id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
628
29.6k
gen
stringclasses
1 value
len
int64
200
2k
19831598
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mahek%20Chahal
Mahek Chahal
Mahek Chahal (tên khai sinh là Raspreet Kaur Chahal, sinh ngày 1 tháng 2 năm 1979 tại Oslo, Na Uy) là một nữ diễn viên, người mẫu và vũ công người Na Uy sinh sống và làm việc tại Ấn Độ. Cô bắt đầu sự nghiệp diễn xuất vào năm 2002 với bộ phim Telugu Neetho. Năm 2011, cô tham gia chương trình truyền hình thực tế Bigg Boss (mùa 5) và giành được vị trí á quân của chương trình. Năm 2021, cô tham gia chương trình Khatron Ke Khiladi 11. Cô còn được biết đến qua vai diễn Xà nữ Mahek trong bộ phim Nữ thần rắn báo thù. Sự nghiệp Vai diễn đầu tay (2002–2011) Cô có vai diễn đầu tay trong bộ phim điện ảnh bằng tiếng Telugu Neetho với vai diễn Shalini vào năm 2002. Năm 2008, cô vào một vai nhỏ trong bộ phim bằng tiếng Hindi Wanted với vai diễn Shaina và Main Aurr Mrs Khanna. Ngoài ra, cô cũng tham gia một số bộ phim bằng tiếng Tamil, Telugu và Hindi. Cô có vai diễn đầu tay trong mảng phim truyền hình với vai diễn khách mời trong Đội đặc nhiệm CID vào năm 2009. Bigg Boss và nhiều vai diễn khác (2011–2018) Năm 2011, cô tham gia chương trình thực tế Bigg Boss mùa thứ 5 của Colors TV giành được vị trí á quân chung cuộc. Cô cũng tham gia chương trình truyền hình thực tế Frisset của Na Uy cùng năm đó. Sau đó, cô đóng vai chính trong bộ phim hài mang tên Yamla Pagla Deewana (2011). Cô cũng đóng vai chính trong bộ phim Karar: The Deal vào năm 2014. Cô tiếp tục xuất hiện trong chương trình truyền hình thực tế Bigg Boss Halla Bol trên kênh Colors TV vào năm 2015, cô tham dự chương trình với tư cách là Người thách đấu. Năm 2016, cô thủ vai diễn phản diện Manjulika trong bộ phim thuộc thể loại kinh dị, siêu nhiên Kavach. Năm 2018, cô vào vai Adah trong bộ phim kinh dị mang tên Nirdosh. Cô từng xác nhận sẽ thủ vai diễn khách mời trong bộ phim Ek Thi Rani Ek Tha Raavan, nhưng Sara Khan là người được chọn vào vai diễn này. Tái xuất màn ảnh nhỏ và thành công nhờ vai diễn trong Nữ thần rắn báo thù (2021–nay) Năm 2021, cô tham gia chương trình thực tế Fear Factor: Khatron Ke Khiladi 11, được ghi hình tại Cape Town, Nam Phi và bị loại, xếp ở vị trí thứ 11 chung cuộc. Năm 2022, cô thủ vai phản diện Mahek Gujral trong phần 6 của bộ phim Tình người kiếp rắn. Với vai diễn này, cô được khán giả biết đến rộng rãi và đã giúp cô giành được Giải thưởng Truyền hình Ấn Độ cho Nữ diễn viên phản diện xuất sắc nhất. Danh sách tác phẩm Với tư cách là diễn viên Phim điện ảnh Phim và chương trình truyền hình Vai diễn khách mời Với tư cách là vũ công Giải thưởng và đề cử Xem thêm Danh sách nữ diễn viên truyền hình Ấn Độ Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1979 Nhân vật còn sống Nữ diễn viên điện ảnh Ấn Độ Nữ diễn viên truyền hình Ấn Độ
539
19831599
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%97%20H%C3%B9ng
Lỗ Hùng
Lỗ Hùng ( tiếng Trung giản thể :鲁雄; tiếng Trung phồn thể :魯雄; bính âm : Lǔ Xióng ) là một nhân vật phụ trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc Phong Thần Diễn Nghĩa . Lỗ Hùng là một vị tướng chỉ huy nổi tiếng đã phục vụ dưới thời nhà Thương trong nhiều năm. Vào thời điểm của phần Tô Hộ , Lỗ Hùng thông báo với nhà vua rằng tốt nhất không nên cử Sùng Hầu Hổ làm thủ lĩnh liên minh, vì nhiều sinh mạng sẽ bị lấy đi một cách không cần thiết. Vì vậy, Lỗ Hùng bảo nhà vua giao Rìu Chiến Hoàng Gia cho Cơ Xương . Trong phần Khương Hoàng Hậu, Lỗ Hùng được chọn làm người đứng đầu cầu Cửu Long trong khi vua Trụ tiến đến Tòa nhà phân giới. Trong thời gian Khương Hoàn tấn công nhà vua, Lỗ Hùng dường như không nhớ bất cứ điều gì như vậy vào ngày hôm sau. Cuối cùng thì Lỗ Hùng đã được phong làm vị thần của Bảng Phong Thần(水德星). Ghi chú [ chỉnh sửa ] ^ Phong Thần Diễn Nghĩa 99. Tài liệu tham khảo [ chỉnh sửa ] Lễ tấn phong của các vị thần chương 2 và 7
209
19831602
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng%20Nh%E1%BA%ADm
Dương Nhậm
Dương Nhậm ( tiếng Trung :楊任; bính âm : Yáng Rèn ) là một nhân vật trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc Phong Thần Diễn Nghĩa .  Ông được tôn thờ như vị thần của năm trong tôn giáo dân gian Trung Quốc. Truyền thuyết Trong Phong Thần Diễn Nghĩa , Dương Nhậm là một quan chức cấp cao của nhà Thương và có chức danh Cố vấn trưởng. Khi vụ việc " tự sát " của Khương Tử Nha kết thúc, Dương Nhậm điều tra. Sau khi sứ giả đến Sùng Hầu Hổ giải thích toàn bộ sự việc cho Dương Nhậm, Dương Nhậm bàn bạc vấn đề này với Trụ Vương . Như thường lệ, Trụ Vương vô cùng tức giận trước lời nói của Dương Nhậm và lập tức yêu cầu móc mắt ông ra để trừng phạt. Một khi quá trình này được thực hiện, Dương Nhậm nằm trên mặt đất, người đầy máu của chính mình, vô cùng kinh ngạc. Để cứu Dương Nhậm khỏi bất kỳ cuộc đổ máu nào nữa, Thanh Hư Đạo Nhân của Núi Thanh Phong Tử cung sẽ giải cứu anh ta bằng thần đèn khăn quàng vàng của mình. Trong khi Dương Nhậm đang được giữ trong vòng tay của Trụ Vương, ông thổi vào hốc mắt của Dương Nhậm và đánh thức anh ta một cách hiệu quả bằng một đôi tay có mắt trong lòng bàn tay (chứ không phải là một đôi mắt). Thanh Hư Đạo Nhân nói rằng thời gian của Dương Nhậm chưa kết thúc theo ý trời nên ông vẫn là đệ tử của Thanh Hư Đạo Nhân trong thời gian còn lại.  Cuối cùng,Dương Nhậm được phong làm vị thần của Bảng Phong Thần (甲子太歲之神). Theo tín ngưỡng, Dương Nhậm được cho là tái sinh trong một gia đình họ Kim vào thời nhà Minh . Tên anh ta là Kim Liên, còn được gọi là Kim Lăng. Kim Liên là một người ngay thẳng và đã siêng năng phấn đấu để trở thành Trợ lý Tổng kiểm duyệt. Ông phục vụ ở vùng Ninh Hạ và vận động không mệt mỏi cho sự viện trợ của chính quyền trung ương để giải quyết các vấn đề liên quan đến hạn hán cho người dân địa phương. Vì những nỗ lực của mình và sự ủng hộ của người dân, ông được mọi người trìu mến gọi là Tướng Kim Lăng. Vùng Ninh Hạ từ lâu đã phải chịu tình trạng thiếu nước, với 5 kênh nước hiện có, bao gồm kênh Sa Châu, Quí Hạn và Bộ Phi Yên, bị bồi lấp do không được bảo trì. Kim Lăng yêu cầu triều đình cấp kinh phí để kịp thời khai thông các kênh đào này, dẫn đến hơn 1.300 mẫu đất cằn cỗi được tưới tiêu. Trong thời gian đó, để khuyến khích những người giàu có đi cứu trợ thiên tai, Hoàng đế đã ban hành một sắc lệnh quy định rằng bất kỳ ai quyên góp hơn một nghìn giạ gạo cho các nỗ lực cứu trợ sẽ nhận được giấy chứng nhận chính thức có đóng dấu của Hoàng đế. Khi biết chuyện, Kim Lăng đã viết thư cho Hoàng đế, giải thích rằng vùng biên giới và vùng nội địa có giá gạo khác nhau, và do đó, ông hy vọng rằng những người quyên góp dưới một nghìn giạ ở vùng biên giới cũng có thể được công nhận. cố gắng xoa dịu. Hoàng đế nghe theo lời khuyên của Jin Bian và chấp nhận lời cầu hôn. Nhờ đó, trữ lượng ngũ cốc ở vùng biên giới ngày càng dồi dào, đảm bảo cuộc sống cho người dân. Thờ cúng [ chỉnh sửa ] Dương Nhậm được tôn thờ như một trong sáu mươi vị thần Bộ Hỏa trong tôn giáo dân gian Trung Quốc và được gọi là Giáp Tí Thái Tuế . Dương Nhậm là vị thần của năm, chịu trách nhiệm về vận mệnh tốt và xấu của thế giới. Họ thay phiên nhau giám sát mỗi năm trong chu kỳ sáu mươi năm, thường được gọi là 'Sáu mươi năm Thái Tùy'. Có hai quan niệm dân gian chính về tội Thái Tùy trong năm, một là “xung đột tích cực” và hai là “xung đột cục bộ”. Những người sinh vào một năm cụ thể có vị thần túc trực trong năm đó làm vị thần bảo trợ của họ, được gọi là 'vị thần sinh' hoặc 'vị thần hộ mệnh'. Người ta tin rằng bằng cách tỏ lòng kính trọng với vị thần khai sinh của mình, người ta có thể nhận được phước lành để có một cuộc sống suôn sẻ và tốt lành. Ở một số vùng của Trung Quốc, vị thần này được gọi là 'Người bảo vệ sự sống' hay 'Chúa tể sao sinh', được gọi chung là Sáu mươi vị thần Bộ Hỏa. Khái niệm giao diện bắt nguồn từ việc Hoàng đế thành lập mười hai nhánh trần gian để đại diện cho các hiện tượng thiên thể. Vào thời Chiến Quốc , Thái Tùy đã trở thành một vị thần trong chiêm tinh học phổ thông, nhưng không có ghi chép nào về việc thờ Thái Thủy Hành Quân trong các tài liệu trước thời nhà Hán , với ghi chép sớm nhất được tìm thấy trong Lục Hằng của Vương Xung . Có một số truyền thuyết liên quan đến nó, thường là về việc mọi người không tôn trọng hoặc phớt lờ Thái Thủy Hành Quân và phải gánh chịu tai họa. Ví dụ, trong Tây Du Kí , có câu chuyện về một ngôi nhà bị phá hủy và một gia tộc bị xóa sổ vì tầng hầm được xây dựng mà không tin vào nguy cơ khai quật được giao diện là xác thịt dưới lòng đất (Feng). Vào thời nhà Đường và nhà Tống, không có ghi chép nào về các nghi lễ trang trọng dành riêng cho Thái Tùy. Mãi đến thời nhà Nguyên, tục thờ Thái Tùy mới bắt đầu. Hoàng đế X.L lên ngôi vào năm thứ 31 của nhà Nguyên. Vào tháng 5, nghi lễ thờ Thái Tùy được tiến hành tại Hoàng Cung. Theo ghi chép lịch sử, vào thời nhà Nguyên, mỗi buổi tế Thái Tùy đều được lên kế hoạch dựa trên ngày và tháng âm lịch, và việc sắp xếp này do Học viện giao diện quản lý. Vào năm thứ hai triều đại của Hoàng đế Hồng Không , thời nhà Minh, có đề xuất xây dựng Bàn thờ Thái Tùy. Vào năm thứ tám triều đại của Hoàng đế Gia Kinh, người ta đã ra chỉ dụ rằng vào đầu mỗi năm và cuối năm, các nghi lễ đặc biệt sẽ được tổ chức để thờ cúng các vị thần giao diện và Dương Nhậm vào cùng một ngày với Đền thờ tổ tiên. Tài liệu tham khảo [ chỉnh sửa ] ^Nhảy lên:a b c ^ ^ ^ Phong Thần Diễn Nghĩa Chương 99. ^Nhảy lên:a b c ^Nhảy lên:a b ^Nhảy lên:a b ^ Lễ tấn phong của các vị thần Chương 18 trang 209 - 211
1,219
19831624
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20danh%20c%E1%BB%A7a%20V%C6%B0%C6%A1ng%20qu%E1%BB%91c%20c%E1%BB%95%20Saba%2C%20Marib
Các địa danh của Vương quốc cổ Saba, Marib
Các địa danh của Vương quốc cổ Saba, Marib () là một di sản thế giới được UNESCO công nhận bao gồm 7 địa điểm khảo cổ nối tiếp nhau ở tỉnh Marib, miền trung đông Yemen. Nó được đưa vào danh sách di sản thế giới từ ngày 25 tháng 1 năm 2023 vì là minh chứng cho vương quốc Saba cổ đại thuộc nhóm dân tộc Nam Ả Rập cổ. Đồng thời, di sản này cũng ngay lập tức bị liệt vào danh sách di sản thế giới bị đe dọa do các mối đe dọa bởi cuộc Nội chiến Yemen. Mô tả Các địa danh của Vương quốc cổ đại Saba đại diện cho một giai đoạn lịch sử ở phía Nam bán đảo Ả Rập từ thiên niên kỷ thứ 1 TCN cho đến khi Hồi giáo đến khu vực này vào khoảng năm 630, khi các vương quốc Yemen cổ đại phát triển trong môi trường khắc nghiệt và khô cằn của Bán đảo Ả Rập và phát triển mạnh mẽ nhờ hoạt động buôn bán trên Con đường hương liệu nối Nam Ả Rập với Địa Trung Hải từ khoảng thế kỷ thứ 8 TCN đến thế kỷ thứ 3, trước khi người Himyar chế ngự. Nằm tại tỉnh Marib ở miền trung đông Yemen, bảy địa điểm khảo cổ phản ánh sự giàu có của Vương quốc Saba nhờ sự kiểm soát của việc buôn bán hương liệu ở Nam Ả Rập qua những thành tựu kiến ​​trúc, thẩm mỹ và công nghệ của nó minh chứng cho một xã hội rất phức tạp được quản lý và tổ chức tốt qua các bằng chứng là nhiều dòng chữ lịch sử trên tường. Văn hóa và sự giàu có của người Saba được thể hiện rõ ràng tại hai thành phố Marib và Sirwah, các đền thờ và hệ thống tưới tiêu rộng khắp. Thủ đô Marib có tường bao quanh, từng là trung tâm hành chính, văn hóa và kinh tế của Vương quốc Saba, trong khi thành phố Sirwah cách đó khoảng 40 km về phía tây có thể đã đóng vai trò là thủ đô quân sự của vương quốc. Kiến thức công nghệ trong lĩnh vực kỹ thuật thủy văn đã cho phép người Saba tạo ra đập Marib, nơi cung cấp nước cho hệ thống tưới tiêu cải tiến của các kênh đào. Điều này cho phép họ canh tác trên một vùng lãnh thổ rộng lớn trải dài về phía bắc và phía nam Marib, khiến nó được coi là ốc đảo nhân tạo lớn nhất Ả Rập cổ đại. Dưới đây là các thành phần của Di sản thế giới được UNESCO công nhận: Tham khảo Các địa danh của Vương quốc cổ Saba Di sản thế giới tại Yemen Di sản thế giới bị đe dọa Địa điểm khảo cổ Yemen
476
19831625
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BA%BFn%20ph%C3%A1p%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20La%20M%C3%A3
Hiến pháp Cộng hòa La Mã
Hiến pháp Cộng hòa La Mã là một tập hợp các quy phạm xã hội và tập tục chưa được pháp điển hóa, cùng nhiều loại luật La Mã thành văn khác, tạo nên khung sườn pháp lý cho các chính phủ Cộng hòa La Mã hậu thế. Hiến pháp này bắt nguồn từ thời Vương quốc La Mã và đã biến hóa đáng kể — thậm chí tới độ không thể nhận ra — suốt 500 năm chiều dài lịch sử nền cộng hòa. Sự sụp đổ của chính phủ và quy phạm pháp luật thời kỳ cộng hòa bắt đầu từ năm 133 TCN đã dẫn đến sự trỗi dậy của Augustus và chế độ nguyên thủ do vị này lập ra. Hiến pháp Cộng hòa có thể được chia thành ba nhánh chính: Các hội đồng lập pháp, cấu thành bởi các tầng lớp nhân dân, đóng vai trò là cơ quan nắm giữ quyền lực chính trị tối cao, có quyền bầu cử quan tòa, chuẩn y hoặc khước từ luật pháp, thực thi công lý, tuyên chiến hoặc hòa bình; Viện nguyên lão, đóng vai trò cố vấn cho các quan tòa, chủ yếu hành động mà không cần dựa trên quyền hạn pháp lý của chính nó, mà thường nhờ vào sức ảnh hưởng, và Các quan tòa, được bầu ra bởi nhân dân để cai trị nền Cộng hòa thay mặt nhân dân, thi hành quyền lực tư pháp, quân sự và tôn giáo, và được phép chủ trì và triệu tập các hội đồng lập pháp. Một hệ thống kiểm sát và cân bằng phức tạp đã phát triển giữa ba nhánh này. Ví dụ, tuy các hội đồng lập pháp nắm mọi quyền lực trên lý thuyết, trên thực tế thì các quan tòa có toàn quyền triệu tập và điều hành các hội đồng, đồng thời có thể kiểm soát thảo luận, thi hành sức ảnh hưởng thống trị lên các hội đồng đó. Các quan tòa khác cũng có khả năng phủ quyết (veto) ý kiến trước các hội đồng, tuy nhiên tới giai đoạn hậu kỳ cộng hòa thì điều này hiếm khi xảy ra. Tương tự, để kiểm soát quyền lực của quan tòa, mỗi quan tòa lại có khả năng phủ quyết một trong những người đồng cấp; đồng thời, các quan hộ dân do tầng lớp thường dân bầu ra cũng có thể can thiệp và phủ quyết ý kiến của quan tòa. Hiến pháp phi pháp điển của Cộng hòa La Mã, tuy có thể dễ dàng bị sửa đổi và biến thiên theo từng thời kỳ, vẫn sở hữu một số quy phạm pháp luật được khắc ghi bởi phần lớn nhân dân. Các thiết chế như quan chấp chính, viện nguyên lão, và hộ quan biến hóa đáng kể trong giai đoạn sơ kỳ cộng hòa nhưng đã bắt đầu ổn định tương đối từ thế kỷ thứ 4 TCN. Với sự mở ra của thời kỳ thống trị của giới quý tộc La Mã, Xung đột Trật tự rốt cuộc đã ban cho giới bình dân các quyền lợi chính trị ngang bằng quý tộc, lập ra chế độ bảo dân để kiểm sát quyền lực quý tộc và dựng lên các hội đồng bình dân, một cơ quan do tầng lớp bình dân Roma điều hành, được toàn quyền lập pháp. Giai đoạn cộng hòa hậu kỳ chứng kiến sự tập trung quyền bính vào tay các tổng đốc địa phương, sự vận dụng quân đội để ép buộc thay đổi chính trị (ví dụ như giai đoạn độc tài Sulla), sự vận dụng vũ lực và lợi dụng các hội đồng "toàn quyền" đã bị mua chuộc hoặc bị đe dọa nhằm ban bố quyền hành tối cao cho các chỉ huy quân đội đã lập được nhiều chiến tích. Sự hợp lý hóa gia tăng của bạo lực, sự tập trung hóa quyền hành vào tay thiểu số, và sự hao mòn niềm tin vào các thiết chế chính trị, đã đưa Cộng hòa La Mã vào quỹ đạo của một cuộc nội chiến, với kết cục sau cùng là sự biến tướng của nó thành một chế độ chuyên quyền khoác vẻ ngoài cộng hòa kể từ thời Augustus. Quá trình phát triển Tham khảo Thư mục Sách chuyên khảo Bài đăng tạp chí Lịch sử Cộng hòa La Mã
748
19831634
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20nguy%C3%AAn%20th%E1%BB%A7%20qu%E1%BB%91c%20gia%20Sierra%20Leone
Danh sách nguyên thủ quốc gia Sierra Leone
Nguyên thủ quốc gia Sierra Leone là người đứng đầu Sierra Leone tính từ sau khi giành độc lập năm 1961, bao gồm cả nữ hoàng Anh, các thống đốc đại diện hoặc toàn quyền trong thời quân chủ, cho đến tổng thống được bầu sau tuyên bố thành lập nền cộng hòa năm 1971. Hiện nay, người đứng đầu nhà nước, chính phủ và tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Sierra Leone là tổng thống được bầu cử trực tiếp với nhiệm kỳ 5 năm. Được thông qua theo trưng cầu dân ý tháng 8 năm 1991, hiến pháp hiện hành giành Chương V Phần I quy định chức vụ tổng thống. Danh sách được chia thành các giai đoạn lịch sử đã được chấp nhận của Sierra Leon. Mỗi thời kỳ được mô tả phần đầu danh sách tương ứng nhằm giải thích những đặc điểm của đời sống chính trị quốc gia này khi đó. Thời quân chủ (1961-1971) Ngày 27 tháng 4 năm 1961, thuộc Anh (bán đảo gần Freetown rộng 557 km2 là thuộc địa từ năm 1808, xứ bảo hộ 71,2 nghìn km2 từ năm 1896) tuyên bố trở thành . trị vì quốc gia mới là Elizabeth II. Đại diện cho nữ vương là Toàn quyền và Tổng tư lệnh Sierra Leone (, gọi tắt là Toàn quyền). Toàn quyền được bổ nhiệm theo đề nghị từ nội các Sierra Leone mà không cần chính phủ Anh can thiệp. Nữ vương và toàn quyền có địa vị pháp lý được quy định trong Tuyên ngôn độc lập và hiến pháp dựa trên Đạo luật Westminster 1931. Ngày 17 tháng 3 năm 1967, Đảng Nhân dân Sierra Leone của Thủ tướng Albert Margai thất bại trong cuộc bầu cử Quốc hội Sierra Leone trước Đảng Đại hội Toàn dân do Siaka Stevens lãnh đạo. Vài ngày sau, Stevens được toàn quyền Henry Josiah Lightfoot Boston đưa lên làm người đứng đầu chính phủ. Cùng ngày, chuẩn tướng David Lansana ra lệnh bắt giữ Stevens và Boston, đồng thời ra thiết quân luật.. Tuy nhiên, sáng 23 tháng 3, một nhóm sĩ quan cao cấp bất đồng về việc duy trì quyền lực cho Margai đã bắt giữ và tước quyền chỉ huy của Lansana, tuyên bố thành lập , đình chỉ hiến pháp và chuyển giao quyền lực của Toàn quyền cho thủ lĩnh Hội đồng là Thượng tá Andrew Juxon-Smith. Ngày 28 tháng 3, Juxon-Smith từ Luân Đôn bay về nước. Ngày 18 tháng 4 năm 1968, Phong trào Cách mạng Chống tham nhũng () gồm các sĩ quan và binh lính bất mãn tiến hành , bắt giữ toàn bộ sĩ quan cao cấp. Hôm sau, thủ lĩnh phong trào Patrick Conteh giao lại quyền lực cho Hội đồng Lâm thời Quốc gia () do chuẩn tướng John Bangura đứng đầu (người trước đó tham gia chống chế độ quân sự tại Guinée) đảm bảo nhanh chóng chuyển sang chế độ dân sự. Ngày 22 tháng 4, hiến pháp được khôi phục, theo đó Thẩm phán Banja Tejan-Sie giữ chức Quyền Toàn quyền. Ngày 26 tháng 4, chính phủ tái tuyên thệ trước Thủ tướng Siaka Stevens. Tháng 4 năm 1971, Sierra Leone thực hiện chuyển đổi sang nước cộng hòa tổng thống chế. Ngày 31 tháng 3, dự luật có hiệu lực thay thế nguyên thủ quốc gia từ quốc vương đương nhiệm sang Chánh án Tối cao Pháp viện, Banja Tejan-Sie từ chức nhưng vẫn đảm nhận thẩm quyền Toàn quyền cho đến khi nền cộng hòa có hiệu lực từ ngày 19 tháng 4. Elizabeth II đã có chuyến thăm duy nhất tới Sierra Leone từ ngày 25 tháng 11 đến ngày 1 tháng 12 năm 1961. Bà cùng chồng là Công tước Philip đi trên du thuyền hoàng gia Britannia, sử dụng hiệu kỳ cá nhân riêng của nữ vương Sierra Leone. Danh sách Toàn quyền Đệ Nhất Cộng hòa (1971-1992) Tháng 3 năm 1971, Quốc hội Sierra Leone thông qua Luật sửa đổi hiến pháp 1961, quy định việc thay thế nguyên thủ quốc gia trong nghi lễ từ sang Chánh án , người sẽ đảm nhận chức vụ tổng thống. Ngày 19 tháng 4 năm 1971, Sierra Leone công bố thành lập nền cộng hòa và Chánh án Christopher Okoro Cole khi ấy là Quyền Toàn quyền. Trong vòng hai ngày tiếp theo, Quốc hội thông qua những điều chỉnh hiến pháp, chuyển chức vụ nghi lễ thành thành chức vụ hành pháp. Cole ngưng quyền tổng thống để quay về Tối cao Pháp viện và tuyên thệ trước Siaka Stevens (từng giữ chức Thủ tướng) được quốc hội bầu làm Tổng thống với nhiệm kỳ 4 năm. Năm 1976, Stevens tái đắc cử (phe đối lập tẩy chay bầu cử). Năm 1978, nhiệm kỳ mới nâng lên bảy năm theo trưng cầu dân ý về hiến pháp phê chuẩn hệ thống đơn đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng Đại hội Toàn dân. Năm 1985, Joseph Saidu Momoh kế nhiệm thông qua bỏ phiếu. Năm 1991, Mặt trận Liên minh Cách mạng Sierra Leone được những người ủng hộ Charles Taylor trong cuộc đấu tranh giành quyền kiểm soát Liberia hỗ trợ đã khởi đầu nội chiến. Tháng 8 cùng năm, để chấm dứt xung đột, Sierra Leone tiến hành trưng cầu dân ý chỉnh sửa hiến pháp, khôi phục hệ thống đa đảng. Quân số gia tăng khiến không đủ để kinh phí duy trì và trả lương. Ngày 29 tháng 4 năm 1992, Đại úy Valentine Strasser dẫn quân vào thủ đô, chiếm giữ các tòa nhà chính phủ, thông cáo phế truất Momoh trên đài phát thanh. Momoh phải chạy sang Guinée tị nạn. Chế độ quân quản (1992—1996) Sau cuộc phế truất ngày 29 tháng 4 năm 1992, Đại úy Yahya Kanu đại diện chính quyền đàm phán với nỗ lực thành lập Hội đồng lâm thời mới. Ngày 1 tháng 5, Kanu bị bắt. được thành lập với lãnh đạo là Đại úy Valentine Strasser 25 tuổi. Ngày 6 tháng 5, phe Strasser tôn ông là nguyên thủ quốc gia. Ngày 16 tháng 1 năm 1996, Chuẩn tướng Julius Bio lật đổ Strasser để khôi phục chế độ dân sự. Sierra Leone tiến hành bầu cử ứng viên Đảng Nhân dân Ahmad Tejan Kabbah giành chiến thắng ở vòng hai vào ngày 15 tháng 3 năm 1996. Ngày 29 tháng 3, Kabbah tuyên thệ nhậm chức tổng thống. Đệ Nhị Cộng hòa (1996-1997) Tổng thống Ahmad Tejan Kabbah thành lập chính phủ dân sự theo hệ thống đa đảng và ký thỏa thuận với Mặt trận Liên minh Cách mạng nhằm vãn hồi nội chiến. Tuy vậy, xung đột tiếp tục leo thang và tổng thống bị lật đổ vào ngày 25 tháng 5 năm 1997. Chế độ quân quản (1997–1998) Ngày 25 tháng 5 năm 1997, tổng thống Ahmed Tejan Kabba mất quyền sau đảo chính quân sự. Ngày 26 tháng 5, được thành lập với người đứng đầu Trung tá Johnny Paul Koroma vốn đang bị tù vì âm mưu đảo chính bất thành trước đó. Ngày 17 tháng 6, Koroma được tuyên bố là nguyên thủ quốc gia. Các quốc gia thuộc Cộng đồng Kinh tế Tây Phi đã can thiệp vũ trang làm đảo ngược tình thế, Koroma lại bị lật đổ còn Kabbah được phục hồi. Đệ Tam Cộng hòa (1998-) Ngày 13 tháng 2 năm 1998, Hội đồng Cách mạng Quân lực bị lật đổ, tổng thống Ahmad Tejan Kabbah trở lại giữ ghế sau khi bị hất cẳng ngày 25 tháng 5 năm 1997. Ngày 18 tháng 1 năm 2002, ông tuyên bố chấm dứt nội chiến kéo dài từ năm 1991. Từ đó trở đi, thủ tục bầu cử nguyên thủ quốc gia theo đúng như quy định. Ghi chú Tham khảo Tư liệu Danh sách nguyên thủ quốc gia Tổng thống Sierra Leone Lịch sử Sierra Leone
1,324
19831637
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%97%20Th%E1%BB%8B%20Lan%20Anh
Đỗ Thị Lan Anh
Đỗ Thị Lan Anh (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1997) là một hoa hậu, người mẫu người Việt Nam. Cô đăng quang ngôi vị Hoa hậu tại cuộc thi Hoa hậu Trái Đất Việt Nam 2023 và cô sẽ đại diện Việt Nam tham dự Hoa hậu Trái Đất 2023 được do Việt Nam đăng cai tổ chức. Tiểu sử Lan Anh sinh năm 1997 tại Hà Nội. Từ năm 1 tuổi Lan Anh đã rời Việt Nam, cùng gia đình sang châu Âu, sau đó định cư ở Mỹ. Cô tốt nghiệp Đại học California State University Fullerton. Cô thành thạo hai tiếng Anh và Việt. Sự nghiệp Hoa hậu Trái Đất Việt Nam 2023 Cô lần đầu tham gia cuộc thi sắc đẹp và đã xuất sắc đạt ngôi vị cao nhất. Các giải khác lần lượt là Miss Fire Vietnam 2023 là Hoàng Thị Kim Chi - SBD 037, Miss Water Vietnam 2023 là Hoàng Thị Yến Nhi - SBD 017, Miss Air Vietnam 2023 là Nguyễn Thị Thu Trang. Hoa hậu Trái Đất 2023 Cô chính thức đại diện Việt Nam tại Hoa hậu Trái Đất 2023 được tổ chức tại sân nhà. Thành tích Đăng quang Hoa hậu Trái Đất Việt Nam 2023 Tham dự Hoa hậu Trái Đất 2023 (TBA) Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1997 Nhân vật còn sống Người Hà Nội Hoa hậu Việt Nam Người mẫu Việt Nam Nữ người mẫu Việt Nam
229
19831643
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%AD%20t%E1%BB%95n%20%28%C4%91i%E1%BB%87n%20to%C3%A1n%29
Phí tổn (điện toán)
Trong khoa học máy tính, phí tổn () là sự kết hợp bất kì của thời gian tính toán thừa hoặc gián tiếp, bộ nhớ, băng thông hoặc các tài nguyên khác cần thiết để thực hiện một nhiệm vụ cụ thể. Đây là một trường hợp đặc biệt của phí tổn kỹ thuật. Phí tổn có thể là một yếu tố quyết định trong thiết kế phần mềm, liên quan đến cấu trúc, sửa lỗi và việc bổ sung các tính năng. Các ví dụ về phí tổn trong lĩnh vực máy tính có thể được tìm thấy trong lập trình hướng đối tượng (OOP), lập trình hàm, truyền dữ liệu và cấu trúc dữ liệu. Thiết kế phần mềm Lựa chọn cách triển khai Một lập trình viên/kỹ sư phần mềm có thể phải lựa chọn giữa một số thuật toán, mã hóa, kiểu dữ liệu hoặc cấu trúc dữ liệu khác nhau, mỗi loại có các đặc điểm đã biết. Khi lựa chọn chúng, phí tổn tương ứng của chúng cũng nên được xem xét. Sự đánh đổi Trong kỹ thuật phần mềm, phí tổn có thể ảnh hưởng đến quyết định về việc bổ sung các tính năng trong sản phẩm mới, hoặc thậm chí quyết định liệu có nên sửa lỗi hay không. Một tính năng có phí tổn cao có thể không được thêm vào - hoặc cần một động cơ về tài chính lớn để làm như vậy. Thông thường, ngay cả khi nhà cung cấp phần mềm biết rõ về các lỗi trong sản phẩm của họ, lợi ích từ việc sửa chúng không đáng để thực hiện, do phí tổn. Ví dụ, một cấu trúc dữ liệu ngầm định hoặc cấu trúc dữ liệu gọn có thể có phí tổn không gian thấp, nhưng đánh đổi bằng hiệu suất chậm (sự đánh đổi không/thời gian). Độ phức tạp thời gian chạy của phần mềm Độ phức tạp thuật toán thường được chỉ định bằng ký hiệu "Big O". Điều này không nói về việc một thuật toán chạy trong bao lâu hoặc sử dụng bao nhiêu bộ nhớ, mà nó chỉ thể hiện sự tăng của thuật toán phụ thuộc vào kích thước đầu vào. Phí tổn không được tính vào trong tính toán này một cách cố ý, vì nó thay đổi từ máy tính này sang máy tính khác, trong khi thời gian chạy cơ bản của một thuật toán thì không. Điều này nên đối lập với hiệu quả thuật toán khi nó xem xét tất cả các loại tài nguyên - một sự kết hợp (mặc dù không phải là một sự kết hợp đơn giản) của độ phức tạp và phí tổn. Ví dụ Lập trình máy tính (thời gian chạy và phí tổn tính toán) Việc một hàm tạo ra một phí tổn thời gian chạy nhỏ. Đôi khi, trình biên dịch có thể tối thiểu hóa phí tổn này bằng cách chèn nội dung của một số lời gọi hàm tại chỗ (hàm nội tuyến). Bộ nhớ đệm CPU Trong bộ nhớ đệm CPU, "kích thước bộ nhớ đệm" (hoặc dung lượng) đề cập đến lượng dữ liệu mà bộ nhớ đệm lưu trữ. Ví dụ, một "bộ nhớ đệm 4 KB" là một bộ nhớ đệm chứa 4 KB dữ liệu. Số "4 KB" trong ví dụ này không bao gồm các bit phí tổn như thông tin về khung hình, địa chỉ và thẻ (tag). Giao tiếp (phí tổn truyền dữ liệu) Việc gửi một gói dữ liệu một cách đáng tin cậy qua mạng truyền thông đòi hỏi việc gửi nhiều hơn là chỉ dữ liệu gốc. Nó còn liên quan đến việc gửi các dữ liệu điều khiển và tín hiệu khác nhau (TCP) cần thiết để đến đích. Điều này tạo ra một loại phí tổn giao thức (protocol overhead) vì các dữ liệu bổ sung này không đóng góp vào ý nghĩa cốt lõi của thông điệp. Trong viễn thông, việc quay số và thời gian thiết lập cuộc gọi được xem là các phí tổn. Trong các hệ thống radio hai chiều (nhưng song công), việc dùng từ "kết thúc" và các tín hiệu khác cần thiết để tránh xung đột cũng là một loại phí tổn. Phí tổn giao thức có thể được biểu thị dưới dạng phần trăm của các byte không phải dữ liệu ứng dụng (giao thức và đồng bộ khung) trong tổng số byte trong thông điệp. Mã hóa và cấu trúc dữ liệu (phí tổn kích thước) Việc mã hóa thông tin và dữ liệu cũng tạo ra phí tổn. Ngày và giờ "2011-07-12 07:18:47" có thể được biểu diễn dưới dạng thời gian Unix với số nguyên 32-bit có dấu 1310447927, chỉ tốn 4 byte. Biểu diễn dưới dạng chuỗi UTF-8 định dạng theo ISO 8601 2011-07-12 07:18:47 sẽ tốn 19 byte, tạo ra một phí tổn về kích thước là 375% so với biểu diễn số nguyên nhị phân. Dưới dạng XML, ngày này có thể được viết như sau với phí tổn 218 ký tự, đồng thời thêm ngữ cảnh ngữ nghĩa rằng đó là một CHANGEDATE có chỉ số 1.<?xml version="1.0" encoding="UTF-8"?> <datetime qualifier="changedate" index="1"> <year>2011</year> <month>07</month> <day>12</day> <hour>07</hour> <minute>18</minute> <second>47</second> </datetime>349 byte, phát sinh từ XML được mã hóa bằng UTF-8, tương ứng với một phí tổn kích thước là 8625% so với biểu diễn ban đầu dưới dạng số nguyên. Hệ thống tập tin Ngoài bản thân tập, hệ thống tập tin máy tính còn sử dụng một phần không gian để lưu trữ tên thư mục và danh sách thư mục, tên tệp, vị trí các phân vùng tệp, các thuộc tính như thời gian sửa đổi và tạo, cách các tệp bị phân mảnh, được ghi và phần trống trong bộ nhớ, và nhật ký trên một số hệ thống tập tin. Nhiều tập tin nhỏ tạo ra nhiều phí tổn hơn một ít tập tin lớn. Xem thêm Không gian chùng xuống Quy tắc quyền lực tối thiểu Máy Turing đa năng Tham khảo
1,012
19831649
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pierre%20Lemaitre
Pierre Lemaitre
Pierre Lemaitre (sinh năm 1951) là nhà văn và nhà biên kịch người Pháp. Tốt nghiệp chuyên ngành tâm lý học, ông đã dành phần lớn sự nghiệp của mình vào công tác đào tạo nghề cho người trưởng thành, bằng cách hướng dẫn họ cách giao tiếp và dạy về văn hóa phổ quát, hay giảng dạy văn học cho các thủ thư. Sau đó ông chuyên tâm vào việc viết lách từ năm 2006. Với các thử nghiệm trong thể loại trinh thám xã hội hoặc trinh thám kinh dị, ông được Stephen King coi như “một cây viết trinh thám thực sự tuyệt vời”. Ông cũng đã giành giải Goncourt cho tác phẩm lấy đề tài Thế chiến I. Tác phẩm Tiểu thuyết Série về Verhoeven: Travail soigné (2006) Alex (2012) Sacrifices (Hy sinh, 2012) Rosy & John (2014) Bộ ba Les Enfants du désastre: Au revoir là-haut (Hẹn gặp lại trên kia, 2013) Couleurs de l'incendie (2018) Miroir de nos peines (2020) Série Les Années glorieuses: Le Grand Monde (2022) Le Silence et la colère (2023) Các tiểu thuyết khác: Robe de marié (2008) Cadres noirs (2010) Trois jours et une vie (Ba ngày và một đời, 2016) Le Serpent majuscule (viết năm 1985, xuất bản năm 2021) Kịch bản Ông tham gia vào viết kịch bản cho các phim truyền hình sau: Otages (2009) Marion Mazzano (1 tập, 2010) Boulevard du Palais (1 tập, 2010) Injustice (1 tập, 2012) Ông cũng tham gia vào quá trình chuyển thể các phim truyền hình và điện ảnh từ tiểu thuyết của mình: Au revoir là-haut (chuyển thể điện ảnh từ tiểu thuyết cùng tên, 2017) Trois jours et une vie (chuyển thể điện ảnh từ tiểu thuyết cùng tên, 2019) Dérapages (chuyển thể série truyền hình từ Cadres noirs, 2020) Couleurs de l'incendie (chuyển thể điện ảnh từ tiểu thuyết cùng tên, 2022) Giải thưởng Prix du premier roman du festival de Cognac, 2006 (Travail soigné) Prix Sang d'encre et Prix des lecteurs Goutte de Sang d'encre, Vienne, 2009 (Robe de marié) Prix du polar francophone de Montigny-lès-Cormeilles, 2009(Robe de marié) Lọt vào chung khảo CWA International Dagger, 2014 (Travail soigné, bản dịch Irène của Frank Wynne) Prix Le Point du polar européen, 2010 (Cadres noirs) Prix des lecteurs policier du Livre de poche, 2012 (Alex) Prix des libraires de Nancy Le Point, 2013 (Au revoir là-haut) Roman français préféré des libraires à la rentrée, 2013 (Au revoir là-haut) Meilleur roman français 2013 décerné par le magazine Lire (Au revoir là-haut) Giải Goncourt 2013 (Au revoir là-haut) Prix du roman France-Télévisions 2013 (Au revoir là-haut) Prix Audiolib pour l'édition sonore (Au revoir là-haut) Goncourt des étudiants de Serbie 2013 (Au revoir là-haut) Coup de cœur 2014 de l'Académie Charles Cros pour l'enregistrement audio (Au revoir là-haut) Prix Tulipe du meilleur roman français 2014 (Au revoir là-haut) Premio Letterario Internazionale Raffaelo Brignetti 2014 (Au revoir là-haut) CWA International Dagger, hạng mục Crime Fiction in Translation Dagger, 2015 (Sacrifices, bản dịch Camille của Frank Wynne) Prix Attrap'cœur, 2016 (Rosy & John) CWA International Dagger, hạng mục Crime Fiction in Translation Dagger, 2016 (Au revoir là-haut, bản dịch The Great Swindle của Frank Wynne) César 2018 de la meilleure adaptation avec Albert Dupontel (Au revoir là-haut) Liên kết ngoài Các tác phẩm của Pierre Lemaitre đã xuất bản tại Việt Nam Pierre Lemaitre tại IMDb Tham khảo Sinh năm 1951 Nhân vật còn sống Tiểu thuyết gia Pháp Nhà văn Pháp Nhà biên kịch phim Pháp
533
19831650
https://vi.wikipedia.org/wiki/Asia%27s%20Next%20Top%20Model%20%28M%C3%B9a%207%29
Asia's Next Top Model (Mùa 7)
Asia's Next Top Model, Mùa 7 là mùa giải thứ bảy của chương trình Asia's Next Top Model, được công chiếu bắt đầu từ ngày 27/5/2019. Chủ đề của mùa giải thứ 7: Future Fashion (Thời Trang Tương Lai). Mùa giải gồm 14 thí sinh đến từ Indonesia, Philippines, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản và Việt Nam. Giải thưởng mùa này bao gồm: 1 chiếc ô tô Subaru Impreza, xuất hiện trên trang bìa tạp chí Nylon Singapore và 1 hợp đồng với công ty quản lý người mẫu Storm Model Management ở Luân Đôn. Quán quân của Asia's Next Top Model mùa 7 là Lilly Nguyễn, 25 tuổi đến từ Việt Nam. Vòng sơ tuyển Diễn ra tại 3 địa điểm: 22/10/2018 tại House Manila Club, Resorts World Manila, Manila, Philippines. 29/10/2018 tại Grand Caymans, Level 10, Sunway Resort Hotel and Spa, Kuala Lumpur, Malaysia. 5/11/2018 tại The Hermitage, A Tribute Portfolio Hotel, Jakarta, Indonesia. Ngoài ra, còn có hình thức đăng kí và tuyển chọn trực tuyến nếu người dự thi không thể xuất hiện tại vòng sơ tuyển. Thí sinh (Tính theo tuổi khi còn trong cuộc thi) Giám khảo chính Cindy Bishop (Dẫn chương trình) Yu Tsai (Giám đốc sáng tạo) Cara G. McIlroy (Cố vấn người mẫu) Thứ tự loại trừ Thí sinh bị loại. Thí sinh chiến thắng cuộc thi. Thí sinh được miễn loại. Thí sinh bị loại nhưng được cứu Buổi chụp ảnh Tập 1: Áo tắm ở bãi biển Tập 2: Tác hại của khói thuốc Tập 3: Leo núi cùng bộ cánh sặc sỡ Tập 4: Thực vật Tập 5: Thời trang trên nóc nhà Tập 6: Nguyên liệu tái chế Tập 7: Chụp hình với bò sát Tập 8: Clip nhạc của Enrique Iglesias, "Tired of Being Sorry" – "Anh chán phải xin lỗi" Tập 9: Xe bốc cháy trong sa mạc Tập 10: Quảng cáo bộ mỹ phẩm Covergirl Queen Collection Tập 11: Múa rồng và múa sư tử Tập 12: Vạn lý trường thànhTập 13:''' Quảng cáo son nước làm từ rượu trái cây Covergirl Wetslicks Fruit Spritzers Liên kết Official website Asia's Next Top Model on STAR World Tham khảo Asia's Next Top Model
346
19831652
https://vi.wikipedia.org/wiki/Firebrand%20Games
Firebrand Games
Firebrand Games Limited là nhà phát triển trò chơi điện tử của Anh có trụ sở tại Glasgow, Scotland. Công ty được thành lập bởi giám đốc điều hành Mark Greenshields vào năm 2006 và vận hành văn phòng thứ hai tại Merritt Island, Florida, kể từ tháng 9 năm 2007. Lịch sử Firebrand Games do Mark Greenshields thành lập vào năm 2006, sau khi liên doanh trước đó của ông là DC Studios bị đóng cửa hoạt động tại Vương quốc Anh vào đầu năm 2006. Ông trở thành giám đốc điều hành của công ty mới. Tháng 9 năm 2007, công ty thông báo mở văn phòng thứ hai tại Merritt Island, Florida. Văn phòng này thay thế studio duy nhất còn lại của DC Studios, có trụ sở tại Montreal. Vào tháng 9 năm 2009, trụ sở chính của Firebrand Games được chuyển đến không gian văn phòng mới, lớn hơn ở Glasgow. Đến tháng 8 năm 2010, chủ yếu do chi phí kinh doanh ở Scotland, văn phòng Meritt Island đã tăng số lượng nhân viên lớn hơn trụ sở chính ở Glasgow. Firebrand Games chủ yếu hoạt động trên các phiên bản Nintendo DS thuộc sở hữu trí tuệ của bên thứ ba trong thể loại đua xe, như là TrackMania và Need for Speed. Một số trong số này sử dụng công cụ trò chơi nội bộ có tên 3D Octane. Tháng 5 năm 2011, công ty tuyên bố mong muốn phát triển một trò chơi thuộc dòng F-Zero. Firebrand Games đã công bố tài sản trí tuệ đầu tiên của mình, trò chơi giải đố Solar Flux, vào tháng 7 năm 2013. Một số tựa trò chơi Chú thích Tham khảo Công ty phát triển trò chơi điện tử
292
19831656
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gilles%20Leroy
Gilles Leroy
Gilles Leroy (sinh ngày 28 tháng 12 năm 1958) là nhà văn người Pháp. Ông sinh ra tại Bagneux, Paris, và rời bỏ Paris vào năm 1995 để sống tại một làng nhỏ ở Perche. Các tác phẩm của ông nhận được nhiều giải thưởng, tiêu biểu nhất là giải Goncourt cho Alabama Song. Tác phẩm Tiểu thuyết Habibi (1987) Maman est morte (1990) Madame X. (1992) Les jardins publics (1994) Les maîtres du monde (1996) Machines à sous (1998) Soleil noir (2000) L'amant russe (2002) Grandir (2004) Champsecret (2005) Alabama Song (2007) Zola Jackson (2010) Dormir avec ceux qu'on aime (2012) Nina Simone (2013) Le monde selon Billy Boy (2015) Le château solitude (tự truyện, 2016) Dans les westerns (2017) Le diable emporte le fils rebelle (2019) Requiem pour la jeune amie (2021) Le fils errant (2023) Truyện ngắn Les derniers seront les premiers (1991) White Party (2014) Sân khấu Le jour des fleurs (2004) Ange Soleil (2011) Giải thưởng Prix des Lecteurs de Nanterre (Les derniers seront les premiers) Prix Valery-Larbaud (Machines à sous) Prix Millepages (Grandir) Giải Goncourt 2007 (Alabama Song) Prix Été du Livre – Marguerite Puhl-Demange (Zola Jackson) Prix Livres & Musiques de la ville de Deauville (Nina Simone) Prix Marcel Pagnol (Le monde selon Billy Boy) Liên kết ngoài Trang web chính thức Điểm sách Alabama Song, bản dịch tiếng Việt của Bằng Nguyên Tham khảo Nhân vật còn sống Sinh năm 1958 Tiểu thuyết gia Pháp Nhà văn Pháp
208
19831663
https://vi.wikipedia.org/wiki/Santiniketan
Santiniketan
Shantiniketan là một khu phố nằm ở thành phố Bolpur thuộc huyện Birbhum, Tây Bengal, Ấn Độ. Nó nằm cách thành phố Kolkata khoảng 152 km về phía bắc. Được thành lập bởi Debendranath Tagore và sau đó được mở rộng bởi con trai ông là Rabindranath Tagore, người có tầm nhìn đưa nó trở thành thị trấn đại học ngày nay với ra đời của Visva-Bharati vào năm 1921. Shantiniketan được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 2023. Lịch sử Năm 1863, Debendranath Tagore thuê lại khu đất vĩnh viễn từ Bhuban Mohan Sinha, quý tộc (Taluqdar) của Raipur, Birbhum với mức phí hàng năm là 5 Rupee. Ông đã trồng hai cây hoa sữa, xây một nhà khách ở đó và đặt tên là Shantiniketan (nơi ở của hòa bình). Dần dần, toàn bộ khu vực được gọi là Shantiniketan. Nhà báo Binoy Ghosh nói rằng Bolpur vào giữa thế kỷ 19 là một khu dân cư nhỏ. Nó phát triển khi Shantiniketan phát triển. Một phần nhất định của Bolpur được cai trị bởi Zamindar của gia đình Sinha ở Raipur. Bhuban Mohan Sinha đã phát triển một ngôi làng nhỏ ở vùng Bolpur và đặt tên là Bhubandanga, nằm ngay đối diện Shantiniketan ngày đó. Bhubandanga là hang ổ của một nhóm cướp có vũ trang khét tiếng, những kẻ không có lòng trắc ẩn trong việc giết người. Điều này dẫn đến tình trạng xung đột và đối đầu, nhưng cuối cùng thủ lĩnh của băng đảng đã đầu hàng. Debendranath và họ bắt đầu giúp Bhuban Mohan Sinha phát triển khu vực. Có một cây hoa sữa nơi Debendranath thường ngồi thiền. Lấy cảm hứng từ Cung điện Pha lê được xây dựng đầu tiên ở Công viên Hyde, Luân Đôn để tổ chức Đại Triển lãm năm 1851 và sau đó được chuyển đi, Debendranath đã xây dựng một hội trường rộng 30x60 feet để làm nơi cầu nguyện cho Brahmo Samaj. Mái nhà lợp ngói và sàn lát đá cẩm thạch trắng nhưng phần còn lại của công trình được làm bằng kính. Ngay từ những ngày đầu, công trình đã là một điểm thu hút lớn đối với mọi người từ khắp nơi. Rabindranath Tagore lần đầu tiên đến thăm Shantiniketan vào ngày 27 tháng 1 năm 1878 khi ông mới 17 tuổi. Năm 1888, Debendranath dành toàn bộ tài sản để thành lập trường Brahma thông qua chứng thư ủy thác. Năm 1901, nó bắt đầu hoạt động và được biết đến với cái tên Patha Bhavana từ năm 1925. Năm 1913, Rabindranath Tagore đoạt Giải Nobel Văn học. Đó là một niềm tự hào của gia đình Tagore, những người góp phần làm phong phú thêm cuộc sống và xã hội ở Bengal trong nhiều lĩnh vực hoạt động trong một thời gian dài. Môi trường ở Jorasanko Thakur Bari, một trong những bất động sản của gia đình Tagore ở Kolkata là nơi tràn ngập văn học, âm nhạc, hội họa và kịch bản. Được thành lập vào năm 1921 bởi Rabindranath Tagore, Visva Bharati được tuyên bố là trường đại học trung tâm và học viện có tầm quan trọng quốc gia vào năm 1951. Hình ảnh Tham khảo Đọc thêm UNESCO: Santiniketan (on the Tentative List since 2010) Places to visit in Santiniketan 2019 Di sản thế giới tại Ấn Độ
560
19831688
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%87t%20d%C6%B0%E1%BB%A3c%20%C4%91en
Biệt dược đen
Biệt dược đen (tên cũ: Phía sau sự thật) là một bộ phim truyền hình thuộc loạt phim Cảnh sát hình sự được thực hiện bởi Trung tâm Phim Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do Phạm Gia Phương và Trần Trọng Khôi làm đạo diễn. Phim phát sóng vào lúc 21h40 thứ 2, 3, 4 hàng tuần bắt đầu từ ngày 4 tháng 9 năm 2023 và kết thúc vào ngày 1 tháng 11 năm 2023 trên kênh VTV3. Nội dung Biệt dược đen xoay quanh câu chuyện của Nguyễn Thanh Tuấn (Huỳnh Anh), một cảnh sát thông minh, dũng cảm, có quá khứ đau buồn khi chứng kiến người mẹ của mình bị sát hại. Cú sốc quá lớn khiến anh bị mất trí nhớ hoàn toàn về thời thơ ấu. Vụ án đó còn để lại vết hằn trong tâm trí của một cảnh sát trẻ tuổi - Đỗ Thanh Tuyển (Phạm Bảo Anh). 20 năm sau vụ án đó, Tuấn về làm đội phó cho đội cảnh sát hình sự do chính Tuyển làm đội trưởng. Ngay trong những ngày đầu tiên, đội của Tuyển, Tuấn đã gặp một vụ án kỳ lạ. Nạn nhân là một tay ăn chơi khét tiếng: Đặng Quốc Vương (Phạm Tuấn Anh) – thủ lĩnh của Cityboy – một nhóm gồm các công tử, tiểu thư hư hỏng, được tổ chức từ thời mà Vương còn học cấp 3. Diễn viên Cùng một số diễn viên khác... Sản xuất Biệt dược đen do bộ đôi Phạm Gia Phương và Trần Trọng Khôi đồng đạo diễn, kịch bản của phim do nhóm biên kịch Phạm Đình Hải, Vũ Liêm và Nguyễn Trung Dũng chắp bút. Bộ phim được khai máy từ tháng 5 năm 2023 và đóng máy vào tháng 10 cùng năm. Đoàn làm phim đã phải mất 2 năm để thực hiện bộ phim, trong đó phải mất tới một năm rưỡi để viết kịch bản. Vai chính của phim lần lượt được giao cho các diễn viên Huỳnh Anh, Phạm Bảo Anh, Hoàng Long, Lương Thanh, Ngọc Quỳnh, Bình An, Đỗ Duy Nam và Phạm Tuấn Anh. Bộ phim đánh dấu sự trở lại của Huỳnh Anh sau bộ phim truyền hình năm 2020 Lựa chọn số phận. Để chuẩn bị cho vai diễn, Hoàng Anh Vũ cho biết, anh đã cạo trọc đầu để phù hợp với vai diễn Lý Mạnh Cường. Đỗ Duy Nam thì tiết lộ rằng anh đã làm kiểu tóc bện thừng để làm mới mình với vai diễn Trần Thành Đạt, cũng như chuẩn bị tinh thần cho bố mẹ trước khi hoàn thành vai diễn này. Buổi họp báo ra mắt bộ phim được tổ chức vào ngày 23 tháng 8 năm 2023, bộ phim chính thức lên sóng vào ngày 4 tháng 9 và kết thúc vào ngày 1 tháng 11 cùng năm trên kênh VTV3, vào lúc 21h40 thứ 2 đến thứ 4 hàng tuần, sau khi bộ phim Món quà của cha kết thúc. Đón nhận Trong tuần phát sóng từ ngày 18 tháng 9 đến 24 tháng 9 năm 2023, bộ phim đứng thứ 2 trong danh sách top 10 chương trình truyền hình được xem nhiều nhất cả nước với rating là 4,4%. Tuy nhiên, bộ phim vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi. Nhiều khán giả cho rằng, bộ phim không phù hợp để phát sóng giờ vàng trên sóng truyền hình quốc gia do có nhiều cảnh quay liên quan đến bạo lực, tình dục, cưỡng bức của nhóm Cityboy. Một số khán giả đã phản ứng rằng "phim của VTV lại chiếu giờ vàng cả gia đình ngồi xem, những hình ảnh như vậy quả thật không phù hợp" hay "phim toàn mông với ngực, nội dung thì nhảm, dần cũng giống mấy phim hài nhảm, hài sex". Một số bộ phận khán giả còn cho rằng phim có những hình ảnh hở hang quá đà, lạm dụng yếu tố tình dục dễ gây ảnh hưởng tiêu cực đến giới trẻ. Trong khi đó, diễn xuất của tuyến nhân vật chính diện bị chê diễn "dở" so với tuyến nhân vật phản diện của Cityboy. Thậm chí có một số khán giả tuyên bố "bỏ xem phim" vì diễn xuất của Lương Thanh đã làm "phá hỏng bộ phim", thậm chí cô bị chê diễn dở như diễn hài. Trong các trích đoạn có sự xuất hiện của cô được đăng tải trên mạng xã hội thu hút nhiều bình luận, tuy nhiên, chủ yếu là chỉ trích và bức xúc. Trong tập 13 của bộ phim phát sóng vào ngày 2 tháng 10 năm 2023, phân cảnh truy bắt ông trùm ma túy bị ví như phim hài, nhiều khán giả để lại bình luận thất vọng khi bộ phim đã xây dựng tình huống này quá "đơn giản" và "vô lý". Tham khảo Liên kết ngoài Phim truyền hình Việt Nam ra mắt năm 2023 Cảnh sát hình sự (loạt phim) Chương trình truyền hình nhiều tập của VFC Phim truyền hình Việt Nam phát sóng trên kênh VTV3
851
19831689
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gembong%20Warsono
Gembong Warsono
Gembong Warsono (8 tháng 6 năm 1963 – 14 tháng 10 năm 2023) là một chính trị gia người Indonesia của Đảng dân chủ đấu tranh Indonesia. Ông đã được bầu hai lần vào Hạ viện khu vực Jakarta, giữ chức vụ thành viên từ năm 2014 cho đến khi qua đời vào năm 2023. Ông đã lãnh đạo phe đảng của mình trong cơ quan lập pháp và là người chỉ trích thống đốc Anies Baswedan. Thời thơ ấu và gia đình Gembong sinh tại Wonogiri vào ngày 8 tháng 6 năm 1963. Ông có bằng quản lý từ trường ..Ông đã kết hôn với Asih Purwanti và có bốn người con. Sự nghiệp Theo Gembong, ông đã là thành viên của Đảng Dân chủ Indonesia (PDI) trong sự cố ngày 27 tháng 7 năm 1996, với tư cách là một quan chức đảng ở quận Kebayoran Lama. Sau khi PDI chia tách, ông gia nhập Đảng đấu tranh dân chủ Indonesia (PDI-P).Nỗ lực bầu cử đầu tiên của ông là trong cuộc bầu cử lập pháp Indonesia năm 1999, khi ông tranh cử không thành công vào ghế lập pháp tại Hạ viện khu vực Jakarta.Năm 2000, ông trở thành bí thư chi bộ Nam Jakarta của đảng, và năm 2003 ông được bầu vào hội đồng thành phố Nam Jakarta (cơ quan cố vấn). Gembong một lần nữa tranh cử và không giành được ghế ở Nam Jakarta, trong cuộc bầu cử lập pháp năm 2004, khi ông đứng thứ ba trong số các ứng cử viên PDI-P tại khu vực bầu cử Nam Jakarta của ông trong khi đảng giành được hai ghế . Trong nỗ lực bầu cử thứ ba trong 2009, ông đã được lãnh đạo cấp tỉnh của đảng ra lệnh tranh cử ở Tây Jakarta, và một lần nữa không giành được ghế. Warsono trở thành chủ tịch chi nhánh Nam Jakarta của PDI-P vào năm 2010, và ông đã giành được một ghế lập pháp trong lần nỗ lực thứ tư trong cuộc bầu cử năm 2014. Sworn in on 25 August 2014, Gembong đã trở thành lãnh đạo phe của PDI-P trong cơ quan lập pháp vào năm 2017. Ông đã giành được 17.739 phiếu bầu trong Bầu cử năm 2019, giữ được ghế và vị trí lãnh đạo phe phái của PDI-P. Vị trí Trong thời gian làm thống đốc Anies Baswedan, Gembong là người thường xuyên chỉ trích các chính sách của Baswedan. Gembong đã tấn công các chính sách của Baswedan liên quan đến các công ty thuộc sở hữu của chính quyền tỉnh mà ông gọi là "chính sách buôn lậu". Anh ta cũng đã tấn công Baswedan về kế hoạch năm 2019 cho phép những người bán hàng rong hoạt động trên vỉa hè của Jakarta, và vào năm 2018 về việc sử dụng thùng rác nhập khẩu từ Đức thay vì các sản phẩm nội địa. Tuy nhiên, ông ca ngợi nỗ lực của Baswedan trong việc tích hợp hệ thống giao thông công cộng Jakarta. Ông còn đặt câu hỏi thêm về việc Jakarta đăng cai tổ chức giải vô địch đua xe thể thao Công thức E, với lý do doanh thu bán vé kém và lãi suất thấp từ các nhà tài trợ. Qua đời Ông qua đời tại Bệnh viện trung tâm Pertamina ở Nam Jakarta, vào ngày 14 tháng 10 năm 2023, thọ 60 tuổi. Ông được chôn cất cùng ngày tại . Tham khảo Sinh năm 1963 Mất năm 2023
585
19831694
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tranh%20kh%E1%BA%AFc%20%C4%91%C3%A1%20c%E1%BB%A7a%20H%E1%BB%93%20Onega%20v%C3%A0%20Bi%E1%BB%83n%20Tr%E1%BA%AFng
Tranh khắc đá của Hồ Onega và Biển Trắng
Tranh khắc đá của Hồ Onega và Biển Trắng là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận nằm tại Cộng hòa Kareliya, Nga. Nó bao gồm 33 địa điểm khắc đá thuộc hai cụm là những chạm khắc đá được tạo ra từ cách 7 đến 4 thiên niên kỷ trước thể hiện cái nhìn thoáng qua về cuộc sống của các nền văn hóa thời đại đồ đá mới trên khu vực bán đảo Fennoscandia. Cụm Hồ Onega nằm tại Pudozhsky bao gồm 22 địa điểm khắc đá với hơn 1200 hình vẽ. Chúng chủ yếu mô tả các loài chim, động vật, hình dáng nửa người nửa thú, cũng như các hình dạng hình học có thể là tượng trưng cho mặt Trăng và mặt Trời. Một trong những địa điểm được biết đến nhiều hơn cả là mũi Besov bên bờ đông của hồ Onega. Cụm ở Biển Trắng nằm tại Belomorsky có 11 địa điểm với hơn 3400 hình vẽ và theo Phái đoàn thường trực của Liên bang Nga tại UNESCO, chúng rõ ràng hướng tới hoạt động săn bắn và thường mô tả chính người thợ săn. Ngoài ra, nó còn hiển thị cảnh thuyền buồm, cũng như dụng cụ săn bắn và lao động, dấu chân của động vật và con người. Hình ảnh Tham khảo Di sản thế giới tại Nga
226
19831704
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0i%20thi%C3%AAn%20v%C4%83n%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Kazan
Đài thiên văn Đại học Kazan
Đài quan sát Thiên văn học của Đại học Liên bang Kazan (JSC KFU) bao gồm hai đài quan sát thiên văn học nằm tại thành phố Kazan, cộng hòa Tatarstan, Nga. Chúng hiện là cơ sở của Khoa Thiên văn học thuộc Đại học Liên bang Kazan được thành lập vào năm 1810 bởi nhà thiên văn học người Áo Joseph Johann von Littrow. Các đài quan sát thiên văn gồm Đài quan sát thiên văn Thành phố Kazan và Đài quan sát thiên văn Engelhardt đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 2023. Lịch sử Năm 1811, Joseph Johann von Littrow đề xuất thành lập một đài quan sát tại Khoa Thiên văn học của Đại học Hoàng gia Kazan. Vào ngày 11 tháng 11 năm 1814, các cuộc quan sát bắt đầu tại một đài thiên văn nhỏ (đài thiên văn tạm thời) phía trên cổng đá trong vườn bách thảo của trường đại học. Năm 1822, đài quan sát tạm thời được đặt trong một phòng trưng bày bằng gỗ, một phần của căn nhà của giám đốc đài thiên văn bấy giờ là Ivan Mikhailovich Simonov. Năm 1827, sân trường đại học được chọn làm địa điểm đặt đài quan sát và đến năm 1833, việc xây dựng đài quan sát chính thức bắt đầu. Năm 1835, một kính khúc xạ 23 cm (9 in) được đặt hàng từ xưởng của Fraunhofer. Năm 1837, việc xây dựng tòa nhà được hoàn thành và những cuộc quan sát đầu tiên được thực hiện ở đó ngay trong tháng 6 cùng năm. Năm 1838, một kính khúc xạ 9 in được lắp đặt trong tháp chính và hoàn toàn có thể di chuyển được. Ngày khánh thành chính thức của đài quan sát thiên văn Đại học Kazan là ngày 13 tháng 4 năm 1838, khi việc quan sát bắt đầu được diễn ra thường xuyên trong tòa nhà đài quan sát mới (Vòng tròn kinh tuyến Viên). Mô tả Tài sản bao gồm hai phần: một đài quan sát ở trung tâm lịch sử của Kazan và phần còn lại là đài quan sát ở khu vực ngoại ô phía tây thành phố. Cả hai đài quan sát đã được bảo tồn hoàn chỉnh với các dụng cụ thiên văn và ngày nay chủ yếu thực hiện chức năng giáo dục. Đài quan sát thiên văn thành phố Kazan được xây dựng vào năm 1837 nằm trong khuôn viên trường Đại học. Mặt tiền của tòa nhà là một cấu trúc hình bán nguyệt, phía trên là ba tháp có mái vòm được xây dựng để chứa các dụng cụ thiên văn. Đài quan sát thiên văn Engelhardt nằm ở ngoại ô bao gồm các công trình quan sát bầu trời và các tòa nhà dân cư nằm trong công viên. Các dụng cụ cơ bản ở đây gồm có: Kính viễn vọng khúc xạ Merz do Fraunhofer sản xuất; máy đo nhiệt độ Johann Georg Repsold; kính viễn vọng cầm tay của George Dollond; Vòng tròn kinh tuyến Viên; Chân đế xích đạo; Dụng cụ chuyển tuyến; Đồng hồ chính xác thời gian (kể từ ngày 23 tháng 2 năm 1885). Tham khảo Di sản thế giới tại Nga Đại học Liên bang Kazan
543
19831710
https://vi.wikipedia.org/wiki/Manchester%20United%20F.C.%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202003-04
Manchester United F.C. mùa giải 2003-04
Mùa giải 2003–04 là mùa giải thứ 12 của Manchester United tại Premier League, và là mùa giải thứ 29 liên tiếp của họ ở giải đấu hàng đầu nước Anh. United bắt đầu mùa giải bằng chức vô địch FA Community Shield năm 2003 và sau đó giành được kỷ lục FA Cup lần thứ 11 với chiến thắng 3–0 trước Millwall tại Millennium Stadium ở Cardiff. Tuy nhiên, câu lạc bộ đã bỏ lỡ chức vô địch Premier League vào tay nhà vô địch bất bại Arsenal, với phong độ sa sút ở giai đoạn hai trùng với thời điểm Rio Ferdinand bắt đầu bị cấm thi đấu 8 tháng do bỏ lỡ cuộc kiểm tra doping. Manchester United kết thúc mùa giải ở vị trí thứ ba. . Tân binh đáng chú ý của MU là cầu thủ chạy cánh người Bồ Đào Nha Cristiano Ronaldo, tiền vệ người Brazil từng vô địch FIFA World Cup 2002 Kléberson, thủ môn người Mỹ Tim Howard, tiền vệ người Cameroon Eric Djemba-Djemba và tiền đạo người Pháp David Bellion. Giấc mơ UEFA Champions League của United đã kết thúc ở vòng 16 đội, với việc bị loại bởi bàn thắng vào phút cuối của Porto đồng thời khiến Quỷ đỏ không thể lọt vào tứ kết Champions League lần thứ tám liên tiếp. Giao hữu Siêu cúp Anh Ngoại hạng Anh FA Cup Cúp liên đoàn UEFA Champions League Vòng bảng Vòng knock out Thống kê đội hình Tham khảo
238
19831711
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20b%E1%BA%A3ng%20UEFA%20Champions%20League%202004%E2%80%9305
Vòng bảng UEFA Champions League 2004–05
Các trận đấu thuộc vòng bảng UEFA Champions League 2004–05 diễn ra từ ngày 14 tháng 9 đến ngày 8 tháng 12 năm 2004. Vòng bảng có sự góp mặt của các đội vượt qua vòng loại theo vị trí ở giải quốc nội của họ và những đội vượt qua vòng loại khác. Cấu trúc hạt giống 32 đội được chia làm 4 nhóm hạt giống. Nhóm hạt giống số 1 gồm có đội đương kim vô địch năm ngoái là Porto và 7 câu lạc bộ xếp đầu ở bảng xếp hạng đội bóng. Nhóm hạt giống số 2 có 8 câu lạc bộ kế tiếp trong bảng xếp hạng; nhóm hạt giống số 3 và 4 cũng chia tương tự. Mỗi nhóm chứa một đội từ mỗi nhóm hạt giống. Hạt giống của một đội do hệ số UEFA chỉ định. Những câu lạc bộ từ cùng một hiệp hội (quốc gia) được ghép đôi để chia các ngày thi đấu giữa Thứ Ba và Thứ Tư. Những câu lạc bộ chung chữ cái ghép đôi sẽ thi đấu vào những ngày khác nhau, để đảm bảo rằng các đội từ cùng một thành phố (ví dụ: Milan và Internazionale là hai dùng chung sân vận động) không thi đấu trong cùng một ngày. Thể thức Ở vòng bảng, mỗi đội thi đấu hai lượt trận với ba đội cùng bảng còn lại (sân nhà và sân khách hoặc tại một địa điểm trung lập). Hai đội đầu bảng có nhiều điểm nhất hoặc đáp ứng các tiêu chí hòa sẽ giành quyền vào vòng đấu loại trực tiếp đầu tiên. Đội đứng thứ ba sẽ tham dự Cúp UEFA năm 2005. Tiêu chí tính hệ số Dựa trên đoạn 4.05 trong quy định của UEFA cho mùa giải hiện hành, nếu hai hoặc nhiều đội bằng điểm nhau sau khi hoàn thành các trận đấu vòng bảng, các tiêu chí sau sẽ được áp dụng để phân định thứ hạng: Số điểm cao hơn đạt được trong các trận đấu vòng bảng giữa các độ được tính đến; Hiệu số bàn thắng bại vượt trội so với các trận đấu vòng bảng giữa các đội được tính đến; Số bàn thắng ghi được trên sân khách cao hơn trong các trận đấu vòng bảng giữa các đội được tính đến; Hiệu số bàn thắng bại vượt trội so với tất cả các trận vòng bảng đã đá; Số bàn thắng ghi được cao hơn trong tất cả các trận vòng bảng đã đá; Số điểm hệ số cao hơn mà câu lạc bộ tích lũy được tính đến, cũng như hiệp hội của đội ở 5 mùa giải trước đó. Bảng đấu Thời gian là CET/CEST, theo như liệt kê của UEFA (giờ địa phương nằm trong ngoặc đơn). Bảng A Bảng B Bảng C Ghi chú Bảng D Bảng E Bảng F Ghi chú Chú thích Liên kết ngoài Fixtures and results at UEFA.com Vòng bảng UEFA Champions League
487
19831712
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20qu%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20Moldova
Danh sách quân chủ Moldova
Dưới đây là danh sách vương công xứ Moldova từ khi được đề cập là một chính thể nhà nước trung cổ nằm giữa ở phía Đông dãy Karpat cho đến khi hợp nhất vào các tỉnh liên hiệp România thống nhất năm 1862. Lưu ý Việc xác định người được chọn cai trị không rõ ràng do các định nghĩa tương đối lỏng lẻo theo thông lệ về các gia tộc được cho là có quyền cai trị vùng đất. Theo nguyên tắc, các vương công được chọn có thể là những đứa con hoang của các vương công trước đó (tiếng România: os de domn, tức là những đứa con mang dòng máu Vương công) hay theo kiểu thừa kế thông thường (tiếng România: heregie); hội đồng boyar sẽ chịu trách nhiệm bầu cử nhưng các boyar thì rất dễ chịu sự dao động trong quá trình này. Hệ thống này thường bị thách thức bởi những kẻ tiếm vị, và đối với thời kỳ Fanariot là việc bổ nhiệm vương công trực tiếp từ các hoàng đế Ottoman. Trong khoảng thời gian từ năm 1828 đến năm 1878 (thời điểm România độc lập), một số hệ thống tuyển cử cũng như lựa chọn bổ nhiệm đã được thử nghiệm. Đối với các vương công xứ Moldova , cũng giống như với xứ láng giềng Valahia, đều sử dụng tước xưng là Voivode (vương công) hoặc/và Hospodar (lãnh chúa); những cụm từ này khi sử dụng trong tiếng România được gọi là Domn (từ tiếng Latin là dominus). Tên gọi người cai trị không thống nhất giữa các tài liệu, một số thậm chí chỉ xuất hiện ở các tài liệu không phải là tiếng România. Tên được sử dụng là tên được gọi bởi các sử gia hiện đại hay từ một vài nguồn tham khảo khác nhau. Dưới đây là danh sách theo các nghiên cứu của Ștefan S. Gorovei và Constantin Rezachevici. Danh sách Ghi chú Nhà Drăgoșești Nhà Bogdan-Mușat Nhà Bogdan-Mușat (Với sự can thiệp của các gia tộc khác) Thời kỳ Tiền Fanariotes Thời kỳ Fanariotes Xem thêm Danh sách quân chủ Țara Românească Danh śách vua România Ghi chú Chú thích Constantin Rezachevici - Cronologia critică a domnilor din Țara Românească și Moldova a. 1324 - 1881, Volumul I, Editura Enciclopedică, 2001, Danh sách những người cai trị xứ Moldavia
388
19831713
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90inh%20Tu%E1%BA%A5n%20V%C5%A9
Đinh Tuấn Vũ
Đinh Tuấn Vũ là đạo diễn điện ảnh Việt Nam từng giành giải Đạo diễn xuất sắc tại Giải Cánh diều 2015 với bộ phim Cuộc đời của Yến, bộ phim này của anh cũng giành được những hạng mục quan trọng của Giải Cánh diều 2015, Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19, cùng một giải quốc tế. Một số phim điện ảnh khác do anh đạo diễn cũng giành được các giải thưởng như Và anh sẽ trở lại, Chú ơi đừng lấy mẹ con, Truyền thuyết về Quán Tiên. Tiểu sử Đinh Tuấn Vũ sinh ngày 27 tháng 12 năm 1989, bố anh là nhà báo Đinh Trọng Tuấn - Tổng biên tập Tạp chí Thế giới Điện ảnh, Mẹ là nhà lý luận phê bình điện ảnh Ngô Phương Lan - nguyên Cục trưởng Cục Điện ảnh. Ông ngoại của Đinh Tuấn Vũ là NSND họa sĩ Ngô Mạnh Lân, bà ngoại là NSND diễn viên Ngọc Lan. Dù được gia đình định hướng theo học Đại học ngoại giao. Từ năm 2007 đến 2011, Đinh Tuấn Vũ học lớp đạo diễn khóa 27 tại Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội. Trong thời gian theo học, Đinh Tuấn Vũ đã giành được giải Tài năng trẻ cho bộ phim ngắn đầu tay, Sau bức rèm. Năm 2011, phim ngắn Khẽ chạm của Đinh Tuấn Vũ giành được bằng khen tại Giải Cánh diều 2010. Sau khi tốt nghiệp, Đinh Tuấn Vũ làm việc tại Hãng phim truyện Việt Nam; năm 2013, bộ phim điện ảnh đầu tay của anh là Và anh sẽ trở lại giành được bằng khen tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 18. Năm 2016, bộ phim điện ảnh tiếp theo là Cuộc đời của Yến thắng lớn khi nhận được 5 giải tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19 – trong đó có giải Bông sen bạc cho phim truyện điện ảnh – 3 giải Cánh Diều - trong đó anh nhận giải Đạo diễn xuất sắc - và giải Phim hay nhất tại Liên hoan phim quốc tế các phim công chiếu lần đầu tại Philippines. Đinh Tuấn Vũ là thành viên ban giám khảo Liên hoan phim môi trường lần thứ 6 năm 2016, cuộc thi Nhà biên kịch tài năng năm 2017 và 2018. Bộ phim điện ảnh Truyền thuyết về Quán Tiên sản xuất năm 2019 do anh đạo diễn nhận được giải Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 21. Cũng tại kỳ liên hoan phim này, bộ phim Chú ơi, đừng lấy mẹ con do anh đạo diễn bất ngờ giành giải Phim điện ảnh được khán giả yêu thích. Năm 2020, Đinh Tuấn Vũ bắt đầu dự án phim tiểu sử Sao vàng bên ngực áo - sau đổi tựa đề thành Viên đạn cuối cùng - kể về vận động viên bắn súng Hoàng Xuân Vinh. Vì dịch Covid và một số lí do khác mà dự án bị dở dang. Năm 2023, Đinh Tuấn Vũ bắt đầu làm đạo diễn dòng phim truyền hình với bộ phim Nhà mình lạ lắm. Tác phẩm Vai trò đạo diễn chính Phó đạo diễn Giải thưởng Giải cá nhân Phim ngắn đầu tay: Sau bức rèm dành giải Tài năng trẻ Năm 2016: Giải Đạo diễn xuất sắc hạng mục Phim truyện điện ảnh tại Giải Cánh diều 2015 với bộ phim Cuộc đời của Yến. Tác phẩm đạt giải Tham khảo Người họ Đinh tại Việt Nam Sinh năm 1989 Người Hà Nội Đạo diễn Việt Nam Nhân vật còn sống Phim và người giành giải Cánh diều
599
19831717
https://vi.wikipedia.org/wiki/Builders%20of%20Egypt
Builders of Egypt
Builders of Egypt là một dạng game xây dựng thành phố mang tính kinh tế sắp ra mắt lấy bối cảnh Ai Cập cổ đại. Câu chuyện sẽ bắt đầu trong một thời kỳ nguyên thủy ít được biết đến. Người chơi sẽ có thể quan sát sự ra đời của Nền văn minh Ai Cập và trò chơi sẽ kết thúc với sự sụp đổ của Vương quốc Ptolemy và cái chết của Cleopatra. Builders of Egypt: Prologue, phiên bản demo được phát hành vào ngày 2 tháng 3 năm 2020. Lối chơi Builders of Egypt dự kiến sẽ có những điểm tương đồng với những tựa game xây dựng thành phố trước đây của hãng Impressions Games lấy bối cảnh Ai Cập cổ đại: Pharaoh và tựa game kế nhiệm tinh thần của nó mang tên Immortal Cities: Children of the Nile. Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức Trang chủ Strategy Labs Trò chơi điện tử sắp ra mắt Trò chơi xây dựng thành phố Trò chơi trên Windows Trò chơi độc quyền Windows Trò chơi điện tử một người chơi Trò chơi của PlayWay Trò chơi của CreativeForge Games Trò chơi điện tử phát triển ở Ba Lan Trò chơi điện tử lấy bối cảnh thời cổ đại Trò chơi điện tử lấy bối cảnh ở Ai Cập Trò chơi điện tử lấy bối cảnh ở Sudan Trò chơi điện tử với đồ họa isometric Trò chơi điện tử có nhân vật chính là nữ
231
19831719
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%BAi%20B%C3%A0%20T%C3%A0i
Núi Bà Tài
Núi Bà Tài là một ngọn núi nhỏ ở ấp Ba Núi, xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Núi cách Tỉnh lộ 11 hơn 300 m. Bà Tài được xem là ngọn núi duy nhất ở Kiên Lương còn sự nguyên vẹn với rất ít tác động của con người. Ngọn núi là tâm điểm tranh cãi trong việc khai thác hay bảo tồn giữa nhiều nhà chức trách và đại diện, chuyên gia các ban ngành khác nhau. Tự nhiên Bà Tài gồm núi Nước và núi Ba He, đỉnh cao nhất 104 m với tổng diện tích 16,6 ha, trong đó núi Nước rộng 9 ha. Đây là một dãy núi liền mạch với phần giữa là một eo núi rộng khoảng 15 m và cao hơn 10 m. Núi có nhiều hang động. Bà Tài là một khối đá vôi, đã có phát hiện mỏ photphorit. Tổng khối lượng đá vôi 21,515 triệu m3. Ngoài ra, núi Bà Tài có đá vôi màu hồng, photphorit tìm thấy có trữ lượng 13.000 tấn. Tuy là một ngọn núi nhỏ, nhưng Bà Tài có nhiều loài sinh vật đặc hữu không thể tìm thấy các khu vực khác. Núi có 118 loài động vật chân khớp sinh sống, và một ước tính về số lượng có thể hơn 300 loài, nhiều loài thậm chí chưa được đặt tên. Bà Tài được đánh giá cao trong vị trí bảo tồn đối với dự án thành lập Khu bảo tồn núi đá vôi Kiên Lương đang được đề xuất xây dựng. Loài đặc hữu Một số loài thực vật đặc hữu: Lan bầu rượu Thu hải đường Ba Tai Một số loài động vật đặc hữu: Bọ hung Anonyxmolytes lilliput Rết Lê Công Kiệt (Sphaeropauropus lecongkieti) Bọ nhảy Bà Tài (Blasconura batai) Bọ nhảy Hòn Chông (Rambutsinella honchongensis) Đe dọa Năm 2011, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hương Hải, có trụ sở tại Hà Nội, được Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Kiên Giang cấp chứng nhận đầu tư dự án nhà máy sản xuất vôi hóa và gạch nhẹ chưng áp, chế biến vật liệu xây dựng. Công ty được phép khai thác ba mỏ đá vôi ở núi Nhỏ, núi Lò Vôi Lớn và núi Túc Khối. Một năm sau, công ty này xin cấp phép khai thác núi Bà Tài. Tại cuộc họp của UBND tỉnh Kiên Giang tổ chức để xem xét kiến nghị của Công ty Hương Hải về việc khai thác núi Bà Tài, giám đốc Sở Tài nguyên – môi trường tỉnh Kiên Giang là Nguyễn Xuân Lộc cho biết công ty này nếu hoạt động tối đa có thể đóng góp ngân sách 100 tỷ VND/năm. Do đó, ông ý kiến: "Bảo tồn cũng cần, mà tiền cho ngân sách cũng rất cần, theo tôi là nên cho khai thác". Giám đốc Sở Khoa học – công nghệ Kiên Giang là Lương Thanh Hải đề nghị giao cho Công ty Hương Hải khai thác một phần núi chỉ giữ lại một phần núi sát phía biển để bảo tồn. Tuy nhiên, đại diện Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Kiên Giang là Trần Thị Hằng phản đối: "Cho doanh nghiệp quả núi này tỉnh cũng không thu được bao nhiêu, không khai thác thì chúng ta cũng không nghèo hơn nên tôi đề nghị nên giữ lại". Bộ Xây dựng xác nhận núi Bà Tài không nằm trong quy hoạch thăm dò, khai thác. Nhưng sau khi nhận được văn bản xin khai thác của Công ty Hương Hải, họ có công văn "Chuyển văn bản của công ty để UBND tỉnh Kiên Giang hướng dẫn xem xét cấp phép hoạt động khoáng sản mỏ đá vôi núi Bà Tài". Văn bản của Bộ do Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam ký ngày 11 tháng 1 năm 2013. Ngày 16 tháng 1 năm 2013, Viện Sinh thái học Miền Nam đã có văn bản đề nghị lãnh đạo UBND tỉnh Kiên Giang xem xét thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên núi đá vôi Kiên Lương nhằm bảo toàn đa dạng sinh học của khu vực này. Ngày 17 tháng 1, điều phối viên của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) tại Việt Nam là Jake Runner gửi thư cho Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang là Lê Văn Thi bày tỏ sự quan ngại của ông về đề xuất khai thác núi Bà Tài. Ông kêu gọi "bảo vệ vĩnh viễn núi Bà Tài". Giáo sư Đại học Colorado Herbert H. Covert cũng liên lạc với UBND tỉnh Kiên Giang đề nghị bảo vệ núi Bà Tài. Ngày 18 tháng 1, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là Nguyễn Linh Ngọc có văn bản gửi UBND tỉnh Kiên Giang về việc cấp phép thăm dò, khai thác các mỏ đá vôi tại các núi ở Kiên Lương thuộc thẩm quyền của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Ngày 25 tháng 1, cục trưởng Cục Địa chất và khoáng sản (Bộ Tài nguyên và Môi trường) là Nguyễn Văn Thuấn khẳng định theo Luật khoáng sản sửa đổi, có hiệu lực từ tháng 7 năm 2011, thì thẩm quyền cấp phép khai thác đá ở núi Bà Tài thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường. Ngày 26 tháng 2, phó chánh văn phòng UBND tỉnh Kiên Giang là Huỳnh Vĩnh Lạc cho biết sau các cuộc họp chính quyền tỉnh Kiên Giang đã quyết định giữ lại núi Bà Tài. Đầu tháng 7 năm 2013, phó giám đốc Sở Xây dựng Kiên Giang là Trần Ngọc Tính buộc Công ty Hương Hải ngưng thi công đường cắt ngang núi Bà Tài. Đến tháng 12, việc khai thác núi Bà Tài bị cấm. Xem thêm Núi Xà Ngách Khu bảo tồn núi đá vôi Kiên Lương Chú thích Tài liệu tham khảo Liên kết ngoài Vị trí núi Bà Tài, Google Map. Núi tại Kiên Giang
984
19831731
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%8F%20b%E1%BB%8Dc%20%E1%BA%A5m%20%C3%A1p
Vỏ bọc ấm áp
Vỏ bọc ấm áp là một bộ phim lãng mạn do Vương Mộc biên kịch và đạo diễn, với sự tham gia diễn chính của Vương Tử Văn, Doãn Phưởng, với Vịnh Mai là khách mời, Bạch Khách diễn xuất đặc biệt, Chu Y Nhiên, Bốc Quan Kim, Trương Kim diễn, Trương Hy Nhiên và Tôn Dương đồng diễn , ra mắt tại Trung Quốc đại lục vào ngày 26 tháng 5 năm 2023. Phim kể về Dai Chun và Jue Xiao, một cặp tình nhân bị mắc kẹt trong thế giới tâm linh, sau khi trở về xã hội, họ phải đối mặt với những định kiến ​​thế tục và cùng nhau xây dựng một gia đình nhỏ . Nội dung Giáo Hiểu bị mẹ bỏ rơi từ khi còn nhỏ và được dì nuôi dưỡng. Đới Xuân phải chịu đựng bạo lực gia đình từ cha mình khi còn nhỏ, đồng thời cũng phải trải qua cuộc chia ly bi thảm với gia đình. Những tổn thương do gia đình quê hương gây ra đã khiến hai Người trở nên mong manh, nhạy cảm và mang những gánh nặng tâm lý mà người bình thường không thể tưởng tượng được. Vào thời điểm khó khăn nhất trong cuộc đời Giáo Hiểu, sự xuất hiện của Đới Xuân đã phá vỡ bóng tối như một tia nắng. Trong môi trường khép kín, hai người đi từ quen biết đến yêu nhau, dùng tình yêu dệt nên khả năng hạnh phúc và cứu nhau khỏi sương mù dày đặc. Cuộc sống tươi đẹp vẫn tiếp tục, thử thách của thực tế cũng tấn công tình yêu của họ, họ cần an ủi nhau và trở thành người tốt nhất trong mắt nhau . Diễn Viên Diễn viên chính Diễn xuất đặc biệt Đồng diễn Diễn viên khác Giải thưởng Tham khảo Liên kết ngoài
306
19831758
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chu%20Ph%C6%B0%E1%BB%A3ng%20Li%C3%AAn
Chu Phượng Liên
Chu Phượng Liên (; sinh 1977) là một chính khách, nhà ngoại giao người Trung Quốc, đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, hiện là Phát ngôn viên của Văn phòng Sự vụ Đài Loan và Phó Cục trưởng Cục Thông tin Văn phòng Sự vụ Đài Loan. Tiểu sử Chu sinh ra ở Mai Châu, tỉnh Quảng Đông năm 1977, trong một gia đình nghèo người dân tộc Khách Gia. Cha cô là công nhân xây dựng còn mẹ cô là người bán hang rong nhỏ. Cô tốt nghiệp Cử nhân Ngoại ngữ tại Đại học Bắc Hàng năm 1996 và sau đó tốt nghiệp Thạc sĩ Ngoại ngữ tại cùng trường vào năm 2000. Chu tốt nghiệp Thạc sĩ Hành chính công tại Đại học Thanh Hoa. Vào tháng 7 năm 2003, bà gia nhập Văn phòng Các vấn đề Đài Loan của Hội đồng Nhà nước. Từ tháng 9 năm 2010 đến tháng 1 năm 2019, bà giữ chức phó giám đốc kiêm giám đốc Văn phòng các vấn đề Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan của Văn phòng các vấn đề Đài Loan. Vào tháng 8 năm 2019, bà được bổ nhiệm làm phó giám đốc phòng thông tin của Văn phòng các vấn đề Đài Loan và sau đó vào tháng 11 năm 2019, bà cũng được bổ nhiệm làm người phát ngôn. Tham khảo Sinh năm 1977 Người Quảng Đông Nhân vật còn sống Phát ngôn viên Trung Quốc Cựu sinh viên Đại học Thanh Hoa Người Khách Gia
247
19831761
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Kipchak
Người Kipchak
Người Kipchak hay Qipchak, còn được gọi là người Turk Kipchak hoặc người Polovtsia, là một dân tộc và liên minh du mục người Turk tồn tại từ thời Trung cổ, sinh sống ở các vùng của thảo nguyên Á-Âu. Được đề cập lần đầu tiên vào thế kỷ thứ VIII với tư cách là một phần của Hãn quốc Hậu Đột Quyết, rất có thể họ sinh sống ở vùng Núi Altai, từ đó họ mở rộng lãnh thổ trong các thế kỷ tiếp theo, đầu tiên là một phần của Hãn quốc Kimek và sau đó là một phần của liên minh với người Cuman. Có những nhóm người Kipchak ở thảo nguyên Pontic–Caspi, Trung Quốc, Syr Darya và Siberia. Liên minh Cuman–Kipchak bị người Mông Cổ chinh phục vào đầu thế kỷ XIII. Chú thích Tham khảo Nguồn Đọc thêm "Kipchak" Encyclopædia Britannica, Academic Edition. 2006. "Polovtsi" The Columbia Encyclopedia, Sixth Edition. 2001–2005. Boswell, A. Bruce. "The Kipchak Turks." The Slavonic Review 6.16 (1927): 68–85. Győrfi, Dávid. "Khwarezmian: Mapping the Kipchak component of Pre-Chagatai Turkic." Acta Orientalia 67.4 (2014): 383–406. Shanijazov, K. "Early Elements in the Ethnogenesis of the Uzbeks." The Nomadic Alternative: Modes and Models of Interaction in the African-Asian Deserts and Steppes (1978): 147. Ushntskiy, Vasiliy V. "KIPCHAK COMPONENT IN THE SAKHA ETHNOGENESIS." VESTNIK TOMSKOGO GOSUDARSTVENNOGO UNIVERSITETA-ISTORIYA 3 (2015): 97–101. Mukhajanova, T. N., and A. M. Asetilla. "KIPCHAK" ETHNONYM AND THE HISTORY OF ITS ORIGIN." International Scientific and Practical Conference World science. Vol. 3. No. 12. ROST, 2016. Baski, Imre. "On the ethnic names of the Cumans of Hungary." Kinship in the Altaic World. Proceedings of the 48th PIAC (2006): 43–54. Róna-Tas, András. "The reconstruction of Proto-Turkic and the genetic question." (1998). Biro, M. B. "The «Kipchaks» in the Georgian Martyrdom of David and Constantin." Annales. Sectio linguistics 4 (1973). Kadyrbaev, Aleksandr. "Turks (Uighurs, Kipchaks and Kanglis) in the history of the Mongols." Acta Orientalia 58.3 (2005): 249–253. Halperin, Charles J. "The Kipchak Connection: The Ilkhans, the Mamluks and Ayn Jalut." Bulletin of the School of Oriental and African Studies 63.2 (2000): 229–245. Eckmann, János. "The Mamluk-Kipchak Literature." Central Asiatic Journal (1963): 304–319. Csáki, E. (2006). Middle Mongolian loan words in Volga Kipchak languages. Turcologica, Bd. 67. Wiesbaden: Harrassowitz. Galip Güner (2013), Kıpçak Türkçesi Grameri, Kesit Yayınları, İstanbul. Hildinger, Erik (1997), Warriors of the Steppe: Military History of Central Asia, 500 BC To 1700 AD. Da Capo Press. Mustafa Argunşah, Galip Güner (2015), Codex Cumanicus, Kesit Yayınları, İstanbul. Liên kết ngoài Codex Cumanicus Murad ADJI, The Kipchaks Kipchak Các dân tộc Turk ở châu Âu Dân tộc Turk châu Á Bộ lạc du mục Á-Âu Lịch sử Kiev Rus' Nhóm sắc tộc ở Ukraina
443
19831776
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2n-%C4%91%E1%BA%A7u-l%C6%B0
Tân-đầu-lư
Tân-đầu-lư (賓頭盧), hay Tân-độ-la Phả-la-đọa-xà (zh. 賓度羅·颇罗堕闍, sa. Piṇḍola Bhāradvāja) là một vị La Hán trong Phật giáo. Theo kinh điển Phật giáo Ấn Độ sơ kỳ, Ngài là một trong Tứ đại La hán được Đức Phật yêu cầu ở lại thế gian (tiếng Trung: 住世, trụ thế) để truyền bá Phật pháp. Tân-đầu-lư được cho là có sức mạnh thần thông, tuy nhiên, tôn giả từng bị Đức Phật khiển trách vì lạm dụng thần thông của mình để gây ấn tượng với những người đơn giản, thiếu hiểu biết. Cùng với A-nan-đà, Tân-đầu-lư đã thuyết giảng cho những người phụ nữ trong cung điện Udena tại Kosambi hai lần. Trong những thế kỷ sau, số lượng các vị La Hán được tôn kính tăng từ bốn lên 16 vị, rồi sau đó lên tới 18 vị. Trong các bức tranh Thangka của Tây Tạng mô tả 18 vị La Hán, Pindola Bharadvaja thường được miêu tả đang cầm một cuốn sách và một chiếc bát khất thực. Ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc Trong truyền thống Phật giáo Hán truyền, tôn giả Tân-đầu-lư được coi là đệ tử "Phúc lành đầu tiên" (福田第一, Phúc điền đệ nhất) của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Ngài còn được tôn xưng là Tọa lộc La hán (坐鹿罗汉, do hình tượng Ngài ngồi trên vật cưỡi là con hươu, Sư tử hống đệ nhất (狮子吼第一)... Tài liệu Phó pháp tạng nhân duyên truyện (付法藏因緣傳, Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh, tập 50, kinh số 2058) có chép "tôn giả mi tóc trắng xóa, hình tướng tương hảo, giống như một vị Bích chi Phật". Hình ảnh của Ngài đôi khi được đặt ở vị trí nổi bật trong bất kỳ cuộc tụ họp nào của các tu sĩ cùng chia sẻ bữa tiệc chay. Phật giáo Tây Tạng Tôn giả Piṇḍolabhāradvāja (Tib. པིཎྜོ་ལ་བྷཱ་ར་དྭཱ་ཛཿ བྷ་ར་དྷྭ་ཛ ་བསོད་སྙོམས་ལེན་, Bharadodza Sönyom Le; Wyl. bha ra dhwa dza bsod snyoms len) — một trong Thập lục La hán được thờ phụng trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Ngài được cho là sống trong một hang động trên núi ở lục địa phía đông (Purvavideha) cùng với 1.000 vị La Hán. Ngài cầm một cuốn kinh trong tay phải và một bát khất thực ở bên trái, Ngài dùng để giúp đỡ những người ở các cõi thấp, ban trí tuệ và ban điều ước, bảo vệ khỏi những điều bất hạnh. Nhật Bản Ở Nhật Bản, Pindola được gọi là , dạng rút gọn của , được cho là vị La Hán nổi tiếng nhất. Phòng ăn của tu viện gần chùa Tōdai-ji ở Nara có một bức tượng lớn bằng gỗ của Binzuru, mô tả Ngài ngồi trong tư thế hoa sen. Các bức tượng Binzuru thường bị mài mòn nhiều, vì các tín đồ có phong tục xoa bóp một phần hình nộm tương ứng với các bộ phận bị bệnh trên cơ thể họ, vì Ngài được cho là có năng lực chữa bệnh. Nagano, nơi có ngôi chùa Zenkoji cũng có bức tượng Binzuru cổ, tổ chức lễ hội Binzuru hàng năm. Các bức tượng của tôn giả Binzuru cũng thường xuyên được tặng những chiếc yếm và mũ trẻ em màu đỏ và trắng để cầu mong phù hộ cho sức khỏe của trẻ sơ sinh, vì vậy bức tượng thường được trang trí bằng vải vụn. Trong hội họa, Binzuru được thể hiện như một ông già ngồi trên một tảng đá, tay cầm một loại tích trượng (shaku trong tiếng Nhật), hoặc một hộp kinh và một chiếc quạt lông vũ. Tất cả các vị A-la-hán khác thường được tôn thờ ở Nhật Bản trong hình dáng Binzuru. Chú thích Tham khảo A-la-hán Đệ tử Thích-ca Mâu-ni
616
19831809
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Khang%20%C4%90%E1%BB%8Bnh-L%C3%B4%20%C4%90%E1%BB%8Bnh%201786
Động đất Khang Định-Lô Định 1786
Một trận động đất xảy ra vào ngày 1 tháng 6 năm 1786 (ngày 6 tháng 5 năm Càn Long thứ 51) trong và xung quanh Khang Định, ngày nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc. Trận động đất này có cường độ ước tính khoảng 7,75 và cường độ tối đa được cảm nhận là X (Cực độ) trên thang cường độ Mercalli. Trận động đất ban đầu làm chết 435 người. Sau một dư chấn vào mười ngày sau, thêm 100.000 người nữa chết khi một đập lở đất bị sụp đổ trên sông Đại Độ. Bối cảnh kiến tạo Tứ Xuyên nằm trong vùng biến dạng phức tạp liên quan đến va chạm lục địa đang diễn ra giữa mảng Ấn Độ và mảng Á-Âu. Lớp vỏ dày của cao nguyên Tây Tạng đang lan rộng về phía đông gây ra chuyển động về phía nam của khối Tứ Xuyên-Vân Nam. Phía đông của khối này được bao bọc bởi hệ thống đứt gãy Tiên Thủy Hà, một đới đứt gãy trượt ngang bên trái cỡ lớn. Chuyển động trên đới đứt gãy này gây ra nhiều trận động đất gây thiệt hại lớn, như động đất Đạo Phu 1981. Động đất Chấn tâm của trận động đất được cho là nằm giữa Khang Định và Đắc Thoả. Sau đó, có nhiều dư chấn kéo dài cho đến ngày 13 tháng 6. Trận động đất gây thiệt hại nghiêm trọng cho khu vực Khang Định và Lô Định , và có thể cảm nhận được ở tận Quý Châu và Hồ Nam. Một bản đồ đẳng chấn được xây dựng cho trận động đất này cho thấy vùng rung lắc cực đại kéo dài theo hướng tây bắc-đông nam, song song với dấu vết của đứt gãy Tiên Thủy Hà. Độ lớn 7,5–8,0 đã được ước tính từ phạm vi của vùng cường độ VIII (nghiêm trọng). Các kỹ thuật viễn thám, được hỗ trợ bởi một cuộc khảo sát thực địa, đã xác định được một vùng đứt gãy bề mặt dài được cho là có liên quan với trận động đất. Đoạn đứt gãy hoạt động đã được xác định là đứt gãy Ma Khê. Đập lở đất Trận động đất gây ra nhiều vụ lở đất, một trong số đó đã chặn sông Đại Độ, tạo thành một hồ nước tạm thời. Con đập cao khoảng , giữ lại lượng nước ước tính khoảng Đến ngày 9 tháng 6, hồ bắt đầu chảy qua đập và dư chấn ngày 10 tháng 6 khiến đập đột ngột bị sập, xả lượng nước tích trữ và tàn phá khu vực hạ du. Đây là thảm họa lở đất gây chết chóc thứ hai được ghi nhận, sau động đất Hải Nguyên 1920. Thiệt hại Trận động đất gây ra thiệt hại trên diện rộng ở khu vực chấn tâm. Các bức tường thành tại Khang Định sụp đổ và gây thiệt hại nghiêm trọng cho nhiều ngôi nhà và tòa nhà chính phủ khiến 250 người thương vong. Tại huyện Lô Định có 181 người thiệt mạng trong các tòa nhà bị sập. Tại cả hai nơi Thanh Khê và Việt Tây, một phần tường thành bị phá hủy và nhiều tòa nhà bị hư hại nghiêm trọng, gây thêm thương vong. Trận lũ lụt do vỡ đập lở đất đã đến thành phố Lạc Sơn vào ngày 11 tháng 6, khiến một phần tường thành bị sập. Những người hiếu kỳ tụ tập để xem lũ trên các bức tường đã bị rơi xuống nước. ảnh hưởng của lũ lụt tiếp tục diễn ra ở hạ lưu tại Nghi Tân và Lô Châu, với tổng số ước tính khoảng 100.000 người thiệt mạng. Người dân địa phương đã làm một tấm bia tưởng niệm mô tả những sự kiện này, hiện được lưu giữ tại Văn phòng Địa chấn học ở Lô Định. Tham khảo Thảm họa năm 1786 Động đất thế kỷ 18 Trung Quốc thế kỷ 18 Tứ Xuyên
664
19831824
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gregory%20V%20c%E1%BB%A7a%20Constantinopolis
Gregory V của Constantinopolis
Gregory V (; 1746 – 22 tháng 4, 1821), có tên gốc là Georgios Angelopoulos () là Thượng phụ Đại kết thành Constantinopolis từ năm 1797 tới 1798, từ 1806 tới 1808, và từ 1818 tới 1821. Ông có công lớn trong việc khôi phục nhà thờ chính tòa Thánh George sau khi nhà thờ này bị lửa thiêu rụi năm 1738. Tiểu sử Sinh ra ở Dimitsana, ông theo học ở Athens trong 2 năm từ năm 1756, sau đó ông tới học tập ở Smyrna trong 5 năm tiếp theo. Ông cạo đầu để trở thành tu sĩ và lấy tên "Gregory" ở tu viện tại Strofades, sau đó ông học tiếp ở trường Patmiada. Trở về Smyrna, ông được phong chức phó tế bởi thượng phụ Procopius, khi đó đang là giám mục đô thành Smyrna. Năm 1785, Gregory được suy tôn chức giám mục đô thành Smyrna khi Procopius được bầu làm Thượng phụ Đại kết thành Constantinopolis. Năm 1797, Gregory được bầu làm Thượng phụ Đại kết lần đầu tiên, sau khi Gerasimus III từ chức. Vào buổi đầu của Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp, với tư cách người đứng đầu cộng đồng Chính thống giáo, Gregory V bị sultan Mahmud II của Đế quốc Ottoman khiển trách do không có khả năng ngăn chặn cuộc nổi dậy của người Hy Lạp. This was in spite of the fact that Gregory had condemned the Greek revolutionary activities in order to protect the Greeks of Constantinople from such reprisals by the Ottoman Turks. After the Greek rebels scored several successes against the Ottoman forces in the Peloponnese, these reprisals came. Directly after celebrating the solemn Paschal Liturgy on (10 April Old Style), Gregory was accosted by the Ottomans and, still in full liturgical vestments, taken out of the Patriarchal Cathedral. He was then lynched, his corpse being left for two days on the main gate of the Patriarchate compound, all by order of the Sultan. The Patriarch's body was eventually interred in the Metropolitan Cathedral of Athens. He is commemorated by the Greek Orthodox Church as an Ethnomartyr (). In his memory, the Saint Peter Gate, once the main gate of the Patriarchate compound, was welded shut in 1821 and has remained shut ever since. Sức ảnh hưởng Vụ ám sát kinh hoàng Gregory V, đặc biệt lại diễn ra vào Lễ Phục Sinh, đã gây sốc và khiến người Hy Lạp cũng như Đế quốc Nga Chính thống giáo tức giận. Sự kiện này cũng kéo theo những cuộc biểu tình ở phần còn lại của châu Âu và thúc đẩy phong trào Philhellenism (ủng hộ văn hóa Hy Lạp). Trong chiến tranh giành độc lập Hy Lạp có nhiều người cách mạng đã khắc tên Gregory lên thanh kiếm của mình với quyết tâm báo thù. Dionysios Solomos, trong tác phẩm "Thánh ca Tự do" mà sau này được phổ nhạc thành quốc ca Hy Lạp, đã nhắc đến sự kiện thượng phụ bị treo cổ trong một số khổ thơ. Tham khảo Sinh năm 1746 Mất năm 1821
510
19831841
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n%20th%E1%BA%A7n
Nhân thần
Nhân thần (chữ Hán: 人神) là những vị thần có nguồn gốc là con người, được sùng bái trong nhiều nền văn hóa khắp thế giới. Các nhân thần khi còn sống thường là những người có công lao to lớn với dân với nước, sau khi chết họ được phong làm thần cai quản các vùng đất và được dân chúng lập đền thờ trong các đền thờ. Một số nơi trên thế giới, nhân thần thậm chí là những người còn sống và họ được tôn kính như một vị thần thật sự. Việt Nam Tứ phủ Khái niệm nhân thần và thiên thần được đề cập đến trong tứ phủ, trong đó nhân thần là những ngừoi sau khi chết được trở thành thần. Còn thiên thần là những vị thần không phải là người, mà có nguồn gốc từ nhà trời. Nhân thần và Nhiên thần Bài chi tiết: Tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Thần thành hoàng Bài chi tiết: Thành hoàng Thành hoàng là những vị nhân thần cai quản và quyết định họa phúc của một làng. Những người được thờ thường là những người có tên tuổi và địa vị, có công lao đối với làng đó, sau khi chết đi được vua chúa phong làm thần cai quản vùng đất đó. Nhà văn Sơn Nam cho biết bởi đây là dạng viên chức được vua ủy quyền trừu tượng, trong rất nhiều trường hợp, không phải là con người lịch sử bằng xương bằng thịt. Do vậy, đa phần không có tượng mà chỉ thờ một chữ "thần" (神). Trung Quốc Thành hoàng (城隍) là những danh nhân hoặc những người có công với đất nước, phần lớn họ là những quan lại công bằng, lương thiện, có lòng vị tha sau khi chết đi được phong làm thần. Vì thành hoàng là một chức vụ chứ không phải là danh hiệu, nên mỗi tín đồ có thể tôn sùng một thành hoàng khác nhau. Ban đầu các thành hoàng được coi là nhiên thần vì họ được thần thánh hóa từ các thành trì, nhưng sau này lại được coi là nhân thần như cách hiểu hiện tại. Nhật Bản trong tín ngưỡng dân gian và thần đạo Nhật Bản, là những con người được tôn thờ như một vị thần sau khi chết đi, thậm chí là khi vẫn còn sống. Thuật ngữ Hitogami có nghĩa là "nhân thần" và còn được gọi là hay , đặc biệt khi vị thần là người còn sống. Việc phong thần cho con người sau khi chết là một cách để chôn cất di sản của những người đã chết trong mối hận thù. Trong suốt lịch sử Nhật Bản, hệ thống tín ngưỡng Hitogami và đã tương tác với nhau. Ví dụ về hệ thống tín ngưỡng hitogami có thể thấy trong việc thần thánh hóa các anh hùng như thần chiến tranh và thần tri thức . Chú thích Thần thánh Á thần Thần đạo Nhật Bản
501
19831856
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BA%AEc%20quy%20kh%E1%BB%9Fi%20%C4%91%E1%BB%99ng
Ắc quy khởi động
Ắc quy khởi động là một loại pin sạc có thể sạc lại được, nó được sử dụng để khởi động xe cơ giới như ô tô, xe tải hay xe công trình. Mục đích của nó là cung cấp dòng điện cho máy khởi động hay máy đề, từ đó khởi động động cơ đốt trong hoạt động. Khi động cơ đã hoạt động, ắc quy vẫn tiếp tục cung cấp nguồn điện cho hệ thống điện của xe. Ắc quy được sạc lại bởi máy phát điện trên xe ô tô. Ắc quy trên các xe ô tô hiện đại Ắc quy trên ô tô động cơ xăng và động cơ dầu diesel Thường thì, quá trình khởi động chỉ tiêu tốn dưới ba phần trăm dung lượng ắc quy. Vì lý do này, ắc quy ô tô được thiết kế để cung cấp dòng điện có cường độ lớn trong một khoảng thời gian ngắn. Ắc quy khởi động của ô tô còn được gọi là 'Ắc quy SLI' (khởi động, chiếu sáng và đánh lửa). Ắc quy khởi động không được thiết kế để xả sâu, và việc xả kiệt bình ắc quy có thể làm giảm tuổi thọ của nó. Tuổi thọ trung bình của ắc quy trên các dòng xe ô tô sử dụng động cơ đốt trong là từ 2-4 năm. Ngoài việc khởi động động cơ, ắc quy khởi động cung cấp năng lượng phụ thêm khi nhu cầu điện của xe vượt quá nguồn cung cấp từ hệ thống sạc. Nó cũng đóng vai trò ổn định điện áp, tránh việc điện áp tăng vọt có thể gây hại cho các hệ thống điện trên xe. Trong khi động cơ hoạt động, hầu hết năng lượng điện được cung cấp bởi máy phát điện, nó cũng bao gồm một bộ ổn áp để duy trì điện áp đầu ra trong khoảng 13.5 đến 14.5 V. Ắc quy khởi động hiện đại thường là loại acid chì, sử dụng sáu cell đấu nối tiếp nhau để tạo ra hệ thống 12 volt (trên hầu hết các xe du lịch và xe tải nhẹ), hoặc mười hai cell cho hệ thống 24 volt trong các xe tải nặng hoặc xe công trình. Rò rỉ khí gas có thể xảy ra tại cực âm, nơi khí hydro có thể tích tụ do lỗ thông hơi của bình ắc quy bị tắc, kết hợp với nguồn lửa sẽ gây ra cháy nổ. Vụ nổ trong quá trình khởi động động cơ thường liên quan đến việc cực ắc quy bị ăn mòn hoặc quá bẩn. Một nghiên cứu năm 1993 của Cục An toàn Giao thông Hoa Kỳ cho biết 31% các vụ tai nạn do nổ ắc quy xe ô tô xảy ra trong quá trình sạc điện. Các tình huống tai nạn dẫn đến nổ bình ắc quy phổ biến tiếp theo là trong quá trình câu nổ bình ắc quy bằng dây cáp, do quy trình gắn cáp kết nối không đúng trình tự cọc bình hoặc do gắn trực tiếp cáp âm vào cọc âm ắc quy thay vì phải gắn cáp âm vào khung sườn xe. Gần hai phần ba số người bị thương trong các vụ tai nạn này bị bỏng acid và gần ba phần tư bị thương về mắt, cùng với những nguy cơ chấn thương khác có thể xảy ra. Ắc quy trên xe ô tô điện và xe hybrid Xe ô tô điện (EVs) vận hành bởi loại pin có điện áp cao, nhưng hầu hết các loại xe này vẫn đước trang bị 1 bình ắc quy khởi động, bởi vì các hệ thống điện thân xe như đèn, còi đều hoạt động trên điện áp 12 V. Ắc quy khởi động trên ô tô điện lúc này được gọi là ắc quy dự phòng. Không giống như ô tô sử dụng động cơ đốt trong, ô tô điện không sạc lại cho ắc quy dự phòng bằng máy phát điện mà sử dụng 1 bộ chuyển đổi điện áp 1 chiều để hạ điện áp từ pin xe xuống khoảng 14V để sạc cho ắc quy. Thông số kỹ thuật của ắc quy ô tô Kiểu dáng Ắc quy ô tô có kiểu dáng được phân loại theo kích cỡ bình, vị trí cọc bình, kích cỡ cọc bình theo tiêu chuẩn DIN hoặc JIS. Điện áp Có 2 mức điện áp ắc quy dành cho ô tô phổ biến là 12V và 24V. Trong đó ắc quy 12V là phổ thông nhất. Dung lượng (Ah) Dung lương bình ắc quy được đo bằng Ah hay ampe giờ là một đơn vị đánh giá khả năng lưu trữ năng lượng điện của ắc quy. Dung lượng ắc quy ô tô phổ thông dao động trong khoảng 30 - 200 Ah. Dòng khởi động (CCA, CA, HCA) Dòng khởi động lạnh (CCA): Là cường độ dòng điện mà ắc quy có thể cung cấp ở 0 °F (−18 °C) trong 30 giây trước khi điện áp hạ xuống dưới 7,2 volt. Các ô tô hiện đại có động cơ được điều khiển bởi ECU và kim phun nhiên liệu điện tử nên chỉ mất vài giây để khởi động, vì vậy chỉ số CCA hiện nay không còn quan trọng như trước nữa. Dòng khởi động (CA): Là cường độ dòng điện mà ắc quy có thể cung cấp ở 32 °F (0 °C), cũng trong 30 giây ở điện áp bằng hoặc lớn hơn 7,2 volt. Dòng khởi động nóng (HCA): Là cường độ dòng điện mà ắc quy có thể cung cấp ở 80 °F (27 °C) trong 30 giây trước khi điện áp hạ xuống dưới 7,2 volt.. Tham khảo
966
19831869
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91ua%20%C3%B4%20t%C3%B4%20C%C3%B4ng%20th%E1%BB%A9c%201%20Hoa%20K%E1%BB%B3%202023
Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ 2023
Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ 2023 (tên chính thức là Formula 1 Lenovo United States Grand Prix 2023) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 22 tháng 10 năm 2023 tại trường đua Americas ở Austin, Texas, Hoa Kỳ và là chặng đua thứ 18 của giải đua xe Công thức 1 2023. Bối cảnh Tại giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ, cuộc đua sprint thứ năm của mùa giải được tổ chức với tư cách là một phần của sự kiện này. Sprint shootout và cuộc đua sprint diễn ra vào thứ Bảy. Vòng phân hạng cho cuộc đua chính diễn ra vào thứ Sáu và cuộc đua chính vào ngày Chủ nhật. Haas sẽ tham gia với một màu sơn đặc biệt cho chặng đua nhà của đội. Bảng xếp hạng trước cuộc đua Sau giải đua ô tô Công thức 1 Qatar, Max Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua trước Sergio Pérez (224 điểm) và Lewis Hamilton (194 điểm) với 433 điểm. Tại bảng xếp hạng các đội đua, Red Bull Racing dẫn đầu Mercedes (326 điểm) và Ferrari (298 điểm) với 657 điểm. Lựa chọn bộ lốp Nhà cung cấp lốp xe Pirelli cung cấp các bộ lốp hạng C2, C3 và C4 (được chỉ định lần lượt là cứng, trung bình và mềm) để các đội sử dụng tại sự kiện này. Thay đổi tay đua Daniel Ricciardo ​​trở lại chỗ đua của mình tại AlphaTauri sau khi được thay thế bởi Liam Lawson kể từ giải đua ô tô Công thức 1 Hà Lan cho đến chặng đua trước đó ở Qatar. Tường thuật Buổi tập Trong buổi tập đầu tiên và duy nhất, Max Verstappen lập thời gian nhanh nhất với 1:35,912 phút trước Charles Leclerc và Lewis Hamilton. Vòng phân hạng Vòng phân hạng bao gồm ba phần với thời gian tổng cộng là 45 phút. Trong phần đầu tiên (Q1), các tay đua có 18 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai vòng phân hạng. Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Hamilton là tay đua nhanh nhất Q1 và sau khi Q1 kết thúc, Nico Hülkenberg, cả hai tay đua Aston Martin và cả hai tay đua Williams đều bị loại. Đây là lần đầu tiên trong mùa giải này Alonso bị loại khỏi Q1. Phần thứ hai (Q2) kéo dài 15 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba và cuối cùng của vòng phân hạng (Q3). Leclerc là tay đua nhanh nhất Q2 và sau khi Q2 kết thúc, cả hai tay đua AlphaTauri, cả hai tay đua Alfa Romeo và Kevin Magnussen bị loại. Phần thứ ba (Q3) kéo dài 12 phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên cho cuộc đua chính được xác định sẵn. Leclerc giành vị trí pole với thời gian nhanh nhất là 1:34,723 phút trước Lando Norris và Hamilton. Anh được hưởng lợi vị trí pole sau khi thời gian của Verstappen vi phạm giới hạn đường đua tại khúc cua số 19 mặc dù Verstappen đã có thể giành vị trí pole của mình với thời gian đó. Ngoài ra, đó là vị trí pole thứ 21 trong sự nghiệp của Leclerc. Sprint shootout Sprint shootout bao gồm ba phần với thời gian tổng cộng là 30 phút. Trong phần đầu tiên (SQ1), các tay đua có 12 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai của sprint shootout và tham gia cuộc đua sprint. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Verstappen là tay đua nhanh nhất SQ1 và sau khi SQ1 kết thúc, cả hai tay đua Haas, Magnussen, Valtteri Bottas, Yuki Tsunoda và Logan Sargeant bị loại. Phần thứ hai (SQ2) kéo dài 10 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba và cuối cùng của sprint shootout (SQ3). Verstappen là tay đua nhanh nhất SQ2 và sau khi SQ2 kết thúc, Daniel Ricciardo, cả hai tay đua Aston Martin, Esteban Ocon và Chu Quán Vũ bị loại. Phần thứ ba (Q3) kéo dài 8 phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên cho cuộc đua sprint được xác định sẵn. Verstappen giành vị trí pole cho cuộc đua sprint với thời gian nhanh nhất là 1:34,538 phút trước Leclerc và Hamilton. Cuộc đua sprint Verstappen đã giành chiến thắng cuộc đua sprint trước Hamilton và Leclerc. Lance Stroll đã phải bỏ cuộc vì phanh gặp vấn đề. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua sprint là Norris, Sergio Pérez, Carlos Sainz Jr., Pierre Gasly và George Russell. Cuộc đua chính Trước cuộc đua, cả hai tay đua của Haas và cả hai tay đua của Aston Martin phải bắt đầu cuộc đua của họ từ làn pit vì cả bốn chiếc xe đều được chuyển đổi trong điều kiện parc fermé. Verstappen giành chiến thắng cuộc đua chính trước Hamilton và Norris sau khi xuất phát từ vị trí thứ sáu. Đây cũng là chiến thắng thứ 50 trong sự nghiệp của Verstappen. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua chính là Sainz Jr., Pérez, Leclerc, Russell, Gasly, Stroll và Tsunoda. Tsunoda cũng lần đầu tiên trong sự nghiệp đạt được vòng đua nhanh nhất và anh đã giành được thêm một điểm. Sau cuộc đua, kết quả của Hamilton và Leclerc đều bị hủy do tấm ván ở gầm xe quá mỏng so với quy luật. Do đó, tất cả các tay đua đều được tiến lên hai vị trí. Sainz Jr. do đó tiến lên vị trí thứ ba, Pérez đứng thứ tư và Russell đứng thứ năm. Gasly tiến lên thứ 6, Stroll lên thứ 7 và Tsunoda lên thứ 8. Cả hai tay đua Williams, Albon và Sargeant, tiến lên thứ 9 và 10. Đối với Sargeant, đây là lần đầu tiên anh ghi điểm tại Công thức 1. Kết quả Vòng phân hạng Chú thích – Kevin Magnussen vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ 14, nhưng anh được yêu cầu xuất phát từ làn pit vì các yếu tố có thông số kỹ thuật khác với những thông số kỹ thuật được sử dụng ban đầu đã được lắp trên xe của anh trong điều kiện parc fermé. – Nico Hülkenberg vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ 16, nhưng anh được yêu cầu xuất phát từ đường pit vì các yếu tố có thông số kỹ thuật khác với những thông số kỹ thuật được sử dụng ban đầu đã được lắp trên xe của anh trong điều kiện parc fermé. – Fernando Alonso vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ 17, nhưng anh được yêu cầu xuất phát từ đường pit vì các yếu tố có thông số kỹ thuật khác với những thông số kỹ thuật được sử dụng ban đầu đã được lắp trên xe của anh trong điều kiện parc fermé. – Lance Stroll vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ 19, nhưng anh được yêu cầu xuất phát từ đường pit vì các yếu tố có thông số kỹ thuật khác với những thông số kỹ thuật được sử dụng ban đầu đã được lắp trên xe của anh trong điều kiện parc fermé. Sprint shootout Chú thích – George Russell bị tụt ba vị trí do cản trở Charles Leclerc tại SQ1. – Kevin Magnussen and Valtteri Bottas lập thời gian giống hệt nhau tại SQ1. Magnussen đứng trước Bottas vì anh đã lập thời gian sớm hơn. Cuộc đua sprint Chú thích – George Russell về đích ở vị trí thứ 7 nhưng bị tụt xuống vị trí thứ 8 do nhận một án phạt 5 giây vì đi chệch đường đua không cho phép. – Chu Quán Vũ về đích ở vị trí thứ 16 nhưng bị tụt xuống vị trí thứ 17 do nhận một án phạt 5 giây vì vi phạm giới hạn đường đua. Cuộc đua chính Chú thích – Bao gồm một điểm cho vòng đua nhanh nhất. – Alexander Albon nhận một án phạt 5 giây vì vi phạm giới hạn đường đua. Vị trí về đích của anh không bị thay đổi. – Lewis Hamilton và Charles Leclerc lần lượt về đích ở vị trí thứ hai và thứ sáu nhưng họ bị loại vì tấm ván dưới gầm xe của họ bị mòn quá mức so với quy luật. Bảng xếp hạng sau cuộc đua Bảng xếp hạng các tay đua Lưu ý: Chỉ có mười vị trí đứng đầu được liệt kê trong bảng xếp hạng này. Các tay đua/đội đua được in đậm và đánh dấu hoa thị là nhà vô địch Giải đua xe Công thức 1 2023. Bảng xếp hạng các đội đua Tham khảo Chặng đua Công thức 1 năm 2023 Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ
1,535
19831876
https://vi.wikipedia.org/wiki/Manchester%20United%20F.C.%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202004-05
Manchester United F.C. mùa giải 2004-05
Mùa giải 2004–05 là mùa giải thứ 13 của Manchester United tại Premier League, và là mùa giải thứ 30 liên tiếp của họ ở giải hạng cao nhất bóng đá Anh. Mùa giải kết thúc mà không có danh hiệu nào (chỉ là mùa giải thứ 4 họ không có danh hiệu trong 17 mùa giải) đối với United, đội đứng thứ 3 tại Premier League với 77 điểm. Chức vô địch thuộc về Chelsea, đội kết thúc mùa giải với kỷ lục 95 điểm và chỉ thua một trận trong cả mùa giải, còn nhà vô địch mùa trước là Arsenal về nhì. Chiến dịch Champions League của họ đã kết thúc ở vòng loại trực tiếp đầu tiên sau khi thất thủ trước AC Milan, trong khi họ bị loại khỏi League Cup bởi Chelsea ở bán kết. Cơ hội giành danh hiệu cuối cùng đã tan vỡ Paul Scholes đá hỏng quả phạt đền trước Arsenal trong loạt sút luân lưu sau trận hòa không bàn thắng ở Chung kết FA Cup 2005. Một điều tích cực hơn cho câu lạc bộ là tiền đạo 19 tuổi mới ký hợp đồng và là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của câu lạc bộ Wayne Rooney đã được bầu chọn Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của PFA. United cũng chấm dứt chuỗi 49 trận bất bại kỷ lục của Arsenal bằng Chiến thắng 2–0 trên sân nhà vào cuối tháng 10. Giao hữu trước mùa giải Siêu cúp Anh Ngoại hạng Anh FA Cup Cúp liên đoàn UEFA Champions League Vòng loại thứ ba Vòng bảng Vòng knock out Thống kê đội hình Chuyển nhượng Mua Bán Cho mượn Tham khảo Manchester United F.C.
271
19831889
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1nh%20kem%20l%E1%BA%A1nh
Bánh kem lạnh
Bánh kem lạnh hay Bánh kem là loại bánh ngọt có kem lạnh làm nhân cho bánh bông lan cuộn hoặc bánh nhiều tầng. Bánh kem có thể được tạo ra bằng cách xếp nhiều lớp kem có hương vị khác nhau vào chảo ổ bánh mì. Bánh kem lạnh là món ăn phổ biến trong bữa tiệc, sinh nhật và đám cưới, đặc biệt là ở Bắc Mỹ và Úc. Riêng ở châu Âu thì món này ít người biết đến. Ở Anh bánh bông lan cuộn kem còn gọi là kem cuộn Bắc Cực. Chuẩn bị Trong quá trình chế biến, thành phần bánh được nướng theo cách thông thường, cắt thành hình nếu cần thiết và sau đó đông lạnh. Kem được tạo hình trong khuôn phù hợp và các thành phần này sau đó được lắp ráp trong khi đông lạnh. Kem đánh bông thường được sử dụng để phủ kem, như một sự bổ sung cho hai loại kết cấu còn lại, và bởi vì nhiều loại kem phủ thông thường sẽ không bám dính thành công vào bánh đông lạnh. Sau đó, toàn bộ chiếc bánh được giữ đông lạnh cho đến khi thưởng thức, khi đó nó được để rã đông đợi cho tới lúc có thể dễ dàng cắt lát nhưng không quá nhiều đến mức làm tan chảy kem. Thị trường Mỹ Bánh kem lạnh rất phổ biến ở nước Mỹ. Carvel có truyền thống quảng cáo các loại bánh theo chủ đề trên truyền hình bao gồm Fudgie the Whale và Cookie Puss. Baskin-Robbins, Dairy Queen, Friendly's, Cold Stone Creamery và các nhà bán lẻ khác cũng đều có bán món kem này. Chúng cũng là món tráng miệng phổ biến trong lễ kỷ niệm ngày 4 tháng 7; Những chiếc bánh được chuẩn bị cho ngày này thường được trang trí với các họa tiết yêu nước và tô điểm bằng kem tươi, quả mọng đỏ và quả việt quất. Các phiên bản khác là những chiếc bánh cờ cầu kỳ được làm từ các lớp kem và sorbet. Xem thêm Bombe glacée Bánh nướng Alaska Đọc thêm Stewart, Martha; (2007). Everyday Food. MarthaStewart.com. Johnson, Ann. (2008). About Ice Cream Cake. EHow. Demand Media Dean, Sydney. (2010) Ice Cream Cake Powerpoint. Upload & Share PowerPoint Presentations and Documents. Bejin, Samantha (2013) Lets party. Penguin books Tham khảo Liên kết ngoài Icecream Cake Recipe At Home | Easy Method Frozen Food Age Magazine Kem lạnh Bánh Mỹ Ẩm thực Úc Ẩm thực Victoria Bánh ngọt không nướng Món tráng miệng đông lạnh Thực phẩm Ngày Độc lập (Hoa Kỳ)
421
19831955
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cu%E1%BB%99c%20vi%E1%BB%85n%20chinh%20c%E1%BB%A7a%20Hoa%20K%E1%BB%B3%20%C4%91%E1%BA%BFn%20Tri%E1%BB%81u%20Ti%C3%AAn
Cuộc viễn chinh của Hoa Kỳ đến Triều Tiên
Cuộc viễn chinh của Hoa Kỳ đến Triều Tiên, tại Triều Tiên gọi là Shinmiyangyo () là một hành động quân sự của Hoa Kỳ tại Triều Tiên, chủ yếu diễn ra tại đảo Ganghwa và xung quanh vào năm 1871. Bối cảnh Đại sứ Hoa Kỳ tại Đại Thanh Frederick Low cử phái đoàn đến xác định số phận của tàu buôn General Sherman bị mất tích khi đến thăm Triều Tiên vào năm 1866. Theo một bài trên National Interest, ghi chép của Low cho thấy chiến dịch trừng phạt được thúc đẩy từ nhu cầu chứng minh sức mạnh của Mỹ đối với một quốc gia mà ông cho là yếu hơn. Trước đây, các chỉ huy Mỹ cảm thấy có quyền vào vùng biển Triều Tiên một cách “hòa bình” để khảo sát và buôn bán bằng cách sử dụng tàu chiến được trang bị vũ khí hạng nặng, và đã nhiều lần phớt lờ các yêu cầu ngoại giao về việc tôn trọng chủ quyền của Triều Tiên. Các quan chức Triều Tiên gửi thư buộc tội người Mỹ vi phạm luật pháp của đất nước khi gửi tàu chiến có vũ trang trái phép vào lãnh hải của Triều Tiên, và cuối cùng cũng giải thích cho Low những gì tương tự đã xảy ra với General Sherman. Thống đốc Ganghwa cũng gửi một "vài vật phẩm vô giá trị" - ba con bò, năm mươi con gà và một nghìn quả trứng - trong nỗ lực giảm căng thẳng. Người Mỹ từ chối lời đề nghị, thay vào đó họ phát động một chiến dịch trừng phạt sau khi đô đốc chỉ huy của Mỹ không nhận được lời xin lỗi chính thức từ phía Triều Tiên. Bản chất biệt lập của chính phủ triều đại Triều Tiên và bản chất đế quốc của người Mỹ khi không công nhận các chính sách do Triều Tiên đặt ra, đã biến cuộc viễn chinh ngoại giao thành một cuộc xung đột vũ trang. Liên hệ ban đầu Đoàn viễn chinh bao gồm khoảng 650 người, gồm hơn 500 thủy thủ và 100 thủy quân lục chiến, cùng năm tàu chiến: , , , và . Trên tàu Colorado là Chuẩn đô đốc John Rodgers và Đại sứ Hoa Kỳ tại Đại Thanh Frederick F. Low. Lực lượng Triều Tiên, được gọi là "Thợ săn hổ", được chỉ huy bởi Tướng Eo Jae-yeon (어재연). Người Mỹ đã liên lạc một cách an toàn với cư dân Triều Tiên, được mô tả là "những người mặc quần áo trắng". Khi họ hỏi về sự kiện General Sherman, người Triều Tiên ban đầu miễn cưỡng thảo luận về chủ đề này, bề ngoài là để tránh phải trả bất kỳ khoản bồi thường nào. Do đó, người Mỹ đã cho người Triều Tiên biết rằng hạm đội của họ sẽ khám phá khu vực và họ không có ý gây hại. Cử chỉ này đã bị hiểu sai; Chính sách của Triều Tiên vào thời điểm đó cấm tàu nước ngoài đi trên sông Hán, vì sông dẫn thẳng đến thủ đô Hanyang, ngày nay Seoul. Vì vậy, chính phủ Triều Tiên từ chối yêu cầu của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, bất chấp việc bị chính phủ Triều Tiên từ chối, tàu Hoa Kỳ vẫn tiếp tục đi. Vào ngày 1 tháng 6, pháo đài của Triều Tiên bắn vào hạm đội Hoa Kỳ khi họ đang đi đến eo biển Ganghwa, là nơi dẫn đến sông. Lực lượng Hoa Kỳ không bị thiệt hại nặng do "hỏa lực kém của người Triều Tiên, dù hoả lực của họ rất nóng trong mười lăm phút mà họ duy trì, nhưng lại không đúng hướng và do đó không có tác dụng." Hoa Kỳ yêu cầu một lời xin lỗi trong vòng 10 ngày; không có phản hồi nên Rodgers quyết định tấn công trừng phạt vào pháo đài. Trận Ganghwa Vào ngày 10 tháng 6, người Mỹ tấn công đồn Choji được phòng thủ sơ sài trên đảo Ganghwa, dọc theo sông Salee. Người Triều Tiên được trang bị những vũ khí lỗi thời nghiêm trọng, chẳng hạn như súng hỏa mai mồi cò, đại bác và súng đại bác xoay nạp đạn ở nòng súng. Sau khi tàn phá, người Mỹ chuyển sang mục tiêu tiếp theo của họ là đồn Deokjin. Những khẩu lựu pháo nặng 12 pound của Mỹ khiến cho quân đội Triều Tiên được trang bị kém không hoạt động hiệu quả. Quân đội Mỹ tiếp tục hướng tới mục tiêu tiếp theo là pháo đài Deokjin, nhưng họ nhận thấy nó bị bỏ hoang. Các thủy thủ và thủy quân lục chiến nhanh chóng phá hủy pháo đài này và tiếp tục đến đồn Gwangseong, đây là một toà thành trì. Lúc này, quân Triều Tiên đã tập hợp lại ở đây, trên đường đi, một số đơn vị Triều Tiên cố gắng tấn công quân Mỹ nhưng lại bị đánh lui do người Mỹ bố trí pháo binh chiến lược nằm trên hai ngọn đồi. Hỏa lực pháo binh từ lực lượng trên bộ và "Monocacy" ngoài khơi tấn công vào tòa thành để chuẩn bị cho một cuộc tấn công của lực lượng Hoa Kỳ. Một lực lượng gồm 546 thủy thủ và 105 lính thủy đánh bộ Hoa Kỳ tập hợp trên các ngọn đồi phía tây pháo đài (quân bộ binh ở trên ngọn đồi ngay phía tây pháo đài, trong khi quân pháo binh trên một ngọn đồi khác vừa pháo kích vào pháo đài vừa yểm trợ hai bên sườn và phía sau của quân Mỹ), duy trì yểm trợ và bắn trả. Sau khi cuộc bắn phá dừng lại, người Mỹ tấn công vào tòa thành, do Trung úy [[Hugh McKee] chỉ huy. Thời gian nạp đạn chậm của súng hỏa mai Triều Tiên tạo lợi thế cho người Mỹ, vì họ được trang bị súng carbine khối lăn Remington vượt trội, khi người Mỹ vượt qua các bức tường; người Triều Tiên thậm chí còn ném đá vào những kẻ tấn công. McKee là người đầu tiên tiến vào thành và bị trọng thương do một phát đạn vào háng; sau ông ta là chỉ huy Winfield Scott Schley, người này bắn người lính Triều Tiên đã giết McKee. Lá cờ của chỉ huy Triều Tiên Tướng Eo Jae-yŏn, được gọi là "cờ chữ soái", đã bị Hạ sĩ Charles Brown của cận vệ Colorado và binh nhì Hugh Purvis của cận vệ Alaska thu giữ. Tướng Eo Jae-yŏn bị giết bởi binh nhì James Dougherty. Trong khi phục vụ với tư cách là người cầm cờ cho thủy thủ đoàn và thủy quân lục chiến Colorado, thợ mộc Colorado Cyrus Hayden cắm lá cờ Hoa Kỳ lên thành lũy dưới hỏa lực dày đặc của kẻ thù. Hạ sĩ Brown, Binh nhì Dougherty, Purvis và Thợ mộc Hayden đã nhận được Huân chương Danh dự. Cuộc giao tranh kéo dài mười lăm phút, tổng số người thiệt mạng là 243 người Triều Tiên và ba người Mỹ: McKee, thủy thủ Seth Allen và binh nhì Denis Hanrahan của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. 10 người Mỹ bị thương, 20 người Triều Tiên bị bắt, trong đó có một số người bị thương. Tổng cộng 5 pháo đài của Triều Tiên bị chiếm với hàng chục khẩu đại bác nhỏ. Phó chỉ huy Triều Tiên nằm trong số những người bị thương bị bắt giữ. Hoa Kỳ hy vọng sử dụng những người bị bắt làm con bài thương lượng để gặp gỡ các quan chức địa phương, nhưng người Triều Tiên từ chối, gọi những người bị bắt là những kẻ hèn nhát và "Low được thông báo rằng ông ta được hoan nghênh giữ những tù nhân bị thương". Tuy nhiên, người Mỹ đã thả tù nhân trước khi rời đi. Sau các hoạt động quân sự từ ngày 10 đến ngày 12 tháng 6, Hải đoàn Châu Á của Hoa Kỳ ở lại nơi neo đậu ngoài khơi đảo Jakyak cho đến ngày 3 tháng 7, khi họ rời đi Đại Thanh. Hậu quả Hoa Kỳ hy vọng rằng chiến thắng của họ sẽ thuyết phục người Triều Tiên quay lại bàn đàm phán, nhưng người Triều Tiên từ chối đàm phán. Trên thực tế, những sự kiện này đã khiến nhiếp chính Daewon-gun tăng cường chính sách cô lập và và ban hành một tuyên bố quốc gia chống lại việc xoa dịu người nước ngoài. Ngoài ra, phía Triều Tiên đã sớm gửi quân tiếp viện với số lượng lớn được trang bị vũ khí hiện đại hơn để đối đầu với quân Mỹ. Nhận thấy tình thế đã thay đổi, hạm đội Mỹ do đó khởi hành và lên đường đến Đại Thanh vào ngày 3 tháng 7. Triều Tiên không còn tiến hành tấn công vào tàu nước ngoài. Năm 1876, Triều Tiên thiết lập một hiệp ước mậu dịch với Nhật Bản sau khi tàu Nhật Bản tiếp cận đảo Ganghwa và đe dọa khai hoả vào Seoul. Các hiệp ước với các nước châu Âu và Mỹ ngay sau đó cũng được xác lập. Chín thủy thủ (trưởng quân nhu Grace, quân sư William Troy, Franklin và Rogers, Người bạn của Boatswain là Alexander McKenzie, thủy thủ bình thường [[John Andrews, thợ mộc Hayden, và thủy thủ mới William F. Lukes và James F. Merton) và sáu thủy quân lục chiến (Hạ sĩ Brown và binh nhì John Coleman, Dougherty, Michael McNamara, Michael Owens, và Purvis) đã được trao tặng Huân chương Danh dự, cao nhất cho các hành động trong một cuộc xung đột ở nước ngoài. Hiệp ước thân thiện và thương mại Từ tháng 4 đến tháng 5 năm 1882, Hoa Kỳ, đại diện bởi Thiếu tướng Robert W. Shufeldt của Hải quân Hoa Kỳ, và Triều Tiên đã đàm phán và phê chuẩn một hiệp ước gồm 14 điều. Hiệp ước thiết lập tình hữu nghị giữa hai bên và hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp bị tấn công; và cũng giải quyết các vấn đề cụ thể như quyền ngoài lãnh thổ của công dân Hoa Kỳ tại Triều Tiên và tình trạng thương mại tối huệ quốc. Hiệp ước vẫn có hiệu lực cho đến khi Nhật Bản sáp nhập Triều Tiên vào năm 1910. Hình ảnh Xem thêm Black Ships Cuộc viễn chinh của Pháp đến Triều Tiên Biến cố đảo Ganghwa Lịch sử quân sự Triều Tiên Quý ngài Ánh dương Ghi chú Tham khảo Gordon H. Chang, "Whose 'Barbarism'? Whose 'Treachery'? Race and Civilization in the Unknown United States-Korea War of 1871," Journal of American History, Vol. 89, No. 4 (March 2003), pp. 1331–1365 in JSTOR Yŏng-ho Ch'oe; William Theodore De Bary; Martina Deuchler and Peter Hacksoo Lee. (2000). Sources of Korean Tradition: From the Sixteenth to the Twentieth Centuries. New York: Columbia University Press. ; ; OCLC 248562016 Liên kết ngoài medal of Honor Link {1871} reference only 1871 US Korea Campaign The early US-Korea relations – Excerpt from "A Brief History of the US-Korea Relations Prior to 1945" Marine Amphibious Landing in Korea, 1871 Xung đột năm 1871 Nhà Triều Tiên Quan hệ Hoa Kỳ-Triều Tiên Lịch sử quân sự Triều Tiên Nhiệm kỳ tổng thống Ulysses S. Grant Chiến tranh liên quan tới Hoa Kỳ Lịch sử quân sự Hoa Kỳ thế kỷ 19 Lịch sử Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ Chiến tranh liên quan tới Triều Tiên
1,912
19831957
https://vi.wikipedia.org/wiki/Laurent%20Gaud%C3%A9
Laurent Gaudé
Laurent Gaudé (sinh ngày 6 tháng 7 năm 1972) là nhà văn và nhà viết kịch người Pháp. Ông sinh ra tại Paris và cũng theo học đại học tại đây. Từ năm 1997 ông đã bắt đầu viết kịch, nhưng đến năm 2000 kịch của ông mới được đưa lên sân khấu. Tiểu thuyết đầu tay của ông được xuất bản năm 2001. Năm 2004, ông đoạt giải Goncourt cho cuốn Mặt trời nhà Scorta. Tác phẩm Tiểu thuyết Cris (2001) La mort du roi Tsongor (Cái chết của vua Tsongor, 2002) Le soleil des Scorta (Mặt trời nhà Scorta, 2004) Eldorado (2006) La porte des Enfers (2009) Ouragan (2010) Pour seul cortège (2012) Danser les ombres (2015) Écoutez nos défaites (2016) Salina, les trois exils (2018) Paris, mille vies (2020) Chien 51 (2022) Tập truyện ngắn Dans la nuit Mozambique (2007) Les Oliviers du Négus (2011) Sân khấu Onysos le furieux (1997) Pluie de cendres (1998) Combats de possédés (1999) Cendres sur les mains (2001) Le Tigre bleu de l’Euphrate (2002) Salina (2003) Médée Kali (2003) Les Sacrifiées (2004) Sofia Douleur (2008) Sodome, ma douce (2010) Mille Orphelins (2011) Les Enfants Fleuve (2011) Caillasses (2012) Daral Shaga (2014) Maudits les Innocents (2014) Danse, Morob (2016) Et les colosses tomberont (2018) La dernière nuit du monde (2021) Grand Menteur: Trois monologues (2022) Même si le monde meurt (2023) Giải thưởng Prix Atout Lire de la ville de Cherbourg, 2001 (Cris) Giải Goncourt trẻ, 2002 (La mort du roi Tsongor) Prix des Libraires, 2003 (La mort du roi Tsongor) Giải Goncourt, 2004 (Le soleil des Scorta) Prix Jean Giono, 2004 (Le soleil des Scorta) Prix Eugène-Dabit du roman populiste, 2004 (Le soleil des Scorta) Prix du Meilleur livre adaptable au Forum International de Littérature et Cinéma de Monaco, 2005 (Le soleil des Scorta) Prix du Magazine Gaël (Bỉ), 2009 (La porte des Enfers) Prix du roman des Écrivains du Sud, 2022 (Chien 51) Prix Imaginales des bibliothécaires, 2023 (Chien 51) Liên kết ngoài Trang web chính thức Điểm sách Cái chết của vua Tsongor Điểm sách Mặt trời nhà Scorta Tham khảo Nhân vật còn sống Sinh năm 1972 Nhà văn Pháp Tiểu thuyết gia Pháp
314
19831961
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0%20Nhi%20%28ca%20s%C4%A9%29
Hà Nhi (ca sĩ)
Trần Hà Nhi (sinh ngày 8 tháng 2 năm 1994), thường được biết đến với nghệ danh Hà Nhi, là một nữ ca sĩ người Việt Nam. Cô bắt đầu được công chúng biết đến lần đầu tiên khi tham dự cuộc thi Thần tượng âm nhạc Việt Nam vào năm 2015 và chính thức hoạt động nghệ thuật kể từ đây. Cô xuất thân trong một gia đình không theo nghệ thuật nhưng lại có sở thích ca hát từ nhỏ. Chất giọng của cô được xem là chất giọng nữ trung trầm. Một số tác phẩm âm nhạc tiêu biểu của Hà Nhi có thể kể đến như: "Chưa quên người yêu cũ", "Từng cho nhau", "Lâu lâu nhắc lại", "Vì em chưa bao giờ khóc"... Năm 2019, cùng với Tăng Phúc, cô đoạt giải quán quân của cuộc thi Ẩn số hoàn hảo do Đài Truyền hình Vĩnh Long tổ chức. Đến năm 2022, cô đoạt giải Làn Sóng Xanh cho hạng mục "Ca sĩ đột phá" sau ca khúc "Chưa quên người yêu cũ". Cô thường được ví von như một ca sĩ "tri ân người yêu cũ". Tiểu sử Hà Nhi sinh ngày 8 tháng 2 năm 1994 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Cô xuất thân trong gia đình không có ai theo nghệ thuật và bản thân đã có sở thích ca hát từ nhỏ. Sau khi trưởng thành, cô chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh để bắt đầu học tập, sinh sống và làm việc. Năm 2015, Hà Nhi đã tham gia cuộc thi Thần tượng âm nhạc Việt Nam và lọt vào top 4 chung cuộc. Tuy nhiên, đến năm 2017 sau khi tốt nghiệp ngành Kinh tế đối ngoại tại Đại học Ngoại thương Thành phố Hồ Chí Minh, cô đã không tiếp tục theo đuổi sự nghiệp nghệ thuật mà lựa chọn trở thành nhân viên văn phòng. Lúc này, có một quãng thời gian cô đã bị từ chối biểu diễn ở các phòng trà. Vào năm 2019, Hà Nhi trở lại showbiz Việt Nam thông qua việc đăng quang chương trình Ẩn số hoàn hảo trên THVL và bắt đầu sự nghiệp ca hát từ đây. Trên báo Tổ quốc, cô còn được ví von như ca sĩ "tri ân người yêu cũ". Sự nghiệp Sau khi lọt vào top 4 chung cuộc của cuộc thi Thần tượng âm nhạc thì Hà Nhi chỉ đi biểu diễn tại các phòng trà, mặc dù cũng đã có nhiều lần bị từ chối. Đến năm 2019, cô mới quyết định quay trở lại showbiz thông qua chương trình Ẩn số hoàn hảo trên Đài truyền hình Vĩnh Long cùng với đồng đội là ca sĩ Tăng Phúc. Kết quả, cả hai đã trở thành quán quân của cuộc thi. Cùng thời điểm, nữ nghệ sĩ đã cho ra mắt bản cover ca khúc nhạc Hoa lời Việt "Từng cho nhau" và nhanh chóng thu về khoảng 20 triệu lượt xem trên YouTube. Sau sự thành công của "Từng cho nhau", Hà Nhi tiếp tục cover thêm nhiều ca khúc khác như "Dĩ vãng nhạt nhòa", "Tay trái chỉ trăng"... Sau hàng loạt các thành công nhất định, cô đã được nhiều trang báo tại Việt Nam ví như "ngôi sao phòng trà" từ thuở đầu là một ca sĩ xin hát miễn phí. Trong khoảng thời gian này, nữ nghệ sĩ cũng tham gia trong nhiều chương trình truyền hình như Ơn giời cậu đây rồi!, Nhanh như chớp... Năm 2021, Hà Nhi cho ra mắt album "Lâu phai" với tổng cộng 5 ca khúc nhạc ngoại lời Việt như: "Không nên thật lòng", "Đừng bỏ lỡ", "Chiếc lá mùa đông", "Những lời dối gian" và "Bước qua tổn thương dễ dàng". Trong đó, ca khúc "Không nên thật lòng" và "Đừng bỏ lỡ" do Hà Nhi tự sáng tác. Trong năm 2022, Hà Nhi đã tiếp tục tham gia vào chương trình truyền hình Ca sĩ mặt nạ trong hình tượng Miêu Quý Tộc và tạo được tiếng vang lớn mặc dù không vào được sâu trong chương trình. Trong khoảng thời gian này, cô đã cho ra mắt thêm ba ca khúc "Chưa quên người yêu cũ", "Lâu lâu nhắc lại" và "Hồi kết". Cả ba ca khúc đều nằm trong dự án EP "Ex- LOVER" của cô với thông điệp "Những gì đã qua, chúng ta hãy luôn trân trọng, không cần phải cố quên, vì tất cả đều là kỷ niệm, là một phần của ký ức tuổi trẻ". Ngoài ra, ca khúc "Chưa quên người yêu cũ" còn là ca khúc giúp cho nữ ca sĩ thoát khỏi mác "ca sĩ cover". Cũng chính nhờ ca khúc này và "Lâu lâu nhắc lại", Hà Nhi đã giành lấy giải thưởng Làn Sóng Xanh cho hạng mục Ca sĩ đột phá của năm. Đến năm 2023, live concert đầu tiên của cô được tổ chức tại Đà Lạt với tên gọi "I See You" diễn ra vào ngày 14 tháng 4. Khi vé được mở bán sớm thì ngay lập tức hết chỉ sau đó khoảng vài giờ. Concernt được tổ chức như một cột mốc đánh dấu quan trọng trong sự nghiệp của Hà Nhi. Trong năm 2023, nữ ca sĩ cũng cho ra mắt thêm ca khúc mới có tên "Vì em chưa bao giờ khóc". Âm nhạc Chương trình truyền hình Thành tích & Giải thưởng Thành tích Top 4 chung cuộc Thần tượng Âm nhạc Việt Nam 2015. Quán quân Ẩn Số Hoàn Hảo 2019. Đoạt cúp Ơn Giời Cậu Đây Rồi. Giải thưởng Tham khảo Liên kết ngoài Người Nghệ An Ca sĩ Việt Nam Ca sĩ Việt Nam thế kỷ 21 Ca sĩ tiếng Việt Người họ Trần tại Việt Nam
961
19831974
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ky%C5%8Diku%20kanji
Kyōiku kanji
Kyōiku kanji (教育漢字 nghĩa đen là "Hán tự giáo dục"), còn được gọi là Gakunenbetsu kanji haitōhyō (学年別漢字配当表 nghĩa đen là "Bảng kanji theo năm học") là một danh sách gồm 1.026 chữ kanji và các cách đọc liên quan được phát triển và duy trì bởi Bộ Giáo dục Nhật Bản quy định chữ kanji và đọc kanji dạy và học theo từng cấp lớp đối với học sinh Nhật Bản từ lớp 1 đến lớp 6 (tiểu học). Kyōiku kanji là danh sách nhỏ (1.026 ký tự) trong số 2.136 ký tự của Jōyō kanji (Danh sách các Hán tự thường dùng). Các phiên bản Kyōiku kanji phải|nhỏ|300x300px|Danh sách tất cả các jōyō kanji theo hệ thống chỉ mục KKLD của Halpern, với kyōiku kanji được tô màu theo cấp lớp. Phiên bản năm 1946 có 881 chữ. Phiên bản năm 1977 nâng lên 996 chữ Phiên bản năm 1982 nâng lên 1,006 chữ Phiên bản năm 2020 nâng lên 1,026 chữ. 20 chữ được dùng trong tên các địa phương được thêm năm 2020. 茨 (Ibaraki), 媛 (Ehime), 岡 (Shizuoka, Okayama và Fukuoka), 潟 (Niigata), 岐 (Gifu), 熊 (Kumamoto), 香 (Kagawa), 佐 (Saga), 埼 (Saitama), 崎 (Nagasaki and Miyazaki), 滋 (Shiga), 鹿 (Kagoshima), 縄 (Okinawa), 井 (Fukui), 沖 (Okinawa), 栃 (Tochigi), 奈 (Kanagawa and Nara), 梨 (Yamanashi), 阪 (Ōsaka), 阜 (Gifu) Danh sách theo các lớp Lớp 1 (80 kanji) Lớp 2 (160 kanji) Lớp 3 (200 kanji) Lớp 4 (200 kanji) Lớp 5 (185 kanji) Lớp 6 (181 kanji) Hán tự trong tên các địa phương (20 kanji) Danh sách theo bộ Danh sách theo nét Danh sách theo điểm code Unicode code Danh sách theo mức độ thường gặp Các ký tự đặc biệt Kokuji Kokuji là những chữ ban đầu được tạo ra ở Nhật Bản; hai trong số đó là kyōiku kanji: 働 (Lớp 4) và 畑 (Lớp 3). Ngoài ra còn có 8 kokuji trong chữ Hán của trường trung học và 16 trong chữ jinmeiyō kanji. Ký tự 働 và một số ký tự khác hiện nay cũng được sử dụng trong tiếng Trung Quốc, nhưng hầu hết kokuji không được biết đến bên ngoài Nhật Bản. Kokkun Kokkun là các ký tự và sự kết hợp của các ký tự có ý nghĩa khác nhau trong tiếng Nhật và tiếng Trung Ví dụ: tổ hợp ký tự 手紙 có nghĩa là 'bức thư' trong tiếng Nhật nhưng lại có nghĩa là 'giấy vệ sinh' trong tiếng Trung. Tuy nhiên, các ký tự biệt lập có cùng ý nghĩa trong cả hai ngôn ngữ: 手 (Lớp 1) có nghĩa là 'tay' và 紙 (Lớp 2) có nghĩa là 'giấy'. Chữ giản thể và dạng phồn thể Giản thể khác nhau giữa tiếng Nhật và tiếng Trung Trung Quốc và Nhật Bản đã đơn giản hóa hệ thống chữ viết của mình một cách độc lập với nhau. Sau Thế chiến thứ hai, quan hệ giữa 2 bên trở nên thù địch nên không hợp tác. Các ký tự tiếng Trung phồn thể vẫn được sử dụng chính thức ở Hồng Kông, Macao, Đài Loan, Hàn Quốc (như một phần bổ sung cho Hangul, nhưng chúng không còn được sử dụng ở Bắc Triều Tiên) và bởi nhiều Hoa kiều. Trong tiếng Trung, nhiều ký tự được đơn giản hóa hơn trong tiếng Nhật; một số ký tự được đơn giản hóa chỉ trong một ngôn ngữ; một số được đơn giản hóa theo cách tương tự ở cả hai ngôn ngữ và một số khác được đơn giản hóa ở cả hai ngôn ngữ nhưng theo những cách khác nhau. Điều này có nghĩa là những người muốn học hệ thống chữ viết của cả hai ngôn ngữ đôi khi phải học ít nhất ba biến thể khác nhau của một ký tự: tiếng Trung phồn thể, tiếng Trung giản thể và tiếng Nhật hiện đại (ví dụ 兩 - 两 - 両). Một số khác có nhiều biến thể hơn, chẳng hạn như (斗 - 鬥 - 鬭 - 鬬 - 鬪 - 鬦 - 闘 - 閗), một số trong số đó được coi là dạng chữ Hán cổ hơn và các biến thể của các vùng khác nhau của Trung Quốc, và dạng cũ hơn của tiếng Nhật ký tự (kyūjitai). Các ký tự truyền thống có thể gây ra vấn đề hiển thị Lưu ý rằng trong kyōiku kanji, có 26 ký tự; các dạng cũ có thể gây ra vấn đề hiển thị: Lớp 2 (2 kanji): Lớp 3 (8 kanji): Lớp 4 (6 kanji): Lớp 5 (1 kanji): Lớp 6 (9 kanji): Trong jōyō kanji, điều tương tự cũng xảy ra với 36 chữ kanji cấp trung học, vì vậy, tổng cộng, 62 trong số 2.136 jōyō kanji có dạng truyền thống có thể gây ra vấn đề khi hiển thị. Các ký tự này là các chữ tượng hình thống nhất Unicode CJK mà dạng cũ (kyūjitai) và dạng mới (shinjitai) đã được thống nhất theo tiêu chuẩn Unicode. Mặc dù các biểu mẫu cũ và mới được phân biệt theo tiêu chuẩn JIS X 0213, các biểu mẫu cũ ánh xạ tới các Hệ số tương thích Unicode CJK được Unicode coi là tương đương về mặt chuẩn với các biểu mẫu mới và có thể không được phân biệt bởi các tác nhân người dùng. Do đó, tùy thuộc vào môi trường người dùng, có thể không thể thấy được sự khác biệt giữa dạng ký tự cũ và dạng mới. Đặc biệt, tất cả các phương pháp chuẩn hóa Unicode đều hợp nhất các ký tự cũ với các ký tự mới. Danh sách kyōiku kanji giản thể Ví dụ, 万 là giản thể của 萬. Lưu ý rằng 弁 là giản thể của 3 chữ phồn thể (辨, 瓣, và 辯). Kyōiku kanji và chữ Hán tiếng Trung tương đương Các ký tự được sắp xếp theo các gốc của chữ Hán Nhật Bản. Hai kokuji 働 và 畑, không có từ tương đương trong tiếng Trung, không được liệt kê ở đây. Xem thêm phần Khác biệt trong việc đơn giản hóa giữa Trung Quốc và Nhật Bản ở trên. Hình thức tương tự trong tiếng Trung và tiếng Nhật Các chữ kyōiku kanji sau đây là các ký tự của Nhóm 1 (không được giản hóa trong cả hai ngôn ngữ, ví dụ: 田). Đối với các ký tự thuộc Nhóm 2 (cách đơn giản hóa tương tự ở Trung Quốc và Nhật Bản, nhưng tồn tại dạng truyền thống, ví dụ: 万-萬-万), xem Sự khác biệt trong cách đơn giản hóa giữa Trung Quốc và Nhật Bản ở trên. Các dạng khác nhau trong tiếng Trung và tiếng Nhật Thứ tự là "Tiếng Nhật hiện đại -Tiếng Trung phồn thể - Tiếng Trung giản thể", ví dụ: 両-兩-两. Một số ký tự được đơn giản hóa theo cùng một cách trong cả hai ngôn ngữ, những ký tự khác chỉ được đơn giản hóa trong một ngôn ngữ. Tham khảo Link ngoài Kanji-Trainer.org A free flashcard-style kanji learning tool including selection by kyōiku-kanji, explaining the components of each character and providing mnemonic phrases. Official list of kyōiku kanji by grade
1,191
19832025
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20V%C4%83n%20Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%2C%20sinh%20th%C3%A1ng%209%20n%C4%83m%202003%29
Nguyễn Văn Trường (cầu thủ bóng đá, sinh tháng 9 năm 2003)
Nguyễn Văn Trường (sinh ngày 9 tháng 10 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công cho câu lạc bộ Hà Nội và đội tuyển U-23 Việt Nam. Sự nghiệp câu lạc bộ Tại Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2022, Văn Trường đã ghi một siêu phẩm ấn định tỷ số 2–1 giúp U-19 Hà Nội đánh bại U-19 Viettel trong trận chung kết, đưa Hà Nội lên ngôi vô địch ở giải đấu này. Mùa giải 2023, Văn Trường được đôn lên đội một của Hà Nội FC. Anh được trao số áo 19, trước đó được mặc bởi Nguyễn Quang Hải. Ngày 13 tháng 4 năm 2023, Trường ra mắt đội bóng Thủ đô khi vào sân thay người trong trận thắng 3–0 trước Hải Phòng. Sự nghiệp quốc tế Tại Cúp bóng đá U-23 châu Á 2022, Văn Trường có lần đầu tiên được triệu tập lên. Vào ngày 2 tháng 6 năm 2022, anh có trận ra mắt U-23 Việt Nam trong trận hoà 2-2 trước U-23 Thái Lan. Tại giải U-20 châu Á 2023 tại Uzbekistan, Văn Trường đã ghi một bàn thắng từ cú đánh đầu ngược vào lưới Qatar giúp U-20 Việt Nam giành chiến thắng 2–1. Thống kê sự nghiệp Câu lạc bộ Bàn thắng quốc tế U-19/U-20 Việt Nam Danh hiệu Câu lạc bộ U-19 Hà Nội Giải vô địch U-19 Quốc gia: Vô địch: 2022 Hà Nội FC V.League 1: Á quân: 2023 Quốc tế U-19 Việt Nam Giải vô địch bóng đá U-19 Đông Nam Á: 2022 Giải bóng đá U-19 Quốc tế Báo Thanh niên: 2022 U-22 Việt Nam Đại hội Thể thao Đông Nam Á: 2023 Tham khảo Liên kết ngoài Người Hưng Yên Tiền vệ bóng đá Cầu thủ bóng đá nam Việt Nam Cầu thủ từ lò đào tạo Hà Nội T&T Cầu thủ giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Hà Nội (2016) Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-19 quốc gia Việt Nam Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Việt Nam
342
19832033
https://vi.wikipedia.org/wiki/Inaba%20Ruka
Inaba Ruka
là một cựu nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô sinh ra tại Tokyo. Cô thuộc về công ti All Pro. Sự nghiệp Tháng 3/2019, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm với tư cách là nữ diễn viên độc quyền của E-BODY. Ngày 13/5, cô rời hợp đồng độc quyền và trở thành nữ diễn viên tự do. Tháng 3/2020, cô đã chuyển công ti chủ quản từ C-more Entertainment sang All Pro. Cô đã xếp thứ 2 trong hạng mục Nữ diễn viên trong thông cáo hàng tháng của FANZA "Diễn viên khiêu dâm này thật tuyệt! mùa đông 2020". Vào tháng 12, cô xếp thứ 31 trong bảng "FLASH 2020 BEST100 diễn viên đang hoạt động gợi cảm nhất" được bầu chọn bởi độc giả". Tháng 2/2021, cô xếp thứ 7 trong chương trình "Loạt câu hỏi cho nữ diễn viên khiêu dâm muốn nhận sô cô la của ngày Valentine!" của GeoTV. Ngày 10/7 cùng năm, cô đã xuất hiện công khai lần đầu với tư cách là người phụ trách tại sự kiện chương trình hài trực tiếp "Baruka Yose" tổ chức tại Asagaya Loft A. Vào tháng 8, cô xếp thứ 31 trong "Bảng xếp hạng FLASH 2021 diễn viên nữ gợi cảm chọn bởi 300 độc giả". Vào tháng 9, cô được chỉ định làm nữ diễn viên đại diện cho chiến dịch Triple HAPPY 2021. 7/1/2022, cô thông báo sẽ tạm ngưng hoạt động từ tháng 2 cùng năm. Cô dự kiến sẽ trở lại ngành, và được sắp xếp trở lại ngành sớm nhất vào tháng 4. 3/10/2022, cô đã đăng trên note rằng cô sẽ dừng các hoạt động dưới tên Inaba Ruka, mặc dù trước đó đã dự kiến trở lại hoạt động. 24/4/2023, cô đã cập nhật trên Twitter rằng sẽ hoạt động trở lại trên Twitter và Instagram. Ngày 1/6 cùng năm, cô đã tweet rằng cô lo ngại về việc trở lại ngành phim khiêu dâm vì luật phim khiêu dâm mới, mà trước đó luật này đã trở thành chủ đề được bàn tán. 22/5/2023, phim của cô "BAZOOKA khuyến mãi lớn phim hay với ngực lớn và gay cấn nhất bản giới hạn không cắt của mùa đông dành cho người hâm mộ dài 2749 phút" (BAZOOKA 冬の大感謝セール コスパ最強ノーカットベスト爆乳限定2749分) (BAZOOKA) đã xếp thứ nhất trên bảng xếp hạng sàn video FANZA hàng tuần. Mặc dù đã nghỉ việc, cô đã trở lại vị trí thứ 7 trên bảng xếp hạng nữ diễn viên khiêu dâm hàng tháng của sàn video FANZA tháng 9/2023. Đời tư Sở thích và kĩ năng đặc biệt của cô là diễn hài và nhảy múa. Cô là một kyonyū ngực cỡ Cup H, và ngực của cô có hình "giọt nước". Lí do cô vào ngành phim khiêu dâm là cô "nghĩ rằng sẽ thú vị khi quan hệ tình dục nơi công cộng và được quay lại do đó là một hành động khác thường". Nhà văn phim khiêu dâm Honzue Hisao đã miêu tả cô rằng "Cô ấy có khuôn mặt trẻ con và có thể đóng vai một người em gái, và cơ thể nóng bỏng của cô có thể giúp cô đóng các vai dâm đãng", và nhà văn phim khiêu dâm Kochi Katsutoshi đã nói rằng "Nếu có cô trên bìa, sản phẩm nào cũng sẽ bán đắt với bộ ngực bán chạy nhất ngành phim khiêu dâm này". Tham khảo Liên kết ngoài 稲場るか E-BODY 特設ページ (Trang đặc biệt E-BODY Inaba Ruka) - Trang web chính thức của E-BODY 稲場るか FanCentroアカウント (Tài khoản FanCentro của Inaba Ruka) Sinh năm 2000 Nhân vật còn sống Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản Nữ diễn viên Alice Japan
613
19832036
https://vi.wikipedia.org/wiki/Serie%20B%202023%E2%80%9324
Serie B 2023–24
Serie B 2023–24 (được gọi là Serie BKT vì lý do tài trợ) là mùa giải thứ 92 của Serie B kể từ khi thành lập vào năm 1929. Thay đổi Các đội sau đã thay đổi hạng đấu kể từ sau mùa giải 2022–23: Đến Serie B Xuống hạng từ Serie A Spezia Cremonese Sampdoria Thăng hạng từ Serie C Feralpisalò (Bảng A) Reggiana (Bảng B) Catanzaro (Bảng C) Lecco (Thắng play-off) Từ Serie B Thăng hạng lên Serie A Frosinone Genoa Cagliari Xuống hạng Serie C Benevento Perugia S.P.A.L. Reggina (loại trừ) Feralpisalò sẽ chơi ở Serie B lần đầu tiên trong lịch sử của mình, là đội thứ 125 tham gia giải đấu này. Sau 50 năm vắng bóng, Lecco trở lại Serie B lần đầu tiên kể từ năm 1973, Catanzaro trở lại Serie B sau 17 năm thi đấu ở các giải hạng dưới và Reggiana trở lại Serie B sau 2 năm thi đấu ở Serie C. Vào ngày 1 tháng 7 năm 2023, Co.Vi.So.C. đã từ chối đơn đăng ký của Lecco (do tài liệu liên quan đến địa điểm sân nhà Padua của họ cho mùa giải được trình bày muộn) và Reggina (do những bất thường về tài chính). Khi kháng cáo, Hội đồng Liên bang đã tái xét xử Lecco, nhưng xác nhận việc loại trừ Reggina. Mức độ kháng cáo sau đây, Collegio di Garanzia của Ủy ban Olympic Ý, đã giữ lại việc loại trừ Reggina đồng thời ra phán quyết ủng hộ yêu cầu của Perugia bác bỏ quyết định chấp nhận Lecco của FIGC. Vào ngày 3 tháng 8, Tòa án Hành chính Rome một lần nữa hủy bỏ việc loại trừ Lecco, đưa câu lạc bộ Lombardian trở lại giải Serie B, đồng thời từ chối yêu cầu tái gia nhập của Reggina. Những quyết định đó dự kiến ​​sẽ được kháng cáo tại Hội đồng Nhà nước vào ngày 29 tháng 8. Trong trường hợp có bất kỳ vị trí tuyển dụng nào, Brescia và Perugia (theo thứ tự đó) dự kiến ​​sẽ được nhận lại giải đấu. Vào ngày 30 tháng 8, Hội đồng Nhà nước bác bỏ yêu cầu của Perugia và Reggina và đưa ra phán quyết có lợi cho Lecco và Brescia, do đó hai đội được phép tham gia giải đấu. Các đội Vị trí Sân vận động Nhân sự và trang phục Thay đổi huấn luyện viên Bảng xếp hạng Kết quả Thống kê Ghi bàn hàng đầu Hat-trick Ghi chú H (=Home) – Sân nhà A (=Away) – Sân khách Kiến tạo hàng đầu Điểm tin vòng đấu Tham khảo Liên kết ngoài
416
19832039
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gennady%20Korotkevich
Gennady Korotkevich
Gennady Korotkevich (, Hienadź Karatkievič, ; sinh ngày 25 tháng 9 năm 1994) là một lập trình viên thi đấu người Belarus, anh đã giành chiến thắng trong các cuộc thi quốc tế lớn từ khi mới 11 tuổi, cũng như nhiều cuộc thi cấp quốc gia. Những thành tích nổi bật nhất của anh bao gồm sáu huy chương vàng liên tiếp tại Olympic Tin học Quốc tế và chức vô địch thế giới tại vòng chung kết Cuộc thi Lập trình Quốc tế dành cho Sinh viên Đại học năm 2013 và 2015. Tính đến tháng 10 năm 2023, Gennady là lập trình viên có xếp hạng cao nhất trên Codeforces, CodeChef, Topcoder, và HackerRank. Vào tháng 1 năm 2022, anh đã đạt điểm xếp hạng lịch sử là 3979 trên Codeforces, trở thành người đầu tiên vượt qua cột mốc 3900 điểm. Tiểu sử Gennady Korotkevich sinh tại Gomel (Homiel), đông nam Belarus. Bố mẹ anh, Vladimir và Lyudmila Korotkevich, đều là lập trình viên tại khoa toán học của Đại học Francysk Skaryna Homie. Khi mới 6 tuổi, anh đã bắt đầu quan tâm đến công việc của bố mẹ. Khi anh 8 tuổi, bố của anh đã thiết kế một trò chơi cho trẻ em để giúp anh học lập trình. Mẹ của Gennady Korotkevich đã tham khảo ý kiến từ đồng nghiệp cùng khoa, Mikhail Dolinsky, người đã tặng Gennady một cuốn sách nhỏ để đọc. Dolinsky, một trong những giảng viên ngành khoa học máy tính hàng đầu Belarus, hồi tưởng lại: "Sau đó, một tháng trôi qua, sau đó một tháng nữa... Không có tin tức gì từ Gena. Rồi bất ngờ, Lyudmila đến gặp tôi và mang theo một sổ tay lập trình: sau khi kỳ nghỉ hè và bóng đá kết thúc, con trai bà ngồi trước máy tính. Vào thời điểm đó, Gena là học sinh lớp hai tham gia cuộc thi cấp quốc gia và giành hạng hai, điều này đồng nghĩa với việc cậu được đăng ký vào một trường đại học kỹ thuật mà không cần thi tuyển. Một cách nào đó, anh giải quyết được bài toán về một vật ngâm trong nước. Vào thời điểm đó, Gena thậm chí còn không biết về lực đẩy Archimedes." Lần đầu tiên Korotkevich thu hút được sự chú ý của thế giới là khi anh giành vé tham gia Olympic Tin học Quốc tế (IOI) năm 2006 khi mới 11 tuổi, một kỷ lục thế giới mới với khoảng cách lớn. Anh đã nhận huy chương bạc tại sự kiện IOI đầu tiên của mình và liên tục nhận huy chương vàng từ năm 2007 đến năm 2012. Đến nay, anh là thí sinh thành công nhất trong lịch sử IOI. Tại IOI 2009 ở Plovdiv, khi đó Korotkevich mới 14 tuổi, anh nói về sự thành công của mình: "Tôi thử nhiều [chiến lược] và một trong số đó là đúng. Tôi không phải là thiên tài. Tôi đơn giản là giỏi ở việc này." Anh cho biết mình dành không quá ba đến bốn giờ mỗi ngày trước máy tính và sở thích của anh là bóng đá và bóng bàn. Vào mùa thu năm 2012, anh chuyển đến Nga để theo học tại Đại học ITMO. Vào mùa hè năm 2013, anh đã giúp ITMO đánh bại Đại học Giao thông Thượng Hải và Đại học Tokyo để giành chiến thắng tại vòng chung kết Cuộc thi Lập trình Quốc tế dành cho Sinh viên Đại học lần thứ 37, tổ chức ở Sankt-Peterburg. Anh cũng giành chiến thắng trong cuộc thi hàng năm Google Code Jam từ năm 2014 đến năm 2020. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2014, Gennady Korotkevich nói rằng anh chưa chắc chắn về kế hoạch sự nghiệp của mình sau khi tốt nghiệp, cho biết anh sẽ tập trung vào việc học tập và có thể sẽ theo đuổi lĩnh vực khoa học. Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2017, Gennady Korotkevich cho biết anh đã nhận được các lời mời làm việc từ Google và Yandex, nhưng anh đã từ chối và quyết định tiếp tục theo đuổi ngành khoa học máy tính tại ITMO. Năm 2019, Korotkevich là nghiên cứu sinh tại ITMO. Thành tích trong sự nghiệp Danh sách đầy đủ hơn về thách tích có thể được tìm thấy trên trang web Competitive Programming Hall Of Fame. Facebook Hacker Cup: người chiến thắng các năm 2014, 2015, 2019, 2020 Topcoder Open: nhà vô địch Marathon Match năm 2018, 2019, nhà vô địch Algorithm các năm 2014, 2019, 2020, 2021 Google Hash Code: nhà vô địch các năm 2019, 2020, á quân năm 2021 cùng với đội tên Past Glory Google Code Jam: nhà vô địch các năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018, 2019, 2020, và 2022, hạng sáu năm 2021 Tại Vòng 1B của 2012 Google Code Jam 2012, anh đã đạt điểm hoàn hảo chỉ trong 54 phút, 41 giây kể từ khi cuộc thi bắt đầu. Yandex.Algorithm: người chiến thắng các năm 2010, 2013, 2014, 2015, 2017 và 2018 Yandex Cup: người chiến thắng năm 2020 Russian Code Cup (bởi Mail.Ru Group): người chiến thắng năm 2016 và 2014, á quân năm 2015 và 2013, ACM-ICPC World Finals: người chiến thắng năm 2013 (đồng đội) và 2015 (đồng đội) Kotlin Challenge: người chiến thắng năm 2014 Olympic Tin học Quốc tế: Anh giành được hạng nhất tuyệt đối vào các năm 2009, 2010, 2011; một huy chương vàng năm 2007 (hạng 20), 2008 (hạng 7) và 2012 (hạng 2); một huy chương bạc năm 2006 (hạng 26). Anh hiện nắm giữ kỷ lục về số lượng huy chương vàng (sáu) và hạng nhất tuyệt đối (ba). All-Russian Team Olympiad in Informatics: người chiến thắng các năm 2007, 2009, 2010 và 2011, á quân năm 2008 Topcoder High School Competition: người chiến thắng năm 2010, á quân năm 2009 Snarknews Winter Series: người chiến thắng các năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014 và 2015 Snarknews Summer Series: á quân các năm 2008, 2010, 2011 và người chiến thắng các năm 2012, 2013, 2014 Vekua Cup: người chiến thắng năm 2013 (đồng đội) CROC Championship: người chiến thắng năm 2013 và 2016 Internet Problem Solving Contest: người chiến thắng các năm 2011 (đồng đội), 2013 (đồng đội) và 2017 (đồng đội) Challenge24: á quân năm 2013 và 2014 (team) Marathon24: hạng ba năm 2015 (đồng đội) Deadline24: hạng ba năm 2016 (đồng đội), người chiến thắng năm 2017 (đồng đội) và 2018 (đồng đội) In 2015, anh tham gia IMC và được trao tặng một huy chương vàng, xếp hạng 47 cá nhân, và vị trí thứ 10 trong đội đại diện cho Đại học ITMO. Code Festival Grand Final: á quân Code Festival Final 2016 (cá nhân), người chiến thắng Code Festival Final 2017 (cá nhân) Bioinformatics Contest: người chiến thắng năm 2017 và 2019, hạng ba năm 2018. ICFP Programming Contest: người chiến thắng năm 2021 (đồng đội) Codechef Snackdown : Người chiến thắng Codechef Snackdown 2016 (đồng đội) Người chiến thắng Codechef Snackdown 2019 (đồng đội) Giải đấu được tài trợ bởi Codeforces Rockethon — người chiến thắng năm 2014, 2015 ZeptoCodeRush - hạng ba năm 2014, người chiến thắng năm 2015 Cúp Looksery — người chiến thắng năm 2015 Cúp VK : hạng ba năm 2012 (cá nhân), người chiến thắng năm 2015 (đồng đội), hạng nhất năm 2016 (đồng đội). Xem thêm Olympic Tin học Trung Âu Lập trình thi đấu Petr Mitrichev Makoto Soejima Tham khảo Liên kết ngoài Hồ sơ lập trình trực tuyến: Topcoder: tourist Codeforces: tourist CodeChef: gennady.korotkevich Google Code Jam: (2015, 2014, 2013, 2012, 2011, 2010, 2009) SPOJ: tourist HackerEarth: @gennady Hackerrank: @Gennady AtCoder: tourist Lập trình viên thi đấu Lập trình viên thi đấu người Belarus Nhân vật còn sống Sinh năm 1994
1,309
19832041
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20M%E1%BA%A1nh%20C%C6%B0%E1%BB%9Dng%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%2C%20sinh%20n%C4%83m%201965%29
Nguyễn Mạnh Cường (cầu thủ bóng đá, sinh năm 1965)
Nguyễn Mạnh Cường (sinh năm 1965) là cựu cầu thủ bóng đá của đội Thể Công và đội tuyển Việt Nam. Anh thường chơi ở vị trí trung vệ. Anh là đội trưởng của đội tuyển Việt Nam tại một số các giải đấu như SEA Games 18 (1995) và Tiger Cup 1996. Sau khi giải nghệ, Nguyễn Mạnh Cường chuyển sang làm công tác huấn luyện. Tiểu sử Tại câu lạc bộ Nguyễn Mạnh Cường khoác áo đội Thể Công từ đầu sự nghiệp bóng đá của mình. Cùng với đội Thể Công, anh là một trong trung vệ thép của bóng đá Việt Nam thập niên 90. Sự nghiệp thi đấu quốc tế Nguyễn Mạnh Cường lần đầu tiên được gọi tập trung đội tuyển vào năm 1991 để tham gia SEA Games 16 (1991), vòng loại World Cup 1994. Sau đó, anh cùng đội tuyển tham dự SEA Games 17 (1993) tại Singapore. Anh trở thành một trong những thành viên chủ chốt của Đội tuyển Việt Nam giành huy chương bạc tại SEA Games 1995 và huy chương đồng tại Tiger Cup 1996. Tham khảo Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam Cầu thủ bóng đá nam Việt Nam Cầu thủ bóng đá Thể Công Huấn luyện viên bóng đá Việt Nam Người Hà Nội Hậu vệ bóng đá Trung vệ bóng đá Huấn luyện viên câu lạc bộ bóng đá Quảng Nam
227
19832064
https://vi.wikipedia.org/wiki/Natsume%20Iroha
Natsume Iroha
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô sinh ra tại Tokyo, và thuộc về công ti T-Powers. Sở thích của cô là nghe nhạc và kĩ năng đặc biệt là chơi bóng bàn. Tên cũ của cô là . Sự nghiệp Tháng 3/2007, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm dưới tên Hara Sasara với tư cách là nữ diễn viên độc quyền của MAX-A và Alice Japan, và ầo tháng cùng năm cô cũng bắt đầu viết chuyên mục cho tạp chí tin tức phim khiêu dâm "AVFREAK". Tháng 6/2008, cô ra mắt ngành từ hãng Idea Pocket. Mặc dù cô tạm dừng hoạt động một thời gian từ tháng 1/2011, cô đã trở lại ngành phim khiêu dâm hai năm rưỡi sau đó với hãng MOODYZ và đổi tên diễn thành Natsume Iroha vào tháng 7/2013. Từ tháng 8/204, cô trở thành nữ diễn viên độc quyền của Attackers, nhưng kể từ nửa sau năm 2016 cô cũng bắt đầu xuất hiện trong phim của các hãng khác ví dụ như Madonna. Tham khảo Liên kết ngoài (Trang web dành cho người trên 18 tuổi) 夏目彩春のblog - Blog chính thức (30/5/2013 - ) 夏目彩春公式プロフィール (Hồ sơ chính thức Natsume Iroha - T-Powers マックス・エー 女優詳細 原更紗 (Chi tiết nữ diễn viên MAX-A Hara Sasara) アリスJAPAN 女優詳細 原更紗 (Chi tiết nữ diễn viên Alice Japan Hara Sasara) アイデアポケット 原更紗 (Hara Sasara - Idea Pocket) Sinh năm 1984 Nhân vật còn sống Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản Nữ diễn viên Idea Pocket Nữ diễn viên Alice Japan Nữ diễn viên MOODYZ
261
19832068
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20t%E1%BB%B1%20v%E1%BB%87
Nhân dân tự vệ
Nhân dân tự vệ () là lực lượng dân quân bán thời gian cấp làng xã của Việt Nam Cộng hòa trong chiến tranh Việt Nam. Nhân dân tự vệ chủ yếu bảo vệ nhà cửa và làng mạc khỏi các cuộc tấn công của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) và Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN). Lịch sử Sau sự kiện Tết Mậu Thân, một phiên họp chung của Quốc hội Việt Nam Cộng hòa đã nhất trí về luật huy động quân sự được ban hành vào ngày 19 tháng 6 năm 1968. Dự luật hạ tuổi nhập ngũ từ 20 xuống 18 và cho phép chính phủ tuyển nam giới trong độ tuổi 18 và 38 để gia nhập Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) hoặc Địa phương quân và Nghĩa quân. Thời hạn nhập ngũ được thực hiện vô thời hạn hoặc miễn là chiến tranh còn kéo dài. Ngoài ra, luật quy định rằng thanh niên 17 tuổi và nam giới trong độ tuổi từ 39 đến 43 có thể bị bắt đi nghĩa vụ quân sự không chiến đấu, và tất cả nam giới khác từ 16 đến 50 tuổi đều phải phục vụ trong tổ chức bán quân sự mới mang tên Nhân dân tự vệ, một dạng dân quân làng xã bán thời gian. Tính đến giữa năm 1972, Nhân dân tự vệ có quân số trên giấy tờ là 2–3 triệu đoàn viên. Cơ cấu tổ chức Cơ cấu tổ chức Nhân dân tự vệ bao gồm hai thành phần: chiến đấu và yểm trợ. Thành phần cơ bản của Nhân dân tự vệ chiến đấu là đội 11 người bao gồm đội trưởng, đội phó và toán 3 người. Ba đội như vậy gộp thành một tiểu đội gồm 35 người dưới sự chỉ huy của tiểu đội trưởng và tiểu đội phó. Nếu một địa phương có nhiều hơn một tiểu đội thì hai hoặc ba tiểu đội có thể tập hợp lại thành một toán là đơn vị chiến đấu Nhân dân tự vệ lớn nhất do một toán trưởng và một toán phó chỉ huy. Tất cả các cấp chỉ huy và cấp phó đội, tiểu đội, toán đều được đoàn viên Nhân dân tự vệ bầu chọn dựa trên tố chất lãnh đạo của họ. Thành phần Nhân dân tự vệ yểm trợ đều là tình nguyện viên. Họ cũng được tổ chức thành các đội, tiểu đội, toán nhưng được chia thành các nhóm khác nhau: Thiếu nhi tự vệ, Phụ nữ tự vệ, Lão ông, Lão bà tự vệ theo quy định của văn hóa truyền thống Việt Nam. Những thành phần yểm trợ này cung cấp các dịch vụ như sơ cứu, giáo dục, phúc lợi xã hội và giải trí. Những phụ nữ trẻ khỏe mạnh có thể tham gia Nhân dân tự vệ chiến đấu nếu họ muốn dựa trên cơ sở tự nguyện. Ở nông thôn, nhiều cô gái nông dân tình nguyện tham gia chiến đấu và được tổ chức thành các chi khu riêng biệt. Các nhóm Nhân dân tự vệ chiến đấu được cấp súng trường, súng carbine, súng tiểu liên và súng ngắn. Một số nhóm thậm chí còn nhận được súng trường tự động với số lượng hạn chế trong giai đoạn sau của cuộc chiến. Nhiệm vụ và quyền hạn Ở những khu vực tương đối an toàn, Nhân dân tự vệ có thể được sử dụng để hỗ trợ Cảnh sát Quốc gia duy trì luật pháp và trật tự, bảo vệ chống lại các hành động phá hoại và khủng bố của QĐNDVN/MTDTGPMNVN, cũng như ngăn chặn các cuộc xâm nhập của QĐNDVN/MTDTGPMNVN. Ở những nơi an ninh kém chắc chắn hơn, Nhân dân tự vệ chỉ được tổ chức ở những thôn được Địa phương quân bảo vệ. Ngay sau khi một khu vực không an toàn không có QĐNDVN/MTDTGPMNVN, Nhân dân tự vệ dần dần đảm nhận vai trò an ninh thay thế cho các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân sẽ được tái triển khai đến các khu vực khác vẫn đang trong tình trạng tranh chấp. Tuy nhiên, khi điều này xảy ra, Địa phương quân và Nghĩa quân thường sẽ để lại một lực phản công nhỏ. Bằng cách này, Nhân dân tự vệ đã có đủ sức mạnh và tầm vóc khi quyền kiểm soát của chính phủ được mở rộng. Nhiệm vụ của Nhân dân tự vệ nói chung bao gồm việc duy trì an ninh trong thôn xóm hoặc thị xã. Họ canh gác, tiến hành tuần tra và hỗ trợ lực lượng cảnh sát hoặc quân đội bằng cách thu thập thông tin tình báo, sơ cứu, hỗ trợ sơ tán y tế, xây dựng hàng rào phòng thủ, lắp đặt bẫy mìn đơn giản và đóng vai trò là người đưa tin. Tùy theo khả năng của mình, họ còn tham gia các hoạt động phát triển cộng đồng tại thôn. Nhân dân tự vệ sử dụng chiến thuật du kích; họ không đánh chiếm các vị trí phòng thủ cố định mà chỉ di chuyển đến những địa điểm cảnh giác vào ban đêm trong số 3 chi khu. Họ hiếm khi đối đầu trực tiếp với QĐNDVN/MTDTGPMNVN trừ khi quân số của đối phương nhỏ và dễ bị tiêu diệt. Khả năng của họ thường chỉ giới hạn trong việc cảnh báo người dân trong thôn và lực lượng thiện chiến gần nhất, đồng thời chiếm giữ các vị trí ẩn nấp dọc theo con đường tiếp cận của QĐNDVN/MTDTGPMNVN, quấy rối và bắn tỉa họ. Bất cứ khi nào đối đầu với lực lượng QĐNDVN/MTDTGPMNVN vượt trội, các đoàn viên Nhân dân tự vệ đều giấu vũ khí và hành động như những người bình thường. Theo quy định, Nhân dân tự vệ không bao giờ mạo hiểm ra ngoài vành đai phòng thủ của ấp nhưng họ có thể tham gia cùng Nghĩa quân trong các cuộc phục kích ban đêm trên các đường tiếp cận thôn hoặc tham gia các cuộc tuần tra của Nghĩa quân bên ngoài thôn, thường dưới sự lãnh đạo của Nghĩa quân. Khi tình hình cho phép, họ cũng có thể tạm thời điều động một tiền đồn của Nghĩa quân trong khi Nghĩa quân tiến hành phục kích hoặc tiến hành tuần tra bên ngoài thôn. Sự sắp xếp này đã tăng cường khả năng của Nghĩa quân và tăng cường an ninh cho thôn làng. Trong nhiều trường hợp QĐNDVN/MTDTGPMNVN xâm nhập, các đoàn viên Nhân dân tự vệ cứng rắn và giàu kinh nghiệm hơn thậm chí còn vi phạm nội quy khi tham gia Nghĩa quân để chống trả như một lực lượng phản động. Tuy nhiên, đóng góp đáng kể nhất của họ trong trường hợp QĐNDVN/MTDTGPMNVN xâm nhập thôn ấp là tổ chức nhân dân vào thế phản kháng thụ động và bất hợp tác. Chương trình huấn luyện Để đảm bảo rằng Nhân dân tự vệ có thể thực hiện vai trò của mình một cách hiệu quả, chính phủ Việt Nam Cộng hòa bèn tiến hành một chương trình huấn luyện tương đối toàn diện. Một khóa huấn luyện chính thức kéo dài bốn tuần tại các trung tâm huấn luyện quốc gia dành cho toán trưởng và tiểu đội trưởng. Dù thời lượng ngắn hơn nhưng các khóa học này đủ toàn diện và được so sánh thuận lợi với các khóa học cơ bản của trung đội và tiểu đội trưởng Nghĩa quân. Việc huấn luyện Nhân dân tự vệ được các nhóm đào tạo lưu động đảm trách do Tổng nha Nhân dân tự vệ cung cấp. Đội này thường bao gồm một sĩ quan Địa phương quân, một trung đội trưởng Địa phương quân, một cảnh sát, hai hoặc ba người lính Địa phương quân có kinh nghiệm và các cán bộ Phát triển Cách mạng. Khóa huấn luyện được thực hiện tại thôn làng trong vài giờ trong ngày và được sắp xếp để tránh làm gián đoạn hoạt động bình thường của các đoàn viên Nhân dân tự vệ. Việc yểm trợ cũng tiến triển thông qua một chương trình huấn luyện tương tự nhưng mang tính kỹ thuật và chính trị hơn. Tham khảo Chiến tranh Việt Nam Quân lực Việt Nam Cộng hòa Đơn vị quân sự thành lập năm 1968 Đơn vị quân sự giải thể năm 1975 Quân binh chủng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa
1,429
19832071
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gem%C3%BCseschlacht
Gemüseschlacht
Gemüseschlacht (tiếng Đức được hiểu là "trận chiến rau") hoặc Wasserschlacht ("trận chiến nước") là một sự kiện chọi thức ăn hàng năm được tổ chức ở Berlin, thủ đô của nước Đức, trên cây cầu Oberbaum nối giữa Quận Friedrichshain và Kreuzberg. Sự kiện thường được tổ chức vào mùa hè với lần tổ chức đầu tiên vào năm 1998. Hàng trăm người tham gia sự kiện mỗi năm; Die Welt báo cáo cho rằng năm 2008 đã có đến 800 người tham gia. Truyền thống này đã kết thúc vào năm 2022. Bối cảnh Trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh, quận Friedrichshain là thuộc Đông Berlin, trong khi quận Kreuzberg, bên kia sông Spree lại thuộc Tây Berlin. Cây cầu Oberbaum được xây dựng bắc qua sông Spree nối liền hai quận lại với nhau, và ở đây là một trong số ít các chốt kiểm soát mà người dân có thể đi từ Tây Berlin sang Đông Berlin. Sau khi Đông Đức sáp nhập với Tây Đức vào năm 1990, chính quyền thành phố Berlin đã quyết định hợp nhất hai quận Friedrichshain và Kreuzberg thành một, Friedrichshain-Kreuzberg. Người dân hai quận đã phản đối việc này vì nó được đưa ra mà không lấy ý kiến của nhân dân. Nhiều người biểu tình đã tụ tập trên cầu Oberbaum và chọi thức ăn vào nhau. Cuộc biểu tình đầu tiên như vậy được tổ chức vào năm 1998. Việc sáp nhập hai quận được hoàn thành vào năm 2001. Nhiều sự kiện hàng năm trên cầu vẫn tiếp tục được diễn ra sau đó và được đăng ký dưới hình thức biểu tình. Sự kiện Hàng năm, sự kiện vẫn được diễn ra vào mùa hè để người dân Friedrichshain đụng độ với người dân Kreuzberg. Những người tham gia sẽ gặp nhau trên cầu Oberbaum nối liền hai quận với mục tiêu đẩy phe đối diện về vùng đất của mình và giành lấy cây cầu. Các đội sẽ có những cái tên như "Freien Kreuzberger Heimatschutzes" và "Wasserarmee Friedrichshain". Hầu hết phần chiến thắng đều thuộc về người dân Friedrichshain. Mặc dù "Gemüseschlacht" mang nghĩa là "trận chiến rau" và "Wasserschlacht" mang nghĩa là "trận chiến nước", nhưng người tham gia không bị hạn chế chỉ sử dụng rau hoặc nước. Dụng cụ ném còn có thể sử dụng trứng, bột mì, trái cây thối và bã cà phê. Quy định chính là vật thể ném đi không được gây nguy hiểm. Nhiều người tham gia còn đánh người khác bằng gậy xốp. Có báo cáo cho rằng đã xuất hiện cá trích tươi sống và tã lót đã qua sử dụng trong sự kiện năm 2008. Cảnh sát Vào năm 2003, cảnh sát đã hạn chế quyền tiếp cận cây cầu để cố gắng ngăn cản sự kiện diễn ra và cuối cùng lại trở thành mục tiêu của những người tham gia. Một học sinh 15 tuổi ở quận Hellersdorf của Berlin đã bị đưa ra tòa vì viên cảnh sát mà cậu nhóc ném trúng không thấy vui. Mặc dù quả trứng sống mà cậu ném chỉ trúng chân viên cảnh sát và không gây đau, nam học sinh này đã lần đầu tiên bị xử phạt vì sự việc này. Thẩm phán đã không xem học sinh là kẻ bạo loạn mà chỉ xử phạt cho cậu nhóc lao động. Một người phát ngôn của cảnh sát đã mô tả sự kiện vào năm 2008 như "cuộc tụ tập hoàn toàn hòa bình". Tương tự, cảnh sát báo cáo vào năm 2013 rằng sự kiện vẫn diễn ra hòa bình. Sự kiện tại Hanover Một sự kiện cũng được diễn ra tương tự ở Hannover, Đức vào tháng 9 hàng năm từ năm 2003 cho đến trước năm 2020. Sự kiện còn được gọi là Gemüseschlacht diễn ra ở trên cầu Dornröschenbrücke giữa hai quận và , ở hai bên cây cầu. Xem thêm La Tomatina, lễ hội ném cà chua ở Tây Ban Nha Té nước Ghi chú Tham khảo Lễ hội Đức Biểu tình ở Đức Lịch sử Berlin Friedrichshain-Kreuzberg
680
19832092
https://vi.wikipedia.org/wiki/AirPlay
AirPlay
AirPlay là một giao thức truyền thông không dây độc quyền được phát triển bởi Apple Inc. cho phép truyền phát âm thanh, video, màn hình thiết bị và ảnh giữa các thiết bị, cùng với siêu dữ liệu liên quan. Ban đầu chỉ được triển khai trong phần mềm và thiết bị của Apple, nó được gọi là AirTunes và chỉ được sử dụng cho âm thanh. Kể từ đó, Apple đã cấp phép cho giao thức AirPlay như một công nghệ thành phần phần mềm của bên thứ ba cho các nhà sản xuất chế tạo các sản phẩm tương thích với thiết bị của Apple. Lịch sử Năm 2004, Apple giới thiệu AirTunes như một tính năng mới của iTunes 4.6. Nó cho phép truyền phát nhạc qua mạng đến AirPort Express, được trang bị giắc âm thanh analog-to-digital 3.5 mm cho loa hoặc các thiết bị âm thanh khác. Năm 2010, Apple giới thiệu phiên bản mới của công nghệ AirTunes, hiện được gọi là AirPlay, như một phần của iOS 4.2. Nó hỗ trợ truyền phát âm thanh và video đến Apple TV, và sau đó bổ sung thêm tính năng phản chiếu màn hình và cuối cùng là hỗ trợ cho nhiều loa và thiết bị AV tương thích với AirPlay của bên thứ ba. Apple đã công bố AirPlay 2 tại hội nghị WWDC thường niên vào ngày 5 tháng 6 năm 2017. Nó được lên kế hoạch phát hành cùng với iOS 11 vào quý thứ ba năm 2017, nhưng đã bị trì hoãn đến tháng 6 năm 2018. So với phiên bản gốc, AirPlay 2 cải thiện khả năng đệm; thêm truyền phát âm thanh đến loa stereo; cho phép gửi âm thanh đến nhiều thiết bị trong các phòng khác nhau; và điều khiển thông qua Control Center, ứng dụng Home hoặc Siri, các chức năng trước đây chỉ có sẵn khi sử dụng iTunes trên macOS hoặc Windows. Xem thêm Google Cast Chromecast Miracast Chú thích Wi-Fi ITunes
331
19832094
https://vi.wikipedia.org/wiki/Google%20Cast
Google Cast
Google Cast là một giao thức độc quyền được Google phát triển để phát nội dung âm thanh và video được phát trực tuyến trên Internet trên thiết bị tiêu dùng tương thích. Giao thức này được sử dụng để khởi chạy và kiểm soát phát lại nội dung trên trình phát phương tiện kỹ thuật số, TV độ nét cao và hệ thống âm thanh gia đình bằng cách sử dụng thiết bị di động, máy tính cá nhân hoặc loa thông minh. Giao thức này lần đầu tiên được ra mắt vào ngày 24 tháng 7 năm 2013 để hỗ trợ trình phát Chromecast thế hệ đầu tiên của Google. SDK Google Cast được phát hành vào ngày 3 tháng 2 năm 2014, cho phép các bên thứ ba sửa đổi phần mềm của họ để hỗ trợ giao thức. Theo Google, hơn 20.000 ứng dụng hỗ trợ Google Cast đã có sẵn tính đến tháng 5 năm 2015. Hỗ trợ cho Google Cast kể từ đó đã được tích hợp vào các thiết bị tiếp theo, chẳng hạn như Nexus Player và các thiết bị Android TV khác (chẳng hạn như TV), cũng như soundbars, loa và các mẫu Chromecast sau này. Các thiết bị tiêu dùng hỗ trợ giao thức gốc được tiếp thị là Chromecast built-in. hơn 55 triệu thiết bị Chromecast và Chromecast built-in đã được bán ra. Xem thêm AirPlay Miracast WiDi Chú thích Liên kết ngoài Google Cast SDK at Google Developers Cast
249
19832123
https://vi.wikipedia.org/wiki/Apple%20Mail
Apple Mail
Apple Mail là ứng dụng email được Apple tích hợp vào các hệ điều hành macOS, iOS, iPadOS và watchOS. Ứng dụng này phát triển từ NeXTMail, vốn được NeXT phát triển như một phần của hệ điều hành NeXTSTEP, sau khi Apple mua lại NeXT vào năm 1997. Phiên bản hiện tại của Mail sử dụng SMTP để gửi tin nhắn, POP3, Exchange và IMAP để nhận tin nhắn và S/MIME để mã hóa tin nhắn đầu cuối. Nó cũng được cấu hình sẵn để hoạt động với các nhà cung cấp email phổ biến, chẳng hạn như Yahoo! Mail, AOL Mail, Gmail, Outlook và iCloud (trước đây là MobileMe) và nó hỗ trợ Exchange. iOS có phiên bản di động của Mail với hỗ trợ Exchange ActiveSync (EAS) được bổ sung, mặc dù nó đã bỏ lỡ chức năng đính kèm tệp vào email trả lời cho đến khi phát hành iOS 9. EAS không được hỗ trợ trong phiên bản macOS của ứng dụng Mail của Apple, vấn đề chính là các tin nhắn được gửi sẽ bị trùng lặp không chính xác trong thư mục tin nhắn đã gửi, sau đó được lan truyền qua đồng bộ hóa đến tất cả các thiết bị khác bao gồm iOS. Chú thích Phần mềm cho iOS MacOS Phần mềm watchOS Phần mềm dựa trên WebKit IOS
221
19832142
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%BAi%20Ph%C3%BA%20C%C6%B0%E1%BB%9Dng
Núi Phú Cường
Núi Phú Cường hay Bạch Hổ sơn, núi Tà Biệt, núi Tà Béc là ngọn núi ở vùng Bảy Núi, nằm trên địa phận quản lý của thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Phú Cường cũng được xem là một dãy núi, với tất cả 13 ngọn. Tự nhiên Đây là một ngọn núi cao 282 m, kéo dài từ bắc xuống nam, chiều dài 4,5 km bề ngang trung bình 800 m, rộng nhất hơn 1 km. Diện tích núi 328 ha (3,28 km2). Núi có địa hình dốc, bao phủ bởi rừng, nhưng đều là rừng trồng lại, bề mặt phủ lớp mùn dày do lá cây rụng. Rừng được phân loại thuộc Hệ sinh thái rừng kín thường xanh nửa rụng lá. Các loài gỗ rừng gồm có: căm xe, giáng hương, cẩm lai, gõ mật, bằng lăng,... Động vật lớn có heo rừng tuy nhiên số lượng không còn nhiều. Núi Phú Cường có mức độ khô hạn nhất vùng Bảy Núi thường niên. Để phòng chống nguy cơ cháy rừng, chính quyền địa phương đã tạo đường băng cản lửa trong các khu vực núi, với tổng diện tích 15,32 ha, trong đó 2 đường băng ngang dài 2,4 km, rộng 20 m và một đường băng đỉnh rộng 30 m, dài 3,5km. Họ bố trí 4 bồn Inox chứa nước tại bờ Đông Phú Cường (mỗi bồn chứa 8 mét khối nước). Lịch sử Ngày 30 tháng 4 năm 1977, các đơn vị Quân Cách mạng Campuchia (Khmer Đỏ) bất ngờ tràn sang chiếm các vùng ở An Giang. Từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1977, các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam tại địa phương đã giao tranh liên tục chống lại quân Khmer Đỏ. Vùng núi Phú Cường là một trong những khu vực giao tranh khốc liệt nhất. Trận Phú Cường lần 1 Ngày 15 tháng 1 năm 1978, Trung đoàn 14 và Trung đoàn 15 Sư đoàn 2 Khmer Đỏ sử dụng 4 tiểu đoàn bộ binh tấn công vào khu vực Bảy Núi. Trung đoàn 3, Sư đoàn 330 Việt Nam triển khai đến chặn đánh, gây thiệt hại 200 lính đối phương tại tuyến Cây Dương- Cống Đá. Trung đoàn 105 Sư đoàn 25 Khmer Đỏ lập tức chi viện, có cả xe tăng và hỏa lực pháo kích từ núi Som, Thamdung bên lãnh thổ Campuchia sang yểm trợ. Ngày 18 tháng 1 năm 1978, quân Khmer Đỏ chiếm toàn bộ dãy núi Phú Cường. Sau đó, họ bố trí nhiều tầng phòng thủ trên núi và dọc theo kênh Vĩnh Tế, đồng thời, gửi điện khiêu khích phía Việt Nam. Sư đoàn 330 Việt Nam đã huy động 3 trung đoàn có xe tăng và pháo binh phản công. Tư lệnh Quân khu là Nguyễn Chánh và Chính ủy Nguyễn Thạnh trực tiếp chỉ huy trận đánh. Sáng ngày 19 tháng 1, quân Việt Nam pháo kích dọc kênh Vĩnh Tế và khu vực núi Phú Cường. Sau 30 phút pháo kích, bộ binh dưới sự yểm trợ của xe tăng bắt đầu tiến công. Đến 18 giờ, quân Khmer Đỏ bị đánh bại, phía Việt Nam đã diệt 1.215 quân đối phương, bắt 75 lính, diệt gọn 3 tiểu đoàn của Trung đoàn 4 Sư đoàn 2 Khmer Đỏ, diệt 2 tiểu đoàn thuộc tỉnh Takeo và gây thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn khác. Quân Việt Nam thu 348 súng, 6 máy thông tin, phá hủy 1 pháo 105 ly, 1 pháo không giật 75 ly. Phía Việt Nam mất 34 lính, bị thương 146 lính, bị cháy 1 xe tank PT-85. Trận Phú Cường lần 2 Vào ngày 17 tháng 4 năm 1978, quân Khmer Đỏ quay lại tấn công vào đầu núi Phú Cường. Đêm 11 rạng sáng 12 tháng 5, quân Khmer Đỏ tổ chức tấn công trên tuyến dài biên giới, trong đó có núi Phú Cường. Ngày 17 tháng 5, họ hoàn thành kiểm soát núi. Ngay trong ngày, quân Việt Nam tổ chức phản công, đến ngày 19 lấy lại ngọn núi. Dân cư - kinh tế Xung quanh chân núi là các cánh đồng lúa rộng lớn, người dân sống bằng nông nghiệp canh tác lúa nước, và trồng khoai mì tại các khu vực đất nhiều cát. Cảnh quan vùng núi Phú Cường và những cánh đồng quanh núi còn có nhiều cây thốt nốt. Chúng được trồng theo hàng giữa các cánh đồng làm tăng vẻ đẹp cảnh quan, là điểm thu hút du lịch. Núi Phú Cường có nhiều nho rừng và bò cạp. Người dân thường tìm nho rừng và săn bắt bò cạp trên núi và buôn bán như đặc sản địa phương. Sản phẩm gồm nho rừng tươi, bò cạp lấy thịt và các sản phẩm rượu nho rừng, rượu bò cạp. Tại Phú Cường còn có mối đỏ, bù rầy thường được tìm thấy ở đây. Chúng được bán cho các chợ lân cận, mối chúa của mối đỏ để ngâm rượu, bù rầy để làm thức ăn. Ngoài ra, núi có các khu rừng le, là một loại tre rừng, cung cấp măng le nhưng thường chỉ có theo mùa. Các tuyến đường giao thông trải nhựa đã bọc quanh chân núi. Người dân sống dọc theo các tuyến đường này. Khu vực núi có nhiều đá phiến đen, tiềm năng khai thác vật liệu xây dựng. Tuy nhiên vào tháng 4 năm 2018, chính quyền tỉnh An Giang ban hành lệnh cấm khai thác 42 địa điểm, trong đó có núi Phú Cường. Phía bắc núi có một số điểm lộ nước khoáng. Chú thích Sách Núi tại An Giang P
941
19832196
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C5%8Dme%20Ena
Kōme Ena
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti Production ALIVE. Sự nghiệp・Đời tư Tháng 8/2019, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm với tư cách là nữ diễn viên độc quyền của MOODYZ. Tháng 1/2020, cô rời hợp đồng độc quyền và trở thành nữ diễn viên tự do. Tháng 10/2022, cô tham gia với tư cách người mẫu tại vở kịch hóa trang trong sự kiện phát hành dōjin "Yuruketto". Sở thích/Kĩ năng đặc biệt của cô là đến các quán cà phê và chơi trò chơi. Điểm nổi bật của cô là "Ngực J Cup 103cm". Món ăn yêu thích của cô là bánh pudding, omurice, salad và bánh kẹo. Cô cũng thích uống sữa, và cô đã uống khoảng 3 lít sữa bò mỗi ngày từ khi học tiểu học. Loại người cô thích là người vui vẻ khi ở cùng và có thể thay đổi cảm xúc dễ dàng. Nguyên nhân cô vào ngành là cô đã được gợi ý nreen thử trở thành nữ diễn viên khiêu dâm khi cô đang làm người mẫu ảnh. Cô đã suy nhĩ trong một thời gian, và đã chọn vào ngành vì cô nghĩ rằng nếu cô chọn một lựa chọn lớp, cô sẽ thay đổi điều gì đó. Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1999 Nhân vật còn sống Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản Nữ diễn viên MOODYZ
240
19832201
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jacob%20Fussell
Jacob Fussell
C. Jacob Fussell (24 tháng 2 năm 1819 – 10 tháng 4 năm 1912) là nhà sản xuất kem lạnh người Mỹ và nổi tiếng khi là người đầu tiên phân phối thương mại kem ở Hoa Kỳ. Thân thế C. Jacob Fussell sinh ngày 24 tháng 2 năm 1819 tại Little Falls, gần Fallston, Quận Harford, Maryland. Ông xuất thân từ một gia đình Quaker và là hậu duệ của Solomon Fussell, dân di cư đến Mỹ từ Yorkshire, Anh. Ông học nghề với thợ sửa bếp hồi còn tuổi thiếu niên. Sự nghiệp Fussell đã thất bại trong việc thành lập doanh nghiệp kinh doanh bếp lò. Về sau, ông điều hành công việc kinh doanh sữa cho Quaker. Năm 1851, ông bán các loại sản phẩm làm từ sữa từ mấy trang trại ở Quận York, Pennsylvania, thông qua các tuyến đường bán sữa ở Baltimore. Fussell còn bán kem cho khách hàng nhưng nhận thấy nhu cầu khó mà đoán trước được. Vào mùa đông năm 1851–1852, ông bắt đầu sử dụng lượng kem dư thừa để sản xuất kem lạnh ở Seven Valleys, Pennsylvania, và vận chuyển bằng tàu hỏa đến Baltimore. Sau hai năm, Fussell đành từ bỏ hoạt động sản xuất kem lạnh ở Seven Valleys và chuyển đến sống tại Baltimore. Ông đã bỏ tiền xây dựng một nhà máy ở giao lộ đường Hillen và Exeter tại Baltimore. Một cư dân của Seven Valleys tên là Daniel Henry nắm quyền điều hành nhà máy ở Seven Valleys sau khi Fussell vừa rời khỏi nơi đây. Năm 1856, Fussell đảm nhận công việc thư ký tại Đại hội Toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1856 ở Philadelphia. Năm 1856, Fussell mở một nhà máy ở Washington, D.C. Trong suốt cuộc nội chiến Mỹ, Quân đội Liên bang đề nghị mua lại hoạt động kinh doanh của ông nhưng ông từ chối. Ông mở rộng đến Boston vào năm 1862 và mở một cửa hàng trên Phố Park. Ông lại mở rộng đến Thành phố New York và mở một cửa hàng tại 299 Đại lộ số 4 vào ngày 3 tháng 2 năm 1864. Năm 1870, Fussell có thêm ba đối tác vào hoạt động kinh doanh của mình tại Thành phố New York, Stephen Dunnington, Nathaniel V. Woodhill và James Madison Horton. Doanh nghiệp hoạt động với tên gọi Jacob Fussell and Company và bán kem lạnh với giá 1,00 USD mỗi gallon cho các khách sạn và 1,25 USD mỗi gallon cho các đơn đặt hàng với số lượng nhỏ hơn. Horton đã mua lại các đối tác khác và cho đổi tên công ty thành J. M. Horton Ice Cream Company. Đến năm 1909, nhà máy của Fussell sản xuất 30.000 triệu gallon kem lạnh mỗi năm. Fussell kết bạn và chỉ dạy Perry Brazelton sống ở Mount Pleasant, Iowa về cách làm kem. Fussell là một người theo chủ nghĩa bãi nô và từng tham gia vào tuyến hỏa xa ngầm. Sau thời Nội chiến, ông góp phần tài trợ việc phát triển nhà ở dành cho người Mỹ gốc Phi có tên là Fussell Court. Đời tư Horton sống ở Phố 28 tại Thành phố New York. Sau khi bán doanh nghiệp của mình cho Horton, Fussell bèn dọn về Washington, D.C. rồi sinh sống tại đây cho đến khi qua đời. Fussell kết hôn hai lần. Người vợ thứ hai của ông không cùng ông chuyển từ New York đến Washington, D.C., thế nhưng họ không ly thân về mặt pháp lý. Con cái của ông bao gồm Mordecai T. Fussell, Jacob Jr., Norris, Frank, William và Carrie. Fussell qua đời ngày 10 tháng 4 năm 1912, tại nhà riêng số 1457 Đường 14 NW, Washington, D.C. Ông được chôn cất tại Nghĩa trang Oak Hill. Di sản Năm 2012, một dấu mốc lịch sử đã được dành để kỷ niệm Fussell là người đầu tiên phân phối kem lạnh thương mại tại nước Mỹ. Ông còn được mệnh danh là "Cha đẻ của ngành Công nghiệp Kem Lạnh". Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1819 Mất năm 1912 Kem lạnh Người Baltimore Người Washington, D.C. Người Fallston, Maryland Doanh nhân sản xuất Mỹ Doanh nhân Mỹ thế kỷ 20 Nhà công nghiệp Nội chiến Hoa Kỳ Người bãi nô Thành phố New York Doanh nhân Thành phố New York Đảng viên Đảng Cộng hòa Maryland Người sáng lập công ty thực phẩm Mỹ
721
19832222
https://vi.wikipedia.org/wiki/Noah%20Okafor
Noah Okafor
Noah Arinzechukwu Okafor (sinh ngày 24 tháng 5 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thụy Sĩ chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ A.C. Milan tại Serie A và Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ. Sự nghiệp cấp câu lạc bộ FC Basel Okafor chơi qua hệ thống bóng đá trẻ đầu tiên với đội bóng địa phương FC Arisdorf. Năm 2009, anh chuyển đến đội trẻ của FC Basel và tiếp tục trải qua tất cả các giai đoạn của học viện trẻ của đội. Vào mùa giải 2018–19, anh được thăng hạng lên đội một và vào ngày 31 tháng 1 năm 2018, Okafor đã ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với FC Basel dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên trưởng mùa giải đó Raphaël Wicky. Vào ngày 19 tháng 5 năm 2018, anh đã chơi trận đầu tiên cho đội tại trận sân nhà gặp FC Luzern. Tại trận đấu này, huấn luyện viên đã thay anh vào sân thay cho Mohamed Elyounoussi bị chấn thương ở phút thứ 34 và trận này kết thúc với tỷ số hòa 2–2. Anh ghi bàn đầu tiên cho câu lạc bộ tại phần thứ hai của mùa giải 2018–19 vào ngày 28 tháng 7 năm 2018 trong trận hòa 1-1 trên sân khách trước Xamax. Tại Cúp bóng đá Thụy Sĩ cũng vào mùa giải đó, anh đã chơi bốn trận và ghi một bàn trong trận bán kết với Zürich. Okafor đã chơi tổng cộng 72 trận cho Basel từ năm 2017 đến năm 2020 và ghi được tổng cộng 9 bàn. Trong tất cả các trận đó, anh đã chơi 39 trận tại giải quốc nội (Swiss Super League), 7 trận tại Cúp bóng đá Thụy Sĩ, 8 trận ở các giải cấp châu lục (Champions League và Europa League) và 18 trận giao hữu. Anh đã ghi ba bàn ở giải quốc nội, hai bàn ở cúp quốc gia, hai bàn ở các giải đấu châu Âu và hai bàn còn lại được ghi trong các trận thử nghiệm. Red Bull Salzburg Vào tháng 1 năm 2020, anh rời Basel để thi đấu cho câu lạc bộ FC Red Bull Salzburg ở Áo. Anh đã nhận được hợp đồng có thời hạn đến tháng 5 năm 2024 tại câu lạc bộ này. Vào những tháng ban đầu ở Salzburg, anh chủ yếu ra sân với tư cách là cầu thủ dự bị, nhưng đến cuối mùa giải 2019/20, anh đã chơi 11 trận ở Bundesliga và ghi được ba bàn. Sau khi mùa giải đầu tiên của anh tại Salzburg kết thúc, anh đã giành được chức vô địch và cúp quốc gia. Đầu mùa giải 2020/21, anh có mặt thường xuyên hơn trong đội hình xuất phát trước khi vắng mặt phần lớn vào mùa xuân vì chấn thương. Tại giải VĐQG, anh đã ra sân 18 lần và ghi được 6 bàn. Tại đấu trường châu Âu cũng vào mùa giải này, anh cũng ra sân 4 lần cho Salzburg ở UEFA Champions League. Sau khi mùa giải kết thúc, anh cũng lại giành được cú đúp giải VĐQG và cúp quốc gia với Salzburg. Vào mùa giải 2021/22, Okafor được coi là sẽ tạo nên sự đột phá trên hàng công Salzburg mặc dù anh thường xuyên dễ dính chấn thương. Bất chấp điều này, anh vẫn ghi 9 bàn sau 21 lần ra sân ở giải VĐQG ở vị trí tiền đạo trung tâm cắm theo đội hình 4-3-1-2 của huấn luyện viên trưởng Matthias Jaissle. Tại đấu trường châu Âu mùa giải này, anh đã ghi ba bàn và giúp đội lọt vào vòng 16 đội. Cuối mùa giải này, anh cũng lại giành được cú đúp giải VĐQG và cúp quốc gia với Salzburg. Vào mùa giải 2022/23, Okafor ra sân 21 lần tại giải VĐQG và ghi được 7 bàn sau khi không ghi được bàn nào vào giai đoạn mùa xuân. Tại Champions League, anh ra sân sáu lần và ghi ba bàn, nhưng lần này, Salzburg bị loại ở vòng bảng. Sau khi mùa giải kết thúc, Salzburg đã trở thành nhà vô địch nhưng gặp thất bại ở vòng tứ kết cúp quốc gia. Vào giữa tháng 4 năm 2023, Okafor bị gãy xương bàn chân phải trong trận hòa 0-0 trước LASK khiến anh phải bỏ lỡ phần còn lại của mùa giải. A.C. Milan Vào ngày 22 tháng 7 năm 2023, Okafor rời Salzburg để ký hợp đồng với đội bóng Serie A AC Milan của Ý cho đến ngày 30 tháng 6 năm 2028. Anh ra mắt lần đầu tiên cho AC Milan tại Serie A vào ngày 21 tháng 8 năm 2023 trước Bologna. Vào ngày 27 tháng 9 năm 2023, anh đã ghi bàn thắng đầu tiên cho Rossoneri trong chiến thắng 3–1 trên sân khách trước Cagliari. Sự nghiệp quốc tế Tại cấp đội trẻ quốc gia, Okafor đã chơi nhiều trận đấu quốc tế khác nhau cho các đội U-15 và U-17 Thụy Sĩ. Anh chơi trận đầu tiên cho đội U-18 vào ngày 9 tháng 5 năm 2018 trong trận hòa 1-1 trước đội U-18 Ý. Okafor ra mắt lần đầu tiên cho đội tuyển quốc gia cấp cao vào ngày 9 tháng 6 năm 2019 trong trận tranh hạng ba UEFA Nations League 2019 với Anh khi vào sân thay người ở phút thứ 113 cho Haris Seferovic. Anh ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên cho Thụy Sĩ vào ngày 15 tháng 11 năm 2021 trong trận đấu vòng loại World Cup với Bulgaria để giúp Thụy Sĩ chiến thắng trận này với tỷ số 4–0 để giành quyền tham dự FIFA World Cup 2022. Đời tư Okafor sinh ra ở Binningen, Thụy Sĩ và là gốc người Igbo. Cha anh là người Nigeria và mẹ anh là người Thụy Sĩ. Thống kê sự nghiệp Câu lạc bộ Quốc tế Tỷ số và kết quả liệt kê bàn thắng của Thụy Sĩ được kiểm trước, cột tỷ số cho biết tỷ số sau mỗi bàn thắng của Okafor. Danh hiệu Basel Cúp bóng đá Thụy Sĩ: 2018–19 Red Bull Salzburg Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo: 2019–20, 2020–21, 2021–22, 2022–23 Cúp bóng đá Áo: 2019–20, 2019–20, 2021–22 Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 2000 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Thụy Sĩ Người Thụy Sĩ gốc Nigeria Cầu thủ bóng đá nam Tiền vệ bóng đá Tiền vệ bóng đá nam Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thụy Sĩ Cầu thủ bóng đá Swiss Super League Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo Cầu thủ bóng đá Serie A Cầu thủ bóng đá FC Basel Cầu thủ bóng đá Red Bull Salzburg Cầu thủ bóng đá A.C. Milan Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022 Cầu thủ bóng đá Thụy Sĩ ở nước ngoài
1,153
19832225
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%A1
Người cá
nhỏ|Người cá, tranh của Arthur Rackham.Người cá (tiếng Anh: Mermen) hay Bán ngư nhân là những sinh vật huyền thoại có hình dạng con người từ phần bụng trở lên và loài cá bụng trở xuống. Người cá là phiên bản nam của các nàng tiên cá trong thần thoại, họ thường được mô tả là xấu xí và nhưng đôi lúc lại là các anh chàng đẹp trai. Vết tích Có lẽ người cá đầu tiên được ghi nhận là thần biển Ea của người Assyria - Babylon (được người Sumer gọi là Enki ), có liên quan đến nhân vật mà người Hy Lạp gọi là Oannes. Tuy nhiên, một số nhà văn nổi tiếng đã đánh đồng Oannes của thời kỳ Hy Lạp với thần Ea, thì Oannes đúng hơn là một trong những người hầu apkallu của Ea. Apkallu đã được mô tả là "người cá" trong các văn bản chữ hình nêm, và nếu Berossus được tin tưởng thì Oannes thực sự là một sinh vật sở hữu đầu cá và đầu người bên dưới, đồng thời có cả đuôi cá và chân giống người. Nhưng Berossus đã viết muộn hơn nhiều trong thời kỳ cai trị của Hy Lạp, tham gia vào việc "xây dựng" quá khứ. Mặc dù các bức tượng nhỏ đã được khai quật để chứng thực hình tượng người cá này, nhưng chúng có thể được coi là đại diện cho "hình người mặc áo choàng cá", không phải là một sinh vật có đầu cá mọc phía trên đầu người. Và thần Ea cũng được các học giả hiện đại miêu tả là mặc áo choàng cá. Thần thoại Hy Lạp - La Mã Triton trong thần thoại Hy Lạp được miêu tả là sinh vật nửa người nửa cá trong nghệ thuật Hy Lạp cổ đại. Triton là con trai của thần biển Poseidon và nữ thần biển Amphitrite. Cả Poseidon và Amphitrite đều không phải là người cá, mặc dù cả hai đều có thể sống dưới nước dễ dàng như trên đất liền. Triton sau này đã trở thành những người cá chung chung, do đó họ đã được miêu tả rất nhiều trong nghệ thuật. Một người cá đáng chú ý khác trong thần thoại Hy Lạp là Glaucus. Ông sinh ra là một con người và sống cuộc đời đầu tiên của mình bằng nghề đánh cá. Một ngày nọ, khi đang câu cá, ông thấy con cá mình bắt được sẽ nhảy từ bãi cỏ xuống biển. Ông đã ăn một ít cỏ vì tin rằng nó có đặc tính kỳ diệu và cảm thấy vô cùng khao khát được ở dưới biển. Ông nhảy xuống biển và từ chối quay trở lại đất liền. Các vị thần biển gần đó đã nghe thấy lời cầu nguyện biến ông thành thần biển. Chú thích Xem thêm Nàng tiên cá Sinh vật thần thoại Sinh vật nửa người nửa cá Á nhân Thú nhân
490
19832232
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%20%C4%90%E1%BB%99n
Chi Độn
Chi Độn (; 314–366), tự Đạo Lâm (道林), là một cao tăng Phật giáo thời Đông Tấn. Sư được đánh giá là một nhân vật có đóng góp nổi bật trong việc phát triển sâu rộng học thuyết Bát-nhã cho truyền thống Phật giáo Hán truyền. Hành trạng Sư nguyên họ Quan (關), người Trần Lưu (nay thuộc Khai Phong, Hà Nam). Thuở nhỏ, Sư cùng gia đình chạy loạn về Giang Nam, định cư tại Ngô huyện (nay thuộc Tô Châu, Giang Tô). Năm 25 tuổi, Sư xuất gia, thọ pháp với một cao tăng người Nguyệt Chi, nhân đó mới đổi sang họ Chi (支). Sau, Sư vân du đến Kiến Khang, trú tại Bạch Mã tự, chuyên tâm nghiên cứu Phật đạo. Tại chùa Bạch Mã, Sư thường cùng Lưu Hệ Chi, Phùng Hoài đàm luận về Trang Tử Tiêu dao thiên. Do bất đồng với quan điểm của Quách Tượng thời Tây Tấn, Sư đã chú giải lại Tiêu dao thiên trên quan điểm Bát-nhã, khiến cho quần nho cựu học không thể không thán phục, được tôn xưng là một trong Lục đại gia về Bát-nhã học. Năm 357, Sư đến Thê Quang tự ở núi Thạch Thành, Diêm huyện (nay thuộc Thặng Châu, Thiệu Hưng, Chiết Giang), chuyên tâm viết sách. Sư viên tịch ngày 4 tháng Tư (al), niên hiệu Thái Hòa nguyên niên (366), hưởng dương 53 tuổi. Chú thích Tham khảo 慧皎《高僧傳》卷4〈支遁傳〉 Đại sư Phật giáo Tu sĩ Phật giáo Trung Quốc
243
19832241
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tin%20nh%E1%BA%AFn%20%28Google%29
Tin nhắn (Google)
Messages (trước đây được gọi là Android Messages) là một ứng dụng nhắn tin SMS, RCS và nhắn tin tức thời được phát triển bởi Google cho các hệ điều hành di động Android và Wear OS, đồng thời cũng có sẵn trên Web. Messages là nền tảng nhắn tin đa năng chính thức của Google cho hệ sinh thái Android, tương tự như iMessage trên thiết bị Apple. Lịch sử Mã nguồn gốc của ứng dụng nhắn tin SMS Android được phát hành vào năm 2009 và được tích hợp vào hệ điều hành. Ứng dụng này đã được phát hành dưới dạng một ứng dụng độc lập không phụ thuộc vào Android với việc phát hành Android 5.0 Lollipop vào năm 2014, thay thế Google Hangouts làm ứng dụng nhắn tin SMS mặc định trên dòng điện thoại Nexus của Google. Năm 2018, Messages đã áp dụng tin nhắn RCS và được phát triển để gửi các tệp dữ liệu lớn hơn, đồng bộ hóa với các ứng dụng khác và thậm chí tạo tin nhắn hàng loạt. Đây là sự chuẩn bị cho việc Google ra mắt messages for web. Vào tháng 12 năm 2019, Google bắt đầu giới thiệu hỗ trợ cho nhắn tin Rich Communication Services (RCS) thông qua dịch vụ RCS do Google lưu trữ, được gọi trong giao diện người dùng là "tính năng trò chuyện". Tiếp theo là việc triển khai toàn cầu rộng rãi hơn trong suốt năm 2020. Ứng dụng đã vượt qua 1 tỷ lượt cài đặt vào tháng 4 năm 2020, tăng gấp đôi số lượng cài đặt trong vòng chưa đầy một năm. Ban đầu, RCS không hỗ trợ mã hóa đầu cuối. Vào tháng 6 năm 2021, Google đã giới thiệu mã hóa đầu cuối trong Messages theo mặc định bằng cách sử dụng Signal Protocol, cho tất cả các cuộc trò chuyện RCS dựa trên một đối một, cho tất cả các cuộc trò chuyện nhóm vào tháng 12 năm 2022 cho người dùng beta, và cho tất cả người dùng vào tháng 8 năm 2023. Bắt đầu với Samsung Galaxy S21, Messages thay thế ứng dụng Messages do Samsung phát triển làm ứng dụng nhắn tin mặc định cho One UI cho một số khu vực và nhà mạng. Vào tháng 4 năm 2021, ứng dụng bắt đầu nhận được các sửa đổi giao diện người dùng trên thiết bị Samsung để tuân theo các khía cạnh của One UI, bao gồm đẩy đầu danh sách tin nhắn về phía giữa màn hình để cải thiện công thái học. Vào tháng 2 năm 2023, Google bắt đầu thay thế các tham chiếu đến "tính năng trò chuyện" trong giao diện người dùng Messages bằng "RCS". Vào tháng 8 năm 2023, Google tuyên bố rằng Messages sẽ sử dụng RCS theo mặc định cho tất cả người dùng trừ khi họ chọn không tham gia, để cho phép họ hưởng lợi từ nhắn tin an toàn. Xem thêm Messages (Apple) iMessage Google Allo Google Chat Chú thích Liên kết ngoài Nhắn tin nhanh Dịch vụ Google Phần mềm Google Dịch vụ viễn thông Google Ứng dụng Web Phần mềm giao tiếp Phần mềm cho Android (hệ điều hành)
521
19832249
https://vi.wikipedia.org/wiki/GPT-4
GPT-4
Generative Pre-trained Transformer 4 (GPT-4) là một mô hình ngôn ngữ lớn đa phương thức được tạo bởi OpenAI, và là mô hình thứ tư trong loạt mô hình nền tảng GPT. Nó được phát hành lần đầu vào ngày 14 tháng 3 năm 2023, và đã được công khai thông qua sản phẩm chatbot trả phí ChatGPT Plus và thông qua API của OpenAI. Là một mô hình dựa trên biến đổi, GPT-4 sử dụng một phương thức mà trong đó việc huấn luyện trước sử dụng cả dữ liệu công khai và "dữ liệu được cấp phép từ các nhà cung cấp bên thứ ba" được sử dụng để dự đoán mã thông báo tiếp theo. Sau bước này, mô hình sau đó được tinh chỉnh với phản hồi học tăng cường từ con người và AI để phù hợp với con người và tuân thủ chính sách. Các nhà quan sát cho biết rằng phiên bản ChatGPT sử dụng GPT-4 là một cải tiến so với phiên bản trước dựa trên GPT-3.5, với điều kiện là GPT-4 vẫn giữ lại một số vấn đề của các phiên bản trước. GPT-4 cũng có khả năng nhận ảnh làm đầu vào, mặc dù tính năng này chưa được cung cấp kể từ khi ra mắt. OpenAI đã từ chối tiết lộ một số chi tiết kỹ thuật và thống kê về GPT-4, chẳng hạn như kích thước chính xác của mô hình. Chú thích Phần mềm năm 2023 OpenAI
249
19832263
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cu%E1%BB%99c%20%C4%91%E1%BB%9Di%20c%E1%BB%A7a%20Y%E1%BA%BFn
Cuộc đời của Yến
Cuộc đời của Yến là bộ phim điện ảnh Việt Nam phát hành năm 2016 do Đinh Tuấn Vũ đạo diễn, dựa trên kịch bản “Vàng – Đá” của biên kịch Hồ Hải Quỳnh. Bộ phim do Hãng phim truyện Việt Nam sản xuất theo đơn đặt hàng của nhà nước. Với các diễn viên Đỗ Thúy Hằng, Hoàng Lâm Tùng, Nguyễn Kim Anh, Lê Minh Hương, Phạm Thu Vân. Nội dung Bộ phim bắt đầu với bối cảnh thập niên 1940, nhân vật Yến là nạn nhân của tục tảo hôn; 10 tuổi, Yến đã được gả cho Hạnh, con trai của một nhà Nho trong làng. Dù làm dâu trong nhà có học thức nhưng Yến không được dạy chữ mà phải học lỏm từ người chồng kém cô 1 tuổi. Thời gian trôi qua, Yến và Hạnh có với nhau 3 mặt con, nhưng Hạnh lại bỏ đi nơi khác làm ăn để mặc Yến tự bươn trải. Cuối cùng, Yến đi tìm chồng thì biết anh ta đã có vợ khác như những gì xóm làng vẫn đồn đại. Diễn viên Đỗ Thúy Hằng vai Yến (trưởng thành) Hoàng Lâm Tùng vai Hạnh (trưởng thành) Nguyễn Kim Anh vai Yến (lúc nhỏ) Lê Minh Hương vai Lanh Phạm Thu Vân vai Vân Trần Tuấn Nghĩa vai Hạnh (thanh niên) Bùi Thủy Tiên vai Yến (thanh niên) Đặng Khánh Nam vai Hạnh (lúc nhỏ) Nguyễn Duy Khánh vai Tín (con trai thứ hai của Yến) Nguyễn Hoàng Vân Khánh vai Nghĩa (con gái út của Yến) Đào Hiền Thục Anh vai Oanh (chị gái của Yến, hồi nhỏ) Nguyễn Xuân Trường vai Ông đồ NSƯT An Chinh vai Bà đồ Lâm Visasy vai Hiếu Trần Việt Bắc vai Tính Trần Quang Lâm vai Chủ nhiệm Hợp tác xã Nguyễn Vũ Phúc vai Phúc Nguyễn Minh Hải vai Anh Điền Thân Thanh Giang vai Chị Điền Nguyễn Kiều Anh vai Loan Hoàng Xuân Huy vai Đại diện nhà trai Trịnh Xuân Thịnh vai Tốn Nguyễn Đức Quang vai Lý trưởng Hồ Sĩ Hoài vai Viên cai Trịnh Ngọc Anh vai Người đàn ông trong rừng Đỗ Thanh Xuân vai Xã viên 1 Nguyễn Hồng Anh vai Xã viên 2 Sản xuất Kịch bản của bộ phim có tên Vàng - Đá do Hồ Hải Quỳnh viết dựa theo cuộc đời của bà nội cô. Cuộc đời của Yến là bộ phim điện ảnh cuối cùng của Hãng phim truyện Việt Nam trước khi chuyển đổi thành công ty cổ phần, tính đến năm 2023, hãng vẫn chưa sản xuất thêm bộ phim điện ảnh nào khác. Âm nhạc Các ca khúc trong phim do Lê Cát Trọng Lý đảm nhận với hai ca khúc do cô sáng tác là Tám chữ Có và Đi qua bóng đêm. Các ca khúc trong phim do nhân vật Yến thể hiện, phần nhạc đệm do dàn nhạc 30 người, phối hợp nhạc cụ phương Tây và nhạc cụ dân tộc hòa âm. Phát hành Cuộc đời của Yến được chọn chiếu khai mạc tuần phim ở Hà Nội để chào mừng Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19 tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ phim cũng được chiếu miễn phí cho khán giả trong thời gian diễn ra Liên hoan phim. Sau đó, bộ phim được công chiếu trên các rạp từ ngày 8 tháng 1 năm 2016. Tháng 5 năm 2016, Cuộc đời của Yến cùng với phim Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Quyên, và Đảo của dân ngụ cư được đưa đi tham dự Tuần lễ phim Việt tại Tây Ban Nha. Tháng 10 năm 2017, bộ phim được trình chiếu tại sự kiện "Những ngày Phim Việt Nam tại Liên bang Nga”. Đón nhận Bộ phim Cuộc đời của Yến được chọn làm đại diện cho điện ảnh Việt Nam tham dự Liên hoan phim ASEAN lần thứ V diễn ra tại Cộng hòa Séc vào tháng 9 năm 2015. Năm bộ phim từ các nước ASEAN tham gia liên hoan phim lần này được xem là những tác phẩm điện ảnh tiêu biểu, phản ánh một cách chân thực và sinh động về đất nước và con người của mỗi quốc gia thành viên ASEAN. Đánh giá Đạo diễn Phi Tiến Sơn: Cuộc đời của Yến được làm theo cách quá cũ, việc xây dựng hình tượng người phụ nữ Việt Nam nhẫn nhịn, chịu đựng kiểu như Yến không còn hợp với thời đại ngày nay. Báo Tin tức - Thông tấn xã Việt Nam: Bộ phim thể hiện sự hy sinh âm thầm và sức mạnh vươn lên trong mọi nghịch cảnh của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, nhưng sâu thẳm trong tâm hồn họ vẫn luôn có những nỗi đau giấu kín và niềm khao khát cháy bỏng được yêu thương. Bộ phim cũng có rất nhiều cảnh quay đẹp, nên thơ, vô cùng thân thuộc của làng quê miền Bắc thời kỳ đó. Riêng phần âm nhạc của Lê Cát Trọng Lý cũng là một điểm nhấn cực kỳ thú vị... Báo Thanh Niên: Đạo diễn Đinh Tuấn Vũ trau chuốt cho từng chi tiết trong phim, không nhiều lời mà chỉ bằng ngôn ngữ điện ảnh kết hợp với nghệ thuật sử dụng ánh sáng trên mỗi khung hình. Bên cạnh đó cũng phải kể đến phần diễn xuất của nữ diễn viên Thúy Hằng trong vai Yến, cô đã thể hiện xuất sắc những cung bậc cảm xúc mà Yến phải trải qua, một tâm trạng luôn giằng xé, khốn khó và buồn tủi nhưng vẫn vươn lên mãnh liệt. Giọng ca thiên thần của Lê Cát Trọng Lý đã mang lại chất thơ cho phim. VTC7 - TodayTV: Tuy nhiên, cũng giống như Và anh sẽ trở lại - bộ phim trước của Đinh Tuấn Vũ, Cuộc đời của Yến còn mắc phải khuyết điểm chuyển cảnh chưa hợp lý và thiếu nhuần nhuyễn. Mạch phim ở đoạn giữa bỗng đột ngột tập trung hoàn toàn cho “ông giáo” Hạnh, khiến người xem cảm thấy có phần mất phương hướng về câu chuyện. Diễn xuất và thời lượng dành cho các giai đoạn tuổi chưa thực sự cân bằng, khiến phân đoạn thời thiếu niên yếu hơn hẳn so với hai giai đoạn còn lại. Cách giải quyết khúc mắc mà Đinh Tuấn Vũ lựa chọn cũng hơi đơn giản và diễn ra chóng vánh, khiến cuộc ngoại tình giữa “ông giáo” Hạnh và nhân vật Lanh không có được sức nặng để đối trọng với những gì cô Yến phải trải qua. Doanh thu Bộ phim không được tiết lộ kinh phí sản xuất, tính đến hết năm 2016, Cuộc đời của Yến thu về được 13 tỉ VNĐ. Giải thưởng Tháng 7 năm 2016, tại Liên hoan phim quốc tế Công chiếu lần đầu - Philippines 2016 (World Premieres Film Festival of Philippines 2016), Cuộc đời của Yến vượt qua bốn đề cử đến từ Pháp, Tây Ban Nha, Malaysia, Philippines để giành chiến thắng hạng mục Phim hay nhất. Liên kết ngoài Tham khảo Phim giành giải Bông sen bạc Phim năm 2015 Phim Việt Nam Phim tiếng Việt Phim của Hãng phim truyện Việt Nam Phim lấy bối cảnh ở Việt Nam Phim quay tại Việt Nam Phim giành giải Cánh diều bạc
1,214
19832267
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tim%20Rose%20%28di%E1%BB%85n%20vi%C3%AAn%29
Tim Rose (diễn viên)
Timothy D. Rose (sinh ngày 17 tháng 7 năm 1956) là một diễn viên và nghệ sĩ múa rối người Mỹ, nổi tiếng với vai Đô đốc Ackbar trong loạt phim Chiến tranh giữa các vì sao. Ngoài ra, ông còn nhận vai trò điều khiển nhân vật Salacious B. Crumb và nhân vật Jabba the Hutt trong Sự trở lại của Jedi. Tiểu sử Rose sinh ra tại Pittsfield, Illinois vào ngày 17 tháng 7 năm 1956. Sự nghiệp Rose được biết đến nhiều nhất với vai diễn Đô đốc Ackbar trong phần phim Chiến tranh giữa các vì sao thứ ba, Sự trở lại của Jedi, và tiếp tục thể hiện lại vai diễn này trong Star Wars: Thần lực thức tỉnh và Star Wars: Jedi cuối cùng. Ngoài ra, Rose còn điều khiển các nhân vật Sy Snootles và Salacious Crumb trong Sự trở lại của Jedi cũng như đồng thời tham gia vào các dự án khác của Lucasfilm và The Jim Henson Company, bao gồm The Dark Crystal và Howard the Duck. Ông cũng giúp điều khiển nhân vật Tik-Tok trong tác phẩm Return to Oz của Walt Disney Pictures. Rose cũng điều kiển rối Cosmo và Dibs cho loạt phim thiếu nhi You and Me của đài BBC. Họ ra mắt trong chương trình đó vào năm 1983. Anh ấy cũng làm trợ lý múa rối cho Gấu Barnaby trên Becky and Barnaby Bear. Danh sách phim Điện ảnh Truyền hình Tham khảo Liên kết ngoài Sinh 1956 Nhân vật còn sống Nam diễn viên Mỹ
251
19832273
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20cao%20t%E1%BB%91c%20Gia%20Ngh%C4%A9a%20%E2%80%93%20Ch%C6%A1n%20Th%C3%A0nh
Đường cao tốc Gia Nghĩa – Chơn Thành
Đường cao tốc Gia Nghĩa – Chơn Thành (ký hiệu toàn tuyến là CT.02) là một đoạn đường cao tốc thuộc hệ thống đường cao tốc Bắc – Nam phía Tây có tổng chiều dài là 128,8 km, trong đó, đoạn qua Đắk Nông dài 27,8 km và đoạn qua Bình Phước dài 101 km. Điểm đầu tuyến đường giao với đường cao tốc Buôn Ma Thuột – Gia Nghĩa thuộc thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông và điểm cuối giao với đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Thủ Dầu Một – Chơn Thành và nối với đường cao tốc Chơn Thành – Đức Hòa tại thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Thông số kỹ thuật Tuyến đường có quy mô đầu tư 4 làn xe hoàn chỉnh, chiều rộng nền đường 24,75m, vận tốc thiết kế từ 100 – 120 km/h. Thực hiện giải phóng mặt bằng một lần theo quy mô quy hoạch được duyệt (quy mô 6 làn xe, chiều rộng nền đường 32,25 m). Xây dựng Hiện dự án đang được thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi do liên danh Vingroup – Techcombank chủ trì, dự kiến sẽ trình Quốc hội về chủ trương đầu tư dự án tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV. Dự án có tổng mức đầu tư khoảng 25.540 tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước tham gia dự án khoảng 12.770 tỷ đồng. Dự kiến sẽ thông qua chủ trương đầu tư dự án vào tháng 11 năm 2023, hoàn thành lập dự án vào tháng 3 năm 2024, phê duyệt dự án vào tháng 6 năm 2024, thi công từ tháng 10 năm 2024 đến hết năm 2026, đưa vào vận hành khai thác từ tháng 1 năm 2027. Tham khảo Đường Hồ Chí Minh Đường cao tốc Bắc – Nam phía Tây Đường cao tốc Bắc – Nam Việt Nam Giao thông Đắk Nông Giao thông Bình Phước
322
19832303
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pinewood%20Studios
Pinewood Studios
Pinewood Studios là một hãng phim và truyền hình của Anh tọa lạc tại làng Iver Heath, Anh., cách trung tâm Luân Đôn khoảng 29 km về phía tây. Hãng phim là cơ sở cho nhiều tác phẩm điện ảnh quy mô lớn, các chương trình truyền hình và video quảng cáo, trong đó có hai thương hiệu phim James Bond và Carry On. Lịch sử Thập niên 1930: Thành lập hãng phim Pinewood Studios được xây dựng trên khu đất của Heatherden Hall, một ngôi nhà nông thôn theo phong cách Victoria đã được Trung tá Grant Morden (1880–1932) – một nhà tài chính người Canada – mua lại. Ông đã bổ sung thêm các tiện nghi như phòng khiêu vũ, phòng tắm kiểu Thổ Nhĩ Kỳ và sân bóng quần trong nhà. Do nằm tách biệt nên nơi này được sử dụng làm nơi gặp gỡ kín đáo của các chính trị gia và nhà ngoại giao cấp cao; thỏa thuận thành lập Hiệp ước Anh-Ireland đã được ký kết ở đó. Năm 1934, trùm bất động sản Charles Boot (1874–1945) đã mua lại mảnh đất và biến nó thành một câu lạc bộ ở vùng quê. Phòng khiêu vũ được chuyển đổi thành nhà hàng và nhiều phòng ngủ trở thành dãy phòng được trang bị đầy đủ tiện nghi. Năm 1935, triệu phú bột mì J. Arthur Rank (1888–1972) hợp tác với Boot và biến khu đất này thành một xưởng phim. Boot sử dụng các thiết kế cho khu phức hợp trường quay dựa trên những ý tưởng mới nhất đang được các hãng phim ở Hollywood và California sử dụng. Boot đặt tên cho xưởng phim mới là Pinewood vì "lượng cây cối ở đó và vì [cái tên] như gợi nhớ về vùng trung tâm điện ảnh Hoa Kỳ ở trong âm tiết thứ hai". Quá trình xây dựng bắt đầu vào tháng 12 năm đó, mỗi trường quay được hoàn thành trong ba tuần. Các xưởng phim được hoàn thành 9 tháng sau đó với chi phí 1 triệu GBP (khoảng 72,3 triệu GBP theo giá năm 2019). Năm trường quay đầu tiên được hoàn thành cùng với một bể chứa nước kín có khả năng chứa 295,5 l), bể này vẫn đang được sử dụng. Trong những năm sau đó, ông cũng đảm nhận công việc tiếp theo ở cả Pinewood Film Studios lẫn Denham Film Studios, cả hai hãng này sau đó đều được nhập vào The Rank Organisation, một tập đoàn giải trí do Rank thành lập năm 1937. Ngày 30 tháng 9 năm 1936, khu phức hợp xưởng phim được chính thức khai trương bởi Tiến sĩ Leslie Burgin, Thư ký Nghị viện của Ban Thương mại. Đạo diễn phim phim điện ảnh đầu tiên sử dụng cơ sở vật chất của hãng phim là Herbert Wilcox, với tác phẩm London Melody (1937), với sự tham gia của Anna Neagle (vợ ông), một phần của bộ phim đã được ghi hình tại British and Dominions Imperial Studios ở Elstree, trước khi một trận hỏa hoạn đã khiến quá trình sản xuất phải tạm ngưng. Bộ phim đầu tiên được thực hiện hoàn toàn tại Pinewood là Talk of the Devil (1936) do Carol Reed đạo diễn. Sau đó là một thời kỳ sung mãn của Pinewood và lịch sử điện ảnh Anh, Pinewood theo sau các hãng phim áp dụng "hệ thống đơn vị", một thông lệ của ngành công nghiệp Mỹ. Kỹ thuật này cho phép quay nhiều bức hình cùng một lúc và cuối cùng, Pinewood đã đạt được sản lượng cao nhất so với bất kỳ hãng phim nào trên thế giới. Thập niên 1940–1950: Gây dựng danh tiếng Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Pinewood được trưng dụng bởi Đơn vị Điện ảnh Crown, Đơn vị Quay phim và Chụp ảnh Quân đội số 5, Đơn vị Sản xuất Phim của Lực lượng Không quân Hoàng gia và Đơn vị Điện ảnh của Không quân Ba Lan. Crown Film Unit đã hoàn thành nhiều phim tài liệu thời chiến kinh điển. Desert Victory của Roy Boulting, Fires Were Started và Coastal Command của Humphrey Jennings và Western Approaches của Pat Jackson (đều phát hành năm 1943) đều được quay đây trong khoảng thời gian này. Ngoài việc được các lực lượng vũ trang sử dụng, Royal Mint và Lloyd's of London đã được lắp đặt trên các khu vực âm thanh tại Pinewood và mở cửa kinh doanh trong suốt thời chiến. The Company of Youth, trường diễn xuất của The Rank Organisation, cái nôi sản sinh ra một số sự nghiệp điện ảnh có tiếng, được thành lập vào năm 1945. Năm tiếp theo, Pinewood mở cửa trở lại để kinh doanh. Hai bộ phim quan trọng được sản xuất tại Pinewood được phát hành cách nhau hai tháng vào năm 1948 là Oliver Twist do David Lean đạo diễn và The Red Shoes của Powell và Pressburger. Do thiếu vốn do bội chi tài chính vào năm trước đó, The Rank Organisation không có đủ tiền để quảng bá cho The Red Shoes ở Mỹ trong thời gian đầu, dù vậy tác phẩm đã trở thành bộ phim có doanh thu lớn nhất của The Rank Organisation với hơn 1 triệu GBP vào năm 1951 (tương đương 28,9 triệu GBP vào năm 2019). Cùng năm đó, John Davis được bổ nhiệm làm giám đốc điều hành. Năm kế đó, Rank đã thấu chi 16 triệu GBP (tương đương 506 triệu GBP vào năm 2019) và báo lỗ 3,5 triệu GBP, chủ yếu là do những phim ngân sách lớn gặp thất bại. Một trong những dự án lớn nhất trong số này là Caesar and Cleopatra (1945), ban đầu có kinh phí 250.000 GBP, nhưng cuối cùng lại tốn tới 1,28 triệu GBP (tương đương 49,8 triệu GBP vào năm 2019). Tất cả các phim thuộc loạt phim Doctor do Betty Box sản xuất và Ralph Thomas đạo diễn, bắt đầu với Doctor in the House (1954) – bộ phim thành công nhất tại phòng vé năm đó ở Vương quốc Anh – và kéo dài đến năm 1970, đều được quay tại Pinewood. Thương hiệu Carry On bắt đầu vào năm 1958, do Peter Rogers (người đã kết hôn với Box) thay mặt The Rank Organisation sản xuất và Gerald Thomas (anh trai của Ralph) đạo diễn. Loạt phim hài của Norman Wisdom, trong đó tác phẩm cuối cùng được phát hành vào năm 1966, cũng được quay tại hãng. Vào những năm 1960, Pinewood không còn phụ thuộc hoàn toàn vào The Rank Organisation để lấp đầy các xưởng phim nữa. "Renters" (nhà sản xuất thuê xưởng âm thanh theo thỏa thuận cho từng phim) sử dụng một nửa số xưởng phim. Thương hiệu James Bond bắt đầu tại Pinewood với bộ phim Dr. No (1962) do Terence Young đạo diễn, và tiếp tục đặt cở sở tại hãng phim kể từ đó. J. Arthur Rank (lúc đó là Lord Rank) thôi giữ chức chủ tịch vào năm 1962 và được kế nhiệm bởi John Davis. Davis đã chuyển đổi The Rank Organisation từ một tổ chức chuyên sản xuất phim đại chúng hướng sang các hoạt động kinh doanh có lợi nhuận cao hơn và ít rủi ro hơn. Tới thập niên 1970, Pinewood được sử dụng nhiều hơn cho các chương trình truyền hình, trong đó có UFO (1970), The Persuaders! (1971) và Space: 1999 (1975–1977) của ITC Entertainment. Trong thập niên 1980, Pinewood Studios là nơi sản xuất ra bốn phim điện ảnh James Bond gồm For Your Eyes Only; Octopussy; A View to a Kill và The Living Daylights, cùng với một số sản phẩm kinh phí lớn khác như Aliens, Krull và Batman của Tim Burton. Thập niên 1990–nay: Những tác phẩm gây tiếng vang Những năm 1990 chứng kiến những sản phẩm quy mô lớn được sản xuất, như Alien 3, Batman Returns của Tim Burton và ba phim điện ảnh Bond gồm GoldenEye, Tomorrow Never Dies and The World Is Not Enough được sản xuất tại xưởng phim giúp Pinewood tiếp tục duy trì hoạt động. Video âm nhạc của đĩa đơn đầu tiên "Swear It Again" của ban nhạc pop người Ireland Westlife, được quay tại trường quay vào năm 1999. The Rank Group sở hữu hãng phim cho đến năm 2001, khi công ty này bán lại Pinewood cho một tập đoàn do Michael Grade và Ivan Dunleavy lãnh đạo. Thương vụ mua lại Shepperton Studios từ một tập đoàn do Ridley và Tony Scott đứng đầu đã tạo ra Tập đoàn Pinewood Group, là sự sáp nhập của Pinewood Studios, Shepperton Studios, Teddington Studios, Pinewood Toronto Studios, Pinewood Indomina Studios, Pinewood Studio Berlin, Pinewood Iskandar Malaysia Studios, và một liên doanh ở Mỹ với Pinewood Atlanta Studios. Năm 2009, Pinewood và Shepperton nhận được Giải BAFTA cho Đóng góp xuất sắc của người Anh cho điện ảnh. Tham khảo Đọc thêm Liên kết ngoài Pinewood Studios Project Pinewood Hãng phim Vương quốc Liên hiệp Anh Công ty sản xuất phim Vương quốc Liên hiệp Anh Công trình xây dựng Buckinghamshire Công ty sản xuất truyền hình Vương quốc Liên hiệp Anh Khởi đầu năm 1936 ở Anh
1,541
19832311
https://vi.wikipedia.org/wiki/Google%20B%E1%BA%A3n%20v%E1%BA%BD
Google Bản vẽ
Google Drawings là một phần mềm tạo sơ đồ được tích hợp trong bộ Google Docs Editors miễn phí do Google cung cấp. Dịch vụ này cũng bao gồm Google Docs, Google Sheets, Google Slides, Google Forms, Google Sites, và Google Keep. Google Drawings có sẵn dưới dạng ứng dụng web và ứng dụng dành cho máy tính trên ChromeOS của Google. Google Drawings cho phép nhập ảnh từ máy tính hoặc từ Web cũng như chèn các hình dạng, mũi tên, hình vẽ nguệch ngoạc và văn bản từ các mẫu được xác định trước. Các đối tượng có thể được di chuyển, thay đổi kích thước và xoay. Phần mềm cũng cho phép chỉnh sửa ảnh cơ bản, bao gồm cắt, áp dụng mặt nạ và thêm đường viền. Không giống như nhiều phần mềm khác trong bộ Google Docs Editors, Google Drawings không có trang chủ riêng. Bản vẽ có thể được chèn vào các tài liệu, bảng tính hoặc bản trình bày Google khác. Chúng cũng có thể được xuất bản trực tuyến dưới dạng hình ảnh hoặc tải xuống ở các định dạng tiêu chuẩn như JPEG, SVG, PNG và PDF. Lịch sử Google Drawings được giới thiệu lần đầu tiên vào ngày 12 tháng 4 năm 2010, với tên gọi Google Docs Drawings. Vào ngày 1 tháng 8 năm 2011, Google thông báo rằng người dùng sẽ có thể sao chép và dán các yếu tố đồ họa giữa các bản vẽ Google Drawings khác nhau. Vào ngày 7 tháng 1 năm 2019, Google đã thêm tính năng nhúng tệp Google Drawings vào Google Docs. Chú thích Phần mềm Google Drawings Ứng dụng đám mây Drawings
274
19832313
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BB%A8ng%20d%E1%BB%A5ng%20Google%20Chrome
Ứng dụng Google Chrome
Ứng dụng Google Chrome, hay thường được gọi là Ứng dụng Chrome, là một loại ứng dụng web không chuẩn hóa nhất định chạy trên trình duyệt web Google Chrome. Ứng dụng Chrome có thể được tải xuống từ Chrome Web Store cùng với nhiều ứng dụng, tiện ích mở rộng và chủ đề miễn phí và trả phí khác nhau. Các ứng dụng có hai loại: được lưu trữ, hoặc phía máy chủ và được đóng gói, hoặc phía máy khách; mỗi định dạng nhắm mục tiêu đến các trường hợp sử dụng khác nhau. Hỗ trợ cho ứng dụng Chrome đã bị xóa khỏi Chrome vào tháng 6 năm 2022, ngoại trừ trên ChromeOS, nơi hỗ trợ đã được gia hạn đến ít nhất là tháng 1 năm 2025. Lịch sử Vào ngày 19 tháng 8 năm 2016, Google thông báo rằng họ sẽ bắt đầu loại bỏ dần ứng dụng Chrome cho Windows, MacOS và Linux (cả đóng gói và được lưu trữ) vào cuối năm 2016, hoàn tất quá trình vào đầu năm 2018. Công ty cho biết các ứng dụng như vậy sẽ tiếp tục được hỗ trợ và duy trì trên ChromeOS "trong tương lai gần". Nhưng sau đó kế hoạch đã thay đổi, với ứng dụng Chrome được thiết lập để tồn tại đến ít nhất là tháng 1 năm 2025 cho ChromeOS. Vào ngày 15 tháng 1 năm 2020, Google thông báo rằng Chrome sẽ bắt đầu loại bỏ hoàn toàn hỗ trợ cho ứng dụng Chrome bắt đầu từ tháng 3 năm 2020, với hỗ trợ cho người tiêu dùng đến tháng 6 năm 2021 và doanh nghiệp đến tháng 6 năm 2022. Chú thích Liên kết ngoài What Are Chrome Apps? Tiện ích phần mềm Google Chrome Ứng dụng Google Chrome
295
19832320
https://vi.wikipedia.org/wiki/Doanh%20nghi%E1%BB%87p%20t%E1%BA%A1i%20Li%C3%AAn%20X%C3%B4
Doanh nghiệp tại Liên Xô
Doanh nghiệp tại Liên Xô là các thực thể pháp lý tham gia vào một số hoạt động kinh tế, bao gồm sản xuất, phân phối, dự phòng dịch vụ hay bất cứ sự nghiệp vận hành kinh tế nào khác. Khái niệm xí nghiệp nói chung là tương đương với thuật ngữ "công ty", vốn chỉ đến thực thể pháp lý chủ yếu nằm bên ngoài khối các nền kinh tế phía Đông. Các xí nghiệp và đơn vị sản xuất tham gia vào các hoạt động vốn được đảm nhiệm chung bởi các doanh nghiệp trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, bao gồm việc thiết kế, sản xuất, chế tạo và phân phối từ nhà sản xuất cũng như các hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng. Một xí nghiệp thường bao gồm nhiều đơn vị sản xuất. Thậm chí từng tồn tại liên hiệp các đơn vị sản xuất tập thể được gọi là "tổ hợp sản xuất" và "tổ hợp nghiên cứu khoa học ứng dụng", được tổ chức xung quanh việc sản xuất và phân phối một lĩnh vực ngành nghề hoặc sản phẩm độc lập. Một ví dụ về liên hiệp sản xuất đó là Tổ hợp Sản xuất Máy bay Kazan. Các dạng xí nghiệp Các doanh nghiệp được phân loại thành 3 nhóm chính, according to the major forms of property in the Liên Xô: Dựa trên tài sản của công dân Liên Xô Hộ kinh doanh cá thể Doanh nghiệp hộ gia đình Dựa trên tài sản sở hữu tập thể XN Hợp tác xã Consumer cooperatives Production cooperatives Various incorporated businesses: partnerships, joint-stock companies, v.v... Doanh nghiệp của các tổ chức công (общественные) hoặc tôn giáo (религиозные) Dựa trên tài sản nhà nước Xí nghiệp nhà nước liên bang Xí nghiệp nhà nước cộng hòa Xí nghiệp nhà nước ở cấp xã Ngoài ra còn có những hình thức khác như: Xí nghiệp hỗn hợp (смешанные предприятия) Xí nghiệp cho thuê (арендные предприятия) v.v... Xem thêm Kinh tế Liên Xô Collective ownership Soviet-type economic planning Doanh nghiệp nhà nước Material Product System Kinh tế kế hoạch hóa Chủ nghĩa tư bản nhà nước Tham khảo Kinh tế Liên Xô en:Enterprises in the Soviet Union
368
19832338
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20cao%20t%E1%BB%91c%20Nha%20Trang%20%E2%80%93%20%C4%90%C3%A0%20L%E1%BA%A1t
Đường cao tốc Nha Trang – Đà Lạt
Đường cao tốc Nha Trang – Đà Lạt (ký hiệu toàn tuyến là CT.25) là tuyến đường cao tốc đường bộ thuộc khu vực duyên hải Nam Trung Bộ với tổng chiều dài 103 km, đi qua địa bàn hai tỉnh Khánh Hoà và Lâm Đồng. Điểm đầu dự án nối với đường cao tốc Nha Trang – Cam Lâm tại huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hoà; điểm cuối nối đường cao tốc Dầu Giây – Liên Khương tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Sau khi hoàn thành, cao tốc sẽ rút ngắn thời gian di chuyển từ Khánh Hòa lên Đà Lạt, đồng thời giải quyết tình trạng quá tải và giảm nguy cơ tai nạn khi đi qua quốc lộ 27C hiện tại. Thông số kỹ thuật Theo đề xuất của Công ty TNHH Tập đoàn Sơn Hải với UBND tỉnh Khánh Hoà, cao tốc có 4 làn xe, rộng 17 m và có làn dừng khẩn cấp, tốc độ 80 – 100 km/h. Tổng diện tích đất chiếm dụng là hơn 1.000 ha; khoảng 116 hộ bị ảnh hưởng và 100 hộ cần tái định cư. Thông tin xây dựng Dự án được đầu tư theo hình thức PPP – hợp đồng BOT, có sự hỗ trợ của nhà nước. Tổng mức đầu tư giai đoạn phân kỳ gần 27.500 tỷ đồng; giai đoạn hoàn thiện hơn 36.000 tỷ đồng; thời gian thực hiện từ 2025 – 2028 (Sớm hơn so với quy hoạch là thực hiện sau năm 2030). Tham khảo Đường cao tốc Việt Nam Giao thông Khánh Hòa Giao thông Lâm Đồng
265
19832343
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%BAi%20N%E1%BB%95i
Núi Nổi
Núi Nổi là ngọn núi nhỏ nằm ở ấp Tân Phú A, xã Tân Thạnh, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang. Tại núi có chùa Phù Sơn là cơ sở thờ phụng văn hóa tâm linh nổi tiếng của vùng Tân Châu. Các nhà khảo cổ cũng phát hiện ngọn núi có di chỉ khảo cổ thời kỳ Tiền Óc Eo. Mô tả Đây là một núi sót nằm đơn độc giữa vùng bằng phẳng rộng lớn kẹp giữa sông Tiền và sông Hậu, cách nội ô thị xã Tân Châu 9 km về hướng tây bắc. Núi Nổi cao chỉ có 10 m, cấu tạo gồm đá, đất, chu vi khoảng 320 m. Diện tích núi chỉ khoảng 5.000 m2. Núi Nổi được xem là một trong những ngọn núi nhỏ nhất và thấp nhất đồng bằng sông Cửu Long. Đường dẫn vào núi Nổi là con đường đắp rộng 5 m, núi nằm ở cuối đường. Khu vực núi có trồng nhiều cây gỗ sao, chúng được trồng vào năm 1885. Trước năm 1975, xung quanh núi trồng rất nhiều tre, sau đó thì bị đốn dẹp để trồng lúa. Tên núi Nổi có thể bắt nguồn từ việc vị trí này không bị ngập trong các mùa lũ, luôn nổi bật giữa đồng nước mênh mông. Theo truyện xưa ở địa phương, từ thuở sơ khai vùng này là biển cả mênh mông, có một chiếc thuyền buôn đi ngang vùng biển này va phải đá ngầm nên chìm xuống, theo thời gian biến đổi, biển cả không còn, chỗ thuyền chìm đã nổi lên một ngọn núi. Chùa Phù Sơn Trên núi có một ngôi chùa được gọi là chùa Núi Nổi hay chùa Phù Sơn Tự. Ngôi chùa được xây vào năm 1938. Chùa là cơ sở của các lực lượng cách mạng trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Trước khi chùa được lập, ban đầu chỉ có một am lá là nơi ở và tu hành của một ông già tóc bạc phơ. Về sau, ông rời khỏi đây dân địa phương không rõ tung tích. Họ dựng lại am và thờ Sơn Thần. Đây là ngôi chùa hiếm hoi ở Tây Nam Bộ có thờ sơn thần bên cạnh cơ sở Phật giáo. Lễ vía Sơn Thần vào ngày 10 tháng 8 Âm lịch hằng năm. Vào năm 2001, UBND Tỉnh An Giang công nhận chùa núi Nổi là di tích lịch sử - cách mạng cấp Tỉnh. Vào tháng 6 năm 2018, chùa được mở rộng với tổng diện tích 30.000 m2, các công trình tu bổ và xây thêm gồm có Chánh điện, nhà Tổ, nhà Tăng, nhà Ni, tượng Quan âm cao 22 m, Phật Di đà cao 42 m, cổng Tam quan với tổng kinh phí trên 30 tỷ VND. Hằng năm, hàng nghìn lượt khách du lịch đến viếng thăm chùa. Chú thích Liên kết ngoài Vị trí chùa Núi Nổi, Google Map Núi tại An Giang Phật giáo Di tích tại An Giang Địa điểm khảo cổ
500
19832365
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mari%20Rika
Mari Rika
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti C-more Entertainment. Sự nghiệp・Đời tư Cô sinh ra tại tỉnh Chiba. Tháng 3/2014, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm với tư cách là nữ diễn viên độc quyền của hãng phim S1 với hình tượng là một nữ diễn viên kiểu loli shortcut, và thường diễn các vai nữ sinh trung học và người em gái. Các công ti chủ quản của cô lần lượt là Lotus Group, Funstar Promotion, CLAP, và sau đó là C-more Entertainment. Sở thích của cô là chơi các trò RPG và đọc sách, còn kĩ năng đặc biệt của cô là nấu ăn. Lần đầu cô quan hệ tình dục là vào năm 19 tuổi, với một người tự giới thiệu là thành viên ban nhạc. Tên diễn đầu tiên của cô là . Sau đó, vào năm 2015 cô đã đổi tên diễn thành (ngày 1/4), (ngày 9/6) rồi đổi thành Mari Rika vào tháng 1/2016. 3/9/2019, cô thông báo trên Twitter rằng sẽ dừng các hoạt động phim khiêu dâm sau các buổi quay vào tháng 10/2019. Mặc dù cô đã tạm ngưng các hoạt động phim khiêu dâm vào ngày 31/1/2020, cô tiếp tục thuộc về công ti C-more Entertainment. 25/12/2020, cô thông báo sẽ tiếp tục các hoạt động phim khiêu dâm vào năm 2021. Vào cùng ngày, tài khoản Twitter chính thức của Honnaka thông báo cô sẽ trở lại ngành với tư cách là nữ diễn viên độc quyền của hãng này bắt đầu từ phim phát hành ngày 25/1/2021. 14/9/2021, cô đã thông báo nghỉ việc trên Twitter. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1993 Nhân vật còn sống Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản Nữ diễn viên S1
292
19832366
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kurata%20Mao
Kurata Mao
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô sinh ra tại tỉnh Akita và thuộc về công ti Newgate. Sự nghiệp Tháng 8/2012, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm từ hãng S1. Khi được hỏi về lí do vào ngành, cô đã trả lời rằng "Ngay cả khi tôi cố gắng nhớ lại, tôi không nhớ điều gì đã đưa tôi vào ngành". Sở thích của cô là nhảy múa. Kĩ năng đặc biệt của cô là trượt băng nghệ thuật. Cô là thành viên nhóm Vanilla Girls của CS SKY PerfecTV! 958ch Vanilla Sky Channel. 22/5/2023, phim của cô "BAZOOKA khuyến mãi lớn phim hay với ngực lớn và gay cấn nhất bản giới hạn không cắt của mùa đông dành cho người hâm mộ dài 2749 phút" (BAZOOKA 冬の大感謝セール コスパ最強ノーカットベスト爆乳限定2749分) (BAZOOKA) đã xếp thứ nhất trên bảng xếp hạng sàn video FANZA hàng tuần. Đời tư Mục tiêu của cô là "cống hiến hết mình và luôn tạo ra những tác phẩm hoàn hảo". Hình tượng nữ diễn viên lí tưởng của cô là "không thực sự tuyệt vời và nổi bật, nhưng sẽ làm mọi người hài lòng khi mua phim của mình" và là "một nữ diễn viên có chất lượng ổn định và vững vàng". Nhà văn phim khiêu dâm Honsue Hisao đã miêu tả cô là "Cô ấy có thể tấn công từ từ tốt, và nếu bạn để cô ấy diễn vai người dâm đãng nhẹ nhàng thì thật tuyệt" và "Sự sảng khoái khi cô kích dục bằng tay có thể được cảm nhận qua màn hình". Tham khảo Liên kết ngoài 倉多まおのmaomaoblog (maomaoblog của Kurata Mao) - Blog chính thức (8/8/2012 - ) Sinh năm 1994 Nhân vật còn sống Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản Nữ diễn viên MOODYZ Nữ diễn viên OPPAI Nữ diễn viên S1
302
19832367
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amakawa%20Sora
Amakawa Sora
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô từng thuộc về công ti FortyFour Management. Hiện công ti chủ quản của cô là Arrows. Sự nghiệp Tháng 11/2019, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm với tư cách là nữ diễn viên độc quyền của S1. 4/5/2020, cô thông báo trên trang Twitter chính thức rằng cô đã trở thành nữ diễn viên độc quyền của FALENO, hãng chuyên phân phối phim khiêu dâm. Tháng 7/2022, cô đồng sáng lập chiến dịch xin chữ kí "Hãy làm 'Luật phim khiêu dâm mới' sao cho nữ diễn viên, nam diễn viên và các nhân viên dễ làm việc hơn" để kêu gọi xem xét lại Luật ngăn ngừa và giảm thiệt hại từ ngành phim khiêu dâm. Sau tháng 8/2021, cô đã không đóng thêm phim khiêu dâm nào và đã tập trung vào các hoạt động tarento và người mẫu, tuy nhiên vào tháng 8/2022 cô thông báo sẽ trở lại làm nữ diễn viên tự do. Các phim của cô sẽ lần lượt được phát hành từ tháng 9. Năm 2022, cô cùng Hirose Narumi, Sakura Moko và Nanase Alice tham gia dự án truyền thông "Meta Girls" quảng cáo cho tài sản tiền mã hóa và metaverse. Sự kiện đầu tiên của dự án được tổ chức vào ngày 18/1/2023. Tháng 5/2023, cô xếp thứ 1 trong bảng xếp hạng nữ diễn viên khiêu dâm hàng tháng trên sàn cho thuê FANZA. Đời tư Cô sinh ra tại Tokyo. Cô từng đam mê chơi bóng chuyền khi còn là học sinh. Sở thích của cô là mua sắm và nấu ăn, và kĩ năng đặc biệt của cô là có cơ thể dẻo dai. Cô bắt đầu thủ dâm khi còn học cấp hai, từ sự tò mò khi bắt đầu được học về giáo dục giới tính. Cô lần đầu quan hệ tình dục khi học trung học với bạn trai đầu của cô. Bạn trai đầu của cô là một người không nề hà mà có thể quan hệ 13 lần 1 ngày, và đó đã trở thành tiêu chuẩn của cô nên khi cô hẹn hò với bạn trai tiếp theo, cô đã khắt khe đến mức bị bạn trai "muốn cô giải tỏa ham muốn ở nơi khác". Số người cô đã quan hệ tình dục trước khi vào ngành là 2. Lí do cô trở thành nữ diễn viên khiêu dâm là vì cô ngưỡng mộ những nữ diễn viên khiêu dâm đáng yêu và thích quan hệ tình dục. Cô sau đó đã tweet rằng cô vào ngành để tìm kiếm sự cứu rỗi vì cô đã lớn lên với một người mẹ cuồng tín và đã lấy tiền học phí, đồ ăn và thậm chí bán cả đất nhà cô. Nam diễn viên Shibue Jōji đã miêu tả rằng vòng eo của cô không chỉ thon gọn mà còn có thể cong 90 độ. Cô có đôi chân dài và được khen ngợi với tư thế spider cowgirl (tư thế 90 độ kiểu nhện) khi quan hệ của mình. Tham khảo Liên kết ngoài - Tài khoản phụ 天川そら(@amakawa_sora_official) - Instagram Sinh năm 1998 Nhân vật còn sống Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản Nữ diễn viên S1 Nữ diễn viên FALENO
541
19832377
https://vi.wikipedia.org/wiki/City%20Building
City Building
City Building là dòng game xây dựng thành phố lịch sử do các hãng Impressions Games, BreakAway Games, Tilted Mill Entertainment (sau sự chuyển nhượng của Impressions) phát triển và được Sierra Entertainment phát hành. Sê-ri này khởi đầu vào năm 1992 với Caesar, lấy bối cảnh Đế quốc La Mã và bao gồm 12 phần cho đến nay, bao gồm cả các bản mở rộng. Trong dòng game City Building người chơi được giao trách nhiệm cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người dân trong thị trấn của họ, đảm bảo tỷ lệ tội phạm ở mức thấp và giảm nguy cơ dịch bệnh, hỏa hoạn và sụp đổ tòa nhà. Người chơi cũng phải đạt được sự cân bằng giữa nhập khẩu, xuất khẩu và thuế để giữ cho thị trấn của họ vững mạnh về mặt tài chính. Người chơi cũng chịu trách nhiệm bảo vệ thị trấn của mình khỏi sự xâm lược bằng cách xây dựng quân đội. Dòng game này bao gồm bốn nền văn minh cổ đại: La Mã, Ai Cập, Hy Lạp và Trung Quốc. Các tựa game được phát hành cho đến năm 2004 đều sử dụng cùng một game engine có góc nhìn 2D, mặc dù được tinh chỉnh và sửa đổi dần dần theo chủ đề của trò chơi. Các tựa game tiếp theo sử dụng engine đồ họa 3D. Trò chơi Dòng game này bao gồm: Lấy bối cảnh Đế quốc La Mã: Caesar (1992) Caesar II (1995) Caesar III (1998) Caesar IV (2006) Lấy bối cảnh Ai Cập cổ đại: Pharaoh (1999) Bản mở rộng Cleopatra: Queen of the Nile (2000) Bản làm lại Pharaoh: A New Era (2023) Immortal Cities: Children of the Nile (2004) Bản mở rộng Children of the Nile: Alexandria (2008) Lấy bối cảnh Hy Lạp cổ đại: Zeus: Master of Olympus (2000) Bản mở rộng Poseidon: Master of Atlantis (2001) Lấy bối cảnh Trung Quốc cổ đại: Emperor: Rise of the Middle Kingdom (2002) Lấy bối cảnh Trung Cổ: Medieval Mayor (TBA) Medieval Mayor Medieval Mayor là tựa game xây dựng thành phố được hãng Tilted Mill Entertainment công bố lấy bối cảnh thời Trung Cổ dành cho PC và máy tính bảng. Không giống như hai tựa game cũ của Tilted Mill Entertainment là Immortal Cities: Children of the Nile và Caesar IV, trò chơi này không dùng đến engine 3D mà quay trở lại engine 2D, vì Tilted Mill cho rằng "2D hoạt động tốt hơn về mặt khả năng của người chơi." để biết nhanh chuyện gì đang xảy ra". Người đi bộ một lần nữa sẽ bị giới hạn bởi các rào chắn thay vì hệ thống người đi bộ giả hoặc dựa trên bán kính gần đây hơn, và người chơi sẽ tập trung nhiều hơn vào việc xây dựng một vài thành phố lên tầm cao hơn là khởi động lại một thành phố mới sau mỗi nhiệm vụ. Không có mục chơi nối mạng nhưng Tilted Mill đang lên kế hoạch tích hợp với mạng xã hội. Kể từ tháng 10 năm 2013, Medieval Mayor đã bị gián đoạn do những thách thức về kinh phí và các cam kết dự án khác. Trong các cuộc phỏng vấn sau đó, Chris Beatrice đều bày tỏ cả mong muốn tiếp tục làm game và sự thận trọng trong việc bắt đầu quá trình phát triển trò chơi này. Tham khảo Liên kết ngoài Trang chủ Medieval Mayor Top 25 Most Underrated Games of All Time từ GameSpy (#25) được đăng trên rome.ro Thương hiệu của Activision Blizzard Thương hiệu trò chơi điện tử giới thiệu năm 1992
585
19832389
https://vi.wikipedia.org/wiki/Juan%20de%20Berm%C3%BAdez
Juan de Bermúdez
Juan de Bermúdez (; ; qua đời 1570) là một nhà hàng hải người Tây Ban Nha ở thế kỷ XV và XVI, sinh ra ở thị trấn Palos de la Frontera, Tỉnh Huelva, Vương quyền Castilla. Sự nổi tiếng của ông chủ yếu là do việc ông phát hiện ra Quần đảo Bermuda, nơi được đặt tên để vinh danh ông. Ngày sinh của ông không rõ, nhưng người ta biết rằng ông qua đời vào năm 1570. Chuyến đi Năm 1505, khi đang chèo thuyền quay trở lại Tây Ban Nha sau chuyến hành trình cung cấp thực phẩm đến Hispaniola trên con tàu La Garça (hay Garza), ông đã phát hiện ra Bermuda (được nhiều tác giả khác nhau mô tả trong lịch sử là la Bermuda (Peter Martyr d'Anghiera trên bản đồ năm 1511 của ông), Barmvdas hoặc Bermudas (Sylvester Jordain trong A DISCOVERY OF THE BARMVDAS, KHÁC BIỆT được gọi là Ile of DIVELS, London, 1610), Bermoodos (John Jacob Berlu trong The Kho bạc Thuốc mở khóa, London, 1690), Bermoothes (William Shakespeare, mượn tên cho một hòn đảo hư cấu trong vở kịch Giông Tố (The Tempest) năm 1611 của ông), Bermudes (Henry Chatelain trong ấn bản năm 1720 của cuốn Atlas Historique, Bellin của Paris trong bản đồ năm 1764 và nhiều bản đồ khác) mà sau này được đặt theo tên ông. Legatio Babylonica, do Peter Martyr d'Anghiera xuất bản năm 1511, liệt kê "La Bermuda" trong số các đảo Đại Tây Dương. Năm 1515, ông quay trở lại Bermuda, thả một chục con lợn lên đảo, để dành cho bất kỳ thủy thủ kém may mắn nào sau này có thể bị trôi dạt lên đó. Bermúdez đã thực hiện 11 chuyến đi được đăng ký đến Tân Thế giới từ năm 1495 đến năm 1519. Tham khảo Thu mục Liên kết ngoài 500 años de historia de las Bermudas. (en inglés) Mất năm 1570 Sinh thế kỷ 15 Nhà hàng hải Tây Ban Nha Lịch sử Bermuda Sơ khai nhà thám hiểm Sơ khai Bermuda Sơ khai người Tây Ban Nha
338
19832391
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20ty%20Somers%20Isles
Công ty Somers Isles
Công ty Somers Isles (tên đầy đủ bằng tiếng Anh: Company of the City of London for the Plantacion of The Somers Isles hoặc the Company of The Somers Isles) được thành lập vào năm 1615 để vận hành thuộc địa Somers Isles của Anh, còn được gọi là Bermuda, với tư cách là một liên doanh thương mại. Nó giữ một Hiến chương Hoàng gia cho phép quản lý Bermuda cho đến năm 1684, khi cty bị giải thể, và Vương quyền nhận trách nhiệm quản lý Bermuda như một thuộc địa vương thất. Bermuda dưới thời Cty Virginia Bermuda đã vô tình được Công ty Virginia định cư vào năm 1609, khi kỳ hạm của họ là chiếc Sea Venture, bị đắm trên các rạn san hô ở phía Đông. Đô đốc của công ty là Ngài George Somers, là người chỉ huy khi con tàu chiến đấu với một cơn bão đã làm tan vỡ hạm đội cứu trợ dự định đến Jamestown, khu định cư của người Virginia do Công ty thành lập 2 năm trước đó. Somers đã cố tình lái con tàu vào bãi đá ngầm để ngăn chặn việc nó bị đắm, nhờ đó cứu được tất cả những người trên tàu. Những người định cư và thủy thủ đã dành 10 tháng ở Bermuda trong khi họ đóng hai con tàu mới để tiếp tục hành trình đến Jamestown. Trong quá trình đó, thuyền dài của Sea Venture được gắn cột buồm và được cử đi tìm Jamestown. Cả nó và phi hành đoàn của nó đều không bao giờ được nhìn thấy nữa. Khi Deliverance và Patience lên đường tới Jamestown, họ đã bỏ lại một số người, một số để duy trì yêu sách của Somers đối với các hòn đảo cho Vương quốc Anh, một số đã chết. Những người trên hai con tàu bao gồm Ngài Thomas Gates, chỉ huy quân sự và thống đốc tương lai của Jamestown, William Strachey là người mà câu chuyện về vụ đắm tàu sau này có thể đã truyền cảm hứng cho tác phẩm Giông tố (The Tempest) của William Shakespeare, và John Rolfe, người sáng lập ra ngành công nghiệp thuốc lá ở Virginia, và là người đã để lại một vợ và con được chôn cất ở Bermuda. Rolfe sau này sẽ kết hôn với một cô gái người Mỹ bản địa là Pocahontas, con gái của tù trưởng người Powhatan. Tham khảo Liên kết ngoài Roots Web Richard Norwood’s Survey of the Land and Landholder’s of Bermuda. Bermuda Yellow Pages History of Bermuda. Dan Byrnes. Com The Business of Slavery - Chapter 9. Thuộc địa Virginia Lịch sử Bermuda Thực dân Anh tại châu Mỹ Công ty được cấp phép Công ty thương mại của Anh Khởi đầu năm 1615 ở Bắc Mỹ Bắc Mỹ thuộc Anh
467
19832394
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BA%A7ng%20tr%C4%83ng%20m%C3%A1u%20%28phim%29
Vầng trăng máu (phim)
Vầng trăng máu (tựa tiếng Anh: Killers of the Flower Moon) là một bộ phim điện ảnh Mỹ thuộc thể loại lịch sử – tội phạm – giật gân – chính kịch ra mắt vào năm 2023 do Martin Scorsese làm đạo diễn, viết kịch bản và đồng sản xuất, được dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên ra mắt vào năm 2017 của David Grann. Lấy bối cảnh về vụ thảm sát hàng loạt ở khu tự trị Osage của bang Oklahoma vào những năm 1920, phim theo chân Ernest Buckhart, một người da trắng đang vướng vào mối tình với Mollie – một cô gái thuộc bộ tộc Osage, và từ đây hành trình cảm xúc của anh trở nên phức tạp khi bị mắc kẹt trong sự kiện này. Với sự tham gia diễn xuất của Leonardo DiCaprio, Robert De Niro, Lily Gladstone, cùng dàn diễn viên phụ gồm Jesse Plemons, Tantoo Cardinal, John Lithgow và Brendan Fraser, bộ phim đã đánh dấu Scorsese có lần thứ sáu hợp tác với DiCaprio và lần thứ mười hợp tác với De Niro. Cá nhân DiCaprio cũng tham gia làm giám đốc sản xuất cho bộ phim. Việc phát triển cho bộ phim được hình thành vào tháng 3 năm 2016 khi Imperative Entertainment đã thành công trong việc mua bản quyền sở hữu chuyển thể phim của cuốn sách. Năm 2017, Scorsese và DiCaprio đã tiếp cận tham gia vào bộ phim, và việc sản xuất tác phẩm được dự kiến sẽ bắt đầu vào một năm sau. Sau nhiều lần trì hoãn, lùi lịch cũng như chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, quá trình sản xuất cũng đã được lên lịch thực hiện vào tháng 2 năm 2021 khi Apple TV+ đồng ý hợp tác với Paramount Pictures để hỗ trợ tài chính cho bộ phim. Phim được khởi quay tại hai quận Osage và Washington của bang Oklahoma từ tháng 4 đến tháng 10 năm 2021. Với kinh phí sản xuất 200 triệu USD, đây được xem là số tiền kinh phí cao nhất từ trước đến nay được chi cho một bộ phim quay ở Oklahoma. Vầng trăng máu có buổi ra mắt lần đầu tại Liên hoan phim Cannes lần thứ 76 vào ngày 20 tháng 5 năm 2023, và sau đó được Apple TV+ – dưới hãng phim Apple Original Films – và Paramount Pictures phát hành tại Mỹ và Việt Nam vào ngày 20 tháng 10 cùng năm. Sau khi ra mắt, tác phẩm nhận về những lời khen ngợi nhiệt liệt từ giới chuyên môn, với những lời khen ngợi về kịch bản, cách đạo diễn, kỹ thuật quay phim, thiết kế, nhạc phim và diễn xuất của các diễn viên trong phim – trong đó có DiCaprio, De Niro và Gladstone. Ngoài việc chiếu rạp thông thường, tác phẩm cũng được chiếu tại các rạp định dạng IMAX, và dự kiến sẽ ra mắt trên nền tảng trực tuyến Apple TV+. Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức trên Apple TV+ Press Vầng trăng máu trên Apple TV+ Phim năm 2023 Phim Mỹ Phim tiếng Anh
525
19832397
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sea%20Venture
Sea Venture
Sea Venture là một con tàu buồm của Anh thế kỷ XVII, một phần trong sứ mệnh đến Tân Thế giới của nó là tiếp tế tới Thuộc địa Jamestown, và nó đã bị đắm ở Bermuda vào năm 1609, cũng chính vụ đắm tàu này đã giúp Bermuda lập ra khu định cư có người ở đầu tiên trong lịch sử. Sea Venture là chiếc soái hạm được chế tạo nặng 300 tấn của Công ty London và là một con tàu hết sức khác thường vào thời đó, vì nó là con tàu buôn gỗ đơn lẻ đầu tiên được đóng ở Anh và cũng là con tàu di cư chuyên dụng đầu tiên. Xác tàu của Sea Venture được nhiều người cho là nguồn cảm hứng cho vở kịch Giông tố (The Tempest) năm 1611 của William Shakespeare và hình tượng của con tàu cũng đã xuất hiện trên quốc huy Bermuda ngày nay. Chú thích Tham khảo Thư mục Xem thêm Strachey, William. "The True Reportory of the Wracke and Redemption of Sir Thomas Gates" (f.p. 1625) in A Voyage to Virginia in 1609, Louis B. Wright, ed. (1965), 1–101. Liên kết ngoài – Ship Passenger and Immigration Lists – Packrat Pilgrim Ship Lists - the Sea Venture Thuộc địa Virginia Lịch sử Bermuda Công ty Virginia Giông tố
222
19832398
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Indiana%20Wesleyan
Đại học Indiana Wesleyan
Đại học Indiana Wesleyan (IWU) là một trường đại học Cơ đốc giáo tư nhân có trụ sở tại Marion, Indiana và liên kết với Nhà thờ Wesleyan . Đây là trường đại học tư thục lớn nhất ở Indiana. Hệ thống đại học bao gồm IWU—Marion, nơi gần 3.000 sinh viên đang theo học các chương trình truyền thống tại cơ sở chính ở Marion và IWU-National & Global, bao gồm 6.800 học viên trưởng thành học trực tuyến hoặc tại chỗ tại 15 trung tâm giáo dục ở Indiana, Kentucky và Ohio . Ngoài ra, có 535 sinh viên tốt nghiệp hiện đang theo học tại Chủng viện Wesley. IWU cung cấp hơn 80 bằng đại học và 57 bằng sau đại học trong đó có 9 bằng tiến sĩ. Sinh viên của trường đại diện cho hơn 80 giáo phái Kitô giáo và đến từ 11 quốc gia. Chuyên ngành đào tạo Trường đại học cung cấp nhiều môn nghệ thuật tự do khác nhau (bao gồm 87 chuyên ngành đại học) và các chương trình giáo dục chuyên nghiệp để lấy bằng Cao đẳng Nghệ thuật, Cao đẳng Khoa học, Cử nhân Nghệ thuật, Cử nhân Khoa học, Cử nhân Âm nhạc, Thạc sĩ Nghệ thuật, Thạc sĩ Khoa học, Thạc sĩ Kinh doanh. Bằng Quản trị và Thạc sĩ Thần học, cùng với chương trình tiến sĩ về Lãnh đạo Tổ chức. Năm 2000, trường đại học tổ chức cơ cấu học thuật thành ba trường cao đẳng; Trường Cao đẳng Nghệ thuật và Khoa học (giáo dục nghệ thuật tự do bốn năm truyền thống). Trường Cao học Nghiên cứu Sau đại học (bằng tốt nghiệp theo học kỳ truyền thống) và Trường Cao đẳng Nghiên cứu Người lớn và Chuyên nghiệp (các chương trình cấp tốc, phi truyền thống dành cho người lớn đang đi làm). Năm 2009, trường đại học đã tổ chức lại cơ cấu học thuật của mình thành 5 đơn vị học thuật chính: Trường Cao đẳng Nghệ thuật và Khoa học, Trường Cao đẳng Nghiên cứu Người lớn và Chuyên nghiệp, Trường Cao học, Trường Điều dưỡng và Chủng viện Wesley. Vào tháng 12 năm 2022, Trường bay ATP và IWU đã hợp tác để tạo ra các lộ trình cấp bằng cho các phi công hoàn thành chứng chỉ FAA của họ thông qua ATP. Sinh viên theo học tại trường đại học, là cựu sinh viên ATP, có thể coi kinh nghiệm đào tạo bay của họ là tín chỉ cấp bằng cũng như được giảm học phí cho một số chương trình nhất định. Xếp hạng Năm 2013, trường được US News & World Report xếp thứ 17 trong số hơn 150 trường đại học ở vùng Trung Tây.  Năm 2022, Đại học Indiana Wesleyan được US News & World Report xếp thứ 13 ở vùng Trung Tây Trường có chương trình giáo dục dành cho người lớn lớn nhất trong Hội đồng các trường Cao đẳng và Đại học Cơ đốc giáo. Năm 2008, CCCU đã chọn IWU để thành lập Trung tâm Nghiên cứu về Học tập cho Người lớn, một dự án chung với CCCU. Hình ảnh Cựu sinh viên có thành tích đáng chú ý Joseph Kofi Adda , Nghị sĩ Quốc hội Ghana Brandon Beachy , cầu thủ ném bóng cho Los Angeles Dodgers Jean Breaux , thượng nghị sĩ bang Indiana đại diện cho Quận 34 André Carson , đại diện Hoa Kỳ từ Khu vực Quốc hội thứ 7 R. Sheldon Duecker , giám mục của United Methodist Church Marc Griffin , luật sư, thẩm phán trẻ nhất thế giới Laurell K. Hamilton , tác giả sách bán chạy nhất New York Times Ghassan Hitto , cựu thủ tướng phe đối lập ở Syria Yemi Mobolade , thị trưởng đắc cử của Colorado Springs, Colorado Keith O'Conner Murphy - Ca sĩ và nhạc sĩ, Rockabilly Hall of Fame, Stacy, Polydor (Anh) và King Records (Mỹ) Jamar Newsome - Cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Jerry Pattengale - Người sáng lập nền giáo dục hướng tới mục đích , giám đốc Sáng kiến ​​Học giả Xanh, giám đốc điều hành tại Bảo tàng Kinh thánh ở Washington, DC Silky Nutmeg Ganache - Nữ hoàng kéo và thí sinh trong Phần 11 của RuPaul's Drag Race và RuPaul's Drag Race All Stars 6. Randy Truitt - Đại diện bang Indiana từ Quận 26. Kyle Mangas - Cầu thủ bóng rổ chuyên nghiệp Jordan Weidner - Cầu thủ bóng rổ chuyên nghiệp Tài liệu tham khảo
762
19832403
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc%20vi%E1%BB%87n%20King%20Sejong
Học viện King Sejong
Học viện King Sejong () là một tổ chức do chính phủ Hàn Quốc thành lập nhằm khuyến khích việc học tiếng Hàn trên toàn thế giới, được thành lập vào năm 2007. Tên của nó được đặt theo vua Sejong, người phát minh ra bảng chữ cái tiếng Hàn. Tính đến tháng 6 năm 2021, có 234 Học viện King Sejong ở 82 quốc gia. Bối cảnh Giảng dạy tiếng Hàn giai đoạn đầu Hangul, bảng chữ cái tiếng Hàn, là dạng văn tự chữ viết của ngôn ngữ chính thức của Hàn Quốc và đã được người Hàn Quốc sử dụng kể từ khi nó được tạo ra vào năm 1446 bởi vua Sejong của triều đại Joseon. Hầu hết các cơ sở học tiếng Hàn bên ngoài Hàn Quốc đều nhắm đến con cháu thế hệ thứ hai hoặc thứ ba của người nhập cư Hàn Quốc, trong khi những người học tiếng Hàn ở Hàn Quốc chủ yếu là sinh viên nước ngoài, người lao động nhập cư hoặc vợ/chồng của người Hàn Quốc. Gia tăng số lượng người học tiếng Hàn Sự quan tâm và nhu cầu về ngôn ngữ Hàn Quốc ngày càng tăng do toàn cầu hóa văn hóa và thương mại cũng như Cuộc cách mạng Internet/Truyền thông. Sự quan tâm của quốc tế đối với văn hóa Hàn Quốc như phim truyền hình và âm nhạc đã tăng lên rất nhiều, đặc biệt là ở châu Á, dẫn đến cái được gọi là "Làn sóng Hàn Quốc". Điều này đi kèm với sự gia tăng số lượng sinh viên nước ngoài học tập tại Hàn Quốc. Về mặt nhân khẩu học, tỷ lệ kết hôn giữa người Hàn Quốc và người nước ngoài cũng tăng lên. Với sự gia tăng hợp tác và kinh doanh quốc tế, chính phủ Hàn Quốc đã nỗ lực chuẩn hóa tên địa điểm, tên người và các danh từ riêng khác trong Hangul. Ngoài ra, cần có nhiều từ điển tiếng Hàn cập nhật hơn, vì hầu hết được tạo ra trong những năm 1990. Thành lập học viện King Sejong Với nhu cầu như vậy, chính phủ Hàn Quốc đã thành lập khí niệm "học viện King Sejong" nhằm cung cấp thông tin, dịch vụ tích hợp và tiêu chuẩn hóa cho việc học tiếng Hàn cũng như điều phối và mở rộng các học viện nơi mọi người có thể học hoặc dạy ngôn ngữ này. Học viện King Sejong được phát triển thành thương hiệu được sử dụng phổ biến bởi tất cả các cơ sở giáo dục ngôn ngữ Hàn Quốc. Sau khi ban hành Đạo luật khung về Ngôn ngữ quốc gia vào năm 2011, Quỹ Học viện King Sejong (KSIF) được thành lập vào năm sau với tư cách là tổ chức trung ương chịu trách nhiệm điều hành các Viện và chương trình của họ. Song Hyang-keun giữ chức chủ tịch đầu tiên của KSIF từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 7 năm 2018 và Kang Hyounhwa giữ chức chủ tịch thứ hai từ tháng 9 năm 2018. Hoạt động Tích hợp và mở rộng Viện Hangul nhỏ|Cuộc thi Hát Hàn Quốc thường niên được tổ chức tại Học viện King Sejong Los Angeles (2011) Chính phủ Hàn Quốc đã tích hợp các Viện Ngôn ngữ Hàn Quốc được gọi với nhiều tên khác nhau thành một thương hiệu "Hoc viện King Sejong". Đối với chiến lược ngắn hạn, chính phủ khuyến khích sử dụng tên "Hoc viện King Sejong" và sách giáo khoa và khóa học tiêu chuẩn, đồng thời xem xét chiến lược dài hạn để điều hành một viện ngôn ngữ tích hợp. 144 viện đã được thành lập tính đến năm 2016. Chín viện nữa đã được thành lập mới ở các nước như Latvia, Myanmar, Bahrain. Năm 2018, một viện mới đã được bổ sung tại Hoa Kỳ ở Irvine, California. Văn phòng trụ sở "Hoc viện King Sejong" được thành lập vào năm 2012 để hỗ trợ một cách có hệ thống các viện nghiên cứu trên khắp thế giới. Văn phòng hoạt động với vai trò là đầu mối kết nối các viện nghiên cứu trên toàn thế giới. Nuri-Sejonghakdang Nuri-Sejonghakdang là trang web cung cấp hệ thống giáo dục từ xa và dịch vụ thông tin tích hợp liên quan đến việc học tiếng Hàn cho người học và giáo viên Hangul. Đây là một trang web nghiên cứu về Hàn Quốc được xây dựng bởi nhiều bộ trong chính phủ Hàn Quốc, bao gồm Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục, Khoa học và Công nghệ, Bộ Ngoại giao và Thương mại, Bộ Y tế và Phúc lợi, Bộ Bộ Tư pháp, và Viện Ngôn ngữ Hàn Quốc, Viện Giáo dục Quốc tế, Quỹ Người Hàn Quốc ở nước ngoài và Quỹ Ngôn ngữ Hàn Quốc Quốc tế với Hội đồng Tổng thống về Thương hiệu Quốc gia là cơ quan đóng góp chính. Nuri-Sejonghakdang cung cấp dịch vụ của mình cho các học viện ngôn ngữ Hàn Quốc trên toàn thế giới, những người nước ngoài muốn học tiếng Hàn cũng như các giáo viên và giáo viên tiếng Hàn tương lai, thu thập và phát triển nội dung để mở rộng các khóa học trực tuyến và xây dựng các phiên bản đa ngôn ngữ của trang web cho người dùng trên toàn thế giới. Địa điểm Tính đến tháng 6 năm 2021, đã có 234 cơ quan được thành lập ở 82 quốc gia trên thế giới. Châu Á Saudi Arabia 1 (Riyadh) Azerbaijan 2 (Baku và Khirdalan) Armenia 1 (Yerevan) Bahrain 1 (Manama) Cambodia 2 (Poipet và Siem Reap) China 19 (Beijing, Chengdu, Dalian, Hangzhou, Harbin, Hong Kong, Kunming, Linyi, Qingdao, Qiqihar, Shanghai, Shijiazhuang, Wenzhou, Wuhan, Xi'an, Yanbian, Yancheng and Yantai) India 8 (Barasat, Bengaluru, Chennai 1, Imphal, New Delhi, Patna and Chennai 2 Indonesia 7 (Bandung, Jakarta, Surabaya, Tangerang and Yogyakarta) Iran 2 (Isfahan and Tehran) Japan 16 (Chiba, Fukuoka, Hiroshima, Kanagawa, Kobe, Kyoto, Okayama, Osaka, Nagano, Nara, Saitama, Sapporo, Sendai, Shimonoseki and Tokyo) Jordan 1 (Amman) Kazakhstan 3 (Almaty, Astana and Shymkent) Kyrgyzstan 5 (Bishkek, Osh and Sokuluk) Laos 2 (Phonsavan và Vientian) Malaysia 3 (Bangi, Kuala Lumpur and Melaka) Mongolia 4 (Darkhan and Ulaanbaatar) Myanmar 1 (Yangon) Nepal 1 (Kathmandu) Pakistan 1 (Islamabad) Palestine 1 (Ramallah) Philippines 6 (Balanga, Cainta, Cebu City, Iloilo City, San Juan and Taguig) Georgia 1 (Tbilisi) Sri Lanka 2 (Colombo và Kandy) Đài Loan 3 (Cao Hùng, Đài Nam and Đài Bắc) Tajikistan 1 (Dushanbe) Thailand 5 (Bangkok, Chiang Mai và Maha Sarakham) Turkmenistan 1 (Ashgabat) UAE 2 (Abu Dhabi, Ajman và Dubai) Uzbekistan 7 (Denau, Ferghana, Namangan, Samarkand và Tashkent) Vietnam 22 (Biên Hòa, Bình Dương, Cần Thơ, Đà Lạt, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Hưng Yên, Quy Nhơn, Thái Nguyên và Trà Vinh) Châu Phi Algeria 1 (Algiers) Botswana 1 (Gaborone) Egypt 1 (Cairo) Eswatini 1 (Mbabane) Ethiopia 1 (Addis Ababa) Ivory Coast 1 (Abidjan) Kenya 1 (Nairobi) Madagascar 1 (Antananarivo) Morocco 1 (Rabat) Nigeria 1 (Abuja) Tanzania 1 (Dar es Salaam) Tunisia 1 (Ariana) Uganda 1 (Kumi) Châu Mỹ Argentina 1 (Buenos Aires) Brazil 5 (Brasília, Campinas, São Leopoldo and São Paulo) Bolivia 1 (La Paz) Canada 3 (Montreal, Ottawa and Waterloo) Chile 1 (Santiago) Colombia 1 (Bogotá) Costa Rica 1 (San José) Ecuador 2 (Guayaquil and Quito) El Salvador 1 (San Salvador) Guatemala 1 (Guatemala City) Haiti 1 (Caracol) Mexico 1 (Mexico City) Paraguay 1 (Asunción) United States 13 (Auburn, Bloomington, Chicago, Houston, Iowa City, Irvine, Los Angeles, San Antonio, San Francisco, Upland và Washington, D.C.) Uruguay 1 (Montevideo) Châu Âu Belarus 1 (Minsk) Belgium 2 (Brussels) Bulgaria 1 (Sofia) Croatia 2 (Zagreb và Rijeka) Czech Republic 1 (Olomouc) Denmark 1 (Copenhagen) Estonia 1 (Tallinn) France 3 (La Rochelle, Paris và Quimper) Germany 2 (Berlin và Tübingen) Hungary 3 (Budapest và Debrecen) Italy 1 (Rome) Latvia 1 (Riga) Lithuania 2 (Kaunas và Vilnius) Luxembourg 1 (Luxembourg) Poland 2 (Poznań và Warsaw) Portugal 1 (Lisbon) Romania 1 (Bucharest) Russia 11 (Astrakhan, Khabarovsk, Moscow, Rostov-on-Don, Saint Petersburg, Ulan-Ude, Vladivostok, Yakutsk và Yuzhno-Sakhalinsk) Serbia 1 (Novi Sad) Slovakia 1 (Bratislava) Slovenia 1 (Ljubljana) Spain 3 (Barcelona, Las Palmas và Madrid) Sweden 1 (Gothenburg) Turkey 5 (Ankara, Bursa, Istanbul và Izmir) Ukraine 1 (Dnipro) United Kingdom 5 (London, Preston và Staffordshire) Châu Đại Dương Australia 3 (Adelaide và Sydney) New Zealand 1 (Auckland) Tham khảo Liên kết ngoài King Sejong Institute King Sejong Institute Foundation
1,417
19832410
https://vi.wikipedia.org/wiki/KeSPA%20Cup
KeSPA Cup
KeSPA Cup () là một sự kiện thể thao điện tử thường niên được tổ chức bởi Hiệp hội thể thao điện tử Hàn Quốc. Từ năm 2017, giải chủ yếu tổ chức thi đấu bộ môn Liên Minh Huyền Thoại thay vì StarCraft II như giai đoạn 2014-2016. Lịch sử Kỳ KeSPA Cup đầu tiên được tổ chức vào năm 2005 như một giải đấu để các đội StarCraft chuyên nghiệp có thể thi đấu với các đội nghiệp dư. Ngoài ra còn có những sự kiện cho các tựa game khác như Special Force, Kartrider và FreeStyle Street Basketball. Kỳ KeSPA Cup thứ hai được tổ chức vào năm 2007 tại Đại học Sejong và bao gồm các tựa game WarCraft III và Counter-Strike. Năm 2014, 7 năm kể từ mùa giải cuối, KeSPA Cup được mang trở lại trong diện mạo mới và được tổ chức mỗi năm một lần. StarCraft II là trò chơi duy nhất được thi đấu trong lần trở lại này và có sự góp mặt của 16 tuyển thủ xuất sắc nhất năm để tranh phần thưởng 8 triệu won. Năm tiếp theo, có hai giải StarCraft II được tổ chức, một vào tháng 5 và một vào tháng 7. Liên Minh Huyền Thoại trở thành một phần của KeSPA Cup vào năm 2015. Alex "Neeb" Sunderhaft là game thủ StarCraft người nước ngoài đầu tiên chiến thắng một giải vô địch lớn của Hàn Quốc sau chức vô địch KeSPA Cup năm 2016. Trước đó cũng có một game thủ người nước ngoài khác là Guillaume Patry từng vô địch OnGameNet StarLeague vào năm 2000. Các giải đấu StarCraft Thể thức của StarCraft tại giải đấu này ban đầu là các tuyển thủ chuyên nghiệp thuộc KeSPA sẽ thi đấu với các đội nghiệp dư. Vẫn chưa có giải đấu StarCraft nào được tổ chức tại KeSPA Cup kể từ năm 2007. StarCraft II KeSPA Cup đã được tái khởi động với tựa game StarCraft II vào năm 2014. Tất cả giải đấu đều là một phần của StarCraft II World Championship Series và do đó điểm WCS cũng sẽ được tính cho các bên tham dự. Thể thức của giải đấu là vòng loại 16 người, bắt đầu bằng vòng bảng và tiến đến play-off ở vòng 8 đội. Liên Minh Huyền Thoại Liên Minh Huyền Thoại được thêm vào KeSPA Cup như một sự kiện định kỳ từ năm 2015. Ở mùa giải 2021, có 16 đội tranh tài bao gồm 9 đội academy thuộc các đội LCK, 3 đội nghiệp dư Hàn Quốc và 4 đội khách mời từ khu vực châu Á. Tham khảo Liên kết ngoài Official website Giải đấu Liên Minh Huyền Thoại Khởi đầu năm 2005 ở Hàn Quốc Giải thể thao ở Hàn Quốc
462
19832416
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%93scar%20Estupi%C3%B1%C3%A1n
Óscar Estupiñán
Óscar Eduardo Estupiñán Vallesilla (; sinh ngày 29 tháng 12 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Colombia hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Metz tại Ligue 1, cho mượn từ Hull City, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Colombia. Sự nghiệp thi đấu Once Caldas Sinh ra tại Cali, Estupiñán bắt đầu sự nghiệp tại câu lạc bộ Once Caldas. Anh ra mắt tại Categoría Primera A vào ngày 16 tháng 5 năm 2015, trong trận hòa 2–2 trước Uniautónoma, khi vào sân thay cho Sebastián Penco ở phút thứ 77, và ghi bàn thắng duy nhất trong mùa giải vào ngày 26 tháng 9, trong trận hòa 1–1 trước Envigado. Estupiñán ghi được 13 bàn thắng trong mùa giải 2016, bao gồm một cú đúp vào ngày 13 tháng 2 trong chiến thắng 4–0 trên sân nhà trước Jaguares de Córdoba. Vitória de Guimarães Vào ngày 5 tháng 6 năm 2017, Estupiñán trở thành tân binh đầu tiên của Vitória de Guimarães trong mùa hè, bằng một bản hợp đồng với mức phí không được tiết lộ. Anh ra mắt vào ngày 6 tháng 8, trong trận thua 3–1 trước S.L. Benfica tại Siêu cúp Bồ Đào Nha, vào sân thay cho Paolo Hurtado trong vòng 9 phút cuối. Mùa giải đầu tiên của anh được chia thành hai đội, 1 đội thi đấu tại Giải bóng đá Ngoại hạng Bồ Đào Nha và đội dự bị thi đấu tại giải hạng 2; bàn thắng duy nhất của anh trong mùa giải cho đội bóng cũ là vào ngày 5 tháng 5 năm 2018 để ấn định chiến thắng 4–1 trước C.D. Tondela, trong vòng một phút sau khi vào sân từ ghế dự bị. Ra sân 14 trận và ghi 1 bàn thắng trong 18 tháng tại Vitória, Estupiñán trở lại Nam Mỹ vào tháng 1 năm 2019 và gia nhập Barcelona S.C. theo dạng cho mượn. Vào tháng 7 năm đó, anh được cho mượn tại Denizlispor cho mùa giải Süper Lig. Khi trở lại Vitória, Estupiñán trở thành sự lựa chọn số 1 ở vị trí tiền đạo, thay thế cho người tiền nhiệm Bruno Duarte. Ở mùa giải 2021–22, tân huấn luyện vien trưởng Pepa đã thử họ ở vị trí song song. Với 15 bàn sau 28 trận, anh đứng thứ 5 trong số những cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất giải đấu. Hull City Vào ngày 13 tháng 7 năm 2022, Estupiñán ký hợp đồng 3 năm với Hull City. Anh ra mắt cho đội bóng vào ngày 30 tháng 7, trong chiến thắng 2-1 trên sân nhà trước Bristol City. Anh mở tài khoản khi ghi cả hai bàn thắng trong chiến thắng 2-1 trên sân nhà trước Norwich City vào ngày 13 tháng 8. Hai tuần sau, Estupiñán lập hat-trick trong chiến thắng 3–2 trên sân nhà trước Coventry City. Vào ngày 13 tháng 9, Estupiñán đã được trao giải Cầu thủ xuất sắc nhất tháng 8, khi ghi được 7 bàn thắng. Cho mượn tại Metz Vào ngày 1 tháng 9 năm 2023, Estupiñán chuyển đến câu lạc bộ Metz theo dạng cho mượn đến hết mùa. Sự nghiệp quốc tế Vào tháng 6 năm 2022, Estupiñán được gọi lên Đội tuyển bóng đá quốc gia Colombia. Việc được gọi triệu tập đến sau màn trình diễn ấn tượng trong mùa giải 2021–22, khi ghi được 15 bàn tháng sau 28 lần ra sân và được coi là một trong những Vua phá lưới của giải đấu. Thống kê sự nghiệp Danh hiệu Cá nhân Cầu thủ xuất sắc nhất tháng tại EFL Championship: Tháng 8 năm 2022 Tham khảo Sinh năm 1996 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Colombia Cầu thủ bóng đá nam Colombia Tiền đạo bóng đá Tiền đạo bóng đá nam Cầu thủ bóng đá Colombia ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bồ Đào Nha Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ecuador Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Thổ Nhĩ Kỳ Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp Cầu thủ bóng đá Once Caldas Cầu thủ bóng đá Vitória S.C. Cầu thủ bóng đá Vitória S.C. B Cầu thủ bóng đá Barcelona S.C. Cầu thủ bóng đá Denizlispor Cầu thủ bóng đá Hull City A.F.C. Cầu thủ bóng đá Stade Lavallois Cầu thủ bóng đá FC Metz Cầu thủ bóng đá Categoría Primera A Cầu thủ bóng đá Liga Portugal 2 Cầu thủ bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha Cầu thủ bóng đá Campeonato de Portugal Cầu thủ bóng đá Ecuadorian Serie A Cầu thủ bóng đá Süper Lig Cầu thủ bóng đá English Football League Cầu thủ bóng đá Ligue 1
764
19832417
https://vi.wikipedia.org/wiki/Google%20News%20%26%20Weather
Google News & Weather
Google News & Weather là một ứng dụng tổng hợp tin tức được phát triển bởi Google. Ứng dụng có sẵn trên các hệ điều hành Android và iOS. Ứng dụng có giao diện dựa trên thẻ và tương tự như cả trang web Google News dành cho máy tính để bàn cũng như Google Now, vốn sử dụng rộng rãi thẻ. Ứng dụng lập chỉ mục hơn 65.000 nguồn tin tức và có 60 phiên bản dành cho các quốc gia cụ thể. Phiên bản Google News & Weather dành cho iOS được phát hành vào ngày 7 tháng 10 năm 2014. Ứng dụng đã bị ngừng hoạt động vào ngày 8 tháng 10 năm 2018. Vào ngày 9 tháng 10, ứng dụng dường như đã được kích hoạt lại và bị ngừng hoạt động một lần nữa vào ngày 16 tháng 10 năm 2018. Vào ngày 8 tháng 5 năm 2018, Google đã thông báo tại Google I/O rằng họ sẽ hợp nhất Google Play Newsstand và Google News & Weather thành một dịch vụ duy nhất, được gọi là Google News (với ứng dụng Google News & Weather bị ngừng hoạt động và Google Play Newsstand được thay thế bằng Google News). Chú thích Phần mềm cho Android (hệ điều hành) Phần mềm cho iOS Dịch vụ Google đã ngừng hoạt động
219
19832456
https://vi.wikipedia.org/wiki/Little%20Saigon%2C%20San%20Diego
Little Saigon, San Diego
Little Saigon, San Diego là một vùng bao bọc sắc tộc người Việt ở City Heights, San Diego, tọa lạc trên Đại lộ El Cajon giữa đại lộ Euclid và Highland. Lịch sử Quỹ Little Saigon San Diego thành lập tháng 11 năm 2008 với sứ mệnh "hồi sinh khu thương mại đông dân của người Việt trên Đại lộ El Cajon". Ngày 4 tháng 6 năm 2013, Hội đồng Thành phố đã phê duyệt Khu Văn hóa và Thương mại Little Saigon ở City Heights, là khu vực gồm sáu dãy nhà của Đại lộ El Cajon từ đại lộ Euclid đến đại lộ Highland. Quận này vốn nổi tiếng như một trung tâm ẩm thực và văn hóa Việt Nam. Kể từ năm 2013, Quỹ Little Saigon San Diego đã tổ chức một trong những sự kiện Tết Nguyên Đán tại thành phố với lễ hội Tết Nguyên Đán hàng năm tại Sân vận động SDCCU, nơi số tiền thu được dùng để phát triển và quảng bá quận này. Ngày 1 tháng 2 năm 2019, các biển báo Little Saigon nằm gần lối ra Đại lộ El Cajon trên Xa lộ Liên tiểu bang 15 đã được khánh thành. Đọc thêm Caw, Jonathan. (Aug 20, 1990). A Flowering Little Saigon : Influx of Vietnamese in East S.D. Has Revitalized the Area. Los Angeles Times. Tham khảo Liên kết ngoài Trang chủ Little Saigon, San Diego Little Saigon Khu phố San Diego Vùng bao bọc sắc tộc ở California Văn hóa người Mỹ gốc Việt ở California
250
19832457
https://vi.wikipedia.org/wiki/Little%20Saigon%2C%20San%20Jose
Little Saigon, San Jose
Little Saigon là một khu phố tại San Jose, California, nằm ở phía Đông San Jose. Đây là trung tâm của cộng đồng người Việt ở Thung lũng Silicon và là một trong những Little Saigon lớn nhất thế giới, vì San Jose có nhiều cư dân gốc Việt hơn bất kỳ thành phố nào ngoài Việt Nam. Người Mỹ gốc Việt và người nhập cư ở San Jose chiếm 10% dân số thành phố và khoảng 8% dân số của quận và Khu vực Nam Vịnh San Francisco. Lịch sử Tâm điểm của cộng đồng người Mỹ gốc Việt ở San Jose nằm trên Đường Story, nơi có Trung tâm thương mại Grand Century nổi tiếng và Vietnam Town (cả hai trung tâm mua sắm đều thuộc sở hữu của nhà phát triển bất động sản người Việt gốc Hoa Tăng Lập) và được Hội đồng thành phố San Jose chính thức định danh là "Little Saigon". Lee's Sandwiches, (một chuỗi quán ăn bánh mì kẹp thịt Việt Nam) cũng như chuỗi cửa hàng phở Phở Hòa có địa điểm đầu tiên ở San Jose. Năm 2007, khu Little Saigon chính thức được Thành phố San José thành lập và công nhận. Việc hội đồng thành phố ban đầu từ chối đặt tên Little Saigon đã gây ra các cuộc biểu tình phản đối và tuyệt thực tại Tòa thị chính San Jose của Lý Tống. Năm 2021, như một phần của chiến dịch Stop Asian Hate (Ngăn chặn thù ghét người châu Á), Sở Cảnh sát San Jose đã tăng cường tuần tra khắp khu vực lân cận, sau khi gia tăng tội ác căm thù người Mỹ gốc Á trong đại dịch COVID-19. Cộng đồng người Việt Bao gồm hơn 180.000 cư dân, khoảng 10,6% dân số, (theo Thống kê dân số Mỹ năm 2010), San Jose có nhiều cư dân gốc Việt hơn bất kỳ thành phố nào ngoài Việt Nam. Cộng đồng người Việt ở San Jose đã bị chia rẽ về mặt chính trị trong việc đặt tên cho khu thương mại, với nhiều nhóm khác nhau ủng hộ "Little Saigon", "New Saigon" và "Khu thương mại Việt Nam". Các doanh nghiệp và cư dân không phải người Việt Nam cũng như Phòng Thương mại Tây Ban Nha San Jose cũng phản đối cái tên "Little Saigon". Tháng 11 năm 2007, Hội đồng thành phố San Jose đã bỏ phiếu với tỷ lệ 8–3 để chọn cái tên thỏa hiệp là "Khu thương mại Sài Gòn", dẫn đến các cuộc biểu tình, tranh luận và nỗ lực bãi nhiệm thành viên hội đồng thành phố Madison Nguyễn, người đã đề xuất cái tên "Khu thương mại Sài Gòn". Ngày 4 tháng 3 năm 2008, sau một cuộc họp công khai với hơn 1000 người ủng hộ cái tên "Little Saigon" tham gia, hội đồng thành phố đã bỏ phiếu với tỷ lệ 11–1 để hủy bỏ tên "Khu thương mại Sài Gòn", nhưng không đổi tên nó. Little Saigon là nơi tổ chức Tết Nguyên Đán hàng năm. Dịch vụ xe buýt liên thành phố có tên Xe đò Hoàng kết nối Little Saigon ở San Jose với Little Saigon ở Quận Cam và nhiều thành phố khác ở California và Arizona nơi tập trung đông đảo người Mỹ gốc Việt. Địa lý Little Saigon nằm ở Đông San Jose. Đường cao tốc Junípero Serra (CA 280) bao bọc khu vực này ở phía bắc, Đường Senter ở phía tây và Đường cao tốc Bayshore (US 101) ở phía đông. Ranh giới phía nam của nó là Đại lộ Owsley. Con đường chính xuyên qua Little Saigon là Đường Story. Hình ảnh Tham khảo Liên kết ngoài Hồ sơ khu phố Little Saigon tại Visit San José Little Saigon Khu phố San Jose, California Vùng bao bọc sắc tộc ở California
626
19832488
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%E1%BB%AF%20phi%20h%C3%A0nh%20gia%20c%E1%BB%A7a%20Trung%20Qu%E1%BB%91c
Nữ phi hành gia của Trung Quốc
Năm 2012, Trung Quốc đã trở thành quốc gia thứ ba sau Liên Xô/Nga và Hoa Kỳ đưa phụ nữ vào vũ trụ bằng chương trình không gian riêng; 49 năm sau nữ phi hành gia đầu tiên đi vào không gian, Valentina Tereshkova. Lịch sử Tháng 10 năm 2003, sau thành công của chuyến bay người lái đầu tiên Thần Châu 5 , Trung Quốc cũng công bố kế hoạch đưa một phụ nữ vào vũ trụ. Cố Tú Liên, chủ tịch Liên đoàn Phụ nữ Toàn quốc Trung Hoa (ACWF), chia sẽ bà đã đề xuất rằng phụ nữ cũng nên được đào tạo cho các sứ mệnh không gian sau chuyến du hành vũ trụ có người lái đầu tiên của Trung Quốc. Ban đầu, tiêu chí chọn lựa là phụ nữ đã kết hôn, không có vấn đề gì về sức khỏe, và ưu tiên những người đã sinh con (mặc dù cả Lưu Dương và Vương Á Bình vào thời điểm được chọn đều không có con). Về sau, tiêu chí hôn nhân và có con được cho là đã bị loại bỏ. Ngày 16 tháng 6 năm 2012, Thiếu tá Lưu Dương là người phụ nữ đầu tiên của Trung Quốc được phóng lên vũ trụ trên con tàu Thần Châu 9 cùng với hai đồng nghiệp nam tới trạm vũ trụ Thiên Cung 1 của Trung Quốc. Sứ mệnh vũ trụ cất cánh lúc 18:37 (10:37 UTC) từ Trung tâm phóng vệ tinh Tửu Tuyền, rìa sa mạc Gobi. Cô đã đi vào không gian vào dịp kỷ niệm 49 năm ngày phóng tàu Vostok 6, chuyến bay vũ trụ đầu tiên của một người phụ nữ, Valentina Tereshkova. Ngày 11 tháng 6 năm 2013, lần thứ hai Trung Quốc đưa phụ nữ vào vũ trụ, phi hành gia Vương Á Bình là người mang vinh dự này. Trên trạm Thiên Cung 1, cô đã làm một vài thí nghiệm vật lý trong môi trường không trọng lực, thuyết giảng về khoa học trên quỹ đạo và bài giảng được truyền về trái đất cho các em học sinh cùng theo dõi. Tháng 5 năm 2018, Trung Quốc bắt đầu tuyển chọn lứa phi hành gia dự bị thứ ba và tuyên bố sẽ chọn thêm các nữ phi hành gia. Tháng 9 năm 2020, cuộc tuyển chọn kết thúc và một nữ phi hành gia đã được chọn, thông tin cá nhân của cô vẫn chưa được công khai. Ngày 23 tháng 11 năm 2020, chỉ huy không gian Chu Thừa Ngọc, 24 tuổi, là người đứng sau sứ mệnh thành công của vụ phóng tàu thăm dò Mặt trăng Hằng Nga 5, thuộc Chương trình thám hiểm Mặt Trăng của Trung Quốc. Ngày 15 tháng 10 năm 2021, Đại tá Vương Á Bình là người phụ nữ đầu tiên của Trung Quốc hai lần du hành vũ trụ trên tàu Thần Châu 13 cùng với hai đồng nghiệp nam tới trạm vũ trụ Thiên Cung. Sứ mệnh vũ trụ cất cánh lúc 00:23 (16:23 UTC) từ Trung tâm phóng vệ tinh Tửu Tuyền, rìa sa mạc Gobi. Danh sách phụ nữ Trung Quốc bay vào không gian theo từng sứ mệnh Kỷ lục Cập nhật tới ngày 16 tháng 12 năm 2022. Đọc thêm Danh sách nữ phi hành gia Danh sách phi hành gia của Trung Quốc Tham khảo Trích dẫn Nguồn dẫn Nữ phi hành gia Chương trình không gian của Trung Quốc Nhà du hành vũ trụ Trung Quốc Nữ giới Trung Quốc Nữ giới Trung Quốc theo nghề nghiệp
587
19832493
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chukwubuikem%20Ikwuemesi
Chukwubuikem Ikwuemesi
Charles Chukwubuikem Ikwuemesi (sinh ngày 5 tháng 8 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Nigeria hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Salernitana tại Serie A. Sự nghiệp thi đấu Câu lạc bộ Ikwuemesi là sản phẩm của câu lạc bộ Olive Charles Academy và Giant Brillars. Anh bắt đầu sự nghiệp tại câu lạc bộ Vorwärts Steyr theo dạng cho mượn. Vào ngày 31 tháng 12 năm 2021, khoản cho mượn của anh với Vorwärts Steyr bị chấm dứt do vấn đề tài chính. Sau một thời gian ngắn trở lại Nigeria, anh chuyển đến câu lạc bộ Krško tại Giải bóng đá hạng nhì Slovenia, nơi anh ghi 4 bàn sau 11 lần ra sân tại giải đấu. Vào ngày 2 tháng 7 năm 2022, anh ký hợp đồng với Celje tại Slovenian PrvaLiga bằng bản hợp đồng kéo dài 3 năm. Vào ngày 18 tháng 8 năm 2023, anh chuyển đến câu lạc bộ Salernitana tại Serie A theo bản hợp đồng có thời hạn đến năm 2027. Quốc tế Ikwuemesi là cầu thủ trẻ quốc tế của Nigeria, từng được gọi triệu tập lên Đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Nigeria vào năm 2020 để chuẩn bị cho giải WAFU B Cup of Nations. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 2001 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Nigeria Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Nigeria Cầu thủ bóng đá nam Nigeria ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Áo Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Slovenia Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý Tiền đạo bóng đá Cầu thủ bóng đá 2. Liga (Áo) Cầu thủ bóng đá Slovenian PrvaLiga Cầu thủ Giải bóng đá hạng nhì Slovenia Cầu thủ bóng đá Serie A Cầu thủ bóng đá SK Vorwärts Steyr Cầu thủ bóng đá NK Krško Cầu thủ bóng đá NK Celje Cầu thủ bóng đá U.S. Salernitana 1919
316
19832508
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng%20K%C3%ADch%20Nh%C6%B0%E1%BB%A1ng
Dương Kích Nhưỡng
Dương Kích Nhưỡng (ngày 15 tháng 10 năm 1932 – ngày 9 tháng 5 năm 2014) là kỹ sư và chính khách Việt Nam Cộng hòa, nguyên Tổng trưởng Bộ Công chánh và Phó Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Tiểu sử Dương Kích Nhưỡng sinh ngày 15 tháng 10 năm 1932 tại Mỹ Tho, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương. Ông từng theo học Trường Trung học Mỹ Tho. Tốt nghiệp Đại học Grenoble ở Pháp năm 1954, chuyên ngành kỹ thuật thủy lực. Từ năm 1964 đến năm 1965, ông được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Từ năm 1967 đến năm 1969, ông giữ chức vụ Giám đốc Công ty Kỹ nghệ Giấy Việt Nam. Ông lên làm Tổng trưởng Bộ Công chánh Việt Nam Cộng hòa nhiệm kỳ 1969–1975 dưới thời nội các của Đại tướng Trần Thiện Khiêm. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông bắt tay hợp tác với chế độ mới được một thời gian ngắn. Sau này, trước khi rời khỏi Việt Nam, ông có nói với Võ Văn Kiệt: "Ước mơ của các anh rất đẹp, nhưng các anh làm như thế này là không được. Đi đâu cũng nghe nói tới nghị quyết, làm cái gì cũng chỉ theo tinh thần nghị quyết này, chủ trương kia thay vì theo pháp luật. Trị nước mà bằng nghị quyết và chỉ thị chung chung thì không được". Khi vừa mới sang định cư tại nước Mỹ, ông còn là thành viên của Hội Ái hữu Công Chánh. Ông qua đời ngày 9 tháng 5 năm 2014 tại San Jose, California, Hoa Kỳ. Vinh danh Trong nước Bảo quốc Huân chương (1963) Kinh tế Bội tinh (1969) Nước ngoài Huân chương Cảnh tinh Đại thụ Trung Hoa Dân Quốc Đời tư Theo cuốn Who's who in Vietnam xuất bản năm 1974 cho biết Dương Kích Nhưỡng là người thờ cúng tổ tiên và chưa lập gia đình. Tham khảo Sinh năm 1932 Mất năm 2014 Họ Dương Người Mỹ Tho Bộ trưởng Việt Nam Cộng hòa Chính khách Việt Nam Cộng hòa Phó Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa
348
19832512
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20B%E1%BA%A3o%20lu%E1%BA%ADt%20l%E1%BB%87nh
Đại Bảo luật lệnh
là một cuộc cải tổ hành chính ban hành vào năm 703 tại Nhật Bản cuối thời Phi Điểu. Về mặt lịch sử, bộ luật này là một trong các , biên soạn dưới sự chỉ đạo của Hình bộ thân vương Osakabe, Fujiwara no Fuhito và Awata no Mahito. Việc cải tổ bắt đầu theo chiếu chỉ của Thiên hoàng Văn Vũ, phần lớn là điều chỉnh hệ thống triều đình theo mẫu nhà Đường của Trung Quốc, cũng giống như nhiều chính sách phát triển khác ở trong nước. Việc thành lập Đại Bảo luật lệnh là một trong những sự kiện đầu tiên đưa Nho giáo trở thành yếu tố quan trọng trong bộ quy tắc đạo đức, triều đình Nhật Bản. Đến thời Nại Lương, bộ luật được sửa đổi cho phù hợp với truyền thống Nhật Bản và nhu cầu trị nước thực tiễn. Bản sửa đổi ấy được đặt tên là . Đến năm 718 thì việc biên soạn Dưỡng Lão luật lệnh được hoàn tất. Đại Bảo luật lệnh chỉ có hai điểm khác biệt lớn so với mô hình nhà Đường. Đầu tiên, các vị trí trong triều, địa vị giai cấp đều dựa theo nguồn cội, như truyền thống Nhật Bản vốn có, chứ không phải bằng khen tặng như cách làm của người Trung Quốc. Thứ hai, người Nhật bỏ khái niệm “Thiên mệnh” của Trung Quốc, khẳng định rằng quyền lực của Thiên hoàng đến từ dòng dõi hoàng tộc chứ không từ phẩm chất công bình với tư cách là vị vua cai trị. Người ta cho rằng bộ luật này được soạn dựa trên Bộ luật Vĩnh Huy () lưu hành ở Trung Quốc vào năm 651 của Đường Cao Tông. Tổ chức triều chính Đại Bảo luật lệnh thành lập hai nhánh trong triều: và . Thần kỳ quan là nhánh cao hơn, ưu tiên hơn Thái chính quan, xử lí mọi việc tâm linh, lễ nghi. Thái chính quan thì lo những việc thế tục và hành chính. Thần kỳ quan trông coi việc tiến hành lễ hội thường niên và các nghi thức triều đình như lễ đăng quang; tu bổ các thần xã, kỉ luật người cai quản thần xã; ghi chép, quan sát những lời tiên tri, bói toán. Điều quan trọng đáng lưu ý là nhánh quan này tuy quản lí tất cả các thần xã trong nước, nhưng lại không có quan hệ gì với Phật giáo. Thái chính quan trông coi mọi việc thế tục và được lãnh đạo bởi một đại hội đồng do Thái chính đại thần đứng đầu. Tả đại thần (Sadaijin 左大) và Hữu đại thần (Udaijin 右大臣), Tả đại biện (Sadaiben 左大弁 và hũu đại biện (Udaiben 右大弁), bốn Đại Nạp ngôn (Dainagon 大納言) và ba Thiểu nạp ngôn (Shōnagon 少納言) đã tiến hành lập ra hội đồng, giúp việc cho Thái chính đại thần. Tám Tỉnh của triều đình lần lượt giúp việc cho cả tả hữu đại thần và tả hữu đại biện. Tổ chức và quản lí cấp tỉnh Đất nước được chia thành các quốc (国 kuni), triều đình bổ nhiệm các Quốc ty (国司 kokushi), chia thành bốn cấp (gọi là Shitōkan) là kami, suke, jo và sakan cho mỗi quốc. Các quốc lại được chia thành các quận (郡 gun) hay kōri được quản lí bởi quan Quận ty (郡司 gunji), chức quan này do địa phương bổ nhiệm. Những quan chức địa phương này trông coi việc giữ gìn hòa bình, thu tô thuế, tuyển mộ sưu dịch, lưu giữ sổ sách đăng kí nhân khẩu và phân chia đất đai. Dưới cấp quận còn nhiều đơn vị phân chia tiếp theo, có tổ chức địa phương rất khác nhau, nhưng hầu hết là giống một thị trấn gồm khoảng 50 ngôi nhà do một người đứng đầu lãnh đạo. Tuy nhiên, số quốc lại không cố định. Khi vùng đất mới phát triển thì nhiều quốc mới lại ra đời. Vào thời điểm mà Đại Bảo luật lệnh được ban hành, nước Nhật có 66 quốc, gồm 592 quận. Ảnh hưởng của Trung Quốc Hệ thống Trung Quốc được gọi là ritsuryō ở Nhật Bản đã được cả hai vương quốc trên bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản áp dụng cùng một lúc. Tục Nhật Bản kỷ có chép rằng, thành viên tham gia Đại Bảo luật lệnh là 18 quý tộc Nhật Bản và một học giả Trung Quốc (薩弘恪 Satsu Koukaku, Tát Hoằng Khác). Học giả Trung Quốc Satsu đóng một vai trò quan trọng. Ông tham gia soạn bộ luật và thường xuyên được Thiên hoàng ban thưởng. Niên đại Những hiểu biết hiện tại về điều kiện trước khi diễn ra cải cách Taihō vẫn còn đầy rẫy những câu hỏi không trả lời được, nhưng có thể suy luận được nhiều điều—ví dụ: "Cuộc cải cách năm 645 đột ngột và triệt để hơn nhiều so với một sự biến đổi tương tự vào năm 1868. Trước đây, cả nước nói chung thụ động hơn nhiều vì chỉ một số ít quan lại chuyển đổi được sâu rộng. Năm 1868, mặc dù ngai vàng của Hoàng thất là nguồn cảm hứng cho phong trào, nhưng sự việc thực tế đã thu hút được một bộ phận đáng kể dân chúng trong nước tham gia. Hơn nữa, người Nhật ở thế kỉ 19 đã được chuẩn bị tốt hơn về mặt chính trị, xã hội và trí tuệ cho cuộc sống mới so với người Nhật ở thế kỉ thứ bảy. Không nói gì đến sự huấn luyện của chế độ phong kiến mà chính nó đã nhận lấy, họ đã được rèn luyện tinh thần tốt hơn rất nhiều so với tổ tiên của họ vào năm 645, vì những người đó đã phục hưng trí tuệ, và một số người trong đó còn đã mài giũa lòng khao khát kiến thức của mình bằng cách nghiên cứu sách tiếng Hà Lan". Bất kì việc kiểm tra các văn bản được biết đến sớm nhất đều trở thành bài tập về lịch sử—ví dụ: "Cần phải nói điều gì đó về hình thức mà Bộ luật [Taihō] được truyền lại cho chúng ta. Bộ luật chỉ tồn tại trong ấn bản 833, trong đó, ngoài văn bản 701, còn có các bình luận chính thức soạn vào năm 718 và 833. Ngày tháng không được ghi chú, và do đó sẽ là một câu hỏi quan trọng về định luật ban đầu của 701. Tác phẩm được viết bằng ba loại khác nhau đan xen lẫn nhau trong mỗi bài viết, loại thứ nhất là loại lớn nhất, loại thứ hai nhỏ hơn và loại thứ ba ở dạng chú giải có dòng đôi. Trong số này, loại thứ nhất tạo thành văn bản chính, còn hai loại kia là những lời bình về nó. Trong loại thứ hai, một lần nữa, loại thứ hai chiếm phần bình nhỏ hơn nhiều so với loại thứ ba xác định rằng loại thứ ba được viết về sau và hai loại kia trước năm 809, vì một chiếu chỉ năm đó trích dẫn các đoạn từ hai loại sau, nhưng lại không đề cập đến phần tương ứng của loại trước mà nếu nó tồn tại thì không thể từ đó bản chất của nó đã thoát khỏi sự tham khảo. Bằng chứng này dường như tương đương với việc nói rằng loại thứ ba đại diện cho bình luận của năm 833, vì không có bình luận nào khác được đưa ra từ năm 809 đến năm 833 đã được chấp nhận trong tác phẩm của năm sau." Mặc dù cần thiết như một điểm khởi đầu, nhưng bất cứ danh sách các sự kiện nối tiếp nào cũng chỉ tiết lộ một phần của câu chuyện đang diễn ra - ví dụ: Năm 645, tháng 6: Thiên hoàng Hiếu Đức lên ngôi. Bổ nhiệm ba đại thần Việc đặt tên cho thời đại đầu tiên là Đại hóa (大化 Taika) Năm 645, tháng 8 Bổ nhiệm, chỉ thị các ty phía đông Nhận những lời kêu gọi của dân chúng từ những người đại diện Xác định tình trạng tự do và không tự do Tổ chức, bảo vệ và kiểm soát giáo hội Phật giáo Năm 645, tháng 9 Hoàng tự Furubito nổi dậy rồi sụp đổ; một phe đối lập bị loại bỏ Thu thập võ khí của đất nước Cấm chiếm đất đai đối với những kẻ có thế lực Năm 646, tháng 1 Chiếu Cải cách, bãi bỏ miyake, tomo và những nơi tư nhân, lập lương bổng cho quan lại, xác định xứ trung tâm và các đơn vị hành chính nhỏ hơn, quy định việc phân bổ đất đai và đánh tô thuế. Các kho võ khí được lệnh xây ở kuni và kiri. Năm 646, tháng 3 Tịch thu Mita và Miyake Sửa lại việc lạm dụng mai táng, hôn nhân và một số phong tục xấu phổ biến. Năm 646, tháng 8: Công bố ý định lập ra một trật tự cấp bậc và chức quan mới. Năm 647, tháng 1: Công bố ý định lập ra một trật tự cấp bậc và chức quan mới. Năm 647, tháng 10: Lập ra mười ba cấp bậc Năm 649, tháng 2: Lập Mười chín cấp bậc. Tám quan và nhiều cơ quan nữa được thành lập. Năm 652, tháng 4: Việc giao đất đai đã hoàn thành, tiến hành việc điều tra nhân khẩu đã được thực hiện. Làng mạc được chia thành đơn vị năm ngôi nhà. Tham khảo Thế kỷ 8 Thời kỳ Asuka Lịch sử Nhật Bản Năm 701 Bộ luật
1,623
19832520
https://vi.wikipedia.org/wiki/Winton%20W.%20Marshall
Winton W. Marshall
Winton Whittier Marshall (9 tháng 7 năm 1919 – 19 tháng 9 năm 2015) là một trung tướng Không quân Hoa Kỳ và là phi công ách. Ông là phó tổng tư lệnh, Bộ Tư lệnh Chiến đấu Hoa Kỳ, sở chỉ huy tại Căn cứ Không quân MacDill ở Florida trước khi giải ngũ vào năm 1977. Đầu đời Winton Whittier Marshall sinh ngày 6 tháng 7 năm 1919 tại Detroit, Michigan. Binh nghiệp Marshall bắt đầu sự nghiệp quân sự khi là học viên trường sĩ quan hàng không vào năm 1942. Ông hoàn thành huấn luyện bay tại Căn cứ Không quân Lục quân Yuma ở Arizona, và nhận phù hiệu phi công và được sắc phong hàm thiếu úy vào tháng 4 năm 1943. Được phân công đến Không trường Lục quân Las Vegas ở Nevada, ông ban đầu là phi công của Liên đoàn Huấn luyện Pháo binh Chiến đấu số 326 trước khi trở thành trưởng ban huấn luyện Bell P-39 Airacobra. Vào tháng 2 năm 1945, ông đến Vùng kênh đào Panama khi là phi công của Phi đoàn Chiến đấu số 28 và là sĩ quan tác chiến của Phi đoàn Chiến đấu số 32, sau này là Phi đoàn Chiến đấu số 23, Liên đoàn Tác chiến số 36. Vào tháng 7 năm 1947, ông được chuyển đến Không trường Dow, Maine, làm sĩ quan tác chiến của Phi đoàn Chiến đấu số 48, Liên đoàn Chiến đấu số 14, phi đoàn đầu tiên được trang bị F-84 Thunderjet, và tham gia khóa thử nghiệm F-84 tại Căn cứ Không quân Edwards ở California. Marshall vào Trung tâm Chiến thuật Không lực Lục quân tại Căn cứ Không quân Tyndall ở Florida vào tháng 8 năm 1948 và bốn tháng sau trở thành sĩ quan tác chiến của Phi đoàn Chiến đấu số 84 tại Căn cứ Không quân Hamilton ở California. Chiến tranh Triều Tiên Vào tháng 5 năm 1951, Marshall được bổ nhiệm trở thành tư lệnh Phi đoàn Chiến đấu số 335 trong Chiến tranh Triều Tiên. Đóng quân tại Căn cứ Không quân Kimpo ở Hàn Quốc, ông thực hiện các nhiệm vụ trên chiếc F-86 Sabre. Marshall lần lượt bắn hạ chiếc MiG-15 đầu tiên và thứ hai vào ngày 1 và 2 tháng 9 năm 1951 trên bầu trời Sinanju. Marshall bắn hạ thêm hai chiếc MiG-15, trong đó một chiếc là chiến công chung, vào ngày 28 tháng 11. Một trong những máy bay tiêm kích này do German Shatalov, một phi công ách của Liên Xô với 5 chiến công trên không bắn hạ máy bay Mỹ. Vào ngày 30 tháng 11 năm 1951, Phi đoàn Chiến đấu số 335 và các phi đoàn khác trong Không đoàn Chiến đấu số 4 đã chặn một đội hình trên không của Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc gồm 9 máy bay ném bom Tupolev Tu-2 và 16 chiếc Lavochkin La-11 đang cố gắng không kích vào đảo Cho'do. Marshall bắn hạ một chiếc Tu-2 và một chiếc La-11, lập chiến công thứ tư và thứ năm và được trao huy hiệu phi công ách. Trong lúc ông cố gắng bắn một chiếc La-11 khác do phi công người Trung Quốc Vương Thiên Bảo điều khiển, Marshall bắn quá đà khi chiếc La-11 rẽ mạnh sang trái, kết quả chiếc La-11 thực hiện một phát súng chệch hướng dài trúng cánh trái của chiếc F-86 của Marshall. Vương thấy chiếc F-86 xoay tròn rồi rơi xuống và khẳng định phá hủy chiếc F-86 sau khi ông quay trở lại căn cứ ở Đông Bắc Trung Quốc. Dù vậy, Marshall cố gắng lấy lại ý thức và kiểm soát chiếc F-86 đang xoay tròn. Ông điều khiển chiếc máy bay bị hỏng đến Căn cứ Không quân Suwon, tại đây chiếc máy bay được sửa chữa và chữa trị vết thương cho Marshall. Vì sự dũng cảm của mình trong trận không chiến ngày 30 tháng 11, ông được trao Ngôi sao Bạc. Sau khi bình phục, Marshall tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu. Ông bắn hạ chiếc MiG-15 thứ tư và nâng tổng chiến công thứ sáu vào ngày 5 tháng 12 năm 1951. Marshall trở thành phi công máy bay phản lực thứ năm trong Chiến tranh Triều Tiên, được công nhận đã bắn phá hủy 6 1/2 máy bay quân địch, bảy chiếc có khả năng xảy ra và sáu chiếc bị hư hại, trong khi thực hiện 100 nhiệm vụ. Vào tháng 1 năm 1952, ông trở về Hoa Kỳ chỉ huy Phi đoàn Máy bay tiêm kích đánh chặn số 93 tại Căn cứ Không quân Kirtland ở New Mexico. Hậu chiến Marshall được bổ nhiệm trở thành tư lệnh Phi đoàn Tiêm kích Đánh chặn số 15 tại Căn cứ Không quân Davis–Monthan ở Arizona vào tháng 7 năm 1953. Tại đây, Marshall được công nhận khi thổi tắt một máy bay ném bom B-47 của Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược đang bốc cháy ở cuối đường băng. Vì không va chạm hay thiết bị chữa cháy và phi hành đoàn thoát ra, ông lái chiếc F-86 của mình đến chiếc máy bay đang bốc cháy và thổi tắt đám cháy bằng ống xả máy bay phản lực. Vì việc này, Marshall được bổ nhiệm vào Đoàn Cảnh báo của Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược. Ông đã bay trong cuộc đua hàng không xuyên lục địa Bendix năm 1953 và là trưởng phi hành đoàn Đội Lực lượng Phòng không Trung ương của Bộ Tư lệnh Phòng không năm 1953 và 1954. Tháng 7 năm 1954, Marshall trở thành trưởng Ban Đánh giá Chiến thuật của Lực lượng Phòng không Trung ương tại Căn cứ Không quân Richards-Gebaur ở Missouri, ông thiết lập hệ thống đánh giá chiến thuật đầu tiên trong Bộ Tư lệnh Phòng không; phát triển hệ thống nhằm vào cuộn dây kéo hoạt động bằng sức gió đầu tiên; và đứng đầu một nhóm kỹ thuật viên quân sự và dân sự mở rộng khả năng tìm kiếm radar (sau đó là Marshall fix) của máy bay tiêm kích đánh chặn từ . Năm 1957, ông là trưởng Đội đua Bendix Trophy của Lực lượng Phòng không Trung ương điều khiển chiếc F-102 Delta Dagger, đội của ông đứng vị trí thứ nhất và thứ hai. Marshall vào Học viện Chiến tranh Không quân tại Căn cứ Không quân Maxwell ở Alabama, vào năm 1958, và khi tốt nghiệp được phân công vào Không đoàn số 49 ở Pháp với tư cách là phó tư lệnh về tác chiến. Không đoàn được chuyển đến Spangdahlem, Tây Đức, ông đóng vai trò quan trọng trong việc đưa hệ thống hạ cánh phát ánh sáng đầu tiên vào một căn cứ quân sự đang hoạt động ở Châu Âu. Marshall đảm nhận cương vị chỉ huy Khu vực Phòng thủ Đồng minh của NATO trong Sư đoàn Không quân số 86 tại Căn cứ Không quân Ramstein ở Tây Đức vào tháng 1 năm 1961. Tại đây, ông được công nhận là người có công phát triển vòng hở mạng lưới thông tin liên lạc phòng không chiến đấu cung cấp thông tin liên lạc trực tiếp hệ thống phản ứng để đối phó với mối đe dọa MiG của Đông Đức và Tiệp Khắc. Ông còn đóng vai trò chủ chốt trong việc lập trình và lắp đặt Hệ thống phòng không tự động 412-L liên kết Sư đoàn không quân 86 và hệ thống tên lửa đất đối không của Lục quân Hoa Kỳ. Ông đến Sở chỉ huy Không quân Hoa Kỳ ở Lầu Năm Góc tại Washington, D.C., vào tháng 6 năm 1964, để phục vụ trong Tổng cục Tác chiến với chức vụ liên tiếp là phó trưởng và trưởng Sư đoàn Phòng không, rồi phó viên trưởng các lực lượng. Từ tháng 6 năm 1966 đến tháng 7 năm 1967, ông phục vụ trong Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ với tư cách là phó viên trưởng tác chiến, J-3 tại Trung tâm Chỉ huy Quân sự Quốc gia, và Sư đoàn Châu Âu, Tổng cục Kế hoạch, J-5. Vào tháng 5 năm 1968, Marshall được bổ nhiệm giữ chức tham mưu trưởng Không quân Đồng minh Nam Âu tại Napoli, Ý, đến tháng 9 năm 1969 trở thành viên trưởng kế hoạch của J-5, Bộ Tư lệnh Châu Âu Hoa Kỳ, tại Vaihingen, Tây Đức. Trong Chiến tranh Việt Nam, ông được bổ nhiệm trở thành phó tư lệnh Không quân thứ 7 tại Căn cứ không quân Tân Sơn Nhất thời Việt Nam Cộng hòa vào tháng 9 năm 1971. Vào thời điểm này, ông thực hiện 88 nhiệm vụ chiến đấu trên nhiều loại máy bay tiêm kích và cường kích. Tháng 9 năm sau, ông chuyển đến Sở chỉ huy Không quân Thái Bình Dương tại Căn cứ Không quân Hickam ở Hawaii, giữ chức phó tham mưu trưởng, kế hoạch và tác chiến. Marshall được thăng quân hàm trung tướng có hiệu lực từ ngày 1 tháng 9 năm 1974. Ông được bổ nhiệm giữ chức phó tổng tư lệnh Không quân Thái Bình Dương vào tháng 9 năm 1974. Nhiệm vụ cuối cùng của ông là Phó tổng tư lệnh thuộc Bộ Tư lệnh Sẵn sàng Hoa Kỳ tại Căn cứ Không quân MacDill ở Florida, từ tháng 6 năm 1975 cho đến khi giải ngũ vào ngày 1 tháng 9 năm 1977. Qua đời Marshall qua đời tại Trung tâm Y tế Lục quân Tripler ở Hawaii, vào ngày 19 tháng 9 năm 2015. Ông được an táng tại Nghĩa trang quốc gia Arlington. Huy chương Các huy chương quân sự của ông bao gồm Huy chương Phục vụ Xuất sắc Không quân với cụm lá sồi; Ngôi sao Bạc; Legion of Merit với ba cụm lá sồi; Huy chương Chữ thập Xuất sắc với hai cụm lá sồi; Huân chương Ngôi sao Đồng; Huy chương Không quân với năm cụm lá sồi; Trái tim Tím; của Hàn Quốc: Huân chương Quân công, Huân chương Chungmu sao vàng và Huy chương Bảo quốc; và từ Việt Nam Cộng hòa: Bảo quốc Huân chương hạng 5, và Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Ngôi sao Bạc Marshall, Winton W. Đại tá, Không quân Hoa Kỳ Phi đoàn tiêm kích đánh chặn số 335, Không đoàn tiêm kích đánh chặn số 4, Không quân số 5 Ngày hành động: 30 tháng 11 năm 1951 Trích dẫn: Chú thích Trung tướng Không quân Hoa Kỳ Phi công Không lực Lục quân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai Phi công Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam Bảo quốc Huân chương
1,789
19832523
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aberdeen%20Bestiary
Aberdeen Bestiary
Aberdeen Bestiary (Thư viện Đại học Aberdeen, Univ Lib. MS 24) là một kho lưu trữ bản thảo được viết bằng tiếng Anh thế kỷ 12, lần đầu tiên được liệt kê vào năm 1542 trong kho của Thư viện Hoàng gia Cũ tại Cung điện Westminster. Do những điểm tương đồng nên nó thường được coi là bản thảo "chị em" của Ashmole Bestiary. Mối liên hệ giữa văn bản giáo khoa Physiologus của Hy Lạp cổ đại và các bản thảo viết về thú vật tương tự cũng thường được ghi nhận. Thông tin về nguồn gốc và người bảo trợ của bản thảo chỉ là gián tiếp, mặc dù bản thảo rất có thể có nguồn gốc từ thế kỷ 13 và thuộc sở hữu của một người bảo trợ giáo hội giàu có từ miền bắc hoặc miền nam nước Anh. Hiện tại, Aberdeen Bestiary đang nằm trong Thư viện Đại học Aberdeen ở Scotland. Lịch sử Aberdeen Bestiary và Ashmole Bestiary được Xenia Muratova, giáo sư lịch sử nghệ thuật, coi là "tác phẩm của các nghệ sĩ khác nhau thuộc cùng một môi trường nghệ thuật." Do "những điểm tương đồng nổi bật" nên chúng thường được các học giả so sánh và mô tả là "các bản thảo chị em". Học giả theo chủ nghĩa thời trung cổ M. R. James coi Aberdeen Bestiary là '' bản sao của Ashmole 1511 ", một quan điểm được nhiều nhà sử học nghệ thuật khác lặp lại. Tham khảo
252
19832533
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9%20N%E1%BA%A1p
Vũ Nạp
Vũ Nạp (?-?) là một danh tướng trong lịch sử Việt Nam, người đã có công lớn trong chiến thắng Bạch Đằng trước những cuộc xâm lược của quân Nguyên-Mông. Ông là người bắt được hai danh tướng Nguyên-Mông là Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp trong lần xâm lược thứ hai 1288. Vũ Nạp sinh ra ở làng Mộ Trạch, huyện Đường An, phủ Hồng Châu, trấn Hải Đông (nay là làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, tỉnh Hải Dương. Thủa nhỏ Vũ Nạp ham học nên tinh thông cả đạo Nho lẫn đạo Phật. Năm 1247 thời vua Trần Thái Tông thứ 19 mở khoa thi Tam giáo, ông đỗ Ất khoa với tên gọi "Vũ Vị Phủ", ông được bổ nhiệm làm quan với chức Tăng thống Hàn lâm viện (1247-1258). Được triều đình trọng dụng, Vũ Nạp tham gia cả 3 lần đánh quân Nguyên-Mông. Được vua giao chức Phó tướng làm nhiệm vụ phòng thủ ven biển hướng Đông Bắc khu trú quân áng Lạc, áng Hồ, dãy núi Gia Minh và Tràng Kênh. Tháng 2 năm 1288 Vũ Nạp kéo quân sang Yên Hưng ứng viện cho Trần Khánh Dư đang giao chiến quyết liệt với Ô Mã Nhi. Sau trận này Vũ Nạp được vua giao làm Chủ tướng chỉ huy quân sĩ và nhân dân tiếp tục chiến đấu và đắp đường từ làng Giang Minh về Tràng Kênh. Đặc biệt vào ngày 9 tháng 4 năm1288 (tức ngày 8 tháng 3 năm Mậu Tý), Vũ Nạp đã chỉ huy quân sĩ tổ chức tập kích, đón thời cơ tiêu diệt giặc. Ông chỉ huy đạo quân của mình tham gia vào trận đánh thuỷ công hoả chiến trên sông Bạch Đằng lịch sử như Trương Hán Siêu đã mô tả trong bài Bạch Đằng giang phú. Toàn bộ chiến thuyền giặc bị tiêu diệt và thu được hơn 400 chiếc, bắt sống nhiều tù binh trong đó có hai danh tướng Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp. Sau chiến công ông được vua phong với tước "Đồng Giang hầu Vũ tướng quân". Được vua cho gọi về kinh đô, nhưng ông đã làm sớ trình tâu, xin vua cho ở lại đất Tràng Kênh và mất tại đó (ngày 4 tháng Giêng âm lịch). Nhân dân địa phương lập miếu thờ để tưởng nhớ công lao to lớn của ông. Gia đình Ông có con trưởng là Vũ Nghiêu Tá thi đậu Thái học sinh (tên gọi khác của Tiến sĩ Nho học) giữ chức Hành khiển (Tể tướng). Người con trai thứ hai là Vũ Minh Nông cũng đậu Thái học sinh làm Thượng thư. Vinh danh Tên danh nhân Vũ Nạp được đặt cho một con phố tại Thành phố Hải Dương. Xem thêm Theo Thủ khoa hiện đại-Nghệ sĩ thị giác Vũ Tú, dòng họ Vũ ở xã Xuân Lan, huyện Lương Tài (nay là thôn Ngọc Quan) có những người làm rạng danh xứ Kinh Bắc như Vũ Miên, Vũ Trinh, Vũ Chu(thông gia với Nguyễn Thiện Thuật, đã có công lao trong Khởi nghĩa Bãi Sậy), Vũ Quyền (nhà giáo dục nổi tiếng thời Nguyễn), Nghệ sĩ-Thủ khoa Vũ Tú...là một nhánh hậu duệ của ông Vũ Nạp, dòng Tể tướng Vũ Nghiêu Tá. Ngọc Quan do có nét đặc sắc về khoa cử được vinh dự mang tên Làng Khôi nguyên xứ Bắc. Tham khảo Vũ Ngọc Khánh: Võ tướng Việt Nam - Trang 121, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin 2016
580
19832539
https://vi.wikipedia.org/wiki/Android%20Go
Android Go
Android Go, hay chính thức là Android (Go edition), là một phiên bản rút gọn của hệ điều hành Android, được thiết kế cho các điện thoại thông minh giá rẻ và siêu bình dân (nhưng cũng được sử dụng cho một số máy tính bảng). Tuy nhiên, Hệ điều hành này được dành riêng cho các điện thoại thông minh có 2 GB RAM trở xuống và lần đầu tiên được phát hành cho Android Oreo. Chế độ này có các tối ưu hóa nền tảng được thiết kế để giảm sử dụng dữ liệu di động (bao gồm bật chế độ Trình tiết kiệm dữ liệu theo mặc định) và một bộ dịch vụ Google Mobile đặc biệt được thiết kế để sử dụng ít tài nguyên và băng thông hơn. Gói Google Play Services cũng được chia thành các mô-đun để giảm dung lượng bộ nhớ của nó. Google Play Store sẽ làm nổi bật các ứng dụng nhẹ hơn phù hợp với các thiết bị này. Giao diện của hệ điều hành Android Go khác với giao diện của Android chính. Một số dịch vụ hệ thống bị vô hiệu hóa để cải thiện hiệu suất. Hầu hết các thiết bị chạy Android Go đều sử dụng GUI Android "nguyên bản" của Google, mặc dù có một số nhà sản xuất vẫn sử dụng GUI tùy chỉnh. Chú thích Liên kết ngoài Android (hệ điều hành) Hệ điều hành điện thoại thông minh Máy tính bảng
245
19832548
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%97%20Th%C3%BAy%20H%E1%BA%B1ng
Đỗ Thúy Hằng
Đỗ Thúy Hằng là nữ diễn viên truyền hình, cựu người mẫu và doanh nhân Việt Nam. Cô được biết đến qua các phim dài tập Mưa bóng mây, Bí mật Eva, và từng dành giải Nữ diễn viên xuất sắc hạng mục phim truyện điện ảnh tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19 với bộ phim Cuộc đời của Yến. Tiểu sử Đỗ Thúy Hằng sinh năm 1982, trong gia đình có 5 anh chị em tại Kim Sơn, Ninh Bình, sau này gia đình cô chuyển vào Vinh, Nghệ An, Khi học khoa Quản trị doanh nghiệp của Đại học Đông Đô, Thúy Hằng từng tham gia một cuộc thi hoa hậu nhưng chỉ vào top các người đẹp của vòng loại tổ chức tại Hà Nội. Cô được cặp người mẫu Thúy Hằng - Thúy Hạnh chỉ dẫn và trở thành người mẫu độc quyền của Công ty Elite. Tại SEA Games 22, Thúy Hằng được chị là người dẫn chương trình đọc kết quả các trận chung kết. Sau sự kiện này, cô trở thành người dẫn dắt các chương trình của VTV và VTC như Sức sống mới, Lợi ích cộng đồng và Đẹp cùng thể thao. Sự nghiệp Năm 2009, cô nhận lời làm người tuyển diễn viên đóng vai Hoài Anh cho bộ phim Bí mật Eva. Nhưng đến ngày thử vai thì những người được cô chọn lại không đến, Thúy Hằng bất đắc dĩ thử vai thay thế và bất ngờ được nhận. Sau khi hoàn thành bộ phim Bí mật Eva, cô chuyển sang Nhật Bản sống cùng chồng, nhưng môi trường sống mới không phù hợp nên Thúy Hằng quay về Việt Nam và bắt đầu kinh doanh các sản phẩm liên quan đến golf. Năm 2014, cô được đạo diễn Trần Lực mời vào vai chính trong bộ phim truyền hình Lằm chồng đại gia; tiếp đến, cô được đạo diễn Trọng Trinh mời tham gia phim truyền hình Mưa bóng mây. Ban đầu Trọng Trinh muốn cô đóng vai Huệ nhưng cuối cùng vị đạo diễn đã đổi cho cô đóng nhân vật Nga. Qua bộ phim này, Thúy Hằng được Trung Hiếu giới thiệu đến đạo diễn Nguyễn Đức Việt, lúc này đang tìm diễn viên nữ chính cho bộ phim điện ảnh Những đứa con của làng. Năm 2015, Thúy Hằng nhận vai Yến, nhân vật chính trong bộ phim điện ảnh Cuộc đời của Yến của đạo diễn Đinh Tuấn Vũ. Để tập trung vào công việc và gia đình, Thúy Hằng đã từ chối một vai diễn trong dự án phim Bến tình của Lưu Trọng Ninh và vai cô giáo Linh trong Nàng dâu Order. Năm 2015, Thúy Hằng có hai đề cử cho Nữ diễn viên chính xuất sắc hạng mục Phim truyện điện ảnh tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19. Tại kỳ liên hoan phim này cô bất ngờ dành giải dù trước đấy dự luận dự đoán giải thưởng sẽ thuộc về Lã Thanh Huyền. Năm 2018, Thúy Hằng được đạo diễn Mai Hồng Phong mời vào vai Lan Cave trong phim Quỳnh búp bê, nhưng cô từ chối; vai diễn sau này giúp diễn viên Thanh Hương có bước tiến lớn trong sự nghiệp. Năm 2019, cô được đạo diễn Đinh Tuấn Vũ mời vào vai Mùi, nữ chính trong phim điện ảnh Truyền thuyết về Quán Tiên, đây là bộ phim thứ hai họ hợp tác. Năm 2020, cô trở lại với dòng phim truyền hình với vai diễn Thủy trong phim Lửa ấm, để có thời gian tham gia bộ phim này, Thúy Hằng đã phải từ chối hai bộ phim điện ảnh khác, một trong số đó là dự án Viên đạn cuối cùng của Đinh Tuấn Vũ. Sau thời gian nghỉ ngơi, năm 2022, Thúy Hằng tiếp tục có vai diễn chính trong bộ phim truyền hình Chồng cũ, vợ cũ, người yêu cũ của đạo diễn Vũ Trường Khoa. Đời tư Thúy Hằng kết hôn với một doanh nhân mang hai dòng máu Nhật Bản và Việt Nam, họ quen biết nhau từ năm 2003 trong dịp Thúy Hằng dự sự kiện văn hóa tại Osaka, hiện tại, có hai con trai. Thúy Hằng tham gia đóng phim dù chồng cô không muốn cô tham gia lĩnh vực nghệ thuật. Giải thưởng Vai diễn Điện ảnh Phim truyền hình Tham khảo Phim và người giành giải Liên hoan phim Việt Nam Nhân vật còn sống Nữ diễn viên điện ảnh Việt Nam Nữ diễn viên truyền hình Việt Nam Sinh năm 1982 Nữ diễn viên Việt Nam thế kỷ 21 Người Ninh Bình
769
19832565
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thu%E1%BB%99c%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20Virginia
Thuộc địa Virginia
Thuộc địa Virginia (tiếng Anh: Colony of Virginia) là một khu định cư thuộc địa của Anh, sau này là của Đế quốc Anh, ở Bắc Mỹ, tồn tại từ năm 1606 đến 1776. Nỗ lực đầu tiên nhằm tạo ra một khu định cư của người Anh trong khu vực được ban hành vào năm 1584 và được thành lập vào năm 1585; Kết quả là Thuộc địa Roanoke được tái lập 3 lần, tồn tại tổng cộng được 6 năm. Năm 1590 thuộc địa bị bỏ hoang. Nhưng gần 20 năm sau, thuộc địa được tái định cư tại Jamestown, cách địa điểm ban đầu không xa về phía Bắc. Điều lệ thứ 2 được ban hành năm 1606 và được giải quyết vào năm 1607, trở thành thuộc địa lâu dài đầu tiên của Anh ở Bắc Mỹ. Nó diễn ra sau những nỗ lực thất bại trong việc định cư ở Newfoundland của Ngài Humphrey Gilbert vào năm 1583 và Thuộc địa Roanoke (ở miền Đông của Bắc Carolina hiện đại) của Ngài Walter Raleigh vào cuối những năm 1580. Sáng lập thuộc địa thứ 2 là Công ty Virginia, do Vua James I ủy quyền, với hai khu định cư đầu tiên ở Jamestown trên bờ bắc sông James và Thuộc địa Popham trên sông Kennebec ở Maine ngày nay, cả hai đều là thuộc địa, vào năm 1607. Thuộc địa Popham nhanh chóng thất bại vì nạn đói, bệnh tật và xung đột với các bộ lạc người Mỹ bản địa ở địa phương trong 2 năm đầu. Jamestown chiếm đất thuộc Liên minh Powhatan và cũng đứng trên bờ vực thất bại trước khi có sự xuất hiện của một nhóm người định cư mới và cung cấp hàng hóa bằng tàu vào năm 1610. Thuốc lá trở thành mặt hàng xuất khẩu có lợi nhuận đầu tiên của Virginia, việc sản xuất mặt hàng này có tác động đáng kể đến xã hội và mô hình định cư. Năm 1624, hiến chương hoàng gia của Công ty Virginia bị Vua James I thu hồi và Thuộc địa Virginia được chuyển giao cho hoàng gia với tư cách là thuộc địa vương thất. Sau Nội chiến Anh vào những năm 1640 và 1650, thuộc địa Virginia được vua Charles II đặt biệt danh là "The Old Dominion" vì lòng trung thành với chế độ quân chủ Anh trong thời kỳ Bảo hộ và Thịnh vượng chung Anh. Từ năm 1619 đến 1775/1776, cơ quan lập pháp thuộc địa của Virginia là Đại hội đồng, cơ quan điều hành cùng với một thống đốc thuộc địa. Jamestown vẫn là thủ đô của Thuộc địa Virginia cho đến năm 1699; từ năm 1699 cho đến khi giải thể, thủ đô đặt ở Williamsburg. Thuộc địa này trải qua tình trạng hỗn loạn chính trị lớn đầu tiên với Cuộc nổi dậy Bacon năm 1676. Sau khi tuyên bố độc lập khỏi Vương quốc Đại Anh vào năm 1775, trước khi Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ được chính thức thông qua, Thuộc địa Virginia trở thành Thịnh vượng chung Virginia, một trong 13 bang đầu tiên của Hoa Kỳ, lấy khẩu hiệu chính thức là "The Old Dominion". Toàn bộ các bang hiện đại như Tây Virginia, Kentucky, Indiana và Illinois, cũng như các phần của bang Ohio và Tây Pennsylvania sau đó được thành lập từ lãnh thổ được bao trùm hoặc thuộc địa Virginia tuyên bố chủ quyền vào thời điểm Hoa Kỳ giành được độc lập vào tháng 7 năm 1776. References Đọc thêm Appelbaum, Robert, and John Wood Sweet, eds. Envisioning an English empire: Jamestown and the making of the North Atlantic world (U of Pennsylvania Press, 2011) Bell, Alison. "Emulation and empowerment: Material, social, and economic dynamics in eighteenth-and nineteenth-century Virginia." International Journal of Historical Archaeology 6.4 (2002): 253–298. Billings, Warren M., John E. Selby, and Thad W, Tate. Colonial Virginia: A History (1986) Bond, Edward L. Damned Souls in the Tobacco Colony: Religion in Seventeenth-Century Virginia (2000), Breen T. H. Puritans and Adventurers: Change and Persistence in Early America (1980). 4 chapters on colonial social history online Breen, T. H. Tobacco Culture: The Mentality of the Great Tidewater Planters on the Eve of Revolution (1985) Breen, T. H., and Stephen D. Innes. "Myne Owne Ground": Race and Freedom on Virginia's Eastern Shore, 1640–1676 (1980) Brown, Kathleen M. Good Wives, Nasty Wenches, and Anxious Patriarchs: Gender, Race, and Power in Colonial Virginia (1996) excerpt and text search Byrd, William. The Secret Diary of William Byrd of Westover, 1709–1712 (1941) ed by Louis B. Wright and Marion Tinling; famous primary source; very candid about his private life Bruce, Philip Alexander. Institutional History of Virginia in the Seventeenth Century: An Inquiry into the Religious, Moral, Educational, Legal, Military, and Political Condition of the People, Based on Original and Contemporaneous Records (1910) Coombs, John C., "The Phases of Conversion: A New Chronology for the Rise of Slavery in Early Virginia," William and Mary Quarterly, 68 (July 2011), 332–60. Davis, Richard Beale. Intellectual Life in the Colonial South, 1585–1763 3 vol 1978), detailed coverage of Virginia Freeman, Douglas Southall; George Washington: A Biography Volume: 1–7. (1948). Pulitzer Prize. Gill, Harold B. Colonial Virginia (1973), for secondary schools online Gleach; Frederic W. Powhatan's World and Colonial Virginia: A Conflict of Cultures (1997). Harkins, Susan Sales. Colonial Virginia (2007) for middle schools online Haskell, Alexander B. For God, King, and People: Forging Commonwealth Bonds in Renaissance Virginia. (U of North Carolina Press. 2017). Heinegg, Paul. Free African Americans of North Carolina, Virginia, and South Carolina from the colonial period to about 1820 (Genealogical Publishing Co, 2005). Heinemann, Ronald L., John G. Kolp, Anthony S. Parent Jr., and William G. Shade, Old Dominion, New Commonwealth: A History of Virginia, 1607–2007 (2007). Hendricks, Christopher E. The Backcountry Towns of Colonial Virginia (U of Tennessee Press, 2006). https://www.gutenberg.org/cache/epub/27117/pg27117-images.html Isaac, Rhys. Landon Carter's Uneasy Kingdom: Revolution and Rebellion on a Virginia Plantation (2004)] Isaac, Rhys. The Transformation of Virginia, 1740–1790 (1982, 1999) Pulitzer Prize winner, dealing with religion and morality; online also online review Kelso, William M. Kingsmill Plantations, 1619–1800: Archaeology of Country Life in Colonial Virginia (Academic Press, 2014). Kolp, John Gilman. Gentlemen and Freeholders: Electoral Politics in Colonial Virginia (Johns Hopkins U.P. 1998) Meacham, Sarah Hand. "Keeping the trade: The persistence of tavernkeeping among middling women in colonial Virginia." Early American Studies 3#1 (2005): 140-163 online. Mellen, Roger P. "The Colonial Virginia press and the Stamp Act: An expansion of civic discourse." Journalism History 38.2 (2012): 74–85. Menard, Russell R. "The Tobacco Industry in the Chesapeake Colonies, 1617–1730: An Interpretation." Research In Economic History 1980 5: 109–177. 0363–3268 the standard scholarly study Morgan, Edmund S. Virginians at Home: Family Life in the Eighteenth Century (1952). Morgan, Edmund S. "Slavery and Freedom: The American Paradox." Journal of American History 1972 59(1): 5–29 in JSTOR Morgan, Edmund S. American Slavery, American Freedom: The Ordeal of Colonial Virginia (1975) online highly influential study Nelson, John A Blessed Company: Parishes, Parsons, and Parishioners in Anglican Virginia, 1690–1776 (2001) Nelson, William E. "Law and the Structure of Power in Colonial Virginia." Valparaiso University Law Review 48 (2013): 757–883. online. Price, David A. Love and Hate in Jamestown: John Smith, Pocahontas, and the Start of a New Nation (2005) Ragsdale, Bruce A. "George Washington, the British tobacco trade, and economic opportunity in prerevolutionary Virginia." Virginia Magazine of History and Biography 97.2 (1989): 132–162. Rasmussen, William M.S. and Robert S. Tilton. Old Virginia: The Pursuit of a Pastoral Ideal (2003) Roeber, A. G. Faithful Magistrates and Republican Lawyers: Creators of Virginia Legal Culture, 1680–1810 (1981) Rountree, Helen C. Pocahontas, Powhatan, Opechancanough: Three Indian Lives Changed by Jamestown (University of Virginia press, 2005), early Virginia history from an Indian perspective by a scholar Rutman, Darrett B., and Anita H. Rutman. A Place in Time: Middlesex County, Virginia, 1650–1750 (1984), new social history; online Shammas, Carole. "English-Born and Creole Elites in Turn-of-the-Century Virginia." in Local Government in European Overseas Empires, 1450–1800 (Routledge, 2018) pp. 589–611. Sheehan, Bernard. Savagism and civility: Indians and Englishmen in colonial Virginia (Cambridge UP, 1980.) online Spangler, Jewel L. "Becoming Baptists: Conversion in colonial and early national Virginia." Journal of Southern History 67.2 (2001): 243–286 online. Talpalar, Morris. The sociology of Colonial Virginia (1968) online Wallenstein, Peter. Cradle of America: Four Centuries of Virginia History (2007). Wertenbaker, Thomas J. The Shaping of Colonial Virginia, comprising Patrician and Plebeian in Virginia (1910) full text online; Virginia under the Stuarts (1914) full text online; and The Planters of Colonial Virginia (1922) full text online; well written but outdated Wright, Louis B. The First Gentlemen of Virginia: Intellectual Qualities of the Early Colonial Ruling Class (1964) online Liên kết ngoài Library of Congress: Evolution of the Virginia Colony, 1610–1630 Thuộc địa Virginia Cựu thuộc địa và xứ bảo hộ Anh tại châu Mỹ Cựu thuộc địa Anh Quốc gia Kitô giáo
1,490
19832569
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3ng%20Virginia
Bảng Virginia
Đồng bảng Virginia (tiếng Anh: Virginia pound) là tiền tệ của Thuộc địa Virginia cho đến năm 1793. Ban đầu, đồng bảng Anh được lưu hành cùng với ngoại tệ, được bổ sung từ năm 1755 bằng tiền giấy địa phương. Mặc dù những tờ tiền này có mệnh giá bằng £sd, nhưng chúng có giá trị thấp hơn đồng bảng Anh, vì vậy 1 shilling Virginia bằng 9d bảng Anh. Pháp luật thuộc địa Năm 1645, cơ quan lập pháp của Thuộc địa Virginia cấm trao đổi hàng hóa và định giá đồng đô la Tây Ban Nha hoặc đồng mãnh tám ở mức 6/–. Cơ quan lập pháp năm 1655 chính thức phá giá đồng đô la Tây Ban Nha xuống 5/-. Tiền xu Virginia Đồng tiền "chính thức" đầu tiên ở Bắc Mỹ thuộc Anh được Thuộc địa Virginia phát hành vào năm 1775, mặc dù chúng có niên đại là năm 1773. Lý do là Viện Burgesses Virginia đã yêu cầu đúc tiền trong vài năm và Vua George III cuối cùng đã đồng ý vào năm đó. Năm tấn tiền xu đã được gửi đến thuộc địa trên con tàu kéo Virginia và hầu hết số tiền xu này đã được phân phối ngay trước khi Cách mạng Hoa Kỳ bùng nổ vào tháng 4 năm 1775. Chúng được coi là loại tiền đúc của Thuộc địa Mỹ có giá cả phải chăng nhất. Tiền tệ lục địa Bang Virginia đã phát hành tiền lục địa có mệnh giá bằng £sd và đô la Tây Ban Nha, với 1 đô la = 6/–. Đồng tiền lục địa được thay thế bằng đồng đô la Mỹ với tỷ giá 1000 đô la lục địa = 1 đô la Mỹ. Tham khảo Thư mục Newman, Eric P. The Early Paper Money of America. 5th edition. Iola, Wisconsin: Krause Publications, 2008. . Xem thêm Bảng (tiền) Tiền tệ lịch sử của Hoa Kỳ Lịch sử tiền bang Virginia Kinh tế Virginia Thuộc địa Virginia
321
19832572
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thu%E1%BB%99c%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20%C4%91%E1%BB%99c%20quy%E1%BB%81n
Thuộc địa độc quyền
Thuộc địa độc quyền (tiếng Anh: Proprietary colony) là một loại hình chính quyền thuộc địa ở Châu Mỹ thuộc Anh trong thế kỷ XVII và ở Đông Ấn cho đến những năm 1850. Tại các vùng đất thuộc sở hữu hải ngoại của Anh, tất cả đất đai đều thuộc về Vương quyền, cơ quan nắm quyền quản lý tối cao. Tất cả các lãnh thổ thuộc địa của Anh đều được Vương quyền phân chia thông qua các hiến chương hoàng gia thành một trong ba loại: độc quyền, vương thất hoặc giao ước. Theo hệ thống độc quyền, các cá nhân hoặc công ty (thường là công ty cổ phần) được Nhà vua cấp các điều lệ thương mại để thành lập các thuộc địa ở nước ngoài. Những chủ sở hữu này sau đó được trao quyền lựa chọn các thống đốc và các quan chức khác ở thuộc địa. Kiểu cai trị gián tiếp này cuối cùng không còn được ưa chuộng khi tình hình chính trị xã hội ở các thuộc địa Mỹ của Anh dần dần ổn định và những khó khăn hành chính được giảm bớt, hoặc do sự thất bại về mặt hành chính hoặc kinh tế của công ty độc quyền. Các vị quân chủ kế tiếp của Anh tìm cách củng cố quyền lực và thẩm quyền của mình, đồng thời dần dần chuyển đổi tất cả các thuộc địa độc quyền thành Thuộc địa Vương thất, được quản lý bởi các quan chức thuộc địa do chính phủ ở London bổ nhiệm. Đến thế kỷ XVIII, hầu hết các thuộc địa độc quyền trước đây đã được chuyển đổi thành thuộc địa vương thất. Tham khảo Xem thêm Martinez, Albert J. "The Palatinate Clause of the Maryland Charter, 1632-1776: From Independent Jurisdiction to Independence." American Journal of Legal History (2008): 305–325. in JSTOR Mereness, Newton Dennison. Maryland as a proprietary province (1901) online Osgood, Herbert L. “The Proprietary Province as a Form of Colonial Government.” Part I. American Historical Review 2 (July 1896): 644–64; Part 495. vol 3 (October 1897): 31–55; Part III. vol 3 (January 1898): 244–65. part 1 online free at JSTOR, part 3 the standard survey Osgood, Herbert Levi. The American Colonies in the Seventeenth Century: The Proprietary Province in Its Earliest Form, the Corporate Colonies of New England (1930) Osgood, Herbert Levi. The Proprietary Province in Its Later Forms (Columbia University Press, 1930) Roper, Louis H., and Bertrand Van Ruymbeke, eds. Constructing Early Modern Empires: Proprietary Ventures in the Atlantic World, 1500-1750 (Brill, 2007) Các dạng nhà nước hợp hiến Thực dân Anh tại châu Mỹ Chính phủ thuộc địa ở châu Mỹ Luật đất đai thuộc địa Lịch sử chủ nghĩa thực dân Chính quyền Đế quốc Anh
461
19832584
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Palestin
Người Palestin
Người Palestin (phát âm tiếng Việt như là: người Pa-le-xtin hay Pa-lét-xtin; tiếng Ả rập: الفلسطينيون, al-Filasṭīniyyūn hay الشعب الفلسطيني, ash-sha‘b al-Filasṭīnī; tiếng Do Thái: פָלַסְטִינִים, Fālasṭīnīm hay còn gọi là người Palestin Ả rập/ العرب الفلسطينيون, al-ʿArab al-Filasṭīniyyūn) là một nhóm người Ả Rập có nguồn gốc từ những người đã sinh sống lâu đời ở vùng Palestine trong nhiều thiên niên kỷ. Bất chấp nhiều cuộc chiến tranh và cuộc di cư khác nhau, khoảng một nửa dân số Palestine trên thế giới vẫn tiếp tục cư trú trên lãnh thổ của Palestine trước đây, hiện bao gồm Bờ Tây và Dải Gaza (các lãnh thổ của người Palestine) cũng như ở Israel. Năm 1919, người Hồi giáo Palestine và người Cơ đốc giáo Palestine chiếm 90% dân số Palestine, ngay trước làn sóng nhập cư Do Thái thứ ba dưới sự ủy trị của Anh sau Thế chiến thứ nhất. Sự phản đối việc nhập cư của người Do Thái đã thúc đẩy việc củng cố bản sắc dân tộc thống nhất, mặc dù xã hội Palestine vẫn bị chia rẽ từ những khác biệt về khu vực, giai cấp, tôn giáo và gia đình. Lịch sử bản sắc dân tộc Palestine là một vấn đề gây tranh cãi giữa các học giả, thuật ngữ "Palestin" được người Ả Rập Palestine sử dụng để chỉ khái niệm dân tộc chủ nghĩa về một dân tộc Palestine từ cuối thế kỷ 19 và trước Thời kỳ Thế chiến thứ nhất. Sự giải thể của Đế chế Ottoman và sau đó là việc thành lập một chính quyền ủy trị của Anh cho khu vực đã thay thế quốc tịch Ottoman bằng quốc tịch Palestine, củng cố bản sắc dân tộc. Sau Tuyên ngôn Độc lập của Israel, việc trục xuất người Palestine năm 1948, và hơn thế nữa sau cuộc di cư của người Palestine năm 1967, thuật ngữ "Palestin" đã phát triển thành ý nghĩa về một tương lai chung dưới hình thức khát vọng về một nhà nước Palestine Ngày nay, bản sắc Palestine bao gồm di sản của mọi thời đại từ thời Kinh thánh cho đến thời kỳ Ottoman. Được thành lập vào năm 1964, Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) là một tổ chức bảo trợ cho các nhóm đại diện cho người dân Palestine trước các quốc gia trên trường quốc tế. Chính quyền Quốc gia Palestine chính thức được thành lập vào năm 1994 theo Hiệp định Oslo, là một cơ quan hành chính lâm thời chịu trách nhiệm quản lý trên danh nghĩa các trung tâm dân cư Palestine ở Bờ Tây và Dải Gaza. Kể từ năm 1978, Liên hợp quốc đã tổ chức Ngày Quốc tế đoàn kết hàng năm với nhân dân Palestine. Theo nhà sử học người Anh Perry Anderson, người ta ước tính rằng một nửa dân số ở các vùng lãnh thổ Palestine là người tị nạn, và họ đã phải chịu thiệt hại chung về tài sản khoảng 300 tỷ USD do sự tịch thu tài sản từ phía Israel, tính theo thời giá năm 2008–2009. Từ nguyên Nguồn gốc Danh tính Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Palestin Lãnh thổ ủy trị của Anh Chiến tranh (1947–1949) "Năm tháng mất mát" (1949–1967) 1967–nay Nhân khẩu Người tị nạn Tôn giáo Nhân khẩu hiện tại Xã hội Ngôn ngữ Giáo dục Phụ nữ và gia đình Văn hóa Ẩm thực Nghệ thuật Thủ công mỹ nghệ Trang phục Văn học Âm nhạc Nhạc hip hop Palestin Khiêu vũ Thể thao Tham khảo Barzilai, Gad. (2003). Communities and Law: Politics and Cultures of Legal Identities. Ann Arbor: University of Michigan Press. Boyle, Kevin and Sheen, Juliet (1997). Freedom of Religion and Belief: A World Report. London: Routledge. Cohen, Hillel, Army of Shadows, Palestinian Collaboration with Zionism, 1917–1948 Cohen, Robin (1995). The Cambridge Survey of World Migration. Cambridge University Press. Cordesman, Anthony H (2005). The Israeli-Palestinian War: Escalating to Nowhere. Greenwood Publishing Group. Drummond, Dorothy Weitz (2004). Holy Land, Whose Land?: Modern Dilemma, Ancient Roots. Fairhurst Press. Farsoun, Samih K. (2004). Culture and Customs of the Palestinians. Greenwood Press. Gelvin, James L (2005). The Israel-Palestine Conflict: One Hundred Years of War. Cambridge University Press, New York, NY. Guzmán, Roberto Marín (2000). A Century of Palestinian Immigration into Central America. Editorial Universidad de C.R. Healey, John F. (2001). The Religion of the Nabataeans: A Conspectus. Brill Academic Publishers. Hobsbawn, Eric (1990). Nations and Nationalism since 1780: Programme, myth, reality. Cambridge University Press. Howell, Mark (2007). What Did We Do to Deserve This? Palestinian Life under Occupation in the West Bank, Garnet Publishing. Kasher, Aryeh (1990). Jews and Hellenistic Cities in Eretz-Israel. Mohr Siebeck. Khalidi, Rashid (1997). Palestinian Identity: The Construction of Modern National Consciousness. Columbia University Press. Khalidi, Rashid (2006). The Iron Cage: The Story of the Palestinian Struggle for Statehood, Houghton Mifflin. Khalidi, Walid (1984). Before Their Diaspora. Institute for Palestine Studies, Washington D.C. Kimmerling, Baruch and Joseph S. Migdal (2003). The Palestinian People: A History. Harvard University Press. . . Kunstel, Marcia and Joseph Albright (1990). Their Promised Land: Arab and Jew in History's Cauldron-One Valley in the Jerusalem Hills. Crown. Lewis, Bernard (1999). Semites and Anti-Semites: An Inquiry Into Conflict and Prejudice. W. W. Norton & Company. Lewis, Bernard (2002). The Arabs in History. Oxford University Press, USA, 6th ed. freedomofbleep.com Lybarger, Loren (2007). Identity and religion in Palestine: the struggle between Islamism and secularism in the occupied territories. Princeton University Press, Lynd, S., Bahour, S. and Lynd, A. (editors) Homeland: Oral Histories of Palestine and Palestinians. New York: Olive Branch Press. McCarthy, Justin (1990). "The Population of Palestine: Population Statistics of the Late Ottoman Period and the Mandate". Columbia University Press, ISBAN: 0231071108 McDowall, David (1989). The Uprising and Beyond. I.B.Tauris. Muhawi, Ibrahim (1989). Speak, Bird, Speak Again: Palestinian Arab Folktales. University of California Press. Parkes, James (1970). Whose Land? A History of the Peoples of Palestine. Parmenter, Barbara McKean (1994). Giving Voice to Stones Place and Identity in Palestinian Literature University of Texas Press Porath, Yehoshua (1974). The Emergence of the Palestinian-Arab National Movement 1918–1929. London: Frank Cass and Co., Ltd. Porath, Yehoshua (1977). Palestinian Arab National Movement: From Riots to Rebellion: 1929–1939, vol. 2, London: Frank Cass and Co., Ltd. Shahin, Mariam (2005). Palestine: A Guide. Interlink Books. Whitelam, Keith (1997). The Invention of Ancient Israel: The Silencing of Palestinian History, Routledge, , Charles Wilson, "Picturesque Palestine, Sinai and Egypt". New York, 1881. Ateek, Naim (1992) Jerusalem in Islam and For Palestinian Christians. Liên kết ngoài Christians in Palestine antique prints collection Sounds of Folksongs Voice of Palestinian Folklore, Free Songs Download Traditional Palestinian Clothes The Art of Palestinian Embroidery Sands of Sorrow – Film on refugees United Nations Programme of Assistance to the Palestinian People The Ottoman Palestine Download Palestinian Pictures in Ottoman Palestine. Chú thích Palestin
1,157
19832589
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sekhemkare%20%28t%E1%BB%83%20t%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
Sekhemkare (tể tướng)
Đừng nhầm lẫn với Sekhemkare, một Pharaon thuộc Vương triều thứ Mười Ba của Ai Cập Sekhemkare là một vương tử dưới thời Vương triều thứ Tư, đồng thời là một wazir (tương đương chức tể tướng ở nền phong kiến Á Đông) dưới thời Vương triều thứ 5 của Ai Cập cổ đại. Thân thế Theo những dòng văn tự khắc trên tường mastaba G 8154, nơi chôn cất của Sekhemkare, thì ông là con trai của Pharaon Khafre với vương hậu Hekenuhedjet (một bà vợ thứ của Khafre). Sekhemkare có ít nhất 4 người con trai, là Sekhemkare, Safkhafra, Herkhaf, Khafre-ankh. Phu nhân của ông bị mất tên, chỉ còn sót lại phần Khufu[..]t. Sekhemkare, cũng như những người anh em khác mẹ của ông, được ban những danh hiệu mà các vương tử thường có, như Đại vương tử, Trữ quân, Bá tước, Tể tướng, Chánh án, Quản đốc những Người ghi chép của Phụ vương, Quản khố của Đức vua Hạ Ai Cập, Người tâm sự của Phụ vương, Người trông coi lễ nghi cho Phụ vương, Người giữ bí mật cho Phụ vương, Tư tế ướp xác của thần Anubis (tạm dịch từ Eldest King's Son of His Body, Hereditary Prince, Count, Vizier, Chief Justice, Director of the Scribes of the Book of His Father, Treasurer of the King of Lower Egypt, Sole Confidant of His Father, Chief Eitualist of His Father, Master of the Secrets of His Father, Embalmer-priest of Anubis''). Trong nhà nguyện phía trong, Sekhemkare được biết là đã nhận nhiều ân sủng từ vua cha cũng như 4 vua kế vị sau đó là Menkaure, Shepseskaf, Userkaf và Sahure. Mỗi vua trong số đó dường như đã ban thêm của cải cho ông, mặc dù ông đã thừa hưởng một khối tài sản đáng kể từ vua cha Khafre, như được mô tả trong bích họa trên bức tường phía đông của nhà nguyện phía ngoài. Sau đó, Sekhemkare trở thành wazir đầu tiên của Vương triều thứ Năm dưới thời Pharaon Sahure. Lăng mộ Sekhemkare là chủ nhân của mastaba G 8154, tọa lạc phía đông nam của Kim tự tháp Khafre, cha ông. Lăng mộ của Sekhemkare được trang trí dưới triều đại của Sahure, do đó ông có lẽ đã mất dưới thời vị vua này. Lăng mộ được xây dựng ngay trên vách đá, gồm có hai nhà nguyện, mái được sơn giả màu đá hoa cương đỏ. Lối vào lăng quay về hướng nam, rộng 1 m, cao 2,57 m. Ở bức tường phía tây của nhà nguyện ngoài có một hành lang dẫn xuống phòng chôn cất, dài khoảng 3,85 m và rộng gần 1 m. Phòng chôn cất có kích thước 3,40 x 2,25 x 2,3 m, có một hốc lớn trên sản để đặt quách nhưng quách đã bị trộn mất hoàn toàn và chỉ còn lại một số mảnh xương. Tham khảo Nguồn Hoàng tử Ai Cập cổ đại
492
19832592
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Philistin
Người Philistin
Người Philistin hay Philistines (tiếng Do Thái: פְּלִשְׁתִּים‎,/Pəlīštīm; tiếng Hy Lạp: Φυλιστιείμ/Phulistieím) là một dân tộc cổ xưa sống ở bờ biển phía nam Canaan trong Thời đại đồ sắt. Người Philistin có nguồn gốc là một nhóm người nhập cư từ eo biển Aegean định cư ở Canaan vào khoảng năm 1175 trước Công nguyên. Theo thời gian, họ dần dần đồng hóa các yếu tố của xã hội Levant địa phương trong khi vẫn bảo tồn nền văn hóa độc đáo của riêng mình. Vào năm 604 trước Công nguyên, chính thể Philistin sau khi bị Đế quốc Tân Assyria chinh phục trong nhiều thế kỷ rồi cuối cùng đã bị Vua Nebuchadnezzar II của Đế quốc Tân Babylon tiêu diệt. Sau khi trở thành một phần của đế chế của ông và Đế chế Ba Tư kế vị thì người Philistin đã mất đi bản sắc dân tộc riêng biệt và biến mất khỏi hồ sơ lịch sử và khảo cổ vào cuối thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Trong các cổ thư thì Người Philistines được biết đến với cuộc xung đột trong thời đại Kinh thánh với người Do Thái (Israel). Mặc dù nguồn thông tin chính về người Philistin là Kinh thánh tiếng Do Thái, nhưng họ lần đầu tiên được chứng thực trong các bức phù điêu tại Đền thờ Ramesses III tại Medinet Habu, trong đó họ được gọi là Peleset[a] (được chấp nhận là cùng nguồn gốc với Peleshet trong tiếng Do Thái) thuật ngữ song song của người Assyria là Palastu (chữ nêm: 𒉺𒆷𒀸𒌓) Pilišti (𒉿𒇷𒅖𒋾) hoặc Pilistu (𒉿𒇷𒅖𒌓). Họ cũng để lại đằng sau sự hiện diện của mình là cả một nền văn hóa vật chất đặc biệt. Thuật ngữ người Palestin (Palestine) có cùng nguồn gốc, tên đồng nghĩa của người bản địa Philistin vẫn chưa được biết. Kinh Torah không ghi chép về người Philistin là một trong những giống dân phải di dời khỏi Canaan trong Sáng thế ký đoạn 15:18-21. Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Corinne Mamane Museum of Philistine Culture National Geographic article List of Biblical References to Philistines or Philistia Tell es-Safi/Gath Archaeological Project Website Tell es-Safi/Gath Archaeological Project Blog Penn State University - The Sea Peoples and the Philistines (link broken) Neal Bierling, Giving Goliath his Due: New Archaeological Light on the Philistines (1992) The Center for Online Judaic Studies: Ramesses III and the Philistines, 1175 BC Biblical Archaeology Review - Yavneh Yields Over a Hundred Philistine Cult Stands Neal Bierling. Giving Goliath His Due. New Archaeological Light on the Philistines Ashkelon dig Trung Đông
424
19832594
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%C6%A1ng%20Qu%E1%BA%BF%20Ph%C6%B0%C6%A1ng
Trương Quế Phương
Trương Quế Phương ( tiếng Trung :张桂芳; bính âm : Zhāng Guìfāng ) là một nhân vật xuất hiện trong cuốn tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng của Trung Quốc Phong Thần Diễn Nghĩa . Bối cảnh Trương Quế Phương là chỉ huy của Ải Thanh Long và phục vụ dưới quyền Thái Sư Văn Trọng như một thanh kiếm sắt . Về ngoại hình, Trương Quế Phương mặc bộ áo giáp hoàng gia màu trắng cồng kềnh và cầm một ngọn giáo băng lớn . Do thân phận ban đầu của Trương Quế Phương, anh ta sử dụng khả năng ma thuật "gọi tên"; với khả năng này, Trương Quế Phương có thể làm tê liệt bất kỳ cá nhân nào nếu anh ta tình cờ nói ra tên thật của họ (tuy nhiên, khả năng như vậy không thể sử dụng đối với Na Tra hay Dương Tiễn). Sau mánh khóe của Triều Lôi , Văn Trọng cửTrương Quế Phương và đội tiên Phong Lâm của ông ta đến Chân đồi phía Tây để thực hiện một chiến dịch trừng phạt. Sau khi Trương Quế Phương đến, anh ta cố gắng thuyết phục Khương Tử Nha "nhìn thấy ánh sáng" và quay trở lại với vua Châu . Ngay sau đó, một trận chiến lớn sẽ xảy ra giữa Trương Quế Phương và quân đội của ông ta. Trong khi đích thân đấu tay đôi với Hoàng Phi Hổ , anh ta sẽ hét lên: " Hoàng Phi Hổ, chưa ngã xuống, còn đợi đến chừng nào ! " Vì vậy, Trương Quế Phương đã bắt được Hoàng Phi Hổ và trở về trại. Sau đó, Na Tra đối đầu với Trương Quế Phương khoảng hai ngày sau cuộc xung đột trước đó với Khương Tử Nha. Na Tra sử dụng danh tiếng thần thánh của mình để dễ dàng đánh bại đơn vị ngàn quân của Trương Quế Phương và thậm chí phá hủy cánh tay phải của Trương Quế Phương bằng một đòn tấn công chí mạng. Tuy nhiên, Cửu Long Đảo Tứ Thánh sau đó đã chữa lành vết thương cho Trương Quế Phương, cho phép anh ta quay trở lại trong trận chiến một cách hiệu quả. Sau những hành động tuyệt vọng của Lý Hứng Bá , Trương Quế Phương ngay lập tức xuất hiện và giải cứu anh ta khỏi rắc rối. Tuy nhiên, bản thân Trương Quế Phương buộc phải bỏ trốn. Vào ban đêm, Khương Tử Nha cử Triều Điền và Triều Lôi đến trước trại của Trương Quế Phương. Sau khi tuyên bố trung thành vĩnh viễn với vua Trụ, Trương Quế Phương tự sát bằng cách dùng thanh kiếm của mình đâm vào người. Cuối cùng Trương Quế Phương được phong làm vị thần của Tán Môn Tinh (丧门星).
471
19832610
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tia%20S%C3%A1ng%20%28t%E1%BA%A1p%20ch%C3%AD%20n%C4%83m%201991%29
Tia Sáng (tạp chí năm 1991)
Tia Sáng là một tạp chí về khoa học và công nghệ của Việt Nam được thành lập vào năm 1991 trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Đây được coi là nền tảng để giới trí thức lên tiếng về các quyết định hoạch định chính sách ở Việt Nam. Lịch sử Tia Sáng được thành lập vào tháng 4 năm 1991. Nhiều bài viết đăng trên Tia Sáng được giới thiệu và thảo luận trên BBC (bản tiếng Việt) như bài viết của Hoàng Tụy về thái độ của giới trí thức đối với các vấn đề xã hội ở Việt Nam. Website của Tia Sáng đã bị chính phủ Việt Nam buộc phải ngừng hoạt động vào năm 2009 trong vài tháng vì những bài viết 'nhạy cảm'. Một số contributor của Tia Sáng đã hoặc đang là tù nhân lương tâm như Phạm Đoan Trang, Lê Công Định. Kể từ cuối những năm 2000, Tia Sáng ít chỉ trích chính phủ hơn. Contributor đáng chú ý và thường xuyên của Tia Sáng hiện nay là Pierre Darriulat, cựu giám đốc nghiên cứu của CERN. Tia Sáng đã hợp nhất với báo Khoa học Phát triển vào năm 2017. Sự ủng hộ của Tia Sáng về tính liêm chính và minh bạch trong khoa học đã dẫn đến việc thành lập Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED). NAFOSTED là một cơ chế tài trợ khoa học ở Việt Nam giúp các nhà khoa học có nhiều tự do hơn trong nghiên cứu nhưng đòi hỏi chất lượng cao hơn trong sản phẩm khoa học của họ. Tia Sáng còn đồng sáng lập giải thưởng Tạ Quang Bửu vinh danh các nhà khoa học về khoa học cơ bản. Tham khảo Liên kết ngoài Official website Báo chí Việt Nam Tạp chí khoa học và công nghệ Tạp chí thành lập năm 1991
312
19832614
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aum%20Shinrikyo
Aum Shinrikyo
Aum Shinrikyo (tiếng Nhật: オウム/真理教, Oumu Shinrikyō có nghĩa là Chân lý Tối thượng) hay còn gọi là Aleph (アレフ/Arefu) hay còn được gọi tên tiếng Việt thông dụng là Giáo phái Aum là một phong trào tôn giáo mới của Nhật Bản và giáo phái Ngày tận thế do Shoko Asahara thành lập vào năm 1987. Giáo phái Aum đã thực hiện Vụ tấn công bằng khí sarin trên tàu điện ngầm Tokyo vào năm 1995 và được phát hiện là thủ phạm gây ra vụ tấn công sarin ở Matsumoto vào năm trước đó, những người thực hiện các cuộc tấn công đã hành sự bí mật, không được các tín đồ bình thường biết đến. Shoko Asahara khẳng định mình vô tội trong một chương trình phát thanh được chuyển tiếp từ Nga và hướng tới Nhật Bản. Aum Shinrikyo được tách thành Aleph và Hikari no Wa vào năm 2007 và đã chính thức bị một số quốc gia coi là tổ chức khủng bố, bao gồm Nga, Canada, Nhật Bản, Kazakhstan, cũng như Liên minh Châu Âu. Trước đây nhóm này bị Hoa Kỳ liệt vào danh sách tổ chức khủng bố cho đến năm 2022 khi Bộ Ngoại giao Mỹ xác định nhóm này phần lớn không còn tồn tại như một tổ chức khủng bố. Cơ quan Công an Điều tra Nhật Bản (PSIA) xác định Aleph và Hikari no Wa là các nhánh của một "tôn giáo nguy hiểm". Giáo lý của giáo phái này kết hợp cách giải thích cực đoan của nhiều tôn giáo, từ Phật giáo đến Thiên chúa giáo, Aum Shinrikyo gây tranh cãi về những lời tiên tri của ngày tận thế, liên quan đến Thế chiến III do Mỹ khởi xướng. Sau đó, mọi thứ dần trở nên bạo lực, nhóm tham gia vào các hoạt động nguy hiểm và giết hại những thành viên cố gắng rời khỏi tổ chức. Giáo phái Aum chính thức được xác định là một nhóm khủng bố, chịu trách nhiệm về vụ tấn công bằng khí sarin trên năm chuyến tàu trong hệ thống tàu điện ngầm ở Tokyo, giết chết 13 người và ảnh hưởng đến hơn 1.000 hành khách khác vào năm 1995. Hoạt động Vào năm 1992, Shoko Asahara vốn người sáng lập Aum Shinrikyo đã xuất bản một cuốn sách mà trong đó Asahara tuyên bố mình là "Giê-su", bậc giác ngộ duy nhất của Nhật Bản, và được xác định là "Chiên Thiên Chúa". Giáo chủ Asahara đưa ra một lời tiên tri tận thế, bao gồm chiến tranh thế giới thứ ba và mô tả một cuộc xung đột cuối cùng lên đến đỉnh điểm trong một vụ đua hạt nhân Armageddon, lấy thuật ngữ này từ Sách Khải Huyền. Sứ mệnh nhầm lẫn của Asahara là tự cho rằng bản thân ông đang gánh tội lỗi của cả thế giới, và ông tuyên bố ông có thể chuyển giao quyền lực tinh thần cho những người đi theo và giúp loại bỏ những tội lỗi của họ. Asahara cũng thấy những âm mưu đen tối ở khắp mọi nơi của người Do Thái, Hội Tam Điểm, người Hà Lan, Hoàng gia Anh, và các tôn giáo khác của Nhật Bản đang có âm mưu tranh đoạt. Ban đầu, cảnh sát Nhật Bản đã báo cáo cuộc tấn công này như là cách của giáo phái này nhằm tăng tốc tới ngày tận thế. Bên công tố nói rằng đây là một nỗ lực để hạ bệ chính phủ và đưa Asahara thành "Nhật hoàng" của Nhật Bản. Nhóm bảo vệ Asahara tuyên bố rằng một số thành viên cấp cao của nhóm đã lên kế hoạch tấn công một cách độc lập, nhưng không giải thích động cơ của mình. Aum Shinrikyo bắt đầu cuộc tấn công vào ngày 27 tháng 6 năm 1994 tại Matsumoto, Nhật Bản. Với sự giúp đỡ của một chiếc xe tải lạnh, các thành viên của giáo phái đã xả ra một đám mây khí sarin ở gần nhà của thẩm phán đang xử lý một vụ kiện liên quan đến một vụ tranh chấp về bất động sản, dự đoán sẽ có kết quả chống lại giáo phái này. Do sự kiện này, có tới 500 người bị thương và 8 người đã chết. Sau vụ tấn công tầu điện ngầm bằng khí độc thì Naoko Kikuchi, người đã từng tham gia sản xuất khí sarin, đã bị bắt sau khi bị chỉ điểm vào tháng 6 năm 2012, và Katsuya Takahashi ngay sau đó. Vào ngày 6 tháng 7 năm 2018, sau khi hết mọi kháng cáo, Asahara và sáu người tử tù đã bị xử tử như hình phạt cho vụ tấn công năm 1995 và các tội ác khác. Sáu tín đồ khác bị xử tử vào ngày 26 tháng 7 năm 2018. Vào lúc 12h10, ngày đầu năm mới 2019, ít nhất 9 người bị thương (một người bị thương nặng) khi một chiếc ô tô cố tình lao vào đám đông đang đón năm mới trên phố Takeshita ở Tokyo. Cảnh sát địa phương đưa tin về việc bắt giữ Kazuhiro Kusakabe, nghi phạm lái xe, người được cho là đã thừa nhận cố tình đâm xe của mình vào đám đông để phản đối việc phản đối án tử hình, cụ thể là để trả thù việc hành quyết các thành viên giáo phái Aum. PSIA đã thông báo vào tháng 01 năm 2015 rằng họ sẽ bị giám sát giáo phái này thêm ba năm nữa. Tòa án quận Tokyo đã hủy bỏ việc gia hạn giám sát Hikari no Wa vào năm 2017 sau những thách thức pháp lý từ nhóm này, nhưng vẫn tiếp tục theo dõi Aleph. Chính phủ đã kháng cáo việc hủy bỏ và vào tháng 2 năm 2019, Tòa án tối cao Tokyo đã lật lại quyết định của tòa án cấp dưới, khôi phục hoạt động giám sát, với lý do không có thay đổi lớn nào giữa Aum Shinrikyo và Hikari no Wa. Chú thích Nhật Bản
1,021
19832620
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20ph%C3%A1i%20Ng%C3%A0y%20t%E1%BA%ADn%20th%E1%BA%BF
Giáo phái Ngày tận thế
Giáo phái Ngày tận thế (Doomsday cult) là một giáo phái tin vào thuyết khải huyền ngày tận thế và Thuyết nghìn năm (cho rằng Chúa cứu thế sẽ xuất hiện trên thế gian và trị vì một nghìn năm), bao gồm cả những giáo phái dự đoán thảm họa và những giáo phái cố gắng hủy diệt toàn bộ vũ trụ. Nhà xã hội học John Lofland đã đặt ra thuật ngữ giáo phái ngày tận thế trong nghiên cứu năm 1966 của ông về một nhóm thành viên của Nhà thờ Thống nhất Hoa Kỳ (Unification Church of the United States): Giáo phái Ngày tận thế: Nghiên cứu về Cải đạo, đổi đạo và Duy trì Đức tin. Năm 1958, Leon Festinger xuất bản một nghiên cứu về một nhóm có những dự đoán về thảm họa: Khi lời tiên tri thất bại: Một nghiên cứu tâm lý và xã hội về một nhóm hiện đại dự đoán sự hủy diệt của thế giới. Leon Festinger và các nhà nghiên cứu khác đã cố gắng giải thích sự cam kết của các thành viên đối với giáo phái ngày tận thế của họ sau khi những lời tiên tri của người lãnh đạo tinh thần được chứng minh là sai. Leon Festinger cho rằng hiện tượng này là do phương pháp đối phó nhằm giảm thiểu sự bất hòa, một hình thức hợp lý hóa. Các thành viên thường cống hiến hết mình với nghị lực mới cho sự nghiệp của nhóm sau khi một lời tiên tri thất bại mà được hợp lý hóa bằng những lời giải thích như niềm tin rằng hành động của họ đã giúp ngăn chặn được thảm họa hoặc tiếp tục tin tưởng vào người lãnh đạo khi ngày xảy ra thảm họa bị tạm hoãn lại. Một số nhà nghiên cứu tin rằng việc chính phủ và giới truyền thông sử dụng thuật ngữ này có thể dẫn đến một lời tiên tri tự ứng nghiệm, trong đó hành động của chính quyền củng cố niềm tin về ngày tận thế của nhóm, từ đó có thể truyền cảm hứng cho những hành động gây tranh cãi hơn nữa. Bản thân các nhà lãnh đạo nhóm cũng phản đối việc so sánh giữa nhóm này với nhóm khác, và đã rút ra sự tương đồng giữa khái niệm lời tiên tri tự ứng nghiệm và lý thuyết về vòng xoáy khuếch đại sai lệch. Tử tự tập thế là một dạng nghi thức tôn giáo bắt buộc mà rất nhiều giáo phái tà độc thường kêu gọi tín đồ của chúng thực hiện, gây ra rất nhiều vụ tự tử tập thể rất thương tâm do niềm tin vào ngày tận thế. Cuồng giáo về ngày tận thế là một từ dùng để mô tả các nhóm tin vào thuyết Apocalypticism (thuyết Khải huyền) và Millenarianism (Thuyết nghìn năm) và nó cũng có thể được sử dụng để chỉ cả các nhóm tiên đoán thiên tai, và các nhóm mà cố gắng nhắc đến nó. Một nghiên cứu tâm lý năm 1997 của Festinger, Riecken và Schachter nhận thấy rằng mọi người đã chuyển sang cách nghĩ về một thế giới toàn cảnh thảm khốc sau khi họ liên tục thất bại trong việc tìm kiếm ý nghĩa từ các phong trào chính thống. Leon Festinger và các cộng sự của ông đã quan sát các thành viên của tôn giáo UFO (gọi là Những người tìm kiếm) trong nhiều tháng và ghi lại các cuộc nói chuyện của họ trước và sau một lời tiên tri sai từ nhà lãnh đạo của nhóm. Nghiên cứu của họ sau này được xuất bản trong cuốn sách When Prophecy Fails: A Social and Psychological Study of a Modern Group that Predicted the Destruction of the World (Khi Lời tiên tri thất bại: Một nghiên cứu xã hội và tâm lý học của một nhóm tôn giáo ngày nay khi dự đoán về sự hủy diệt của thế giới). Vào cuối những năm 1980, các nhóm cuồng giáo về ngày tận thế là chủ đề chính của các bản tin, với một số phóng viên và nhà bình luận cho rằng đây là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với xã hội. Chú thích Cuồng giáo
722