. Tổ chức Khí tượng thế giới cảnh báo, 1/3 số quốc gia trên thế giới đang thiếu nước và đến năm 2025, con số này sẽ là 2/3 với khoảng 35% dân số thế giới sẽ rơi vào tình cảnh thiếu nước nghiêm trọng. Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, tài nguyên nước (TNN) nước ta tuy phong phú, song phụ thuộc lớn vào nguồn cấp ngoài biên giới. Bởi, hơn 2/3 lượng nước trên các hệ thống sông của Việt Nam được hình thành từ ngoài lãnh thổ, trong khi cơ chế, chính sách hợp tác, chia sẻ nguồn nước giữa các quốc gia chưa hiệu quả. Đáng lo ngại là tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước vẫn tiếp tục gia tăng, trong khi cơ chế kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm, ngăn chặn phá rừng chưa hiệu quả, cộng với tác động của biến đổi khí hậu đến TNN đang ngày càng rõ rệt hơn. Thời tiết, thiên tai cực đoan, nhất là nắng nóng, hạn hán và xâm nhập mặn, thiếu nước ngọt ngày càng gia tăng cả về mức độ nghiêm trọng và phạm vi ảnh hưởng khiến nước ta đang phải đối mặt với những thách thức lớn liên quan đến bảo vệ, giữ gìn TNN. Dự báo, dân số Việt Nam sẽ ở mức 120 triệu người trong vòng 2-3 thập kỷ tới. Sự gia tăng dân số và yêu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống sẽ cần nhiều nước hơn cho sản xuất và dân sinh. Nếu không có giải pháp quản lý hiệu quả TNN quốc gia, thiếu nước sẽ là vấn đề nghiêm trọng đe dọa quá trình phát triển bền vững và gây thiệt hại nặng nề đến sản xuất và đời sống. Nhiều chuyên gia cảnh báo, chúng ta đang sử dụng nước lãng phí, kém hiệu quả. Tính về hiệu suất, giá trị khai thác, sử dụng nước của Việt Nam vào khoảng 2,37 USD/m3, chỉ bằng 12% so với mặt bằng thế giới (19 USD/m3). Nguyên do từ việc quản lý nguồn nước đang chồng chéo. Đơn cử, một con sông chịu sự quản lý của các Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công thương, Giao thông Vận tải… Đây cũng là lý do khiến các thủ tục hành chính, văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc khai thác, sử dụng nước chưa thống nhất. Chính vì chưa phân định rõ chức năng quản lý nhà nước, việc chỉ đạo chồng chéo, thậm chí còn trái ngược nhau dẫn đến TNN trong tình trạng “cha chung không ai khóc”. Các cấp chính quyền buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về môi trường, nguồn nước, gây khó cho người dân, doanh nghiệp khi tham gia khai thác nguồn nước. Cùng với đó, tình trạng ô nhiễm nguồn nước chưa được giải quyết triệt để đã làm suy giảm chất lượng nước khi chỉ có 15% lượng nước thải ra môi trường được xử lý. Theo các chuyên gia, vấn đề cấp bách trong công tác bảo vệ TNN, bảo đảm an ninh nguồn nước là nhanh chóng sửa đổi hệ thống pháp luật về TNN, đồng thời tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật, chính sách quản lý, khai thác, sử dụng nước một cách bền vững. Trong đó, Chính phủ sớm phê duyệt quy hoạch TNN quốc gia, hoàn thiện hệ thống giám sát TNN, hoạt động khai thác, sử dụng nước; phân định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý nguồn nước, bảo vệ TNN và kiểm tra, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng nước. Để khai thác tối đa nguồn lực TNN, Nhà nước cần có chính sách phù hợp để khuyến khích nghiên cứu, đầu tư vào lĩnh vực này; ứng dụng công nghệ số trong quản trị, điều hành nguồn nước, chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế thông qua các chính sách về giá nước, thuế, phí cấp quyền khai thác TNN… Điều quan trọng nhất là mỗi người dân cần thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ, quản lý, sử dụng nguồn nước. Không chỉ sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, mà mỗi người còn là một giám sát viên bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước và hướng tới cuộc sống xanh.
Quản lý bền vững tài nguyên nước
752
Đại đức Thích Đồng Đạo. Bao thế hệ người Việt Nam ta luôn tự tôn và hãnh diện là con Rồng cháu Tiên. Nó thể hiện dân tộc Việt có từ thời xa xưa đến nỗi không thể lấy một mốc thời gian nào để tính được cả. Người ta chỉ nói thời xưa, xưa rất là xưa. Rồi chúng ta tự hào là con cháu của loài rồng, loài cao quý, tượng trưng cho uy quyền, sức mạnh, hạnh phúc và đầy đủ. Nước Việt ta có bề dày lịch sử sánh ngang với nhiều quốc gia có nền văn minh sớm mà chúng ta cũng tìm thấy nhiều cổ vật ở khắp nơi trên mảnh đất quen biển này. Nhưng điều đáng buồn là chúng ta cứ mãi tự hào, mãi hãnh diện với những cái khẩu hiệu cao quý ở sâu thẳm của ý thức trong khi lịch sử của nước nhà vẫn còn là một thách thức lớn cho nhiều thế hệ. Bởi lẽ cho đến nay chúng ta chưa có một bộ sử nào hoàn thiện để xứng đáng với bề dày lịch sử và niềm tự hào của dân tộc. Chính sử còn thiếu như thế thì nói gì đến nền văn học trung và cổ của nước nhà. Nói như thế không có nghĩa chúng ta bi quan hay thờ ơ với mảng tri thức này. Thời gian gần đây chúng ta cũng lấy làm vui khi có một số nhà văn, nhà sử học tích cực nghiên cứu và sáng tác những tác phẩm liên quan đến lịch sử dưới dạng tiểu thuyết lịch sử. Một trong những tác giả mà chúng tôi muốn nói đến là nhà văn Phùng Văn Khai , người đã âm thầm cống hiến và gửi sự kính trọng đối với các bậc anh hùng hào kiệt, những vị đứng đầu các vương triều xuyên suốt nhiều niên kỷ, những cuộc chiến giành lại nền độc lập từ phương Bắc đầy gian khó và rất dũng mãnh của những tướng soái phương Nam. Tất cả chí khí, sự hào hiệp, trượng nghĩa và yêu thương dân tộc của những bậc quân vương đều được miêu tả sâu sắc và tinh tế dưới ngòi bút của nhà văn Phùng Văn Khai, làm sáng lên một góc lịch sử của nước nhà. Mảng văn học tiểu thuyết lịch sử là một mảng tri thức rất khó viết và gặp nhiều khó khăn nhất định. Như chúng ta thấy, mỗi năm, Khoa Văn học và Báo chí, cả khoa Sử nữa có hàng nghìn sinh viên ra trường nhưng rất ít và rất hiếm có một sinh viên nào dám đầu tư tâm huyết vào lĩnh vực này. Bởi lẽ lĩnh vực này đòi hỏi nhiều điều kiện khách quan, nhiều tố chất chủ quan và nhiều thách thức lớn mà người viết phải có trước khi cầm bút bước vào ngôi đền văn học lịch sử này. Đại đức Thích Đồng Đạo (thứ nhất bìa trái) tại tọa đàm giới thiệu tác phẩm “Nam Đế Vạn Xuân” và “Triệu Vương Phục Quốc” của Nhà văn Phùng Văn Khai. Khó khăn thứ nhất : Nguồn tư liệu chính sử. Hiện tại nguồn tài liệu chính sử nước ta khá khiêm tốn nếu không muốn nói là quá ít ỏi, nghèo nàn thông tin. Bởi lẽ thời xa xưa dân tộc ta chỉ có tiếng nói mà không có chữ viết, tất cả những tinh hoa trí tuệ từ các lĩnh vực quân sự cho đến kiến trúc nghệ thuật của dân tộc, các kỹ thuật của những ngành nghề cổ truyền … Những kinh nghiệm quý giá đó dường như chỉ được truyền miệng từ thế hệ này đến thế hệ khác. Cho đến khi chúng ta vay mượn chữ viết của người Tàu mà đọc âm Việt nên gọi là Hán Việt. Dù có chữ viết rồi nhưng các triều đại nước ta dường như không quan tâm về lịch sử của triều đại mình nên họ không cử người biên niên sử để lại, khác với Trung Quốc xưa. Người Tàu rất đặc biệt:Mỗi triều đại nắm quyền họ luôn có sắc lệnh tìm người viết sử của triều đại đó, chẳng những sử của vương triều mà họ còn có sửở trong dân chúng. Nhiều nhà tri thức phong kiến cũng viết lại sử của triều đại đó với cái nhìn khách quan hơn, hoàn thiện hơn so với sử của vương triều. Bên cạnh đó họ còn có nhiều nhà văn viết sử dưới dạng tiểu thuyết, nhiều tác phẩm của họ rất có giá trị và nổi tiếng. Nó đánh dấu trí tuệ tinh hoa dân tộc họ; nó nói lên tư tưởng triết học lẫn nhân sinh học, tôn giáo học; nó làm tăng thêm giá trị văn học. Ví dụ như vào thế kỷ thứIII, tác giả Trần Thọ đã viết bộ “Tam quốc chí”, một tác phẩm chính sử. Đến thế kỷ XIV, La Quán Trung viết bộ “Tam quốc diễn nghĩa” dưới dạng tiểu thuyết lịch sử… hay “Tây du ký” của Ngô Thừa Ân mang tính nhân sinh và triết học tôn giáo rất cao. Như vậy nguồn tư liệu của họ khá phong phú và tính chính xác khá cao, trong khi nước ta chỉ có một quyển sử được gọi là có giá trị nhất thời phong kiến là “Hoàng Lê nhất thống chí” viết vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Nhưng tác phẩm này viết khá cô đọng và thậm chí nhiều thông tin về niên đại các triều đại không chính xác. Đây là thách thức và khó khăn đầu tiên mà người muốn viết sử và tiểu thuyết lịch sử phải đối diện. Khó khăn thứ hai : Mất nhiều thời gian và công sức. Vì sử liệu ít nên người muốn viết sử phải có sự kiên nhẫn, kiên trì để sưu tầm dựa trên các văn kiện như văn bia, thơ, phú… ở các đền thờ hay ở những ngôi chùa cổ ở nhiều nơi; phải có điều kiện và phương tiện, thời gian lẫn khả năng đọc hiểu những văn bia bằng chữ Hán đó, điều này có nghĩa là họ phải học thêm Hán ngữ và nghiên cứu rất nhiều năm. Sau đó mới xử lý tư liệu và sắp xếp lại cho có hệ thống, thứ tự niên đại khớp với sự kiện của từng nhân vật trong tác phẩm đó. Điều này quả thật là một cuộc hành trình tốn rất nhiều thời gian và công sức. Nếu không có tâm huyết lẫn sự đam mê thì khó bền chí trên hành trình này. Không ít nhà văn, nhà sử học bước chân vào con đường này nhưng không đi đến đích, không thể tạo nên những tác phẩm lịch sử nào cả. Họ bỏ cuộc vì có nhiều khoảng trống lịch sử, không có tư liệu để lấp cho đủ và hợp lý được. Thậm chí họ bị bít lối khi không tìm đủ thông tin cần thiết để đi tiếp cuộc hành trình đó. Khó khăn thứ 3: Sự đón nhận của công chúng. Để có một tác phẩm vừa mang tính lịch sử và tính văn học ra đời thì tác giả phải trải qua nhiều chướng ngại như thế.Nhưng để tác phẩm này nhận được sự ủng hộ của công chúng thì là một vấn đề không dễ gì làm được. Phần lớn người Việt Nam ta ít có văn hoá đọc sách, nói đúng hơn là lười đọc sách, mà sách sử thì lại càng khó thu hút giới trẻ. Chiếc điện thoại công nghệ dường như thay thế cho việc cầm quyển sách trên tay họ. Hiểu được điều này, có lần tôi và nhà văn Phùng Văn Khai nói chuyện nhau tại Văn phòng tạp chí Văn nghệ quân đội số 4 Lý Nam Đế, quận Hoàn Kiếm. Anh Khai nói rằng “Trong suy nghĩ của tôi, thầy Đạo à! Tôi thấy người Trung Quốc họ có nhiều thước phim hay, nhiều người Việt Nam mình biết sử Trung Quốc nhiều hơn sử Việt mà thực tế là họ có đọc sách sử Trung Quốc đâu. Vì họ xem nhiều phim sử của người Trung Quốc. Phim là công cụ đưa thẳng và trực tiếp vào tri thức của con người nhanh nhất và hiệu quả nhất, nên tôi mong muốn đất nước mình cũng phải truyền bá lịch sử dân tộc qua các bộ phim, mà tiểu thuyết lịch sử là một điều kiện cần để đóng thành phim. Nhưng tôi thấy khó quá, nguồn kinh phí không có để đóng phim, chưa nói là cần một đạo diễn có tầm để truyền tải những giá trị lịch sử hào hùng của dân tộc.” Tôi nghe xong cái tư duy và tâm sự tích cực của anh Khai mà cảm thông cho anh Khai vô cùng. Anh Khai không phải cần danh dự cho mình mà anh muốn mang cái tự tôn dân tộc của anh, của mọi người gửi vào những trang tiểu thuyết lịch sử, để cho các thế hệ sau thấy được trí tuệ và tinh hoa của dân tộc mình, để cho thế giới họ thấy dân tộc Việt tự cường và giỏi giang thế nào. Trên thực tế, để đóng được phim thì cần có nhiều nhân tố và điều kiện. Ngoài kinh phí và nhân sự ra thì còn phải có một tác phẩm nghiên cứu về trang phục, cổ trang song song với các triều đại và văn hoá các thời kỳ lịch sử đó. Lĩnh vực này dường như chưa có tác phẩm nghiên cứu nào sâu sắc và cụ thể cả. Hi vọng là sẽ có một tác phẩm về lĩnh vực này để đóng góp vào nền sử học nước nhà trong vài năm tới. Đại đức Thích Đồng Đạo (thứ hai bìa phải) tại tọa đàm giới thiệu tác phẩm “Nam Đế Vạn Xuân” và “Triệu Vương Phục Quốc” của Nhà văn Phùng Văn Khai. Bên cạnh những khó khăn trên, chúng tôi cũng muốn đề cập đến khó khăn từ nhận thức xã hội. Trong ngày lễ ra mắt tác phẩm “Nam Đế Vạn Xuân” và “Triệu Vương Phục Quốc” của anh Khai tại trường Đại học Văn hoá Hà Nội, anh Khai có nói đến vấn đề e dè cấp phép của Nhà xuất bản: Họ còn e dè về những tác phẩm mang tích chất tiểu thuyết; họ e dè tính chính xác lịch sử vì có nhiều đoạn trong tác phẩm được thêm thắt từ trí tưởng tượng của tác giả. Trên thực tế, những tác phẩm văn học lịch sử không phải là sự rập khuôn như chính sử mà nó là một sản phẩm tri thức sâu sắc của tác giả nên người viết họ có quyền tưởng tượng hoặc thêm thắt vài sự kiện để tác phẩm đó thêm thu hút và hấp dẫn. Nhưng điều quan trọng là họ không đánh mất độ chính xác các niên đại, tên các nhân vật và cốt truyện chính của sử. Điều này dường như nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử nào cũng nắm rõ. Chúng ta nhìn lại văn học Trung Quốc lẫn văn học Trung đại Ai Cập và cả văn học sử của người Cao Ly xưa. Nhiều nhà văn vẫn có những tác phẩm ngoại truyện rất ấn tượng và nỗi tiếng, thậm chí nó nổi tiếng còn hơn cả chính sử. Ví dụ: Bộ “Hán Sở tranh hùng”; “Thuỷ hử”, đặc biệt là với tác phẩm “Tam quốc diễn nghĩa”, ông La Quán Trung tự hình thành đặc tính tiêu biểu, rõ ràng về quan điểm chính trị của ba nhân vật của ba nước. Nó miêu tả khí chất và triết học nho gia rất cao; đề cao cái trung, nghĩa, trí và tín của người làm tướng và làm vương. Ông sáng tạo những trận đánh trí tuệ và chiến thuật qua cách bày binh bố trận của các trận đồ mà điều này không được đề cập trong chính sử “Tam quốc chí” của Trần Thọ. Nhưng tác phẩm “Tam quốc diễn nghĩa” nổi tiếng hơn rất nhiều so với tác phẩm “Tam quốc chí”. Chẳng những thế mà mới đây, tác giả Mã Bá Dung đã viết tác phẩm mới tên là “Tam quốc cơ mật”. Chính tác giả đã tưởng tượng thêm một nhân vật Lưu Bình thay thế Hán Hiến Đế – Lưu Hiệp. Tất nhiên điều này không có trong chính sử. Nhưng khi tác phẩm này được đóng thành phim năm 2018, thì nó được công chúng rất thích và rất thành công. Như vậy người xưa họ dám vượt rào, người thời nay cũng dám vượt các khuôn khổ của sử để có những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử để đời. Vậy tại sao chúng ta còn e dè những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử mà những nhà văn đã dày tâm huyết đối với mảng lịch sử văn học này? Nếu người xưa họ cũng e dè thì làm gì có tác phẩm “Thuỷ hử” hoặc “Tam quốc diễn nghĩa” đến ngày hôm nay? Nếu chúng ta e dè đón nhận thì điều này thêm một khó khăn nhất định cho người cầm bút:Nó làm cho những người có tâm huyết vào lĩnh vực này e ngại. Điều này khiến nguồn văn học sử của chúng ta càng thêm nghèo nàn và hạn chế. Một khó khăn khác: Trong thời buổi hiện tại, ai cũng lo cơm áo, gạo tiền, lo mưu sinh cả. Những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử này mặc dù mất rất nhiều công sức và khó khăn nhưng mà thật sự khó sống với lĩnh vực này. Bởi vì chúng ta đã nói đến văn hoá đọc sách rất ít cộng với lĩnh vực về sử thì lại càng ít người tìm đọc trừ những người có sự đam mê về sử học. Điều đó có nghĩa là những nhà văn khó mưu sinh trên mảng văn học sử này. Ở nước ngoài, đặc biệt là ở Châu Âu, sách là thức ăn nuôi tâm thức hàng ngày song song với thức ăn nuôi thân thể, nên người viết sách có một nguồn kinh tế đủ để trang trải cuộc sống. Với nước ta quả là một chướng ngại lớn cho người cầm bút nếu nghĩ đến cơm áo gạo tiền cho gia đình. Theo góp ý thiển cận của tôi: Để nâng cao giá trị một tác phẩm và xây dựng văn hoá đọc sách thì nên có một cơ chế ưu tiên trên các kênh truyền hình, các thông tin báo chí quần chúng về những tác phẩm văn học và sử học cũng như tuyên truyền hình ảnh đẹp về những người đọc sách, kích thích thế hệ trẻ tiếp cận với tri thức từ sách và hạn chế sử dụng điện thoại công nghệ. Như thế mới phát triển được một xã hội văn minh và tri thức hơn. Đây cũng là cách để khích lệ những người cầm bút thêm nhiệt huyết với lĩnh vực này. Để có những trang sử hay và chính xác hơn nữa đối với văn học sử của Việt Nam thì tôi nghĩ rằng, các nhà văn nên nghiên cứu thêm về lịch sử Phật giáo Việt Nam. Vì sử nước nhà song hành với sử Phật giáo. Phần lớn các vị quân vương nước ta lên ngôi và trị vì thiên hạ đều có mối liên hệ mật thiết với Phật giáo qua các thiền sư. Cũng dễ hiểu thôi. Vì thời xa xưa đó chữ Hán rất khó học vì đọc âm Việt, nhưng viết chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt nên nó hạn chế người học vô cùng. Vì thế thời xưa có khoản 70-80% dân tộc ta là không biết chữ. Phần lớn người biết chữ uyên thâm nhất là những nhà sư, những vị quân vương, quan lại của triều đình và những ông thầy đồ. Số lượng này không nhiều trong xã hội. Khi vương triều nào đó mất đi, thì các thiền sư vừa đảm nhiệm vai trò giữ đạo, giữ nước và giữ nguồn tri thức cho dân tộc nên phần lớn các vị quân vương đều nhờ sự giáo dưỡng rất lớn của các thiền sư mà điển hình nhất là Lý Bí, Lý Công Uẩn… Hơn nữa làng mạc ngày xưa của chúng ta gắn liền với nếp sống đình, chùa. Kiến trúc nghệ thuật của dân tộc còn lại đều được lưu dấu tốt nhất ở những ngôi chùa xưa đó. Thứ nữa, khi chúng ta nghiên cứu thêm về lịch sử Phật giáo, nó giúp cho nhà văn dùng từ ngữ và các di tích liên quan đến Phật giáo và lịch sử dân tộc đúng đắn và hay hơn rất nhiều. Hiện tại, chúng ta có nhiều tác phẩm liên quan đến lịch sử Phật giáo của tác giả Lê Mạnh Thát là nguồn tư liệu rất tốt để tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo và lịch sử nước nhà. Có thể nói, việc viết văn học sử và cả việc muốn lịch sử nước nhà đi vào lòng người để con em chúng ta hiểu được sử dân tộc là một quá trình dài của nhà văn và những người có chức trách. Nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng những nhà văn nào bước vào ngôi đền tiểu thuyết lịch sử là những chiến binh kiên cường và hi sinh thật sự. Với tôi, nhà văn Phùng Văn Khai đã dành trọn nhiệt huyết, vượt qua những cái chướng ngại ở trên để có bảy tác phẩm tiểu thuyết lịch sử dày đến 400 – 600 trang trong khi tuổi đời còn khá trẻ thì quả là một điều rất đáng tôn trọng lẫn ngưỡng mộ. Dĩ nhiên sẽ có người đặt câu hỏi “Các tác phẩm đó có hay không?”. Nó hay hay không thì chỉ có chính chúng ta cầm sách lên đọc mới hiểu được, mới cảm nhận chính xác cảm xúc của mình chứ không thể nghe bình luận, quan điểm của một ai khác. Riêng cá nhân tôi, tôi luôn dành sự tôn trọng và trân quý sự nhiệt huyết, dám làm và tài năng của anh Khai khi đã ngồi trong ngôi đền tiểu thuyết lịch sử rồi.
Người đi cùng văn học sử nước nhà – Tác giả: Đại đức Thích Đồng Đạo
3,092
Triển lãm trưng bày tổng thể 67 tác phẩm, trong đó có 38 tác phẩm tạo hình và 29 tranh dân gian Hàng Trống. Triển lãm ‘Đối thoại với dòng tranh dân gian Hàng Trống’ đang diễn ra tại Văn miếu Quốc Tử Giám ( Hà Nội ) đến hết tháng 7/2023. Tranh Hàng Trống với giá trị thẩm mỹ và văn hóa đã được khẳng định từ xa xưa, nhưng vẫn luôn tiềm ẩn giá trị mới khi đặt và đối sánh trong bối cảnh đương đại. Trước khi để công chúng khám phá các giá trị mới, nhóm nghệ sĩ trẻ đã tìm tòi các tương tác bối cảnh khi thực hiện dự án “Từ truyền thống tới truyền thống” để cho ra mắt triển lãm “Đối thoại với dòng tranh dân gian Hàng Trống” đang diễn ra tại Văn miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) đến hết tháng 7/2023. Theo giám tuyển – họa sĩ Nguyễn Thế Sơn, trải qua 3 năm khi dự án “Từ truyền thống tới truyền thống” được khởi xướng và thực hiện từ năm 2020, tới nay đã diễn ra được các phiên bản triển lãm tương tác với các không gian trưng bày mang nhiều yếu tố di sản truyền thống. Với phiên bản đầu tiên được thực hiện và giới thiệu tại đình Nam Hương (75 Hàng Trống) vào năm 2020, tiếp đó tới dự án “Tranh Hàng Trống” năm 2021, dự án “Hổ dạo Phố” năm 2022, “Hồn nhiên như cô Tiên” năm 2022 tại Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật 22 Hàng Buồm, “Mơ Tiên” năm 2023 tại đình Nam Hương, “Đối thoại với dòng tranh dân gian Hàng Trống” tại Trung tâm giao lưu văn hóa Phố Cổ (50 Đào Duy Từ). Lần này dự án tiếp tục chu du tới không gian tiền đường nhà Thái Học của Di tích Văn miếu Quốc Tử Giám. Với rất nhiều các phiên bản mở rộng trong suốt 3 năm qua, nhóm nghệ sĩ do giám tuyển Nguyễn Thế Sơn hướng dẫn đã cố gắng khám phá các giá trị nghệ thuật của di sản tranh Hàng Trống nói riêng, cũng như các giá trị văn hóa truyền thống khác của dân tộc. “Dự án đã mang tới sự khích lệ cho những sáng tạo cá nhân của các họa sĩ trẻ thông qua việc học hỏi nghiên cứu tìm hiểu từ tri thức tới các kỹ thuật truyền thống của dòng tranh Hàng Trống. Từ những chia sẻ của nghệ nhân Lê Đình Nghiên cho tới những buổi điền dã nghiên cứu tại Bảo tàng Mỹ thuật cũng như mỗi ngôi đình cổ, đã mở ra những ý tưởng sáng tạo mới trong việc sáng tác các tác phẩm tạo hình từ những chất liệu hội họa truyền thống như sơn mài, lụa, giấy dó, sơn dầu… cho tới những chất liệu và hình thức thể hiện mới như đồ họa kỹ thuật số, thiết kế, sắp đặt”, Giám tuyển Nguyễn Thế Sơn cho hay. Những không gian kiến trúc mang đậm yếu tố truyền thống trong mỗi lần nhóm nghệ sĩ tiến hành dự án và trưng bày triển lãm như đình Nam Hương, Hội quán Quảng Đông hay như không gian tiền đường nhà Thái Học của Văn miếu Quốc Tử Giám cũng chính là nguồn cảm hứng cho các nghệ sĩ trong sáng tác và trưng bày tác phẩm tương tác với không gian, hướng các tác phẩm có sự cộng hưởng của yếu tố nơi chốn. Chính điều này đã tạo nên sự khác biệt trong mỗi phiên bản trưng bày, làm tăng thêm sức hút của nơi chốn theo hướng tương tác với không gian và ngữ cảnh. Giám tuyển Nguyễn Thế Sơn và nhóm nghệ sĩ trẻ cũng hi vọng trưng bày tại Văn miếu Quốc Tử Giám lần này, cùng với những tác phẩm tranh Hàng Trống trong bộ sưu tập của nhà sưu tập Nguyễn Quang Trung sẽ giúp thúc đẩy nhiều năng lượng sáng tác cho các họa sĩ trẻ – khi lấy cảm hứng sáng tác từ văn hóa truyền thống và bản địa, thúc đẩy tình yêu và sự quan tâm của giới sưu tập và công chúng. Không gian sắp đặt đối lập trong triển lãm ‘Đối thoại với dòng tranh dân gian Hàng Trống’. Trong không gian tiền đường nhà Thái Học của di tích Văn miếu Quốc Tử Giám, triển lãm “Đối thoại với dòng tranh dân gian Hàng Trống” trưng bày 67 tác phẩm đặc sắc với 38 tác phẩm tạo hình được thực hiện trên các chất liệu lụa, sơn mài, giấy dó, sơn dầu và 29 tranh dân gian Hàng Trống trên chất liệu giấy dó. Nội dung các tác phẩm phản ánh những nét đặc sắc trong đời sống sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của người Việt. Những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc của dòng tranh này không chỉ gắn bó với đời sống sinh hoạt của người dân Việt Nam, mà còn gây ấn tượng sâu sắc với công chúng thế giới. Vì vậy, triển lãm mong muốn quảng bá hơn nữa nét đẹp của dòng tranh độc đáo này đến đông đảo người yêu mến nghệ thuật truyền thống, đặc biệt là thế hệ trẻ và du khách quốc tế. Ông Lê Xuân Kiêu – Giám đốc Trung tâm Hoạt động Văn hóa Khoa học Văn miếu Quốc Tử Giám – cho biết: “Triển lãm được hình thành dựa trên những nỗ lực không ngừng của các nghệ nhân, họa sĩ trong hành trình gìn giữ, phát huy giá trị di sản trong đời sống đương đại. Triển lãm cũng là động lực cho những sáng tạo mang dấu ấn cá nhân, góp phần thúc đẩy thế hệ trẻ ngày nay học hỏi kế thừa tinh hoa nghệ thuật truyền thống của cha ông”. Người trẻ tham quan triển lãm chứng tỏ sự quan tâm đến các giá trị truyền thống. Các tác phẩm được sắp đặt theo từng cặp, một bên là tác phẩm gốc của nghệ nhân Lê Đình Nghiên và một bên là tác phẩm đương đại, lấy cảm hứng từ tác phẩm gốc. Cách trưng bày này tạo ra một cuộc đối thoại giữa truyền thống và đương đại, giữa cái cũ và cái mới để tác phẩm tự đối thoại với nhau, và để công chúng tự đối thoại với những điều cũ – mới. Sắp đặt triển lãm theo cách đối thoại với tác phẩm không phải là mới trong hoạt động trưng bày nghệ thuật. Tuy nhiên, sắp đặt tương tác theo lối đối lập để đối thoại từ các tác phẩm truyền thống – đương đại một cách rõ ràng như trong triển lãm này là điều hiếm gặp. Trong cái cũ, người xem thấy tiếc nuối các giá trị truyền thống đã bị phai tàn. Trong cái mới, công chúng thấy các giá trị một thời vang bóng hiển hiện. Cái cũ như cố níu kéo hiện đại hãy trở về với quá khứ. Trong khi đó, cái mới lại cố gắng kéo những điều đã cũ đến giữa thực tại. Đây là cuộc đối thoại thú vị, làm cho nghĩa của tác phẩm được mở rộng hơn, theo đó những câu chuyện của nghệ nhân được tiếp biến. Sự đối thoại ấy thực chất cũng là một cuộc lan tỏa giá trị, đưa con người về với những gì vốn có của cha ông, để thấy nét đẹp và sự thanh tao trong thẩm mỹ, để thấy những gạn lọc tinh tế của văn hóa dân tộc làm nên cốt cách Thăng Long – Hà Nội. “Triển lãm lần này là một nỗ lực kéo dài và thúc đẩy quá trình đưa những không gian di sản truyền thống trong đô thị tham gia sâu sắc hơn vào bức tranh của nền công nghiệp văn hóa sáng tạo, biến các không gian di sản truyền thống trở thành một mắt xích quan trọng thu hút sự sáng tạo của giới trẻ cũng như sự quan tâm của cộng đồng” – Giám tuyển Nguyễn Thế Sơn.
Khám phá giá trị mới của di sản tranh Hàng Trống
1,345
Truyền thông nhà nước Trung Quốc hôm nay (12/7) đưa tin, hơn 40.000 người ở tỉnh Tứ Xuyên của nước này đã phải sơ tán vì lũ lụt, khi nhiều vùng chứng kiến lượng mưa kỷ lục. Lũ lụt và hoạt động cứu hộ tại Tứ Xuyên, Tây Nam Trung Quốc. Nguồn: CCTV. Những trận mưa lớn bất thường đã gây ra lũ lụt và sạt lở đất tại nhiều khu vực khác nhau tại Trung Quốc trong những tuần gần đây, khiến cơ sở hạ tầng hư hỏng và một số người thiệt mạng. Theo đài truyền hình nhà nước CCTV, chỉ trong khoảng 14 giờ, thị trấn Nhã An của tỉnh Tứ Xuyên chứng kiến lượng mưa 300,7mm, gây ra lũ quét và lở đất phá hủy nhà cửa. Trịnh Châu, thủ phủ của tỉnh Hà Nam, đã đưa ra cảnh báo đỏ – mức cao nhất trong hệ thống cảnh báo 4 cấp của Trung Quốc về mưa lớn. Nhiều địa phương cũng đã báo cáo lượng mưa kỷ lục. Theo Cục Khí tượng Trung Quốc, huyện Quán Vân thuộc tỉnh Giang Tô chứng kiến lượng mưa lên tới 275,4 mm trong đêm 10/7 vừa qua. Huyện Nguyên Lăng ở tỉnh Hồ Nam có lượng mưa 137,4mm chỉ trong 1 giờ hôm 30/6. Các cơ quan khí tượng Trung Quốc hiện đã mở rộng cảnh báo về mưa bão đến sáng ngày 13/7 cho một số tỉnh, bao gồm Sơn Tây, Hà Bắc, Sơn Đông, Giang Tô, An Huy, Tứ Xuyên, Cam Túc và khu vực Tây Tạng. Trung tâm Khí tượng Quốc gia cho biết một số khu vực đó có thể có lượng mưa hơn 70 mm trong 1 giờ, kèm giông bão, gió giật và mưa đá. Giới chức Trung Quốc đã nhiều lần cảnh báo về thời tiết cực đoan và các thảm họa địa chất trong suốt tháng 7 tại nước này. Mưa lớn và lũ lụt ở Trung Quốc xảy ra đúng vào thời điểm một số nơi khác trên thế giới cũng đang chứng kiến những tình trạng thời tiết tương tự, làm dấy lên những lo ngại mới về tốc độ biến đổi khí hậu.
Video: Trung Quốc tiến hành sơ tán hơn 40.000 người
358
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu khai mạc. Ảnh: VGP. Sáng 13/7, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì họp phiên thứ 6 của Ban Chỉ đạo nhằm kiểm tra, đôn đốc các công việc sau phiên họp lần thứ 5 và bàn các giải pháp, tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án. Phiên họp được tổ chức trực tiếp kết hợp trực tuyến giữa đầu cầu trụ sở Chính phủ với 33 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang có các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành GTVT. Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6 đã nêu rõ yêu cầu ưu tiên hơn cho thúc đẩy tăng trưởng, tập trung thúc đẩy 3 động lực tăng trưởng gồm đầu tư, xuất khẩu và tiêu dùng trong bối cảnh lạm phát được kiểm soát và giảm dần, kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm. Trong đó, đầu tư bao gồm đầu tư công, đầu tư tư, đầu tư nước ngoài, với tinh thần đẩy mạnh giải ngân đầu tư công để dẫn dắt và kích hoạt mọi nguồn vốn ngoài Nhà nước, từ đó tạo công ăn, việc làm, sinh kế cho người dân, tạo không gian, động lực phát triển mới, thúc đẩy tăng trưởng, giảm chi phí logistics, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa Việt Nam. Nguồn vốn cho giao thông vận tải chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn đầu tư công năm 2023, riêng vốn Trung ương khoảng 711.000 tỷ đồng và sẽ tiếp tục được cân đối, bố trí, bổ sung thời gian tới. Thủ tướng nhấn mạnh, các bộ, ngành, địa phương cần phát huy tinh thần trách nhiệm, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, tự lực, tự cường, “biến không thành có, biến khó thành dễ, biến không thể thành có thể”, “không nói không, không nói khó, không nói có mà không làm” để triển khai các công việc. Trước đó, ngày 8/7, tại Cần Thơ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì hội nghị làm việc với lãnh đạo 13 tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL và các bộ, ngành về tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các dự án cao tốc và triển khai các dự án ODA trong vùng. Tại hội nghị này, Thủ tướng cho biết, tính chung trên cả nước, từ đầu nhiệm kỳ đến nay đã khánh thành và đưa vào khai thác thêm 566 km đường cao tốc, nâng tổng số đường cao tốc của cả nước lên 1.729 km. Nếu quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt thì mục tiêu 3.000 km vào năm 2025 là khả thi cao và có thể vượt, tạo tiền đề, cơ sở để thực hiện thành công mục tiêu 5.000 km đường bộ cao tốc vào năm 2030. Chính phủ, Thủ tướng đã có nhiều chỉ đạo về bảo đảm nguồn vật liệu xây dựng. Thủ tướng chỉ đạo và phân công Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tiếp tục quyết liệt chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, xử lý bảo đảm nguồn vật liệu cho các dự án trọng điểm ngành GTVT, trong đó có các dự án vùng ĐBSCL. Nghiên cứu phương án sử dụng cát biển làm nguyên vật liệu đắp nền và nghiên cứu các phương án xây dựng cầu cạn cao tốc. Các bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường, đặc biệt là Bộ GTVT và các tỉnh, thành phố được giao làm cơ quan chủ quản dự án tập trung quyết liệt chỉ đạo, yêu cầu ban quản lý dự án, tư vấn giám sát và các nhà thầu phải phát huy tinh thần trách nhiệm cao nhất trong triển khai các dự án, hoàn thiện các thủ tục quy định. Đối với các dự án chưa hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng, Thủ tướng đề nghị các cấp ủy đảng, UBND các tỉnh, thành phố triển khai công tác giải phóng mặt bằng, di dời hạ tầng kỹ thuật, bảo đảm bàn giao 100% diện tích mặt bằng trong quý 3/2023 (chậm nhất trước ngày 31/12/2023). Đặc biệt quan tâm đến công tác tái định cư, hỗ trợ ổn định sản xuất để người dân có nơi ở mới, có công việc mới, sinh kế mới ít nhất bằng và tốt hơn nơi cũ. Cũng tại hội nghị trên, Thủ tướng đồng ý chủ trương vay ODA từ 6 đối tác phát triển lớn nhất (đã có cam kết) với mức vốn 2,53 tỷ USD cho 16 dự án phát triển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu của vùng ĐBSCL để thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ; đồng ý cấp phát 90% vốn cho các dự án này.
Thủ tướng chủ trì họp Ban Chỉ đạo các công trình, dự án trọng điểm ngành GTVT
826
Louise Heal Kawai tham gia hội thảo về nghề dịch thuật tại Nhật Bản. Sinh ra và lớn lên tại Vương quốc Anh , Louise Heal Kawai đã xuất bản hơn 10 bản dịch văn học Nhật được đánh giá cao, nhưng chưa một lần tên cô xuất hiện trên trang bìa cùng tên tác giả. Bản dịch Seventeen (tạm dịch: Tuổi 17) của tác giả Hideo Yokoyama do Louise Heal Kawai chuyển ngữ đã lọt vào chung kết Giải thưởng Sách Believer 2018 và lọt vào danh sách Giải thưởng Sách dịch hay nhất 2019. Bản dịch The Honjin Murder (Đảo ngục môn) của Seishi Yokomizo, một trong những tiểu thuyết trinh thám đặc sắc cũng sẽ được phát hành vào tháng 12 năm 2019. Trên văn đàn văn học Anh và các nước sử dụng ngôn ngữ Anh, văn học Nhật Bản trở thành một khía cạnh có bản sắc và được nhiều độc giả và nhà nghiên cứu quan tâm. Nhưng trong các cuộc thảo luận, đánh giá về tác phẩm, khi tác giả cuốn sách chắn chắn là “ngôi sao” của chương trình, thì dịch giả có khi không được nhắc tới. Trong khi đó, nghề dịch văn học không phải là một nghề dễ dàng. Louise Heal Kawai cho biết, nghề dịch thuật gặp phải nhiều khó khăn, trong đó có vấn đề bản quyền. Một nhà xuất bản Nhật có thể thuê cô dịch mẫu một phần tác phẩm để bán cho nhà xuất bản phương Tây. Nhưng khi có quyền bán chưa chắc đã đảm bảo được rằng cô sẽ được thuê dịch toàn bộ cuốn sách. Trong quá trình tìm kiếm tác phẩm, đôi khi dịch giả thấy rất thích một tác phẩm nhưng không có mối quan hệ với tác giả. Đó cũng là một thách thức. Chính vì vậy, việc tiếp cận với các nhà xuất bản, đưa họ xem những bản dịch mẫu, tăng cường phát triển mối quan hệ với những nhà văn mình yêu thích là cách giải quyết bước đầu. “Ví dụ tôi thích dịch các tác phẩm văn học kể bằng ngôi thứ nhất, vừa mạnh mẽ vừa kỳ lạ. Và khi tôi tìm các tác phẩm, tôi phải lựa chọn đề tài, ngôn ngữ của tác giả tôi cảm thấy phù hợp”, Louise Heal Kawai chia sẻ. Về phía nhà xuất bản, biên tập viên Daniel Seton, người làm việc lâu năm với các tác phẩm dịch Nhật – Anh cho biết: “Chúng tôi xem xét cuốn sách ở nhiều khía cạnh để tìm ra tác phẩm phù hợp với thị hiếu độc giả. Đặc biệt là phản ứng của biên tập viên với một cuốn sách. Nếu họ cảm thấy không có hứng thú thì thật khó để tạo ra sự hứng thú với người khác”. Một thách thức khác với dịch giả văn học đó là vấn đề tài chính. Nhiều người nói rằng không ai có thể sống nếu chỉ làm nghề này. Kiếm tiền bằng dịch thuật hay phiên dịch kinh doanh cao hơn. Louise Heal Kawai cho biết cô gặp nhiều dịch giả, họ là những người làm việc trong các trường đại học, là nhà nghiên cứu ngôn ngữ, nhà báo, làm phiên dịch viên cho các chương trình ngoài… và dịch các tác phẩm văn học chỉ là “việc làm ngoài giờ”. Tuy nhiên, công việc này của Louise Heal Kawai mang lại cho cô niềm hứng khởi vô bờ. “Khi các thành viên khác trong gia đình đi làm và đi học, căn hộ trở thành văn phòng làm việc của tôi. Bình thường tôi sẽ làm việc trên bàn, nhưng đôi khi muốn thay đổi không gian tôi sẽ chuyển ra bàn ăn – nơi có thể nhìn ngắm bãi biển. Khi trời lạnh, giường ngủ là nơi làm việc tuyệt vời. Thật ít nghề có thể làm được điều đó”. Trong quá trình thực hành dịch thuật văn học, Louise Heal Kawai chia sẻ “mong muốn lớn nhất của tôi là được in tên của mình trên bìa sách, được công nhận tác phẩm đó phần nào của chúng tôi. Và nếu có thể, sẽ có nhiều giải thưởng tôn vinh dịch giả văn học thay vì chỉ dành cho tác giả”.
Cái khó của nghề dịch văn học
702
Ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương. Tại Đại hội đại biểu Hội Xuất bản Việt Nam khóa V, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa khẳng định ngành xuất bản đã góp phần tạo nên sức mạnh mềm quốc gia, xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Ngày 12/7, Đại hội đại biểu Hội Xuất bản Việt Nam khóa V, nhiệm kỳ 2023-2028 diễn ra tại Hà Nội . Phát biểu khai mạc Đại hội, ông Hoàng Vĩnh Bảo, Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam khẳng định, với tinh thần và sứ mệnh cống hiến cao cả, với truyền thống vẻ vang của những người làm xuất bản cách mạng hơn 70 năm qua, đội ngũ những người làm xuất bản, in, phát hành đã luôn nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, là chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hóa – tư tưởng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân. Toàn ngành đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ, kế hoạch công tác và đạt những thành tích được xã hội ghi nhận. Từ năm 2017-2022, các nhà xuất bản đã thực hiện xuất bản và nộp lưu chiểu ngày càng tăng; số lượng xuất bản phẩm và số bản phát hành cũng như doanh thu, lợi nhuận của toàn ngành Xuất bản năm sau đạt cao hơn năm trước. Có được kết quả này là do các nhà xuất bản, đơn vị xuất bản, phát hành sách đã có bước chuyển biến tích cực, linh hoạt ứng phó với tình hình mới bằng việc tái cấu trúc và chuyển đổi mô hình, phương thức kinh doanh; tích cực thực hiện chuyển đổi số trong xuất bản, đẩy mạnh xúc tiến thị trường hoạt động thương mại điện tử; nội dung sách được lựa chọn kỹ lưỡng, thể loại, hình thức phong phú (sách in, sách điện tử, sách nói… sách tinh gọn); công tác đào tạo, bồi dưỡng luôn được quan tâm. Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam cho rằng, đại hội lần thứ V Hội Xuất bản Việt Nam diễn ra trong bối cảnh xuất bản trong nước và thế giới đang có thay đổi sâu sắc về nhiều mặt. Những nội dung thảo luận tại Đại hội và những nhiệm vụ, giải pháp do đại hội đề ra sẽ có ý nghĩa thiết thực góp phần xây dựng tổ chức Hội Xuất bản Việt Nam ngày càng vững mạnh, thúc đẩy nền xuất bản cách mạng Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp, nhân văn, chủ động hội nhập với xuất bản khu vực và thế giới, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới phù hợp với văn hóa dân tộc Việt Nam. Đồng thời, Hội còn có nhiệm vụ quan trọng là lan tỏa những giá trị tốt đẹp trong cộng đồng, xã hội; tham gia phát triển văn hóa đọc, khơi dậy tinh thần ham đọc sách, coi trọng tri thức, sách vở; kích thích tinh thần tự học, nỗ lực vươn lên và khát vọng cống hiến, dựng xây quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, phồn vinh. Sau khi nghe báo cáo kết quả hoạt động của Hội Xuất bản Việt Nam nhiệm kỳ IV cùng tham luận của một số đại biểu, ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương bày tỏ: “vui mừng vì dự một sự kiện chính trị quan trọng của những người làm xuất bản trong cả nước”. Ông Hoàng Vĩnh Bảo, Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam. Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương khẳng định, trong suốt 70 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Xuất bản Việt Nam đã có những đóng góp hết sức quan trọng, đưa nước ta từ một quốc gia thiếu sách vào những năm trước giờ đã vươn lên phát triển cả về quy mô, công nghệ, trình độ, năng lực ngang tầm khu vực với hệ thống 57 nhà xuất bản, trên 450 triệu bản sách/năm, đưa mức bình quân sách/đầu người đạt 6 bản sách/người/năm. Nội dung sách ngày càng phong phú, toàn diện, đa dạng về chủ đề; chất lượng chính trị, văn hóa trong các xuất bản phẩm không ngừng được nâng cao; đội ngũ những người làm xuất bản đã và đang phát huy vai trò tiên phong, không quản gian khó, đổi mới, sáng tạo thực hiện tốt trách nhiệm, sứ mệnh của của mình; tích cực, chủ động trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch; tham gia xây dựng Đảng, phòng chống tham nhũng, quan liêu, tiêu cực, bảo vệ chủ quyền biển, đảo… Mảng sách có nhiều ấn phẩm thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, văn học, khoa học công nghệ, tôn giáo, sách cho thiếu nhi, sinh viên thuộc nhiều xu hướng, góc nhìn khác nhau đã được xuất bản, cung cấp đến bạn đọc cả nước. Điều đó đã góp phần tạo nên sức mạnh mềm quốc gia, góp phần xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Ông Nguyễn Trọng Nghĩa cơ bản đồng tình với báo cáo của Hội Xuất bản Việt Nam khóa IV trình Đại hội lần này vì đã thể hiện tinh thần đổi mới, trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và hội nhập, phát triển. Tại Đại hội, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương nhấn mạnh, gợi mở thêm một số vấn đề để Ban chấp hành nhiệm kỳ mới thực hiện: Thứ nhất , ngành Xuất bản và Hội Xuất bản Việt Nam cần nắm vững, quán triệt sâu sắc, cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là Văn kiện Đại hội XIII của Đảng; có những giải pháp, biện pháp cụ thể, mạnh mẽ, khả thi để đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống… Thứ hai , Hội Xuất bản Việt Nam cần nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí của mình là tổ chức xã hội – nghề nghiệp của người làm công tác xuất bản, là một trong những Hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ. Do đó, Hội Xuất bản Việt Nam cần tiếp tục triển khai việc thực hiện Kết luận số 102-KL/TW ngày 22/9/2014 của Bộ Chính trị và Thông báo Kết luận số 158-TB/TW ngày 02/01/2020 của Ban Bí thư khóa XII Về việc tiếp tục thực hiện kết luận số 102-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về hội quần chúng trong tình hình mới. Thứ ba , đổi mới nội dung, phương thức, đa dạng hóa các nội dung hoạt động phù hợp trong bối cảnh thời đại 4.0, ngành Xuất bản phải triển khai hiệu quả việc chuyển đổi số, tiếp tục phát triển và thích ứng với thế giới số hóa ngày càng phát triển. Tích cực, chủ động triển khai các giải pháp để đưa Ngày sách và văn hóa đọc Việt Nam 21/4 hàng năm và Giải thưởng Sách Quốc gia lan tỏa, trở thành sự kiện văn hóa nổi bật; phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu xây dựng đề án về truyền thông Sách quốc gia, góp phần định hướng cho văn hóa đọc của xã hội, đồng thời biểu dương, tôn vinh những tác phẩm và tác giả có đóng góp xuất sắc trong sự nghiệp xuất bản nước nhà… Thứ tư , tiếp tục kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của Hội, đáp ứng bước phát triển nhanh của xuất bản và vị thế mới của Hội Xuất bản hiện nay. Cần quan tâm hơn nữa đến công tác phát triển hội viên… Thứ năm , đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong Hội Xuất bản Việt Nam và trong các nhà xuất bản, công ty phát hành sách.
Ngành Xuất bản góp phần tạo nên sức mạnh mềm quốc gia
1,355
Nhấn mạnh chuyển đổi số là xu thế tất yếu, đòi hỏi khách quan và được xác định là nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng, Nhà nước, Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng chỉ rõ: Mục đích cuối cùng của chuyển đổi số là phục vụ con người. Chiều ngày 12/7, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số đã chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết 6 tháng đầu năm 2023 về chuyển đổi số quốc gia và Đề án phát triển dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06). Hội nghị được kết nối trực tuyến từ trụ sở Chính phủ tới điểm cầu tại trụ sở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Hội nghị được kết nối trực tuyến từ trụ sở Chính phủ tới điểm cầu của các bộ, ngành, địa phương. (Ảnh: Phạm Hải). Hội nghị còn có sự tham dự của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà; Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an, Tổ trưởng Tổ công tác triển khai Đề án 06 của Chính phủ; Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn, Tổ phó Tổ công tác Đề án 06; các thành viên Ủy ban quốc gia và Tổ công tác triển khai Đề án 06, lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương cùng đại diện một số doanh nghiệp. Phát biểu khai mạc hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, chuyển đổi số là xu thế tất yếu, đòi hỏi khách quan và được xác định là nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng, Nhà nước, đồng thời là công việc mới, khó, nhạy cảm. “Mục đích cuối cùng của chuyển đổi số là phục vụ con người, trên tinh thần lấy con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, là động lực, nguồn lực phát triển”, Thủ tướng nhấn mạnh. Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu khai mạc hội nghị chiều ngày 12/7. (Ảnh: Phạm Hải). Thủ tướng đánh giá, thời gian qua, nhiệm vụ chuyển đổi số đã được triển khai bài bản, tích cực, đúng hướng, đúng trọng tâm, trọng điểm đặc biệt là việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đạt kết quả tương đối tốt so với nhiều nước, với quan điểm dữ liệu là quan trọng và cấp bách. Người đứng đầu Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số cũng đề nghị các đại biểu tập trung thảo luận, đánh giá thực chất tình hình, kết quả đạt được trên tinh thần khách quan, trung thực, có minh chứng bằng số liệu cụ thể, nhận diện các tồn tại, hạn chế, yếu kém, vướng mắc, rào cản, điểm nghẽn. Đồng thời, phát hiện đúng các nguyên nhân; chia sẻ những kinh nghiệm hay, bài học quý, những giải pháp cụ thể trong triển khai chuyển đổi số quốc gia và Đề án 06; xác định rõ các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá thời gian tới, cũng như trong dài hạn. “Trong 6 tháng cuối năm, phải làm tốt hơn 6 tháng đầu năm và năm 2023 phải có kết quả cao hơn năm 2022, theo tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng” , Thủ tướng yêu cầu. Báo cáo của Bộ TT&TT chỉ rõ, nửa đầu năm nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã thể hiện quyết tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thiện thể chế nhằm tạo lập hành lang pháp lý giúp kiến tạo sự phát triển trên không gian mới (không gian số), giải quyết các vấn đề phát sinh từ thực tiễn chuyển đổi số thời gian vừa qua, giải quyết các “điểm nghẽn” nhằm thúc đẩy chuyển đổi số nhanh tại Việt Nam. Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng các đồng chí lãnh đạo tham quan triển lãm mô hình, sản phẩm ứng dụng triển khai Đề án 06 diễn ra ngay trước hội nghị. (Ảnh: Phạm Hải). Một trong những kết quả nổi bật 6 tháng đầu năm nay là việc Luật Giao dịch điện tử sửa đổi được ban hành. Có hiệu lực thi hành từ tháng 7/2024, với 6 chính sách mới đáng chú ý, Luật Giao dịch điện tử sửa đổi không chỉ góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý cho chuyển đổi số, mà còn cung cấp thêm công cụ quản lý và mở ra phương thức quản lý mới trong hoạt động chuyển đổi số. Từ đó, góp phần thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số Việt Nam bước vào giai đoạn “tăng tốc” có tính quyết định đến kết quả chuyển đổi số cả giai đoạn 2021-2025. Năm 2023 đã được xác định là năm tạo lập và khai thác dữ liệu để tạo ra giá trị mới, trong đó tập trung vào số hóa, làm giàu và kết nối dữ liệu; tăng cường bảo vệ dữ liệu; đẩy mạnh triển khai các dịch vụ công, tiện ích phục vụ người dân, doanh nghiệp. Một kết quả nổi bật khác được Bộ TT&TT, với vai trò là cơ quan thường trực Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số ghi nhận trong nửa đầu năm nay là việc tổ chức tạo lập, kết nối, chia sẻ dữ liệu về dân cư và cán bộ, công chức, viên chức trên quy mô quốc gia. Đến tháng 6/2023, với sự quyết tâm của Bộ Công an trong tổ chức triển khai Đề án 06, cơ sở dữ liệu quốc gia về Dân cư đã kết nối chính thức với 13 bộ, ngành, 4 doanh nghiệp và 63/63 địa phương để phục vụ khai thác thông tin dân cư. Việc khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư mang lại nhiều lợi ích, như giúp tiết kiệm chi phí sao in hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính; hạn chế việc di chuyển; hạn chế việc phải kiểm tra xác minh mà sử dụng dữ liệu của các bộ, ngành để xác thực, xác minh thông tin trên giấy tờ tùy thân; tinh gọn cán bộ, công chức bộ phận tiếp dân, giảm tình trạng gặp gỡ trực tiếp, loại bỏ dần tình trạng “tham nhũng vặt”… Theo ước tính, việc này đã giúp tiết kiệm cho xã hội hàng nghìn tỷ đồng. Về tạo lập, kết nối, chia sẻ dữ liệu về cán bộ, công chức, viên chức trên quy mô quốc gia, đến cuối tháng 6/2023, đã có 96 bộ, ngành, địa phương hoàn thành kết nối và đồng bộ dữ liệu với Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức. Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức được triển khai kết nối, chia sẻ dữ liệu trên quy mô quốc gia với tiến độ “thần tốc”, so với thời gian để các cơ sở dữ liệu quốc gia trước đó đạt mức độ bao phủ tương tự. “Đây là kết quả thể hiện sự quan tâm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt là sự “quyết tâm”, quyết liệt của Bộ Nội vụ; kết hợp sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ, ngành, địa phương; năng lực triển khai hệ thống lớn của doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam” , Bộ TT&TT đánh giá. Bộ TT&TT cũng chỉ ra các kết quả nổi bật khác trong chuyển đổi số thời gian qua như bố trí nguồn kinh phí chi cho chuyển đổi số, tăng tốc chuyển đổi số của các doanh nghiệp nhỏ và vừa… Cùng với đó, đã xuất hiện nhiều điểm sáng, mô hình hay như việc xây dựng nhận thức số, đào tạo nhân lực số tại Đà Nẵng ; xây dựng hạ tầng số tại Quảng Ninh ; thúc đẩy người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến với chiến dịch 92 ngày đêm tại Bình Phước ; triển khai “trợ lý ảo” trong ngành tòa án… Trên cơ sở phân tích những kết quả đạt được, các việc chưa tốt và bài học kinh nghiệm trên các vấn đề của 3 trụ cột Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số cũng như những tồn tại, hạn chế của công tác chuyển đổi số thời gian qua, Bộ TT&TT đề xuất các nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung tròng nửa cuối năm 2023. “Năm 2023 là năm bản lề, đánh dấu nửa chặng đường thực hiện Chương trình Chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2021-2025. Có được một năm 2023 thành công sẽ quyết định kết quả của cả giai đoạn 2021-2025” , báo cáo của Bộ TT&TT nêu rõ.
Thủ tướng: Mục đích cuối cùng của chuyển đổi số là phục vụ con người
1,500
Một lời giải thích hợp lý đã được đưa ra cho những vật thể gây hoang mang gần đây, là các siêu quái vật dường như còn già hơn vũ trụ. Nghiên cứu mới từ nhà vật lý Rajendra Gupta từ Đại học Ottawa ( Canada ) khẳng định vũ trụ có thể già gấp đôi so với con số 13,8 tỉ năm tuổi từ một nghiên cứu năm 2021 và được chấp nhận rộng rãi. Điều này dựa trên việc các nhà thiên văn khắp thế giới, bằng những phương tiện quan sát ngày một tối tân hơn, phát hiện ra những vật thể lẽ ra phải già hơn vũ trụ. Một số thiên hà rất cổ xưa được tìm thấy gần đây bởi James Webb – Ảnh: NASA/ESA/CSA. Đó là những thiên hà khổng lồ chứa những lỗ đen khổng lồ, lộ ra ở vùng không gian khi vũ trụ mới chỉ vài trăm triệu năm tuổi. Chúng được phát hiện nhờ những siêu kính viễn vọng như James Webb, có thể quan sát các vật thể cách Trái Đất hơn 13 tỉ năm ánh sáng, đồng nghĩa với việc nhìn thẳng vào quá khứ bởi hình ảnh từ vật thể đó cũng mất khoảng thời gian xấp xỉ để đến được kính viễn vọng. Các nhà thiên văn đã kỳ vọng tìm ra các thiên hà sơ khai đơn điệu, bé nhỏ, chứ không phải những quái vật khổng lồ như Milky Way (Ngân Hà) của chúng ta. Để Ngân Hà đạt được kích thước ngày nay, nó đã phải trải qua hàng tỉ năm tuổi với gần 20 cuộc sáp nhập thiên hà. Một thiên hà sơ khai lớn đến như vậy là vô lý, bởi không đủ thời gian cho các vụ sáp nhập. TS Gupta đã dựa trên một lý thuyết thiên văn có từ năm 1929 của nhà vật lý thiên văn Fritz Zwicky rằng sự dịch chuyển đỏ là do ánh sáng từ các vật thể vũ trụ xa xôi mất dần năng lượng khi băng qua khoảng cách vũ trụ lớn đến với Trái Đất . Các nghiên cứu sau này chỉ ra rằng dịch chuyển đỏ là do giãn nỡ vũ trụ, các thiên thể đang “chạy” ra xa nên trông đỏ hơn. TS Gupta cho rằng dịch chuyển đỏ có thể do cả 2 yếu tố trên kết hợp. Ông đã ứng dụng điều này để xây dựng 2 mô hình vũ trụ, và chỉ ra các “quái vật” gây bối rối mà James Webb quan sát thấy thực sự già hơn con số 13,8 tỉ năm rất nhiều. Mô hình cũng cho thấy vũ trụ đã 26,7 tỉ năm tuổi, gần gấp đôi con số 13,8 tỉ năm tuổi. Công trình vừa được công bố trên tạp chí khoa học Monthly Notices of the Royal Astronomical Society, có thể là một tin vui bởi nếu vũ trụ già hơn, con người vẫn còn cơ hội để tiếp tục phát triển công nghệ và tìm kiếm những thế giới cổ xưa hơn.
Phát hiện chấn động về tuổi thật của vũ trụ
495
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều – Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam phát biểu tại lễ ra mắt Chị hội. Ngày 10.7.2023, Lễ ra mắt Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh Vĩnh Long đã được tổ chức tại Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Long, theo quyết định số 40/QĐ-TCHV của Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, do nhà thơ Thái Hồng làm Chi hội trưởng. Tham dự buổi lễ có nhà thơ Nguyễn Quang Thiều – Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Trần Đăng Khoa – Phó Chủ tịch và đại diện các chi hội bạn trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long: nhà văn Trần Dũng – Chi hội trưởng Nhà văn VN tỉnh Trà Vinh, nhà thơ Phạm Nguyên Thạch – Chi hội trưởng Nhà văn VN tỉnh An Giang; nhà thơ Nguyễn Đức Phú Thọ – Chi hội phó Nhà văn VN tỉnh An Giang,… cùng lãnh đạo Ban Tuyên giáo; Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch; Ban Lãnh đạo, Thường trực và anh chị em hội viên Hội VHNT Vĩnh Long. Đặc biệt còn có sự xuất hiện của nhà văn Trúc Phương nguyên Phó Chủ tịch Hội VHNT Vĩnh Long, dù tuổi cao sức yếu nhưng không ngại đường xa về tham dự. Chi hội Nhà văn VN tỉnh Vĩnh Long có 5 hội viên: Nhà thơ Song Hảo, nhà văn Hồ Tĩnh Tâm, nhà thơ Thái Hồng, nhà văn Phạm Trung Khâu, nhà văn Trần Thôi. Trong đó, nhà thơ Thái Hồng làm Chi hội trưởng. Phát biểu trong buổi lễ, Chủ tịch Hội Nhà văn VN Nguyễn Quang Thiều bày tỏ sự trân trọng, vui mừng bởi đây là cơ hội quý giá để lãnh đạo Hội có dịp gần gũi, lắng nghe và chia sẻ với những tâm tư, nguyện vọng của các nhà văn ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng. Cũng trong buổi lễ ra mắt, nhà thơ An Phương – Chủ tịch Hội VHNT Vĩnh Long công bố Quyết định số 14-QĐ/VNDT của nhạc sĩ Nông Quốc Bình – Chủ tịch Hội VHNT các Dân tộc thiểu số Việt Nam ký ngày 27.2.2023, về việc ra mắt Chi hội và được bổ nhiệm vai trò Chi hội trưởng Chi hội VHNT các DTTSVN tỉnh Vĩnh Long. Lễ ra mắt 2 Chi hội diễn ra thành công tốt đẹp, trong không khí cởi mở và ấm áp.
Ra mắt Chi hội Nhà văn Việt Nam và Chi hội VHNT các DTTSVN tại tỉnh Vĩnh Long
403
Các lực lượng chức năng đã xuyên đêm nỗ lực dập lửa, bên cạnh đó có phương án sơ tán người già, trẻ nhỏ gần khu vực xảy ra đám cháy đến nơi an toàn. (Ảnh: TTXVN phát). Với nỗ lực dập lửa xuyên đêm, đến 4 giờ ngày 13/7, vụ cháy rừng thuộc khu vực núi Bàu, xã Thượng Tân Lộc đã được dập tắt; rất may không có thiệt hại về người. Ông Nguyễn Văn Tụ, Phó Bí thư Đảng ủy xã Thượng Tân Lộc, huyện Nam Đàn , tỉnh Nghệ An , cho biết với nỗ lực dập lửa trong đêm, đến 4 giờ ngày 13/7, đám cháy đã được dập tắt; không có thiệt hại về người trong vụ cháy này. Theo ông Nguyễn Văn Tụ, do thời tiết nắng nóng, gió Tây Nam thổi mạnh, khu vực xảy ra đám cháy lại xa nguồn nước, địa hình đồi núi dốc cao, công tác dập lửa của các lực lượng chức năng và người dân gặp nhiều khó khăn. Để đảm bảo an toàn khu dân cư, cùng với việc dập lửa bằng cành cây và các vật dụng khác, các lực lượng đã tiến hành cắt đường băng, thiết lập vành đai cản lửa. Cánh rừng bị cháy chủ yếu là rừng thông đặc dụng, diện tích bị cháy khá lớn. Chính quyền xã Thượng Tân Lộc đang phối hợp với các cơ quan chức năng điều tra nguyên nhân vụ cháy và thống kê thiệt hại; đồng thời, cắt cử lực lượng túc trực liên tục trong 3 ngày tới đề phòng nguy cơ lửa bùng phát trở lại. Vụ cháy rừng trên thuộc khu vực núi Bàu, xã Thượng Tân Lộc diễn ra từ 10 giờ ngày 12/7. Ngay sau khi phát hiện, chính quyền địa phương cùng hàng trăm cán bộ, chiến sỹ và người dân nỗ lực khống chế đám cháy rừng trong đêm, nhằm hạn chế mức thấp nhất thiệt hại do vụ cháy gây ra. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, lực lượng chức năng đã cơ bản khống chế được vụ cháy. Song do gió to, lửa tiếp tục bùng cháy trở lại. Trong tối 12/7 rạng sáng 13/7, các lực lượng chức năng đã xuyên đêm nỗ lực dập lửa; đồng thời, có phương án sơ tán người già, trẻ nhỏ gần khu vực xảy ra đám cháy đến nơi an toàn./.
Nghệ An: Xuyên đêm nỗ lực dập tắt cháy rừng ở huyện Nam Đàn
392
Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) đã công bố hình ảnh mới về một khu vực hình thành sao nhỏ do kính viễn vọng không gian James Webb chụp được vào ngày 12/7 để kỷ niệm việc hoàn thành năm nghiên cứu khoa học đầu tiên của kính này. Hình ảnh sao Mộc được chụp bởi kính viễn vọng James Webb. Ảnh minh họa: AFP/TTXVN. Theo NASA, hình ảnh trên cho thấy vùng hình thành sao nằm ở vị trí gần Trái Đất nhất trong tổ hợp đám mây Rho Ophiuchi với khoảng cách gần 390 năm ánh sáng, điều này cho phép chụp cận cảnh khu vực trên. Đây là khu vực gồm khoảng 50 ngôi sao mới hình thành với khối lượng tương đương hoặc nhỏ hơn Mặt Trời . Nhà khoa học tham gia dự án nghiên cứu của Webb tại Viện Khoa học Kính viễn vọng không gian ở bang Maryland ( Mỹ ) Klaus Pontoppidan cho biết: “Hình ảnh của Webb về Rho Ophiuchi cho phép chúng ta chứng kiến một giai đoạn rất ngắn trong vòng đời của các vì sao một cách rõ ràng. Mặt Trời của chúng ta đã trải qua một giai đoạn như vậy từ rất lâu rồi và giờ đây chúng ta có công nghệ để xem phần đầu câu chuyện về một ngôi sao khác.” Cùng quan điểm về vấn đề trên, giám đốc của NASA Bill Nelson cho hay: “Chỉ trong một năm, kính James Webb đã làm thay đổi cách nhìn của nhân loại về vũ trụ, lần đầu tiên con người có thể quan sát kỹ các đám mây bụi và nhìn thấy ánh sáng từ các góc xa xôi của vũ trụ. Mỗi hình ảnh mới là một khám phá mới, khuyến khích và hỗ trợ các nhà khoa học trên toàn cầu hỏi và trả lời những câu hỏi mà họ chưa bao giờ có thể mơ tới”.
NASA công bố hình ảnh mới về vũ trụ chụp bằng kính viễn vọng James Webb
321
Theo kế hoạch, Quảng Ninh sẽ thực hiện dự án tuyến đường nối từ QL279, tỉnh Quảng Ninh đến ĐT291 qua huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang. HĐND tỉnh Quảng Ninh vừa thông qua Nghị quyết đầu tư hơn 5.500 tỷ đồng để mở đường sang các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và Hải Dương. Tại Kỳ họp thứ 14, HĐND tỉnh Quảng Ninh khóa XIV, nhiệm kỳ 2021 – 2026 đã thông qua Nghị quyết về phê duyệt chủ trương một số dự án đầu tư công sử dụng vốn ngân sách tỉnh Quảng Ninh. Trong đó có các dự án về hạ tầng giao thông kết nối với các tỉnh lân cận gồm: Lạng Sơn, Bắc Giang và Hải Dương. Theo đó, Quảng Ninh sẽ thực hiện dự án cải tạo nâng cấp ĐT342, đoạn thuộc địa phận TP.Hạ Long, dài khoảng 30km, nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại và giao thương hàng hóa của nhân dân trong khu vực được thuận lợi, an toàn; tạo kết nối liên vùng giữa tỉnh Quảng Ninh với tỉnh Lạng Sơn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội hiệu quả và bền vững, bảo đảm an ninh – quốc phòng. Điểm đầu của tuyến đường thuộc dự án này đấu nối vào điểm cuối của dự án tuyến đường từ nút giao cầu vượt đường cao tốc Hạ Long – Vân Đồn (thôn Trại Me, xã Sơn Dương, TP.Hạ Long) đến thôn Đồng Trà (xã Đồng Lâm, TP.Hạ Long) do UBND TP.Hạ Long đang triển khai đầu tư; điểm cuối đấu nối với dự án cải tạo, nâng cấp ĐT342 đoạn qua địa phận huyện Ba Chẽ đang được thực hiện (kết nối giữa huyện Ba Chẽ với huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn). Quy mô đầu tư, tiêu chuẩn kỹ thuật: Đường cấp III – cấp IV miền núi, hai làn xe. Tổng số vốn đầu tư dự kiến không quá 3.695 tỷ đồng, từ nguồn vốn ngân sách tỉnh. Thời gian thực hiện dự án dự kiến từ năm 2023 đến năm 2027, phấn đấu hoàn thành sớm nhất nâng cao hiệu quả đầu tư. Song song với đó, Quảng Ninh sẽ thực hiện dự án tuyến đường nối từ QL279, tỉnh Quảng Ninh đến ĐT291 tỉnh Bắc Giang. Mục tiêu của dự án là nhằm từng bước thu hẹp chênh lệch vùng miền, khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế về du lịch văn hóa tâm linh, du lịch cộng đồng, đáp ứng nhu cầu đi lại, giao thương hàng hóa, phát triển logistic trong khu vực được thuận lợi, an toàn; đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội nhanh, bền vững, gắn với đảm bảo quốc phòng an ninh của tỉnh Quảng Ninh và tỉnh Bắc Giang. Điểm đầu tuyến giao với QL279 tại vị trí khu vực xã Tân Dân, TP.Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; điểm cuối tuyến đấu nối vào ĐT291, xã Thanh Luận, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang. Tổng chiều dài tuyến khoảng 8,1km, được thiết kế theo tiêu chuẩn đường cấp III miền núi, quy mô 2 làn xe. Tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 1.455 tỷ đồng, từ nguồn vốn ngân sách tỉnh. Thời gian thực hiện dự án từ năm 2023 -2026. Ngoài ra, Quảng Ninh cũng sẽ đầu tư thực hiện dự án cải tạo, nâng cấp ĐT345, nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống hạ tầng giao thông đồng bộ và hiện đại theo quy hoạch được duyệt; thúc đẩy liên kết vùng giữa các tỉnh Quảng Ninh , Bắc Giang và Hải Dương . Đồng thời, Quảng Ninh tiếp tục đầu tư nâng cấp ĐT327 đấu nối với ĐT293, tỉnh Bắc Giang. Chiều dài tuyến dự kiến khoảng 10,8km, với tổng mức đầu tư dự kiến 356 tỷ đồng, từ nguồn vốn ngân sách tỉnh. Thời gian thực hiện dự án từ 2023 – 2025.
Quảng Ninh đầu tư hơn 5.500 tỷ đồng làm đường kết nối 3 tỉnh lân cận
642
Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa. Tại Đại hội đại biểu Hội Xuất bản Việt Nam khóa V diễn ra ngày 12/7, ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương đã ghi nhận những đóng góp quan trọng của ngành trong suốt 70 năm xây dựng và trưởng thành. Xin giới thiệu toàn văn bài phát biểu của ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương tại Đại hội đại biểu Hội Xuất bản Việt Nam khóa V. Kính thưa Đoàn Chủ tịch Đại hội, Thưa các vị đại biểu, các vị khách quý, Thưa toàn thể các đồng chí, Hôm nay, tôi rất vui mừng đến dự Đại hội đại biểu Hội Xuất bản Việt Nam khóa V (nhiệm kỳ 2023 – 2028), một sự kiện chính trị quan trọng của những người làm xuất bản trong cả nước. Thay mặt Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tôi xin gửi đến các đại biểu, các đồng chí và qua các đồng chí gửi đến toàn thể những người làm công tác xuất bản lời chào thân ái, lời chúc mừng tốt đẹp nhất. Chúc đại hội thành công tốt đẹp. Thưa các đồng chí, Trong suốt quá trình lãnh đạo các mạng, Đảng ta luôn xác định xuất bản là bộ phận quan trọng trên mặt trận tư tưởng – văn hóa của Đảng, góp phần tích cực vào nhiệm vụ tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giữ vai trò to lớn trong việc tích lũy, truyền bá tri thức và các giá trị tinh thần, nâng cao dân trí, phát triển văn hóa, xây dựng nền tảng tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách và trí tuệ con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong suốt 70 năm xây dựng và trưởng thành, ngành xuất bản Việt Nam đã có những đóng góp hết sức quan trọng, đưa nước ta từ một quốc gia thiếu sách vào những năm trước giờ đã vươn lên phát triển cả về quy mô, công nghệ, trình độ, năng lực ngang tầm khu vực với hệ thống 57 nhà xuất bản, trên 450 triệu bản sách/năm, đưa mức bình quân sách/đầu người đạt 6 bản sách/người/năm. Nội dung sách ngày càng phong phú, toàn diện, đa dạng về chủ đề; chất lượng chính trị, văn hóa trong các xuất bản phẩm không ngừng được nâng cao; đội ngũ những người làm xuất bản đã và đang phát huy vai trò tiên phong, không quản khó khăn, gian khó, đổi mới, sáng tạo thực hiện tốt trách nhiệm, sứ mệnh của của mình; tích cực, chủ động trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch; tham gia xây dựng đảng, phòng chống tham nhũng, quan liêu, tiêu cực, bảo vệ chủ quyền biển, đảo…; mảng sách có nhiều ấn phẩm thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, văn học, khoa học công nghệ, tôn giáo, sách cho thiếu nhi, sinh viên thuộc nhiều xu hướng, góc nhìn khác nhau đã được xuất bản, cung cấp đến bạn đọc cả nước. Điều đó đã góp phần tạo nên sức mạnh mềm quốc gia, góp phần xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đặc biệt, trong thời gian đại dịch Covid 19 diễn ra phức tạp, những người làm xuất bản càng thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm, không quản hiểm nguy, kịp thời cung cấp thông tin, tri thức đến bạn đọc cả nước bằng nhiều hình thức, bảo đảm an sinh tinh thần của người dân… Trong những thành tích lớn lao đó, có công lao đóng góp quan trọng của Hội Xuất bản Việt Nam và đông đảo hội viên, người làm xuất bản trên cả nước. Nhìn lại nhiệm kỳ qua báo cáo chính trị tại Đại hội đã nêu bật những kết quả quan trọng, nổi bật, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm sâu sắc, tôi xin nhấn mạnh một số nội dung sau: Hội Xuất bản Việt Nam đã không ngừng đổi mới, sáng tạo, hoạt động tích cực, góp phần xây dựng một nền xuất bản mạnh. Hội đã tập hợp, đoàn kết, động viên, hướng dẫn hội viên phát huy tài năng, trí tuệ, tâm huyết, sáng tạo, thực hiện vai trò, sứ mệnh của mình trong tuyên truyền, phổ biến, vận động thực hiện các chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và triển khai công tác của ngành gắn với việc kiểm điểm, đánh giá thực hiện 10 nội dung trong Quy tắc đạo đức nghề nghiệp xuất bản Việt Nam. Hội đã chủ động xây dựng kế hoạch, hoàn thiện Điều lệ, Quy chế, từng bước nâng cao chất lượng và uy tín của Hội thông qua Giải thưởng Sách Quốc gia. Hội cũng tham mưu, tác động tích cực cho việc hình thành các chủ trương, chính sách góp phần phát triển hoạt động ngành xuất bản và nâng cao văn hóa đọc trong cộng đồng thông qua việc tổ chức nhiều hoạt động thiết thực chào mừng Ngày Sách Việt Nam 21/4, nhận được sự quan tâm, hưởng ứng tích cực của người dân và xã hội. Qua đó, tìm được những mô hình, cách làm hay để quảng bá, giới thiệu được nhiều sách hay, sách đẹp đến cộng đồng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành xuất bản được Hội quan tâm, coi trọng. Hội đã tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm, diễn đàn về nghiệp vụ xuất bản, các vấn đề, xu hướng của xuất bản hiện đại (4.0), xuất bản điện tử với những nội dung thiết thực, cập nhật các kỹ năng giúp nâng cao nhận thức, trình độ nghiệp vụ cho hội viên. Giải thưởng Sách quốc gia hằng năm đi vào nền nếp, có uy tín và tác động mạnh mẽ đến cộng đồng. Giải thưởng ghi nhận và tôn vinh, khích lệ các tác giả, dịch giả, các nhà khoa học, những người tham gia công tác xuất bản, in và phát hành sách, góp phần xây dựng và phát triển văn hóa đọc quốc gia. Công tác xây dựng, tổ chức bộ máy và kết nạp, phát triển hội viên của Hội được quan tâm, mở rộng. Công tác đối ngoại của Hội đã đạt nhiều kết quả. Hội Xuất bản Việt Nam là Chủ tịch luân phiên Hiệp hội Xuất bản Đông Nam Á trong các năm 2022, 2023 cùng với việc ngành xuất bản Việt Nam đã trở thành thành viên sáng lập của tổ chức Hiệp hội Xuât bản chấu Á Thái Bình Dương (APPA), góp phần đưa sách báo của Việt Nam ra thế giới. Những kết quả công tác và thành tích mà Hội Xuất bản Việt Nam đạt được là rất đáng trân trọng, góp phần quan trọng cho sự phát triển của ngành xuất bản. Đảng và Nhà nước đánh giá cao hoạt động và những đóng góp của Hội Xuất bản Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng. Điều này được khẳng định rõ, khi Hội Xuất bản Việt Nam là một trong 30 Hội quần chúng được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ. Thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi nhiệt liệt, biểu dương, chúc mừng Hội Xuất bản Việt Nam và toàn thể đội ngũ những người làm xuất bản trong cả nước. Bên cạnh những kết quả, thành tích đã đạt được, rất đáng tự hào, chúng ta cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, trong nhiệm kỳ vừa qua, hoạt động của Hội Xuất bản Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, như: Tổ chức Hội chưa thực sự lớn mạnh, cơ cấu, số lượng hội viên là các cá nhân, tổ chức tham gia chưa đông, chưa phát huy được tổng hợp sức mạnh của hội viên; một số hoạt động chưa mang tầm quốc gia trong triển khai thực hiện; đề xuất ban hành văn bản về cơ chế, chính sách đặc thù đối với xuất bản chưa mạnh mẽ; chưa tổ chức được nhiều diễn đàn, hoạt động để hội viên trao đổi thông tin nghề nghiệp; việc tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ cho hội viên chưa thường xuyên, liên tục; công việc của Hội bị hạn chế trong thường trực, thường vụ: nhiều ủy viên ban chấp hành chưa hoạt động đúng với chức trách được phân công; chưa tạo được nguồn kinh phí để có thể tổ chức nhiều hoạt động phục vụ hội viên tốt hơn… Thưa các đồng chí, Đại hội đại biểu Hội Xuất bản Việt Nam khóa V diễn ra trong bối cảnh sau gần 40 năm đổi mới, vị thế, uy tín, tiềm lực của đất nước đã được nâng lên, tạo thế và lực mới cho sự phát triển của ngành xuất bản. Cơ hội, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; những vấn đề an ninh phi truyền thống; khủng hoảng kinh tế toàn cầu; xung đột vũ trang; tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa tăng nhanh… tác động mạnh mẽ đến mọi ngành nghề, lĩnh vực, cũng như đến tổ chức và hoạt động của Hội Xuất bản Việt Nam. Đối với lĩnh vực xuất bản, Đại hội XIII của Đảng cũng đã chỉ rõ nhiệm vụ cần: Sắp xếp ngành xuất bản, in và phát hành theo hướng tinh gọn, chất lượng, hiện đại hóa; khẩn trương triển khai có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa; đồng thời triển khai hiệu quả các nhiệm vụ trọng yếu mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xác định trong Thư gửi Ngành Nhân Kỷ niệm 70 năm ngày Truyền thống Ngành Xuất bản: “Giữ vững định hướng chính trị, tư tưởng, bảo đảm hài hòa giữa nhiệm vụ chính trị và sản xuất kinh doanh, phục hồi và phát triển mạnh mẽ văn hóa đọc; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác xuất bản, in và phát hành sách có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, chuyên môn, nghiệp vụ giỏi, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng, góp phần khẳng định vị thế, vai trò là một trong những hoạt động tư tưởng sắc bén của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đây là nội dung quan trọng, vừa mang tính định hướng, vừa để khẳng định vai trò của xuất bản với tư cách là thành tố của văn hóa trong phát triển ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa, qua đó giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, góp phần xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tạo động lực to lớn cho sự phát triển nhanh, bền vững đất nước trong thời gian tới. Tôi cơ bản đồng tình với Báo cáo chính trị của Hội Xuất bản Việt Nam khóa IV trình Đại hội lần này. Báo cáo đã thể hiện tinh thần đổi mới, trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và hội nhập, phát triển. Quán triệt nghiêm túc tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Trong giai đoạn tới, để Hội có thể khẳng định, nâng cao vị trí, vai trò của mình, trở thành tổ chức hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả, tôi xin nhấn mạnh, gợi mở thêm một số vấn đề: Thứ nhất, ngành xuất bản và Hội Xuất bản Việt Nam cần nắm vững, quán triệt sâu sắc, cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là Văn kiện Đại hội XIII của Đảng; có những giải pháp, biện pháp cụ thể, mạnh mẽ, khả thi để đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống. Chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về cơ chế, chính sách, trước mắt là đóng góp tích cực vào Tổng kết 20 năm thực hiện Chỉ thị 42-CT/TW Về nâng cao chất lượng toàn diện hoạt động xuất bản vào năm 2024; tham mưu xây dựng các văn bản chỉ đạo của Đảng về hoạt động xuất bản và sửa đổi, bổ sung Luật Xuất bản 2012; bảo đảm phát triển tốt đi đôi với chỉ đạo, quản lý tốt. Thứ hai, Hội Xuất bản Việt Nam cần nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí của mình là tổ chức xã hội – nghề nghiệp của người làm công tác xuất bản, là một trong những Hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ. Do đó, Hội Xuất bản Việt Nam cần tiếp tục triển khai việc thực hiện Kết luận số 102-KL/TW ngày 22/9/2014 của Bộ Chính trị và Thông báo Kết luận số 158-TB/TW ngày 02/01/2020 của Ban Bí thư khóa XII Về việc tiếp tục thực hiện kết luận số 102-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về hội quần chúng trong tình hình mới. Thứ ba , đổi mới nội dung, phương thức, đa dạng hóa các nội dung hoạt động phù hợp trong bối cảnh thời đại 4.0, ngành xuất bản phải triển khai hiệu quả việc chuyển đổi số, tiếp tục phát triển và thích ứng với thế giới số hóa ngày càng phát triển; góp phần thực hiện thắng lợi một trong ba đột phá chiến lược của phát triển đất nước mà Đại hội XIII nêu ra là: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao…; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Chú trọng triển khai nhóm nhiệm vụ gắn với yêu cầu về phát triển văn hóa đọc và chuyển đổi số trên cơ sở nhận thức văn hóa đọc là giải pháp căn bản, chuyển đổi số là giải pháp đột phá, xây dựng ngành xuất bản thành một ngành kinh tế – công nghệ phát triển toàn diện, vững chắc. Tích cực, chủ động triển khai các giải pháp để đưa Ngày sách và văn hóa đọc Việt Nam 21/4 hằng năm và Giải thưởng Sách Quốc gia lan tỏa, trở thành sự kiện văn hóa nổi bật, không chỉ trong lĩnh vực xuất bản mà trong các hoạt động văn hóa; không chỉ ở trong nước mà cho kiều bào và bạn bè quốc tế; phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu xây dựng đề án về truyền thông sách Quốc gia, góp phần định hướng cho văn hóa đọc của xã hội, đồng thời biểu dương, tôn vinh những tác phẩm và tác giả có đóng góp xuất sắc trong sự nghiệp xuất bản nước nhà. Tạo lập thêm các hình thức sinh hoạt nghề nghiệp như câu lạc bộ biên tập viên, câu lạc bộ những người làm sách trẻ, câu lạc bộ phát hành sách; tích cực tham gia các hoạt động phát triển văn hóa đọc do các bộ, ngành, địa phương tổ chức. Tích cực phối hợp với các địa phương để xây dựng các phố sách, đường sách tại các khu dân cư, đồng thời vận động hội viên tham gia các hoạt động phố sách, đường sách tại địa phương. Tăng cường hợp tác quốc tế; chú trọng phát triển quan hệ hợp tác quốc tế với Hiệp hội Xuất bản Đông Nam Á và Hiệp hội Xuất bản châu Á – Thái Bình Dương. Thứ tư , tiếp tục kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của Hội, đáp ứng bước phát triển nhanh của xuất bản và vị thế mới của Hội Xuất bản hiện nay. Hội cần quan tâm hơn nữa đến công tác phát triển hội viên, thu hút đông đảo các hội viên đang hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, phát hành; đồng thời mở rộng thu hút các hội viên đang hoạt động trên các lĩnh vực liên quan tạo động lực cho phát triển xuất bản và văn hóa đọc như: truyền thông, thư viện, công nghệ số… Trong tổ chức, Hội Xuất bản Việt Nam sớm nghiên cứu để triển khai xây dựng chi hội, liên chi hội tại các địa phương, tạo hệ thống cơ sở nhằm thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ chính trị, nghề nghiệp; gắn nhiệm vụ phát triển hội viên với việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho hội viên về truyền thống vẻ vang, đóng góp quan trọng; về vai trò, sứ mệnh của hoạt động xuất bản để từ đó cổ vũ, động viên, nâng cao trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp. Thứ năm, đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong Hội Xuất bản Việt Nam và trong các nhà xuất bản, công ty phát hành sách theo tinh thần của Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, bằng những chương trình, kế hoạch thực hiện cụ thể, sát hợp với thực tế, tạo chuyển biến tích cực trong xây dựng và phát triển Hội. Bên cạnh đó, Hội Xuất bản Việt Nam tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho hội viên. Thưa các đồng chí, quý vị đại biểu, khách quý! Tại Đại hội này, cùng với việc thảo luận, đóng góp ý kiến tâm huyết vào Báo cáo chính trị, Điều lệ Hội, tôi đánh giá cao, với tinh thần trách nhiệm, dân chủ, tập trung trí tuệ, Đại hội sáng suốt lựa chọn bầu ra Ban Chấp hành Hội khóa V là các đồng chí đại biểu tiêu biểu có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, trách nhiệm, tâm huyết với công tác Hội. Chúng ta tin tưởng rằng, sau Đại hội này, trong xã hội mà trước tiên là những cán bộ, hội viên, những người làm công tác xuất bản sẽ có nhận thức mới, khí thế mới, tạo đà phát triển ngành xuất bản nước ta hiệu quả hơn. Hoạt động của Hội Xuất bản Việt Nam sẽ có nhiều đổi mới, nâng tầm, bứt phá hơn nữa, đóng góp xứng đáng vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Với những tình cảm trân trọng và niềm tin tưởng sâu sắc, một lần nữa, thay mặt Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tôi xin chúc Đại hội đại biểu Hội Xuất bản Việt Nam thành công tốt đẹp. Chúc đội ngũ những người làm công tác xuất bản, các quý vị đại biểu, khách quý luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công! Xin trân trọng cảm ơn!
Toàn văn phát biểu của ông Nguyễn Trọng Nghĩa tại Đại hội đại biểu Hội Xuất bản
3,336
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà mong muốn GFANZ sẽ chủ động tham gia dẫn dắt quá trình thực hiện cam kết giảm phát thải ròng khí nhà kính bằng 0, Thỏa thuận chuyển đổi năng lượng công bằng - Ảnh: VGP/Minh Khôi. Chiều 13/7, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã tiếp bà Alice Carr, Giám đốc Điều hành chính sách công của Liên minh tài chính Glasgow vì mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0. Chào mừng bà Alice Carr và đoàn công tác đến thăm, làm việc tại Việt Nam, Phó Thủ tướng nhắc lại một số nội dung trao đổi với bà Alice Carr về các giải pháp, lộ trình thực hiện cam kết giảm phát thải ròng khí nhà kính bằng 0 (net zero), Thỏa thuận chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) cũng như những công việc mà Việt Nam đã triển khai. “Việt Nam đã chuẩn bị rất kỹ càng, vấn đề là lựa chọn các dự án cụ thể để thực hiện đem lại hiệu quả, thiết thực”, Phó Thủ tướng nói và mong muốn GFANZ sẽ chủ động tham gia dẫn dắt quá trình thực hiện net zero, JETP. Theo Phó Thủ tướng, chuyển đổi năng lượng là xu thế không thể đảo ngược, là định hướng phát triển mới cho nền kinh tế. Tài chính, cùng với công nghệ, nguồn nhân lực là 3 yếu tố quan trọng nhất đối với chuyển đổi năng lượng. Do vậy, các định chế tài chính cần cải cách, thay đổi về tổ chức, phương thức, mục tiêu hoạt động… để phù hợp với xu thế chuyển đổi năng lượng hiện nay. Hiện Việt Nam đã có các dự án năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) với công suất khoảng 9.000 MW. Trong Quy hoạch Điện VIII cũng dành không gian rất lớn cho năng lượng tái tạo, trong đó, có kế hoạch xây dựng một số trung tâm điện gió ngoài khơi, phát triển điện mặt trời áp mái, xây dựng lưới điện thông minh, bảo đảm sự cân bằng và ổn định của hệ thống năng lượng, khuyến khích tự sản xuất và tiêu thụ điện mặt trời tại chỗ… Một số doanh nghiệp của Việt Nam sẽ được giao thực hiện thí điểm một số dự án chuyển đổi năng lượng để hoàn thiện công nghệ, thể chế, chính sách đầu tư, công nghệ… và các vấn đề liên quan. Bên cạnh năng lượng, Việt Nam cũng ưu tiên cho các dự án chuyển đổi xanh trong nhiều lĩnh vực khác, như giao thông, nông nghiệp… Phó Thủ tướng cho rằng, cần có tầm nhìn trung hạn, dài hạn cho các dự án chuyển đổi năng lượng tái tạo với nguồn tài chính bền vững để giải quyết các vấn đề xã hội, việc làm khi giảm dần sử dụng năng lượng hóa thạch; giúp doanh nghiệp vững tâm thực hiện chuyển đổi xanh. Hiệu quả của các dự án năng lượng tái tạo không chỉ đối với nhà đầu tư, mà còn có lợi cho các mục tiêu toàn cầu về ứng phó biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng quan tâm đến hoạt động giáo dục, đào tạo, nghiên cứu về năng lượng tái tạo, nhiên liệu mới; mong muốn GFANZ chuyển giao kinh nghiệm phát triển năng lượng tái tạo tại các nước đang phát triển, từ đó, thiết lập hình thức kết nối, hợp tác hiệu quả với Việt Nam. Bà Alice Carr cho rằng, cần nhanh chóng hình thành khung chính sách tài chính toàn cầu để thúc đẩy Thỏa thuận chuyển đổi năng lượng công bằng – Ảnh: VGP/Minh Khôi. Cảm ơn Phó Thủ tướng dành thời gian tiếp, bà Alice Carr đánh giá cao việc Việt Nam đã ban hành Quy hoạch Điện VIII làm căn cứ để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra trong net zero, JETP. Bà Alice Carr khẳng định, sự tham gia của GFANZ và các định chế tài chính thành viên là rất quan trọng để đưa ra kế hoạch cụ thể, ưu tiên trong tiến trình chuyển đổi năng lượng, phát triển nền kinh tế xanh. Chia sẻ với các vấn đề được Phó Thủ tướng nêu ra, bà Alice Carr cho rằng cần thúc đẩy mạnh mẽ nhằm nhanh chóng hình thành khung chính sách tài chính toàn cầu để thúc đẩy JETP. “GFANZ mong muốn hợp tác chặt chẽ với Việt Nam trong tiến trình chuyển đổi năng lượng, xác định lĩnh vực ưu tiên, trên cơ sở những lợi thế so sánh riêng có, như phát triển lưới điện thông minh, điện gió ngoài khơi, nghiên cứu công nghệ sản xuất, lưu trữ, vận chuyển, sử dụng nhiên liệu mới…”, Giám đốc Điều hành chính sách công của GFANZ bày tỏ. Bà Alice Carr chia sẻ mong muốn GFANZ được tạo điều kiện tham gia thường xuyên vào hoạt động của Ban Thư ký thực hiện JETP; cũng như các dự án thí điểm về chuyển đổi năng lượng để xác định mô hình, kết cấu hiệu quả, phù hợp nhất trong việc sử dụng nguồn tài chính, có tính cạnh tranh cao nhất, phù hợp với khả năng chi trả của người dân. GFANZ cũng sẽ dành những khoản tài chính cho hoạt động đổi mới công nghệ về lưới điện thông minh, chuyển đổi năng lượng hóa thạch…
Cần tầm nhìn dài hạn khi đầu tư năng lượng tái tạo, chuyển đổi xanh
897
Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Phan Văn Mãi phát biểu trong lễ phát động vào sáng 13/7 (Ảnh: Trung Sơn). Đây là chủ đề Cuộc vận động sáng tác và dàn dựng, quảng bá tác phẩm văn học, nghệ thuật hướng đến kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025) do UBND TP Hồ Chí Minh phát động sáng ngày 13/7. Phát biểu tại lễ phát động, đồng chí Trần Thế Thuận, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao TP Hồ Chí Minh cho biết, cuộc vận động nhằm phát huy năng lực sáng tạo của văn, nghệ sĩ Thành phố và cả nước khi tham gia sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao, ca ngợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, công cuộc xây dựng và phát triển TP Hồ Chí Minh văn minh, hiện đại và nghĩa tình. Cuộc vận động mở rộng lĩnh vực tham dự với đa dạng thể loại, hình thức. Trong đó, mảng âm nhạc gồm ca khúc, giao hưởng, nhạc kịch. Điện ảnh gồm: phim tài liệu, phim truyện điện ảnh, kịch bản phim điện ảnh. Kiến trúc với tác phẩm có không gian kiến trúc dưới 2.000m2, hoặc tác phẩm có không gian kiến trúc từ 2.000 m2 trở lên. Múa đa dạng như múa tình tiết, thơ múa, tổ khúc múa hoặc kịch múa. Mỹ thuật gồm tranh, tượng, cụm tranh, cụm sắp đặt, tượng đài, cụm tượng đài, tranh hoành tráng. Nhiếp ảnh có ảnh đơn, bộ ảnh, sách ảnh. Sân khấu với các bộ môn kịch nói, cải lương, hát bội, kịch bản các loại hình hoặc vở diễn hoàn chỉnh có thời lượng dàn dựng từ 90 phút trở lên. Văn học với tập truyện ký, tập truyện ngắn, tập thơ, tiểu thuyết. Đối tượng tham gia là cá nhân, tập thể; tác giả, nhóm tác giả, chủ sở hữu tác phẩm là công dân Việt Nam, người có quốc tịch nước ngoài đang sinh sống, học tập, làm việc tại Việt Nam. Mỗi tác giả có thể tham gia nhiều thể loại, lĩnh vực khác nhau. Các kịch bản, tác phẩm văn học nghệ thuật tham gia Cuộc vận động là kịch bản, tác phẩm được công bố từ ngày 1/1/2022 đến 30/4/2024 và chưa đoạt giải bất kỳ cuộc thi hoặc cuộc vận động nào. Phát biểu tại buổi lễ phát động, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Phan Văn Mãi thay mặt lãnh đạo TP cảm ơn lực lượng văn, nghệ sĩ thời gian qua đã có những tác phẩm văn học, nghệ thuật phản ánh đời sống, nỗ lực, cống hiến của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân trong công cuộc xây dựng TP. Các tác phẩm giúp đời sống văn học, nghệ thuật, đời sống tinh thần của người dân TP Hồ Chí Minh ý nghĩa, phong phú hơn; đồng hành, động viên cho sự nghiệp xây dựng TP. Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Phan Văn Mãi bày tỏ mong muốn văn nghệ sĩ của TP và cả nước, văn nghệ sĩ sống ở nước ngoài, người nước ngoài sinh sống, yêu mến TP Hồ Chí Minh, người sáng tác không chuyên cùng tham gia để cuộc vận động thêm sôi nổi, ý nghĩa. Những tác phẩm không chỉ làm phong phú đời sống tinh thần cho người dân, mà còn góp phần vào công cuộc xây dựng, phát triển thành phố thịnh vượng, hạnh phúc. Về giải thưởng, đồng chí Phan Văn Mãi khẳng định, Thành phố sẽ có cơ chế giải thưởng xứng đáng cho tác phẩm tham gia, đoạt giải; đồng thời đầu tư dàn dựng, quảng bá các tác phẩm đoạt giải. Lễ công bố kết quả Cuộc vận động sáng tác sẽ diễn ra ngày 30/4/2025./.
‘Thành phố Hồ Chí Minh – 50 năm tự hào bản anh hùng ca’
640
Phát triển sách nói là một trong những vấn đề nổi bật được bàn luận tại Đại hội đại biểu Hội Xuất bản Việt Nam lần thứ 5. (Ảnh: THÀNH ĐẠT). Không nằm ngoài xu thế phát triển của các xuất bản phẩm điện tử trên thế giới, sách nói ngày càng được ưa chuộng ở nước ta, đáp ứng kịp thời những thay đổi trong hành vi của người dùng theo hướng tiện dụng và hiện đại hơn. Với chủ đề “Hội Xuất bản Việt Nam, đổi mới, hội nhập và phát triển”, Đại hội đại biểu Hội Xuất bản Việt Nam lần thứ 5, nhiệm kỳ 2023-2028 đã diễn ra vào ngày 12/7 tại Hà Nội. Bên cạnh đánh giá kết quả hoạt động trong khóa IV và đề ra phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới, Hội cũng đã bàn luận về việc nâng cao văn hóa đọc, nâng cao chất lượng Giải thưởng sách Quốc gia, vấn nạn sách giả, số hóa ngành xuất bản,… Trong số những nội dung được đề cập tại Đại hội, vấn đề phát triển thể loại sách nói đã thu hút nhiều sự quan tâm từ các đơn vị xuất bản và các cơ quan thông tấn, báo chí. Sách nói, một sự kết hợp giữa xuất bản truyền thống và công nghệ mới sẽ trở thành động lực, thúc đẩy ngành này thích ứng với quá trình chuyển đổi số nhanh chóng hơn. Báo cáo kết quả hoạt động của Hội Xuất bản Việt Nam khóa IV, đồng chí Hoàng Phong Hà, Phó Chủ tịch thường trực Hội cho biết: “Trong 5 năm qua, các nhà xuất bản, các đơn vị liên kết xuất bản đã cố gắng nắm bắt xu thế phát triển hiện đại trên thế giới, nghiên cứu kỹ nhu cầu của bạn đọc. Sách mới, sách hot được đẩy mạnh truyền thông trên các nền tảng công nghệ, mạng xã hội. Xuất hiện nhiều phương thức xuất bản và phát hành mới, đặc biệt là xuất bản gắn liền với phát hành sách nói, sách ngắn”. Ở các quốc gia có nền văn hóa đọc phát triển, sách nói đã và đang nhận được nhiều sự chú ý của công chúng. Dần dần, ngành này trở thành mảng kinh doanh có tốc độ tăng trưởng nhanh trong lĩnh vực phát hành, xuất bản. Theo Hiệp hội các nhà xuất bản âm thanh (APA), doanh thu sách nói toàn cầu đã tăng mạnh trong 10 năm qua. Ước tính, thị trường sách nói của thế giới sẽ đạt quy mô trên 30 tỷ USD vào năm 2030. Phản hồi này cho thấy, chuyển dịch từ vận hành truyền thống sang kỹ thuật số là hướng đi đúng đắn của ngành xuất bản. Tại Việt Nam , sách điện tử, sách nói cũng đã ghi những dấu mốc ấn tượng vào suốt thời gian qua. Theo Cục Xuất bản, In và Phát hành, tổng kết năm 2022, có 3.200 xuất bản phẩm điện tử được phát hành, thu về 15 triệu lượt người sử dụng. Con số này tương đương với 32-35 triệu bản sách được đọc, tăng 59% so với năm 2021. Nắm bắt thị hiếu của công chúng, nhiều nhà xuất bản đã xây dựng các nền tảng, ứng dụng về sách trên Internet. Độc giả có thể tiếp cận sách, báo bằng những nội dung được tích hợp đa phương tiện. Nhờ đó, các ấn phẩm mới, tri thức mới được truyền tải một cách thú vị và nhanh chóng. Song song với việc thay đổi trong cách thức truyền tải nội dung, thị trường sách cũng cần mạnh dạn đón nhận những đổi mới về phương thức kinh doanh. Hiện nay, nhiều đơn vị phát hành sách nói đang kinh doanh theo 2 hình thức: bán theo từng cuốn và bán theo từng gói cước, thuê bao. Trên thực tế, nhiều người còn e ngại sử dụng mô hình bán theo gói cước vì có thói quen mua sách truyền thống (mua theo cuốn) từ lâu. Điều này dẫn đến những hạn chế trong việc cung cấp, thử nghiệm các dịch vụ của nhà sản xuất sách nói đối với người dùng. Muốn sách nói phát triển bền vững, các đơn vị xuất bản cần mạnh dạn đón nhận cái mới. Hiểu chính xác về quy mô thị trường sẽ giúp những cơ quan, doanh nghiệp có lộ trình phù hợp, đặc biệt là khi định giá bản quyền và kỳ vọng doanh thu. Đồng thời, độc giả cũng nên cởi mở, trao cơ hội cho những dịch vụ mới để gia tăng trải nghiệm mới mẻ, góp phần gìn giữ và phát triển văn hóa đọc. Công nghệ thông tin tiến bộ đã mở ra cánh cửa lớn cho việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong ngành xuất bản. Bên cạnh đọc văn bản theo cách thông thường, độc giả có thể trải nghiệm nội dung bằng âm thanh, hình ảnh, video. Nhờ đó, họ được tương tác nhiều hơn với tác phẩm, hiểu hơn về nội dung và thông điệp của sách. Đối với loại hình sách nói, công nghệ giữ vai trò quan trọng trong công tác triển khai nội dung, quản lý đội ngũ và vận hành nền tảng. Có thể kể đến một số ứng dụng sách nói được ưa chuộng tại nước ta như Waka, VoizFM, Fonos, Reavol… Rõ ràng, ưu điểm lớn nhất của trí tuệ nhân tạo trong sản xuất sách nói là tốc độ. Nếu không bàn về chất lượng, chỉ tính về số lượng thì trong một ngày, AI có thể sản xuất hàng trăm đầu sách nói. Thế nhưng, chất lượng vẫn là yếu tố tiên quyết đối với phát hành sách. Tính đến nay, nhiều nền tảng đã thử nghiệm AI vào khâu đọc sách và nhận về nhiều phản hồi. VoizFM cũng là đơn vị thí điểm giọng đọc AI ở một số nội dung ngắn như mục Tóm tắt 30 giây. Song cả người dùng lẫn công ty sản xuất đều chưa hài lòng với kết quả mà hoạt động này mang lại. Ông Lê Hoàng Thạch, Giám đốc Công ty TNHH Công nghệ WeWe, đơn vị sở hữu nền tảng VoizFM chia sẻ: “Thanh âm đi thẳng vào tâm hồn. Giọng đọc phải tốt mới có thể truyền tải trọn vẹn cảm xúc và nội dung của cuốn sách. Đây là điều mà trí tuệ nhân tạo chưa làm được”. Ông Lê Hoàng Thạch, Giám đốc Công ty TNHH Công nghệ WeWe trình bày tham luận về chủ đề sách nói tại Đại hội. (Ảnh: THÀNH ĐẠT). Hiện nay, đa số nội dung trên ứng dụng này vẫn do con người thực hiện. Truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết văn học là các thể loại chiếm phần lớn thị phần lượt nghe. Những thể loại này càng đòi hỏi giọng đọc phải thể hiện đa dạng và chân thực các cảm xúc. Bởi sách nói không có sự bổ trợ từ hình ảnh và độc giả cũng chẳng thể dừng lại trên trang giấy để đọc lại câu, từ như sách thông thường. Để sử dụng trí tuệ nhân tạo một cách hiệu quả, các đơn vị phát hành sách nói cần thử nghiệm, chọn lọc kỹ lưỡng trước khi đưa các tính năng khai thác từ AI vào hoạt động. AI có thể giúp các nhà xuất bản sách nói xây dựng một môi trường kết nối trực tiếp với độc giả, tăng tính tương tác và tạo dựng cộng đồng thích nghe sách trực tuyến. Ngoài ra, những giải pháp công nghệ cũng sẽ góp phần giải quyết hai bài toán khó của các cơ sở phát hành sách nói: chất lượng thu âm và tốc độ thẩm định nội dung. Hoạt động này sẽ giúp giảm bớt thời gian, tránh lãng phí về nguồn lực và kinh phí cho các đơn vị xuất bản. “Trong năm nay, VoizFM sẽ ứng dụng AI vào khâu biên tập để rà soát các nội dung được chuyển hóa từ văn bản sang âm thanh, nhằm đảm bảo độ chính xác so với bản gốc. Chúng tôi cũng sẽ dùng AI trong việc phân tích dữ liệu để nắm bắt nhu cầu của người dùng. Từ đó, gợi ý những tác phẩm phù hợp với thị hiếu khách hàng và dự báo các sách có thể được chú ý trong tương lai để sớm thu mua bản quyền”, ông Lê Hoàng Thạch cho biết thêm. Kích thích sức mua sách giấy bằng sách nói Không chỉ trực tiếp tăng doanh thu cho ngành xuất bản, sách nói còn gián tiếp mang lại nguồn lợi cho ngành này bằng việc kích thích sức mua sách giấy và lan tỏa văn hóa đọc đến rộng rãi người dùng. Khảo sát từ nền tảng sách nói Voiz FM cho thấy, gần 60% khách hàng của ứng dụng này đã mua thêm một bản sách giấy đối với những tác phẩm mà họ yêu thích. Vì thế, có thể xem sách nói như một mảng bổ khuyết, nâng cao chất lượng trải nghiệm, hỗ trợ phát triển sách giấy thông qua việc giới thiệu các sản phẩm sách trên không gian trực tuyến.
Sách nói – động lực số hóa ngành xuất bản trong thời đại 4.0
1,534
Hải Phòng tăng tốc giải ngân vốn đầu tư công và các chương trình khác. Ảnh minh họa: An Đăng/TTXVN. Quy hoạch đã định hướng xây dựng cảng Nam Đồ Sơn gắn với việc thành lập Khu kinh tế ven biển Nam Hải Phòng nhằm khai thác tiềm năng lợi thế về kinh tế biển, mở rộng không gian phát triển kinh tế… Là địa phương có vị trí đặc biệt quan trọng của cả nước, Hải Phòng đang hội tụ đủ các lợi thế để phát triển bứt phá. “Xây dựng Quy hoạch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn năm 2050 là cơ hội để Hải Phòng đánh giá quá trình phát triển, xem đâu là tiềm năng, điểm nghẽn, rào cản trong phát triển. Đồng thời, sắp tới cần phải làm gì để tạo động lực, tư duy, tầm nhìn, giá trị mới”, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Chủ tịch Hội đồng thẩm định quy hoạch tỉnh khẳng định. Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, hiện, cả nước đang gấp rút tiến hành lập quy hoạch theo quy định của Luật Quy hoạch và Hải Phòng là địa phương thứ 43 được tiến hành thẩm định; cùng với đó là các quy hoạch vùng cũng đang được thực hiện. Tại Hội nghị Thẩm định quy hoạch thành phố Hải Phòng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 mới diễn ra mới đây, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đánh giá cao, thành phố Hải Phòng đã quan tâm, phối hợp với các bộ, ngành nhằm đẩy nhanh tiến độ lập, để tiến hành thẩm định. Đây là cơ hội quý để đánh giá quá trình phát triển, xem đâu là tiềm năng, điểm nghẽn, rào cản trong phát triển; sắp tới phải làm gì để tạo động lực, tư duy, tầm nhìn, giá trị mới. Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, Hải Phòng là địa phương có vị trí đặc biệt quan trọng của cả nước. Hải Phòng đang hội tụ đủ các lợi thế để phát triển bứt phá trong thời kỳ quy hoạch, đó là sở hữu đầy đủ 5 phương thức vận tải giao thông cùng các điều kiện về thiên nhiên, con người, lịch sử văn hóa… Tuy nhiên, Hải Phòng cũng đang đối diện những thách thức trong việc hiện thực hóa tầm nhìn trên. Theo đánh giá của đơn vị tư vấn lập quy hoạch, kinh tế biển Hải Phòng hiện có 5 yếu điểm mà nếu không được khắc phục trong thời gian tới, sẽ khó có bứt phá phát triển kinh tế biển nói riêng và toàn bộ kinh tế Hải Phòng nói chung. Đó là dịch vụ cảng còn manh mún trong tổ chức, không hình thành được hệ thống tổ chức logistics hiện đại và không giảm được chi phí logistics trên mỗi đơn vị hàng hóa; chậm triển khai 4 bến cảng Lạch Huyện. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thủy vốn là một trong những thế mạnh của Hải Phòng, nhưng hiện gặp không ít khó khăn khi muốn phục hồi lại vị thế và vai trò cần có. Du lịch biển Hải Phòng cũng có thể coi là một khâu yếu nếu so sánh với một số tỉnh, thành phố ven biển khác như: Quảng Ninh, Huế, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu… “Vậy đâu là bài toán đột phá, đâu là bước phát triển cần phải tiếp cận theo tư duy, tầm nhìn dài hạn. Hải Phòng cần xác định đang ở đâu và vị thế trong thời gian tới đối với vùng, đất nước để sắp xếp không gian, phát huy và huy động nguồn lực, có lộ trình để thực hiện các mục tiêu đề ra”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho hay. Hàng hóa xuất, nhập khẩu qua cảng Hải Phòng luôn sôi động. Ảnh: An Đăng/TTXVN. Với vị thế chiến lược là cửa ngõ chính ra biển của các địa phương miền Bắc, kết nối các tuyến giao thông hàng hải quốc tế, theo ông Nguyễn Văn Tùng, Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, thành phố đã xác định 2 mục tiêu, định hướng phát triển lớn đưa ra trong quy hoạch. Theo đó, Hải Phòng là một cực phát triển quan trọng trong tam giác phát triển Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Là động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả nước, Hải Phòng phát triển không chỉ vì thành phố mà vì cả khu vực và cả nước theo đúng tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/01/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đặc biệt, quy hoạch thành phố đã định hướng xây dựng cảng Nam Đồ Sơn gắn với việc thành lập Khu kinh tế ven biển Nam Hải Phòng và kết nối đường cao tốc ven biển, sân bay Tiên Lãng nhằm khai thác tiềm năng lợi thế về kinh tế biển, mở rộng không gian phát triển kinh tế, tăng cường liên kết vùng. Chủ tịch Nguyễn Văn Tùng cho biết, theo Quy hoạch thành phố Hải Phòng, quy hoạch xác định mục tiêu phát triển đến năm 2030 xây dựng và phát triển Hải Phòng trở thành thành phố cảng biển lớn, đi đầu cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển đổi số; là động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả nước… Trong thời kỳ quy hoạch, thành phố sẽ tập trung thực hiện 3 đột phá phát triển; đó là: cảng biển và logistics với định hướng xây dựng thành phố Hải Phòng trở thành trung tâm logistics quốc tế hiện đại. Xây dựng cảng cửa ngõ Lạch Huyện và cảng Nam Đồ Sơn thành cụm cảng cửa ngõ quốc tế có chức năng trung chuyển container; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực dịch vụ cảng biển và logistics; mở rộng không gian phát triển khu kinh tế ven biển trên địa bàn thành phố. Tiếp đến là, chuyển đổi số toàn diện theo Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, phấn đấu trở thành một trong những địa phương đi đầu cả nước về chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số, xã hội số và kinh tế số. Phát triển mạnh kinh tế số, trước hết là ba trụ cột kinh tế: công nghiệp công nghệ cao, cảng biển – logistics, du lịch – thương mại; đồng thời, hình thành và phát triển môi trường số an toàn, tiện ích, phục vụ tối đa nhu cầu sản xuất, kinh doanh và đời sống của dân cư. Cùng với đó là, xây dựng quần thể du lịch biển Hải Phòng (Cát Bà – Đồ Sơn) có sức hấp dẫn cao, thu hút mạnh mẽ khách du lịch quốc tế và trong nước, phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mạnh của thành phố. Liên kết với các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là Quảng Ninh và các tỉnh Duyên hải Đông Bắc, trở thành trung tâm du lịch kết nối với khu vực và thế giới. Tầm nhìn đến năm 2050, Hải Phòng là thành phố cảng lớn trong khu vực và thế giới, thành phố hàng hải toàn cầu với ba trụ cột phát triển chính (dịch vụ cảng biển; công nghiệp xanh, thông minh, hiện đại và trung tâm du lịch biển quốc tế); có trình độ phát triển cao, môi trường sống tốt, thân thiện với tự nhiên và thích ứng với biến đổi khí hậu, ngang tầm với các thành phố cảng hàng đầu châu Á và thế giới. Để sớm hoàn thiện nội dung quy hoạch theo quy định của pháp luật về quy hoạch, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng yêu cầu UBND Thành phố Hải Phòng chỉ đạo cơ quan lập quy hoạch nghiêm túc tiếp thu, giải trình và hoàn thiện Hồ sơ quy hoạch theo ý kiến tham gia thẩm định của các bộ, cơ quan ngang bộ; ý kiến các chuyên gia phản biện; ý kiến của các cơ quan tham vấn và ý kiến đối với Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược và kết luận của Hội đồng thẩm định tại Báo cáo thẩm định. “Quy hoạch thành phố Hải Phòng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 cần xác định được các định hướng, tư duy đột phá để phát triển thành phố Hải Phòng không chỉ là một cực phát triển quan trọng trong tam giác phát triển Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh mà còn là động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả nước”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh./.
Quy hoạch thời kỳ 2021-2030, cơ hội để Hải Phòng bứt phá
1,483
Hơn 350 vật phẩm từ một trận chiến La Mã cổ đại đã được khai quật. Hàng trăm vũ khí từ thời La Mã đã được khai quật trong một công viên thành phố ở phía đông nam nước Pháp. Theo tờ Le Figaro, những vũ khí được phát hiện này được cho là tàn dư của Trận chiến Lyon, diễn ra vào ngày 19/2/197 sau Công nguyên. Đây được xem là trận chiến lớn nhất giữa hai đội quân La Mã. Số vũ khí từ trận chiến La Mã được tìm thấy dưới lòng đất ở công viên Clos de la Visitation thuộc thành phố Lyon ( Pháp ), bao gồm các đầu mũi tên, mảnh vũ khí và thiết bị quân sự, thậm chí cả đầu người đã bị chặt bỏ. Trong số hơn 350 đồ vật được phát hiện, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy mũ sắt, mũi giáo, kiếm và hai móc câu bằng đồng. Phát hiện này được các nhà khảo cổ học công bố sau khi tham gia khai quật dưới lòng đất ở công viên Clos de la Visitation. Hoạt động này bắt đầu từ hôm 3/7, só sự tham gia của sinh viên. Chia sẻ với tạp chí Lyon Capitale, sinh viên tại Đại học Lyon 2, Caroline Lefèvre nói rằng: “Thật tuyệt khi tôi được tham gia vào lĩnh vực này. Đó là một sự khác biệt hoàn toàn với lý thuyết”. Khu vực được nhóm nghiên cứu khai quật được cho là nằm tại một nhà kho cất giữ vũ khí – địa điểm đắc địa để tìm kiếm những di vật từ trận chiến La Mã. Những cuộc khai quật này sẽ giúp các nhà nghiên cứu hiểu được “niên đại của doanh trại đội quân, hình thức và chức năng của chúng”. Benjamin Clémenti, gáo sư và nhà nghiên cứu tại Đại học Franche-Comté và giám đốc của các cuộc khai quật này cho biết: “Các cấp độ của các doanh trại này có liên quan đến trận chiến nổi tiếng của Lyon vào ngày 19/2/197”. Trận chiến Lyon, còn được gọi là Trận Lugdunum, xảy ra giữa quân đội của hoàng đế La Mã Septimius Severus và kẻ soán ngôi La Mã Clodius Albinus. Tổng quân số của cả hai quân đội được cho là lên tới 300.000 người. Hoàng đế La Mã Septimius Severus đã giành chiến thắng trong trận chiến, chặt đầu Clodius Albinus. Tuy nhiên, các nhà khảo cổ cho biết, sẽ không tiến hành các cuộc khai quật trong năm tới vì các nhà nghiên cứu mong muốn tập trung thời gian này để nghiên cứu những phát hiện từ trước và xuất bản một số tài liệu nghiên cứu về di tích.
Phát hiện lô vũ khí cổ đại đặc biệt từ trận chiến La Mã
442
Tối 13-7, Sở Ngoại vụ phối hợp Tổng Lãnh sự quán Nhật Bản tại Đà Nẵng, chính quyền các địa phương Nhật Bản tổ chức khai mạc Lễ hội Việt Nam – Nhật Bản tại Đà Nẵng lần thứ 8 năm 2023 tại Công viên Biển Đông, quận Sơn Trà . Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Quảng (bên trái) và Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố Hồ Kỳ Minh dự lễ khai mạc. Ảnh: X.D. Đến dự có đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam, Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Yamada Takio, Tổng Lãnh sự Nhật Bản tại Đà Nẵng Yakabe Yoshinori. Về phía thành phố có Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Nguyễn Văn Quảng; Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố Hồ Kỳ Minh. Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố Hồ Kỳ Minh phát biểu tại lễ khai mạc. Ảnh: X.D. Phát biểu tại lễ khai mạc, Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố Hồ Kỳ Minh cho biết, những năm qua, hợp tác giữa Đà Nẵng và các địa phương Nhật Bản không ngừng phát triển, đạt nhiều kết quả thiết thực, trở thành điểm sáng trong quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Nhật Bản . Đến nay, Đà Nẵng có quan hệ hợp tác với 20 tỉnh, thành phố của Nhật Bản; trong đó đã thiết lập quan hệ hữu nghị và hợp tác chính thức với 4 thành phố của Nhật Bản gồm: Kawasaki, Sakai, Yokohama và Kisarazu. Nhật Bản luôn là một trong những đối tác hàng đầu tại Đà Nẵng. Các dự án FDI Nhật Bản tại thành phố đóng góp tích cực vào thúc đẩy vào sự phát triển kinh tế – xã hội của Đà Nẵng thông qua chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao tính cạnh tranh. Một điểm nhấn quan trọng trong bức tranh giao lưu văn hóa, tăng cường tình hữu nghị và sự hiểu biết về xứ Phù Tang – Nhật Bản tại Đà Nẵng đó là Lễ hội Việt Nam – Nhật Bản, được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2014. Qua 7 lần tổ chức, lễ hội này đã trở thành sự kiện văn hóa thường niên có ý nghĩa không chỉ đối với người dân Đà Nẵng, những người Nhật sống đang sống và làm việc tại thành phố mà còn đối với du khách gần xa. “Tôi mong mọi người dân và du khách hãy đồng hành cùng sự kiện này để góp phần chung tay kiến tạo nền tảng cho sự phát triển quan hệ hai nước trong 50 năm tiếp theo và hơn nữa. Sự ủng hộ của nhân dân hai nước sẽ tạo tiền đề cho sự thăng hoa trong quan hệ ngoại giao và bùng nổ trong hợp tác kinh tế”, Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố Hồ Kỳ Minh nhấn mạnh. Năm nay, lễ hội diễn ra từ ngày 13 đến 16-7 tại công viên Biển Đông; có 80 gian hàng đến từ các thương hiệu lớn trong và ngoài nước, cũng như đa dạng các hoạt động đồng hành, trải rộng trên nhiều lĩnh vực như văn hóa, giáo dục, du lịch, thể thao và các hoạt động xúc tiến đầu tư, kinh doanh. Đặc biệt, lễ hội có nhiều hoạt động giao lưu văn hóa giữa hai nước, nổi bật là chương trình nghệ thuật 4 đêm liên tục giới thiệu nghệ thuật tuồng và nhạc cụ dân tộc Việt Nam, trà đạo, viết thư pháp, cắm hoa Nhật Bản… đem đến cho khán giả những màn biểu diễn mang đậm nét văn hóa của hai dân tộc. Ngoài ra, lễ hội còn có những tiết mục đặc sắc như “Cuộn sushi khổng lồ” của đầu bếp Hoshi Phan, trình diễn đấu vật Nhật Bản, cuộc thi hóa trang nhân vật hoạt hình, giao lưu với diễn viên, ca sĩ người Nhật Bản, tác giả truyện tranh…
Đặc sắc Lễ hội Việt Nam – Nhật Bản năm 2023
667