messages
listlengths
3
3
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "San Diego", "role": "user" }, { "content": "San Diego là một thành phố thuộc tiểu bang California của Hoa Kỳ. San Diego là một thành phố duyên hải miền nam tiểu bang California, góc tây nam Hoa Kỳ lục địa, phía bắc biên giới Mexico. Thành phố này là quận lỵ của Quận San Diego và là trung tâm kinh tế vùng đô thị San Diego—Carlsbad—San Marcos. Tính đến năm 2010 Thành phố San Diego có 1,301,617 người. San Diego là thành phố lớn thứ nhì trong tiểu bang California (sau thành phố Los Angeles), và lớn thứ tám tại Hoa Kỳ. San Diego được thành lập vào năm 1602 trong thuộc địa Tân Tây Ban Nha đặt tên theo Thánh Điđacô (\"San Diego\" trong tiếng Tây Ban Nha). Trước khi người châu Âu đến lập nghiệp thì người thổ dân Kumeyaay và tổ tiên của họ đã cư ngụ trong vùng cách đây hơn 10,000 năm. Năm 1822 San Diego thuộc của nước Mexico mới độc lập. Sau Chiến tranh Mỹ-Mexico, thành phố này trở thành một phần của Hoa Kỳ. Dùng đường bộ, San Diego cách Los Angeles 21⁄2 giờ xe chạy về phía nam và nửa giờ xe về phía bắc từ Tijuana, Mexico.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Douala", "role": "user" }, { "content": "Douala là thành phố lớn nhất Cameroon và là tỉnh lỵ của tỉnh Littoral. Thành phố này có cảng lớn nhất quốc gia này, cũng là nơi có sân bay quốc tế lớn. Đây là thủ đô thương mại của Cameroon. Thành phố này xuất khẩu phần lớn các sản phẩm của quốc gia này như: dầu mỏ, cacao và cà phê, cũng như thương mại với Chad. Thành phố nằm bên hai bờ sông Wouri, nối với nhau bằng cầu Bonaberi. Dân số hiện khoảng 2 triệu người. Khí hậu nhiệt đới. Người châu Âu đến đây lần đầu là người Bồ Đào Nha vào khoảng năm 1472. Năm 1650, đây đã là thị trấn của dân nhập cư từ nội địa nói tiếng Doula. Từ năm 1940-1946, đây là thủ đô của Cameroon.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Bahrain", "role": "user" }, { "content": "Bahrain tên đầy đủ là Vương quốc Bahrain, là một đảo quốc không có biên giới tại Vịnh Ba Tư (Tây Á/Trung Đông). Ả Rập Saudi nằm ở phía tây và nối với Bahrain bởi Đường đê Vua Fahd (chính thức mở cửa ngày 25 tháng 11 năm 1986), và Qatar ở phía nam qua Vịnh Ba Tư. Chiếc Cầu hữu nghị Qatar–Bahrain, hiện đang được lên kế hoạch, với đường nối Bahrain tới Qatar là đường nối dài nhất thế giới. Bahrain đã có người ở từ thời cổ đại và thậm chí còn được đề nghị coi là một địa điểm của Vườn Ê-đen theo Kinh Thánh. Vị trí chiến lược của nó tại Vịnh Ba Tư đã khiến cho người AsSyria, người Babylon, người Hy Lạp, người Ba Tư, và cuối cùng là người Ả Rập tìm cách chiếm quyền kiểm soát và gây ảnh hưởng lên nó. Ở thời Ả Rập cuối cùng, hòn đảo này trở thành một địa điểm của Hồi giáo. Bahrain thời xưa từng được gọi là Dilmun, Tylos (tên do người Hy Lạp đặt), Awal, cũng như tên Mishmahig trong tiếng Ba Tư khi nó rơi vào tay Đế chế Ba Tư. Hòn đảo Bahrain, nằm ở điểm giữa phía nam Vịnh Ba Tư, đã lôi kéo sự chú ý của nhiều kẻ xâm lược trong lịch sử. Bahrain trong tiếng Ả Rập có nghĩa là \"Hai Biển\", và được cho là để chỉ thực tế là hòn đảo này có hai nguồn nước, những suối nước ngọt và nước mặn ở những vùng biển xung quanh, hay vùng biển ở phía nam ngăn cách nó với bờ biển Ả Rập còn vùng biển phía bắc ngăn cách nó với Iran. Một vị trí chiến lược giữa Đông và Tây, một hòn đảo màu mỡ, nguồn nước ngọt, một nguồn lợi về ngọc trai đã biến Bahrain thành một trung tâm định cư thành thị trong suốt lịch sử. Khoảng 2.300 năm trước Công Nguyên, Bahrain đã trở thành một trung tâm của các đế chế thương mại giữa Lưỡng Hà (I-rắc hiện nay) và lưu vực sông Ấn Độ (hiện ở Pakistan). Đây là nền văn minh Delmon có quan hệ với Nền văn minh Sumer ở thiên niên kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Bahrain đã trở thành một phần của Đế chế Babylon khoảng năm 600 trước Công Nguyên. Những ghi chép lịch sử coi Bahrain là \"Cuộc sống bất từ\", \"Thiên đường\", vv. Bahrain cũng được gọi là \"Hòn ngọc Vịnh Ba Tư\". Tới tận năm 1521, Bahrain là một vùng lớn hơn gồm cả Ahsa, Qatif (cả hai hiện là tỉnh phía đông của Ả Rập Saudi) cũng như Awal (hiện là đảo Bahrain). Vùng này trải dài từ Basrah tới Eo biển Hormuz ở Oman. Đây từng là Iqlim Al-Bahrain (Tỉnh Bahrain) và người Ả Rập sống ở tỉnh này tất cả đều được gọi là người Bahrain, là con cháu của những bộ lạc Ả Rập Bani Abd Al-Qais. Năm 1521, người Bồ Đào Nha chinh phục Awal và từ đó cái tên Bahrain trở thành chính thức cho đến nay. Từ thế kỷ 16 đến năm 1743 quyền kiểm soát Bahrain lần lượt qua tay người Bồ Đào Nha và Ba Tư. Cuối cùng, vua Ba Tư Nadir Shah xâm chiếm và kiểm soát Bahrain và vì muốn kiểm soát chính trị đã ủng hộ cộng đồng Shia đa số. Tới cuối thế kỷ 18 dòng họ Al-Khalifa tấn công và chiếm hòn đảo từ nước Qatar láng giềng. Để giữ Bahrain khỏi rơi lại vào tay Ba Tư, các tiểu vương quốc Ả Rập tham gia vào một hiệp ước về quan hệ với Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ai Len và trở thành một nước bảo hộ của Anh. Dầu khí được phát hiện ở đây năm 1932 (xem: Giếng dầu đầu tiên) và mang lại sự hiện đại hoá và cải thiện nhanh chóng cho Bahrain. Nó cũng khiến cho những quan hệ với Anh trở nên gần gũi hơn, bằng chứng ở hành động chuyển nhiều cơ sở của Anh sang hòn đảo này. Ảnh hưởng của Anh tiếp tục tăng lên khi đất nước phát triển, lên tới cực điểm với việc chỉ định Charles Belgrave làm cố vấn; Belgrave đã lập ra một hệ thống giáo dục hiện đại ở Bahrain. Sau Thế chiến thứ hai, tình cảm chống Anh ngày càng tăng và phát triển khắp thế giới Ả Rập dẫn tới những cuộc bạo động ở Bahrain. Năm 1960, Anh đưa tương lai Bahrain ra trước một cơ quan trọng tài quốc tế và yêu cầu Tổng thư ký Liên hiệp quốc lãnh trách nhiệm này. Năm 1970, Iran cùng lúc tuyên bố chủ quyền đối với cả Bahrain và các hòn đảo khác tại Vịnh Ba Tư, tuy nhiên, trong một thoả thuận với Anh nước này đã chấp nhận \"không theo đuổi\" chủ trương đòi lại Bahrain nếu các nước tuyên bố khác cũng chấp nhận như vậy. Trong cuộc trưng cầu dân ý diễn ra sau đó người dân Bahrain đã xác nhận quyền độc lập của quốc gia mình khỏi Anh và các thực thể Ả Rập của họ. Tới ngày nay, Bahrain vẫn là một thành viên của Liên đoàn Ả Rập và Hội đồng hợp tác vùng vịnh của tất cả các nước Ả Rập. Người Anh rút khỏi Bahrain ngày 15 tháng 8 năm 1971, biến Bahrain trở thành một tiểu vương quốc Ả Rập độc lập. Cuộc bùng nổ dầu khí trong thập kỷ 1980 đã mang lại nguồn lợi lớn cho Bahrain, nhưng sự suy sụp của nó cũng rất tồi tệ. Tuy nhiên, nước này đã bắt đầu đa dạng hoá nền kinh tế của mình và đã thu được lợi ích từ cuộc Nội chiến Liban đã bắt đầu từ thập kỷ 1970; Bahrain thay thế Bê-rút trở thành trung tâm tài chính Trung Đông khi lĩnh vực ngân hàng của Liban phải rút khỏi nước này vì nội chiến. Sau cuộc Cách mạng Hồi giáo năm 1979 ở Iran, những người Shia Bahrain theo trào lưu chính thống tổ chức một cuộc đảo chính bất thành năm 1981 dưới sự bảo trợ của một tổ chức mặt trận, Mặt trận Hồi giáo giải phóng Bahrain. Cuộc đảo chính đã khiến một tu sĩ Shia đang sống lưu vong ở Iran là Hojjat ol-Eslam Hādī al-Mudarrisī, trở thành lãnh đạo tối cao của chính phủ thần quyền. Năm 1994 một làn sóng bạo loạn của những người Hồi giáo Shi'a bất mãn nổi lên vì những hành động bị cho là không công bằng của chính phủ. Vương quốc đã bị ảnh hưởng lớn bởi những vụ bạo lực không thường xuyên trong thời gian giữa thập niên 1990, trong đó hơn bốn mươi người đã chết dưới tay chính phủ và hàng trăm người khác bị bắt giam. Năm 1999, Sheik Isa ibn-Sulman al- Khalifah qua đời sau bốn thập kỉ cầm quyền. Sheik Hamad ibn al-Khalifah trở thành người kế vị. Tháng 3 năm 1999, Hamad ibn Isa al-Khalifah kế tục cha trở thành lãnh đạo của nhà nước và tiến hành các cuộc bầu cử nghị viện, trao cho phụ nữ quyền bầu cử và thả các tù nhân chính trị; những hành động được tổ chức Ân xá quốc tế mô tả là thể hiện một \"giai đoạn lịch sử về quyền con người\". Việc này khiến đất nước có một cơ hội lớn để tiến bước, dù còn đôi chút ngập ngừng, về phía một sự nhất trí chính trị. Sheik Hamad tiến hành cuộc cải cách dân chủ trên cả nước: sự kiểm duyệt được nới lỏng và các luật lệ hà khắc được thay thế, những người lưu vong trở về nước. Cuộc trưng cầu ý dân tháng 2 năm 2001 cho phép phụ nữ Bahrain lần đầu tiên được quyền bỏ phiếu, nhân dân Bahrain ủng hộ việc chuyển đổi chính thể quân chủ chuyên chế sang chính thể quân chủ lập hiến. Tháng 10 năm 2002, cuộc bầu cử Quốc hội lần đầu tiên diễn ra tại Bahrain kể từ năm 1973. Trong số 177 ứng cử viên, có 8 phụ nữ. Đây là lần đầu tiên phụ nữ Bahrain được quyền bỏ phiếu và ra tranh cử trong cuộc bầu cử toàn quốc. Manama - Thủ đô Bahrain. Hamad Town Isa Town Jidd Hafs Muharraq Riffa Sitrah Jufair Công dân các nước sau đây có thể có được thị thực 14 ngày tại tất cả các trạm biên giới và sân bay. Lệ phí là 5 dinar hoặc $ 13. Úc, Áo, Bỉ, Brunei, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Iceland, Ireland (3 tháng), Ý, Nhật Bản, Latvia, Liechtenstein, Luxembourg, Monaco, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Bồ Đào Nha, Nga , San Marino, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Ukraine, Vương quốc Anh (3 tháng), Hoa Kỳ, thành phố Vatican Bạn cũng có thể nộp đơn xin visa trực tuyến trước cho một eVisa Tuy nhiên điều này chỉ giới hạn cho công dân của một 'VISA NATIONS.[1]. Chi phí 7 BD. Lợi ích của điều này là hơi không rõ ràng mặc dù, như những người hội đủ điều kiện cho eVisas cũng có thể nhận được thị thực khi đến, tuy nhiên, sở hữu một eVisa có thể sẽ cho phép bạn để có được thông qua hải quan nhanh hơn, như người ta không cần phải có được thị thực tại cảng nhập cảnh. Bahrain là một trong những quốc gia ít ỏi ở vùng Vịnh số ít chính thức chấp nhận hộ chiếu Israel (mặc dù bạn sẽ cần một visa) và hộ chiếu với bằng chứng về thăm tới Israel.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Du lịch công ty", "role": "user" }, { "content": "Du lịch công ty là một chủ đề du lịch đang phổ biến hiện nay. Mọi người thường sẽ đến trụ sở công ty hoặc địa điểm kinh doanh quan trọng khác để họ có thể lấy ảnh chụp bên cạnh logo công ty. Điều này có vẻ khá ngớ ngẩn, nhưng mọi người sẽ đến trụ sở của Facebook, chụp ảnh chính họ ở đó và sau đó đăng ảnh lên (đoán xem ở đâu?) Trang Facebook hoặc tài khoản Facebook của họ. Phần lớn văn hóa đổi mới của Thung lũng Silicon diễn ra trong giới hạn của các công viên văn phòng ngoại ô, nơi thực sự khá nhạt nhẽo. Hầu hết các công ty ở Thung lũng Silicon quá bận rộn để tạo ra các sản phẩm và kiếm tiền để cung cấp nhiều cho khách du lịch. Nhìn thấy trụ sở của rất nhiều công ty công nghệ cao huyền thoại và các công ty đầu tư mạo hiểm ở một nơi ban đầu có thể rất vui, đặc biệt là đối với những người đam mê công nghệ, nhưng sự mới lạ sẽ biến mất sau vài giờ, và khách du lịch nên bám vào khuôn viên của Google (Mountain View), Apple (Cupertino) và có thể là Facebook (Menlo Park ở bán đảo, một vài dặm về phía bắc của trung tâm thành phố Palo Alto). Công ty lớn duy nhất ở Thung lũng Silicon phục vụ khách du lịch một cách công khai là Intel, có một bảo tàng nhỏ miễn phí tại trụ sở ở Santa Clara dành riêng cho hoạt động kinh doanh chất bán dẫn. Ở mức độ thấp hơn, Google có những bức tượng Android thú vị trong khuôn viên dành riêng cho khách tham quan và những chiếc xe đạp và mũ cánh quạt đầy màu sắc của nó rất đáng để đi. Ngoài ra, Apple vận hành một Trung tâm khách truy cập bên cạnh trụ sở chính hoàn toàn mới của Apple Park, một tòa nhà hình tròn khổng lồ, không khác gì với một mô hình thực tế gia tăng của trang web và một ban công nhìn ra nó. 37.334722Apple1 Apple, 1 Apple Park Way, Cupertino. Đây là trụ sở mới của Apple, được khai trương vào năm 2017 và có Trung tâm dành cho khách tới thăm Apple Park, nơi đây bạn có thể mua các sản phẩm không có sẵn trong các Cửa hàng Apple khác. 41.0342Trụ sở chính của PepsiCo2 Trụ sở chính của PepsiCo, 700 Anderson Hill Rd, Purchase. Bao gồm Vườn điêu khắc Donald M Kendall. (cập nhật vào tháng 10 2018) 33.7709Trụ sở chính của Coca-Cola3 Trụ sở chính của Coca-Cola, Atlanta/Midtown. Tòa nhà chính trong khu phức hợp cao 29 tầng. (cập nhật vào tháng 10 2018) Du lịch doanh nghệp Du lịch công nghệp Thung lũng Silicon", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Nam Định", "role": "user" }, { "content": "Nam Định là một một thành phố tỉnh lỵ tỉnh Nam Định thuộc vùng Bắc Bộ Việt Nam. Nếu bạn ở nơi khác đến Nam Định thì cũng không xa lắm. Bạn có thể di chuyển bằng taxi xe thồ, grap oặc có thể tìm các cửa hàng kinh doanh cho thuê xe máy ở Nam Định để đi lại. Đi xe chủ động hơn giá lại rẻ thích hợp cho các bạn đi công tác hoặc sinh viên đi học Nếu đi xa ra các tỉnh thành lân cận bạn có thể lưu lại những địa chỉ ở bến xe để tốt cho việc đi lại tại Nam Định XE KHÁCH TRƯỜNG SƠN - NAM ĐỊNH 11A, đường 10, Mỹ Tân, Nam Định, Tỉnh Nam Định Phone:(0350) 3817003 XE KHÁCH TRƯỜNG THẮNGThị Trấn Cổ Lễ, Trực Ninh, Tỉnh Nam Định Phone:0915393159 XE KHÁCH THỊNH VƯỢNGHải Ninh, Hải Hậu, Tỉnh Nam Định Phone:0942460634 - 0982822012 XE KHÁCH THIỆN MỸBến xe Giao Hương, Giao Thủy, Tỉnh Nam Định Phone:0919179656 - (04) 38641467 XE KHÁCH TIỀU BÍCHXã Quỹ Nhất, Nghĩa Hưng, Tỉnh Nam Định Phone:0948677877 - 0942638638 XE KHÁCH TÂN YÊNXã Trực Tuấn, Trực Ninh, Tỉnh Nam Định Phone:0915141119", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Tampa", "role": "user" }, { "content": "Tampa là một thành phố thuộc tiểu bang Florida của Hoa Kỳ. Dân số năm 2010 là 335.709 người. Tampa nằm trên bờ biển phía bắc của vịnh Tampa ở Tây trung bộ Florida. Saint Petersburg nằm về phía tây của vịnh, trong khi Bradenton là trên bờ phía nam. Trung tâm thương mại trung tâm của thành phố là trên bờ biển phía bắc của vịnh Hillsborough (một vịnh nhỏ trong vịnh Tampa giáp với bờ biển phía đông của vịnh Tampa và bán đảo nhỏ của Nam Tampa) và Ybor City nằm ngay phía đông. MacDill Căn cứ không quân là trên mũi phía nam của Nam Tampa, trong khi thành phố cũng mở rộng về phía bắc tất cả các cách để các khu vực mới thành lập New Tampa. Sân bay quốc tế Tampa (IATA: TPA) (ICAO: KTPA), [1], nằm gần vùng biển của Tampa Bay dọc theo I-275 . Sân bay Quốc tế Saint Petersburg-Clearwater (IATA: PIE) [2] là một lựa chọn thay thế cách đó mười lăm dặm, thường phục vụ các tuyến đường nhỏ hơn và các hãng hàng không giảm giá. Một chút xa hơn là sân bay quốc tế Sarasota-Bradenton (IATA: SRQ) [3], tọa lạc gần với bãi biển vịnh đẹp ở phía nam của Tampa. Nhà ga Amtrak của Tampa [4] nằm ở 601 Nebraska Avenue trong trung tâm thành phố Tampa. Tàu Silver Service của Amtrak chạy hàng ngày từ New York hay Miami đến Tampa. Các chuyến tàu thông qua Florida có tầm nhìn tuyệt vời. Dễ dàng đến Tampa thông qua đường cao tốc chính giữa các tiểu bang, I-75 từ phía bắc và phía nam, và I-4 từ phía đông. Hoặc từ đường cao tốc, thoát ra I-275 để đến Tampa. Tuy nhiên, bạn nên chuẩn bị tinh thần cho nạn ùn tắc giao thông thường xuyên đặc biệt là khi trời mưa, gần như tất cả trung tâm và khu vực sân bay đang được xây dựng liên tục và đầy đủ. Cũng sẵn sàng để đối phó với các tài xế khủng khiếp, vì đây là bang cho người nghỉ hưu.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Marcus Aurelius", "role": "user" }, { "content": "Marcus Aurelius Antoninus Augustus là một Hoàng đế La Mã. Tất cả mọi thứ chúng ta nghe là một ý kiến, không phải là thực tế. Tất cả mọi thứ chúng ta thấy là một quan điểm, không phải là sự thật. Dù cho bạn có sống ba ngàn năm, hoặc thậm chí ba mươi ngàn năm, hãy nhớ rằng thứ duy nhất trong cuộc sống mà một người đàn ông có thể mất chính là giây phút của họ trong hiện tại; hiện tại bình đẳng cho tất cả, và do đó những gì bị mất là như nhau; và hơn nữa, bạn không thể có cuộc sống nào khác ngoài cái bạn đang mất, vì ta không thể mất những gì đã qua hay những gì sẽ đến. Một người già và một người chết ở tuổi trẻ, chỉ có hiện tại của họ bị tước mất, và không có gì khác mà họ mất. Nếu Chúa cho tôi biết ý định của Người là tôi sẽ chết vào ngày mai, hay chắc chắn vào một ngày sau ngày mai, tôi biết là không có nhiều sự khác biệt khi chết vào thứ ba hay thứ hai, trừ khi tôi là kẻ hèn nhát, bởi có gì khác biệt lớn ở đây? Vì vậy, đừng cho nó là quan trọng hay tuyệt vời dù bạn chết sau nhiều năm hoặc ngày mai. Nhìn vào bản chất của một thứ, cho dù nó là một quan điểm của một học thuyết, một kinh nghiệm, hay một sự giải thích. Vũ trụ được tạo từ tất cả những gì hiện hữu; và có một Thiên Chúa trong tất cả, một nguyên tắc tồn tại, một luật lệ được chia sẻ bởi tất cả những sinh vật có sự sống và một chân lý. Bản chất của vũ trụ là bản chất của tất cả mọi thứ của nó. Tức thời, mọi thứ đều liên quan đến những nguyên nhân khởi đầu. Xa hơn, bản chất của tự nhiên được chi phối bởi chân lý và chân lý là nguyên nhân khởi đầu. Phải rèn luyện tinh thần sao cho những nguyên lý của chủ nghĩa khắc kỷ luôn hiện diện trong đời sống và sự nghiệp, kiểm soát, chế ngự những ngẫu hứng trệch hướng. Trong mọi việc phải luôn nhớ đến những người quanh ta: thương yêu bà con họ hàng, quí trọng sự thật và công bằng. Ở trong đất nước tự do phải có công bằng, phải đề cao việc tôn trọng tự do của công dân. Có thể người khác sẽ hỏi: \"Làm sao để có được điều đó?\" Nhưng đúng ra bạn nên hỏi: \"Làm sao để không màng đến điều ấy?\" Người khác hỏi: \"Làm sao để người kia đừng làm phiền tôi?\" Bạn nên hỏi: \"Làm sao để tôi không mang ý định đó nữa?\" Người khác hỏi: \"Làm cách nào để tôi không mất đi đứa con?\" Nhưng bạn: \"Làm sao để không sợ hãi nếu tôi mất đi đứa con?\" Hãy thay đổi hẳn những gì bạn đang cầu nguyện và xem điều gì sẽ xảy ra. Suy nghĩ về bản thân mình như đã chết. Bạn đã sống cuộc sống của bạn? Ngay bây giờ, lấy hết những gì còn sót lại và sống nó đúng cách. Cái gì không truyền đi ánh sáng sẽ tạo nên bóng tối của chính mình. Cái chết không phải điều một người đàn ông sợ hãi, nhưng là chưa bao giờ bắt đầu sống. Nho xanh, nho chín, nho khô, rất nhiều sự thay đổi, nhưng nó không biến mất. Khi bạn được tận hưởng mỗi buổi sáng, hãy nghĩ về đặc ân quí giá đó là bạn được sống, để thở, để suy nghĩ, để tận hưởng, để yêu thương. May mắn thật sự là điều gì bạn làm cho chính bản thân. May mắn: tính cách tốt, ý định tốt, và hành động tốt. Hãy nghĩ tới những gì bạn đang có chứ không phải những gì bạn thiếu. Đối với những gì bạn có, hãy chọn ra những gì tốt nhất và hãy suy nghĩ xem bạn sẽ hăng hái như thế nào để tìm kiếm chúng nếu như bạn không có chúng. Thiên nhiên không bao giờ thấp kém hơn nghệ thuật, bởi nghệ thuật chỉ mô phỏng thiên nhiên trong các hình thức khác nhau của nó. Và như vậy, đó là bản chất hoàn hảo và toàn diện nhất của tất cả không thể ở dưới những kiệt tác nghệ thuật xuất sắc nhất. Hoặc là nghệ thuật, không ngoại lệ, luôn kém hơn những gì tốt nhất. Cơn giận dữ của chúng ta gây ra hậu quả là làm cho chúng ta đau khổ hơn nhiều so với nguyên nhân của nó. Khi bạn tìm lỗi lầm của ai đó, hãy tự hỏi bản thân câu hỏi :\"Đâu là lỗi lầm gần nhất của tôi xung quanh điều tôi chỉ trích.\" Bạn có quyền lực đối với tâm trí mình, sự vật bên ngoài chỉ phản ánh thế giới nội tâm. Nhận ra điều này, bạn sẽ tìm thấy sức mạnh. Cần rất ít để có một cuộc sống hạnh phúc, nó là tất cả những suy nghĩ bên trong con người bạn. Hạnh phúc trong cuộc sống của bạn phụ thuộc vào chất lượng những suy nghĩ của bạn. Bởi thế, giữ gìn nó cẩn thận. Dù bất cứ ai làm gì hay nói gì, tôi phải là ngọc lục bảo và giữ gìn màu sắc của tôi. Giá trị của người đàn ông không hơn giá trị khát vọng của họ. Giá trị của một người được đo bằng giá trị những gì người đó coi trọng. Bước đi qua một khoảnh khắc thời gian của vũ trụ hài hòa với tự nhiên, và kết thúc công việc trong sự hài lòng, giống như quả ô liu rơi xuống khi nó chín muồi, tự nhiên ban phước lành cho hoa trái của nó, và cảm ơn cái cây đã cho nó trưởng thành. Đào sâu bên trong. Trong đó là suối nguồn của lòng nhân từ và nó luôn sẵn bong bóng nổi lên nếu bạn đào sâu tìm kiếm. May mắn thật sự là những điều bạn làm cho chính bản thân. May mắn: tính cách tốt, ý định tốt, và hành động tốt. Đừng hành động như thể bạn có 10 nghìn năm để bắt đầu lại. Cái chết đứng ngay bên bạn. Làm tốt mọi thứ khi bạn còn sống và đó chính là sức mạnh của bạn. Từ ông cố của tôi, tôi không học ở các trường dành cho công chúng; có được những giáo viên tốt ở nhà, và để biết rằng vào những ngày đó một người đàn ông phải dùng nó trong tự do, và chính là điều ta phải hào phóng. Khi ta đã thực hiện một hành động tốt và một người khác đã nhận được nó, tại sao ta lại tìm kiếm một điều thứ ba, như những kẻ ngốc đã làm, giả như để được danh tiếng hay có sự đền đáp trở lại? Những gì không có lợi cho cả đàn thì không hữu ích cho ong mật. Như một con ong làm ra mật ngọt của mình không vì phần thưởng, tiếng vỗ tay hay lời ngợi khen, mà tiếp diễn những hành động như vậy nữa; ngay như cây nho sinh ra hoa trái đặc biệt của riêng nó trong mùa, lại sẵn sàng cho một thời điểm khác. Do đó, ngươi phải là một trong số chúng, làm mọi thứ mà không với bất kì một suy nghĩ nào thêm khác. Mỗi khi bạn thấy ai đó lầm đường lạc lối, hãy nhìn lại bản thân mình ngay, xem liệu mình có giống họ, chẳng hạn như quá coi trọng tiền bạn, danh vọng, hay điều gì khác. Kiểm tra bản thân bằng cách này có thể giúp bạn nhanh chóng quên đi sự phẫn nộ của mình. Bản chất của vũ trụ là bản chất của tất cả mọi thứ của nó. Tức thời, mọi thứ đều liên quan đến những nguyên nhân khởi đầu. Xa hơn, bản chất của tự nhiên được chi phối bởi chân lý và chân lý là nguyên nhân khởi đầu. Chúa tạo ra mọi thứ với mục đích duy nhất là để chúng làm việc cùng nhau và kết nối chúng với nhau. Sống mỗi ngày như thể hôm nay là ngày cuối cùng của bạn, là bạn đã được sinh ra mãi mãi. Bất hạnh bởi điều đó xảy đến với tôi -không phải- nhưng hạnh phúc nơi tôi, bởi mặc dù nó xảy đến với tôi, tôi vẫn tiếp tục tự chủ trong hiện tại với lòng can đảm và sức mạnh, không bị thực tại đè nặng cũng không chút lo sợ tương lai. Khen ngợi hay khinh chê không làm cho bất kỳ điều gì tốt hơn hay tệ đi. Liệu viên ngọc có mất đi vẻ đẹp của nó vì thiếu mất sự ngưỡng mộ. Khi tôi thức dậy mỗi buổi sáng, tôi tự nhủ với mình: người tôi đối xử hôm nay sẽ phiền phức, vô ơn, kiêu ngạo, không trung thực, ghen tuông và cáu kỉnh. Họ là thế bởi họ thiếu hiểu biết và không phân biệt chân thực được thiện hay ác. Nhưng tôi đã thấy vẻ đẹp của sự thật, sự xấu xa của cái ác, và nhận ra rằng những người làm điều ác có liên quan đến tôi: không phải cùng dòng máu được sinh ra, nhưng cùng tâm trí và cùng chia sẻ một phần hình ảnh của Chúa. Và vì vậy không ai trong số họ có thể làm tổn thương tôi, vì không ai có thể lôi kéo tôi vào cái xấu. Tôi không cảm thấy giận dữ anh em tôi bởi suy nghĩ chủ quan của mình, hoặc là ghét anh ta. Chúng tôi được sinh ra trong cùng thế giới để làm việc cùng nhau giống như chân, tay và mắt, giống như hai hàm răng, trên và dưới; và một thời gian ngắn cả hai sẽ cùng chết; và trên tất cả, tôi sẽ tha thứ, vì đó là giá trị tôi tin tưởng, và vì họ không thể thay đổi những nguyên tắc cao hơn đẫn đường cho tôi. Cản trở nhau là trái tự nhiên. Tức giận với ai đó, quay lưng lại với họ, là chống lại tự nhiên. Hài lòng, giản dị, và khiêm tốn. Nhiều kiến thức mà không phô trương. Con người luôn khao khát tìm nơi nào đó yên lành trong đất nước mình để tĩnh dưỡng, có thể dọc bờ biển, gần núi, và bạn cũng đặc biệt có thiên hướng thích điều đó. Nhưng kiểu suy nghĩ ấy hơi ngờ nghệch, bởi lúc nào bạn cũng có thể tĩnh tâm với chính mình nếu bạn muốn. Không nơi nào thanh bình và vô lo hơn chính tâm hồn ta. Dù bất cứ điều gì xảy ra với ngươi, nó đã được chuẩn bị cho ngươi từ thuở đời đời. Duy trì sự tự do của bạn, và nhìn vào những thứ bạn cần, đấy là một trái tim mạnh mẽ. Yên tĩnh không là gì khác ngoài thứ mà nội tâm mang lại. Sức mạnh và danh dự.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Vilnius", "role": "user" }, { "content": "Vilnius là thành phố lớn nhất, thủ đô của Litva với dân số 553.904 (850.700 người nếu tính cả Hạt Vilnius) vào thời điểm tháng 12 năm 2005. [1] Thành phố này là thủ phủ của Đô thị thành phố Vilnius và đô thị quận Vilnius cũng như của Hạt Vilnius. Vilnius có nhiều tên khác nhau trong nhiều ngôn ngữ trong lịch sử của mình. Các tên bằng tiếng nước ngoài khác có tiếng Ba Lan Wilno, tiếng Latin Vilna, tiếng Belarusia Вiльня (Vilnia), tiếng Đức Wilna, tiếng Yid ווילנע (Vilne), và tiếng Latvia, Viļņa.Một tên bằng tiếng Nga cổ hơn là Вильна/Вильно (Vilna/Vilno), dù Вильнюс (Vil'njus) hiện được dùng. Tên gọi Wilno và Vilna cũng được sử dụng trong tiếng Anh và tiếng Pháp cổ hơn. Có người sinh sống từ thời trung cổ, Vilnius luôn luôn là một thành phố đa chủng tộc với người Ba Lan, Do Thái, Nga và Bêlarút người làm cho một phần đáng kể dân số. Theo điều tra dân số cuối năm 2011, dân số bao gồm 63,2% người Litva, Ba Lan 16,5%, 12% người Nga, Belarus 3,5%, và 1,0% người Ukraina. Trong Thế chiến II, 80.000 người Do Thái từ Vilnius đã bị sát hại bởi Đức quốc xã và những người Lita hợp tác với Đức Quốc xã tại rừng của Paneriai và những nơi khác gần đó. Sau chiến tranh, phần lớn dân số Ba Lan đô thị đã được chuyển đến Ba Lan, trong khi trong thời gian 1950-1970 đã được thay thế bởi những người từ các bộ phận của Lithuania, các bộ phận lân cận của Belarus, cũng như Nga, Ukraine và các nước cộng hòa Xô Viết khác. Sân bay Quốc tế Vilnius (IATA: VNO), Rodunios kelias 10a, 370 5 273 9305, [1] là sân bay dân dụng lớn nhất ở Lithuania và là 6 km về phía nam trung tâm thành phố. Nó có các chuyến bay của các hãng hàng không sau: airBaltic (Copenhagen, Paris-Charles de Gaulle, Riga, Rome-Fiumicino, Tallinn, London Gatwick (seasonal)), Austrian Airlines (Vienna), Brussels Airlines (Brussels), Estonian Air (Amsterdam, Tallinn), Finnair (Helsinki), LOT Polish Airlines (Warsaw), Lufthansa (Frankfurt), Norwegian Air Shuttle (Oslo-Gardermoen), Ryanair (London Stansted, Milan, Rome, Dublin...) Scandinavian Airlines (Copenhagen), UTair Aviation (Moscow-Vnukovo), Wizzair (London Luton, Dortmund, Barcelona, Doncaster-Sheffield, Liverpool, Eindhoven...). Di chuyển đi/đến sân bay Bằng xe buýt: xe buýt # 1 # xe buýt / bản đồ, vilnius, xe buýt, 1 đi từ sân bay đến nhà ga xe lửa trung tâm. Xe buýt số 2 # xe buýt / bản đồ, vilnius, xe buýt, 2 đi từ sân bay đến trung tâm thành phố, tiếp tục qua khu kinh doanh, vào Šeškinė. Xe buýt số 1 sẽ đưa bạn đến các trạm xe lửa và xe buýt ( Stotis trong Lithuania), nằm cạnh nhau [2]. Đi xe buýt đến trung tâm mất 15 phút và xe buýt khởi hành từ sân bay cứ 10-15 phút. Vé có thể được mua từ người lái xe cho 3.50 LTL. Thông báo, mà theo các quy tắc chỉ là một phần của hành lý xách tay không lớn hơn một chỗ ngồi duy nhất được cho phép. Đối với hành lý lớn hơn thêm vé nên mua. Xe lửa: Bạn có thể đi tàu từ sân bay đến nhà ga xe lửa chính 2.50 LTL. Các chuyến xe lửa mất 7 phút, nhưng xe lửa khởi hành mỗi ~ 45 phút [3]. Bằng taxi: Miễn là bạn luôn luôn sử dụng taxi chính thức, đây là một hình thức đáng tin cậy và giá cả phải chăng của vận tải mặt đất. Chúng tôi đề nghị bạn cuốn sách bằng điện thoại [4] một khi bạn đã đến hơn là sử dụng các xe taxi chờ đợi như họ sẽ tính giá vé cao hơn nhiều (70-100 LTL thay vì 15-30 LTL). Hãy nhận biết rằng đồng hồ taxi luôn luôn là đồng nội tệ (Lit Lituani) và không euro hoặc USD.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Dahab", "role": "user" }, { "content": "Dahab (دهب) là một thị trấn ở Ai Cập, nằm gần mũi phía nam của Sinai khoảng 85 km (53 dặm) về phía bắc của Thành phố Sharm el-Sheikh trên Vịnh Aqaba. Đó là một nơi mà nhiều người đã phải lòng thị trấn này trong những năm qua, và quay trở lại thời gian và thời gian một lần nữa. Dahab đã từng là một ngôi làng hẻo lánh ven biển chỉ có người Bedouin địa phương sinh sống. Ít nhất là 30 năm trước đây, có ít hơn 30 gia đình Bedouin ở Dahab. Như người Bedouin nội địa, họ đã có một lối sống tự cấp nhưng ở Dahab cuộc sống tự cấp này được dựa trên nghề đánh cá cũng như chăn nuôi dê truyền thống. Trong suốt mùa hè, nhiều người Bedouin nội địa đến Dahab đánh bắt cá và thu thập quả chà là, và kiếm sống bên bờ biển. Cho đến ngày nay, những món quà yêu thích từ Dahab (đối với Bedouin nội địa) là hạt chà là và cá sấy khô. Vị trí biệt lập của Dahab, khung cảnh bình dị và sự thoải mái cơ sở khách sạn Bedouin đã làm cho nó là một điểm đến yêu thích cho tất cả những ai tình cờ gặp nó. Trong thời gian đầu (năm 1970), du khách chủ yếu là những người lính Israel hoặc những người từ các khu định cư trong thời gian nghỉ của họ. Trong những năm 1980 nó trở thành một nơi lui tới thường xuyên của dân hippie, và trong những năm 1990 những người đam mê phiêu lưu trên khắp thế giới đã bắt đầu khám phá kỳ quan thiên nhiên của Dahab. Sự kết hợp của Biển Đỏ và sa mạc Sinai làm Dahab hoàn hảo cho môn lướt ván buồm đẳng cấp thế giới, lặn biển, freediving, leo núi và tất nhiên sa mạc đi bộ với người Bedouin. Thêm vào chỗ ở giá rẻ trên hoặc gần bãi biển, thức ăn rẻ tiền và thức uống và một bầu không khí thoải mái. Ngày nay Dahab đã phát triển thành một \"khu vực nghỉ mát thay thế\" - quê hương của du khách độc lập và mạo hiểm, nhưng cũng có một số khu nghỉ dưỡng và khách sạn hạng sang hơn. Hầu hết các thứ hai là trong khu vực Laguna hoặc xa trung tâm. Đối với một số người, kết hợp này là một phần của sự quyến rũ Dahab của, những người khác coi hỗn hợp lên như một vấn đề: Giá trong Assalah được tăng lên một cách giả tạo mà làm cho nó ít hơn và ít thú vị cho du khách ba lô, mặc dù một số trại do người địa phương điều hành giữ mức giá cả phải chăng. Trái ngược với đó, rất nhiều khách du lịch trọn gói và gia đình sẽ không cảm thấy thoải mái với các tiện nghi thiếu và tất cả làm bằng tay, dáng vẻ trong những người hippie. Lưu ý kỳ cục, kết cấu bê tông chưa dở dang mãi mãi là một dấu hiệu của sự quản lý sai này. Tuy nhiên, cho tất cả mọi người với một tâm trí cởi mở, Dahab chắc chắn là đáng đến một lần và một nơi để bạn ắt hẳn sẽ mến xứ này. Đặc biệt là ở khu vực cũ của Dahab, bạn sẽ hiếm khi tìm thấy một du khách người đến chỉ một lần đến Dahab. Đối với nhiều người xứ này đã trở thành một ngôi nhà thứ hai.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Malawi", "role": "user" }, { "content": "Malawi hay Cộng hòa Malawi (tiếng Chichewa: Dziko la Malaŵi) là một quốc gia tại miền đông châu Phi. Các dân tộc của nhóm người Bantu định cư trên lãnh thổ vào giữa thiên niên kỷ thứ 1. Thế kỷ 16 ở đây đã tồn tại vương quốc Malawi, tên đó trở thành tên gọi của đất nước, những người châu Âu đầu tiên đến đây là những nàh truyền giáo Bồ Đào Nha (thế kỷ 17). Năm 1859, nhà thám hiểm Livingstone đã khám phá ra hồ Malawi và đặt tên cho vùng này là Nyassaland, nơi những người Bantu sinh sống và cũng là đối tượng vây ráp và cướp bóc của bọn buôn nô lệ đến từ đảo Zanzibar (đảo thuộc Tanzania). Năm 1891, các hiệp ước đã lập vùng này thành xứ bảo hộ của Anh với tên gọi Trung Phi. Năm 1953, thực dân Anh sáp nhập Nyassaland với Bắc và Nam Rhodesia thành Liên bang Trung Phi. Năm 1960, Hastings Kamuzu Banda thành lập đảng Đại hội Malawi. Nyassaland tách khỏi Liên bang Trung Phi năm 1962, trở thành quốc gia độc lập và đổi tên thành Malawi năm 1964. Năm 1971, Hastings Kamuza Banda tuyên bố trở thành Tổng thống trọn đời. Malawi duy trì mối quan hệ mật thiết với Nam Phi. Năm 1993, trước làn sóng phản đối trong nước ngày càng gia tăng, Tổng thống Banda tổ chức cuộc trưng cầu ý dân và chấp nhận thông qua thể chế đa đảng. Năm 1994, Bakili Muluzi, nhà lãnh đạo Mặt trận Dân chủ Thống nhất, đắc cử Tổng thống và tái đắc cử năm 1999. Năm 2000, Muluzi tiến hành chiến dịch chống tham nhũng và những thành quả kinh tế tốt đẹp đã làm hài lòng các nhà đầu tư. Tổng thống hiện nay của Malawi là Bingu wa Mutharika, được bầu chọn tháng 5 năm 2004. Với những nỗ lực của mình trong việc chống tham nhũng và thúc đẩy phát triển kinh tế, ông Bingu wa Mutharika đã tái đắc cử thêm một nhiệm kỳ tổng thống nữa vào tháng 5 năm 2009 vừa qua. Chính quyền hiện nay của Tổng thống Bingu wa Mutharika đang phải đương đầu với thách thức nghiêm trọng đó là tình trạng tham nhũng, tốc độ tăng dân số cao gây áp lực ngày càng lớn về đất canh tác và sự lây lan của bệnh dịch HIV/AIDS. Về mặt đối ngoại, Chính phủ Malawi đang phải đối mặt với tranh chấp về biên giới hồ Nyasa (Hồ Malawi) và sông Songwe uốn khúc với Tanzania. Địa lý[sửa] Các vách đá Golomoti.Nằm ở khu vực Nam Phi, Đông và Đông Bắc giáp Tanzania, Đông Nam và Tây Nam giáp Mozambique, Tây giáp Zambia. Vùng hồ Malawi ở phía Đông chiếm 1/4 diện tích lãnh thổ quốc gia và tiếp giáp với vùng cao nguyên ở phía Tây. Vùng đồng bằng thuộc lưu vực sông Shire ở phía Nam là nơi tập trung đông đúc dân cư. Malawi là nước cộng hòa tổng thống. Đứng đầu nhà nước và chính phủ là Tổng thống. Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu, nhiệm kì 5 năm. Cơ quan lập pháp là Quốc hội lưỡng viện: Hạ nghị viện gồm 177 thành viên, được bầu theo phổ thông đầu phiếu, nhiệm kì 5 năm. Thượng nghị viện gồm 80 thành viên. Cơ quan tư pháp là Tòa thượng thẩm tối cao; Tòa án cấp cao, chánh án do Tổng thống bổ nhiệm, các thẩm phán cấp dưới được bổ nhiệm dựa trên tư vấn của ủy ban dịch vụ pháp lí. Dân số hiện nay của Malawi là 13,603,181 người. Bao gồm các nhóm sắc tộc người Chewa, Nyanja, Tumbuka, Yao, Lomwe, Sena, Tonga, Ngoni, Ngonde chiếm 75,2%, người châu Á, người châu Âu chiếm 16,2%. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Chichewa và tiếng Anh. Tôn giáo có Thiên Chúa giáo và Hồi giáo là những tôn giáo chính của quốc gia này trong đó 79,9% dân số theo Thiên Chúa giáo, 12,8% Hồi giáo, và các tôn giáo khác 7.3%, Về ngôn ngữ Tiếng Chichewa là ngôn ngữ chính thức và tiếng Anh cũng được sử dụng phổ biến trong giao dịch thương mại. Hang thủ công mỹ nghệ được bày bán ở Lilongwe. Thu hoạch lạc tại một trạm nghiên cứu nông nghiệp ở Malawi.Malawi là nước nông nghiệp chậm phát triển. Nông nghiệp giữ vai trò chính trong nền kinh tế chiếm khoảng 37% GDP và 85% thu nhập từ xuất khẩu. Lúa, ngô, sắn là các cây lương thực chủ yếu. Thuốc lá, chè, cà phê, đường là các mặt hàng nông sản xuất khẩu. Malawi thuộc nhóm các nước kém phát triển. Kinh tế Malawi phụ thuộc vào sự trợ giúp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và một số quốc gia khác. Năm 2009, nền kinh tế Malawi gặp nhiều khó khăn do kinh tế toàn cầu suy thoái. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm này chỉ đạt 5.9% so với mức 9.7% vào năm 2008. Tổng sản phẩm quốc nội của Malawi đạt 4,9 tỷ USD. Bước sang năm 2010, kinh tế Malawi đã dần hồi phục với tốc độ tăng trưởng GDP trong năm là 6.5% và đạt mức 5,03 tỷ USD. Hiện nay, nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chính của đất nước, thu hút tới 85% lao động nhưng chỉ đóng góp 33,4% GDP của Malawi. Các sản phẩm nông nghiệp chính của nước này là: Thuốc lá, bông, chè, ngô, đường, khoai tây, sắn, lúa miến, đậu, các loại cây lấy củ, chăn nuôi gia súc, nuôi dê. Nhìn chung, công nghiệp của nước này rất nhỏ bé, lạc hậu và chiếm một tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu GDP là 21,7% GDP. Các ngành công nghiệp chủ đạo của Malawi là công nghiệp nhẹ và công nghiệp hàng tiêu dùng. Lilongwe - thủ đô chính trị của đất nước và nơi đóng trụ sở của chính phủ. Blantyre - thủ đô kinh tế và thành phố lớn nhất của đất nước. Blantyre là một thành phố lớn và phát triển mạnh mẽ với một trung tâm thành phố thú vị, cuộc sống về đêm và âm nhạc sôi động, một loạt các khách sạn từ thanh lịch đến các nhà nghỉ, và một đường phố sôi động và văn hóa thị trường. Limbe - một thị trấn chủ yếu là hoạt động thương mại bên cạnh Blantyre, với một số các nhà hàng Ấn Độ tốt nhất ở Malawi. Mzuzu - thành phố lớn nhất ở khu vực phía Bắc, và một điểm tập kết để vận chuyển đến Tanzania. Karonga - điểm dừng chân đầu tiên và cuối cùng từ / đến Tanzania vào phần trên của Malawi. Karonga được nhanh chóng phát triển được thúc đẩy bởi sự phát triển gần đây của một mỏ uranium. Mặc dù nó là hấp dẫn để swing thông qua một cách nhanh chóng, Karonga là một thị trấn duyên dáng, không xa các đồi Misuku hấp dẫn và một khoảng cách ngắn từ hồ Malawi. Mangochi, trước đây gọi là Fort Johnston, toạ lạc ở cuối phía nam của hồ Malawi nơi nó đổ vào sông Shire trên đường tới nhập vào sông Zambezi như nó đứng đầu về phía Ấn Độ Dương. Một thị trấn cỡ trung bình, nó có tất cả các tiện nghi thông thường cho du khách có kinh phí thấp, bao gồm resthouses, nhà hàng, và cửa hàng tạp hóa. Bằng xe riêng, một ổ đĩa để Mangochi từ Blanytre sẽ mất khoảng 3 đến 4 giờ. Mangochi là một điểm nhảy-off cho khu ký túc xá và các bờ biển của hồ Malawi, trên đường đến bán đảo Cape Maclear. Monkey Bay, là một ngôi làng lớn phổ biến khi bạn đi lên Lake Road từ Mangochi hướng đến Mũi Maclear. Nkhata Bay - một vịnh đá phía bắc của hồ - chọn một trong các nhà nghỉ và bạn có thể có mặt ở đây trong một thời gian. Nkhotakota trên bờ hồ Malawi ở khu vực miền Trung, là nơi mà các nhà thám hiểm David Livingston ngồi xuống với tiếng Swahili Ả Rập buôn bán nô lệ để cố gắng thương lượng chấm dứt việc buôn bán nô lệ. Nkhotakota là một cảng trung chuyển nô lệ, mà từ đó những người nô lệ được chở trên hồ Malawi đến bờ biển phía đông để tiếp tục được chở đi tiếp trên đường bộ mà ngày nay là bờ biển Tanzania. Nkhotakota là một thị trấn nhỏ gọn và hấp dẫn, cũ theo cách của nó và đúng với đa dạng sắc tộc của khu vực này của Malawi. Zomba là thủ phủ thuộc địa cũ của Malawi và được ghi nhận là kiến ​​trúc thuộc địa của Anh, Đại học Malawi, và Zomba cao nguyên đáng chú ý trong đó tăng ngay lập tức phía tây của thành phố. Trong khi trong Zomba, hãy truy cập các thị trường rộng lớn, mua vải và thủ công mỹ nghệ, và thưởng thức một số món ăn Ấn Độ tốt nhất của Malawi. Mũi Maclear - làng chài trên đỉnh của một bán đảo nhô ra phần phía nam của hồ Malawi. Mũi này có những bãi biển cát trắng tuyệt vời và nước tinh thể rõ nét hoàn hảo cho bơi lội, và là một điểm đến yêu thích của các du khách ba lô, chèo thuyền, và sunseekers. Khu vực này, tuy nhiên, được biết đến có một mức độ cao của sán máng Schistosomiasis và du khách phải được thông báo kỹ. Likoma và các đảo Chisumulu - sinh vật biển tuyệt vời và một cửa sau đế đến Mozambique. Những quần đảo này chỉ có thể tham quan bởi khách du lịch đi bằng thuyền tư nhân hoặc phà công cộng mà chỉ chạy 1-2 lần mỗi tuần và là phương tiện duy nhất mà người dân địa phương có thể cung cấp tàu đến và đi từ các hải đảo. Vườn quốc gia Liwonde - 550 km 2 rừng hoang sơ dọc theo bờ sông Shire. Công viên quốc gia được tiếp cận tốt nhất từ thị trấn Liwonde. Một chiếc thuyền nửa giờ đi xe lên vùng Shire trông thấy một số động vật hoang dã đáng chú ý của khu vực, đặc biệt là hà mã của, voi, và đại bàng cá. Khu bảo tồn rừng Ntchisi - khu rừng nhiệt đới tuyệt đẹp ở vùng nông thôn, khu vực bị ảnh hưởng Majete Wildlife Park Núi Mulanje là đỉnh cao nhất phía nam của Kilimanjaro và yêu thích của các nhà leo núi cố gắng để đạt được Sapitwa cao điểm, cao nhất của đỉnh núi Mulanje. Vườn quốc gia Nyika - vườn quốc gia lớn nhất của Malawi và nằm trên 1800m cao Nyika cao nguyên Cao nguyên Zomba Hầu hết các du khách đến từ các nước công nghiệp, bao gồm cả Hoa Kỳ, Canada, hầu hết Liên minh châu Âu nước, Nhật Bản, Singapore, Malaysia và Đài Loan không yêu cầu thị thực vào Malawi. Một visa du lịch kéo dài trong 30 ngày, nhưng phải cẩn thận khi họ đôi khi chỉ viết '7 ngày 'trên dấu hộ chiếu của bạn khi đến sân bay. Một visa du lịch có thể được gia hạn thêm 30 ngày hai lần (cho 5000 Malawi Kwacha mỗi lần) hoặc 60 ngày cùng một lúc cho 10.000 Malawi Kwacha tại cơ quan xuất nhập cảnh. Những người thuộc các nước khác (đặc biệt là một số nước Trung và Đông Âu) có thể nhận được thị thực khi đến bằng đường hàng không. Tuy nhiên nếu bạn cần thị thực và cố gắng nhập bằng đường bộ, bạn có thể yêu cầu một giấy phép nhập cảnh có điều kiện để được cấp bởi Bộ đội biên phòng. Chúng thường sẵn sàng làm như vậy, nhưng đối với một khoản phí (thương lượng). Với giấy phép trong tay bạn phải báo cáo với HQ xuất nhập cảnh trong Blantyre hay Lilongwe trong một khoảng thời gian quy định trong giấy phép. Ở đó, họ sẽ sau đó (thường) cấp cho bạn visa phù hợp cho lệ phí chính thức là 70 USD.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Kampot", "role": "user" }, { "content": "Kampot là thành phố khoảng 40.000 dân, tỉnh lỵ ỉnh Kampot Campuchia. Điểm thu hút chính của Kampot khu vực ven bờ sông. Trong khi có một khu phố có quy mô đáng kể xa bờ sông, hầu hết khách du lịch sẽ dành phần lớn thời gian của họ bên bờ sông. Hầu hết các doanh nghiệp du lịch nằm rải rác dọc theo đường đi dạo ven sông hoặc trong vòng một hoặc hai khối phố từ bờ sông. Điểm tham chiếu chính của sông là những cây cầu cũ, tòa nhà chợ được xây thời Pháp thuộc (hiện đang được phục hồi). Phía ngoài bờ sông, thành phố này có trung tâm là một vòng xoay sầu riêng kỳ lạ. Từ bùng binh này các xe khách cho khách xuống xe, bạn đi bộ xuống các đại lộ rộng dẫn đến bờ sông và ngôi chợ xây từ thời Pháp thuộc. Từ Phnom Penh, ba công ty (Hua Lin đóng gần chợ Olympic, Capitol đóng gần Chợ Orasay và 168 Phnom Phen Sorya có trụ sở tại trạm xe buýt bên cạnh chợ trung tâm) mỗi ngày chạy hai chuyến xe khách vào buổi sáng (khoảng 7 -9h) và buổi chiều (khoảng giữa trưa, 14:00). Giá vé khoảng 5 USD và bao gồm đưa đón miễn phí từ nhà khách của bạn. Con đường vừa mới nâng cấp cho phép các cuộc hành trình sẽ được hoàn thành trong khoảng 3-4 giờ. Nhiều nhà nghỉ ở Phnom Penh cung cấp dịch vụ vận tải trực tiếp đến Kampot với giá 8 USD. Từ Sihanoukville, đi taxi chia sẻ, xe khách loại nhỏ hoặc xe khách lớn. Hầu hết các xe taxi đi từ điểm đón giao thông bên cạnh chợ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Đường sắt đô thị", "role": "user" }, { "content": "Ngày nay, nhiều thành phố có hệ thống vận chuyển đường sắt đầy đủ, hiệu quả và thuận tiện, bao gồm xe điện, tàu điện ngầm và đường sắt nhẹ. Nhưng các nền tảng và xe lửa giống nhau trong hầu hết các hệ thống liên tục bị dừng và dừng lại, điều này không thể thêm màu sắc vào hành trình nhàm chán. Giao thông đường sắt đô thị đặc trưng được lựa chọn trong mục này là vượt trội ở một số khía cạnh. Họ có thể mang lại cho hành khách và hành khách một trải nghiệm khác nhau. Có thể nói rằng các hệ thống vận chuyển đường sắt này là một điểm thu hút, ngay cả thành phố là một điểm tham quan nổi bật. Các thành phố có vận chuyển đường sắt đặc biệt được phân phối trên toàn thế giới. May mắn thay, hầu hết vận chuyển đường sắt được xây dựng tại các thành phố lớn để đáp ứng với việc đi lại với khối lượng lớn. Vì vậy, bạn không cần phải nỗ lực để chuyển đến các điểm tham quan. Đánh giá cao các tuyến đường sắt này chạy qua toàn bộ quá trình duyệt thành phố. Bạn thậm chí có thể thiết kế tuyến đường và nhà ga mà bạn muốn trải nghiệm như một phương thức vận chuyển kết nối hai điểm tham quan. Các hệ thống dưới đây không chỉ là những điểm thu hút khách du lịch, mà là một phần cấu trúc sống của các thành phố của họ, đưa những người đi làm địa phương từ A đến B, nhưng cũng cung cấp một cái nhìn sâu sắc hấp dẫn về cuộc sống. Tập tin:Tàu Cát Linh - Hà Đông.jpg 21.02807Hà Nội1 Hà Nội Tàu điện trên cao Cát Linh - Hà Đông là giải pháp tốt nhất để đi lại trong những khi các tuyến đường phố ở Hà Nội bị tắc đường, nó sẽ giúp đi lại thuận tiện và rút ngắn thời gian hơn so với đi bằng ô tô hay xe máy. Hiện nó chỉ mới được thử nghiệm, chưa đưa vào hoạt động. 37.783San Francisco2 San Francisco Hệ thống cáp treo San Francisco là một trong số ít những người sống sót sau sự suy giảm của xe hơi đường phố ở Hoa Kỳ kể từ những năm 1950. Đó là một trong những cách tốt nhất để ngắm nhìn thành phố lên xuống nhiều ngọn đồi. Mặc dù nó đắt tiền và chủ yếu hướng tới khách du lịch, nhưng nó vẫn tiếp tục được sử dụng bởi người dân địa phương, hầu hết trong số họ mua hàng qua mùa, để đi lại hàng ngày. 55.864237Glasgow3 Glasgow Tàu điện ngầm của Glasgow là một hệ thống cấp độ sâu, nhưng ở quy mô nhỏ hơn, nó có biệt danh là \"Tàu đồ chơi\", được hiện đại hóa vào giữa những năm 1980, đã có được một danh tiếng trước đó. Hiện đại hóa đổi mới đang được xem xét bởi các nhà chức trách Scotland. Bảo tàng Bờ sông, cách ga tàu điện ngầm Partick 7 phút đi bộ, có một số triển lãm liên quan đến sự hiện thân trước đó của 'Tàu điện ngầm'. 51.507351London4 London Tàu điện ngầm Luân Đôn là hệ thống lâu đời nhất của loại hình này trên thế giới. Tuyến đường sắt ngầm đầu tiên trên thế giới, Đường sắt Metropolitan, đã mở cửa giữa Farringdon và Paddington vào năm 1863, và nhiều phần bề mặt và bề mặt phụ được mở ra trong suốt thế kỷ 19. Những tuyến đường sắt tiên phong này hiện nay tạo thành các tuyến Circle, District, Hammersmith & City và Metropolitan, với phần lâu đời nhất là các tuyến Circle và Hammersmith & City giữa Paddington và Farringdon. Các dòng \"ống\" sâu hơn, tạo cho biệt danh ngầm nổi tiếng của nó, đã mở ra trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20. Nhiều nhà ga được coi là có ý nghĩa về mặt kiến ​​trúc, đặc biệt là của Leslie Green và Charles Holden, và phong cách thiết kế nhà cho Tàu điện ngầm Luân Đôn hiện được quốc tế công nhận. Hệ thống đang được hiện đại hóa rộng rãi, khi hoàn thành sẽ tiếp tục danh tiếng của nó. Tàu điện ngầm sẽ được nối với dòng Elizabeth, sẽ tương đương với hệ thống RER ở Paris. Kể từ tháng 8 năm 2019, dự kiến ​​dòng mới sẽ mở vào tháng 3 năm 2021. Overground băng qua sông Thames, sử dụng những gì được nhiều người coi là đường hầm dưới nước lớn đầu tiên trên thế giới. Mặc dù bạn không thể truy cập vào đường hầm, nhưng bạn có thể thấy các phần của kiến ​​trúc của nó từ các trạm ở hai bên tại Wapping và Rotherhithe, và tất nhiên bạn vẫn có thể đi qua nó! Ngoài ra, ngoài đường mòn trong khu phố Hill Hill là một công trình mái vòm nhỏ che khuất gần bờ sông. Mặc dù không phải là lối vào ban đầu, đây từng là lối vào một đường hầm được sử dụng bởi tàu đầu tiên của London, Tàu điện ngầm Tower, chạy dưới sông Thames. Bạn có thể tìm hiểu về Đường ống và Sân bay, cũng như phần còn lại của phương tiện giao thông ở Luân Đôn, tại Bảo tàng Vận tải Luân Đôn ở Vườn hoa. 51.2667Wuppertal5 Wuppertal Schwebebahn (hay \"xe điện nổi\") ở Đức khá nổi bật về sự độc đáo của nó. Những chiếc xe treo dưới một đường ray trên cao đưa bạn đi quanh thị trấn. Được thiết kế vào thế kỷ 19 và dành cho các đô thị lớn như Berlin, khái niệm này không bao giờ mở rộng ra ngoài ví dụ đầu tiên này. Tuy nhiên, nó đã chạy (với một số tạm dừng) kể từ khi mở cửa vào năm 1901, và một cách tuyệt vời để có được cái nhìn của loài chim về cuộc sống thành phố chạy bên dưới bạn. Các hệ thống tàu điện ngầm dưới đây được chạy chủ yếu cho khách du lịch và chỉ có chiều dài theo dõi hạn chế. Họ vẫn cung cấp một cách tuyệt vời để xem các phần của thành phố, ngay cả khi phần còn lại của dân số ít sử dụng chúng. -22.677280Rio de Janeiro1 Rio de Janeiro Santa Teresa Tram (tiếng Bồ Đào Nha Brazil:Bonde de Santa Teresa) mở cửa vào năm 1877, được điện khí hóa vào năm 1896 và đã từng là một phần không thể thiếu để di chuyển mọi người xung quanh thành phố. Đường dây hẹp khổ dài 6km (4 mi) đã đóng cửa vào tháng 8 năm 2011 sau khi một vụ trật bánh làm sáu người chết và năm mươi người bị thương. Hệ thống đã mở cửa một phần với cổ phiếu mới; khoảng 2km đường đua đã hoạt động vào cuối năm 2015. 39.78Sóller2 Sóller Tàu điện di sản dài 4,6 km ở Sóller trên đảo Mallorca của Tây Ban Nha kết nối nhà ga xe lửa (cho phép chuyển đổi từ / đến thủ đôPalma) với bến cảng (Port de Sóller). Tòa nhà tiếp tân là một biệt thự thế kỷ 17 được chuyển đổi và do đó là tòa nhà ga lâu đời nhất thế giới. Xe điện đã hoạt động từ năm 1913 và chạy trên khổ 914 mm. Năm trong số các xe đẩy đang được sử dụng vẫn là của cổ phiếu 1913 ban đầu, trong khi những chiếc khác là xe điện ngừng hoạt động từ Palma vàLisbon, có từ những năm 1950. Để yêu cầu dừng lại, bạn kéo một chuỗi, rung chuông. 34.368612Hiroshima3 Hiroshima Đường sắt điện Hiroshima đã mở cửa trở lại như là một phần trong chương trình giới thiệu của thành phố về vụ đánh bom nguyên tử vào cuối Thế chiến II. Nên giữ nguyên tên, thay đổi sẽ vô nghĩa", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Melilla", "role": "user" }, { "content": "Melilla là một thành phố tự trị Tây Ban Nha nằm ở phía bắc châu Phi, trên bờ biển Địa Trung Hải. Trung tâm thành phố ban đầu là một pháo đài được xây dựng trên một ngọn đồi cao khoảng 30 m. Melilla (Tiếng Berber: Mrič) là một phần tách biệt của Tây Ban Nha trên bờ biển Rif thuộc Địa Trung Hải của Maroc thuộc Bắc Phi. Trước khi có cuộc xâm lăng của người Tây Ban Nha vào năm 1497, nó là thành phố với đa số là người Berber. Nó được xem là một phần của Andalucía thuộc về tỉnh Málaga trước ngày 14 tháng 3, 1995, khi Đạo luật tự trị của thành phố được thông qua; nó là cảng tự do trước khi Tây Ban Nha gia nhập Liên minh châu Âu. Vào năm 1994 dân số của thành phố là 63.670 người. Người dân ở đó thuộc các đạo Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Do thái giáo và một số ít theo đạo Hindu. Cả tiếng Tây Ban Nha và tiếng Tamazight (tiếng Amazign) đều được nói ở đây.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Bilbao", "role": "user" }, { "content": "Bilbao là thành phố công nghiệp Tây Ban Nha. Thành phố nằm trên bờ Nervión, một dòng sông thủy triều. Khí hậu ở Bilbao là nhẹ nhàng hơn so với hầu hết các bộ phận khác của bán đảo, hiếm khi rơi xuống dưới mức đóng băng trong mùa đông, hoặc tăng trên 35 °C vào mùa hè. Ngoài ra còn có mưa nhiều hơn, đó là một phước lành hỗn hợp. Những ngọn đồi xanh của Bilbao là giảm bớt gánh nặng sau khi ở lại mở rộng ở vùng đồng bằng khô ở miền Nam, nhưng kế hoạch cho một ngày trên bãi biển có nhiều rủi ro hơn. Dân số của Bilbao đúng là chỉ hơn 372.000, nhưng trong vùng đô thị có hơn 1.000.000 người. Tất cả xe buýt đến các tỉnh khác đi từ nhà ga TermiBus. Có kết nối thường xuyên đến Santander (phút 75) San Sebastian (60 phút) và Madrid (đến tại Avenida de Las bến xe Mỹ, 4-5 giờ) trong số những người khác. Công ty xe buýt kết nối Bilbao với nhiều thành phố ở Tây Ban Nha với giá rẻ hơn và thường xuyên hơn so với các công ty đường sắt. Các công ty liên kết Bilbao đến Santander là ALSA [1] (tel: +34 902422242), và trên lý thuyết bạn có thể nhận được thông tin về xe buýt từ Santander đến Bilbao [2]. Được chuẩn bị cho các tuyến chờ dài nửa giờ như chỉ có hai phòng vé. Thường là tốt hơn khi mua vé một ngày trước hoặc in vé của bạn trên trang web của công ty. Thay vì in ấn, bạn cũng có thể sử dụng tin nhắn văn bản họ gửi đến điện thoại di động của bạn như là bằng chứng mua hàng. Hơn nữa, bây giờ bạn có thể sử dụng bốn máy tự động. Sân bay Bilbao (IATA: BIO) được phục vụ bởi Lufthansa, Air France, Air Berlin, TUIfly, AerLingus, Iberia, Air Europa, Vueling và một số hãng hàng không khác. Easy Jet bay dễ dàng từ London Stansted đến sân bay Bilbao. Bạn cũng có thể bay với Ryanair đến Santander. Để đến trung tâm thành phố từ sân bay, bắt xe buýt Bizkaibus từ nơi đi bộ khu đến: không có sảnh đến. Xe buýt rời sân bay mỗi nửa giờ tại: 15: 45 quá quá giờ từ sân bay đến nhà ga xe buýt Bilbao. Cuộc hành trình ngược lại là: 25: 55 quá giờtừ trạm xe buýt đến sân bay, dừng lại ở Plaza Moyua trên đường. Một đơn chi phí vé 1,35 €, hoặc nếu sử dụng CreditTrans chọn vùng 2 trên các máy bên trong xe buýt. Taxi đến trung tâm thành phố Bilbao từ chi phí sân bay khoảng € 25-30. Bảo ​​tàng Guggenheim, Abandoibarra etorbidea, 2. Thứ 3-Chủ nhật, 10:00 đến 20:00; Tháng Bảy và Tháng Tám: Thứ Hai-CN, 10:00 đến 20:00. Đóng cửa ngày 01 tháng 1 và ngày 25 tháng 12. Bảo tàng nghệ thuật hiện đại bọc titan xoắn ngoạn mục của Frank Gehry có lẽ là tòa nhà nổi tiếng nhất của thập niên 1990. Bộ sưu tập là không thực sự ấn tượng, nhưng bảo tàng luôn luôn tổ chức ít nhất một cuộc triển lãm tạm thời thú vị, thường xuyên Bao gồm những kiệt tác từ các bộ sưu tập Guggenheim khác. bảo tàng luôn luôn tổ chức ít nhất một cuộc triển lãm tạm thời thú vị, thường xuyên Bao gồm những kiệt tác từ các bộ sưu tập Guggenheim khác. Museo de Bellas Artes (Museum of Fine Art), Plaza del Museo, 2. Bảo tàng của bộ sưu tập đáng chú ý mỹ thuật hiện có hơn sáu ngàn tác phẩm có niên đại từ thế kỷ 12 cho đến ngày nay, và bao gồm các bức tranh, tác phẩm điêu khắc, vẽ, khắc và đồ vật trang trí. General: €6.00; các nhóm, học sinh, người cao tuổi và thất nghiệp: 4,50 €. Miễn phí ngày thứ 4, và cho trẻ em dưới 12 tuổi.. Bảo tàng Basque (Euskal Museoa), Plaza Unamuno, 4. Thứ 3-thứ 7: 11 sáng-5h chiều, Chủ nhật 11 giờ sáng-2 giờ chiều. Thứ hai và ngày nghỉ công cộng: đóng cửa. Được thành lập vào năm 1921 để tập trung vào thời tiền sử, khảo cổ học, dân tộc học và lịch sử của Euskadi (quê hương Basque). Người lớn: 3 €, học sinh và các nhóm 1,50 €. Trẻ em dưới 10 và người cao niên: miễn phí. Thu: miễn phí. Bảo tàng hàng hải La Ría, Muelle Ramón de la Sota, 1. Nằm trong nơi từng là nhà máy đóng tàu Euskalduna, bên cạnh Euskalduna hiện tại Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật. Bảo tàng có diện tích 27.000 mét vuông, 7.000 cho triển lãm trong nhà và 20.000 cho triển lãm ngoài trời, ba bến cảng, đường đi bộ xung quanh họ và các cửa sông. Người lớn: 5 €, sinh viên, người trên 65 tuổi: 3,50 €. Trẻ em dưới 6 tuổi: miễn phí. Mùa đông: Thứ Hai-Thứ Sáu, 10:00-02:00, 4 18:00. Sat-CN, 10:00-14:00, 4-8PM. Mùa hè: gọi điện để kiểm tra. Museo Taurino (Bảo tàng Đấu bò), Martín Agüero, 1, Plaza de Toros de Vista Alegre, (gần Plaza Zabalburu), điện thoại. 94-444-8698. Bên cạnh một trường đấu bò, Museo Taurino làm nổi bật vai trò đấu bò đã đóng trong Euskadi. 3 €. Museo Diocesano de Arte Sacro (Bảo tàng Nghệ thuật Thánh), Plaza de la Encarnación, 9-B, Atxuri, điện thoại. 94-432-0125. Một tu viện cũ thành lập năm 1515 bởi nữ tu Đa Minh. Chung: € 2. Sinh viên, người già, và dưới 18 tuổi: 1 €. Miễn phí vào thứ Năm. Museo de Reproducciones Artísticas (Bảo tàng Bản sao lại nghệ thuật), Conde Mirasol (không số), điện thoại. 94-415-7673. Bản sao đầy đủ quy mô của công trình nổi tiếng nhất của thế giới nghệ thuật. Gọi điện trước cho một chuyến đi thăm. Nhà thờ Thánh Giacôbê (Santiago) Nhà thờ thế kỷ 14 phong cách kiến trúc gothic, được đặt tên sau khi chính thức vị thánh bảo trợ của Bilbao. Ba gian dọc và lang Gothic nhỏ. Tòa nhà được thiết kế một nhà thờ vào năm 1949. Tháp Neogothic và mặt tiền chính được thiết kế bởi Severino de Achúcarro trong những năm 1800. Quảng trường liền kề (Plaza de Santiago) bosts một đài phun nước được thiết kế bởi Luis Paret trong triều đại của Carlos III với dòng chữ Por el bien Publico (Vì lợi ích của nhân dân). Iglesia de San Anton nhà thờ theo phong cách Gothic từ nửa đầu thế kỷ 15 (1422). Dành riêng cho San Anton trong thế kỷ 16, tòa nhà là một hỗn hợp của phong cách bao gồm một hiên phục hưng và Baroque tháp được xây dựng vào năm 1777. Nhà thờ được xây dựng trên những tàn tích của một Alcazar cũ, và được thể hiện trên lá chắn của Bilbao. Basílica de Begoña, [3]. Nhìn ra Bilbao, có lẽ đây là tòa nhà mang tính biểu tượng tôn giáo nhất trong thành phố. Được xây dựng trong thế kỷ 16 bởi Sancho Martinez de Arego, người cũng chịu trách nhiệm cho Iglesia San Anton. Nó là một vương cung thánh đường của ba gian dọc. Trong cuộc chiến tranh Carlista đầu tiên, vào năm 1835, mặt tiền và tháp đã bị phá hủy. Nhà thờ hiện tại được thiết kế Jose Maria Basterra và xây dựng giữa năm 1902 và năm 1907. Iglesia de San Nicolás, Esperanza, 1 (Arenal, Casco Viejo), 94 416 1424. Iglesia de San Nicolás, hoàn thành vào thế kỷ 19, được dành riêng cho các vị thánh bảo trợ của các thủy thủ. Một trong những ví dụ tốt nhất của kiến ​​trúc Baroque trong Vizcaya. Iglesia de San Vicente Martir, Plaza de San Vicente, (gần: Abando), 94-423-1296. Nhà thờ Gothic được xây dựng trong thế kỷ 16.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Yokohama", "role": "user" }, { "content": "Nằm trên bờ biển phía tây của vịnh Tokyo trực tiếp ở phía nam Tokyo, Yokohama (横浜) là thành phố lớn thứ hai của Nhật Bản và là một trong những thành phố để nhìn thấy người nước ngoài nhất ở Nhật Bản. Yokohama là cảng đầu tiên mở cửa cho thương mại nước ngoài sau khi mở của Nhật Bản trong năm 1854. Đi đầu trong phong trào Minh Trị duy tân, đường xe lửa đầu tiên ở Nhật Bản kết nối Tokyo và Yokohama. Tuy nhiên, Yokohama bị tàn phá bởi trận động đất lớn Kanto năm 1923 và một lần nữa bị ném bom trong thế chiến II, và không bao giờ thực sự lấy lại nổi bật của nó. Nó vẫn còn là một thành phố biển cho đến ngày nay và vẫn giữ được phong cách quốc tế. Yokohama không có sân bay riêng. Bạn có thể đến Yokohama từ hai sân bay chính của Tokyo. Một số tàu Narita Express từ sân bay Narita đi qua đến Yokohama (1 1/2 giờ, ¥ 4380). Xe buýt đưa đón khách thường xuyên từ Narita đến Yokohama City Air Terminal (YCAT) (2-3 giờ, ¥ 3500). Khả năng tiếp cận với giá rẻ nhất từ sân bay Narita là để có một tàu Keisei đi Nippori, sau đó chuyển sang một JR Keihin-Tohoku đào tạo cho Yokohama (khoảng 2 giờ, ¥ 1540). Từ sân bay Haneda, đi Keikyu Line's Airport Express (エアポート 急行) đến ga Yokohama trong phút 30-35 cho ¥ 470. Lưu ý Airport Express có một vài biến thể: Nếu đích đến của tàu là Shin-Zushi (新 逗 子) hoặc Kanazawa-Bunko (金 沢 文库), sau đó bạn có thể ở lại trên tàu cho toàn bộ chuyến đi. Nếu tàu đi đến đích khác, nó có khả năng tiếp tục vào Tokyo, do đó bạn sẽ cần phải thay đổi tại ga Keikyu Kamata vào tàu cao tốc giới hạn tuyến chính theo đi theo hướng khác. Phố Tàu (中華街 Chūkagai), MM21 Motomachi-Chukagai Station. Phố Tàu Yokohama là lớn nhất ở Nhật Bản và có từ thời mở cửa của Nhật Bản trong năm 1859. Có rất nhiều cửa hàng tạp hóa Trung Quốc và là nơi để váy sườn xám giả rẻ hoặc đồ lặt vặt ngọc bích. Sân vận động Bay Stars. Tọa lạc tại quận Naka. Khu Phố Tàu, ga Kannai có khoảng cách một quãng đi bộ ngắn, đây có lẽ là một trong những nơi thú vị nhất để xem một trận đấu bóng chày ở Nhật Bản. Sân vận động Nissan (Located in Shin-Yokohama). Đây là một trong những sân vận động bóng đá lớn nhất Nhật Bản. Trận đấu cuối cùng của World Cup 2002 được tổ chức ở đây. Đây là sân nhà của các đội bóng đá J-league, Yokohama F. Marinos và Yokohama FC. Ngoài ra còn có các tiện ích như sân bóng đá, công viên ván trượt và sân bóng rổ có sẵn miễn phí cho công chúng. Tháp biển. Ngọn ngọn hải đăng lớn nhất trên đất liền trên thế giới. Nằm ở quận Naka. Đã được đóng cửa đối với công chúng thông qua năm 2009 do thay đổi quyền sở hữu và phục dựng Hikawa Maru. Tàu chở khách này thực hiện 238 chuyến đi vượt Thái Bình Dương đến Seattle và Vancouver giữa năm 1930 và 1960, và phục vụ như là một tàu bệnh viện trong Thế chiến II.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Gioan Baotixita Bùi Tuần", "role": "user" }, { "content": "Gioan Baotixita Bùi Tuần ( 21 tháng 1 năm 1927 ) là một Giám mục Công giáo người Việt. Làm sao có sự hòa hợp trong đất nước, trong Công giáo, đó là điều tôi tha thiết nhất. Làm sao dân tộc mình hòa hợp nhau, thương yêu thật sự. Là bởi bản tính người Việt mình cũng có khi hay có sự chia rẽ, ngôi thứ không chan hòa... Đức giám mục, nhà văn Bùi Tuần (2007) Wikipedia có bài viết về: Gioan Baotixita Bùi Tuần Wikimedia Commons có phương tiện liên quan tới: Gioan Baotixita Bùi Tuần", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Vườn quốc gia Kaziranga", "role": "user" }, { "content": "Vườn quốc gia Kaziranga nằm ở bang Assam, Ấn Độ, đây là khu vực cư trú quan trọng nhất của loài tê giác một sừng. Kaziranga là một trong những vườn quốc gia lâu đời nhất ở Ấn Độ và là môi trường sống lớn nhất cho loài tê giác một sừng. Kaziranga cũng là một di sản thế giới của UNESCO. Vườn quốc gia Kaziranga được cho là lần đầu tiên được công nhận là vào năm 1940, nhưng nó chính thức được thành lập vào năm 1974. Kaziranga có sự phong phú và đa dạng với gần 42 loài cá, 9 loài lưỡng cư, 27 loài bò sát, hơn 491 loài chim và 35 loài động vật có vú. Trong số các động vật có vú lớn hơn, có gần 86 con hổ (điều tra số lượng loài năm 2000), 1.048 con voi (điều tra năm 2002), 2.048 con tê giác (điều tra năm 2009), 1.431 con trâu rừng (điều tra năm 2001), 486 con hươu đầm lầy. Kaziranga còn sở hữu hơn 546 loài thực vật. Kaziranga được cho là có khoảng 86 con hổ, được coi là vườn quốc gia có mật độ hổ cao nhất trên thế giới (cứ 5 km vuông lại có 1 con, điều tra năm 2000). Du khách hiếm khi nhìn thấy hổ tại đây do vườn quốc gia có cỏ cao dày đặc. Tê giác là loài động vật đáng chú ý nhất tại đây. Kaziranga cũng là một trong những khu vực có quần thể trâu rừng châu Á hoang dã cuối cùng, nhưng ngay tại đây cũng có rất nhiều con cháu của trâu thuần và trâu rừng. Ngoài ra, nơi đây có số lượng các loài chim và được coi là vùng chim quan trọng. Khí hậu nhiệt đới điển hình. Khí hậu nóng và ẩm trong mùa hè (tháng 4-6) và lạnh về đêm trong mùa đông (từ tháng 10 đến tháng 1). Kaziranga bị ngập lụt bởi nước của sông Brahmaputra hàng năm. Mùa mưa chiếm ưu thế từ tháng 6 đến tháng 8. Khi trời mưa, Kaziranga trở nên không thể tiếp cận. Thời gian tốt nhất để ghé thăm Kaziranga là trong Tháng 9-10 hoặc tháng 2 tới tháng 3. Bằng xe buýt: từ Guwahati (217 km, Rs. 200), Jorhat (96 km, Rs. 70), Nawgaon, Dibrugarh, Tezpur (75 km, Rs. 50) hoặc Tinsukia. Nếu khách đến thăm Kaziranga sau một chuyến đi đến Arunachal Pradesh, Tezpur là điểm đến tốt nhất để từ đó bắt xe buýt tới vườn quốc gia. Nếu vào bang Assam qua Guwahati, thì có thể đi xe buýt từ đó đến Kaziranga. Giá vé xe buýt dao động tùy thuộc vào dịch vụ tư nhân hay dịch vụ của Nhà nước. Đường hàng không - sân bay gần nhất là trong thị trấn Jorhat, cách Kaziranga 96 km. Jorhat có các chuyến bay xuất phát từ Kolkata, Delhi và Guwahati thường xuyên. Bằng đường sắt - Nhà ga xe lửa gần nhất để tới Kaziranga là từ Furkating, cách đó 80 km. Furkating có các chuyến xe lửa từ Delhi và Kolkata. Bằng xe máy - Một cách khác để tới Kaziranga từ Guwahati và Kohima là bằng xe gắn máy, được tiến hành như tour du lịch bằng xe máy theo hướng dẫn tại bang Assam và các quốc gia lân cận. Tour du lịch được điều hành bởi các công ty du lịch. Các tour du lịch xe máy bao gồm các bang Assam, Meghalaya, Nagaland và Arunachal Pradesh. Khách du lịch không chỉ được tới thăm vườn quốc gia mà còn được tới các vùng nông thôn để trải nghiệm các nền văn hóa truyền thống của các bộ lạc và dân địa phương. Để đi lại trong vườn quốc gia thưởng ngoạn thì phương pháp duy nhất là thông qua một chiếc xe Jeep hoặc cưỡi voi. Ở một trong những nhà nghỉ địa phương, chẳng hạn như Eco Camp, Wild Grass Resort hoặc Diphlu River Lodge. Một buổi tối với âm nhạc và nhiều thức ăn địa phương hấp dẫn. Cưới trên một con voi khám phá vùng đồng cỏ và ngắm nhìn tê giác. Cưỡi voi diễn ra rất sớm vào buổi sáng và kéo dài khoảng một giờ. Tham gia một tour bằng xe jeep để xem động vật hoang dã khác như cò, đại bàng, và hươu đầm lầy. Tại Kohora (trên tuyến đường Guwahati-Jorhat) có một khuôn viên rất lớn của Sở Du lịch Assam, đối diện với trạm xe buýt Kohora. Ở đây bạn có thể tìm thấy một số phòng nghỉ sang trọng (400-2000 Rs một đêm mỗi phòng). Nó rất thuận tiện bởi bạn không phải thông qua dịch vụ trung gian. Thông tin cho các nhà nghỉ du lịch trong du lịch phức hợp Assam liên hệ như sau-Bonani (Bon Habi) - 03.776-262.423, 03.776-262.675, 03.776-262.575 Aranya-03.776-262.429, Kohora IB-03.776-262.428, Bagori - 03.672-283.463 Giám đốc Du lịch cũng có thể liên lạc: Guwahati: 0361-2547102, 2542748 Email: astdcorpn@sancharnet.in Một số nhà nghỉ tư nhân khác: - Wild Grass, ☎ 0091 3776 262085, email: wildgrasskaziranga @ gmail. Họ có hướng dẫn chuyên môn và cơ sở nghỉ ngơi rất đẹp. Khu nghỉ cung cấp một môi trường du lịch rừng. Các phòng rộng rãi và thoải mái, nhân viên chu đáo. Bạn nên đặt phòng trước trong mùa du lịch. Chỉ cần một cuộc gọi điện thoại đơn giản, và chiếc xe của nhà nghỉ sẽ đến đường cao tốc để đón bạn. Nature-Hunt Eco Camp, ☎ 91-9435515011. Tương đối mới và không thương mại hóa. Ngoài việc cung cấp dịch vụ trong Kaziranga, họ cũng cung cấp dịch vụ tại các tiểu bang Đông Bắc khác và có thể sắp xếp ở trong tất cả các vườn quốc gia. Landmark Woods, ☎ +91 9957189228, e-mail: landmarktours@sify.com. Một khu nghỉ gần phạm vi phía tây của vườn quốc gia. Wild Mahseer, ☎ +91-3714-234354, e-mail: wildmahseer@yahoo.com. Khách sạn này là một trong những di tích lịch sử đặc trưng của kiến trúc Victoria và có phòng rộng rãi tại bốn ngôi nhà gỗ. Ngoài ra, bạn cũng có thể cắm trại ngoài trời. Số lượng nhà hàng được giới hạn bị giới hạn trong khu vực vườn quốc gia. Tất cả các nhà nghỉ du lịch có cơ sở riêng phục vụ ăn uống. Nhưng chi phí cho ăn uống khá tốn kém. Có một số cửa hàng rượu vang tại Kohora. Mặc dù giá của chúng không hề rẻ. Khu vực điện nước vô cùng thiếu thốn nên bạn sẽ phải chấp nhận khi đồ uống không được ướp lạnh. Tại Kohora, có nhiều cửa hàng bán các loại lâm sản và đồ thủ công mỹ nghệ địa phương.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Cartagena (Colombia)", "role": "user" }, { "content": "Cartagena de Indias (phát âm: [kartaˈçena de ˈindias] trong tiếng Tây Ban Nha), là thành phố ở phía bắc Colombia, thủ phủ của Bolívar Department, một thành phố với hải cảng bên bờ Biển Caribbe. Thành phố có dân số theo điều tra năm 2005 là 1,09 triệu người, còn dân số vùng đô thị là 1,24 triệu người, là vùng đô thị lớn thứ 5 ở Colombia. Thành phố nằm trên một hòn đảo và được kết nối bằng một tuyến đường với đất liền. Khu vực phố cổ được bao quanh bởi 2 pháo đài cổ với tường thành được xây thời thuộc địa Tây Ban Nha. Thành phố có các công trình nổi bật như nhà thờ Dòng Tên San Juan de Dios, cung điện, Đại học Cartagena (thành lập năm 1827). Cartagena cũng là điểm cuối của một tuyến ống dẫn khí dài khoảng 600 km đi sâu vào nội địa Colombia. Thành phố này xuất khẩu dầu mỏ và cà phê là chủ yếu, ngoài ra còn xuất khẩu thuốc lá, thịt gia súc, gỗ, đá quý. Kể từ thập niên 1990, du lịch đã thành một ngành quan trọng. Được người Tây Ban Nha thành lập năm 1533, thành phố nhanh chóng trở thành một thương cảng nhộn nhịp và đã được gọi là Nữ hoàng của Indies. Năm 1544, hải tặc đã chiếm giữ thành phố này. Đầu thế kỷ 17, thành phố này chỉ xếp sau Thành phố Mexico về tầm quan trọng thương mại ở Tân Thế Giới.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Câu đối của các sĩ phu yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX", "role": "user" }, { "content": "Phan Thanh Giản tự là Đạm Bá, Đạm Như, hiệu là Lương Khê, biệt hiệu là Mai Xuyên, sinh tại làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, tỉnh Vĩnh Long, nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Năm 1826, Phan đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ. Năm 1836, Phan được Tự Đức cử làm Chánh sứ sang Pháp xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông, nhưng không thành. Ngày 20-6-1867, Pháp chiếm tỉnh thành Vĩnh Long lần thứ hai. Phan Thanh Giản tuyệt thực, rồi tự tử vào ngày 4-8-1867. Sau khi ông mất, có rất nhiều gửi câu đối phúng điếu như sau: Sĩ phu Nam Kỳ điếu Phan công: 九泉未釋羣戎憾 Cửu tuyền vị thích quần nhung hám (Suối vàng còn giận quân giặc dữ) 一忍能全六省民 Nhất nhẫn năng toàn lục tỉnh dân (Nhẫn nhục cho yên đám dân lành) Sĩ phu Trung Kỳ phúng Phan công: 三朝耿耿敦從事 Tam triều cảnh cảnh đôn tùng sự (Gắn bó ba triều lo việc trọn) 一老哀哀不憗遺 Nhất lão ai ai bất ngận di (Xót thương một lão chẳng sống lâu) Sĩ phu Bắc kỳ phúng điếu Phan công: 南中再覩文承相 Nam trung tái đổ Văn thừa tướng (Trong Nam lại thấy Văn thừa tướng) 北地驚魂郭子儀 Bắc địa kinh hồn Quách Tử Nghi (Ngoài Bắc càng kinh Quách Tử Nghi) Những câu đối khắc ở ngoài lăng mộ: 江山鍾秀氣 Giang sơn chung tú khí (Sông núi đúc khí tốt) 歐亞慕威靈 Âu Á mộ uy linh (Âu Á mến oai linh) 節義留天地 Tiết nghĩa lưu thiên địa (Tiết nghĩa truyền trời đất) 精神貫斗牛 Tinh thần quán Đẩu Ngưu (Tinh thần cao tận Đẩu, Ngưu) Lê Văn Thạc hay còn gọi là Lê Quốc Thạc, hiệu là Miễn Am, người làng Phùng Cầu, nay thuộc xã Thiệu Thịnh (Thiệu Hóa). Năm ông 11 tuổi, trong kỳ thi sát hạch ở trấn, viên quan triều Tây Sơn bấy giờ là Trấn thủ Trung Khuông quận công đã ra cho ông một vế đối chữ Hán: “Quan trung trở sơn đái hà, tứ tái địa khả đô dĩ bá” (Giữa ải quan hiểm trở núi sông, thu đất bốn phương ắt nên nghiệp lớn) Ông đã đối: “Túc hạ thâm câu hào lũy, lưỡng tướng đầu khả trí ư huy” (Dưới chân mình cao sâu hào lũy, hai tướng đầu quyết lập công to) Viên Trấn thủ thấy vế đối của cậu bé còn nhỏ tuổi vừa hay, lại tỏ ra có chí, nên giữ lại làm bạn học với con mình. Đương thời, ông Miễn Am còn được giới nho sĩ và nhân dân Thanh Hóa ca ngợi là người làm câu đối hay. Người ta thường truyền nhau câu nói: “Văn trướng Cát Xuyên, đối liên Phùng Cầu”. Nghĩa là về văn hay thì có ông Nhữ Bá Sĩ, người Cát Xuyên, Hoằng Hóa. Sau khi nghỉ hưu ở tuổi 70, ông Miễn Am về nhà còn mở trường dạy học, ông đã làm đôi câu đối, dán ở chỗ thường ngồi trong nhà: Tam tỉnh thư học quan cam lãnh, hoạn thành phi lợi khí Thất tuần phụng tân cáo bất dược, dã diệc thị tường kim” Nghĩa là: “Lạm giữ đốc học ba tỉnh cam phận nghèo khổ thầy đồ, vẫn tin chức chẳng hóa giàu Kính dâng sắc phong lúc bảy mươi đâu dám rạng rỡ mặt mày, đúng là vàng khối đúc nên đẹp” Về cuối đời thấy cảnh đất nước đang bị thực dân Pháp thôn tính dần, mà triều đình không có quốc sách hữu hiệu để đối phó, còn bạn bè, người thân thì đều đã lần lượt khuất núi, nên ông tỏ ra buồn rầu, chua xót trước thời cuộc, thể hiện ở đôi câu đối điếu người bạn tâm giao Nhữ Bá Sĩ: “Ông viết trát nhi phản chân, đế truyền dĩ hải Bộc viết mạo nhi do tại, trần ba vị thanh”. Dịch là: “Ông tám chục cõi thật trở về, nút trời đã cởi Tôi chín mươi bến mê còn ở, sóng dữ chưa êm” Nguyễn Khắc Trạch tự An Phủ, hiệu Nhuế Xuyên, người làng Bình Hồ, huyện Đông Yên, trấn Sơn Nam, nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Năm 1849 ông làm Bố chính (quan đầu tỉnh) Gia Định, khi đó còn có tên là Phiên An. Khi tình hình Gia Định ổn định ông được điều về làm Tuần phủ Vĩnh Long. Năm 1855, ông được triệu về triều giữ chức Hàn lâm trực học sĩ, sung Biên tu Quốc sử quán. Năm 1864, ông về quê sống một cuộc đời dân dã, khuyến khích mở mang nông nghiệp, trồng dâu, nuôi tằm, quan tâm đến việc học của lớp trẻ. Nguyễn Khắc Trạch mất, Tôn Thất Thuyết khi đó là Thượng thư bộ Binh, phụ chính đại thần gửi câu đối viếng: “Cố địa vô song, cộng đạo Phiên An di cựu khách Tiên Sinh hà khứ trùng khan Hàm Tử chính đường niên Dịch: Đất cũ không quên, những tưởng cũng đương đến, Phiên An còn lại khách cũ Tiên sinh về đâu, xem sao được nữa trận Hàm Tử diễn lại ngay trong năm nay Nguyễn Văn Siêu tên khác là Định, tự Tốn Ban, hiệu Phương Đình và Thọ Xương cư sĩ, thuỵ Chí Đạo, người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Ông làm quan đến Kiểm thảo viện Hàn lâm, rồi trải qua các chức vụ Chủ sự bộ Lễ, Thị giảng học sĩ...Tương truyền khi Nguyễn Văn Siêu được cử về giữ chức án sát ở Hà Tĩnh, các nho sĩ vùng này lập mẹo để thử tài Thần Siêu xem như thế nào. Họ bố trí cho một người chạy ra đường, đón võng ông đi qua để xin câu đối. Ông hỏi hoàn cảnh, người ấy nói là gia đình có hai bố mẹ cùng chết một lúc, nay xin câu đối về thờ chung, hỏi thêm hành trạng người đã khuất thì chẳng ai có công tích hay tài năng gì đặc biệt cả, người ta bày giấy bút ra trước mặt ông, để xin ...có ngay! Nguyễn Văn Siêu hơi lúng túng. Đầu đề “khô khan” như thế này, thì phải có thời gian suy nghĩ. Ông nói với người kia: \"Được, ta sẽ viết ngay. Có điều giấy bút này xấu quá ta không quen viết. Anh chịu khó chạy đi đổi cho ta thứ khác\". Thời gian người kia chạy đi kiếm giấy bút tốt là thời gian ông cấu tứ. Và đôi câu đối được viết ra: Đình tiền đồng trúc giao phù, xưng cô diệc xưng ai, bất thắng địa thảm thiên sầu, cửu tự chi ân vị báo (Trước sân gậy vông gậy trúc chống xen nhau, hết xưng cô rồi lại xưng ai, xiết bao trời thảm đất sầu, chín chữ cù lao chưa chút báo) Tuyền hạ sắt cầm tịnh cổ, bất quan diệc bất quả, ý giả sơn minh hải thệ, bách niên chi ước mạc vong (Dưới suối, đàn sắt đàn cầm cùng hòa hợp, thôi nỗi quan và thôi nỗi quả, ý hẳn non thề biển hẹn, trăm năm nguyện ước quyết không quên) Đám tang xưa, khi cha mất, con chống gậy vông tự xưng là cô, khi mẹ mất con chống gậy tre tự xưng là ai. Quan là người chết vợ, quả là người chết chồng. Trong hoàn cảnh như vậy mà Nguyễn Văn Siêu viết được câu đối ý tình tha thiết nói đúng cảnh ngộ chung và cảnh ngộ riêng một cách thanh thoát và thật tài tình. Câu đối bày tỏ sự thương tiếc của Nguyễn Văn Siêu với gia đình họ Cao: Tối liên tai, quán cổ tài danh, nan đệ cánh nan huynh, bất thế ngẫu sinh hoàn ngẫu tử (Thảm thương thay! nức tiếng tài danh, anh giỏi em giỏi, đời dễ mấy người cùng sống thác) Khả tích dã, đáo đầu sự thế, thử nhân nhi thử ngộ, hỗn trần lưu xú diệc lưu hương (Khá tiếc nhỉ! đến nơi sự thế, người này cảnh ấy, đời lưu một tiếng để danh thơm) Phạm Văn Nghị là người ở xã Tam Đăng, tổng An Trung, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn Tam Quang, xã Yên Thắng, huyện Ý Yên tỉnh Nam Định). Ông lần lượt đỗ: Tú tài, Cử nhân và Hoàng giáp nên được người đời gọi là Hoàng Tam Đăng. Hiệp ước Giáp Tuất được ký vào ngày 15 tháng 3 năm 1874, triều đình Huế phải giao đứt toàn bộ Nam Kỳ cho Pháp. Phạm Văn Nghị buồn bực, viện cớ tuổi cao, xin về dưỡng lão. Năm ông 70 tuổi, học trò của ông là Tống Duy Tân viết câu đối như sau: Phong lãng kỉ hồi, đại nghĩa ná tri đầu phát bạch Giang sơn vô dạng, cố viên nhưng hữu cúc hoa hoàng Dịch: Sóng gió nhiều phen, nghĩa lớn sá chi đầu tóc bạc Giang sơn yên ổn, vườn xưa còn đấy luống hoa vàng Ngày 25-12-1873, ông dẫn 100 dân binh lên lập căn cứ An Hoà, chuẩn bị lực lượng chiếm lại thành Nam Định. Sau 3 ngày, hơn 7000 người đã tới ứng nghĩa.Tháng 3-1874, Pháp rút khỏi Bắc Kỳ ông mới cho giải tán nghĩa quân An Hoà, thật đúng như câu đối: Vì quốc báo ân hiệp kháng Tây nhung bình quốc nạn Bảo dân cao khí phách anh tài Nam Việt cứu dân sinh Phạm Văn Nghị mất, Tống Duy Tân viết câu đối: Phu tử tiên thiên hạ chi ưu, kỷ độ thăng trầm thân thế Đệ tử thị tiên sinh do phụ, bách niên tồn một thủy chung Tạm dịch: Tiên sinh lo việc trước người đời, thân thế nổi chìm ôi mấy độ; Đệ tử coi thầy như cha, mất còn chung thủy mãi trăm năm. Trong lễ tang hoàng giáp Phạm Văn Nghị trước đông đảo các bậc khoa bảng chức sắc và quyền quý đến dự với đồ phúng viếng và câu đối viết sẵn. Bỗng có một ông già dáng vẻ nghèo khó nhưng cốt cách tĩnh tại, không đem lễ vật gì, chỉ xin một nén hương vào viếng. Mọi người có vẻ coi thường. Vái xong ba vái ông già ứng khẩu đọc đôi câu đối: Tích yên, nghĩa lỗ nhân can, Độc Bộ ba đào câu nộ sắc Kim dã, nghiêm sương hàn lộ, Hoa Lư thảo thụ đối sầu nhan Tạm dịch: Xưa chèo nghĩa buồm nhân, Độc Bộ cồn cồn sóng giận Nay băng đông sương giá, Hoa Lư ảm đạm cây sầu Câu đối hay quá, chỉnh quá, ý tứ cao đạo mà sâu sắc, có cả tâm sự và thế sự, tình người và tình đời khiến quan khách đều lộ vẻ kính phục trân trọng mời ngồi, nhưng ông già chỉ cúi đầu đáp lễ rồi lặng lẽ ra đi Bùi Hữu Nghĩa tên thật là Bùi Quang Nghĩa, hiệu Nghi Chi, sinh tại Bình Thuỷ – Cần Thơ. Năm 1835, ông đỗ Giải nguyên kỳ thi hương ở Gia Định. Ít lâu sau, ông kết duyên với bà Nguyễn Thị Tồn. Ông được bổ làm tri huyện ở Phước Long (Biên Hòa), rồi tri huyện Trà Vang (tức huyện Trà Vinh – tỉnh Vĩnh Long). Khi làm Tri Huyện Trà Vang, ông dưới quyền quản lý của Tổng đốc Trương Văn Uyển và Bố chánh Truyện. Ở nơi mới, Bùi Hữu Nghĩa cũng không được lòng quan trên bởi có lần ông cho đánh đòn em vợ bố chính Truyện bởi thói xấc láo. Cho nên nhân vụ Láng Thé, ông bị họ khép tội chết. Nguyễn Thị Tồn là người ở thôn Mỹ Khánh, tổng Chánh Mỹ Thượng, huyện Phước Chính, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc tỉnh Đồng Nai). Khi nghe tin chồng bị bắt bà đã lặn lội ra kinh đô Huế để đánh trống kêu oan cho chồng, bà được Thái hậu Từ Dụ (mẹ vua Tự Đức), ban cho tấm biển chạm 4 chữ vàng \"Tiết phụ khả gia\". Tuy cứu được chồng, nhưng khi trở về đến quê nhà ở Biên Hòa, thì bà lâm bệnh mất và được an táng ở nơi đó... Nghe tin vợ mất, nhưng lúc bấy giờ Bùi Hữu Nghĩa đang ở biên trấn xa xôi, nên khi đến Biên Hòa thì việc an táng đã xong, ông làm đôi câu đối, 1 Hán 1 Nôm để tỏ lòng thương tiếc: 我貧卿能助我冤卿能明朝郡皆稱卿是婦 Ngã bần, khanh năng trợ; ngã oan khanh năng minh, triều dã giai xưng khanh thị phụ (Ta nghèo, mình hay giúp đỡ; ta tội, mình biết kêu oan, trong triều ngoài quận đều khen mình mới thật là vợ) 卿病我不藥卿死我不喪江山膺笑我非夫 Khanh bệnh, ngã bất dược; khanh tử ngã bất táng, giang sơn ưng tiếu ngã phi phu (Mình bịnh, ta không thuốc thang; mình chết, ta không chôn cất; non sông cười ta chẳng xứng gọi là chồng) Nơi kinh quốc mấy hồi trống dóng, biện bạch này oan nọ ức; đấng hiền lương mắt thấy thảy đau lòng Chốn tỉnh đường một tiếng hét vang, hẳn hoi lẽ chánh lời nghiêm, lũ bằng đảng tai nghe đều mất vía Nguyễn Hàm Ninh tự là Thuần Chi, hiệu Tĩnh Trai, Anh Toàn tử, quê làng Phù Ninh; sau dời sang làng Trung Ái (sau đổi thành Trung Thuần) phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Năm Kỉ Sửu (1829), ông đỗ Tú tài, đến năm Tân Mão (1831) đỗ Giải nguyên tại Thừa Thiên. Ông nhiều lần bị thăng giáng trên quan trường, kết cục bị đổi về Huế làm Trai đàn hiệu lực tại chùa Thiên Mụ. Lúc còn là học trò, các bạn của Nguyễn Hàm Ninh ra cho ông vế đối: Vinh Sơn, Ngưu Sơn, sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt Ông Nguyễn đối lại: Tràng Hải, Ngoại Hải, hải hải đa liệt nữ anh thư Vế ra nhằm thể hiện niềm tự hào về quê hương (vùng dưới chân đèo Ngang) của bạn. Cách ghép chữ “sơn” [山] (núi) + “sơn” [山] = “xuất” [出] (ra). Vế đối lại cũng biểu thị niềm vinh dự được sống trên mảnh đất có nhiều “liệt nữ anh thư”, để sánh cùng “anh hùng hào kiệt” của bạn. Ở đây, cũng dùng cách ghép chữ: khung chữ bên bộ “thủy” [氵] của chữ “hải” [海] (biển), được xem là “đa” [多] (nhiều). Ngày ấy, có một chàng trai làng Trung Ái cưới một cô vợ người làng Phan Long. Phan Long là phố huyện cũng lắm bậc hay chữ kỳ tài. Người Phan Long biết hôm ấy trong đám đón dâu của làng Trung Ái có ông Tiến Sĩ Nguyễn Hàm Ninh, nên họ tổ chức bày một hương án chặn ngang đường vào làng, đoạn đầu cầu Kênh Kịa. Trên hương án họ đặt một vế đối kèm theo điều kiện nếu họ nhà trai đối được thì sẽ cho qua, bằng không thì...quay về. vế ra là: Chân giậm tay mò bơn hói Kịa (Bơn là loại cá thờn bơn mình dẹp, dẹt hình như cái lá đa, có nhiều ở con ngòi nước mặn chảy dưới cầu Kênh Kịa. Từ cái ý thực ấy, vế đối muốn ám chỉ việc người con trai về đất này tìm vợ) Đoàn người đi đón dâu còn ngơ ngác, lúng túng chưa biết xử trí thế nào thì Nguyễn Hàm Ninh đã vượt lên ứng khẩu: Má kế miệng ngậm bống Khe Giang Vế đối thực hợp cả ý thực lẫn ý lỡm. Khe Giang là con suối lớn chảy ngang cuối làng Trung Ái, nơi có nhiều cá bống nước ngọt. Còn ý lỡm đối lại cũng rất đạt, nói bóng nói gió việc người con gái về lấy chồng ở đất Khe Giang...! Có người phụ nữ chồng là người Tàu sang Việt Nam buôn bán bị bệnh mà chết phải đưa linh cửu về Trung Quốc trong khi bà có thai, Nguyễn Hàm Ninh có viết đôi câu đối viếng, một câu chữ Nho 1 câu chữ Nôm như sau: 結髮訂吾緣誰謂今朝鴻北去 Kết phát đính ngô duyên, thùy vị kim triêu hồng bắc khứ (Kết tóc hẹn duyên ta, một phút ai xui hồng về bắc) 茫心憑客地吁嗟何日雁南歸 Mang tâm bằng khách địa, hu ta hà nhật nhạn nam quy! (Ôm lòng nương đất khách, bao giờ còn thấy nhạn sang nam?) Câu này tác giả dùng ngô, khách, mang để nói việc bà lấy chồng Tàu, có mang. Trước cũng tưởng Tấn Tần một nhà, vậy phận bạc phải nhờ đất khách Nào có biết Bắc Nam đôi ngả, đem gánh vàng đi đổ sông Ngô Câu đối của vua Thiệu Trị tặng Nguyễn Hàm Ninh khi ông làm Hành tẩu bộ Lễ: 野外秀才齊天大聖 Dã ngoại tú tài, Tề thiên đại thánh (Tú tài ở làng to như Tề thiên đại thánh) 部中行走陸地神仙 Bộ trung hành tẩu, lục địa thần tiên (Hành tẩu trong bộ khoẻ như lục địa thần tiên) Lê Kim Ứng sinh năm 1814 (năm Giáp Tuất, Gia Long thứ 13) mất năm 1885 (ngày 22 tháng 8 năm Ất Dậu, Hàm Nghi thứ nhất). Ông thuộc thế hệ thứ tư của dòng họ Lê Kim Huy - ông tổ họ Lê Kim, thờ ở đền Nguyệt Bổng từ thời Tây Sơn (Làng Nguyệt Bổng thuộc nay thuộc xã Thanh Nam, huyện Thanh Chương, Nghệ An). Trong khoảng từ năm 1874 đến 1875, ông ủng hộ tiền bạc và lúa gạo cho phong trào Văn Thân chống Pháp. Vì vậy lúc ông mất, Văn Thân đã có hai câu đối điếu ca ngợi lòng yêu nước và tính khẳng khái của ông. Đôi câu đối thứ nhất của Hoàng giáp Nguyễn Hữu Chính: Hiếu nghĩa thuỳ dự đồng, nan đắc y ông, khuynh xi trợ quốc Tiễu bình hạt thiểu đãi, thăng quan khánh điển, tặng cỗn bao hiền Dịch: Ham việc nghĩa không ai bằng ông, nghiêng gia tài giúp nước Sao không chờ ít lâu nữa, đợi bình định xong giặc, thăng quan ăn mừng, tặng cổn bào, khen người hiền Nhưng rồi phong trào thất bại, nói chi đến chuyện nhận áo gấm ghi công giúp nước! Mà chiếc áo gấm báo ơn từng có lúc sinh thời thì cuối cùng đã dành để liệm người con trai thứ Đôi câu đối thứ hai của Cử nhân Nguyễn Văn Đỉnh: Đắc phú, đắc thọ, hữu thị phụ thành chi thị tử Hằng sản, hằng tâm văn kỳ ngữ do kiến kỳ nhân Dịch: Được giàu, được thọ, có cha như vậy thì con như vậy Có của nhiều có lòng tốt, nghe tiếng nói như còn thấy được con người Sau khi ông mất, người con trưởng là Lê Văn Tường vẫn kế thừa truyền thống yêu nước của cha, quyên góp tiền của giúp đỡ Văn Thân, tham gia phong trào Cần Vương, bị Pháp bắt giam chết trong nhà lao Vinh khi mới ba mươi tuổi (1894). Bà Tôn Thị Chiên (vợ ông Tường lúc đó mới hai mươi bảy tuổi) vẫn tiếp tục nối chí của chồng, nhà bà vẫn là nơi qua lại hoạt động của các yếu nhân phong trào Đông Du và Duy Tân. Năm 1913, sau khi bà qua đời, cụ Phan Bội Châu đang hoạt động ở nước ngoài có gửi câu đối về phúng viếng bà: Ưc diệc cân quắc hào, hải ngoại hợp truyền tam liệt phụ Thả ư tần tảo sự, khuê trung nan hoạ, nhất hiền nhân Phan Đăng Tài dịch: Cũng là nữ anh hào, hải ngoại lừng danh ba liệt phụ Nói về đường tần tảo, phòng khuê khôn vẽ một hiền nhân Cũng như nhiều dòng họ khác trên mảnh đất Lam Giang, cuộc đời và gia thế họ Lê Kim gắn liền với các biến cố của dân tộc. Chuyện thế sự gia sự còn thấp thoáng đằng sau những bài thơ, câu đối mà tiền bối trong họ để lại. Trong đó có câu đối ông Lê Văn Kỳ viếng cử nhân Nguyễn Tài Tốn: Đại khoa hiển cánh đắc đại khoa vinh nhất gia trung, tác thuật tất vô ưu nhập thế quả nhiên hoàn phúc khách Giáp Ngọ tiền dĩ phi Canh Ngọ hậu cửu tuyền hạ, nghiêm từ như kiến vấn thử tình ưng tận thuyết sơ chung Dịch: Đậu đại khoa lại làm quan lớn trong một nhà tác thành cho nhau thật hanh đạt, vào đời như vậy thật là trọn vẹn Năm Giáp Ngọ trước không phải Canh Ngọ bây giờ nữa, dưới suối vàng cha tôi có gặp thì dượng hẵng nói rõ tình hình cho hết đầu đuôi “Giáp Ngọ tiền” tức năm 1894 ông Bá Lê Văn Tường bị thực dân Pháp giam chết trong nhà lao ở Vinh. Còn “Canh Ngọ hậu” ấy là năm 1930, phong trào Xô-Viết Nghệ Tĩnh bùng phát. Thực dân Pháp đàn áp, nhà cửa Lê Văn Kỳ bị đốt phá. Phong trào Văn Thân diễn tả trong đôi câu đối viếng thân phụ ông Kỳ là cụ Lê Kim Ứng: “...hữu thị phụ thành chi thị tử ...văn kỳ ngữ do kiến kỳ nhân Dịch: có cha ấy thì có con ấy; tiếng nói truyền nghe thấy lại người nghe tiếng nói còn thấy người xưa Mỗi một dòng họ là một phần của lịch sử dân tộc cũng như mỗi một miền quê hương là một phẩn của địa lí quốc gia. Hai hàng câu đối của cụ Tôn Huy Thân (ông ngoại Lê Văn Kỳ) đề nhà thờ hạ họ Lê Kim còn vẽ lại trong mơ hồ phong cảnh quê nhà: Đình khuy dư địa nghi lan ngọc Môn chẩm thanh lưu hợp tụng tuyền Dịch: Nhìn miếng đất trống trước nhà có cây lan, cây ngọc Gối đầu lên bậu cửa sổ nằm nghe nước sông Rộ sông Lam hòa thành bản đàn Năm 1949, ông Lê Văn Kỳ tiến thêm vào nhà thờ hạ đôi câu đối: Tư phồn tộc loại nhân do tổ Khắc tráng sơn hà địa tự nhiên Dịch: con cháu phồn vinh là do tổ ở chỗ núi non hùng vĩ là bởi trời Nguyễn Văn Giao tên huý là Tao, hiệu Quất Lâm, tự là Đạm Như. Ông là người xã Trung Cần, tổng Nam Kim, huyện Thanh Chương, phủ Anh Sơn (nay là xã Nam Trung, huyện Nam Đàn), tỉnh Nghệ An. Sau khi thi đỗ, ông được bổ thụ Hàn lâm viện Trước tác, nhận chức vụ Hành tẩu ở Nội các. Tháng 8 năm Ất Sửu 1855, được thăng thụ Hàn lâm viện Thừa chỉ. Năm Mậu Ngọ 1858, được thăng nhiệm Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ kiêm chức Hành tẩu Nội các. Tháng 6 năm Kỷ Mùi 1859, thăng thực thụ Thị giảng học sĩ, tháng 1 năm Nhâm Tuất 1862, thăng thụ Thị độc học sĩ, vẫn kiêm chức Tham biện Nội các. Nguyễn Đức Đạt tự Khoát Như, hiệu Nam Sơn Chủ Nhân, Nam Sơn Dưỡng Tẩu, Khả Am Chủ Nhân. Ông sinh tại làng Hoành Sơn, xã Nam Hoa Thượng, tổng Trung Cần (nay là xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Năm 1863, ông làm Đốc học tỉnh Nghệ An. Năm 1885, vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương. Ông dựng cờ nghĩa khởi binh, chiến đấu chưa được bao lâu thì thất thế nên nghĩa quân phải rút lên vùng miền núi Thanh Chương. Do tuổi cao sức yêu không đi được, nên Nguyễn Đức Đạt ở ẩn tại quê nhà và mất. Tương truyền, khoa thi năm Quý Sửu (1853), Tiến sĩ chỉ lấy đậu hai đệ nhất giáp Thám hoa, thì cả hai cùng ở một tổng (Nam Kim, Nam Đàn) là Nguyễn Đức Đạt và Nguyễn Văn Giao. Sau ngày vinh quy bái tổ, Nguyễn Đức Đạt qua thăm nhà Thám giao, thấy nhà chỗ nào cũng có đậu (đậu mới thu hoạch), liền ra vế đối: Trong nhà đậu, ngoài sân đậu, cha thi đậu, con học đậu, thi vân: đa đậu thử chi vị dã Nguyễn Văn Giao nhìn ra ngoài sân, thấy hàng dâm bụt đang trổ nhiều hoa, liền đối lại: Trên cây hoa, dưới gốc hoa, bái vinh hoa, tôi Thám hoa, thi viết: trùng hoa bất diệt ghi hồ Câu đối tại bản chi từ đường ở làng Hoành Sơn do học trò của Thám Hoa Nguyễn Đức Đạt phúng điếu ông: Thọ khảo tác nhân, Nam Sơn thảo đường trạch vạn thế (Suốt đời đào tạo bao người, ơn muôn đời ngôi nhà cỏ núi Nam Sơn) Văn chương minh quốc, Hồng Lĩnh ngô châu đệ nhất phong (Văn chương nổi tiếng cả nước, một ngọn núi cao châu ta Hồng Lĩnh) Đỗ Huy Uyển húy Mâu, tự Viên Khuê và Tân Giang, ông sinh tại làng La Ngạn, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Ông là con trai cả của Cử nhân Đỗ Huy Cảnh và là cha của Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu, thi đỗ Cử nhân tại trường thi Nam Định. Đỗ phó bảng khoa tân sửu, Thiệu Trị I (1841) làm quan đến chức biện lý hộ Hình, nên khi về nghỉ, người ta thường quan gọi là ông Biện Lý La Ngạn . Khi ông ở nhà dạy học, thường tự phụ là hay chữ bậc nhất; văn chương của ai cũng không coi ra gì. Những làng ở quanh miền La Ngạn, phàm có công việc hiếu hỉ, đều đến xin chữ của ông. Một hôm đương buổi học, một thanh niên trạc ngoài hai mươi tuổi, vào nói là học trò lỡ độ đường, xin giúp đỡ. Ông có ý khinh, hỏi: \"Anh là học trò thực à, đã học đến sách gì rồi?\" Thanh niên thưa: \"Cháu mới học hết sách Tam tự tam tiếc, và đã học sang sách Hán sách hiếc\". Nghe lối ăn nói hỗn hào, ông giận lắm, nhưng nén tâm, bảo: \"Anh đã học đến sách Hán, nay ta ra cho câu đối, đối được sẽ cho năm quan tiền, còn như không đối được thì sao?\" Thanh niên thưa: \"Nếu không đối được thì xin chịu đánh đòn 30 roi\". Ông liền ra: Đoạt Triệu bích, bạt Triệu kỳ, Triệu tốt bất tri Hàn kích Triệu (Cướp thành nước Triệu, giở cờ nước Triệu, mà quân nước Triệu không biết là Hàn Tín đánh nước Triệu) Thanh niên đối ngay: Nhập Tần cung, trừ Tần pháp, Tần dân đại hỉ Hán vương Tần (Vào cung nhà Tần; trừ phép tàn bạo nhà Tần, dân nhà Tần rất mừng được Hán làm vua nước Tần) Câu ra có ý bảo người thanh niên: bị đánh đến nơi rồi mà không biết đấy. Câu đối lại, thanh niên ngầm bảo: ta định vào nhà ông để trừ tính ông hay đánh. Nguyễn Mậu Kiến hiệu là Kính Đài, người xã Động Trung (nay là Vũ Trung), huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Gia đình Nguyễn Mậu Kiến vốn đã có truyền thống sưu tập sách vở. Khi ông còn nhỏ nhà đã tàng trữ được hơn 300 bộ sách cổ. Ông là người sáng lập ra một nhà tàng bản và in sách có tiếng thời Nguyễn - Chiêm Bái đường, Chiêm Bái đường được Nguyễn Mậu Kiến dựng nên tại nơi thờ Khổng Tử ở làng ông. Ông cho mời thợ đến khắc in sách, số lượng lên tới hàng vạn cuốn. Căn cứ vào các sách do Chiêm Bái đường in còn lưu giữ lại tại các thư viện lớn trong và ngoài nước ta biết được ít nhất nhà in này cũng đã khắc in những bộ như sau: Ngũ kinh khâm định, Ngũ tử Cận tư lục, Độc thư lạc thú, Thi kinh Quốc âm ca và Tam diệu pháp thiếp. Chính bởi Nguyễn Mậu Kiến có tấm lòng vì nước vì dân như vậy nên khi ông mất, hương thân Thái Bình đã viếng ông đôi câu đối như sau: 不隨死而亡,書板百年伕世教 可謂生者恨,山防一事屈時英 “Bất tùy tử nhi vong, thư bản bách niên phù thế giáo Khả vị sinh giả hận, sơn phòng nhất sự khuất thời anh” Dịch nghĩa: Không theo cái chết mà chết, ván in sách trăm năm còn nâng đỡ nền giáo hóa ở đời Có thể nói người sống còn hận, một việc sơn phòng làm nhụt chí khí anh hùng của người đương thời Hoàng Phan Thái, người làng Cổ Đan (tục gọi làng Bo), huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An; hiệu là Đại Hưu; ông nổi tiếng thông minh và học giỏi từ lúc còn nhỏ; lớn lên thi đậu đầu xứ nên được gọi là Đầu Xứ Thái. Sống dưới thời Tự Đức và nhìn xa thấy rộng về thời cuộc, ông có khuynh hướng canh tân, từng đề xuất việc lập tân đảng để đưa nước nhà tiến bộ trên đường văn minh. Phan Bội Châu gọi Hoàng Phan Thái là “Cách Mạng Khai Sơn Chi Tổ”. Nhà ông gần chùa, sư Hóa trụ trì chùa lại là người thích thơ phú. Một lần, Thái đến chùa chơi, sư thầy ra nhìn thấy một con bò chạy lang thang ngoài đường về hướng phía làng Bo liền tức cảnh ra một vế đối: Bò lang chạy vào làng Bo Phan Hoàng Thái đối: Hoa sứ bay quanh sư Hóa Về giai thoại trên, có thuyết khác lại kể như sau: Một chú bé chăn bò trên đê Trà Lý ở Thái Bình, con bò lang dứt dây chạy vào làng Bo (ở Thái Bình cũng có làng Bo) gần đấy. Đúng lúc đó cụ Lang Giá (tên riêng) đi chữa bệnh về thấy thế liền cười và đọc ngay một vế đối: Bò Lang chạy vào Làng Bo!. Đang mải đuổi bò chưa được, quay lại thấy cụ Lang Giá đi giày theo sau, chú bé liền đọc luôn: Lang Giá đi giày da láng!. Cụ Lang Giá ngạc thiên kêu lên: \"hay quá\", rồi gọi mọi người đón bắt chú bò lang cho cậu bé. Lần khác, sư Hóa lại ra một câu: Dầu vương ra đế (lúc đó sư lỡ tay rót dầu rớt ra đế đèn) Cậu học trò Thái nhìn quanh, đối lại: Ỉa vãi vào sư Đọc xong cậu ù té chạy... Câu đối rất xược nhưng về mặt câu chữ quả là không chê vào đâu được. Một lần khác sư Hóa lại ra một vế: Cái là tượng, tượng là voi, voi chầu cửa cái Vế đối này khá lắt léo. Nguyên chữ Hán cái là tượng – là dáng vẻ, tượng cũng là con voi, chữ cái cuối cùng là chữ nôm – cái là to. Cậu Thái xin phép ra đứng ở tam quan rồi mới đọc: Tu là hổ, hổ là cọp, cọp bắt thày tu Đọc xong lại ù té chạy. Vế đối của cậu Thái cũng lắt léo tài tình không kém..Trong Hán tự, tu nghĩa là xấu hổ, hổ cũng là con cọp...Các cặp cùng nghĩa được nêu trực tiếp (cái là tượng, tượng là voi,...) Các cặp cùng âm như sau: HV-HV: “tượng” (tượng mảng) 2 ”tượng” (voi), “tu” tức “hổ” (xấu hổ) 2 ”tu” (thầy tu); HV-TV: “cái” tức “tượng” (HV, tượng mảng) 2 ”cái” (“cửa cái” –TV, cửa chính), ”hổ” (cọp) 2 “hổ” (xấu hổ). Ở đây, có hiện tượng chuyển nghĩa bằng cùng âm, tạo sự vi phạm quy luật đồng nhất về hình thức (giả vi phạm luật đồng nhất), trong lúc thực chất là hợp logic. Có thể mô hình hoá để lí giải hiện tượng này như sau: “Tu (T) là hổ (H), hổ là cọp (C), cọp bắt thầy tu”: T = H , H = C ® C 1 T Công thức trên biểu thị việc vi phạm luật đồng nhất (lẽ ra, phải suy thành C = T). Nhưng chỉ giả vi phạm, bởi vì “cọp” là “hổ” (con hổ), không phải là “hổ” (xấu hổ); và “hổ” (xấu hổ) này là “tu” (HV), cùng âm với “tu” (HV -trong “thầy tu”). Vì thực chất C 1 T, “nên cọp bắt thầy tu” là hợp lẽ. Trương Định sinh tại làng Tư Cung, phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi (nay là xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi). Trương công ứng mộ công việc khai khẩn đồn điền, được nhận chức Quản cơ Gia Thuận. Năm Quý Hợi, Tự Đức thứ 16 (1863), đồn Gò Công thất thủ, ông lại quay trở về đây và lại khởi binh. Ngày 19 tháng 7 năm Tự Đức thứ 17 (1864), ông tử trận ở rừng Tân Phước, được đem về táng ở làng Thuận Ngãi. Có bài ca ngợi ông rằng \"Dòng dõi trâm anh, hành động anh hùng, quyết sống chết nơi sa trường, ngàn năm ngưỡng mộ (...)\". \"Đây là lăng mộ của Trương công. Triều đình ban sắc phong chức Phó Lãnh binh. Xuất thân từ nhà tướng, tên chữ \"Tịnh An\", tên thuỵ là \"Tráng liệt nghĩa dũng\". Vị trí của ngôi mộ hướng về sao Bắc Đẩu\". Ở các cột đá còn có 6 câu đối như sau: \"Viên thanh đới vũ sầu\" (Vượn kêu trong mưa gợi nỗi buồn) \"Thụ sắc hàm phong lãnh\" (Cây xanh trước gió thấm hơi lạnh) \"Ô điểu thiết hà tư\" (Tiếng quạ gợi nỗi nhớ khôn nguôi) \"Bạch vân không viễn vọng\" (Mây trắng càng nhìn càng vô tận) \"Tiết nghĩa thanh danh cựu\" (Thanh danh, tiết nghĩa vẫn như xưa) \"Anh hùng khí tượng tân\" (Khí tượng anh hùng luôn như mới) \"Ngưu miên tam xích thố\" (Trâu ngủ (nơi) hố sâu ba thước) \"Mã liệt nhất phong hương\" (Bờm ngựa (đặt) trên đài thơm) \"Không tư cổ đạo\" (Luống nhớ đạo xưa) \"Ý tích phương hình\" (Tiếc mãi dáng thơm) \"Sương tàn kinh ám\" (Sương tan, đường mờ) \"Thiên lãnh sơn không\" (Trời lạnh, núi trơ) Vũ Đường người xã Đường Thâm, huyện Chân Định, nay là thông Thượng Hòa, xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Khoa Nhâm Dần (1842), ông đỗ cử nhân, được bổ nhiệm các chức tri huyện Đan Phượng, Hà Đông, Giáo thụ phủ Đức Thọ, Thanh Hoá từ năm 1858 đến 1863, rồi làm tri phủ Đoan Hùng, Phú Thọ. Năm 1864, được thăng Án sát sứ Hà Nội. Năm 1868, được thăng chức Thị độc. Năm 1873, Bố chính Vũ Đường bị Pháp bắt giải về Sài Gòn. Sau đó, chúng trao trả cho triều đình Huế và ông lại được sai ra Bắc làm Bang biện ở đồn Thục Luyện, châu Thanh Sơn tỉnh Thanh Hoá (sau thuộc tỉnh Phú Thọ). Tại từ đường thờ ông ở quê còn treo bức hoành phi có 4 chữ \"Khâm mông truy tặng\" của vua Tự Đức ban năm Kỷ Tỵ (1869). Và đôi câu đối khảm trai của Niếp biện Hoàng Xuân Phúc người phủ Lý Nhân mừng ông năm Kỷ Tỵ (1869). 槐 門 舊 蔭 豊 根 本 Hòe môn cựu ấm phong căn bản (Cửa hòe tươi tốt nhờ gốc cũ) 芝 誥 新 恩 賁 壤 泉 Chi cáo tân ân bí nhưỡng tuyền (Ân mới vua phong rạng cửu tuyền) Nguyễn Đình Chiểu (tục gọi là Đồ Chiểu) tự Mạch Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, nay là Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 21 tuổi (1843), ông đỗ tú tài ở trường thi Gia Định. Năm 25 tuổi, ông trở ra Huế học tập, chờ khoa thi Kỷ Dậu (1849). Chưa kịp thi thì được tin mẹ mất. Trên đường về chịu tang, vì quá buồn lo khóc thương mẹ, ông lâm bệnh và bị mù cả hai mắt. Về lại Gia Định, sau khi mãn tang mẹ, Nguyễn Đình Chiểu chuyển sang học thuốc, chữa bệnh cho dân, mở trường dạy học, vừa sáng tác thơ văn. Năm 1886, vợ ông là bà Lê Thị Điền mất lúc 51 tuổi. Buồn rầu vì vợ mất, vì bệnh tật ngày càng trầm trọng, hai năm sau, ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý (3 tháng 7 năm 1888), Nguyễn Đình Chiểu cũng từ trần tại Ba Tri. Câu đối tự thuật: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà Đối đáp với Thầy Tàng: Ở xã Trường Bình, có một ông thầy thuốc, tính tình ngay thẳng tới mức ngang bướng, nhân dân vẫn gọi là ông Tàng. Ông này bị nặng tai, hay qua chơi với Nguyễn Đình Chiểu. Một hôm đang ngồi chơi, Nguyễn Đình Chiểu đọc: Thầy Tàng tai không nghe sấm (Nói về con vịt có câu ”Trí lôi thanh ư nhĩ ngoại võng nhiếp thiên uy”; dịch là “Để tiếng sấm ở ngoài tai, chẳng sợ oai trời”. Nguyễn Đình Chiểu vừa có ý trêu chọc thầy Tàng bị nặng tai, vừa có ý nói đến tính ngay thẳng tới mức ngang ngạnh “không sợ trời không sợ đất” của thầy Tàng). Thầy Tàng đối: Đồ Chiểu mắt chẳng xé mây (Lời Mã Siêu nói khi mới theo hàng Lưu Bị: “Nay giặp được minh chúa khác nào vén đám mây mà mà trông thấy trời xanh”. Thầy Tàng cũng có ý trêu lại Nguyễn Đình Chiểu bị mù lòa, vừa có ý phân bua rằng thời buổi này đâu có ai là minh quân thánh chúa mà tôi phải kính trọng, cũng như ông đó thôi, ông có thấy ai là minh quân thánh chúa không?). Đối đáp với Đoàn Ngọc Thơ (1816 - 1876): 1 - Sau khi triều đình Huế ký hòa ước Nhâm Tuất (1862) nhường ba tỉnh miền đông Nam Kỳ cho Pháp, để tỏ thái độ bất hợp tác với giặc, Nguyễn Đình Chiểu quyết định tỵ địa về Ba Tri, Vĩnh Long (nay thuộc tỉnh Bến Tre). Trước ngày Nguyễn Đình Chiểu đi Ba Tri, Đoàn Ngọc Thơ - là bạn thân nhất học trước ông một khóa - và nhiều người khác đến thăm để từ biệt, Nguyễn Đình Chiểu cảm cảnh kẻ đi người ở liền ra một câu đối: Sinh ly nhi tâm bất ly, quí huynh quí đệ (Sống xa mà lòng không xa, thẹn anh, thẹn em) Đoàn Ngọc Thơ cảm động đối lại: Tử biệt kỳ văn hà biệt, vi quốc, vi dân (Chết cách văn anh nào cách, vì nước, vì dân) 2 - Mười ba năm sau, nhân có ghe buôn xuống Ba Tri, Đoàn Ngọc Thơ có gửi một bài thơ hỏi thăm Nguyễn Đình Chiểu: Vắng người tri kỷ tự ngày đi, nhớ mãi thương hoài bực trí tri, sức khỏe như xưa còn phấn đấu? bàn cờ thế sự sẽ chờ khi... Đoàn Ngọc Thơ hẳn cũng mong mỏi bàn cờ thế sự sẽ chuyển biến tốt đẹp hơn. Nhưng thế nước đang lúc lâm nguy, Nguyễn Đình Chiểu trả lời Đoàn Ngọc Thơ bằng một bài thơ họa nói lên tấm lòng yêu nước và trăn trở của mình: Cắt đất đau lòng hận phải đi, nghĩa tình Cần Giuộc mến Ba Tri, tâm can vẫn nóng thân già yếu, tái ngộ như hà... biết mấy khi Nguyễn Tư Giản vốn tên là Văn Phú, tự Tuân Húc, sau vua Tự Đức thấy tên đó tầm thường quá, đổi lại là Tư Giản. Người huyện Đông Ngạn, nay là phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ tiến sĩ năm 1844; làm quan từ đời Thiệu Trị đến Đồng Khánh thì lên tới chức tổng đốc. Năm 1857 ông đệ bản điều trần về việc trị thủy tiếp đó được cử sung Biện lý Đô chính sự vụ ở Bắc kỳ. Năm 1868 được sung phó sứ phái bộ sang Trung Hoa giao thiệp, có ý muốn nhờ nhà Thanh giúp quân chống Pháp. Sau khi Nam kỳ thành thuộc địa, Nguyễn tư Giản xin sang nước Đức cầu viện song triều đình không cho. Đến năm Ất Dậu (1885) các vị Văn thân đều bị ngờ vực phải trốn tránh. Nên Nguyễn Tư Giản phải chạy về Kim Sơn lánh nạn, ở với linh mục Trần Lục. Linh mục trọng ông là bực hay chữ, nên mời về Phát Diệm mở trường dạy học. Nguyễn Tư Giản có làm 2 đôi câu đối ở Sinh từ, đền thờ sống Kinh lược Nguyễn Hữu Độ như sau: Tứ hải phong trần chi hậu, doãn tạ hiền lao (Đương lúc bốn bề gió bụi, nhờ cái công khó nhọc của ông mới định được đại cục) Cửu chân sơn thủy chi linh, đĩnh sinh anh kiệt (Khí thiêng sông núi ở quận Cửu chân ( Thanh Hoá ) sinh ra người anh kiệt) Tri ngã, tội ngã, thân cư lao oán tri trung (Kẻ biết lòng ta, kẻ đổ tội cho ta, mình ở vào giữa chỗ lao oán) Dĩ nhân, trị nhân, công tại thị phi chi ngoại (Lấy đạo người mà trị người, công mình ở ngoài chỗ phải trái) Đôi câu đối dưới: \"Tri ngã tội ngã\" là lời Khổng Tử, sau Mạnh Tử dẫn lại, nói ngài làm sách Xuân Thu, người đời sau kẻ biết lòng ngài, và kẻ buộc tội ngài, đều vì sách Xuân Thu cả. Chữ \"Dĩ nhân trị nhân\", ở sách Trung Dung, lời Tư Tử. Cách ít lâu Kinh lược Nguyễn Hữu Độ tạ thế, quan cữu đưa về Huế; đi đường thủy theo sông Đáy qua Kim Sơn rồi ra biển. Bấy giờ Trần Lục là Khâm sai tuyên phủ sứ, sức dân huyện Kim Sơn, làm trạm để đón tế một tuần. Các quan tỉnh Ninh Bình có xin Nguyễn tư Giản làm cho câu đối, ông viết như sau: Thiên hà vi đoạt chi. Hà sóc tinh kỳ vân biến sắc (Trời sao vội cướp ông, cờ tinh kỳ đất Hà sóc mây đã đổi sắc). Câu này lấy tích Lý quang Bật đời Đường đi đánh giặc về, cờ tinh kỳ rực rỡ. Ý nói nay cờ đã đổi sắc là vị chủ tướng chết. Công tự thử viễn hỹ, Giang đình phong vũ trúc thành lâm (Ông từ đây đi xa hẳn, mưa gió chốn Giang đình trúc mọc thành rừng). Câu này lấy điển Khâu Chuẩn đời Tống. Khi mất, đưa quan cữu đi, quan dân nhớ ơn làm trạm tế. Những cây tre cắm làm rạp tế, sau mọc thành rừng. Hoàng Văn Tuấn còn gọi là Hoàng Văn Liêm, sinh tại làng Phú Khê, huyện Ý Yên (nay là thôn Phú Khê, xã Yên Thành, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Do ông đỗ Tú tài liền ba khoa nên dân gian gọi ông là Mền Liêm. Khoa Bính Tý niên hiệu Tự Đức 29(1876), Hoàng Văn Tuấn đỗ Giải nguyên Cử nhân tại trường thi Thanh Hoá. Cháu ruột gọi ông bằng chú là Hoàng Văn Cẩn cũng đỗ Á nguyên Cử nhân cùng khoa với ông. Nhân sự kiện này, Tam nguyên Hoàng giáp Nguyễn Khuyến nguyên là học trò của thày Hoàng Kim Chung có làm đôi câu đối mừng như sau: Thí vấn thế huynh, Thanh Hoá sĩ hà như Nam Định sĩ Đắc ư gia học, điệt Á nguyên duy nhượng thúc Khôi nguyên Dịch là: Thử hỏi thế huynh học trò Thanh Hoá so với học trò Nam Định thế nào? Học giỏi sở đắc ở nhà dạy, cháu đỗ Á nguyên chỉ nhường có chú đỗ Thủ khoa! Câu đối viếng Hoàng Giáp Phạm Văn Nghị: Văn vị táng thiên sinh Phạm Lão Vũ vô dụng địa tử Nhan Khanh dịch nghĩa: Trời chửa chôn văn, sinh cụ Phạm Đất không dùng võ, chết chàng Nhan Cụ Phạm là Phạm Trọng Yêm đời Tống ở bên Tàu, tác giả ví Phạm Văn Nghị với Phạm Trọng Yêm ý là chôn vùi nền đạo lý nhà Nho. Chàng Nhan tức Nhan Chân Khanh đời Đường cũng ở bên Tàu, khi Lý Hy Liệt làm phản ông phải đi chiêu dụ mà bị sát hại. Đây ý nói Phạm Văn Nghị bị triều đình bắt phải đi ở ẩn tại Hoa Lư cho Tây khỏi ngờ (sau hòa ước 1874) Câu đối viếng ông Thiên Hộ Giảng: Thiên Hộ Giảng là 1 hào trưởng người dân tộc Mường ở vùng Nho Quan - Ninh Bình có công trong việc giúp dân và chống Pháp nên được triều đình sắc phong chức Thiên Hộ, tên ông là Giảng. Tương truyền khi quân viễn chinh Pháp đến vây nhà ông bắt được 30 lò rèn và 100 cối xay, ông bị bắt và xử tử ở Ninh Bình năm 1888. Nghe dân gian truyền lại hôm xử tử ông trời mưa to sấm chớp đùng đùng...! Dưới đây là câu đối của Tri Huyện Nam Sang Hoàng Văn Tuấn phúng điếu ông: Thúy Sơn đồng ngã chẩm, nhật thuyết sự dạ đàm tâm, tâm sự bách niên do ký ức Vân thủy tống quân quy, địa minh lôi thiên thùy vũ, vũ lôi nhất trận bội thê lương dịch nghĩa: Núi Thúy cùng ta chung gối, ngày bàn việc tối ngỏ lòng, lòng việc trăm năm ghi nhớ mãi Sông Vân đưa bác trở về, trời đổ mưa đất dậy sấm, sấm mưa một trận sót thương thêm Núi Thúy và Sông Vân đều nằm trong địa phận tỉnh Ninh Bình Phạm Bành người làng Trương Xá, nay thuộc xã Hoà Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Ông đậu cử nhân khoa Giáp Tý (1864) làm quan đến chức án sát rồi đốc học Nghệ An. Khi vua Hàm Nghi phát hịch Cần vương, ông bỏ quan về quê cùng Hoàng Bật Đạt chiêu mộ quân khởi nghĩa đánh Pháp. Sau khi rút khỏi căn cứ Ba Đình, Phạm Bành cùng một số tướng lui về củng cố căn cứ Mã Cao. Thành Ma Cao vỡ, Phạm Bành lánh về quê, Pháp dụ dỗ ông đầu hàng không được đã hèn hạ bắt mẹ già và con ông là Phạm Tiên. Vì thương mẹ và con, ông đã tự ra cho giặc bắt, nhưng trong mình giấu sẵn một liều độc dược. Sau khi đã biết chắc mẹ và con trai thoát khỏi tay giặc về quê an toàn, ông uống thuốc độc tự tử. Nguyễn Đôn Tiết nhận được tin Phạm Bành tuẫn tiết, ông làm câu đối khóc: Quân tử trọn đời lòng tỏ trắng Tướng quân dẫu chết, mặt còn hồng Nguyễn Đôn Tiết sinh năm 1836 người làng Thọ Vực nay thuộc xã Hoàng Đức, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá. ông đậu Phó bảng năm Kỷ Mão (1879), được bổ nhiệm làm tri phủ. Tháng 8 năm 1885, ông hưởng ứng Chiếu Cần vương của Vua Hàm Nghi, dựng cờ khởi nghĩa. Năm 1886, ông và các lực lượng nghĩa quân khác ở tỉnh Thanh Hoá tấn công tỉnh thành Thanh Hoá, huyện lỵ Hoằng Hoá, huyện lỵ Đông Sơn. Việc không thành, ông bị giặc Pháp bắt. Câu đối trên ông làm trong tù khi nghe tin Phạm Bành tuẫn tiết Ngô Đình Chí (một văn nhân) khi nghe tin Phạm Bành mất đã làm câu đối viếng sau: “Xả thân thành nhân báo quốc quyên sinh, sinh bất tử Di trung vi hiếu cần vương nghĩa tử, tử do sinh” Dịch là: “Bỏ mình làm việc nhân đền nợ nước, là còn chẳng mất Đem trung thay chữ hiếu báo ơn vua, dù mất vẫn còn” Lãnh Phiên sinh tại làng Xuân Phương (tức làng Lân), xã Quảng Châu, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Tên thật của ông là Vũ Đình Phiên, tên huý là Phúc Ngoạn. Lãnh Phiên đã được bổ làm Trương tuần, Lý trưởng, đến Thanh tra hàng tổng và phó tổng Cũng Thượng, dân trong vùng gọi ông là phó tổng Phiên. Tháng Mười năm Ất Dậu (11/1885), các lãnh tự văn thân của triều đình và Thanh Hóa đã phong cho ông chức Lãnh Binh. Năm 1887, do có kẻ chỉ điểm, giặc đã bắt được Lãnh Phiên tại làng Trường Lệ, xã Quảng Vinh. Không thể khuất phục được ông, thực dân Pháp đã chém ông vào sáng ngày 22 tháng 2 năm Đinh Hợi (tức ngày 3/4/1887) ở thành Thọ Hạc. Nơi thờ Lãnh Phiên Là một nhà gỗ 5 gian, gian giữa là nơi bày hương án và các đồ thờ, có câu đối từ xưa do cụ Đồ Sân để lại: \"Quốc thế dĩ trầm quân thượng phấn Tướng đầu vị đoạn tạc độ bình\" Dịch nghĩa: Nước nhà đã đắm thân còn dân Đầu tướng chưa lìa giặc vẫn kinh Hoàng Bật Đạt hiệu: Tắc Trai, quê ở xã Bộ Đầu, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá, ông là bạn thân và là anh em cọc chèo với Phạm Bành, quê ở làng Trương Xá cùng huyện. Năm Tự Đức thứ 21 (1868), ông thi đỗ Cử nhân, được bổ làm Giáo thụ huyện Phong Doanh (nay là huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Sau, ông được cử làm Tri huyện Lang Tài (nay là huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh). Tháng 7/1885, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương, ông chiêu mộ quân đánh Pháp ở huyện Hậu Lộc. Ba Đình, sau đó là căn cứ Ma Cao thất thủ, ông bị giặc Pháp bắt đưa về giam ở nhà lao Thanh Hoá và chịu mọi cực hình tra tấn. Giặc Pháp giết ông cắm đầu ông vào ngọn sào đưa về quê ông để uy hiếp nhân dân. Trước khi bị giặc hành hình ông đã làm đôi câu đối tỏ rõ ý chí của mình trao cho các bạn tù: Cố ý cứu sinh ư phục Việt Cam tâm thề tử bất thần Tây Dịch: Chí cứu muôn dân nên phục Việt Lòng thề một chết, chẳng hàng Tây Nguyễn Ngọc Tương tên tự là Khánh Phủ, hiệu là Trà Phong và Tang Trữ. Quê ông làng Tang Trữ (sau đổi là Hành Quần nay thuộc xã Nam Bình) sau chuyển cư đến làng Cổ Lũng (nay thuộc xã Nam Dương, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Khoa Mậu Ngọ (1858) triều Tự Đức ông đậu Cử nhân. Ông làm quan qua Huấn đạo, Tri huyện rồi Tri phủ Diễn Châu (Nghệ An), Ngự sử đạo Trị Bình, cuối cùng làm Án sát Bắc Ninh. Sau khi thực dân Pháp đặt ách thống trị trên cả nước ta, năm 1885 ông phụng chỉ vào kinh. Trên đường nghe tin vua Hàm Nghi chống Pháp không thành phải xuất bôn, ông không đi theo được, bùi ngùi viết đôi câu đối sau: Giang sơn vị sái anh hùng lệ Phong vũ nan tiêu tráng sĩ hồn Dịch: Sông núi; anh hùng cần nhỏ lệ Gió mưa: tráng sĩ khó tiêu hồn Ông Ích Khiêm sinh tại làng Phong Lệ, tổng Thanh Quýt, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là Khu vực Phong Lệ Bắc, Phường Hòa Thọ Đông, Quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng). Mười sáu tuổi, ông thi đậu cử nhân (1847) trong khoa thi hương ở Bình Định, được bổ làm Tri huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Thời gian làm quan ở kinh, ông tỏ ý không phục hai quan phụ chính là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nên bị họ trù dập. Ông bị đày vào nhà lao Bình Thuận, làm một người tù khổ sai. Uất ức, ông nhịn đói mà chết. Một hôm, Ông Ích Khiêm ngồi trong quán, quan huyện sở tại đi ngang: có lính che lộng (2 lộng trước, 2 lộng sau, quan ngồi trên võng do lính khiêng). Ai nấy đều ra đường quỳ mọp để cung kính quan huyện, trừ Ông Ích Khiêm. Ông lấy một chiếc giày của ai bỏ đó, cố ý xỏ hai chân vào. Quan huyện cho lính gọi ra, hỏi làm nghề chi. Khiêm bảo mình là học trò. Quan huyện bèn ra vế đối: Cắc cớ thay, hai cẳng xỏ một giày Ông Ích Khiêm đối lại: Sung sướng mấy, một đầu che bốn lộng Sau khi vua Tự Đức băng hà, nước ta rất \"loạn\". Trong bốn tháng, thay ba vua (Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc), quyền hành trong triều đều do Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nắm giữ. Lại thêm quân Pháp chia luôn \"Empire d'Anam\". Bờ Bắc của sông Hương, thuộc triều đình Huế, bờ Nam do Pháp chiếm. Ông Ích Khiêm có viết câu đối để phản ánh thế cuộc đó sau: 一江兩國難分說 Nhất giang, lưỡng quốc nan phân thuyết (Một sông, hai nước, không làm sao thương lượng chi hết - chữ Thuyết ở cuối ám chỉ Tôn Thất Thuyết) 四月三王兆不祥 Tứ nguyệt, tam vương, triệu bất Tường (Bốn tháng, ba vua, điềm chẳng lành - chữ Tường ở cuối ám chỉ Nguyễn Văn Tường) Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886) xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm 1862, ông vào kinh đô Huế giữ chức biện lí Bộ Binh, rồi vào Quảng Nam làm án sát. Năm 1874, ông được bổ sung vào Viện cơ mật. Năm 1883, vua Tự Đức băng hà, cùng với Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường lập rồi phế bỏ 2 vua Dục Đức, Hiệp Hòa. Năm Quý Mùi (1884), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lập vua Hàm Nghi lên ngôi. Năm 1885, Pháp bắt Nguyễn Văn Tường. Năm 1886, tại Papeete, một làng trên quần đảo thuộc địa Tahiti của Pháp, Nguyễn Văn Tường mất. Cha của Ông Ích Khiêm đã mất từ sớm, lúc Khiêm đang cầm quân dẹp loạn thì nghe tin mẹ mất. Không thể bỏ quân sĩ mà về chịu tang mẹ, ông làm câu đối: Mạc hiềm trần thế Khiêm vô mẫu (Trần thế đừng hiềm Khiêm mất mẹ) Ưng tiếu tuyền đài phụ hữu thê (Tuyền đài có vợ, hãy mừng cha) (Cha chết xuống suối vàng trước, giờ mẹ cũng xuống theo...Vợ chồng sum hợp, mừng cho Cha) Hoàng Diệu, còn gọi là Hoàng Kim Tích, sinh ở thôn Xuân Đài, xã Phú Tân, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Hiện nay, tại nhà thờ họ Hoàng ở Xuân Đài còn giữ câu đối: Hải đạo Huệ Trì chi hương bản căn thâm cố Nam châu Xuân Đài thử địa, dịch diệp hi long Lời diễn nôm của Hoàng Diệu: Hiệu Trì xứ vốn là cõi Bắc, do tổ tiên cội gốc vững bền Xuân Đài châu nay thuộc miền Nam, truyền con cháu giống dòng hưng thịnh. Tài liệu của gia tộc còn chép lại câu đối trước đây dán trước bàn học của Hoàng Diệu: Hoành Cừ giáo nhân học mạc tiên nghĩa lợi chi biên Âu Dương đối khách chí: thường tại sơn thuỷ chi gian Nghĩa là: Hoành Cừ dạy người cầu học: phải trước tiên phân biệt nghĩa trọng lợi khinh. Âu Dương tiếp khách đến chơi: thường nhàn hạ luận bàn sơn thanh thuỷ tú. Hoàng Diệu đỗ phó bảng khoa Quý sửu (1853), làm quan ở Hà Nội với chức vụ Tổng đốc. Ngày 24-4-1882 Ri vière hạ tối hậu thư buộc Hoàng Diệu phải ra lệnh cho quân đội rời khỏi thành, sau khi hạ hết khí giới và mở cửa thành, đòi ông và các quan văn bõ trong thành phải nộp mình cho chúng. Trong cảnh khói lửa mịt mùng ấy Hoàng Diệu bình tĩnh đi về trong dinh, rồi sau khi khăn áo chỉnh tề, tay cầm thanh gươm tuốt trần, ông nhảy lên mình voi xông pha mưa đạn đi tới hành cung. Rồi lấy chiếc khăn xanh đang bịt trên đầu treo mình lên cành cây tuẫn tiết đúng giờ Ngọ Nhằm ngày 8-3 năm Nhâm Ngọ, tức ngày 25-4-1882. Hoàng Diệu được đông đảo sĩ phu, nhân dân Hà Nội và Bắc Hà khâm phục thương tiếc, cùng với Nguyễn Tri Phương (người lãnh đạo quân dân Quảng Nam đã anh dũng giữ thành và tuyệt thực để giữ tròn danh tiết), Hoàng Diệu được thờ trong đền Trung Liệt trên gò Đống Đa. Câu đối viếng Hoàng Diệu của Tôn Thất Thuyết: Nhất tử thành danh tự cổ anh hùng phi sở nguyện (Tử mà thành danh, chí anh hùng từ xưa thường không toại) Bình sinh trung nghĩa đương niên đại cục khả vô tâm (Sinh trọn trung nghĩa, nhìn đại cục có thể chẳng thẹn tâm) Tiến sĩ Nguyễn Chánh, người huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, điếu: Công năng bất cầu sinh, khả vô nhượng thập niên tiền tráng liệt Ngã diệc trường thái tức, như chi hà lục tỉnh thức giang sơn Bản dịch: Sống tạm ngài không thèm, so tiền nhân, mười năm trước đâu kém tráng liệt; Thở dài tôi ngán lắm, nhìn xem non nước sáu tỉnh biết sao đây! Lại có câu đối Nôm khuyết danh, điếu: Bạn cũ có chết đâu, bốn biển chín châu nghe tráng liệt Quê ta đành nhớ mãi, mười năm hai lượt khóc anh hùng Hai tiếng mười năm trong câu đối của Nguyễn Chánh, trong câu đối Nôm của tác giả vô danh nói lên khoảng cách thời gian giữa cái chết của Nguyễn Tri Phương và cái chết của Hoàng Diệu. Thập niên tiền tráng liệt (người tráng liệt mười năm trước) trong câu đối của Nguyễn Chánh là một cụm từ dùng để chỉ Nguyễn Tri Phương, người đã qua đời trước Hoàng Diệu mười năm. Mười năm trong câu đối Nôm khuyết danh là \"mười năm hai lượt khóc anh hùng\": lần đầu là năm Quý Dậu 1873 (khóc Nguyễn Tri Phương) và lần sau là năm Nhâm Ngọ 1882 (khóc Hoàng Diệu)\". Thủ Khoa Huân tên thật là Nguyễn Hữu Huân sinh tại làng Tịnh Hà, tổng Thanh Quơn, huyện Kiến Hưng, tỉnh Ðịnh Tường cũ, nay là xã Mỹ Tịnh An, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Con của ông Nguyễn Hữu Cầm, tục gọi là ông Cả Cầm, một phú nông ở làng Tịnh Hà. Cuộc khởi nghĩa do Thủ Khoa Huân lãnh đạo đã có ảnh hưởng sâu rộng, nhất là đối với sĩ phu Nam Kỳ. Trong một trận giao chiến tại Bình Cách (Chợ Gạo), Thủ Khoa Huân cùng với người tùy tùng là Ðốc binh Hương rút về Chợ Gạo, bị giặc bắt. Khi đến nơi hành quyết, ông đọc câu đối tuyệt mệnh trước lúc đao phủ khai đao: Hữu chí nan thân, không uổng bách niên chiêu vật nghị Duy công bất tựu, diệc tương nhất tử báo quân ân Tạm dịch: Có chí khó giương ra, luống để trăm năm mang miệng thế Dầu công không đạt, cũng liều một chết báo ơn Vua Tại mộ phần của ông có hai bên tạc hai câu đối : MÃ LIỆP TÀNG BẤT HỦ NGƯU MIÊN THẢO QUYẾT CƯ Dịch nghĩa: Vết ngựa dẫm, mãi không phai nhạt Chỗ trâu ngủ, cỏ vẫn luôn xanh Từ NGƯU MIÊN nghĩa là \"Trâu ngủ\" - ý nói về mồ mả (chắc theo quan niệm của người dân - vì thế, ở Nam bộ, mộ táng thường có hình dạng con trâu đang nằm ngủ) Nguyễn Quang Bích là một nhân vật lịch sử, tên ông được ghi trong Đại Nam thực lục là bộ chính sử của nhà Nguyễn, đồng thời được ghi trong Quốc triều Hương khoa lục và Quốc triều khoa bảng lục cũng như được khắc tên họ trên bia tiến sĩ ở Văn Thánh - Huế. Quê ông ở xã Trình Phố, huyện Châu Định, tỉnh Nam Định nay là xã An Ninh, huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình. Ông đậu cử nhân năm 1861 và đậu Đình Nguyên Hoàng Giáp khoa thi Hội năm Kỷ Tỵ (1869), làm quan tới chức Tuần phủ Hưng Hóa, được vua Hàm Nghi phong là Lễ Bộ Thượng thư sung Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần mang quốc thư sang nhà Thanh. Tiên tổ ông vốn họ Ngô như ông xác nhận trong hai câu đối như sau: Tổ tiên ta vốn họ Ngô nối đời chuyên nghiệp nho nông đỗ trước có cụ lưỡng khoa đăng giám Tằng tổ đổi là họ Nguyễn từ nhỏ nương nhờ bên ngoại văn chương đã ba đời đến nay Lê Khắc Cẩn sinh tại làng Hạnh Thị, nay là làng Đông Hạnh, xã An Thọ, mất tại Nam Định. Ông thi hương khoa Ất Mão 1855, đậu giải Nguyên trường Nam Định, thi hội khoa Nhâm Tuất tại Huế đậu Hoàng giáp. Ông là tiến sỹ hán học duy nhất của Hải Phòng thời Nguyễn. Ông có viết câu đối mừng Vũ Tuân thi đình đậu đầu trong hàng Phó bảng: Trích tại Tiên cung do ký nhân gian đệ nhất Liên đăng ất bảng truyền thử tử song nguyên Bùi Văn Dị, còn được gọi là Bùi Dị, tự: Ân Niên, các tên hiệu: Tốn Am, Do Hiên, Hải Nông, Châu Giang; Ông là người làng Châu Cầu, tỉnh Hà Nam. Năm 1882, ông làm Phó Kinh lược sứ Bắc Kỳ. Cuối đời Tự Đức, ông cáo quan về nhà. Năm 1884, ông được triệu về triều làm giảng quan chuyên giảng sách cho vua Kiến Phúc và vua Hàm Nghi. Năm 1889, ông giữ chức Phụ đạo đại thần kiêm Phó Tổng tài Quốc sử quán. Kinh lược Bắc kỳ Hoàng cao Khải có tiễn đôi câu đối: Tái khởi vị thương sinh, lang miếu giang hồ, lưỡng ưu ái (Ông đã về nghỉ, nay lại phải ra làm quan, ấy là vì dân: ở trong lang miếu hay ở ngoài giang hồ, đều có long ưu quân ái quốc) Nhất thiên phú hoàng cúc, Trạng nguyên Tể tướng dĩ an bài (Xem bài thơ hoàng cúc, tài Trạng nguyên tể tướng, vận mệnh đã định sẵn) Vũ Văn Lợi còn gọi là Võ Hữu Lợi, quê xã Giao Cù, huyện Nam Chân, tỉnh Nam Định (nay là thôn Giao Cù, xã Đồng Sơn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Năm Canh Ngọ (1870), ông đỗ Cử nhân, năm Ất Hợi (1875), ông đỗ Tiến Sĩ, tục gọi là ông Nghè Giao Cù (vì quê ông ở làng Giao Cù). Ông làm Đốc học tỉnh Nam Định. Sau khi Pháp chiếm Bắc Kỳ, ông bỏ quan về khởi nghĩa chống Pháp. Ít lâu, ông bị Tổng đốc Nam Định Võ Văn Báo lừa đem nộp cho Pháp. Ông bị chúng xử ở chợ Nam Định trong đêm 30 tết năm Giáp Thân (1884). Trong số các học trò cũ của ông có Đinh Quang Nhường chỉ huy nghĩa quân, sau bắt được Võ Văn Báo đem đốt sống trả thù cho ông. Trước khi lâm hình Vũ Văn Lợi có ngâm nga: Võ vô dụng địa tương thùy thích? (Võ không còn đất đi đâu được) Sự đại như thiên nại nhĩ hà? (Việc lớn như trời biết tính sao) Tên Trương Vĩnh Ký sinh tại ấp Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoàng An, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre). Tên Pétrus Ký do linh mục đặt năm 1843 (Ất Tỵ) ở trường dòng Sài Gòn. Các tên: Sĩ Tải, Chánh Ký là bút danh tự đặt. Năm 1866, ông làm Giáo sư dạy tiếng Pháp ở trường Thông ngôn Sài Gòn. Năm 1872, Pétrus Ký được Pháp thăng chức Tri huyện hạng nhất, đồng thời được bổ làm Đốc học (Giám đốc) trường Sư phạm dạy người Pháp học tiếng phương Đông, kiêm chức thư ký Hội đồng châu thành Chợ Lớn (1 tháng 6 năm 1872). Ngày 1 tháng 1 năm 1874, Pétrus Ký lãnh chức Giáo sư dạy chữ Việt và chữ Pháp cho người Pháp và người Tây Ban Nha tại trường Tham biện Hậu bổ (Collège des administrateurs stagiaires). Pétrus Ký được bình chọn đứng hàng thứ 17 trong \"Thế giới Thập Bát Văn Hào\". Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ Duperré cử ông ra Bắc Kỳ tìm hiểu tình hình miền Bắc. Trương Vĩnh Ký được một nhà Nho (khuyết danh) tặng câu đối sau: Bắc du phong độ nhan như ngọc (Cuộc đi chơi đất Bắc, dáng bộ ung dung, mặt đẹp như ngọc) Tây vọng dung quang khí tự hồng (Trông về hướng tây, dung mạo sáng sủa, sắc khí tựa cầu vồng) Trương Vĩnh Ký rất cảm động, nhưng sau đó, về nhà nghiền ngẫm mới biết nhà Nho kia xỏ xiên mình: Câu đối đó còn còn có nghĩa khác là “Chơi đất Bắc, phong độ nhẵn nhụi như đầu ngọc... hành. Hướng theo Tây, mặt mũi ngây ngô như tĩn con... lợn” Năm 1886, Paul Bert (nghị sĩ, hội viên Hàn lâm, bác học gia sinh vật học) được cử sang Đông Dương làm Khâm sứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vốn là bạn từ trước, nên Paul Bert mời Trương Vĩnh Ký ra Huế giúp việc. Khoảng đầu tháng 6 năm ấy, Pétrus Ký ra Huế, được vua Đồng Khánh cho lãnh chức trong Cơ mật viện Tham tá, sung Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ. Câu đối khắc tại bia mộ: Văn chương hồi địa trục Khí phách quán thiên đường Chính Trương Vĩnh Ký đích thân thiết kế và coi sóc việc xây dựng nhà mồ cho mình (dòng chữ lưu dấu tháng, năm hoàn thành công trình còn được chạm nổi trên nóc nhà mồ “Decembre 1898” - cũng là năm ông mất. Đôi câu đối chữ Hán dọc 2 bên cửa mộ: Lưu bì văn dự dị thiên địa Ủy thế linh thần tại tử tôn Người dịch: Thanh Vân Nguyễn Duy Nhường Tiếng thơm ngưng đọng trong trời đất Ý chí lưu truyền tại cháu con Câu đối của Giáo Sư Nguyễn Phúc Ưng Thiều (1893 - 1975) đắp chữ trên cổng trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký: 孔孟綱常須刻骨 Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt (Tam cương, ngũ thường của đạo Khổng Mạnh nên khắc vào xương cốt) 西歐科學要銘心 Tây Âu khoa học yếu minh tâm (Khoa học Âu Tây cần phải ghi tạc vào lòng) Nguyễn Phúc Ưng Thiều là cháu đích tôn của Thi bá Tuy-Lý vương Nguyễn Phúc Miên Trinh, con thứ 11 vua Minh Mạng. Ông là thầy học của Vua Duy Tân và là Giáo Sư Hán văn đại học Văn khoa Sàigòn Tốg Duy Tân người làng Bồng Trung tỉnh Thanh Hoá, năm Canh Ngọ (1870), ông đỗ cử nhân, đến năm Ất Hợi (1875), thì đỗ tiến sĩ. Bước đầu, ông được bổ làm Tri huyện, sau làm Đốc học Thanh Hóa rồi Thương biện tỉnh vụ. Tháng 7 năm 1885, hưởng ứng dụ Cần Vương, Tống Duy Tân được vua Hàm Nghi phong làm Chánh sứ sơn phòng Thanh Hóa. Sau đó, ông tham gia xây dựng chiến khu Ba Đình. Chẳng lâu sau, Cao Ngọc Lễ (vừa là học trò cũ, vừa là cháu kêu Tống Duy Tân bằng cậu) đi mật báo cho Pháp đến bủa vây và bắt được Tống Duy Tân vào ngày 4 tháng 10 năm 1892. Không chiêu hàng được, Tống Duy Tân bị thực dân Pháp cho xử tử tại Thanh Hóa ngày 5 tháng Mười năm Nhâm Thìn (tức 23 tháng 11 năm 1892). Lúc Tống Duy Tân còn ở nhà dạy học có câu đối: Cố bất như: sơn nhi bích, truyền nhi trì, vân thủy tiêu dao trần cảnh ngoại (Không gì bền bằng: lấy núi làm vách, lấy suối làm ao, mây nước nhởn nhơ ngoài cõi thế) Duy kỳ hữu: dữu khả phong, đình khả nguyệt, cúc tùng tự tại cố châu trung (Chỉ riêng vui có: cửa sổ gió mát, ngoài sân trăng soi, cúc tùng thong thả chốn cố châu) Trước ngày mất, Tống Duy Tân có làm đôi câu đối: Nhị kim thủy liễu tiên sinh trái (Món nợ tiên sinh nay mới trả) Tự cổ do truyền bất tử danh (Cái danh bất tử trước còn truyền) Sau khi Tống Duy Tân thọ án, nhân sĩ tỉnh Thanh Hóa có làm câu đối phúng điếu như sau: Tự cổ anh hùng, thiết thạch can trường nan tận tả (Từ trước anh hùng, dạ sắt gan vàng không xiết tả) Đáo đầu sự thế, xuyên hà huyết lệ hạt năng lưu (Đến cùng sự thế, máu sông lệ suối chảy sao trôi!) Bùi Viện hiệu Mạnh Dực, quê quán làng Trình Phố, tổng An Hồi, huyện Trực Định, tỉnh Nam Định (nay là Trình Nhì, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình). Được phong là Thương Chính Tham Biện, rồi Tuần Tải Nha Chánh quản đốc, ông đã nghiên cứu kỹ càng vấn đề dẹp bọn tầu ô thường dùng thuyền đi ăn cướp các thương thuyền trên mặt bể. Sau hai lần đi Mỹ cầu viện bất thành, trở về nước được vua Tự Đức tin dùng, Bùi Viện đã tổ chức thành công Tuần dương quân (một tổ chức thủy quân có nhiệm vụ tuần tra, canh gác, bảo vệ lãnh hải quốc gia). Những thành quả của ông chẳng những đè bẹp được những cuộc vận động phản đối của phái bảo thủ mà còn làm tăng uy danh của ông trước triều đình Huế. Một số bạn đồng liêu và nhân dân đương thời đã ưu ái dành cho ông những lời ngợi khen: Chức vụ đương kim suy tuấn kiệt Thành công tự cổ xuất thư sinh Câu đối của Biện lý La Ngạn Tạm dịch: Biết việc phải chăng trang tuấn kiệt Thành công xưa vẫn bậc thư sinh Hoặc: Nhất kinh bạch nghiệp thiên tương đại Vạn lý trường phong lục hải bình Câu đối của Ngự sử Đỗ Duy Diễn Tạm dịch: Hai tay ngang dọc xoay trời đất Muôn dặm xông pha dẹp bể yên Ngày 1 tháng 11 năm Tự Đức thứ 31 tức năm 1878, Bùi Viện đi dự tiệc. Toà Khâm sứ Pháp mua chuộc kẻ hầu rượu bỏ độc dược vào thức ăn đồ uống. Khi về đến tư dinh, Bùi Việt kêu đau bụng dữ dội và chết ngay trong đêm ấy tại Huế. Lại bộ thượng thư Nguyễn Tư Giản có phúng điếu ông Bùi Viện hai câu đối như sau: 他 生 或 未 忘 家 国 Tha sinh hoặc vị vong gia quốc 壮 志 空 怜 付 海 山 Tráng chí không lân phó hải san Tạm dịch: Kiếp sau chưa dứt tình nhà nước Chí lớn đành đem gửi biển non Nội các tham biện Bùi Dị cũng có câu đối phúng như sau: 吞 声 莸 草 镫 前 疏 “Thôn thanh do thảo đăng tiền sớ 济 志 难 酬 海 外 游 Tế chí nan thù hải ngoại du” Tạm dịch: Thoi thóp sớ dâng còn để lại Vẫy vùng chí lớn vội đem đi Đối đáp với Linh Mục Trần Lục (1825 - 1899): Trần Lục tên thật là Trần Văn Hữu, năm 20 tuổi, được Chúa kêu gọi, Trần Lục lên đường vào Tiểu chủng viện Vĩnh Trị, đổi tên Hữu Thành Triêm. Tháng giêng 1860 thầy Triêm thụ phong linh mục ở Kẻ Trừ (ngay xưa có thói quen gọi linh mục và các Thầy Phó Tế, chức Sáu, là “Cụ” nên từ khi chịu chức Sáu và linh mục “chui” ờ Kẻ Trừ, để tránh tên bộ là Trần Lục, người ta goị tên nôm na vắn tắt là “Cụ Sáu” hoặc “Cụ Sáu Trần Lục”). Trần Bích San tự Vọng Nghi, hiệu Mai Nham, được vua Tự Đức ban tên là Hy Tăng; ông là người ở xã Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.Nay là phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Năm 1865, ông đỗ đầu thi Hội và thi Đình, cho nên người đương thời gọi ông là Tam nguyên Vị Xuyên. Năm Đinh Sửu (1877), ông được thăng Tham tri bộ Lễ, làm Chánh sứ sang Pháp. Chưa kịp đi, ông đột ngột mất ở Huế. Tương truyền khi Trần Bích San làm Tuần Phủ Hà Nội, Linh Mục Trần Lục mới được phong làm Khâm Sai Tuyên Phủ Sứ từ Phát Diệm lên thăm. Trong lúc trò truyện, muốn thử tài vị Tam Nguyên, Linh Mục Lục đưa ra một vế câu đối nói thác đi là đã nghe được muốn đối nhưng khó quá, nhân dịp gặp nhà đại khoa nhờ đối giùm. Vế ra như sau: Ba cụ ngồi một cỗ, cụ đủ điều cụ chẳng sợ ai Vế ra rất khó vì có tới 3 chữ “Cụ” với 3 nghĩa khác khau. “Cụ” là cụ đạo, tiếng gọi các Linh Mục ở miền Bắc, “Cụ” cũng có nghĩa là sẵn sàng, “Cụ” còn có nghĩa là sợ hãi. Ý và lời tỏ ra vừa ngạo mạn, vừa đắc ý của người đang gặp thời. Trần Bích San từ chối vì e rằng vế đối khiếm nhã. Linh Mục Lục cho rằng Trần Bích San không đối nổi nên càng nài ép, nại cớ đây là chuyện văn chương văn hành công khí, không có gì phải e ngại. Trần Bích San lúc đó mới bèn ứng khẩu đối lại: Một đạo há hai đường, đạo trộm cắp đạo còn nói láo Dùng chữ “Đạo” đối với chữ “Cụ” là tuyệt hay. Chữ “Đạo” cũng có 3 nghĩa: “Đạo” là cố đạo tiếng dùng gọi các Linh Mục, “Đạo” cũng có nghĩa là con đường, “Đạo” còn có nghĩa là trộm cắp. Ý và lời mỉa mai kẻ tu hành không giữ được đạo hạnh, xu thời theo thực dân Pháp không biết xấu hổ với đất nước mà còn lên mặt đắc chí. Câu đối mang tính triết lý: Văn vô sơn thủy phí kì khí (văn hay bởi khí hùng non nước) Nhân bất phong sương vị lão tài (người gió sương thao lược mới già) Câu đối Tôn Thất Thuyết viết phúng điếu Trần Bích San: Lân quân độc thủ cô thành, quốc trung thành, gia hiếu tử Sử ngã kinh qua thủ địa, giang bán dạ, nguyệt trung thu Dịch nghĩa: Thương ông riêng tấm lòng thành, con hiếu của nhà, tôi trung của nước Khiến tôi qua nơi đất cũ, dòng sông đêm vắng, vầng trăng giữa thu Nguyễn Cao sinh năm tại làng Cách bi, tức làng Gạch, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh, giữ chức Tán tương quân vụ chống Pháp, nên thường gọi là Tán Cao. Năm 28 tuổi, Cao đỗ thủ khoa Đinh Mão (1867). Khoa thi Đinh Mão 1867, ông nằm mơ thấy thầy ra đề có điển cố Hán Cao tổ thắng Hạng Vũ, có câu: “đường đường bát xích thân hà tại Lẫm lẫm trùng đông thế nhược không”. Lúc vào thi khảo định cao thấp, gặp đề “Hạng vương đầu”, Nguyễn Cao nhớ đến câu trên mà đỗ Thủ khoa. Đỗ rồi nhưng ông về quê dạy học, tính kế cứu nước theo gương thầy là Hoàng Giáp Phạm Văn Nghị. Khi thầy Nghị qua đời, Nguyễn Cao có câu đối viếng: “Phúc trạch nhà đại gia, nhân sĩ chốn kinh kỳ thảy đều ca tụng quế thơm non lĩnh, đào rộ cửa thu. Danh tiếp của tiên sinh dằng dặc nghìn năm sau còn mường tượng thấy chiến luỹ Bộ giang, dài câu Lư động”. Năm 1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, Nguyễn Cao tìm đến chiến khu Bãi Sậy phụ lực với Nguyễn Thiện Thuật. Pháp dùng đại binh, thắt chặt vòng vây, Nguyễn thiện Thuật chạy lên Thái Nguyên rồi thuận đường sang Trung Hoa. Nguyễn Cao tìm về nương náu tại làng Kim Giang, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông, mở trường dạy học. Một hôm có một nhà nho đến xin câu đối để mừng một ông đỗ tiến sĩ làm quan to, Nguyễn Cao viết: 大家積德百年而今也高名顯宦 Đại gia tích đức bách niên, nhi kim giã cao danh hiển hoạn (Nhà đại gia tích đức hàng trăm năm, nên ngày nay ông nghè được làm quan to nổi danh lừng lẫy) 聖朝開科取士所求乎子孝臣忠 Thánh triều khai khoa thủ sĩ, sở cầu hồ tử hiếu thần trung (Nhà vua mở khoa thi kén học trò, mong muốn rằng chọn được người làm con có hiếu, làm tôi phải trung) Không ngờ ông Nghè cạn nghĩa cho rằng câu này dụng ý mỉa mai, ngầm báo quan đến bắt họ Nguyễn về tội phản đối chính phủ. Khi bị giải ra trước quan ta lẫn tây, trong đó có Hoàng Cao Khải, hội đồng dụ dỗ nếu chịu ra làm quan sẽ bổ chức to và còn hậu đãi. Nguyễn Cao không chịu hàng, thò tay vào trong áo lấy mảnh sứ đã dấu sẵn. Rạch bụng, rút ruột ra vứt vào mặt họ Hoàng, rồi thống mạ thậm tệ. Lát sau, ông cắn lưỡi tự tận. Nguyễn Phạm Tuân người xã Tráng Tiệp, nay thuộc xã Bắc Cử, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông thi Hương khoa Quý Dậu, Tự Đức thứ 25 (1873). Ông được bổ làm Huấn đạo huyện Bố Trạch, sau thăng tri huyện Tuyên Hóa, sại thăng Tri phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1885, vua Hàm Nghi phong ông chức Tán tương quân vụ quân thứ Quảng Bình, hoạt động quân sự mạnh nhất là ở các huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Bố Trạch. Sáng ngày 9 tháng 4 năm 1887, trong 1 cuộc chiến đấu ác liệt, Nguyễn Phạm Tuân bị trọng thương và bị sa vào tay giặc. Ông không chịu ăn uống, phun nhổ thuốc vào mặt chúng. Ông làm câu đối tỏ rõ ý chí của mình: Sổ thế quân ân thù nhất tử Thập niên hoạn nghiệp túc tam sinh Dịch: Ơn nước mấy đời, đền một chết Nghề quan mười tuổi, vạn ba sinh Đỗ Huy Liêu tên tự là Ông Tích, hiệu Đông La. Ông sinh tại làng La Ngạn, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên tỉnh Nam Định. Ngày 1 tháng 5 năm Tân Mão (1891), tổ chức xong lễ mãn tang cho mẹ vào buổi sáng thì buổi chiều Đỗ Huy Liêu đột ngột từ trần. Theo Phan Bội Châu, thì ông đã uống thuốc độc tự vẫn. Câu đối viếng Tổng Đốc Nghệ Tĩnh Đặng Toán: Đặng Toán làm quan có tiếng thanh liêm, đang giữ chức tuần phú Ninh Bình thì có chỉ cử làm tổng đốc Nghệ Tĩnh, nhưng sắp sửa lên đường nhận chức mới thì mất. Đỗ Huy Liêu có câu đối viếng Đặng Toán: Phương đáo Hoan chi thăng, hồ kị hạc quy, quy Thúy Hạc (Mới nghe tin ông thăng quan lên châu Hoan (Nghệ Tĩnh), sao ông vội cỡi hạc về, về núi Thúy Sơn, núi Hồi Hạc) Khởi dữ Ninh hữu ước, hưu tương hồng ấn, ấn Lam Hồng (Hay là với tỉnh Ninh có hẹn, nên không đem dấu chim hồng in ở sông Lam Giang, núi Hồng Lĩnh) “Hạc”, “hồng” là tên hai loài chim lớn (HV), cùng âm với một thành tố của tên gọi địa danh Thúy Hạc, Lam Hồng. Đối đáp với Cử Nhân Phạm Văn Phổ: Sau khi thực dân Pháp bình định xong Trung và Bắc Việt, Tổng đốc Nam Định Vũ văn Báo, cho mời Đỗ Huy Liêu và cử nhân Phạm Văn Phổ làng Tam Quang, ý muốn để ông làm đốc học Nam Định, Phổ làm tri phủ Nghĩa Hưng. Nhưng hai ông từ chối, nên bị tống giam, bị ngâm vào bể nước, cho lính tráng đứng tắm ở bên bể, cố làm nhục hai ông. Hai ông ngồi trong bể làm câu đối cho đỡ buồn, một ông ra, một ông đối: vế ra của Pham Văn Phổ: Tại luy tiết chi trung, phi kỳ tội dã (Câu này lấy ý trong Luận ngữ, thiên Công dã Tràng, điển Công dã Tràng, dẫu phải giam trói, nhưng không phải vì tội mình làm ra) vế đối của Đỗ Huy Liêu: Tuy khỏa trình ư trắc, yên năng nỗi tai (Câu này từ nội dung sách Mạnh Tử, thiên Công tôn Sửu, điển Liễu hạ Huệ vốn có tính khoan hoà nói: kẻ khác làm bậy như là cởi áo chìa vai ở bên ta, cũng không nhơ nhuốc đến ta) Sau được tha về, lấy cớ là có mẹ già, Đỗ Huy Liêu xin ở nhà phụng dưỡng, nhất định không chịu ra làm quan. Được bốn năm thì mẹ mất, ông có câu đối khóc mẹ như sau: Tằng tứ niên lai, quốc vận gia đình lụy lụy (Đã từng bốn năm nay, vận nước tình nhà, thường gặp gian truân) Tài tam nguyệt nội, thần tâm tử niệm du du (Vừa trong ba tháng, lòng người bầy tôi, và lòng người con cảm thấy xót xa) Câu đối viếng Đỗ Huy Liêu của Đốc Học Hà Nội Khiếu Năng Tĩnh (1835 - ? ): Khiếu Năng Tĩnh là người xã Chân Mỹ, tổng Tử Vinh, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định (nay thuộc xã Yên Cương, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Năm 1878, ông đỗ Cử nhân (Hương cống). 2 năm sau, ông đỗ đồng tiến sĩ xuất thân. Ông làm quan Đốc học Hà Nội, Tế tửu Quốc tử giám. Sau khi nghe tin Đỗ Huy Liêu mất, ông có gửi đôi câu đối phúng điếu như sau: Hiển tàng độc dị phùng tam mão (Lúc hiển đạt và lúc mất, một điều lạ là cùng gặp vào ba năm mão) Tâm sự toàn nghi đối lưỡng thân (Tâm sự như thế là trọn đạo làm con đối với hai đấng thân) Thân” trong “lưỡng thân” (cũng gọi song thân, là cha mẹ), cùng âm với “thân” (thuộc thập nhị địa chi), do yếu tố “mão” cùng trường nghĩa này, ở vị trí đối ứng chỉ ra 2 Đỗ Huy Liêu đỗ thủ khoa năm đinh mão (1867), đỗ hoàng giáp năm kỉ mão (1879), mất năm tân mão (1891). Câu đối viếng Đỗ Huy Liêu của Đông Các Đại Học Sĩ Cao Xuân Dục (1843 - 1923): Cái kỳ sinh kỳ cố kỳ tử diệc kỳ, mạc hoặc giả nhân trọc nhi ngã thanh, nhân túy nhi ngã tinh, thuật lai chúc tử sổ ngôn, quát nhãn quan hà lưu thế lệ (Lúc sống vốn kỳ, lúc chết cũng kỳ, có phải chăng người say mà ta tỉnh, người đục mà ta trong, những trối trăng con cháu đôi lời, ngoảnh lại non sông giàn nước mắt) Duy kỳ hành hiển, cố kỳ tàng diệc hiển, dĩ yên tai tương kiến năng kỷ thời, tương thức năng kỷ nhân, tài khứ đàm thân nhất nhật, hồi đâu thân thế hận ba đào (Khi xuất đã rõ, khi xử càng rõ, rành là thế cùng hiểu nào mấy người, cùng gặp nào mấy độ, vừa xong tang mẹ già một bữa, đoái trông thân thế hận ba đào) Cao Xuân Dục tự là Tử Phát, hiệu Long Cương Cổ Hoan Đông Cao, sinh tại thôn Thịnh Mỹ (Thịnh Khánh), xã Cao Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Năm 1876, ông đỗ Cử nhân. Trong quá trình làm quan, ông đã trải qua những chức: Biện lư Bộ Hình, Án sát Hà Nội, Bố chánh Hà Nội, Tuần phủ Hưng Yên, Tổng đốc Sơn Tây - Hưng Hóa - Tuyên Quang, Khâm sai Chủ khảo trường thi Hương Hà Nam, Tổng đốc Định Ninh, Phong hàm Kiên Giang Quận công, Tổng tài Quốc Sử Quán, Thượng thư Bộ Học. Nguyễn Lộ Trạch tự Hà Nhân, hiệu là Kỳ Am, người làng Kế Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông là người học rộng, hiểu biết nhiều về tình hình trong nước và thế giới. Nguyễn Lộ Trạch là đồng hương và cũng là bạn học rất thân thiết với Trần Dĩnh Sỹ. Trần Dĩnh Sỹ học rất giỏi, đỗ Hoàng Giáp khoa Ất Tỵ. Sau khi đỗ, Trần Dĩnh Sỹ tỏ vẻ đắc ý, Nguyễn Lộ Trạch tặng câu đối cho bạn. Kí giả Bồ Cảng quên vế đầu chỉ còn nhớ vế sau: vế trước: vế sau: “Phú quý cạnh lương bức hỉ, khán thử độ kị mã khán ba, anh phong lạc lạc, quân ưng bất phụ nhãn trung nhân” Nghĩa là: vế trước: vế sau: Giàu sang khéo quấy người thiệt, xem lúc này cưỡi ngựa ngắm hoa, anh phong ít có, người chắc không thẹn người trong con mắt ta. Nguyễn Lộ Trạch hiểu biết rộng nhưng không thích việc cử nghiệp, ông làm bài \"Thiên Hạ Đại Thế Luận\" để nói lên sự hiểu biết của mình trườc thời thế. Ông đưa bài này cho Nguyễn Thượng Hiền vừa đỗ Hoàng giáp xem, Nguyễn Thượng Hiền đọc xong và cho rằng trong đám đỗ đại khoa vừa rồi không có người nào làm được một góc bài ấy. Nguyễn Thượng Hiền nâng bút viết ngay một bài đề hậu để tỏ lòng khâm phục con người đã bị người đời lúc ấy cho là một \"cậu ấm tàng tàng\". Thượng Hiền còn tặng cho Lộ Trạch một câu đối: \"Ngã đường huề mỹ tửu, đăng cao sơn, tứ cố màng nhiên, hồi thủ đông minh, khang nhật xuất Quân kim bàng thang giang, kiết mao ốc, sổ bôi túy hậu, nhứt thân lương lộ, bạn hoa miên\" Dịch nghĩa: \"...Ta thường mang rượu tốt lên núi cao, bốn phía mênh mông, một góc vừng đông trời ló mặt; ...Người nay dựa bờ sông, kết nhà lá vài chung say quỵt, đầy mình sương lạnh ngủ cùng hoa\". Nguyễn Thị Trinh, con gái quan Vệ úy Nguyễn Kế Hưng coi kho lương ở thành Nam Định. Năm 1873, quân Pháp tấn công ra miền Bắc. Bấy giờ Nguyễn Thị Trinh được giao nhiệm vụ canh giữ kho quân lương, khi nghe tin cha đang bị giặc vây tại Cột Cờ bèn truyền cho một toán thuộc hạ chốt chặt các cửa kho, sau đó dẫn toán quân còn lại tiến ra trợ chiến quyết tử thủ giữ vững lá cờ Nam triều trên đỉnh Kỳ đài. Thành Nam Định thất thủ, nhiều tấm gương hy sinh trong trận chiến bảo vệ tòa thành này đã được sử sách ghi lại trong đó có Nguyễn Thị Trinh. Nhân dân tìm được thi thể bà và chôn cất tại phía đông của Cột Cờ. Triều đình cho lập đền thờ bà dưới chân Cột Cờ (nên được gọi là đền Cột Cờ) và miếu Bản Tỉnh để thờ những nghĩa sĩ đã hi sinh vì nước; dân địa phương còn tôn bà làm Đương cảnh Thành hoàng - Bản xứ Thổ thần, họ còn gọi Nguyễn Thị Trinh là “bà Chúa Cột Cờ”. Tại đền có câu đối ca ngợi: Nhất niệm hiếu trung như nhật nguyệt Thiên thu phần mộ lẫm uy danh. Nghĩa là: Trung hiếu một niềm ngời nhật nguyệt Mộ phần ngàn thuở khét uy danh. Ngoài ngôi đền thờ dưới chân Cột Cờ, tại thành Nam Định (nay là thành phố Nam Định) còn có một số nơi thờ bà Chúa Kho - Giám thương công chúa Nguyễn Thị Trinh như đền Nguyên Thương ở phố Hàng Sắt (phường Nguyễn Du), đền Bồng Lai ở đường Trần Hưng Đạo (phường Bà Triệu). Tại đây cũng đều có các câu đối ca ngợi nữ anh hùng thành Nam, như: Dữ phụ đồng cừu kim diệc hãn Tồn lương vệ quốc cổ do hy. Nghĩa là: Cùng cha chung mối thù, nay cũng hiếm Giữ lương vì nước, trước đâu nhiều. và: Huyền mặc vô ngôn, hoàng thượng biền mông tư Bắc khuyết Tinh thần bất tử, nữ trung anh kiệt chấn Nam thiên. Nghĩa là: Lặng lẽ không lời, hoàng thượng chở che riêng cửa Bắc Tinh thần bất tử, nữ trung anh kiệt động trời Nam. Bạch Xỉ chính tên là Đoàn Đức Mậu rồi đổi là Đoàn Chí Tuân, còn có tên khác như: Đoàn Văn Long, Thầy Đoàn. Ông sinh tại làng Hoà Ninh, xã Quảng Hoà, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Lên 12 tuổi, Đoàn Chí Tuân đã nổi tiếng về văn và thơ. Bấy giờ có người ra câu đối sau: vế ra:Hoàn quân dĩ đãi tướng quân (cho ông về là đãi ngộ ông) Bạch Xỉ đối ngay: Sinh tử tất vi thái tử (sinh con ra là đẻ hoàng tử ra) Lúc đầu, Bạch Xỉ đi theo cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Trong đại bản doanh ở Hương Khê, Đoàn Đức Mậu đã đề xuất hai ý kiến: \"Một là tôn quân diệt địch, hai là không sát tả mà chỉ bình tây\". Ý của Đoàn Đức Mậu là vua Hàm Nghi đã bị bắt, nghĩa Cần vương không còn chính danh cho công cuộc chiến đấu nữa. Còn Đồng Khánh là vua do Pháp dựng lên, bấy giờ Pháp sợ nhất là một nước có hai vua, chi bằng tôn phò một vua mới, và Đoàn Đức Mậu qua câu tuyên ngôn: Tướng quân nghĩa liệt văn hoàn vũ (Nghĩa liệt tướng quân vang bốn cõi) Nguyện hướng viên môn tác chấp chiên (Xin theo bên ngựa đỡ dây cương) Ý ông muốn nói, không ai xứng đáng hơn Phan Đình Phùng lên ngôi chấp chánh để lo việc quốc gia đại sự. Cả hai đề nghị của Đoàn Đức Mậu đã bị cụ Phan phản đối. Bạch Xỉ đã tách khỏi Phan Đình Phùng mà tự quyết định lên ngôi, lấy niên hiệu là Long Đức Hoàng Đế. Thời đó có câu sấm: “Bạch Xỉ sinh thiên hạ bình” (Ông Bạch Xỉ ra đời là thiên hạ thái bình). Khi Đoàn Chí Tuân tự xưng hoàng đế, ông là người không nhuộm răng đen thời đó. Có lẽ vì vậy mà ông tự lấy làm hiệu hoặc dân gian gán cho ông. Một lần, tổng đốc Hoàng Cao Khải tự động đến gặp Bạch Xỉ trong nhà lao, vừa muốn dụ dỗ vừa muốn thử tài đối đáp của một thần đồng nổi danh từ đất Quảng Bình. Khải nói: \"Biết ông hay chữ xin hãy đối lại câu đối của tôi\". Bạch Xỉ trả lời: \"Tôi văn chương ít, ít được học hành, chỉ đối được từng chữ mà thôi\". Khải xướng: Mạnh mẽ bảy đời cửa tướng Theo cách phát âm gốc Nghệ Tĩnh, Mạnh đọc thành mẹng, cũng có nghĩa là mồm; mẽ đọc thành âm mẹ (đối với mẹ là cha), bảy đời đối lại là tám kiếp, cửa tướng đối lại là nhà ông. Bạch Xĩ chỉ nêu lên từng chữ để đối. Nghe xong Hoàng cao Khải ngớ ra không hiểu gì cả, còn Bạch Xĩ thì đã ung dung chắp tay sau lưng đi vào nhà ngục. Khải vặn hỏi số người hộ vệ của mình, câu đối được chắp lại như sau: vế đối: Mồm cha tám kiếp nhà ông Dù giận tím mặt và thù lên tận cổ, Khải cũng không nói được câu nào với Bạch Xỉ nữa, nên đã bảo bọn cai ngục đem Bạch Xĩ ra bắn ngay cho hả giận. Lúc nầy Pháp chưa nghe lời Hoàng Cao Khải vì Pháp còn muốn dụ dỗ một nhà nho tài giỏi và có uy tín để có thể ổn định được một vùng địa lý rộng lớn từ Quảng Bình ra tới Hà Tĩnh, Nghệ An, đỡ phải hao binh tổn tướng trong nhiều năm mà chưa chắc đã thành công. Nhưng không có gì mua được chí khí cang cường của một nhà nho yêu nước. Dụ dỗ không được, Pháp quay sang sử dụng đòn tra tấn dã man. Bảy lần tra tấn là bảy lần Bạch Xỉ cương quyết phản cung. Sự khảng khái tuyệt đối của Bạch Xỉ đã đưa ông đến cái chết tàn khốc vào ngày 12-5-1897, khi ông đang bị cơn sốt rét hoành hành. Bạch Xỉ mất, tuổi đời mới hưởng được 43 năm. Tương truyền có lần Bạch Xỉ cùng Nguyễn Hàm Ninh đi chơi gặp mưa, ngồi núp ở gốc đa - Nguyễn Hàm Ninh đọc: Đường đất thịt, đi trơn như mỡ Bạch Xỉ đọc theo liền: Gió gốc da, ngồi mát tận xương Lần khác, Bạch Xỉ đến trường học cụ thám hoa Nguyễn Đức Đạt, gặp lúc cụ ra đề cho học trò, lấy tích ở Kinh Thi nói về một ông vua chăm việc nước, quên mình, quên ăn. Bạn học sinh nhờ ông giúp vài câu, ông lấy bút viết ngay: Tể phụ tiến thiện, vương viết: vi vi! Nhất đán ky, viết ngã ky chi (Đầu bếp dọn ăn, vua bảo: chưa chưa! Một người dân đói, chính là ta đói đây) Thuỳ tướng truyền xan, vương viết: phủ phủ! Ngô tuy mạo, thiên hạ tất phi! (Cần vụ đem cơm, vua bảo: khoan khoan! Mặt ta tuy gầy, nhưng mặt người dân được béo!) Câu đối làm giúp một người bạn thờ vợ chết: Dữ chi tử, cánh đoạt chi thê, ức mệnh, ức vô duyên, duy hướng thiên tào vấn đoạt đích (Cho con răng trắng, cướp quách vợ má hồng, vì mệnh hoặc vì duyên, mới biết lòng trời khôn nhắn hỏi) Tử dã ấu, nhi tồn dã lão, thị hạnh, thị bất hạnh, mang văn nhân thế thuyết mơ hồ (Mất ả tóc xanh, còn trơ ông đầu bạc, rằng may hay rằng rủi, rối nghe miệng thế nói mơ hồ) Khi nghĩa quân Bạch Xỉ đang đắc thế, dân gian vẫn lưu truyền câu đối sau để ca ngợi công tích của ông như sau: Một lũ Thầy Tăng ra trị nước (Thầy Tăng nói lái là Thằng Tây) Có ông Bạch Xỉ mới nên đời Lê Trung Đình hiệu là Long Cang, người làng Phú Nhơn, nay là thôn Trường Thọ Đông, thị trấn Sơn Tịnh, huyện Sơn Tịnh. Ông là chí sĩ yêu nước, kháng Pháp, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Cần Vương đầu tiên trong cả nước. Ngày 5/7/1885, sau vụ đánh úp quân Pháp ở Huế không thành, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương. Lê Trung Đình cùng các thủ lĩnh hương binh kéo quân về tỉnh thành, nghĩa quân làm chủ tỉnh thành được 4 ngày thì bị Nguyễn Thân đưa lực lượng từ sơn phòng về, bất ngờ tấn công dữ dội. Lê Trung Đình bị bắt, Nguyễn Thân lôi kéo Lê Trung Đình đầu hàng, nhưng ông không nói một lời. Ngày 23/7/1885 (1/6 năm Ất Dậu) Lê Trung Đình bị xử chém ở phía Bắc thành Quảng Ngãi. Năm 18 tuổi, cậu Đình đi thi hương. Cả nhà mừng thầm thế nào Trung Đình cũng đổ thủ khoa. Đình cũng rất tự tin, nhưng không dè quan trường chấm thế nào mà chỉ á nguyên (thứ hai sau thủ khoa). Cử Đình tức lắm, nhân thấy anh chàng thủ khoa tài học kém mình, lúc vào ra mắt trong lễ xướng danh, cử Đình sẵn tay cầm cái quạt giấy liền lấy gióng quạt gõ lên đầu chàng thủ khoa - con một mệnh quan ở triều đình Huế - và nói lớn: \"Thứ anh thủ khoa cái nước gì?\" Cả quan trường buổi lễ xôn xao, rộ lên bàn tán, cười nói mỉa mai. Quan tuần phủ Điện tức tối, vì năm xưa lúc Trung Đình mới 15 tuổi, có lần theo cha đến dinh tuần phủ ngâm vịnh; nghe Đình hay thơ tuần phủ mới ra câu đối để thử tài: vế ra: Đình xiêu giữa chợ ăn mày ngủ Cậu bé Đình xin phép cha, ứng đối lại ngay: Điện tế bên đường chó đói ăn Câu đối rất chỉnh, lại dùng chữ Điện tên của quan chủ tỉnh để đối với Đình tên mình, hơn nữa Đình và Điện đều là những nơi thờ cúng. Ai ngờ một vị quan đầu tỉnh lại bị cậu bé chơi xỏ một vố quá đau. Nên ông nghè Lê Trung Lượng vờ quở mắng Đình để quan tuần phủ đỡ ngượng, nhưng trong bụng ông cười thầm: \"thằng.......phải đo ván\". Cầm Bá Thước người dân tộc Thái, sinh tại chòm Lùm Lưa, xã Điền Lư, tổng Trịnh Vạn huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn, hạ chiếu Cần vương, Cầm Bá Thước lập tức hưởng ứng. Năm 1886, Cầm Bá Thước tham gia hội nghị Bồng Trung, các thủ lĩnh nghĩa quân trong tỉnh giao trách nhiệm cho ông xây dựng Trịnh Vạn thành một căn cứ vững chắc. Do bị quân Pháp vây ép, Cầm Bá Thước phải bỏ Trịnh Vạn rút về cứ điểm Cọc Chẻ. Giặc Pháp tung quân truy kích ráo riết, ngày 13/5/1895, Cầm Bá Thước sa vào tay giặc Pháp ở bản Cà. Chúng tìm mọi cách mua chuộc, ông kiên cường không khuất phục, chúng xử tử ông. Sau khi ông mất, người dân đã lập đền thờ ông ở Cửa Đặt, thị trấn Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Trong đền có câu đối khen ngợi ông như sau: Bất tử đại danh thùy vũ trụ Như sinh chính khí tạc sơn hà Nghĩa là: Danh thơm chẳng mất cùng trời đất Tiếng tốt còn bền với núi sông Nguyễn Đức Huy người làng Thái La huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định, ông tham gia cuộc khởi nghĩa do Vũ Hữu Lợi và Đỗ Huy Liệu (đều thuộc nhóm văn thân Nam Định) bị bại lộ, kết quả ông bị thực dân Pháp bắt đem ra xử tử năm 1883 (Quý Mùi). Trước lúc lâm hình ông có đọc đôi câu đối như sau: Sinh bất phùng thời, nan bả hình hài hoàn tạo hóa Tử đắc kỳ táng, cảm tương tâm huyết báo từ thân dịch nghĩa: sống chẳng gặp thời, khó trả hình hài cho tạo hóa chết may được táng, dám đem tâm huyết báo mẹ già Lê Ninh hiệu Mạnh Khang, sinh tại làng Trung Lễ, xã Cổ Ngu, tổng Văn Lâm, huyện La Sơn (nay là xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ) tỉnh Hà Tĩnh. Là con cả của nguyên Bố Chánh Bình Định Lê Khanh, được tập ấm, nên gọi là Ấm Ninh. Ông là người đầu tiên hưởng ứng chiếu Cần Vương ở vùng Nghệ An-Hà Tĩnh. Quân Pháp phối hợp với quân triều đóng ở Vinh, bất ngờ tập kích. Lê Ninh chỉ huy nghĩa quân chống trả quyết liệt cho đến khi không thể chống ngăn được nữa đành phải rút quân lên đóng ở vùng rừng núi Bạch Sơn (huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh). Ở nơi nhiều sơn lam chướng khí, Lê Ninh bị ốm nặng và qua đời. Thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Hương Khê là Phan Đình Phùng đã có câu đối viếng ông như sau: Tuy vận thành bại do thiên, xướng nghĩa tiên thanh tồn Nghệ Tĩnh Kham thán anh hùng vô địa, phù quân đại tiết hữu Hồng Lam Nghĩa là: Tuy rằng thành bại tự trời, tiếng xướng nghĩa trước tiên còn truyền Nghệ Tĩnh Than nhẽ anh hùng bạc mệnh, tiết phù vua cao cả bất tử với Hồng Lam Mai Xuân Thưởng lúc nhỏ tên là Phạm Văn Siêu, là người thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tuy Viễn (nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Năm 1878, Xuân Thưởng thi đỗ tú tài nhưng lại trở về quê Phú Lạc chiêu mộ nghĩa sĩ, lập căn cứ ở Hòn Sưng (nay thuộc thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn). Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc cho quân bao vây căn cứ Hầm Hô, Linh Đổng và cuối cùng đã chiếm được căn cứ, bắt được mẹ Mai Xuân Thưởng. Đau lòng, ông ra nạp mình để cứu mẹ, đối phương đã đưa ông cùng các thuộc hạ ra xử trảm tại Gò Chàm (phía đông thành Bình Định cũ). Đoàn quân áp giải theo nam ngạn sông Côn mà đi, Nguyên soái ngồi trên ngựa, hai tay bị trói. Mai phu nhân khăn gói theo chồng, thoăn thoắt đi trước đầu ngựa. Ngoài ra, không còn ai là người thân. Xúc cảm, Nguyên soái ứng khẩu đọc: Giang thượng đông lưu vô tử đệ Mã tiền tây hạ hữu giai nhân Nghĩa là: Trên bờ nước chảy về đông, con em ngoảnh lại tịnh không mống nào Riêng thương chút phận má đào, thoăn thoắt trước ngựa anh hào đưa chân Danh nhân Nguyễn Bá Trác khi lên truy điệu Mai Xuân Thưởng tại phần mộ và gửi hai câu đối thờ đầy trân trọng: Bại trận nhi bất hàng, hùng tâm phiêu võ trụ, đáo để chiến công lực kiệt, binh tán thế cô, túng sử quốc vận phương long, liệt sĩ hồ cam hàm hận huyết Đoạn đầu do năng tiếu, nghĩa khí quán càn khôn, tự lai chuyên chế vân loa, nhân vong sự một, ná thức thế tâm mạc đạm, hậu sanh thương vị hích kỳ danh! Nguyễn Bá Trác hiệu Tiêu Đẩu sinh năm 1881 tại Bảo An, Điện Bàn, Quảng Nam. Ông từng hưởng ứng phong trào Duy Tân, Đông Du, sang du học Nhật Bản, khi chính phủ Nhật cấu kết với Pháp trục xuất các nhà yêu nước Việt Nam, ông lặn lội sang Tàu. Có thuyết khác cho rằng câu đối trên là do chí sĩ yêu nước Đồng Sĩ Bình (1904 - 1932) tổ chức viếng mộ Mai Xuân Thưởng Bên quốc âm có câu: Lệ thảm Bàn thành dòng họ vũ Khí hùng Linh Đổng ngọn nam phong Đào Tấn ở Vinh Thạnh (Tuy Phước), khi phong trào Cần Vương Bình Định nổi lên, không hưởng ứng, đến ẩn náu nơi chùa Linh Phong (Phù Cát), sau ra phò vua Đồng Khánh, cũng có một câu đối điếu Mai anh hùng: Bình tặc chí nan thanh, anh phong Linh Đổng suy cao thọ Định biên công vị toại, huỳnh khí Côn giang phó bích lưu Nghĩa là: Chí bình tặc khôn thành, gió anh dũng dạt dào cây Lộc Đổng Công định biên chưa toại, khí hùng hào cuồn cuộn nước Côn giang Đào Công dụng ý tặng Mai Nguyên soái bốn chữ Bình Định Anh Hùng. Cao Thắng sinh ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là vị phó tướng của cuộc khởi nghĩa Hương Khê nổi tiếng thời Pháp thuộc, Cao Thắng đem một ngàn quân từ Ngàn Tươi mở trận tấn công lớn vào tỉnh lỵ Nghệ An. Trên đường hành quân, nhiều đồn trại đối phương bị phá bỏ. Nhưng trận trận tấn công đồn Nu (hay Nỏ) ở Thanh Chương (một huyện miền núi nằm ở phía tây nam thuộc tỉnh Nghệ An), Cao Thắng trúng mưu của viên đồn trưởng tên Phiến. Đền thờ Cao Thắng, danh tướng của cuộc khởi nghĩa Hương Khê, ở xã Sơn Lễ, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Trong đền có khắc câu đối viếng Cao Thắng của Phan Đình Phùng nội dung như sau: Công cần tất thành, kính tiếp thệ ngôn thanh quốc tặc Thệ nguyên dự liệu, cứ yên kim dĩ thiểu tư nhân Dịch nghĩa: Công muốn lập nên, vang lời thề diệt trừ giặc nước Việc không tính trước, lên yên nay thấy vắng người Nguyễn Thiện Sinh là con trưởng Nguyễn Thiện Thuật - lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, theo Đề Thám lên Yên Thế khởi nghĩa, bị bắt và xử trảm. Nguyễn Thiện Thuật ở bên Trung Hoa được tin gửi đôi câu đối về phúng điều. Bấy giờ em ông là Nguyễn Thiện Kế vẫn đang phù trờ Đề Thám kháng Pháp, câu đối này ghi theo lời kể của cụ Vũ Tố ở xã Tân Hồng huyện Bình Giang tỉnh Hưng Yên: Đoạn đầu đài thượng, tống liễu tiểu tướng quân, na kham vạn lý cô thần, ca khấp gia nhi phong vũ dạ Sáp huyết trường trung, mộng tồn hoàng đại lão, dữ ngã đồng bào ái đệ, sanh phù tổ quốc tử sinh thu Dịch nghĩa: Đoạn đầu đài nọ, tiễn tướng trẻ về trời, xót thay muôn dặm tôi xa, khóc con cơn gió táp Uống máu hội này, cùng cụ Hoàng trong mộng, còn có một người em ruột, giữ nước buổi nguy nan Lê văn Thức là người làng Nhuận Thạch, nay thuộc xã Đông Tiến, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Ông là cai tổng, thường gọi là Cai Hoà. Năm 1885, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương, Cai Hoà hưởng ứng bằng cách vận động con em, gia nhập nghĩa quân. Khi quân giặc đột phá vào làng Triều Xá, Lê Văn Thức chỉ huy nghĩa quân đánh giáp lá cà với giặc. Nhưng thế giặc mạnh, cuối cùng chúng bắt được ông, đã dùng một cực hình tra tấn, song chúng không moi được gì. Ngày 4 tháng 3 năm Bính Tuất (1886), Lê Văn Thức bị giặc Pháp chém rồi treo đầu ở cửa Tả thành Thanh Hoá. Ba ngày sau mới cho người nhà đem xác về chôn. Khi con cháu thay áo thấy trong vạt áo của ông có câu đối viết bằng máu: Nhất phiên đan tâm ưng bất tử Bách niên cơ sự phó lai sinh Dịch: Một tấm lòng son ưng chẳng chết Trăm năm cơ sự để người sau Nguyễn Văn Trình, tự Lục Quang, hiệu Thạch Thất sinh năm 1872 (Nhâm Thân) ở phủ lỵ phủ Bình Giang (Hải Dương). Năm 17 tuổi, cụ được đưa vào Quảng Nam học để tham dự các kỳ thi, vừa kiếm chỗ dạy học để thêm nguồn sinh sống. Cụ đỗ Tú tài hai khoa (1891 và 1895) ở trường Huế, đỗ Cử nhân khoa 1897 và đỗ Đồng Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1898), năm cụ 27 tuổi. Câu đối “phục cổ tam khoa” khi đón Tiến sĩ Nguyễn Văn Trình lúc vinh quy: Tam bách dư niên, Mậu Tuất xuân phục cổ Nhị thập thất tuế, Nhâm Thân Mệnh kế khoa Tạm dịch là: Hơn ba trăm năm, giáp bảng lại đề Mậu Tuất Hai mươi bảy tuổi, đại khoa vừa mệnh Nhâm Thân Bằng trí tuệ và nghị lực phi thường, cụ đã chiếm cứ đỉnh cao khoa bảng, ghi danh người Kiệt Thạch vào Bảng Vàng. Đó là kết tinh trí tuệ của cả một dòng họ, là sự nối tiếp xứng đáng trong lịch sử học vấn, khoa cử của cả một nền văn hiến Lam Hồng nói chung, và đất Kiệt Thạch nói riêng. Nếu như đất Kiệt Thạch thời Hậu Lê có Hoàng Hiền, Nguyễn Cung, Thái Kính xứng đáng với câu ca dao xưa “Kiệt Thạch tam khoa tam Tiến sĩ”, thì hơn ba trăm năm sau, năm 1898, lịch sử khoa bảng lại được ghi danh Tiến sĩ Nguyễn Văn Trình ở đất Kiệt Thạch bằng dấu son trong Bảng Vàng Khoa Cử Tương truyền khi quan Tổng Đốc Vương Tử Đại vừa đến Bình Định đã lập tức niêm yết cấm việc hối lộ. Một hôm quan cải trang làm thường dân mướn xe kéo đi chơi quanh ngoài thành, để dò xét dân tình. Quan hỏi người phu xe: \"Nghe đồn quan Tổng đốc đương kim thanh liêm chánh trực lắm phải không chú?\" Không biết người ngồi xe là quan Tổng đốc, người phu xe đáp: \"Dạ, phải, thanh liêm chánh trực. Nhưng ai muốn được việc thì đừng đi ngõ lớn mắc bảng cấm hối lộ, mà phải đi ngõ sau, tìm bà lớn là \"hảo tai\". Quan liền ghi số xe, về dinh truyền bắt người phu xe tống ngục. Trước vụ người phu xe, lại có chuyện dân làng Đông Lương huyện Phù Cát cũng vì chỉ trích quan tỉnh nên bị bắt giam cả làng. Vợ con đến khóc xin đêm ngày mà vẫn chưa được thả, quan Bố làm bài \"Ký Cốc Xa\" (xe kéo tay, chạy kêu cọt kẹt) rằng: Sanh nhai ký cốc nhất xa hành. Hưu huyết quan gia lãng phẩm bình. Bất ký Đông Lương đương nhật sự, Thê hiền nhi khốc đáo tàn canh. Nghĩa là: Làm ăn cút kít tay xe, Miệng mồm khuyên hãy kiêng dè việc quan. Đông Lương mang vạ cả làng, Vợ con kêu khóc ngày tàn lại đêm. Thơ quan Bố vừa làm ra thì tất cả nhân viên ty, tào đều biết, rồi không mấy chốc bay khắp ra cả thành thị thôn quê. Quan Tổng đốc rất căm và để trả thù, quan làm một câu đối Nôm, cho người gởi đến quan Bố, rằng: \"Sóng Âu hải tràn ngang, tràn Hương Cảng, tràn Hoành tân, tràn Mã Lịp Nhĩ Sơn, coi như tuồng dạ sắt gan đồng, một mực giữ gìn dân với nước Gió Nam Phong thổi ngược, thổi hường lô, thổi binh bộ, thổi Bàn thành cụ Bố, quen những thói vào luồn ra cúi, đôi đường chen chúc lợi và danh\" Nguyễn Tử Mẫn là một nhà địa lý học của tỉnh Ninh Bình và Việt Nam. Ông quê ở ở thôn Đống Cao, xã Giá Hộ, tổng Kỳ Vĩ, nay là làng Thư Điền, xã Ninh Nhất, huyện Hoa Lư. Nguyễn Tử Mẫn là một người rất am hiểu về địa lý Ninh Bình. Ông đỗ cử nhân năm 1841, làm tri các huyện Kim Anh (Vĩnh Phúc), Hiệp Hòa (Bắc Ninh) và Gia Viễn (Ninh Bình), gọi tắt là Ông Huyện Hiệp Hoà. Tương truyền Ông Huyện Hiệp Hòa có câu đối nôm tự vịnh về hoàn cảnh thực tế của mình như sau: Vợ cả vợ hai không vợ cả Con trai con gái có con trai Nguyên là ông có hai bà, khi ấy đều mất rồi, mà con trai con gái đều có cháu trai cả. Câu đối này sau được Nguyễn Đỗ Mục và Dương Bá Trạc chuyển thể để đả kích Tổng Đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu trên tờ báo Trung Bắc. Câu đối viết sau sự kiện \"4 tháng 3 vua\": Ngoái cách năm hai đạo chiếu đăng quang, bể Bắc trời Nam, táng khảo tỷ, con nào không nước mắt (Cuối năm ngoái sang năm nay, vua Dục Đức, vua Hiệp Hoà, đều có chiếu đăng quang rồi cùng bị giết. Táng khảo tỷ: vua chết cũng như cha mẹ chết) Giêng sang độ, bốn ông già mở cảnh, ngày xuân chén hạ (chén mừng) cuộc hương thôn, cái ấy phải non tay (Lệ làng sang tháng giêng, có bốn ông lên lão ăn mừng, ông cho là một cuộc hương ẩm ăn uống phải vừa vừa thôi) Đôi câu đối trên có dụng ý: Bắc Nam đối với Xuân Hạ, con đối với cái, nước mắt đối với non tay Những câu đối dán chơi: Sáng sáng ăn sáng rồi; cầm quyển mới, kỳ cui ký cúi viết vài chương, đoạn thu gương mắt, xếp khăn tay; dắt bút vào tam sơn, ngả lưng ngáy khò khò cho tối xuống Ngày ngày ngủ ngày dậy; vớ câu cũ, phếu pháo phều phào ngâm mấy khẩu, đứng dậy ngắm chậu hoa, nhìn cây thế, rê chân bách bộ, vỗ tay cười khanh khách với trăng lên Khi Biện Lý La Ngạn Đỗ Huy Uyển lên thọ thất tuần, Ông Huyện Hiệp Hòa có câu đối mừng như sau: Quan trên chữ nhất đứng hai hàng, Thủ khoa Hoàng Giáp (Con trai cụ Biện lý là Hoàng Giáp Liêu, thi hương đỗ thủ khoa, thi đình đỗ Hoàng Giáp đều là thứ nhất) Cụ tuổi bẩy tuần ngồi một cặp, đầu phát bạch canh (Cụ ông cụ bà cùng 70 tuổi, đầu đã đổi ra tóc trắng . Nhưng cố ý lấy chữ thủ đối với chữ đầu, hoàng đối với bạch, giáp đối với canh) Đỗ Huy Uyển (1815 - 1882) húy Mâu, tự Viên Khuê và Tân Giang. Ông sinh tại làng La Ngạn, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Năm 1859, nhân việc soạn chiếu dụ được vua Tự Đức khen ngợi ban hàm Thái thường thiếu khanh, Biện lý bộ Hộ sự vụ (nên được người đời gọi là Biện lý La Ngạn). Năm Canh Thân (1860), ông bị đau mắt nên được về nghỉ. Về ở quê, ông làm nghề dạy học. Khi nghe tin Ông Huyện Hiệp Hoà tạ thế, Đốc Học Ninh Bình Nguyễn Thượng Hiền có câu đối viếng như sau: Lâm ngoạ hữu dư thanh, tửu tận nhàn hoa do mãn kính (Ông nằm ẩn ở trong rừng, có khí tiết thanh cao, uống cạn chén rượu, mà vườn vẫn còn đầy hoa cúc) Ngã lai tư nhất kiến, đơn thành tiên hạc hốt lăng không (Ta đến đây mới gặp cụ một lần, mà bài thuốc tiên đã luyện xong, nay cưỡi hạc bay đi mất) Ngoài ra, Hoàng giáp Liêu cũng có câu đối viếng ông, câu đối làm sẵn từ trước, vì Liêu chết trước ông tới 10 năm: Độc kỳ văn như tinh như sương, như tuấn mã khinh xa, ư thế hữu danh tư diệc túc (Đọc văn ông sáng như sao, như sương, nhanh như ngựa khỏe, xe nhẹ, ông có danh ở đời như thế là đủ) Giả nhi hóa vi đàn vi luân, vi thử can trùng tí, tùy thiên sở phú hựu hà vưu (Ví ông mất đi, hoá ra cây đàn, ra cái xe, ra gan con chuột, ra càng con sâu tùy ý trời cho không oán trách gì) Điển tích \"thử can trùng tý\" lấy ở sách Trang tử, điển tích \"tuấn mã khinh xa\" lấy ở cổ văn. Câu đối sử dụng trong từng trường hợp cụ thể và Thơ xướng họa Việt Nam Câu đối sử dụng chung trong các trường hợp cụ thể cố định Câu đối chưa rõ sự tích và nguồn gốc xuất xứ Câu đối liên quan đến Phật giáo Câu đối liên quan đến Thiên chúa giáo ‎ Câu đối về thời đại Hùng Vương, An Dương Vương và nước Nam Việt Câu đối về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng Câu đối về cuộc khởi nghĩa Lý Bí và nhà nước Vạn Xuân Câu đối về các danh nhân thời Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý (938 - 1225) Câu đối về các nhân vật lịch sử thời Trần, Hồ, Hậu Trần (1225 - 1414) ‎ Câu đối về các danh nhân thời Lê, Mạc (1428 - 1621) Câu đối về các danh nhân thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, Tây Sơn và Nguyễn (1621 - 1858) Câu đối của các nhà hoạt động cách mạng tiền bối nửa đầu thế kỷ XX Câu đối về các danh nhân Đương đại ‎ Câu đối khắc tại các Đình, Chùa, Đền, Miếu, Phủ, Điện khu vực Bắc Bộ Câu đối khắc tại các Đình, Chùa, Đền, Miếu, Phủ, Điện khu vực Bắc Trung Bộ Câu đối khắc tại các Đình, Chùa, Đền, Miếu, Phủ, Điện khu vực Nam Trung Bộ Câu đối khắc tại các Đình, Chùa, Đền, Miếu, Phủ, Điện khu vực Nam Bộ Câu đối khắc tại phủ, điện, đình, chùa, đền, miếu xưa và nay ở thủ đô Hà Nội Câu đối khắc tại Từ Đường của các dòng họ Việt Nam Câu đối giao hữu trong Cơ quan đoàn thể và những tổ chức Phi chính phủ Câu đối không có danh tính và một số giai thoại đối đáp của người Trung Quốc Câu đối trong giai thoại dân gian có danh tính nhưng chưa rõ tiểu sử nhân vật Câu đối ghi chép tại sách vở, gia phả hay ban thờ tại một số tư gia Việt Nam Câu đối cùng giai thoại đối đáp về đại thi hào Nguyễn Du và Truyện Kiều Câu đối và những giai thoại đối đáp của các vị vua chúa triều Nguyễn Câu đối và giai thoại đối đáp của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) Câu đối và giai thoại đối đáp về Sào Nam Phan Bội Châu (1867 - 1940) Câu đối và giai thoại Thơ xướng họa về Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969) Câu đối của những nhân vật định cư ở Hải ngoại Câu đối của Giáo sư Anh hùng lao động Vũ Khiêu Wikipedia có thể loại liên quan Câu đối của các sĩ phu yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Hannover", "role": "user" }, { "content": "Hannover là thành phố thuộc Đức. Hanover nằm trên dòng sông Leine, là thủ phủ của bang Niedersachsen, Đức. Hanover có diện tích 204.010 km2 với dân số 516.227 người (11/2005). Hannover là trụ sở của nhiều trường đại học và là một trung tâm dịch vụ, thương mại và công nghiệp quan trọng. Hội chợ CeBIT và Hội chợ Hannover là hai hội chợ quốc tế lớn được tổ chức hằng năm tại đây. Agritechnica, triển lãm kỹ thuật nông nghiệp quan trọng nhất thế giới, được tổ chức hai năm một lần vào tháng 11 của năm lẻ. Lễ hội bắn súng Hannover, lễ hội dành cho những người bắn súng lớn nhất thế giới, cũng được tổ chức hằng năm tại thành phố này. Thành phố Hannover là một phần của vùng đô thị Hannover-Braunschweig-Göttingen, vùng đô thị lớn thứ tư của Đức. Hanover không phải là một thành phố điển hình của châu Âu. Bạn đừng mong xem các tòa nhà đẹp từ nhiều thế kỷ; thành phố là một trong những ảnh hưởng nặng nhất trong Thế chiến II, để lại nó chỉ với một vài mốc lịch sử. Ngay cả những khu vực Phố Cổ (Altstadt) là \"mới\", tất cả các ngôi nhà cổ còn đứng lại sau chiến tranh (40) được lấy từ khắp thành phố và quy về một nơi. Khu vực này được bao quanh bởi một số năm 1950 và năm 1960 tòa nhà tạo bầu không khí hơi nặng nề đối với các khu phố xung quanh. Tuy nhiên, vẫn còn một số khu dân cư bao gồm các cổ phiếu nhà ở cuối thế kỷ 19 với thường nghĩa lịch sử xây dựng (Victoria) và Jugendstil (Art Nouveau) trang trí ngoài khu vực trung tâm thành phố, chẳng hạn như Oststadt, danh sách hoặc Linden. Hanover có cây xanh lớn, có rừng và công viên lớn. Cảnh quan chủ yếu là bằng phẳng, với dòng sông Leine chảy qua thành phố. Hồ Masch (Maschsee) là khá ngoạn mục, với kích thước đó của một hồ nhân tạo. Thành phố đã có một mối quan hệ đặc biệt với nghệ sĩ người Pháp cuối Niki de Saint-Phalle. Bà đã có một số công trình của mình tại các điểm công cộng ở Hanover (tức là, \"Nanas\", \"hang động\" trong Đại Garden) và cũng tại Bảo tàng Sprengel. Để tôn vinh những đóng góp của mình để Hanover, cô đã được cấp quyền công dân danh dự của chính quyền thành phố. Hơn nữa, gần đây nâng cấp \"ngầm\" mua sắm hành lang từ nhà ga trung tâm để Kröpcke được đặt tên là \"The Niki de Saint-Phalle Promenade\". Dịch vụ công cộng của Hanover là tuyệt vời, do xây dựng lại lớn cho EXPO thế giới 2000. Khu vực mua sắm dưới nhà ga xe lửa và được sửa đổi trong năm 2005-2006 để chuẩn bị cho World Cup. Hanover được thành lập trong thời trung cổ trên bờ phía nam của sông Leine và trở thành một thị trấn tương đối lớn trong thế kỷ 13. Honovere là tên ban đầu của nó có thể có nghĩa là \"bờ (sông) cao\". Trong một thời gian có liên minh cá nhân của vua Vương quốc Anh và Hannover (1714-1837). Binh lính từ Hanover di cư sang Anh, dẫn đến sự hình thành của Lê dương Đức của nhà vua, đó là chỉ quân đội Đức để chiến đấu trong suốt toàn bộ các cuộc chiến tranh Napoleon chống lại quân Pháp. Sau đó, họ đóng một vai trò quan trọng trong trận chiến Waterloo năm 1815. Kröpcke là một khu vực cho người đi bộ lớn trong trung tâm của Hannover. Đây là điểm mua sắm lớn của Hanover, quê hương của nhà hát lớn và có rất nhiều nơi để ăn. Nhà ga chính ở Hanover Stadtbahn mạng, cũng nằm ở đây. Tất cả các dòng Stadtbahn trừ 10 và 17, hãy gọi tại nhà ga và nó là điểm trao đổi chính mạng. Nó có sáu nền tảng trong tổng số trên ba dòng chéo nhau trong đường hầm độc lập. Có một đồng hồ màu xanh lá cây lớn trong Kröpcke (KröpckeUhr) mà làm cho một điểm hẹn lý tưởng. Hanover đã trở thành nhiều hơn một địa điểm du lịch kể từ khi nó bắt đầu lưu trữ CeBIT, và đặc biệt là sau hội chợ vào năm 2000. Bản dịch tiếng Anh đã được chỉ vừa mới giới thiệu một số cổng thông tin du lịch chính thức như các máy bán vé tàu. Đức nói chung là hữu ích, nhưng bạn có để yêu cầu giúp đỡ khi họ không muốn nhảy vào kinh doanh của người khác mà không được mời. Hầu hết các sinh viên đại học nói tiếng Anh. Để biết thông tin chung, đó là an toàn nhất để đi đến văn phòng du lịch, Prinzenstr. 12 (gần nhà ga trung tâm), +49-511-12345-111, MF 09:00-06:00, Sa 9:00-02:00. Sân bay Hannover (IATA: HAJ) [1] phục vụ nhiều hãng hàng không lớn của châu Âu, bao gồm cả hãng hàng không giá rẻ Air Berlin airberlin.de và TUI [2]. Có một đoàn tàu chạy hai lần một giờ (gọi là S-Bahn) từ sân bay đến nhà ga trung tâm (Hauptbahnhof'). Một vé 2-Zone là cần thiết từ sân bay đến trung tâm thành phố. Giá vé là khoảng € 5 và sẽ mất khoảng 17 phút. Chuyến tàu cuối cùng khởi hành vào khoảng nửa đêm. Một xe taxi với chi phí trung tâm thành phố khoảng 20 € và sẽ mất khoảng 15 phút. Sân bay cung cấp tùy chọn làm thủ tục check-in trong ngày trước khởi hành của bạn (6-9 PM) đối với một số hãng hàng không Hapag-Lloyd, Condor, Air Berlin, Sky Airlines, and Croatia Airlines). Do vị trí của nó, Hanover có kết nối tốt từ tất cả các thành phố lớn ở Đức thông qua [(DB) http://www.bahn.de/i/view/GBR/en/index.shtml Deutsche Bahn], các dịch vụ đường sắt Đức. Ngoài ra còn có tàu trực tiếp đến Hà Lan, Thụy Sĩ, Pháp, Áo và nhiều lần trong ngày, kể cả ban đêm kết nối tàu với tàu Nachtzug ([3], CityNightLine ch /). Hanover cũng có thể truy cập bằng xe lửa khu vực, có thể sử dụng \"vé cuối tuần\" giá rẻ và phổ biến. Tàu luwrua tốc độ cao Inter City Xe lửa Express (tàu ICE) [4] có thể đưa bạn qua tất cả các Đức đến những nơi như: Frankfurt, Hamburg, Stuttgart, Munich, Cologne và Berlin. Các chuyến đi đến Hanover từ Berlin mất 1:30, từ Hamburg 1:20, từ Frankfurt 2:20, và từ Munich 04:30. Giá cả khác nhau tùy thuộc vào thời điểm du lịch và các loại vé như một nền kinh tế, tự do hoặc vé thoải mái, nhưng một vé tự do từ Berlin đến Hanover với chi phí bạn từ € 75. Hanover được liên kết với phần còn lại của Đức và một phần của châu Âu bởi các dịch vụ xe buýt thường xuyên. Chuyến xe buýt có xu hướng được khá nhanh chóng tránh up giữ không cần thiết nhưng họ không phải là cách thích hợp nhất để đi du lịch đặc biệt là những chuyến đi dài. Bến Xe buýt Trung ương ( zentraler Omnibus Bahnhof hoặc \"ZOB\") nằm phía sau (phía tây bắc) Nhà ga trung tâm ( Hauptbahnhof). Xe buýt đến Bosnia là ví dụ do Saleinea, Globtour Xe buýt đến Croatia là ví dụ do Čazmatrans Xe buýt đến Cộng hòa Séc: [Cơ quan sinh viên http://www.studentagency.eu/] Hanover được phục vụ bởi hệ thống đường bộ hoàn hảo của Đức, là trên cả Hamburg đến Kassel (Autobahn A7) chạy về phía bắc và phía nam và Berlin để Düsseldorf (A2) chạy phía đông và phía tây. Thành phố có thể dễ dàng đạt được sau khi để lại hai đường cao tốc này. Trong Đức họ lái xe bên phải và autobahns không có giới hạn tốc độ. Trong khi các giới hạn trên chiếc B-đường khá cao, lên đến 130kph bên ngoài thị trấn, họ có thể giảm xuống thấp như 50kph trong lĩnh vực xây dựng. Từ Hamburg ổ đĩa là khoảng một giờ rưỡi. Từ Berlin và Düsseldorf, lái xe mất khoảng 3 giờ. Vườn lớn Herrenhausen (Herrenhäuser Garten). Những khu vườn baroque nổi tiếng thế giới của Herrenhausen được tạo ra trong thế kỷ 17 để sao chép các Vườn Versailles ở Pháp. Phải xem! Ngay cả trong mùa đông chúng ta vẫn có thể nhìn thấy vẻ đẹp của nó, nhưng nó đạt đến tốt nhất của mình vào cuối mùa xuân cho đến cuối mùa hè. Ngoài ra còn có một hang tiêu tan trang trí bằng Niki de Saint Phalle. - Cách đi: Bằng xe điện, đi để trạm dừng xe có tên \"Herrenhauser Garten\". Bằng xe hơi, \"Herrenhauser 4 Str.\". - Giờ mở cửa và phí vào cửa. Lâu đài Marienburg ( Schloss Marienburg). Marienburg 1, 30.982 Pattensen ( 20km về phía nam của Hanover). Được coi là một trong những tòa nhà lịch sử tân Gothic quan trọng nhất ở Đức, lâu đài sẽ đưa bạn trở lại một ngày trong cuộc sống của một Tòa án Hanoveria. Nhiều tháp pháo của nó chi phối các ngọn đồi của thung lũng của sông Leine. Bạn có thể làm một tour du lịch toàn diện của lâu đài cho phép bạn xem hội trường lớn và phòng lịch sử. - Mở cửa hàng ngày từ tháng Ba cho đến cuối tháng 10:00-06:00. Các tour du lịch lâu đài cuối cùng bắt đầu lúc 17:00. Giá: 7 €, trẻ em 4-6 tuổi: 4 €, 7-12 y:. 5 €, 13-17 y:. 6 €. Đời sống biển. Herrenhäuser Straße 4a ( Trâm 4 hoặc 5, dừng: Herrenhäuser Garten). Hanover Aquarium, có một loạt các cá và cũng là một khu rừng nhiệt đới bên trong. Nó mở cửa từ 10:00 hàng ngày. Đối với thời điểm mở cửa chính xác, gọi +49-511- 123.300, [mailto: hannover@sealife.de]. Vé người lớn hoặc trẻ em: 15,95 €, một người lớn và một trẻ em: 26.50 €. Sở thú Hanover (Erlebnis-Zoo Hannover) là rất hiện đại và phải là một trong những tốt nhất ở châu Âu. Khoảng 2.000 loài động vật từ khắp nơi trên thế giới sống trong sáu thế giới thú ấn tượng. Vé là đắt tiền nhưng đáng giá cho cuộc vui chơi cả ngày. Vé ngày chi phí 23 € cho người lớn (tháng mười một-tháng ba: 16 €), cho trẻ em 3-5 tuổi: 13 € và trẻ em y 6-17: 17 €.. Mở quanh năm. Trong mùa đông, hãy thăm WinterZoo - một thị trường Giáng sinh quyến rũ với chương trình băng, trượt băng, trượt, thực phẩm và đồ uống, vv Tòa thị chính mới ( Neues Rathaus). Xem các mô hình của Hanover tại bốn điểm khác nhau trong lịch sử: 1689, 1939, 1945, và 2000, và sau đó đi một thang máy dốc với mái vòm cho một cái nhìn đẹp của thành phố. Nanas, tại Leibnizufer. Tác phẩm điêu khắc khổng lồ do Niki de Saint Phalle. Đại học Hanover. Tòa nhà chính là cung điện mùa đông của các vị vua của Hanover. (Cung điện mùa hè là trong vườn phức tạp lớn. Tuy nhiên, nó đã bị phá hủy trong chiến tranh thế giới II. Bây giờ chỉ có một bức tường vẫn còn.) Nhà Leibniz, trong Holzmarkt gần Bảo tàng Lịch sử. Ngôi nhà nơi Gottfried Wilhelm Leibniz sống trong phần sau của cuộc đời. Công viên thành phố ( Stadtpark), Theodor-Heuss-Platz 1-3 ( Trâm 11, Zoo hướng, dừng lại:. Congress Centrum / Stadthalle). Đây là giá trị tham quan vào một ngày nắng đẹp. Tốt nơi để thư giãn với một cuốn sách và một nơi hoàn hảo để thoát khỏi trung tâm thành phố. Tiergarten, Tiergartenstraße 149. Một 112 ha rừng giải trí. List, một khu dân cư không quá xa so với Central Station. Khu vực này là phổ biến trong giới sinh viên. Nó có một khu vực cho người đi bộ tốt đẹp với một số cửa hàng nhỏ và thú vị. Eilenriede. 650 ha rừng thành phố. Rất độc đáo xem xét kích thước và vị trí ở giữa thành phố của mình. Nhà của nam tước Münchhausen - trong Bodenwerder - một ngôi làng không xa Hanover. Baron Münchhausen là một người kể chuyện Hanoveria đã nói với phi thường và thường xa vời những câu chuyện về cuộc sống của mình như là một người lính, thợ săn, và vận động. Một số trong những câu chuyện này là cơ sở cho các bộ sưu tập The Adventures of Baron Munchausen. (Khoảng 20 km về phía đông của Hamelin) Văn phòng Du lịch (gần Central Station), có các bản đồ tự hướng dẫn. Thực hiện theo các đỏ line mà bắt đầu từ lối ra của Văn phòng Du lịch. Đường màu đỏ sẽ vượt qua tất cả các điểm tham quan chính của Hanover và có thể được hoàn thành trên chân trong 1,5 giờ. Tham khảo bản đồ để giải thích mỗi khi một số trên đường màu đỏ là gặp phải. Đi bộ hoặc chạy bộ quanh Maschsee, đặc biệt là trong mùa hè. Trong một mùa đông rất lạnh (hiếm), bề mặt của hồ sẽ được đông lạnh và đủ dày để trượt băng. Nếu bạn đủ may mắn để gặp cơ hội hiếm có này, hãy chắc chắn để tham gia vui vẻ cùng với tất cả những người khác làm cho hầu hết của nó. Nhiều bảo tàng (bao gồm cả Landesmuseum, Bảo tàng Lịch sử và Bảo tàng Kestner) có thể được truy cập miễn phí vào thứ Sáu. Niedersächsisches Landesmuseum (Bảo tàng Lower Saxony) một mash-mish của triển lãm. Có một phần prehistorical tập trung vào quá khứ của Low Saxony bao gồm các công cụ và vũ khí. Bạn cũng sẽ tìm thấy đồng tiền của Vương quốc Hanover, Phổ và đế quốc Đức và để đầu nó tất cả ra, những gì mọi Đức nhu cầu bảo tàng, phòng trà Nhật Bản. Mở cửa: Thứ ba - Sơn: 10 - 17 tiếng, Thu: 10 - 19 h, nhập học: 4-8 €, giảm: 3-6 €, gia đình: 9-16 €. Historisches Museum am Hohen Ufer - Bảo tàng Lịch sử tại Hanover dấu vết lịch sử của quyền thành phố từ khi thành lập vào năm 1100 cho đến ngày nay. Bảo tàng trưng bày lịch sử của thành phố cũng như các khu vực cá nhân. Bạn cũng sẽ tìm hiểu rất nhiều về văn hóa dân gian và truyền thống dân gian của Hanover. Nằm về phía tây của Balhof tại Hanover và trên Ufer Hoshes nơi bạn tìm thấy chợ trời lớn nhất được tổ chức vào ngày thứ Bảy. Bảo tàng Sprengel, Kurt-Schwitters-Platz, ( bất kỳ xe điện để Aegidientorplatz sau đó đi bộ 10 phút để hướng hồ, hoặc xe buýt 131 từ Kröpcke ngừng Bảo tàng Maschsee / Sprengel) +49-511- 16.843.875, fax +49-511' '-16.845.093, [5]. Từ 10:00-20:00, W-Su 10:00-06:00. nên không thể bỏ qua của những người yêu thích nghệ thuật hiện đại. Tổ chức một số lượng lớn các đối tượng nghệ thuật từ thời hiện đại (thế kỷ 20). Đối tượng bao gồm các công trình từ Picasso, Paul Klee, Niki de Saint-Phalle. 7 € (người lớn), 4 € (sinh viên, người già, người thất nghiệp). Bảo tàng Wilhelm-Busch, trong Georgengarten, trong Great Garden ( Trâm 4 hoặc 5 (Hướng Garbsen / Stöcken) để ngăn chặn Bảo tàng Wilhelm-Busch) busch-museum.de /. Tu-F 11:00-17:00, Sa / Su / kỳ nghỉ 11:00-06:00. bảo tàng này lưu trữ các bộ sưu tập độc đáo của công việc Busch và những người khác nghệ thuật châm biếm và hài hước. Nó được tôn trọng như Bảo tàng Đức caricature và Nghệ thuật đồ họa quan trọng. 4,50 €, € 10 gia đình, giảm 2,50 €. Blindenmuseum Hannover, Bleekstraße 22' +49-511- 52.470 - Bảo tàng tổ chức các đối tượng cho thấy cách mù người có được giáo dục từ năm 1843 và ngày hôm nay. Vào cửa tự do, nhưng chỉ mở theo hẹn. Bảo tàng Kestner, Trammplatz 3, ( Bus 131/132 dừng: Aegidientorplatz, Bus 120 dừng: Friedrichswall / Culemannstraße, Bus 250 dừng: Bleichenstraße), +49-511- 16842120. Tu / Th-Su 11:00-18:00, W 11:00-8:00 đối tượng bao gồm những người từ Ai Cập cổ đại, La Mã và Hy Lạp từ thời Trung Cổ đến thời điểm hiện tại. 3 €. Bảo tàng xe điện Hannover (Straßenbahn-Museum) trong Wehmingen gần Sehnde - Bảo tàng bao gồm các bộ sưu tập trên toàn quốc duy nhất của xe điện trong Đức, nằm trên trang web của một cựu mỏ kali trong Sehnde-Wehmingen, phía đông nam của Hannover. - Điện thoại: + 49 511 646 3312, email: info@tram-museum.de. Mở cửa từ tháng tư - Oktober chỉ ngày chủ nhật và các ngày lễ 11-17 h. Nhập học: 7 €, trẻ từ 7-15 năm: 3,50 €, gia đình: 19 €. Người Hanover tận hưởng rất nhiều pháo hoa trong năm. Ngoài các cuộc thi thế giới được tổ chức mỗi mùa hè, có pháo hoa mỗi đêm của Kleines Fest, mỗi cuối tuần trong thời gian lễ hội mùa xuân (Frühlingsfest) và Oktoberfest, và vào cuối tuần của hồ Masch Festival. Đối với lần đầu tiên hai, vị trí tốt nhất để xem là bên trong hay bên ngoài Great Garden, trong khi những người sau có thể được nhìn thấy từ bất kỳ điểm nào xung quanh Hồ Masch. Pháo hoa thường bắt đầu từ 10 giờ tối. Hanover cũng là nơi của cuộc thi bắn pháo hoa trên thế giới hàng năm (hoặc ít nhất là một trong những cuộc thi nhiều thế giới xảy ra trong năm trên toàn thế giới) trong Herrenhäuser Garten. Sáu quốc gia tham gia vào sáu thứ bảy, ba trong số họ xung quanh tháng 5-tháng 6, ba trong tháng 8-tháng 9", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Dinh Độc Lập", "role": "user" }, { "content": "Dinh Độc Lập (tên gọi trước đây là dinh Norodom, ngày nay còn gọi là dinh Thống Nhất hay hội trường Thống Nhất) là một công trình kiến trúc ở Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay, nó đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng mở đầu cuộc chiến tranh chiếm Việt Nam và chiếm xong Nam Kỳ Lục Tỉnh năm 1867. Năm 1868, Thống đốc Nam Kỳ Lagrandière đã làm lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng Dinh Thống đốc Nam Kỳ mới tại Sài Gòn thay cho dinh cũ được dựng bằng gỗ vào năm 1863. Dinh mới được xây dựng theo theo đồ án do kiến trúc sư Hermite phác thảo (người phác thảo đồ án Tòa thị sảnh Hongkong). Viên đá lịch sử này là khối đá lấy ở Biên Hòa, hình vuông rộng mỗi cạnh 50 cm, có lỗ bên trong chứa những đồng tiền hiện hành thuở ấy bằng vàng, bạc, đồng có chạm hình Napoleon đệ tam. Công trình này được xây cất trên một diện tích rộng 12 ha, bao gồm một dinh thự lớn với mặt tiền rộng 80 m, bên trong có phòng khách chứa 800 người, và một khuôn viên rộng với nhiều cây xanh và thảm cỏ, phần lớn vật tư xây dựng dinh được chở từ Pháp sang và xây đến năm 1873 mới xong vì chiến tranh Pháp-Phổ 1870, dinh được đặt tên là dinh Norodom và đại lộ trước dinh cũng được gọi là đại lộ Norodom, lấy theo tên của Quốc vương Campuchia lúc bấy giờ là Norodom. Từ 1871 đến 1887, dinh được dành cho Thống đốc Nam kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) nên gọi là dinh Thống đốc. Từ 1887 đến 1945, các Toàn quyền Đông Dương (Gouverneur-général de l'Indochine Française) đã sử dụng dinh thự này làm nơi ở và làm việc nên dinh gọi là dinh Toàn quyền. Nơi ở và làm việc của các Thống đốc chuyển sang một dinh thự gần đó. Năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, Dinh Norodom trở thành nơi làm việc của chính quyền Nhật ở Việt Nam. Nhưng đến tháng 9 năm 1945, Nhật thất bại trong Đệ Nhị Thế chiến, Pháp trở lại chiếm Nam Bộ, Dinh Norodom trở lại thành trụ sở làm việc của Pháp ở Việt Nam. Sau năm 1954, người Pháp rút khỏi Việt Nam. Việt Nam bị chia cắt thành 2 quốc gia, miền Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, còn miền Nam là nước Quốc gia Việt Nam (sau thành Việt Nam Cộng hòa). Năm 1954, Dinh Norodom được bàn giao giữa đại diện Pháp, tướng 5 sao Paul Ely, và đại diện Quốc gia Việt Nam, Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Năm 1955, sau một cuộc trưng cầu dân ý, Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và lên làm Tổng thống, quyết định đổi tên dinh này thành Dinh Độc Lập. Từ đó Dinh Độc Lập trở thành nơi đại diện cho chính quyền cũng như nơi ở của tổng thống và là nơi chứng kiến nhiều biến cố chính trị. Thời kỳ này, Dinh Độc Lập còn được gọi là Dinh Tổng Thống. Theo thuật phong thủy của Dinh được đặt ở vị trí đầu rồng, nên Dinh cũng còn được gọi là Phủ đầu rồng. Ngày 27 tháng 2 năm 1962, hai viên phi công thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc, lái 2 máy bay AD-6 ném bom làm sập toàn bộ phần chính cánh trái của dinh. Do không thể khôi phục lại, Ngô Đình Diệm đã cho san bằng và xây một dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, người Việt Nam đầu tiên đạt giải Khôi nguyên La Mã. Dinh Độc Lập mới được khởi công xây dựng ngày 1 tháng 7 năm 1962, trong thời gian xây dựng gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm tạm thời chuyển sang sống tại Dinh Gia Long (nay là Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh). Công trình đang xây dựng dở dang thì ông Ngô Đình Diệm bị phe đảo chính ám sát ngày 2 tháng 11 năm 1963 nên vào ngày khánh thành dinh, 31 tháng 10 năm 1966, người chủ tọa buổi lễ là ông Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia. Từ ngày này, Dinh Độc Lập mới xây trở thành trụ sở của Việt Nam Cộng hòa. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu sống ở dinh này từ tháng 10 năm 1967 đến ngày 21 tháng 4 năm 1975. Ngày 8 tháng 4 năm 1975, chiếc máy bay F-5E do Nguyễn Thành Trung lái, xuất phát từ Biên Hòa, đã ném bom Dinh, gây hư hại không đáng kể. Lúc 10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, xe tăng T54 mang số hiệu 843 của Quân đội Nhân dân Việt Nam dưới quyền chỉ huy của Trung úy Vũ Đăng Toàn đã húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập, tiếp đó xe tăng mang số hiệu 390 đã húc tung cổng chính tiến thẳng vào dinh. Lúc 11 giờ 30 phút cùng ngày, Trung úy Quân Giải phóng Bùi Quang Thận, đại đội trưởng, chỉ huy xe 843, đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng hòa trên nóc dinh xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên, kết thúc 30 năm cuộc chiến tranh Việt Nam. Sau hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc thành một đất nước Việt Nam thống nhất diễn ra tại dinh Độc Lập vào tháng 11 năm 1975, để kỷ niệm, chính phủ lâm thời nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã quyết định đổi tên Dinh Độc Lập thành Hội trường Thống Nhất. Nơi này được đặc cách xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 77A/VHQĐ ngày 25/6/1976 của Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) của chính quyền Việt Nam hiện nay. Dinh được xây dựng trên diện tích 4.500 m2, diện tích sử dụng 20.000 m2, gồm 3 tầng chính, 1 sân thượng, 2 gác lửng, tầng nền, 2 tầng hầm và một sân thượng cho máy bay trực thăng đáp xuống. Hơn 100 căn phòng của Dinh được trang trí theo phong cách khác nhau tùy theo mục đích sử dụng bao gồm các phòng khánh tiết, phòng họp hội đồng nội các, phòng làm việc của Tổng Thống và của Phó Tổng Thống, phòng trình ủy nhiệm thư, phòng đại yến, v.v... chưa kể các phần khác như hồ sen bán nguyệt hai bên thềm đi vào chánh điện, bao lơn, hành lang... Dinh cao 26m, tọa lạc trong khuôn viên rộng 12 ha rợp bóng cây. Bên ngoài hàng rào phía trước và phía sau Dinh là 2 công viên cây xanh. Giữa những năm 1960, đây là công trình có quy mô lớn nhất miền Nam và có chi phí xây dựng cao nhất (150.000 lượng vàng). Các hệ thống phụ trợ bên trong Dinh hiện đại: điều hòa không khí, phòng chống cháy, thông tin liên lạc, nhà kho. Tầng hầm chịu được oanh kích của bom lớn và pháo. Mặt tiền của Dinh được trang trí cách điệu các đốt mành trúc phỏng theo phong cách các bức mành tại các ngôi nhà Việt và họa tiết các ngôi chùa cổ tại Việt Nam. Các phòng của Dinh được trang trí nhiều tác phẩm non sông cẩm tú, tranh sơn mài, tranh sơn dầu. Cơ quan hiện quản lý di tích văn hóa Dinh Thống Nhất có tên là Hội trường Thống Nhất thuộc Cục Hành chính Quản trị II - Văn phòng Chính Phủ. Đây là di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng được đông đảo du khách trong nước và nước ngoài đến tham quan. Dinh Độc Lập, 135 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Bến Thành, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh, ☎ (08).38223652 - Phòng Kế hoạch - Tài vụ: (08).38294117FORMATNOCC.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Các vụ tấn công Paris tháng 11 năm 2015", "role": "user" }, { "content": "Các vụ tấn công Paris tháng 11 năm 2015 là một loạt các vụ nổ súng và các vụ nổ kinh hoàng đã xảy ra tại các quận 10 và 11 của thủ đô Paris, Pháp, tại sân vận động Stade de France ở Saint-Denis, phía bắc thủ đô, và các nơi khác trong vùng Île-de-France bắt đầu từ lúc 21:16 (CET) thứ sáu ngày 13 tháng 11 năm 2015 cho đến 00:58 (CET) ngày 14 tháng 11 năm 2015. Có ít nhất 3 vụ nổ riêng biệt và 6 vụ nổ súng đã được báo cáo xung quanh thủ đô, trong đó có một vụ đánh bom gần Stade de France ở vùng ngoại ô phía bắc của Saint-Denis. Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (ISIL) đã đứng ra nhận trách nhiệm về vụ tấn công này. Đây là vụ tấn công đẫm máu nhất xảy ra ở Pháp kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và ở Liên minh châu Âu từ sau vụ đánh bom tàu hoả ở Madrid năm 2004. Đó chỉ là một tối thứ 6 tại một show nhạc rock. Không khí rất sôi động, mọi người nhảy nhót và cười nói. Và khi những người đàn ông đó đi qua cửa chính và bắt đầu xả súng, chúng tôi vẫn ngây thơ tin rằng đó chỉ là một phần của chương trình. Nó không chỉ là một vụ tấn công khủng bố, mà là một cuộc thảm sát. Hàng chục người bị bắn ngay trước mắt tôi. Những vũng máu loang đầy trên sàn nhà. Tiếng khóc của những người đàn ông trưởng thành ôm thi thể bạn gái trong tay truyền khắp khán phòng. Những tương lai vỡ nát, những gia đình đau đớn. Chỉ trong một khoảnh khắc. Sốc và cô độc, tôi đã giả chết hơn một giờ đồng hồ, nằm đó giữa những người phải chứng kiến thi thể bất động của người thân. Nín thở, cố không cử động, không khóc, không cho chúng thấy sự sợ hãi mà chúng muốn. Tôi đã quá may mắn khi sống sót. Nhiều người thì không. Thế giới này thật tàn nhẫn. Những hành động thế này càng làm nổi bật sự suy đồi của con người, hình ảnh những kẻ đó lượn quanh như kền kền sẽ ám ảnh tôi suốt phần đời còn lại. Chúng tỉ mỉ nhắm bắn những người xung quanh khu vực tôi đứng mà không hề cân nhắc mạng sống con người. Mọi chuyện cứ như thể không có thật vậy. Tôi mong chờ ai đó sẽ nói rằng đây chỉ là một cơn ác mộng. Nhưng may mắn được là một người sống sót đã cho tôi cơ hội để kể về những người anh hùng. Là người đàn ông đã trấn tĩnh và liều mạng để bảo vệ tôi khi tôi đang rên rỉ, là những lời trăng trối cuối cùng của một đôi uyên ương giúp tôi tin tưởng vào những điều tốt đẹp trên thế giới. Là những người cảnh sát đã giải cứu thành công hàng trăm sinh mạng, là một người hoàn toàn xa lạ đã giúp tôi trên đường và cố gắng an ủi suốt 45 phút khi tôi nghĩ bạn trai mình đã chết. Là người đàn ông bị thương mà tôi nhầm lẫn là bạn trai mình nhưng vẫn ôm lấy tôi và nói rằng mọi việc sẽ ổn dù bản thân cũng cô đơn và sợ hãi. Là người phụ nữ mở cửa nhà để cưu mang những người sống sót, là một người bạn giúp tôi có chỗ ở và thậm chí ra ngoài mua quần áo mới để tôi không phải mặc chiếc áo nhuốm máu này, đến tất cả các bạn, những người đã an ủi, ủng hộ, các bạn làm tôi tin rằng thế giới này vẫn có thể tốt đẹp hơn. Để điều này không bao giờ xảy ra lần nữa, và quan trọng hơn tất cả, là hướng tới 80 người đã ngã xuống trong khán phòng, những người đã không may mắn, những người không thể thức dậy vào hôm nay và tới tất cả những nỗi đau mà bạn bè và gia đình họ đang trải qua. Tôi thực sự xin lỗi. Không gì có thể xoa dịu được nỗi đau này. Với những gì đã chứng kiến vào thời khắc cuối cùng của họ, cùng với cảm giác chính mình cũng sẽ chết, tôi tin rằng không ai để tâm tới những tên súc sinh đã gây ra mọi việc. Họ chỉ nghĩ về những người họ yêu thương. Khi nằm trong vũng máu của những người xa lạ và chờ đợi viên đạn kết thúc cuộc đời mình khi chỉ mới 22 tuổi, tôi hình dung khuôn mặt của từng người thân yêu và thì thầm rằng tôi yêu họ. Hết lần này tới lần khác. Tôi đếm lại những dấu mốc của cuộc đời mình. Ước rằng họ biết tôi yêu họ nhường nào, ước rằng dù có chuyện gì xảy ra với tôi, họ vẫn giữ niền tin vào sự thánh thiện trong con người, không để những kẻ đó chiến thắng. Đêm qua, cuộc đời của nhiều người đã thay đổi vĩnh viễn, giờ chúng tôi phải sống tốt hơn. Sống cho những nạn nhân vô tội của thảm kịch này, cho những ước mơ mà họ không bao giờ có thể thực hiện được nữa. Xin hãy yên nghỉ. Các bạn sẽ không bao giờ bị lãng quên. Isobel Bowdery, trên trang Facebook của cô (14 tháng 11 năm 2015), đăng lại trong Cô gái sống sót nhờ giả chết suốt một giờ trước kẻ khủng bố Paris, Tuấn Vũ, báo điện tử VnExpress (15 tháng 11 năm 2015) \"Anonymous từ khắp nơi trên thế giới sẽ săn lùng và tìm thấy các ngươi. Chúng tôi sẽ khởi động chiến dịch lớn nhất từ trước đến nay để chống lại bằng cuộc tấn công mạng lớn chưa từng có. Chúng tôi tuyên bố chiến tranh chính thức bắt đầu. Người Pháp vô cùng mạnh mẽ và sau cuộc tấn công này, họ sẽ càng mạnh mẽ hơn.\" Anonymous, đăng lại trong Tổ chức hacker nguy hiểm nhất thế giới quyết tuyên chiến với IS, Thế giới di động (16 tháng 11 năm 2015) \"Vụ tấn công này không chỉ nhắm vào Paris, nó không chỉ nhắm vào người dân nước Pháp, mà đây là sự tấn công thẳng vào nhân tính và những chuẩn mực thế giới mà chúng ta chia sẻ.\" Tổng thống Mỹ Barack Obama, đăng lại trong 6 vụ tấn công ở Paris, 129 người chết, báo điện tử VnExpress (15 tháng 11 năm 2015)", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Murakami Haruki", "role": "user" }, { "content": "Murakami Haruki (sinh ngày 12 tháng 1 năm 1949) là tiểu thuyết gia, dịch giả văn học người Nhật Bản được biết đến nhiều nhất hiện nay cả trong lẫn ngoài nước Nhật. Murakami đã trở thành hiện tượng trong văn học Nhật Bản đương đại với những mĩ danh \"nhà văn được yêu thích\", \"nhà văn best-seller\", \"nhà văn của giới trẻ\". Trích dẫn từ bản dịch của Dương Tường, Nhà Xuất bản Văn học và Nhã Nam Những cuộc gặp gỡ tình cờ nâng bước ta trên đường đời. Chương 3, trang 28. Thật khó mà phân biệt nổi biển với trời. Cũng như khó mà phân biệt được du khách với biển. Và thục tế với những hoang tưởng của trái tim. Chương 3, trang 30. Cuộc gặp tình cờ cũng là duyên kiếp. Mọi sừ trên đời đều do kiếp trước của ta định sắt. Là ngay cả trong những sự kiện nhỏ nhất, cũng không có cái gì là ngẫu nhiên. Chương 5, trang 39. Mỗi lần tôi mở những cuốn sách ấy, một mùi của thời xưa lại phả ra từ những trang chữ - cái mùi đặc biệt của tri thức và những cảm xúc từ bao đời nay vẫn an nghỉ giữa những tấm bìa. Chương 5, trang 45. Cùng với thời gian, hầu hết mọi sự chìm vào quên lãng. Ngay cả chiến tranh và cuộc đấu tranh sinh tử mà người ta đã trải qua, giờ đây cũng tựa như một cái gì từ dĩ vãng xa xăm. Chúng ta quá bấn bíu với cuộc đời thường nhật đến nỗi những sự kiện của quá khứ biến mất khỏi quỹ đạo tâm trí của chúng ta như những vì sao đã tắt. Hàng ngày, có quá nhiều điều chúng ta phải nghĩ đến, quá nhiều điều mới chúng ta phải học. Thông tin mới, kiểu cách mới, kỹ thuật mới, thuật ngữ mới... Tuy nhiên, bất kể bao nhiêu thời gian qua đi, bất kể mọi biến cố, có một số điều ta không thể chôn vào quên lãng, những ký ức mà ta không bao giờ có thể xóa nhòa. Chúng còn lại mãi nới chúng ta như phiến đá đỉnh vòm. Chương 12, trang 112. Người lớn luôn luôn áp đặt đối với trẻ nhỏ, chính vì chúng có khả năng xử lý. Bọn trẻ bị ngợp bởi những nhiệm vụ đặt ra trước chúng và dần dà mất đi tính hồn nhiên và cảm giác thỏa mãn vốn có. Khi bị đối xử như vậy, trẻ con bắt đầu thu mình vào vỏ ốc và giữ kín mọi điều trong lòng. Phải mất rất nhiều thời gian và công sức mới khiến chúng cởi mở trở lại. Trái tim trẻ con dễ uốn nhưng một khi đã uốn thì khó mà làm cho nó trở lại dạng ban đầu. Chương 13, trang 117. Một dạng hoàn hảo nào đó chỉ có thể thực hiện được qua một sự tích lũy vô hạn của cái không hoàn hảo. Chương 13, trang 128. Im lặng, là một cái gì ta có thể nghe thấy thực sự. Chương 15, trang 157. Nhắm mắt lại cũng chẳng thay đổi được gì. Chẳng có gì biến đi chỉ vì anh không nhìn thấy những gì đang diễn ra. Trên thực tế, tình hình thậm chí sẽ còn xấu đi khi anh mở mắt trở lại. Chúng ta đang sống trong một thế giới như thế đó. Hãy mở to mắt ra. Chỉ có kẻ hèn nhát mới nhắm mắt lại. Nhắm mắt, bịt tai đâu có làm cho thời gian ngừng lại được. Chương 16, trang 167. Hạnh phúc là ngụ ngôn, bất hạnh là chuyện đời. Chương 17, trang 179. Trong đời mỗi con người, đều có một điểm không-đường-trở-lui. Và trong một số rất tí trường hợp, lại có một điểm không thể tiến thêm chút nào nữa. Và môt khi ta tới điểm đó, ta chỉ còn một nước là lặng lẽ chấp nhận sự việc. Như thế mới tiếp tục sống được. Chương 17, trang 184. Mỗi người cảm nhận nỗi đau theo cách riêng của mình, mỗi người mang những vết sẹo riêng. Chương 19, trang 207. Đầu óc hẹp hòi triệt tiêu trí tưởng tượng. Không khoan nhượng, lý thuyết tách rời khỏi thực tế, ngôn từ sáo rỗng, lý tưởng vay mượn, hệ thống cứng nhắc. Đó chính là những cái làm mình thực sự kinh hãi. Những cái mình cực kỳ khiếp sợ và ghê tởm. Chương 19, trang 208. Mình có phải là một con sao biển hay một cây hồ tiêu đâu. Mình là một con người đang sống, đang hít thở. Dĩ nhiên là mình đã từng yêu. Chương 23, trang 258. Với thời gian, rốt cuộc, tất cả mọi người đều sẽ hỏng, sẽ biến đổi thành một cái gì khác. Sớm muộn, điều đó tất sẽ xảy ra thôi. Chương 25, trang 282. Ta chẳng có hình dạng gì. Ta là một vật thể khái niệm, siêu hình. Ta có thể khoác bất kỳ hình dạng gì, nhưng ta thiếu thực chất. Chương 30, trang 324. Bất kỳ ai đang yêu đều tìm cái phần thiếu hụt của bản ngã mình. Cho nên họ cảm thấy buồn khi nghĩ đến người mình yêu. Giống như khi ta bước vào một căn phòng đầy kỷ niệm thân thương mà đã bao lâu ta không trở lại. Đó là một tình cảm rất tự nhiên. Chương 31, trang 338. Coi những cái điên khùng là thực, quả là... thực sự lãng phí thời gian. Chương 36, trang 386. Sự vật bên ngoài ta là phóng chiếu của những gì bên trong ta và những gì bên trong ta là một phóng chiếu của những gì bên ngoài. Cho nên khi ta bước vào cái mê cung bên ngoài thì đồng thời, ta cũng bước vào cái mê cung bên trong. Chương 37, trang 401. Không có cuộc chiến nào chấm dứt mọi cuộc chiến. Chiến tranh nuôi chiến tranh. Bạo lực làm đổ bao nhiêu máu, nó cũng liếm hết, thức ăn của nó là da thịt đầy thương tích. Chiến tranh là một sinh vật tự tạo hoàn hảo. Chương 41, trang 441. Ký ức làm ấm lòng ta từ bên trong, đồng thời nó cũng xé nát tim ta. Chương 42, trang 444. Mỗi một chúng ta đều mất một cái gì quý giá đối với mình. Mất những cơ hội, mất những khả năng, những tình cảm mà ta không bao giờ có lại. Đó là một phần của cuộc sống. Chương 49, trang 526. Nếu con nhớ ta, thì dù tất cả mọi người khác đều quên, ta cũng chẳng bận tâm. Chương 49, trang 530. Thời gian đè nặng lên mày như một giấc mơ cũ, lập lờ nước đôi. Mày tiếp tục di chuyển, cố tìm cách lách qua nó. Nhưng dù mày có đi đến cuối đất cùng trời, mày cũng không thể thoát khỏi nó. Tuy nhiên, mày vẫn phải đi đến đó - đến rìa của thế giới. Có một điều mày không cách chi làm được, trừ phi mày đến đó. Chương 49, trang 530. Trích dẫn từ bản dịch của Trịnh Lữ, Nhà Xuất bản Văn học và Nhã Nam. Ký ức thật ngộ. Khi còn ở trong cảnh thực thì tôi chẳng để ý gì đến nó. Không bao giờ tôi nghĩ đến nó như một cái gì đó sẽ để lại một ấn tượng lâu dài, và chắc chắn là không thể tưởng tượng rằng mười tám năm sau tôi sẽ nhớ lại nó đến từng chi tiết. Ngày hôm đó tôi không quan tâm gì đến cảnh vật xung quanh. Tôi còn nghĩ đến bản thân mình, đến cô gái đẹp đang sánh bước với mình. Tôi đang nghĩ đến chuyện hai đứa với nhau, rồi lại đến bản thân mình. Tôi vẫn còn ở cái tuổi, ở cái đoạn của cuộc đời khi mọi cảnh trí, mọi ý nghĩ, đều chỉ quay về chính bản thân mình như một chiếc boomerang. Và tệ hơn nữa, tôi đang yêu. Mối tình đầy khúc mắmc. Đầu óc tôi không để ý đến cảnh vật xung quanh được. Không phải chúng tôi không hợp nhau. Chúng tôi chỉ không có gì để nói. Chương 2, trang 61. Cái chết là có thực, nó không phải là đối nghịch của cuộc sống, mà là một phần của cuộc sống. Chương 2, trang 64. Nếu đọc những sách mọi người đều đang đọc, cậu sẽ chỉ nghĩ những gì mọi người đang nghĩ mà thôi. Chương 3, trang 75. Chỉ có người chét mới mãi mãi ở tuổi mười bảy mà thôi. Chương 3, trang 87. Chẳng ai thích một mình nhiều đến thế. Nhưng tôi không cố đánh bạn, vậy thôi. Làm thế chỉ tổ hay thất vọng. Chương 4, trang 114. Cuộc sống không cần đến lí tưởng. Nó chỉ cần những tiêu chuẩn hành động. Chương 4, trang 118. Quân tử là người không làm những gì mình muốn mà chỉ làm những gì mình nên làm. Chương 4, trang 120. Tới vẫn luôn thèm được yêu. Dù chỉ một lần thôi. Tớ muốn biết được yêu đầy phần mình nó ra sao, đầy đến mức không thể chịu được nữa ấy. Chỉ một lần thôi. Chương 4, trang 154. Với một loại người nào đó, tình yêu bắt đầu từ cái gì đó tí xíu và ngốc nghếch. Từ những cái như thế, hoặc nó không bao giờ bắt đầu được cả. Chương 4, trang 156. Một hôm mình nói với ông bác sĩ phụ trách ca của mình điều đó và ông ta bỏ rằng theo một nghĩa nào đó thì cảm giác ấy của mình là đúng, rằng bọn mình đến ở đây không phải để sửa chữa sự méo mó của mình mà để làm quen với nó, rằng một trong những vấn đề của bọn mình là khả nắng biết được và chấp nhận nhưng méo mó của chính mình. Cũng như mỗi người đều có những đặc điểm riêng trong các đi đứng, ai cũng có những đặc điểm riêng trong cách nghĩ, các cảm và cách nhìn thấy sự vật... Chương 5, trang 173. Người chết sẽ luôn là người chết, còn chúng ta phải tiếp tục sống. Chương 6, trang 217. Khi cảm xúc chứa chất, xơ cứng và chết ở trong lòng, lúc ấy mới thật là rắc rối to. Chương 6, trang 222. Khi nói dối chuyện gì đó, người ta phải bịa ra một mớ những dối trá khác đi cùng. Chương 6, trang 236. Thế thì có gì là không được nếu tự nhiên có một thằng cha trên thế giới này chỉ thích hiểu được cậu. Chương 6, trang 267. Cái làm cho chúng tôi bình thường nhất, là biết rằng mình không bình thường. Chương 6, trang 280. Cách mạng kiểu gì mà chỉ biết đao to búa lớn những lời lẽ mà người lao động không thể hiểu được thế? Thứ cách mạng xã hội chó gì vậy? Chương 7, trang 331. Ăn thấy ngon là tốt lắm đấy. Chứng tỏ là mình vẫn còn sống đấy. Chương 7, trang 353. Sau khi chết, người ta để lại những kí ức nho nhỏ lạ lùng về họ như thế đấy. Chương 7, trang 363. Thế giới là một chốn bất công cố hữu. Chương 8, trang 371. Ngay cả chuột cũng sẽ chọn con đường ít đau đớn nhất nếu ta làm nó choáng váng đủ độ. Chương 8, trang 382. Đừng tự trách móc mình. Chỉ những thằng vứt đi mới làm thế. Chương 10, trang 438. Thật khủng khiếp khi ta làm tổn thương một người ta hằng quí mến mà lại không biết là như vậy. Chương 10, trang 442. Cậu biết bọn con gái thế nào rồi. Đến tuổi hai mươi hoặc hai mốt là đùng một cái chúng bắt đầu nảy sinh những ý tưởng rất cụ thể. Chúng trở thành siêu thực tế. Và khi chuyện ấy diễn ra thì bao nhiêu những thứ đáng yêu và thật mê li của chúng trước đây bỗng thành ra tầm thường và buồn nản. Chương 10, trang 464. Nếu cậu ở trong một nơi tối mịt, cậu chỉ có thể ngồi im cho đến lúc mắt cậu quen dần với bóng tối. Chương 10, trang 468. Tớ không cần biết cậu sẽ làm gì tớ, nhưng tớ không muốn cậu làm tớ phải đau khổ. Tớ đã đủ đau khổ ở đời này rồi. Quá đủ rồi. Bây giờ tớ muốn hạnh phúc. Chương 10, trang 477. Khi ta yêu, tự nhiên nhất là hãy thả hết mình cho nó. Chương 10, trang 486. Tất cả chúng ta đều là những con người bất toàn sống trong một thế giới bất toàn. Chương 10, trang 487. Dù cậu có cố mấy, thì người ta vẫn cứ bị đâu khổ khi đã đến lúc họ phải đau khổ. Chương 10, trang 487. Nhưng có ai dám bảo chỉ thế mới là tốt đẹp nhất đâu? Cho nên cậu cần phải chộp lấy bất kì cơ hội hạnh phúc nào mà cậu có, và đừng áy náy vì người khác nhiều quá. Kinh nghiệm của tôi là chúng ta chỉ có độ hai hoặc ba cơ hội như thế trong đời, và nếu để lỡ thì sẽ phải ân hận cho đến chết vậy. Chương 10, trang 488. Bằng cách sống cuộc đời của mình, chúng ta đang nuôi dưỡng sự chết. Chương 11, trang 493. Không có chân lí nào có thể làm dịu được nỗi đau buồn khi chúng ta mất một người yêu dấu. Không một chân lí nào, một tấm lòng trung thực nào, một sức mạnh nào, một tấm lòng từ ái nào, có thể làm dịu được nỗi đau buồn ấy. Chúng ta chỉ có thể chịu đựng nỗi đau ấy cho đến tận cùng và cố học được một điều gì đó, nhưng bài học ấy cũng lại chẳng có ích gì nữa khi chúng ta phải đối mặt với một nỗi đau buồn mới sẽ ập đến không biết lúc nào. Chương 11, trang 494. Thư chỉ là giấy thôi mà chị. Cứ đốt chúng đi, và những gì còn lại trong lòng mình thì vẫn còn mãi; mà có giữ chúng thì những gì sẽ phai nhạt rồi cũng sẽ cứ nhạt phai. Chương 11, trang 527. Tớ có hàng ti tỉ thứ phải nói với cậu. Trên đời này tớ chỉ muốn có cậu. Tớ muốn hai chúng mình bắt đầu mọi chuyện từ đầu. Chương 11, trang 528. Trích dẫn từ bản dịch của Trần Vân Anh, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn và Nhã Nam. Tôi và cô biết chính xác những gì mình cần ở người kia. Nhưng dù vậy, mối quan hệ vẫn kết thúc. Một ngày kia, nó dừng lại, đơn giản như cuộn phim bị trượt khỏi trục quay. Chương 3, trang 24. Nói cách khác, những gì chúng ta đang tìm kiếm là một kiểu bù đắp cho những gì bản thân phải chịu đựng. Chương 4, trang 32-33. Thế giới này đúng là có vô số phương pháp và phương tiện để tiêu phí thời gian. Chương 6, trang 46. Dù thích hay không, nó cũng là xã hội mà chúng ta đang sống. Thậm chí chuẩn mực đúng sai cũng bị phân hóa và làm cho trở nên phức tạp. Trong cái tốt, có cái tốt hợp thời và cái tốt không hợp thời, cũng tương tự như vậy cho cái xấu. Trong cái tốt hợp thời, lại có loại sang trọng, có loại bình thường, có loại tân thời, có loại sành điệu, có loại đúng mốt, có loại trưởng giả học làm sang. Nhào trộn chúng nhiều lần thành một mớ bùng nhùng. Chương 7, trang 84. Hãy dùng sức mạnh của suy nghĩ tích cực. Cho bản thân năm phút suy nghĩ nên làm thế nào để biến một tình huống chán chường trở nên có ích, và một ý nghĩ lóe lên trong đầu tôi. Chương 15, trang 165. Chú mặc kệ những điều người ta nói. Họ có bị làm thức ăn cho bò sát chú cũng không quan tâm. Chương 15, trang 169. Người ta yêu chẳng vì lí do gì, dẫu cho họ có không muốn thế. Cháu không thể đoán trước được đâu. Tình yêu là thế đấy. Khi nào cháu đến tuổi phải mặc áo ngực, cháu sẽ hiểu. Chương 25, trang 307. Bạn bè thì không cần người thứ ba xen vào. Tình bạn là một thứ tự nguyện. Chương 29, trang 361. Đôi lúc khi đi với cháu, chú nhớ lại những thứ mình đã đánh mất khi ở tuổi của cháu. Giống như chú nhớ đến tiếng mưa và mùi của gió vậy. Nhớ lại thời ấu thơ, thực sự là một món quà. Chương 33, trang 444. Xoàng xĩnh như một cái chấm trên áo sơ mi vậy - không bao giờ tẩy sạch được. Chương 34, trang 448. Đời bất công, đó là quy luật rồi. Chương 34, trang 448. Thay vì hối hận về những điều đã làm, lẽ ra cháu đã phải đối xử tử tế với chú ấy ngay từ đầu. Lẽ ra cháu nên thử tốt với chú ấy. Nhưng cháu đã không. Cháu thậm chí còn không có quyền hối hận nữa. Chương 34, trang 448. Theo thời gian, cháu sẽ hiểu. Cái gì kéo dài, sẽ kéo dài mãi, cái gì không, sẽ không. Thời gian giải quyết được gần như mọi thứ. Và những thứ thời gian không thể giải quyết được, cháu phải tự mình giải quyết. Chương 34, trang 450. Cuộc sống là một thứ mong manh hơn chúng ta tưởng. Vì vậy, cháu nên đối xử với mọi người sao cho sau này không phải nuối tiếc điều gì. Công bằng, và nếu có thể, hãy chân thành. Chương 34, trang 450. Những kẻ không có trí tưởng tượng luôn là những kẻ tự mỹ hóa mình nhanh nhất. Chương 34, trang 462. Thế giới này có vô số cách để chết, quá nhiều để có thể liệt kê hết. Những cái chết đáng đưa tin lại là ngoại lệ. Đa phần người ta chết mà chẳng được đoái hoài gì tới. Chương 36, trang 476. Thật là không may, đồng hồ vẫn tích tắc, từng giờ đang trôi đi. Quá khứ chồng chất, tương lai thu hẹp. Những cơ hội ít dần, nuối tiếc mỗi lúc một nhiều lên. Chương 36, trang 479. Các khả năng cũng giống bệnh ung thư. Tôi càng nghĩ về chúng, chúng càng nhân lên gấp bội, và chẳng có cách nào để ngăn lại cả. Chương 39, trang 515. Khi còn nhỏ, tôi có một quyển sách khoa học. Trong đó có chương nhan đề \"Điều gì sẽ xảy ra với thế giới nếu không có lực ma sát?\" Câu trả lời là:\"Mọi thứ trên Trái Đất sẽ bay lên không bởi lực ly tâm của chuyển động xoay tròn.\" Tâm trạng tôi lúc này cũng thế. Chương 40, trang 522.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Algiers", "role": "user" }, { "content": "Algiers (tiếng Ả Rập: الجزائر‎, chuyển tự tiếng Ả Rập chuẩn: Al Jaza'ir IPA: [ɛlʤɛˈzɛːʔir], tiếng Ả Rập Algérie: Dzayer ([dzæjer], Berber: , Ledzayer [ldzæjər], tiếng Pháp: Alger [ɑlʒe]) là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Algerie, là thành phố lớn thứ hai ở Maghreb (sau Casablanca). Theo điều tra dân số năm 2005, dân số thành phố ở là 1.519.570; còn dân số khu vực đô thị là 2.135.630; vùng đô thị là 3.518.083; và tính cho cả tỉnh Algiers là 5.723.749 (2006). Do đó, vùng đại đô thị Algiers là vùng đô thị lớn nhất Bắc Phi Algiers là một thành phố cảng bên vịnh Địa Trung Hải và có những người đầu tiên định cư cách đây 1000 năm. Nó là một thành phố lớn với dân số hơn 3 triệu dân. Trong khi trung tâm thành phố Algiers trông hiện đại, thủ đô này đang phải vật lộn để theo kịp với sự phát triển nhanh chóng. Mức sống cho hầu hết dân số của nó là rất kém. Algiers cũng đã bị hoen ố bởi bạo lực trong thập kỷ qua. Một cuộc nội chiến bắt đầu vào năm 1991 phá hủy phần lớn của đất nước. Trong thời gian gần đây mọi thứ đã lắng xuống, nhưng hai quả bom phát nổ tại thủ đô trong tháng 12 năm 2007. Các vụ đánh bom có liên quan đến al-Qaeda. Algiers được biết đến tại địa phương như El-Djazaïr và người dân nói Berber, tiếng Ả Rập và tiếng Pháp. Đi du lịch đến Algiers Algiers không phải là một điểm nóng du lịch và Bộ Ngoại giao Mỹ cảnh báo không nên đi du lịch đến một số phần của đất nước. Ở Algiers, hầu hết các điểm tham quan thú vị là trong phần cũ của thành phố được gọi là Casbah hoặc Medina. Các du khách đến Algiers ấn tượng với mọi người rất thân thiện và hiếu khách. Các tòa nhà kiểu Pháp, đi dạo dọc theo bờ biển và thực phẩm cũng nhận được đánh giá tốt. Sân bay Houari Boumediene (ICAO: DAAG, IATA: ALG) [1] có cự ly 20 km (12 mi) về phía đông nam Algiers: sân bay được đặt tên theo cựu Tổng thống Algeria Houari Boumediene. Sân bay là cơ sở nhà của hãng hàng không quốc gia Air Algerie. Air Algerie phục vụ phần lớn các thành phố quan trọng của Algeria (như Oran, Annaba, Tammanrasset, Skikda, Tlemcen, Constantine) nhiều lần chuyến mỗi ngày. Cũng có nhiều kết nối đến các thủ đô châu Phi như Bamako, Cairo, Abidjan, Dakar, Tunis, và Ouagadougo. Air Algerie hoạt động từ Sảnh 1 do Sảnh 2 2 được dành riêng cho các hãng hàng không quốc tế. Các hãng hàng không quốc tế Aigle Azur (Basel/Mulhouse, Lille, Lyon, Nice (seasonal), Paris-Charles de Gaulle, Paris-Orly, Toulouse) Air Berlin (Cologne-Bonn) Air France (Marseilles, Paris-Charles de Gaulle) Air Méditerranée (Montepellier) Alitalia (Milan-Malpensa, Rome-Fiumicino) British Airways (London-Gatwick) EgyptAir (Cairo) Iberia (Madrid) Jetairfly (Brussels, Seasonal) Libyan Airlines (Tripoli) Lufthansa (Frankfurt) Middle East Airlines (Beirut) Qatar Airways (Doha) Royal Air Maroc (Casablanca ,Oudja) Saudi Arabian Airlines (Jeddah) Spanair (Alicante , Barcelona, Valencia) Syrian Arab Airlines (Aleppo, Damascus) TAP Portugal (Lisbon) Tunisair (Tunis) Turkish Airlines (Istanbul-Atatürk)", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Thạch Lam", "role": "user" }, { "content": "Thạch Lam (1910-1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh, là một thành viên của Tự lực văn đoàn. Đối với tôi văn chương không phải đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên. Trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn. Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ cái tốt, để trong đời có nhiều công bằng và nhiều thương yêu hơn. Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lõi khắp hang cùng ngõ hẻm,tiềm tang ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát biểu cái đẹp ở chính chổ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức. Chỉ có những tác phẩm nào có nghệ thuật chắc chắn, trong đó nhà văn biết đi qua những phong trào nhất thời để suy xét đến tính tình bất diệt của loài người, chỉ những tác phẩm đó mới vững bền mãi mãi. Ngược lại những tác phẩm nào chỉ có cái sôi nổi một thời mà không có gì lâu bền sâu sắc, thì chỉ nổi tiếng một thời rồi sau đó chìm đắm vào sự quên, không ai nhắc đến nữa. ^ Gió đầu mùa ^ 2,0 2,1 2,2 Tiểu luận Theo dòng Bài viết bách khoa Thạch Lam tại Wikipedia", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Hộ chiếu", "role": "user" }, { "content": "Hộ chiếu (trước đây, còn được gọi là \"sổ thông hành\" ở Miền Nam Việt Nam) là một loại giấy tờ để nhận dạng cá nhân và quốc tịch của người giữ, khi sang quốc gia khác. Trước đây, tại hầu hết các quốc gia, hộ chiếu là một cuốn sổ nhỏ có nhiều trang để lưu những thị thực cho phép nhập cảnh. Ngày nay, có nhiều dạng hộ chiếu khác nhau, có thể chỉ là một tấm thẻ. Hộ chiếu phổ thông; đối tượng là mọi công dân Việt Nam. Cán bộ, công chức nhà nước, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp trong quân đội nhân dân và Công an nhân dân ra nước ngoài để thực hiện nhiệm vụ chính thức của cơ quan Nhà nước. Cán bộ từ cấp phòng trở lên và kế toán trưởng của các doanh nghiệp Nhà nước ra nước ngoài để thực hiện nhiệm vụ chính thức của doanh nghiệp. Cán bộ, công chức Nhà nước được cử ra nước ngoài để thực hiện nhiệm vụ chính thức thuộc phạm vi công tác của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cán bộ, công chức Nhà nước được cử ra nước ngoài để thtực hiện nhiệm vụ chính thức thuộc phạm vi công tác của các tổ chức chính trị - xã hội cấp Trung ương Hộ chiếu ngoại giao là một loại hộ chiếu. Đối tượng là những người giữ chức vụ cấp cao trong hệ thống cơ quan của Đảng và Nhà nước: Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND cấp tỉnh trở lên; Bộ trưởng, Thứ trưởng của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Linh Nga", "role": "user" }, { "content": "Linh Nga là một đạo diễn phim. Yêu là đau khổ. Thực sự nhất, người đàn ông đầu tiên của cuộc đời tôi. Con người cần phải được đau khổ, bởi càng đau khổ người ta càng hiểu được giá trị của hạnh phúc. Tha thứ là sự trả thù cao thượng nhất. Chậm rãi đi qua những khoảng tối của đời mình, tôi nhận ra, tôi gọi nó bằng cái tên: linh hồn bất tử, kẻ mà có thể tồn tại trước bất kỳ điều gì mà cuộc sống ném vào. Cuộc sống ngắn ngủi. Để thức dậy mỗi sớm mai, nhìn quanh và thấy không có gì phải hối tiếc. Mỗi ngày là một món quà tặng. Đừng bao giờ hờ hững với cuộc đời mình. Đừng bao giờ để cho sự cay đắng và tàn nhẫn của đời lấy đi những dịu ngọt và hạnh phúc của bản thân. ^ 1,0 1,1 1,2 \"Linh Nga: 'Con người cần phải được đau khổ'\", VnExpress, ngày 29 tháng 9 năm 2006 ^ Tiểu sử Ca sĩ Linh Nga, VnExpress", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Netanya", "role": "user" }, { "content": "Netanya (Hebrew: נְתַנְיָה, Tiếng Hebrew chuẩn Nətanya) là một thành phố ở Quận Trung của Israel và là thủ phủ của đồng bằng Sharon. Thành phố này nằm giữa suối 'Poleg' và Viện Wingate ở phía nam và suối 'Avichail' ở phía bắc. Thành phố có 14 km bờ biển, là nơi nghỉ mát ưa thích của du khách. Theo Cục thống kê Trung ương Israel, thành phố có dân số 173.300 người cuối năm 2006. Thị trưởng là Miriam Fireberg. Được thiết lập gần Poleg cổ đại, Netanya ban đầu là một phần của thành phố Palestine Tulkarem trước năm 1948, khi khu vực này được các nông dân người Palestine sử dụng, khu định cư Do Thái ở khu vực này đã bắt đầu vào năm 1928 với việc lập dựng các nông trại cam chanh. Có sự tranh cãi lớn về cách diễn giải giữa người Palestine và người Israel về việc vùng đất này có được bán (ban đầu bởi các chủ đất Ả Rập không phải là những người không lưu trú) trong thời kỳ Thống trị Anh. Do nằm cách thành phố Tulkarm của Palestine 14 km, Netanya phải chịu các cuộc tấn công khủng bố của Palestine nhằm vào công dân Israel, đáng chú ý là cuộc tấn công tháng 3 năm 2002 được gọi là Thảm sát lễ Hái quả. Netanya có bãi biển dài, là nơi có các dịch vụ nhà hàng khách sạn, nghỉ mát. Ngoài ra thành phố này còn có Khu bảo tồn thiên nhiên Poleg và Các công viên tự nhiên Irises Dora Rainpool. Công viên Irises là nơi trú ngụ của số lượng Iris atropurpurea lớn nhất thế giới. Tháng 3 năm 2006, trùm tư bản bất động sản Mỹ, Donald Trump đã thông báo kế hoạch xây một khách sạn mới ở Netanya. [1]", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Ghent", "role": "user" }, { "content": "Ghent ( tiếng Hà Lan: Gent, phát âm [ʝɛnt]; tiếng Pháp: Gand, pronounced: [ɡɑ̃]; tên cũ Gaunt trong tiếng Anh) là một thành phố của Bỉ. Đây là thủ phủ và là thành phố lớn nhất ở tỉnh Oost-Vlaanderen. Thành phố bắt đầu từ một khu định cư tại điểm hợp lưu của các sông Scheldt và Lys và trở thành một trong những thành phố lớn và giàu có nhất thời Trung cổ ở bắc Âu. Ngày nay, thành phố này có cảng và một trường đại học. Đô thị này bao gồm thành phố of Ghent và các thị xã Afsnee, Desteldonk, Drongen, Gentbrugge, Ledeberg, Mariakerke, Mendonk, Oostakker, Sint-Amandsberg, Sint-Denijs-Westrem, Sint-Kruis-Winkel, Wondelgem và Zwijnaarde. Dân số đầu năm 2008 là 237.250 người, Ghent là đô thị lớn thứ nhì ở Bỉ về dân số. Vùng đô thị, bao gồm các khu ngoại vi có diện tích 1.205 km2 và tổng dân số 594.582 người vào thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 2008, xếp thứ 4 ở Bỉ. Mỗi năm có một dịp lễ hội kéo dài 10 ngày tên là Gentse Feesten với 2 triệu khách tham quan tham gia.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Vantaa", "role": "user" }, { "content": "Vantaa (tiếng Phần Lan phát âm: [ʋɑntɑ ː]; tiếng Thụy Điển: Vanda) là một khu tự quản và thành phố ở Phần Lan. Helsinki, Vantaa, Espoo, và Kauniainen tạo thành vùng đô thị Helsinki. Vantaa, với dân số 200.410 người (ngày 31 tháng 1 năm 2011), là thành phố đông dân thứ tư của Phần Lan. Sân bay lớn nhất ở Phần Lan, sân bay Helsinki-Vantaa, nằm ​​ở Vantaa. Thành phố cũng tổ chức một trung tâm khoa học, Heureka. Thành phố này có 88,6% người Phần Lan và 3% người Thụy Điển. Dân của Vantaa nói một ngôn ngữ bản địa khác tiếng Phần Lan hoặc tiếng Thụy Điển ở mức 8,4% dân số. Vantaa có diện tích 240,34 km2, trong đó có 1,97 km2 (0,76 sq mi) là mặt nước. Mật độ dân số là 840,75 người / km2. Thành phố giáp thủ đô Helsinki về phía nam và tây nam. Thành phố lân cận khác Espoo phía tây, Nurmijärvi, Kerava và Tuusula ở phía bắc và Sipoo phía đông. Có thể đến Vantaa bằng đường hàng không, do sân bay Helsinki nằm ở Vantaa. Hơn nữa chung hàng không sân bay Malmi Helsinki nằm ở phía bắc Helsinki. Đường sắt phía bắc chủ yếu từ Helsinki Vantaa đi qua. Ngoài một số nhà ga xe lửa địa phương, tất cả các chuyến tàu đường dài ở phía bắc và phía đông, bao gồm cả những tàu đi Nga dừng lại ở ga Tikkurila. Nếu bạn đang đi đến các khu vực phía tây của Vantaa, bạn có thể đi theo tuyến xe lửa địa phương Vantaanlaakso. Xa lộ 3, 4, 45 và 7 trong số Helsinki Vantaa và đi qua con đường đông tây chính là đường vành đai thứ ba (Kehä III). Đường vành đai đầu tiên (Kehä tôi) là con đường đông tây chính ở miền bắc Helsinki. Vào buổi sáng và buổi chiều vội vã giờ giao thông thường đi kèm với một bế tắc trên các tuyến đường này. Từ Helsinki nhiều xe buýt địa phương đi đến Vantaa, và có một số đường dây trực tiếp từ Espoo quá. Helsinki khu vực nhà chức trách của giao thông Journey Planner là một công cụ tuyệt vời để tìm ra xe buýt bạn nên đi từ một địa chỉ khác. Một số thành phố lớn ở miền nam Phần Lan cũng có một kết nối trực tiếp đến sân bay Helsinki.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Lugo", "role": "user" }, { "content": "Lugo là một đô thị và thành phố thuộc tỉnh Lugo trong vùng Galicia, phía bắc Tây Ban Nha. Đô thị này có diện tích là 332 ki-lô-mét vuông, dân số năm 2009 là 96.678 người với mật độ 291,2 người/km2. Đây là tỉnh lỵ tỉnh Lugo. Thành phố có cự ly 101 km so với Santiago de Compostela và 510 km so với Madrid. Lugo là thành phố duy nhất trên thế giới được bao quanh bởi một bức tường La Mã hoàn toàn nguyên vẹn, đã đạt tới độ cao 10 đến 15 mét (33 đến 49 ft) cùng với một chu vi 2117 mét (6946 ft) bao quanh với 71 ngọn tháp. Việc đi bộ dọc trên đầu là liên tục quanh các trên vòng thành, và có 10 cổng. Những bức tường thế kỷ thứ 3 được đưa vào di sản thế giới UNESCO. Cây cây cầu bắc qua các Minho cơ bản được xây thời La Mã, mặc dù sửa chữa nhiều qua nhiều thế kỷ đã làm lu mờ đặc điểm La Mã của nó. Thành phố nằm trên một ngọn đồi được bao quanh bởi các con sông Minho, Rato và Chanca. Sự khác biệt về độ cao giữa trung tâm thành phố và bờ sông là đáng kể, trong khi ở trung tâm của độ cao 465 mét so với mực nước biển, ở đỉnh cao của sông Minho cao 364 mét so với mực nước biển. Đô thị tự quản Lugo là đô thị tự quản lớn thứ hai ở Galicia, với 329,78 km 2 và 59 giáo xứ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Sudan", "role": "user" }, { "content": "Sudan[1] là một quốc gia ở Châu Phi. Quốc gia này nằm ở điểm giao giữa Sừng Châu Phi và Trung Đông. Sudan tiếp giáp với Ai Cập ở phía Bắc, Biển Đỏ ở phía Đông Bắc, Eritrea và Ethiopia ở phía Đông, Cộng hòa Dân chủ Congo và Cộng hòa Trung Phi ở phía Tây Nam, Tchad ở phía Tây và Libya ở phía Tây Bắc, Nam Sudan ở phía nam. Sudan có diện tích lớn thứ 16 trên thế giới. Sudan bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến tranh dân sự hoành hành, bùng phát và ngưng, trong hơn 40 năm. Khi các nhà bản đồ thuộc địa phân chia Châu Phi, họ đã đưa vào Sudan những người Hồi giáo ở miền Bắc (bao gồm cả Nubia và người Ả Rập), những người có chung nhiều lịch sử và văn hóa của họ với người Ai Cập, và người Kitô hữu chủ yếu và Animist Bantu người của miền Nam, những người có nhiều điểm chung với phần còn lại của Châu Phi cận Sahara hơn với dân gian miền quê phía bắc của họ. Sau nhiều thập kỷ nội chiến và một giai đoạn chuyển tiếp của tự trị, Nam Sudan độc lập vào tháng Bảy năm 2011. Các cuộc xung đột vẫn còn nán lại ở khu vực phía tây của Darfur, và các điểm nóng nào xảy ra trên mặt trận phía Đông, gần biên giới với Eritrea. Kể từ năm 1989, Xu-đăng đã được dưới sự cai trị độc tài của Omar Hassan Al-Bashir. Sudan có như địa lý đa dạng như nền văn hóa của mình, ở phía bắc, sông Nin cắt ngang qua rìa phía đông của sa mạc Sahara: sa mạc Nubian, địa điểm của các vương quốc cổ đại Cu-sơ và Meroe, và đất của Seti. Ở đây, một số nông nghiệp khiêm tốn, bổ sung chăn nuôi cây trồng chủ yếu của lòng bàn tay ngày. Đông và Tây là khu vực miền núi, và nhiều phần còn lại của đất nước bao gồm thảo nguyên điển hình của nhiều trung tâm tiểu vùng Sahara Châu Phi. Khartoum — the national capital, which also consists of Omdurman and Khartoum North (Bahri) Al Ubayyid Gedaref capital of Gedaref state Kassala Meroe Nyala — capital of Darfur Port Sudan — Sudan's main Red Sea port Visa du lịch Sudan là tốn kém và khó khăn để có được đối với công dân một số quốc gia cho những người có con dấu của Israel trong hộ chiếu của họ. Chúng tôi khuyên bạn nên xin visa Sudan ở nước bạn nếu có thể. Từ Ai Cập: Cairo là một trong những nơi dễ nhất để có được visa (thường là một vài giờ sau nộp đơn), mặc dù cho công dân rất nhiều quốc tịch chi phí là 100 USD (có thể thanh toán bằng bảng Ai Cập). Bạn sẽ gần như chắc chắn cần phải có một thư mời / giới thiệu từ Đại sứ quán của bạn, và thời gian để có thư này có khác nhau ở các đại sứ quán. Đại sứ quán Anh phí thu 450 bảng Ai Cập (£45) cho công dân của họ. Lưu ý rằng Đại sứ quán Canada không cấp những lá thư này, nhưng mà đại sứ quán Sudan tại Cairo sẽ cung cấp cho thị thực cho công dân Canada mà không có thư. Điều này sẽ tạo ra các vấn đề trong Sudan khi cố gắng để có được giấy phép hoặc gia hạn thị thực, do visa chỉ có thể có được khi có một bức thư từ Đại sứ quán Canada ở Khartoum mà thời điểm này Đại sứ quán sẽ không cung cấp. Có thể để có được một tài trợ cho visa của Đại sứ quán Cairo và bỏ qua các thư từ đại sứ quán của mình, mặc dù điều này phụ thuộc vào người bạn đang làm việc tại Đại sứ quán. Từ Ethiopia - nhận được một thị thực của Đại sứ quán Sudan tại Addis Ababa là cực kỳ khó lường, mặc dù giá là rẻ hơn (khoảng 60 USD). Đầu tiên phải gửi tên của bạn đến Khartoum chỉ đơn thuần để chấp thuận. Một quan chức đã tuyên bố, \"Có thể mất hai tuần, có thể mất hai tháng.\" Một khi tên của bạn đã được chấp thuận, thị thực chỉ mất một vài ngày. Thời gian chờ tối thiểu là hai tuần để được phê duyệt. Nếu chuyến đi của bạn tiếp tục, từ Sudan tới Ai Cập và bạn đã có visa Ai Cập của bạn, bạn có thể nhận được một thị thực quá cảnh một tuần cho Sudan trong chỉ một ngày, có thể được mở rộng ở Khartoum (với chi phí quá đắt). Đại sứ quán Anh tại Addis Ababa thu phí 740 birr (hơn £ 40) cho thư mời của họ / giới thiệu. Từ Kenya - đơn xin thị thực được cung cấp 10:00-12:00 và visa nhận được ngày hôm sau 15:00-15:30. Chi phí là 5.000 shilling Kenya (50 USD). Thư hỗ trợ cho xin visa có thể được lấy từ của Đại sứ quán (ví dụ như Đại sứ quán Anh, chi phí 8.200 shilling Kenya, thời gian quay vòng phụ thuộc vào sự sẵn có của Lãnh sự có nhu cầu để ký thư). Đại sứ quán Sudan nằm ở đường Kabarnet, ngoài đường Ngong. Không phải là không có trường hợp phài chờ đợi làm thủ tục hải quan lâu hàng giờ. Rượu bị cấm ở Sudan, và cố gắng nhập khẩu nó có thể mang rượu vào có thể khiến bạn chịu hình phạt nghiêm khắc. Sân bay Khartoum (KRT) là cửa ngõ chính vào Sudan bằng đường hàng không. Ngoài ra còn có một số chuyến bay quốc tế mà sử dụng sân bay Port Sudan. Sân bay Khartoum có các hãng hàng không Châu Phi Châu Âu, Trung Đông hoạt động. Trong số các thành phố với các liên kết trực tiếp với không khí Khartoum là Abu Dhabi (Etihad, Sudan Airways), Addis Ababa (Hãng hàng không Ethiopia), Amman (Royal Jordanian, Sudan Airways), Amsterdam (KLM Royal Dutch Airlines), Bahrain (Gulf Air), Cairo (EgyptAir, Sudan Airways, Ethiopian Airlines, Kenya Airways), Damascus (Syria Airlines, Sudan Airways), Doha (Qatar Airways), Dubai (Emirates, Sudan Airways), Frankfurt (Lufthansa), Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ Airlines), London (British Airways, Midlands của Anh, Sudan Airways) và Nairobi (Kenya Airways, Sudan Airways), Sharjah (Air Arabia là hãng hàng không chi phí thấp) Sân bay Port Sudan phục vụ các chuyến bay đến Jeddah, Saudi Arabia và Cairo. Các chuyến bay thường bắt đầu / kết thúc tại Khartoum. Sân bay được phục vụ bằng xe tắc xi vàng đổ nát mà thường xuyên sẽ nâng giá. Hoặc bạn có thể đặt xe taxi với một công ty taxi Khartoum gọi LimoTrip sử dụng taxi có đồng hồ đo và xe tốt ở mức giá tốt hơn - 00249 183 591 313 hoặc info@limotrip.net.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Sách Tục Ngữ", "role": "user" }, { "content": "Sách Tục Ngữ (Hebrew: מִשְלֵי, Míshlê, \"các câu tục ngữ\") là một cuốn sách của Kinh thánh Hebrew. 1 · 2 · 3 · 4 · 6 · 8 · 9 · 10 · 11 · 12 · 13 · 14 · 15 · 16 · 17 · 20 · 21 · 22 · 23 · 24 · 25 · 26 · 28 · 31 Các câu tục ngữ của Solomon, con trai David, vua Israel; Để biết sự khôn ngoan và lời chỉ bảo; để nhận ra những lời dạy của sự hiểu biết; Nhận được lời hướng dẫn của trí tuệ, công lý, và sự phán quyết, và sự công bình; Để ban trí tuệ khôn ngoan cho người đơn giản, để ban cho các thanh thiếu niên sự hiểu biết và khả năng nhận thức. 1:1-4, Phiên bản Vua James Kính sợ Thiên Chúa là khởi đầu của tri thức, chỉ có kẻ ngu si dại dột mới khinh bỉ sự khôn ngoan và lời khuyên dạy. 1:7, Phiên bản Vua James Con trai của ta, nếu những kẻ tội lỗi rủ rê lôi kéo dụ dỗ con, thì không đồng ý. 1:10, Phiên bản Vua James Đó là con đường của tất cả những kẻ tham lợi phi nghĩa; Sự cướp bóc sẽ tước đoạt linh hồn của kẻ có nó. 1:19, New Vietnamese Bible (NVB) Cho đến bao lâu, hỡi những người đầu óc đơn giản, vẫn còn yêu quý sự ngây thơ? và những kẻ ưa nhạo báng thì vui sướng trong sự khinh miệt của họ, và người ngu si đần độn thì thù ghét trí thức? 1:22, Phiên bản Vua James Vậy con hãy bước đi trong đường người lương thiện; Giữ chân con theo lối người ngay lành. Vì người ngay thẳng sẽ được an cư trên đất; Người trọn lành sẽ sống trong đó luôn luôn; Nhưng phường gian ác sẽ bị dứt lìa khỏi đất, Bọn bất trung sẽ bị nhổ bật gốc khỏi loài người. 2:20-22, Bản Dịch 2011 (BD2011) Đừng để lòng thương xót và sự thật bỏ quên bạn: hãy buộc họ vào cổ; khắc ghi họ lên trái tim của bạn. 3:3, Phiên bản Vua James Hãy tin cậy hết lòng vào Thiên Chúa và đừng dựa dẫm ỷ lại vào sự hiểu biết của chính bản thân bạn. 3:5, Phiên bản tân quốc tế Đừng khôn ngoan trong đôi mắt của chính mình. 3:7, Phiên bản Vua James Phước cho người nào tìm được sự khôn ngoan, và nhận được sự sáng suốt. Vì giá trị của nó quý hơn bạc; Lợi ích từ nó tốt hơn vàng. Sự khôn ngoan quý hơn hồng ngọc; Tất cả mọi vật con ao ước đều không thể sánh được. 3:13-15, New Vietnamese Bible (NVB) Chớ ganh tị với người hung dữ, cũng đừng chọn đường lối nào của nó. 3:31, New Vietnamese Bible (NVB) Đừng bỏ quên sự khôn ngoan, và nàng sẽ bảo vệ bạn; yêu cô ấy, và cô ấy sẽ canh chừng bạn. 4:6, New International Version Sự khôn ngoan vô cùng quan trọng; cho nên hãy cố gắng có được sự khôn ngoan. Dù tốn kém bao nhiêu cũng hãy ráng tìm được sự thông hiểu. 4:7, Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT) Trên hết mọi sự, hãy gìn giữ tấm lòng của con, vì các nguồn sự sống xuất phát từ đó. 4:23, New Vietnamese Bible (NVB) Hỡi kẻ biếng nhác, hãy đi đến loài kiến; Khá xem xét cách ăn ở nó mà học khôn ngoan. Tuy nó không có hoặc quan tướng, Hay quan cai đốc, hay là quan trấn, Thì nó cũng biết sắm sửa lương phạn mình trong lúc mùa hè, Và thâu trử vật thực nó trong khi mùa gặt. 6:6-8, 1934 Vietnamese Bible (VIET) אַל-תּוֹכַח לֵץ פֶּן-יִשְׂנָאֶךָּ הוֹכַח לְחָכָם וְיֶאֱהָבֶךָּ Chớ chống lại kẻ khét tiếng hay nhạo báng, kẻo nó thù ghét con; Hãy quở trách người khôn ngoan, và nó sẽ yêu quý con. 9:8, Phiên bản Vua James Nơi có nhiều cuộc nói chuyện sẽ không có kết thúc đến tội lỗi, nhưng người giữ miệng đóng thì khôn ngoan. 10:19, Kinh Thánh bằng tiếng Anh cơ bản Thiên Chúa không thích những kẻ cân đo giả dối xạo xự, nhưng người cân lường đo đạc chính xác thì làm Ngài hài lòng. 11:1, Phiên bản quốc tế mới Ai yêu sự sửa chữa thì yêu sự hiểu biết: nhưng ai ghét lời la mắng thì ngu si khờ khạo. 12:1, Kinh thánh Douay Rheims Người nhân ái lo cho súc vật của mình được no ấm; Kẻ ác tâm dù tỏ vẻ xót thương vẫn không giấu được tính bạo tàn. 12:10, Bản Dịch 2011 (BD2011) Những cái môi nói lời những lời dối trá gian xảo là điều ghê tởm đối với Thiên Chúa, nhưng những người thật thà ăn ở chân thành làm Ngài vui sướng. 12:22, Phiên bản Vua James Ai canh giữ môi mình thì bảo vệ sự sống của mình, nhưng người ăn nói khinh suất sẽ bị hủy diệt. 13:3, Phiên bản quốc tế mới Kẻ lười biếng mong mỏi nhiều mà chẳng được gì, nhưng sự ao ước của người siêng năng sẽ được thoả mãn. 13:4, Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT) Lời dạy của người khôn ngoan là nguồn suối của sự sống, giải cứu đàn ông thoát khỏi mạng lưới của sự chết. 13:14, Kinh Thánh bằng tiếng Anh căn bản", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Hạnh phúc", "role": "user" }, { "content": "Ai nói là cuộc đời là một tập hợp của những bất hạnh có nghĩa là chính cuộc đời là sự bất hạnh. Nếu sự sống là bất hạnh vậy thì cái chết là hạnh phúc. Giovanni Casanova Bản thân của cuộc sống chính là hạnh phúc. Cuộc sống không chỉ để sống mà là để sống có hạnh phúc. Cuộc sống hạnh phúc tồn tại trong sự yên tĩnh tâm tư. Người là thợ thủ công của hạnh phúc, của chính bản thân mình. Quả thật có hạnh phúc hay không tuyệt nhiên không phải do thiên tính mà là quyết định ở thói quen. Hạnh phúc không thể thập toàn thập mỹ. La Mã Hạnh phúc đúng là món quà của thượng đế. Aristotle Hạnh phúc là trạng thái thường trực hình như không làm ra cho con người ở dưới này. Jean-Jacques Rousseau Hạnh phúc không có bảng hiệu bên ngoài: muốn biết nó, phải đọc trong tim của người hạnh phúc. Jean-Jacques Rousseau Hạnh phúc là sự vui thú mà người ta không chờ. Hakim Mazouni Hạnh phúc là trạng thái của ý thức bắt nguồn từ sự thực hiện được các giá trị của chính mình. Ayn Rand Hạnh phúc và cái đẹp chỉ là những sản phẩm phụ. Con người trong sự sáng tạo sẽ tìm hạnh phúc chân chính. Khi tự cho mình hạnh phúc thì mới có thể có hạnh phúc. Một người khi bị mất hạnh phúc mới hiểu giá trị của nó. Hướng nội, độ lượng nhân hậu và vô tư là ba yếu tố lớn của hạnh phúc. Ngạn ngữ Anh Hạnh phúc cho mai sau không có. Hạnh phúc là hoặc là ngay tức khắc hoặc là không bao giờ. René Barjavel Kẻ thù tệ nhất là hạnh phúc dài hạn. Tục ngữ Israel Người hạnh phúc mong mọi người hạnh phúc. Khi ta càng nhận hưởng thụ, hạnh phúc càng vĩnh viễn xa rời ta. Hạnh phúc duy nhất lâu bền là lòng kiên nhẫn, nhiệt tình theo đuổi chân lý.Hạnh phúc luôn ở nơi ta có thể đạt tới được. Ta chỉ cần thò tay ra sẽ bắt được nó. Ngạn ngữ Pháp Wikipedia có bài viết về: Hạnh phúc", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Khu bảo tồn Tsingy de Bemaraha", "role": "user" }, { "content": "Khu bảo tồn thiên nhiên Tsingy de Bemaraha là một bảo khu bảo tồn thiên nhiên nằm gần bờ biển phía tây của Madagascar, trong khu vực Melaky ở 18 ° 40'Nam 44 ° 45'Đông. Khu bảo tồn này đã được công nhận là một Di sản Thế giới UNESCO vào năm 1990 do sự độc đáo của địa hình địa lý tại đây, cùng hệ thiên nhiên với những khu rừng ngập mặn với các loài chim hoang dã và vượn cáo. Khu vực tận cùng phía nam của khu vực sau đó đã được thay đổi thành Vườn quốc gia Tsingy de Bemaraha, bao gồm 666 km2 (257 sq mi). Phía bắc của khu vực được bảo vệ như là một khu bảo tồn nghiêm ngặt, bao gồm 853 km2 (329 sq mi).", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Vườn quốc gia Cúc Phương", "role": "user" }, { "content": "Vườn Quốc gia Cúc Phương (hay rừng Cúc Phương) là một khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng đặc dụng nằm trên địa phận ranh giới 3 khu vực Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ thuộc ba tỉnh: Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa. Vườn quốc gia này có hệ động thực vật phong phú đa dạng mang đặc trưng rừng mưa nhiệt đới. Đây là vườn quốc gia đầu tiên tại Việt Nam. Là một địa điểm khảo cổ có các di vật của người tiền sử có niên đại khoảng 12.000 năm đã được phát hiện như mồ mả, rìu đá, mũi tên đá, dao bằng vỏ sò, dụng cụ xay nghiền ... trong một số hang động ở đây chứng tỏ con người đã từng sinh sống tại khu vực này từ 7.000 đến 12.000 năm trước. Cúc Phương nằm ở phía đông nam của dãy núi Tam Điệp, một dãy núi đá vôi chạy từ tỉnh Sơn La ở hướng tây bắc. Dải núi đá vôi này với ưu thế là kiểu karst tự nhiên, hình thành trong lòng đại dương cách đây khoảng 200 triệu năm. Mát mẻ Từ Hà Nội: Du khách có thể đến Cúc Phương từ trạm xe buýt Giáp Bat nằm ở phía nam thành phố. Đón buýt đến Nho Quan, một địa điểm gần vườn quốc gia này. Tại trạm Giáp Bát, có nhiều chuyến buýt vào buổi sáng và trưa với giá khoảng 50.000 đồng. Từ Nho Quan bạn có thể đón xe ôm đến nhà điều hành vườn quốc gia với khoảng 40.000 đồng. Tổng thời gian đi khoảng 2 đến 3 tiếng rưỡi. Cách khác là bạn có thể đặt vé tham quan với các đại lý du lịch ở Hà Nội để đến Cúc Phương. Từ thành phố Ninh Bình: Đón xe ôm đến vườn Cúc Phương với giá khoảng 100.00 đồng và thuê xe giá khoảng 300.000 đến 400.000 đồng. Phương tiện cá nhân Từ Hà Nội, đi theo quốc lộ 1A đi về phía Ninh Bình, đến ngã ba Gián Khẩu (cách thành phố Ninh Bình 10 km) rẽ phải theo quốc lộ 12A, đi qua thị trấn Nho Quan 2 km rồi rẽ trái vào Cúc Phương. Vé vào cổng được bán tại cổng vào khu vực tham quan. Khu cổng Vườn: Cho thuê các trang thiết bị phục vụ đi rừng, xe đạp địa hình, thuê phương tiện vận chuyển, giặt là. Vườn thực vật Cúc Phương Trung tâm du khách Cúc Phương Trung tâm cứu hộ thú Linh Trưởng Cúc Phương Động Người Xưa: là một di tích cư trú và mộ táng của người tiền sử, là trang văn hoá độc đáo trong lịch sử phát triển của nhân loại và là một di sản quý giá nằm trong đối tượng bảo vệ của rừng Cúc Phương. Hang Con Moong: khu vực có hệ động vật, thực vật phong phú, đa dạng vì vậy đã được người cổ chọn làm nơi cư trú lâu dài. Các cây cổ thụ đặc trưng Bản người Mường Đỉnh mây bạc Hồ Yên Quang Động Phò Mã Trong khuôn viên vườn có dịch vụ phòng nghỉ, Giá từ 180.000đồng/phòng - 250.000đồng/phòng.khách sạn Tam Cốc - Bích Động Chùa Bái Đính Hà Nội Vịnh Hạ Long", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Adi Quala", "role": "user" }, { "content": "Adi Quala hay Adi Kwala (tiếng Tigrinya: ዓዲ ዃላ) là một thị trấn thương mại nhỏ ở Trung Eritrea. Adi Quala nằm cách thủ phủ vùng Mendefera khoảng 32 km về phía nam, cách biên giới với Ethiopia gần 25 km. Độ cao trung bình của thị trấn là hơn 2.000 m so với mực nước biển. Nơi này có khoảng 30.000 cư dân, hầu hết là người Tigrinya và theo đạo Thiên Chúa. Adi Quala có khí hậu cao nguyên cận nhiệt đới với biên độ nhiệt thấp trong suốt cả năm. 14.630896860514813Bến xe Adi Quala1 Bến xe Adi Quala. Một chuyến xe từ thị trấn Mendefera đến đây sẽ đi qua tuyến quốc lộ P-4 và mất khoảng 25 phút. Adi Quala là một địa điểm tốt để khám phá những công trình tôn giáo cổ xưa. 14.635460765669377Nhà thờ Công giáo thánh Mary1 Nhà thờ Công giáo thánh Mary (cách trạm xăng Total Debesay Kassa khoảng 166 m dọc theo tuyến cao tốc chính). Có nhiều bức bích họa. 14.637995682145405Nhà thờ Abune Aregawi2 Nhà thờ Abune Aregawi. Một nhà thờ Chính Thống giáo. 14.633408304179055Nhà thờ Hồi giáo Adi Quala3 Nhà thờ Hồi giáo Adi Quala (مسجد عدي كوالا) (nằm gần nhà hàng Enda Forno). 14.645229872504222Nghĩa trang Đồng chí4 Nghĩa trang Đồng chí (cách đó 2,5 km về phía đông bắc). Tưởng niệm những binh sĩ đã hy sinh trong các trận chiến Adwa và Gundet. 14.633177715191673Menafesha1 Menafesha (nằm ở góc đông bắc của sân bóng đá). Công viên chính của thị trấn, nơi mọi người thích đi dạo vào lúc hoàng hôn. 14.632321395865771Sân bóng đá Adi Quala2 Sân bóng đá Adi Quala (cách bến xe buýt gần 400 m về phía đông bắc). 14.63161985613406Khu chợ chính1 Khu chợ chính (nằm gần bến xe buýt). Khu chợ có quy mô trung bình và được tổ chức vào thứ 2 hàng tuần. Nơi này bán nhiều mặt hàng khác nhau như hoa quả, rau củ, đồ gia dụng, giày dép, quần áo. 14.631967597742722Cửa hàng tổng hợp Megdi Adi Hala2 Cửa hàng tổng hợp Megdi Adi Hala (መገዲ ዓዲ ኻላ) (nằm rất gần sân bóng đá). 14.634317264086564Cửa hàng Enda Sharela3 Cửa hàng Enda Sharela (nằm ven đường cao tốc). 14.635047420172297Cửa hàng Viễn thông Adi Quala4 Cửa hàng Viễn thông Adi Quala (የቴሌኮሙኒኬሽን መደብር አዲ ኳላ). Chuyên bán đồ điện tử. 14.613203218689986Cửa hàng Mai Mechekat5 Cửa hàng Mai Mechekat (cách đó 3 km về phía đông nam). 14.634015109246793Nhà hàng Enda Forno1 Nhà hàng Enda Forno (cách cửa hàng viễn thông gần 300 m). Phục vụ nhiều loại bánh truyền thống của người dân địa phương. 14.6347387Nhà hàng Adarash Adi Begio2 Nhà hàng Adarash Adi Begio (ኣዳራሽ ዓዲ በጊዖ) (nằm ở phía đông nam của cửa hàng viễn thông). 14.634734936408456Quán bar Sami1 Quán bar Sami. Chỉ mở cửa vào thứ 5 và thứ 6, đóng cửa trong các ngày còn lại. Đây là quán bar duy nhất trong thị trấn. Adi Quala có một vài khách sạn nhỏ. Chúng thường khá cũ kỹ, mở cửa vào mùa hè và mang nét kiến trúc của Ý. Nếu bạn không muốn ngủ trong khách sạn, cắm trại trong các hẻm núi xung quanh thị trấn cũng là một lựa chọn. Tuy nhiên, hãy đề phòng với những cơn bão cát lớn. 14.636826873991861Bệnh viện Adi Quala1 Bệnh viện Adi Quala (nằm ở phía đông thị trấn). Đây là cơ sở y tế duy nhất tại Adi Quala với khuôn viên khá rộng rãi. Mendefera, trung tâm hành chính của vùng Debub. Đây là một thị trấn có lịch sử lâu đời. Nước láng giềng Ethiopia cách đó 25 km về phía nam. Segeneiti, nằm trên tuyến đường giữa Asmara và Senafe.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Dexter và giấc mơ hắc ám", "role": "user" }, { "content": "Dexter và giấc mơ hắc ám là tiểu thuyết trinh thám kinh dị xuất bản vào năm 2004 của nhà văn Jeff Lindsay. Tôi là một con quái vật rất gọn ghẽ, sạch sẽ. Chương 1, trang 22. Giết chóc đem đến cho tôi sự khoan khoái. Chương 2, trang 24. Cho dù thứ gì đã tạo nên tôi đi nữa, nó đã để lại tôi trống rỗng, hổng toác bên trong, không còn khả năng cảm nhận. Điều đó xem chừng cũng không có gì ghê gớm lắm. Tôi dám chắc phần lớn con người ta phải giả bộ không ít trong những mối quan hệ hằng ngày. Còn tôi giả bộ tất cả. Tôi giả bộ rất giỏi, cảm xúc chưa bao giờ hiện diện. Chương 2, trang 26. Mọi thành phố lớn đều có một khu vực như nơi này. Nếu một gã lùn lở loét tàn tạ mang trên mình bệnh hủi giai đoạn cuối muốn làm tình với một ả chân dài và một cô bé tuổi vị thành niên, hắn sẽ tìm đến nơi này và thuê một căn phòng. Sau khi đã thỏa mãn, hắn có thể kéo cả đám em út sang bên cạnh thưởng thức một tách cà phê Cuba và một chiếc sandwich Medianoche. Chẳng ai buồn bận tâm, chừng nào hắn trả tiền. Chương 2, trang 29. Tôi nghĩ chính vì thê tối thích anh ta. Một anh chàng nữa cũng đang giả bộ có nhân tính, giống như tôi vậy. Chương 2, trang 35. Những kẻ kém cỏi vẫn thường được tưởng thưởng. Chương 3, trang 44. Bất cứ ai cũng đều có khả năng trở nên hấp dẫn nếu họ không ngại giả vờ, nói ra tất cả những lời lẽ ngớ ngẩn, hời hợt, lộn mửa mà lương tâm năn không cho phần lớn mọi người thốt ra. Thật hạnh phúc làm sao, tôi chẳng hề có lương tâm. Vậy là tôi nói. Chương 3, trang 44. Tôi, cảm nhận. Một khái niệm mới hay làm sao. Chương 4, trang 54 Bố nghĩ người ta hiểu mọi thứ khác đi khi về già. Đây không phải là chuyện trở nên mềm yếu, hay nhìn nhận sự vật theo gam màu xám thay vì đen và trắng. Bố thực sự tin mình chỉ hiểu mọi thứ khác đi. Tốt hơn. Chương 4, trang 64. Tôi là một kẻ không biết yêu. Tôi đã cố gắng hòa nhập bản thân với những người khác, trong những mối quan hệ, thậm chí - trong những khoảnh khắc ngớ ngẩn nhất của chính mình - cả trong tình yêu. Nhưng vô ích. Có thứ gì đó trong tôi đã đổ vỡ hoặc bị thiếu và sớm muộn gì người khác cũng sẽ bắt gặp tôi hành động, hoặc một trong những đêm đó lại tới. Chương 5, trang 74. Tôi ngó vào trong cái túi giấy màu trắng. Chẳng còn lại gì bên trong. Giống như tôi: một bề ngoài sạch sẽ, nhăn nhúm và chẳng có gì bên trong cả. Chương 5, trang 78. Tôi đã nói là tưởng tượng phải không nhỉ? Đám đàn ông của nhân loại không giống như thế. Chương 6, trang 83. Tôi thích thú quan sát những gã ngu ngốc tốt mã nhìn ngó nhau. Một môn thể thao thị giác tuyệt vời. Chương 6, trang 89. Mọi thứ đều thực sự có hai mặt, mặt mà tất cả chúng ta đều tin chính là thứ đó và mặt thực sự của nó. Chương 6, trang 94. Có lẽ vì tôi sẽ không bao giờ là một con người đúng nghĩa, loài người làm tôi quan tâm. Chương 7, trang 98. Tôi rất giỏi tỏng việc trở nên hấp dẫn một trong vài thú vui phù phiếm của tôi. Chương 10, trang 141. Sau một hồi lâu, tôi đóng cửa ngăn lạnh lại. Tôi muốn nằm xuống và áp má lên lần vải sơn mát rượi. Thay vì thế, tôi đưa ngón út ra gạt đầu Barbie. Nó đung đưa, đập cạch cạch vào cửa tủ. Tôi lại gạt lần nữa. Cạch cạch. Ái chà. Tôi đã có thêm một thú vui mới. Chương 13, trang 180. Tại sao lại có quá nhiều người bắt đầu tin nhắn bằng \"anh đây\" hay \"em đây\" đến vậy chứ? Tất nhiên là các người rồi. Chúng ta ai chả biết thế. Nhưng các người là ai mới được chứ? Chương 13, trang 185. Tôi đã giết chết mối quan hệ được giữ gìn cẩn thận giữa hai chúng tôi bằng cách đâm xuyên lưỡi mình qua tim nó và hất xuống vách núi. Chương 13, trang 187. Lại một giấc mơ khác. Một cuộc gọi đường dài nữa theo đường dây ma quái của tôi. Chẳng lạ khi tôi đã cương quyết từ chối có những giấc mơ trong phần lớn cuộc đời mình. Thật ngu ngốc, những thứ biểu tượng quá hiển nhiên, vô nghĩa. Một mớ hỗn độn của lo lắng không thể kiểm soát được, một thứ vớ vẩn rành rành thật đáng ghét. Chương 15, trang 219. Thật thế, giờ hãy thử nghĩ xem: Nếu các vị không thể mang báo đến cho tôi đúng giờ, làm thế nào các vị có thể trông đợi tôi kiềm chế không giết người? Chương 17, trang 236. Thêm một ngày Miami tuyệt đẹp nữa. Những xác chết bị chặt thành từng khúc cùng cơ hội được tắm mưa vào buổi chiều. Tôi mặc quần áo vào rồi đi làm. Chương 17, trang 239. Tôi vẫn luôn nghĩ đạo đức thật vô nghĩa. Chương 17, trang 243. Yêu cầu duy nhất của cuộc sống là cần phải có mối quan tâm. Chương 18, trang 249. Nhưng tôi có thể làm gì đây? Tỏ ra ngu ngốc một thời gian chăng? Tôi không dám chắc mình biết cách làm như thế nào, thậm chí ngay cả sau bao nhiêu năm cẩn thận quan sát. Chương 18, trang 250. Liệu có phải sự điên rồ thật sự dễ chấp nhận hơn vô thức. Chương 19, trang 268. Tôi không thích cảm giác khi mang trong mình những cảm giác. Chương 19, trang 270. Màn sắp đặt khiến tôi phải mất một khoảnh khắc suy nghĩ. Tôi chớp mắt, rồi đột nhiên nó xuất hiện trong tầm chú ý, tôi phải cau mày hết cỡ để tránh không bật cười khúc khích thành tiếng chẳng khác gì một cô bé con, đung như Deb vừa chỉ trích tôi lúc trước. Bởi vì hắn đã sắp xếp các cánh tay và chân thành các chữ cái, nhũng chữ cái này tạo thành một từ bé nhỏ duy nhất: BOO. Ba khúc thân mình được cẩn thận xếp dưới từ BOO thành phần tư vòng tròn, tạo nên một nụ cười nhỏ nhắn dễ mến theo phong cách Halloween. Thật là một tên đểu cáng tinh quái. Chương 22, trang 306 - 307. Chẳng phải tất cả chúng ta đều điên rồ trong giấc ngủ của mình sao? Giấc ngủ là gì, nói cho cùng, nếu không phải là tiến trình trong đó chúng ta nhấn chìm phần điên dại của bản thân vào một cái hố sâu vô thức tối om và chui ra ở đầu bên kia, sẵn sàng thưởng thức ngũ cốc thay vì những đứa trẻ nhà hàng xóm? Chương 23, trang 329. Anh bạn đã làm gì tối qua vậy, Dexter? Ồ, tôi chơi với những con búp bê của mình, trong lúc một người bạn chặt cô em tôi ra từng khúc. Chương 24, trang 340. Trí tuệ luôn chọn thời điểm rất tệ để chuồn đi dạo mát, phải không nào? Chương 24, trang 346. Tôi nhổm dậy trên hai đầu gối, miệng khô khốc, tim đập như trống dồn, rồi dừng lại đưa ngón tay sờ tới vết rách trên chiếc áo sơ mi loại dành cho đấu thủ bowling đẹp đẽ hiệu Dacron của mình. Tôi luồn ngón tay qua cái lỗ, ngoay ngoáy nó cọ vào chính mình. Xin chào, ngài Ngón Tay. Tôi không biết, nhưng tôi sắp đến nơi rồi. Tôi nghe thấy các bạn tôi gọi. Chương 25, trang 363. Đây là lần đầu tiên tôi còn nhớ được mình có cảm giác yếu đuối, quay cuồng và ngớ ngẩn - giống như một con người, như một con người nhỏ bé, bất lực. Chương 25, trang 364. Bản dịch của Lê Đình Chi, Nhà xuất bản Thời Đại. Wikipedia có bài viết về: Dexter và giấc mơ hắc ám", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Câu đối về các danh nhân thời Lê, Mạc", "role": "user" }, { "content": "Lê Bôi, tên thật là Phạm Bôi, người làng Địa Linh, nay thuộc làng Đông Linh, xã An Bài, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Vì ông được mang quốc tính nên sử ghi là Lê Bôi, ông lập công lớn trong cuộc chiến chống quân Minh. Sau khi đại thắng, Lê Lợi lên ngôi, Lê Bôi lại ra sức giúp vua an dân trị quốc. Đình Đông Linh thờ bảy anh em ông họ Phạm qua nhiều thế hệ, được duy tu tôn tạo thành ngôi đình lớn, còn tồn tại đến ngày nay. Đình nay còn lưu giữ được các bức đại tự “Địa linh nhân kiệt” và hai câu đối có giá trị, nói rõ sự nghiệp vĩ đại của Lê Bôi và các chiến hữu của ông: Thất vị hạp lương năng, thinh khiếu đãng bình, danh tướng anh thanh đằng Bắc địa. Nhất môn chung vĩ tích, Lê Triều ban tặng Phúc thần dị tướng túc Nam thiên. Tạm dịch: Bảy vị gộp tài năng, đáp lời dẹp giặc, danh tiếng anh hùng lừng đất Bắc. Một nhà chung công lớn, Lê triều ban tặng Phúc thần, danh tướng dậy trời Nam. Và: Nguyệt đán Cao Bình Tam sĩ phẩm, văn minh tiến bộ tứ dân công. Thiên cổ Lam Sơn lưu vĩ tích, ức niên Đông địa lẫm ninh thanh. Tạm dịch: Ngày tháng Cao Bằng hàm Tam phẩm, Văn minh tiến bộ ơn dân nước. Muôn thuở Lam Sơn lưu vĩ tích, ức năm yên thịnh đất Đông Linh. Ở làng Hà Nữu - nay thuộc địa phận thôn 2 và thôn 7 xã Quảng Khê, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa có di tích nhà thờ Lê Đình Khiêm - danh tướng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427). Lê Đình Khiêm tên tự là Phú Thiện, là một trong những danh tướng của Lê Lợi tham gia nhiều trận chiến và lập được nhiều chiến công. Ông được nhà vua ban sắc phong tặng là Đô Chỉ huy sứ, Hùng Vũ đại vương. Để ghi nhớ công lao đức nghiệp của tướng quân Lê Đình Khiêm trong công cuộc bình Ngô phục quốc ở thế kỷ XV, con cháu họ Lê Thế đã xây dựng nhà thờ để hương khói phụng thờ. Hiện nay trong nhà thờ còn lưu giữ được hai đôi câu đối: “Chỉ huy đô sứ nam thiên tướng Hùng vũ uy linh bắc địa thần” Và: Đại tướng gia ban tăng cấp tiến Tước vương đắc tuyển điện tiền phong Lê Lai người gốc Mường, thôn Dựng Tú, huyện Lương Giang (Thanh Hoá). Năm 1418, Lê Lợi bị quân Minh vây chặt. Lê Lai đã khoác cẩm bào của Lê Lợi ra trại quân Minh khiêu chiến, Lê Lai xung trận giết giặc rồi kiệt sức, bị quân Minh bắt hành hình. Lê Thái Tổ mất ngày 22 tháng 8 nhuận âm lịch, trước khi mất có dặn phải làm giỗ Lê Lai trước một ngày, tức là ngày 21 tháng 8. Đền thờ Lê Lai thuộc làng Tép, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc. Xưa kia vùng này có tên gọi là thôn Dựng Tú, sách Đức Giang, phủ Thanh Hóa. Trong đền hiện có câu đối do vua Lê Thánh Tông ban tặng như sau: 黎朝顯迹忠良將 Lê triều hiển tích trung lương tướng (Bậc tướng trung lương của Lê triều) 南國芳名上等神 Nam quốc phương danh thượng đẳng thần (Vị thần lừng danh của Nam quốc) Đền thờ Nguyễn Xí tại xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An Nguyễn Xí, sinh tại làng Thượng Xá huyện Chân Phúc (nay là xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc) tỉnh Nghệ An. Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Xí trở thành một trong số đệ nhất khai quốc công thần, được ban quốc tính thuộc họ Lê. Khi nhà Lê bị Lê Nghi Dân chiếm đoạt ngôi vua, Nguyễn Xí đã lập mưu giả mù để diệt trừ bọn phản loạn, đưa Lê Thánh Tông lên ngôi. Trong đền thờ ngài ngày nay, có câu đối của vua Lê Thánh Tông ban tặng: “Hà nhật tinh thiên thu chính khí Phụ tử huynh đệ vạn cổ anh phong” Dịch nghĩa: Sông núi trời sao ngàn thu hùng khí Cha con anh em muôn thủa anh hào Và 1 câu đối khác do hậu thế cung phụng: \"Bát loạn yên dân, nguyễn tướng uy hùng dương Bắc địa Bình Ngô khai quốc công thần cảnh liệt chấn Nam thiên\" Dịch nghĩa: \"Tướng quân dẹp loạn yên dân vang lừng trên đất Bắc Trung thần bình Ngô dựng nước, oanh liệt rộn trời Nam\" Tại từ đường Phương Trạch, có cốt chủ thờ thân mẫu Lê Nguyên Long, tức Lê Thái Tông (1434-1442) là Phạm Thị Trần. Cuốn gia phả chữ Hán viết năm Minh Mệnh thứ 10 (1829), vì lý do nào đó, 8 đời trước không truy cứu được, cho nên tôn đời thứ bảy lên làm đời thứ nhất. Điều này được thể hiện trong đôi câu đối tại từ đường hiện nay như sau: Thất đại di lưu đồng tộc phả Nhất thù ấm tý ngũ chi phương Phạm Thị Trần có hai người anh trai là Phạm Văn Xảo, Phạm Tri Vận và người em trai là Phạm Liên. Gia đình họ Phạm này quê gốc ở vùng kinh lộ Thăng Long nay là Hà Nội. Vì lánh nạn phải chuyển cư vào Thanh Hóa và hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi. Phạm Văn Xảo là một trong bốn vị tướng chỉ huy cao cấp nhất và lập công lớn nhất trong trận quyết chiến chiến lược Tốt Động – Chúc Động. Sau khi đánh đuổi được quân Minh, tháng 3 năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), Phạm Văn Xảo được ban quốc tính, được thăng hàm Thái bảo. Năm sau tên ông được khắc ở hàng thứ ba trong bảng danh sách các khai quốc công thần, thăng hàm Thái phó, tước Huyện Thượng hầu. Nhưng vinh vừa đến thì họa kèm theo, Phạm Văn Xảo bị bọn gian thần dèm pha, rồi bị giết hại. Phạm Thị Trần là hoàng hậu thứ nhất của Lê Lợi. Bà sinh ra Lê Nguyên Long, sau nối ngôi vua là Thái Tông hoàng đế. Mùa thu năm Đinh Mão, niên hiệu Bảo Đại thứ hai (1927), ông Phạm Văn Năm chi họ Phạm Thư Điền cung tiến đôi câu đối hiện còn treo ở đình Nam như sau: Tích hiển đông phong, phượng chiếu lịch triều long tự điển Nê lưu xuân trảo, hồng viên tuỳ xứ ngưỡng phương huy Tạm dịch: Dấu cũ sắc vua ban, còn mãi sáng ngời trong lịch sử Vết xưa chim hồng đậu, vẫn lưu rạng rỡ với danh thơm Ở từ đường họ Phạm làng Thư Điền, bốn câu thơ chữ Hán còn truyền lại đã là điều đáng chú ý: Sơn hà Nam quốc xuân cẩm tú Phạm tộc Thư Điền đức lưu quang. Tứ tự cao minh ân hoàng thượng Tư nguyên hà ẩm khai Quế hương. Câu thứ ba “Tứ tự cao minh ân hoàng thượng” đã chứng tỏ cả hai ngôi từ đường đều treo bức đại tự HỘI THỐNG TÔN NGUYÊN. Bốn chữ này còn được lặp lại trong đôi câu đối trước cửa của từ đường họ Phạm Thư Điền: “Tả chiêu hữu mục đại Đường tổ cách dĩ lai Hội thống tôn nguyên triệu Tống đức yêm tri hậu” Đối đáp với Nữ Học Sĩ Nguyễn Thị Lộ (1400 - 1442): Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta, ông tìm theo Lê Lợi. Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị nghi oan và bắt giam. Sau đó ông được tha, xin về Côn Sơn ở ẩn. Tương truyền, lúc còn làm quan trong triều, sau một buổi chầu trở về, qua Hồ Tây, Nguyễn Trãi gặp một cô gái đi bán chiếu rong. Rung động trước vẻ đẹp tuyệt trần của cô gái, tâm hồn thi sĩ bỗng nhiên lên tiếng: Nàng ở đâu ta bán chiếu gon, chẳng hay chiếu ấy hết hay còn? xuân thu chừng độ bao nhiêu tuổi, đã có chồng ch­ưa đư­ợc mấy con? Ngư­ời con gái nhìn thẳng vào vị đại thần, tình tứ đu­ng đư­a cặp mắt lá răm: Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon, nỗi chi ông hỏi hết hay còn? xuân xanh vừa độ trăng tròn lẻ, chồng còn chư­a có hỏi chi con? Nguyễn Trãi thấy đối đáp trôi chảy, trong lòng xốn xang. Hỏi tên biết nàng là Thị Lộ, quê làng chiếu Hải Triều, Thái Bình, mới đem về c­ưới làm vợ lẽ. Nguyễn Thị Lộ là ng­ười vợ tâm đắc nhất của Nguyễn Trãi, nàng lại được phong làm Lễ nghi nữ học sĩ trong triều và được Lê Thái Tông (1434- 1442) rất yêu mến. Năm 1442, Lê Thái Tông đi duyệt binh ở Hải Dương và mất đột ngột ở Lệ Chi Viên, Bắc Ninh. Thị Lộ vì mối quan hệ thân cận với nhà vua cũng có mặt trong khi vua chết; do đó triều thần đã vu oan cho Nguyễn Trãi tội sai nàng hầu giết vua, rồi đem tru di cả 3 họ Nguyễn Trãi. Câu đối của Vinh Lộc Đại Phu Nguyễn Mộng Tuân (1380 - ? ) viết tặng khi đến chơi nhà Nguyễn Trãi ở Côn Sơn: 一條水冷知三館 Nhất điều thuỷ lãnh tri Tam quán (Nhà quan Tri Tam quán sự mà lạnh lẽo như một dòng nước) 四壁家貧冨六經 Tứ bích gia bần phú lục kinh (Bốn vách trống trải xác xơ nhưng rất giàu sách vở) Nguyễn Mộng Tuân tự là Văn Nhược, người làng Phủ Lí, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (nay là xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Ông tên thật là Vũ Mộng Nguyên người làng Viên Khê, năm 21 tuổi sau khi thi đỗ liền đổi tên thành Nguyễn Mộng Tuân. Đời Lê Thái Tông, ông giữ chức Trung thư lệnh rồi Khinh xa đô úy. Đời Lê Nhân Tông ông giữ chức Tả Nạp ngôn, rồi Tri quân dân Bắc đạo, cùng Bình chương Lê Thụ đi đánh Chiêm Thành, trở về được vinh phong là Vinh Lộc đại phu. Những câu đối khắc ở đền thờ Nguyễn Trãi tại xã Nhị Khê huyện Thường Tín thủ đô Hà Nội: 勲業赫南邦文謨武略 Huân nghiệp hách Nam bang, văn mô vũ lược (công lớn dậy trời nam, tài văn mưu võ) 科名留越史國廟鄕祠 Khoa danh lưu Việt sử, quốc miếu lương từ (danh cao ghi sử Việt, miếu nước đền làng) 謀王將略爭天地 Mưu vương tướng lược tranh thiên địa (mưu vị tướng giúp vua, so với trời đất) 憂國臣心照斗奎 Ưu quốc thần tâm chiếu đẩu khuê (lòng bề tôi lo việc nước, sáng như sao Đẩu sao Khuê) Những câu đối do Lập Trai Phạm Quý Thích (1760 - 1825) viết về Nguyễn Trãi: 事業文章開國首 Sự nghiệp văn chương khai quốc thủ (Văn chương sự nghiệp công khai quốc) 旂常帶礪故家聲 Kỳ thường đái lệ cố gia thanh (Cờ biển non sông tiếng cố gia) 功存開國藍山錄 Công tồn khai quốc Lam Sơn lục (Công lao khai quốc, sách sử cũ 慶衍傳家故邑祠 Khánh diễn truyền gia cố ấp từ (Cúng tế truyền đời, thôn ấp xưa) 英雄氣魄依高廟 Anh hùng khí phách y cao miếu (Cao miếu anh hùng còn khí phách) 翊濟勲勞感聖朝 Dực tế huân lao cảm thánh triều (Thánh triều tả hữu vẫn khuông phù) 功齊藍岳千峯峙 Công tề Lam nhạc thiên phong trĩ (Lam lĩnh công lao nghìn ngọn thẳm) 慶共蘇江一帶流 Khánh cộng Tô giang nhất đái lưu (Tô giang phúc trạch một giòng xuôi) Phạm Quý Thích tự: Dữ Đạo, hiệu: Lập Trai, biệt hiệu: Thảo Đường cư sĩ; ông sinh ở xã Hoa Đường, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Năm Kỷ Hợi (1779), ông đỗ Tiến sĩ lúc 19 tuổi, được bổ Đông các hiệu thư, rồi lần lượt trải các chức: Hàn lâm viện hiệu thảo, Kinh Bắc đạo Giám sát ngự sử, Thiêm sai tri Công phiên. Ngày 29 tháng 3 năm Ất Dậu (16 tháng 5 năm 1825) Phạm Quý Thích mất, hưởng thọ 65 tuổi. Trần Nguyên Hãn là dòng dõi nhà Vua, cháu 7 đời của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải. Ông sinh tại làng Gốm Sơn Đông là một xã trung du ở phía Nam huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc, có dòng Lô Giang và sông Phó Đáy bao quanh. Suốt 10 năm kháng chiến chống quân Minh, ông luôn là một vi tướng tài với các trận đánh nổi tiếng: Xương Giang, Chi Lăng, Đông Quan. Đất nước thanh bình ông được phong Tả tướng quốc và xin về quê hương lập ấp sinh sống, nhưng lại bị bọn nịnh thần đố kỵ gièm pha là ông có mưu làm phản. Nhà vua nghe lời đã triệu hồi ông vào kinh, Trần Nguyên Hãn đã trẫm mình trên dòng sông Lô ở bến Đông Hồ. Ngày nay ở đền thờ ông vẫn còn đôi câu đối: Lam Sơn tướng nghiệp tồn linh địa Lô Thuỷ thần tâm đổi nghĩa thiên Có nghĩa: Sự nghiệp làm tướng đất Lam Sơn còn mãi với đất thiêng này Lòng trung quân của người bầy tôi trên dòng sông Lô là có trời biết Nguyễn Trực tên chữ là Công Dĩnh, hiệu Hu Liêu. Năm 26 tuổi đỗ đầu thi Đình (Đệ nhất giáp, đệ nhất danh tiến sĩ) đứng đầu 33 tiến sĩ cùng khoá - cuộc thi do đích thân vua ra đề và chấm. Chuyện kể rằng: Khi đi sứ, bằng tài thơ phú và đối đáp, ông được vua Minh mến mộ và mời dự kỳ thi Đình. Không ngờ, ông lại đỗ đầu, vì thế nên được vua nhà Minh phong “Lưỡng quốc trạng nguyên”. Lăng mộ Trạng nguyên Nguyễn Trực ở trang Tây Tựu, thảo đường núi Thịnh Mỹ, thôn Đại Lại, xã Bạch Thạch, huyện Mỹ Lương (nay thuộc xóm Vinh Quang, thôn Bạch Thạch, xã Hòa Thạch, huyện Quốc Oai, Hà Nội). Hai bên cổng vào là đôi câu đối cũng bằng chữ Hán rất đẹp: Thể phách tồn thiên địa Linh hồn tại tử tôn 4 cột đồng trụ tường bao phía trước được đắp nổi bật hai đôi câu đối: Văn Miếu phương danh đồng nhật nguyệt quang huy vạn cổ Thịnh Linh lăng mộ tịnh sơn hà tráng cố thiên thu nghĩa là: Bia Văn Miếu danh thơm cùng nhật nguyệt Núi Thịnh Linh Lăng mộ với núi sông bền vững nghìn thu Hai cột trụ tường hai bên bức tường là câu đối: Lưỡng quốc Trạng nguyên tiêu lãnh dự Tam triều tể phụ bỉnh bưu thanh nghĩa là: Lưỡng quốc Trạng nguyên lừng đất nước Danh thơm sự nghiệp rạng ba triều Lê Thánh Tông tên thật là Hiệu, sau đổi là Tư Thành, hiệu Thiên Nam động chủ, con thứ tư Lê Thái Tông, mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao. Trong gần 40 năm làm vua, ông đã đưa triều Lê phát triển tới đỉnh cao về mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, quốc phòng, văn hóa. Sử gia Ngô Sĩ Liên khen Lê Thánh Tông là \"vua sáng lập chế độ, mở mang đất đai, bờ cõi khá rộng, văn vật tốt đẹp, thật là vua anh hùng, tài lược\". Câu đối tự thuật: Tam nhân đồng hành tất hữu ngã (Ba người cùng đi tất trong đó có tôi) Thiên lý nhi lai diệc lợi ngô (Ngàn dặm xa tới chắc hẳn có lợi cho tôi) Vào tối 30 Tết năm nọ, vua Lê Thánh Tông giả làm chân học trò đi dạo xem các câu đối ở kinh thành. Chợt qua cửa nhà một người đàn bà làm nghề thợ nhuộm, thấy không có câu đối, nhà vua lấy làm lạ ghé vào thăm hỏi. Người đàn bà kêu là goá chồng, con trai là học trò nhỏ chưa biết làm câu đối. Nhà vua liền bảo lấy giấy hồng điều và bút mực, rồi vua hạ bút viết hộ một câu đối như sau: 天下青黃皆我手 Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ (Xanh vàng thiên hạ đều tay mỗ) 朝中朱紫總吾門 Triều trung chu tử tổng ngô môn (Đỏ tía trong triều bởi cửa ta) Mấy hôm sau, Thượng thư đương triều là Trạng nguyên Lương Thế Vinh đi chầu qua nhà thợ nhuộm thấy câu đối có khẩu khí như vậy thì hoảng hốt vô cùng. Vào triều, họ Lương tâu với vua rằng ngoài phố có nhà ấy nhà nọ có ý muốn làm bá chủ thiên hạ, cần phải cho người đi dò xét. Lê Thánh Tông nghe xong, phì cười, nhận câu đối đó là do chính tay mình viết hộ, khiến Thượng thư họ Lương bị một phen chưng hửng. Nhưng sau đó, quan Thượng thư thầm nghĩ rằng nhà thợ nhuộm mà Tết nhất lại được Thiên tử ngự giá đến, hẳn sau này con cháu phải giàu sang lắm, bèn đem ngay cô con gái út đến gả cho con trai nhà thợ nhuộm. Có thuyết khác lại nói đôi câu đối này do vua Thiệu Trị tặng hàng thợ nhuộm. Vào một dịp tết khác, vua Lê Thánh Tông lại ăn mặc giả làm thường dân đi chơi phố phường kinh đô để xem xét dân tình. Đi tới đâu nhà vua cũng thấy la liệt những câu đối ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị, nhà vua rất hài lòng. Riêng nhà nọ, chẳng treo đèn kết hoa, cũng chẳng có đối liễn gì hết. Vua rẽ vào hỏi, chủ nhà trả lời rằng: \"Chả nói giấu gì bác, nhà cháu làm cái nghề hèn hạ quá, nên chẳng dám phô phang gì với phố phường cho thêm tủi!\" Vua ngạc nhiên nói: \"Sao lại có nghề gì là nghề hèn hạ?\" Chủ nhà cứ thật thà trả lời: \"Dạ, nhà cháu chỉ chuyên đi hót phân người để bán thôi ạ!\" Nhà vua nghe xong, cười bảo: \"Ồ, nếu vậy nhà bác đây là sang trọng bậc nhất, mà nghề của bác cũng vẻ vang bậc nhất. Câu đối của bác nếu dán lên cũng hay bậc nhất, việc gì mà lại kêu là hèn!\" Rồi vua gọi lấy giấy bút, viết giùm cho một đôi câu đối như sau: 身衣一戎衣能擔世間難事 Thân nhất nhung y đởm thế gian chi nan sự (Khoác chiến bào, lo toan những việc khó khăn trên đời) 手持三尺劍盡收天下人心 Tri tam xích kiếm thu thiên hạ chi nhân tâm (Cầm ba thước gươm, thu tấm lòng mọi người trong thiên hạ) Lê Thánh Tông trong ngày cuối năm đã mặc giả thường dân, ra ngoại thành xem dân tình chuẩn bị Tết. Nhà vua ghé thăm một quán bán trầu nước, thấy gia đình neo đơn, chưa hề có không khí đón Tết, đã tự tay viết giúp bà chủ quán đôi câu đối đỏ hoàn toàn bắng tiếng mẹ đẻ treo trước cửa hàng: Nếp giầu quen thói kình cơi, con cháu nương nhờ vì ấm Việc nước ra tay chuyên bát, Bắc Nam đâu đấy lại hàng Câu đối trên miêu tả một quán bán trầu nước mà ta thường gặp, có đủ giầu (cau), cơi (trầu), ấm, nước, bát, hàng... nhưng lại mang khẩu khí của bậc đế vương: “Việc nước ra tay chuyên bát, Bắc Nam đâu đấy lại hàng” Đối đáp với Nguyễn Thị Ngọc Hằng: Một lần, hoàng tử Lê Tư Thành dạo chơi trên sông đào vùng Tống Sơn (thuộc Thanh Hóa) tình cờ gặp một cô gái đang vo gạo bên bến nước. Vốn hay chữ, hoàng tử buột miệng đọc: Gạo trắng nước trong, mến cảnh lại càng thêm mến cả Không ngờ gặp cao thủ, cô gái nghe được liền đối lại: Cát lầm gió bụi, lo đời đâu đấy hãy lo cho Cả hai đều sử dụng nghệ thuật tàng tự, chữ ẩn không nói ra nhưng ai cũng hiểu. Cô gái ấy là Ngọc Hằng, con gái một vị quốc công, mẹ bị tình phụ nên phiêu dạt đến xứ Thanh. Sau này Lê Thánh Tông lên ngôi và nàng Ngọc Hằng trở thành hoàng hậu Đối đáp với Trạng Lường Lương Thế Vinh (1441 - 1496): Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên khoa Quý Mùi. Cuộc đời 32 năm làm quan, đều ở Viện hàn lâm, trải thăng đến chức Hàn lâm Thị thư chưởng Hàn lâm viện sự. Một lần, vua Lê Thánh Tông đi kinh lý vùng Sơn Nam hạ, ghé thăm quê hương của Lương Thế Vinh, lúc bấy giờ Trạng Lường cũng đang theo hầu nhà vua. Hôm sau vua đến thăm chùa làng, khi ấy, sư cụ đang bận tụng kinh. Bỗng sư cụ đánh rơi chiếc quạt xuống đất. Vẫn tiếp tục tụng, sư cụ lấy tay ra hiệu cho chú tiểu cúi xuống nhặt, nhưng một vị quan tùy tòng của Lê Thánh Tông đã nhanh tay nhặt cho sư cụ. Vua Lê Thánh Tông trông thấy vậy, liền nghĩ ra một vế đối, trong bữa tiệc hôm đó đã thách các quan đối: 塘上誦仱師使使 Đường thượng tụng kinh sư sử sứ (Trên bục tụng kinh sư khiến sứ, tức là nhà sư sai khiến được quan. Nội dung câu đối ra không khó, nhưng oái ăm ở ba chữ đồng âm liên tiếp nhau là sư, sử, sứ) Trạng nguyên Lương Thế Vinh cứ để cho các quan viên khác suy nghĩ chán chê, ông ung dung ngồi uống rượu chẳng nói năng gì. Vua Lê Thánh Tông quay lại bảo đích danh ông phải đối, với hy vọng đưa ông đến chỗ chịu bí, nhưng ông chỉ cười trừ. Một lúc ông cho lính hầu chạy ngay về nhà mời vợ đến. Bà trạng đến, ông lấy cớ quá say xin phép vua cho vợ dìu mình về. Thấy Vinh là một tay có tài ứng đối mà hôm nay cũng đành phải đánh bài chuồn, nhà vua lấy làm đắc ý lắm, liền giục: \"Thế nào? Ðối được hay không thì phải nói đã rồi hẵng về chứ?\" Vinh gãi đầu gãi tai rồi chắp tay ngập ngừng: \"Dạ... muôn tâu, Thần đối rồi đấy ạ!\" Vua và các quan lấy làm lạ bảo Vinh thử đọc xem. Lương Thế Vinh liền chỉ tay vào người vợ đang dìu mình, mà đọc rằng: 前庭醉酒婦扶夫 Đình tiền túy tửu phụ phù phu (Trước sân say rượu, vợ dìu chồng. Trong vế đối cũng có ba chữ cuối đồng âm là phụ, phù, phu) Thạch Bi Sơn còn gọi là Đá Bia, dân gian tương truyền là Núi Ông, thuộc dãy Đại Lãnh, cao 706m, nay thuộc địa phận xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa tỉnh Phú Yên. Sự kiện lịch sử đầu tiên là cuộc Nam tiến của vua Lê Thánh Tông vào năm 1470, tiến quân đến tận chân núi Đèo Cả (Phú Yên) và sai lính khắc bia để làm ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Để tưởng nhớ công ơn của vị vua này, nhân dân Phú Yên đã lập đền thờ tại thôn Long Uyên (Tuy An) với hai câu đối: Giang sơn khai tác hà niên, phụ lão tương truyền Hồng Đức sự Trở đậu hinh hương thử địa, thanh linh trường đối Thạch Bi cao Nghĩa: Giang sơn khai thác năm nào, phụ lão còn truyền công Hồng Đức Lễ kính hương thơm đất ấy, danh thiêng muôn thuở ngọn Đá Bia Nguyễn Như Đổ tên chữ Mạnh An, tên hiệu Khiêm Trai, người làng Đại Lan Châu, huyện Thanh Đàm, trấn Sơn Nam (nay là thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì, Hà Nội) đỗ đầu, thi Đình đậu Bảng nhãn. Thi Đình xong, ông liền được cử làm Soạn chế cáo ở Viện Hàn lâm, thăng Trực học sĩ. Năm 1486, cùng với việc sửa chữa lại Văn Miếu, Nguyễn Như Đổ nhận chức Tế tửu Quốc Tử Giám trong 10 năm mới về hưu trí. Đối với quê hương Đại Lan, ông dành cho dân làng nhiều nghĩa nặng tình sâu. Tại đình làng có khắc đôi câu đối nói về tài năng của ông như sau: Trợ thần bút điểm chu đầu, tơn chù quả tam khôi cập đệ Phát thiên quang, trình bạch nhĩ, cung giai vi lục bộ thượng thư Đình còn có hai đôi câu đối gỗ sơn son thếp vàng, ghi lại công tích của các vị thần âm phù giúp nhà Trần đánh thắng giặc Nguyên ở cửa Hàm Tử, ca ngợi công mở đường khoa cử của Nguyễn Như Đổ Hàm Tử cầm Hồ mặc trợ Trần gia thiên tải hậu Lãng Sơn bình Thục diễm truyền Hùng Lạc ức niên truyền Dịch: Cửa Hàm Tử bắt giặc, ngầm giúp nhà Trần ngàn năm hiển Lãng Sơn bình giặc Thục, cơ nghiệp Lạc Hùng rạng đời đời và: Bình Thục Nguyên nhung sử sách đan thanh lưu vĩ tích Khai quan khoa nhuỵ thân hào mĩ đại ngưỡng anh uy Dịch: Bình Thục, dẹp Nguyên sử sách ngời ngời lưu sự tích Khai khoa kết trái, thân hào ngưỡng vọng đấng anh uy Làng Đại Lan nằm ở bờ Nam sông Nhị Hà. Vào cuối đời Lê, do nạn đất lở, làng phải di sang bờ Bắc thuộc huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc. Do nằm ở cửa sông lớn, nên làng còn được gọi là Đại Quan Châu. Vào triều Nguyễn, tên gọi này được đặt cho một tổng của huyện Văn Giang gồm các xã Đại Quan Châu, Chử Xá Châu, Trung Quan Châu, Sơn Hô Châu. Cuối thế kỷ XIX, vùng đất bồi phía Nam hình thành, dân làng lại về lập nghiệp ở bờ Nam, và trở về với tên gọi Đại Lan Châu (thuộc tổng Vạn Phúc, tỉnh Hà Đông). Phong tục và lề thói của dân rất tốt, vì các cụ đã chọn được đất tốt mà ở, nên đã có câu đối như sau: Sơn trình lao thụy chương thần đức Thủy nhiễu long tân hiển thánh tân Nghĩa: Núi bày điềm đẹp nêu đức thánh Sông lượn bến rồng rõ thần linh Vũ Tuấn Chiêu còn có tên khác là Vũ Tuấn Thiều, tên tự là Đôn Hối, nguyên quán làng Xuân Lôi, xã Cổ Da, huyện Tây Chân (nay thuộc xã Nam Hùng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), trú quán tại làng Nhật Thiên, xã Nhật Chiêu, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên (nay thuộc phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội). Giai thoại kể rằng, nhân khi đó trời nổi gió, lác đác có hạt mưa rơi nên thầy đồ mới tức cảnh ra vế đối và nói nếu đối được thì mới cho ở lại tiếp tục học, vế đối ra là: “Lác đác mưa sa làng Hạ Vũ”. Suy nghĩ một lát, Vũ Tuấn Chiêu đối lại là: “Ầm ì sấm động đất Xuân Lôi”, khiến thầy đồ rất hài lòng, từ đó ông dốc chí học tập dần dần sức học tiến bộ hẳn lên. Khoa thi Ất Mùi (1475) niên hiệu Hồng Đức năm thứ 6 đời Lê Thánh Tông, ông đoạt danh hiệu Trạng nguyên. Trong số các sĩ tử có quyển thi xuất sắc, bài văn nổi bật nhất kỳ thi Đình thuộc về ba người là Vũ Tuấn Chiêu, hai người còn lại là Cao Quýnh và Ông Nghĩa Đạt. Vua Lê Thánh Tông thấy ba người tài năng như nhau, khó xếp hạng người trên kẻ dưới trong bảng Tam Khôi nên đã ra thêm một câu đó để thử sức. Vua bảo ba người đoán xem là chữ gì rồi đọc: Thượng bất thượng (Thượng chẳng ở trên) Hạ bất hạ (Hạ không ở dưới) Chỉ nghi tại hạ (Chỉ nghi ở dưới) Bất khả tại thượng (Bất khả ở trên) Trong khi Cao Quýnh và Ông Nghĩa Đạt đang chau mày suy nghĩ thì Vũ Tuấn Chiêu đoán ra đó là chữ “Nhất”. Vua Lê Thánh Tông thấy ông thông minh, nhanh nhẹn liền chấm đỗ đầu thi Đình, ban cho học vị Trạng nguyên. Hiện nay tại nhà thờ chính của Vũ Tuấn Chiêu ở xã Nam Hùng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định vẫn còn lưu giữ được câu đối ca ngợi sự thành đạt và công lao của ông đối với dân với nước như sau: Hồng Đức văn chương khôi nhất giáp Xuân Lôi trở đậu lịch thiên thu Nghĩa là: Đời Hồng Đức văn chương nêu nhất giáp Đất Xuân Lôi thờ cúng nghìn thu Ghi chú: về tích làng Hạ Vũ và đất Xuân Lôi có thuyết nói rằng của Hoàng Văn Tán thời Lê Mạc, còn câu của vua Lê Thánh Tông thử thách có sách ghi là của nhà sư viết để hỏi Lê Quý Đôn. Tuy nhiên, ta cứ đưa cả vào để cùng nghiên cứu tổng hợp các giai thoại. Lương Thế Vinh còn gọi là Trạng Lường, tên tự là Cảnh Nghị, tên hiệu là Thụy Hiên. Sinh tại làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam (nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Lương Thế Vinh đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (trạng nguyên) khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4, đời Lê Thánh Tông. Các năm sau đó, ông làm quan với các chức Trực học sĩ, Thị thư và Chưởng viện sự ở viện Hàn lâm. Hiện nay ở nhà thờ Lương Thế Vinh làng Cao Hương huyện Vụ Bản còn giữ được 9 cặp câu đối ca ngợi tài năng học vấn của ông: 真状久孚南北望 Chân trạng cửu phu nam bắc vọng 竒男不負古今傳 Kỳ nam bất phụ cổ kim truyền Tạm dịch: Trạng thật mãi tin nam bắc ngóng (dân gian vẫn đồn Lương Thế Vinh làm trạng nguyên cả Việt Nam và Trung Quốc Trai kỳ chẳng phụ cổ kim truyền (cũng truyện kể dân gian nói Lương Thế Vinh là đồng tử trên trời đầu thai hạ giới 三 魁 綵 旗 天 子 製 九 章 算 學 人 間 傳 Tam khôi thải kỳ thiên tử chế Cửu chương toán học nhân gian truyền Tạm dịch: Tam khôi cờ biển vua ban tặng Phép toán cửu chương chúng dân truyền Vua Lê Thánh Tông ban tặng Cờ hoa Tam Khôi cho ba vị đỗ đầu: \"Trạng nguyên Lương Thế Vinh, Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh, Thám hoa Quách Đình Bảo, Thiên hạ cộng tri danh\" - (Thiên hạ đều biết tên). Ông đã biên soạn cuốn Đại thành toán pháp để tiện dùng, đó là cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở nước ta. Trong cuốn sách, ông đã tổng kết những kiến thức toán thời đó và cả những phát minh của ông. Trong sách dạy các kiến thức về số học, phương pháp đo lường bóng (phương pháp đồng dạng), hệ số đo lường, cách cân, đo, đong, đếm, định vị, đơn vị, tiền vải..., dạy toán đạc điền... 姓 名 一 甲 古 真 狀 Tính danh nhất giáp cổ trân trạng 俎 豆 千 秋 今 福 神 Trở đậu thiên thu kim phúc thần Họ tên đầu giáp là đấng trạng nguyên chân chính thời xưa Thờ cúng ngàn thu xứng bậc phúc thần thời nay 祀 典 琨 璜 忠 與 好 Tự điển côn hoàng trung dữ hiếu 英 靈 凜 烈 北 而 南 Anh linh lẫm liệt bắc nhi nam Tự điển vẻ vang trung với hiếu Anh linh lẫm liệt Bắc rồi Nam 神 秀 一 門 猶 記 甲 科 光 順 始 本 支 百 世 相 傳 文 派 泝 江 來 Thần tú nhất môn, do ký giáp khoa Quang Thuận thủy Bản chi bách thế, tương truyền văn phái Chiết Giang lai Tạm dịch: Một họ tuấn tú thông minh, còn ghi khoa giáp khởi đầu từ thời Quang Thuận Muôn đời gốc cành tươi tốt, tương truyền văn phái ngược dòng dẫn chảy tới đây Vế thứ nhất câu đối có nói Thần Tú nhất môn, ở đây nhắc đến vị Tổ Thiền Bắc tông đời thứ 6 là Thần Tú, là người đứng đầu Phật giáo thời đó, mỗi khi đăng đàn giảng đạo đều thu hút các bậc đế vương công tôn hoàng hậu đến nghe, danh vọng tôn giáo đến tột bậc. Quang Thuận là niên hiệu của vua Lê Thánh Tông, những năm Quang Thuận đời Lê Thánh Tông, có 2 người họ Lương đỗ Tiến sĩ là Lương Thế Vinh và Lương Hối. Vế thứ 2 vấn đề \"Chiết Giang lai\" cũng là truyền ngôn. Theo lời truyền trong một số dòng họ thì khi người Mông Cổ diệt nhà Tống, một số quan, dân nhà Tống chạy sang Việt Nam, trong số đó có hai anh em nhà họ Lương ở tỉnh Chiết Giang nam du và sang Đại Việt sinh sống, lập nghiệp ở Cao Hương, Vụ Bản và Hội Triều, Hoằng Hóa. Từ hai nơi này xuất phát ra nhiều chi phái họ Lương trên mọi miền đất nước. Chiết Giang với thành phố Hàng Châu vốn là kinh đô Lâm Ấp thời Nam Tống. Người Nam Tống ở Chiết Giang chạy sang Việt Nam khá nhiều khi bị quân Mông Cổ đánh chiếm. Điển hình ta có chuyện Tứ vị Hồng nương là Hoàng hậu của Nam Tống trôi dạt sang Việt Nam rồi tử tiết mà được tôn làm thần biển (Đại Càn hay đền Cờn ở Nghệ An). Những người ở kinh đô phải đi tránh giặc thì nói chung đều là những người có chức vụ trong triều đình. Hai anh em họ Lương từ Chiết Giang tới như vậy hẳn cũng là quan hoặc có đỗ đạt của triều Nam Tống. Vì thế mới nói \"văn phái\" từ Chiết Giang đến. 天 生 真 狀 當 平 世 Thiên sinh chân trạng đương bình thế 地 起 崇 臺 即 故 居 Địa khởi sùng đài tức cố cư Trời sinh ra trạng giỏi đúng thời buổi thái bình Đất khởi dựng đài cao trên chính ngôi nhà cũ 標 英 高 占 三 尖 筆 Tiêu anh cao chiếm tam tiêm bút 及 第 香 留 一 甲 名 Cập đệ hương lưu nhất giáp danh Anh tài tiêu biểu chiếm vị trí cao được bút “tam tiêm” Đỗ hàng cập đệ lưu truyền tiếng thơm ghi danh nhất giáp 豐 肥 道 德 福 之 尊 泰 山 北 斗 聚 萃 精 神 王 有 廟 天 理 人 心 Vun trồng đạo đức, phúc được đề cao, như ngôi Thái Sơn, Bắc Đẩu. Dồn tụ tinh thần, ngôi vương có miếu, hợp với lý trời và lòng người. 洪德 盛 朝 碑 勒 俊 高 香 後 學 斗 瞻 尊 Thịnh triều Hồng Đức tuổi tên khắc bia sừng sững Hậu học Cao Hương, sao Đẩu chiêm ngưỡng cao vời Câu đối khác trong nhà thờ họ Lương: 定 成 鄉 旅 聽 信 全 憑 嘉 惠 重 新 是 賴 刺 而 富 教 安 捭 主 使 成 功 永 潟 祥 光 氫 後 能 存 親 野 倩 勤 Định thành hương lữ thính tín toàn bằng gia huệ trọng tân thị lại thứ nhi phú giáo An bãi chủ sử thành công vĩnh tích tường quang khinh hậu năng tồn thân dã thiến cần Câu đối của Lương Đắc Bằng đề ở nhà thờ họ Lương: LƯƠNG ĐẮC BẰNG (1472 - 1522) quê ở làng Hội Triều, huyện Hoằng Hoá, đỗ Bảng nhãn khoa Kỷ Mùi (1499) đời Lê Hiến Tông, làm quan đến Tả thị lang bộ Lại dưới triều Lê Tương Dực. Sau thăng lên Thượng thư bộ Lại kiêm Đông các đại học sĩ, tước Đôn Trung Bá. Ông xin nghỉ việc lui về ở ẩn. Khi Lương Đắc Bằng đến thăm nhà thờ Lương Thế Vinh (bác họ) ở Vụ Bản (Nam Định) tự hào về dòng họ nhà mình đã đề câu đối để lại như sau: 狀元祖, 榜眼孫, 梁族名騰兩國 都督前, 尚書後, 國朝位埒三公 Trạng nguyên tổ, bảng nhãn tôn, Lương tộc danh đằng lưỡng quốc Đô đốc tiền, thượng thư hậu, quốc triều vị liệt tam công Câu đối trên được hiểu rằng: ông (Lương thế Vinh) là trạng nguyên, cháu (Lương Đắc Bằng) là bảng nhãn, họ Lương vang danh hai nước (Việt Nam và Trung Quốc) Người trước (Lương thế Khôi) làm đô đốc, người sau (Lương Hữu Khánh) làm thượng thư, trong triều đình đều ở ngôi vị tam công Nguyễn Sư Hồi sinh ở làng Thượng Xá, huyện Chân Phúc (nay là xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc). Nguyễn Sư Hồi vì có công cùng với cha (là Cương Quốc công Nguyễn Xí) và các quan trung thành đã có nhiều kế sách để diệt trừ bọn gian thần hại dân, hại nước và ông đã được phong chức “Nhập nội Thái úy, tham dự triều chính, Phó mã Đô úy” đồng thời cấp cho ông 130 mẫu ruộng thế nghiệp. Làng Vạn Lộc, mặt hướng về phía Bắc. Theo quan niệm của người xưa, đó là hướng đại cát. Đền thờ Thái úy Nguyễn Sư Hồi - Thành hoàng làng Vạn Lộc cũng hướng về phía này. Đôi câu đối trước cổng đền cũng ghi nhận điều đó: “Tiền Gấm thủy, hậu Lô sơn, vạn cổ lý nhân văn, vật địa Đông Long triều, tây Tượng phục, thiên thu miếu vũ, đức linh anh” Tuy ông mất đi nhưng tư tưởng và công lao của ông còn sống mãi với quê hương, đất nước và nó được thể hiện qua đôi câu đối dưới đây: Dẹp giặc, yên dân, nghĩa khí ngàn năm ghi nhớ Khai cơ, lập nghiệp, công ơn muôn thuở lưu truyền Trong số các quan chức làm việc thân cận với nhà vua Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông chỉ có Nguyễn Bảo là người đương nhiệm lâu nhất. Năm 1472, Nguyễn Bảo thi đỗ “Đệ tam giáp Đông tiến sĩ xuất thân”. Năm 1495, Nguyễn Bảo được thăng chức Hữu thuyết thư ở Tả xuân phường. Có lúc, bộ Lại định cử ông đi giữ chức Tham chính trấn Hải Dương. Con cháu họ Nguyễn nói rằng, khoảng 1925 cụ Nguyễn Am làm quan huyện, thấy ngôi nhà năm gian thờ Nguyễn Bảo bị đỗ nát, bèn dỡ ra xây dựng lại như hiện trạng. Hai đôi câu đối khá hay: Lạc địa từ đương kim tái xưởng (Đất Lạc từ đường nay mở rộng) Thượng thư thế duệ tích do truyền (Dòng dõi Thượng thư vẫn dõi truyền) Văn danh hoạn nghiệp Lê triều sử (Văn chương, sự nghiệp ngời Lê sử) Thiện chỉ nhân cơ Nguyễn Thị từ (Móng nền nhân thiện Nguyễn từ đường) Đỗ Nhuận người thôn Bạch Đa, xã Kim Hoa, phủ Bắc Hà thuộc phủ Kinh Bắc. Nay là xã Kim Hoa, huyện Mê Linh, Hà Nội. Năm Bính Tuất (1466) đời vua Lê Thánh Tông, Đỗ Nhuận đỗ đệ Tam giáp đồng tiến sĩ, khi đó ông 20 tuổi. Đỗ Nhuận được vua Lê Thánh Tông yêu quý, thường đàm đạo chuyện thơ phú, chuyện sách vở, chuyện đời, chuyện người mỗi khi rảnh rỗi (lúc đó Đỗ Nhuận đã giữ chức Đông các Đại sĩ Nhập nội phụ chính). Tháng 11 năm Ất Mão (1495), vua Lê Thánh Tông lập Hội Tao Đàn gồm có 28 người ứng với 28 vì sao trên trời gọi là Tao Đàn nhị thập bát tú. Lê Thánh Tông làm Nguyên Suý, Đỗ Nhuận cùng tiến sĩ Thân Nhân Trung được cử làm Phó Nguyên Suý, Trạng nguyên Lương Thế Vinh làm Sái Phu Tao Đàn. Bữa đó, Đỗ Nhuận trọ học ngoài tỉnh, một lần dạo phố thấy một cô gái đẹp liền lẽo đẽo theo sau đến tận cổng. Cô gái vào nhà rồi, Hòe lân la hỏi xung quanh mới biết đó là nhà của một vị quan về hưu. Hòe hôm sau đến gõ cửa nhà nọ, nói là học trò dọc đường khát quá, nên mạo vào xin nước. Chủ nhà vốn xuất thân nho học, nên rất yêu mến học trò, liền dẫn Nhuận vào mời cùng uống trà. Thấy Nhuận đối đáp nhõ nhã, ông rất thích. Nhân hai người ngồi đối diện với bức tranh sơn thủy treo trên vách, ông bèn đọc một câu đối, ý cũng muốn thử tài: Quải thư bích thượng, tận thu tứ hải sơn hà (Treo tranh trên vách, thu hết non sông bốn bể) Nhuận nghĩ mãi không đối được, bí quá vờ đánh đổ trà lên chân, rồi xin phép ra rửa chân, tính bài từ đó... chuồn ra cổng. Ra đến ao, khuya chân xuống nước, bóng nước lay động làm hình ảnh rung rinh, lóng lánh, Hòe chợt nảy ý hay, bèn quay lại đối: Tẩy túc trì trung, dao động cửu thiên tinh đẩu (Rửa chân trong ao, lay động trăng sao chín trời) Có thuyết khác nói rằng vế đối trên là của Nguyễn Hoè cũng người thời Hậu Lê. Lần khác, có khách đến nhà Đỗ Nhuận chơi, gặp lúc cha Đỗ Nhuận đi vắng. Thấy cậu bé nhanh trí đối đáp nhanh nhảu, sáng ý hơn người, khách thấy lạ. Để đánh quỵ thằng bé về chữ nghĩa, nhân khi người nhà Đỗ Nhuận mang bắp ngô luộc lên mời ông khách, ông liền ra câu đối: vế ra: Ngô là ta, ta ăn bắp ngô với trẻ Đỗ Nhuận không cần nghĩ ngợi đối luôn: Phụ là bố, bố nhường đậu phụ cho con Có thuyết khác nói vế đối này là của cử nhân Trương Khắc Nhượng ở làng Thanh Nê (nay là xã Tán Thuật tỉnh Thái Bình) đối đáp với cha Vũ Kiệt quê ở làng Cửu Yên, xã Yên Việt, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Cửu Yên thuộc xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Thìn (1472) đời Lê Thánh Tông. Do ngôi làng quê ông có tên Nôm là làng Vít nên dân gian quen gọi Vũ Kiệt là Trạng Vít (Trạng làng Vít). Sau khi làm quan một thời gian, Vũ Kiệt vì buồn chán đã treo ấn từ quan về quê xuất gia tu hành tại chùa Kênh (nay thuộc xã Cao Đức, huyện Gia Bình, Bắc Ninh). Ý định xuất gia đầu Phật, xa lánh việc thị phi ở chốn quan trường cùng những ganh đua danh lợi của người đời tưởng chừng đã đạt được, thế nhưng, thực tế trong tâm trí của Vũ Kiệt vẫn không dứt hẳn được những trăn trở, mong muốn cống hiến cho dân, cho nước của mình. Ở làng Mèn (nay là làng Mãn Xá, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh) có một cô gái xinh đẹp, giỏi giang biết được tâm sự ấy đã tìm cách tiếp cận nhà sư Vũ Kiệt. Một hôm nhân lúc vắng vẻ cô gái đọc vế đối thăm dò: “Con công đi qua chùa Kênh, nó nghe tiếng cồng nó kềnh cổ lại”. Biết ý cô gái khuyên mình đừng nên xa lánh cuộc đời, nhưng Vũ Kiệt từ chối, tỏ vẻ không còn tha thiết với cuộc đời trần tục: “Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc, nó cạch đến già”. Mặc dù bị khước từ, nhưng cô gái vẫn không chịu bỏ cuộc, vào một hôm rằm cô mang lễ lên chùa cúng Phật sau đó nhìn nhà sư rồi đọc mấy vần thơ: Tội gì ở chốn dưa rau, Về nhà trên trướng dưới lầu thảnh thơi. Đêm nằm có thiếp sánh đôi, Chồng loan, vợ phượng hơn đời Hán gia. Tu hành chi đến cõi già, Đường sang Tây Trúc biết là có không? Người ta thường có câu “Anh hùng khó qua ải mỹ nhân”, trước tình cảm của cô gái làng Mèn, trái tim của Vũ Kiệt đã rung động, sau đó ông từ giã đường tu tiếp tục dấn thân, góp sức vào việc dân, việc nước và làm lễ hỏi cưới cô gái kia, sống đời hạnh phúc bên người vợ yêu của mình: Nghe lời nàng nói vừa lòng, Trời xuân thắt chặt chữ đồng cả hai. Đẹp đôi gái sắc, trai tài, Gương soi in bóng, phấn trời điểm trang. Xuân hè khéo nở một hàng, Gái trai đầy đủ rộn ràng đình vi. Sau khi hoàn tục, Vũ Kiệt làm quan trải nhiều chức vụ dần dần được thăng tới chức Hàn lâm viện thị thư, Tả thị lang kiêm Đông các hiệu thư. Ở làng Nhân Lí, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hoá bây giờ, thời Lê Sơ có một cậu bé tên là Trịnh Thiết Trường, nổi tiếng là thần đồng. Có lần Trường nặn một con voi, và muốn voi cử động được như thật, cậu bèn nghĩ cách bắt một con đỉa làm vòi, 2 con bướm làm tai, 4 con cua làm bàn chân voi... Thế là con voi đất mà lại biết co vòi, vẫy tai, tự chuyển động. Vừa lúc viên quan huyện sở tại hành hạt qua, lính khiêng võng cho quan dừng lại để bắt trai đình làng Nhân Lí ra cáng tiếp. Quan huyện xuống võng, chắp tay sau lưng đi lại cho đỡ mỏi. Lúc đó có tiếng bọn trẻ nô đùa ầm ĩ phía trước. Quan tò mò đến xem thì thấy cả bọn đang chơi trò voi đất. Con voi giả, nhưng thật độc đáo, cong vòi, vẫy tai, đi được..., chưa thấy nơi nào có. Quan huyện buột miệng hỏi: \"Đứa nào làm khéo hè?\" Bọn trẻ chỉ vào một cậu bé chứng 11 - 12 tuổi , có cặp mắt linh lợi, thưa: \"Bạn này đấy ạ!\" Viên quan huyện nhìn Trường, ngỏ ý khen cậu bằng một vế đối: “Lũ trẻ chỉ mày khéo!” Rồi bảo Trường nếu biết chữ thử đối xem. Trường liền đọc ngay: “Quan huyện có ông...” Đọc đến đó, Trường dừng lại nhìn. Quan nhắc cậu còn thiếu một chữ. Trường bèn đáp: \"Quan có thưởng thì tôi mới xin đọc hết!\" Viên quan biết Trường là một đứa trẻ có tư chất, không phải là thường, bèn móc túi thưởng trước cho cậu mấy tiền. Bấy giờ Trường mới đọc cả vế đối: “Quan huyện có ông hiền” Quan huyện gật gù, lấy làm vừa ý và hỏi thêm: \"Nếu ta không cho tiền thì mày sẽ đọc ra sao? Trường tinh nghịch cười đáp: \"Tôi sẽ đọc là: “Quan huyện có ông... tham” ạ\" Điển tích này có vẻ giống với câu truyện của Trạng Hiền thời nhà Trần và Thái Ngạc đời nhà Thanh Họ Dương ở làng Dừa thuộc tỉnh Hà Nam (Bắc Việt) là một gia tộc có nhiều người làm quan to. Ðến đời ông Dương Đình Lương thì xa xút, phải làm nghề bán thịt. Một hôm, Lương ông đi lễ ở cái miếu đầu làng về thì gặp một ông cụ già vai đeo khăn gói, tay chống gậy, hỏi thăm nhà trọ. Lương ông mời khách về nhà, tiếp đãi chân thành. Chủ lưu khách lại vài hôm, không ngờ ông khách ở lại luôn ba tháng, ngày nào cũng chống gậy đi chơi hết gò này sang đống nọ, hết ruộng nọ lại đến ao kia. Hóa ra ông đi xem địa lý, ông chính là Tả Ao. Thấy Lương ông phúc hậu, Tả Ao muốn đáp ơn, quyết định ở lại để tìm cho Lương ông một ngôi đất quý. Lương ông đặt ngôi mộ của thân phụ ông ở đó, được một năm thì Lương bà có thai, đứa con ấy là Trạng Lợn Dương Nghiêu Trư sau này. Trạng Lợn và ông khách: Tương truyền lúc nhỏ theo cha làm nghề thịt lợn, lại đẻ vào tháng 10 tức tháng Hợi nên đặt tên là Dương Nghiêu Trư và thường gọi là cậu Lợn (chữ Hán “Trư” nghĩa là lợn). Ông bản tính nhanh nhẹn, thông minh, lúc nhỏ có lần cùng bố đi bắt lợn, gặp kiệu ông Nghè vinh quy, Trư hỏi: \"Ông gì thế bố\". Người cha đáp: \"Ông Trạng!\" Trư nói: \"Lớn lên con cũng làm ông Trạng!\" Từ đó đi chơi với trẻ trong làng, ông đều khoe: \"Ta là quan Trạng!\" Một lần có người khách thấy vậy liền lỡm: Trạng dở hay trạng nguyên Trạng Lợn trả lời: Khách quen hóa khách lạ Trạng Lợn và Phấn Khanh: cô gái tên là Phấn Khanh ra vế trước: 八刀分米粉 Bát đao phân mễ phấn (nghĩa là \"tám đao chia hột gạo\", nhưng vấn đề ở chỗ trên chữ \"bát\" dưới chữ \"đao\" bên trái chữ \"phân\" là chữ Phấn chính lại là chữ đầu tên của cô gái) Trạng Lợn đối lại: 千里重金鍾 Thiên lý trọng kim chung (nghĩa là \"nghìn dặm nặng chuông vàng\", cũng ý rằng trên chữ \"thiên\" dưới chữ \"lý\" bên trái chữ \"kim\" là chữ Chung là tên tự của Trạng Lợn là Chung Nhi) Giai thoại này như sau: Trạng Lợn đi hỏi vợ gặp phải cô gái tên Phấn Khanh hay chữ liền đem tên của mình ra vế đối, vì chưa nghĩ ra được nên ông khất khi nào lên kinh ứng thí về sẽ đối. Khi lên đến kinh, vua Lê Thánh Tông thấy anh này tên là Chung Nhi mới chiết tự chữ Chung để ra câu đối, Trạng Lợn nhớ đến câu đối của cô gái liền đem ra trả lời được vua ban thưởng. Về đến làng, anh ta lại đem câu của vua Lê Thánh Tông đối lại câu của nàng Phấn Khanh, thế là vẹn cả đôi đường vừa được quan chức bổng lộc lại vừa được vợ mà không phải đối đáp gì cả. Trạng Lợn và Tú Cát: Trong làng cậu bé Chung Nhi có một người hay chữ nhưng tính tình kiêu ngạo, đi đâu cũng khoe khoang, tên gọi là ông Cứt. Sau này ông đỗ Tú Tài, vì thấy tên xấu nên đổi gọi là Cát, thiên hạ vẫn gọi là Tú Cát. Tất nhiên, từ nhỏ Chung Nhi đã ghét những người có bản tính như vậy. Một hôm, Chung Nhi đang đứng xem đàn lợn ăn cám thì Tú Cát đi qua. Đã được nghe người ta đồn đãi về thần đồng này, Tú Cát không ưa gì nên ông ta ra vẻ kẻ cả gọi đến bảo: \"Ta nghe thiên hạ đồn mày là đứa thông minh, ứng đáp rất giỏi. Bây giờ ta ra cho mày một vế đối, nếu mà không đối được thì sẽ biết tay. Nhất định ta sẽ đánh đòn cho chừa các tật láo, nghe chưa!\" Nói xong, Tú Cát liền gật gù đọc: Lợn cấn ăn cám tốn Đây là một câu đối rất hắc búa bởi \"Cấn\" và \"Cám\" vừa chỉ lợn và thức ăn của lợn, lại vừa là hai quẻ trong kinh Dịch, người có học nhiều còn thấy khó. Chung Nhi đối ngay: Chó khôn chớ cắn càn Quả là một vế đối vừa chỉnh vừa có ý xỏ xiên. \"Khôn\" và \"Càn\" cũng là hai quẻ trong kinh Dịch, Quỳnh lại còn ngầm ý chưởi Tú Cát là đừng có mà rắc rối. Bị thằng nhỏ hơn mình chơi lại một đòn đau, Tú Cát tức lắm, hầm hầm bảo: \"Được để coi mầy còn thông minh đến cỡ nào. Tao còn một vế nữa, phải đối ngay thì tao phục!\" Nói xong Tú Cát đọc ngay: Trời sinh ông Tú Cát! Vế vừa ra mang tính cách ngạo nghễ, phách lối. Nào ngờ, Chung Nhi chỉ ngay xuống đất, dưới lớp phân heo đùn lên những ụ nhỏ mà đáp: Đất nứt con bọ hung! Đến nước này thì dù tức đến hộc máu mồm, Tú Cát cũng đành cút thẳng. Những vế đối trên người sau thường gán ghép cho Trạng Quỳnh. Phạm Đạo Phú (có sách chép nhầm là Nguyễn Phú Đạo, Nguyễn Đạo Phú) sinh năm Quang Thuận 4(1463), mất năm Nguyên Hoà 7(1539), quê ở làng Hoàng Xá, huyện Đại An (nay là thôn Phạm Xá, xã Yên Nhân, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định). Trong tiềm thức dân gian, tên tuổi ông thường gắn liền với tên tuổi người em họ của ông là Hoàng giáp Đại tướng đổng quân Phạm Bảo. Hai anh em ông liên tiếp cùng đỗ đại khoa, cùng làm quan một triều, cùng được tôn làm phúc thần và được thờ chung trong một ngôi đền. Phạm Bảo (có sách chép là Phạm Nguyễn Báu) đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức 18(1487) đời Lê Thánh Tông. Sau khi đỗ đại khoa, ông được bổ làm Phó đô ngự sử ở Ngự sử đài, giúp cho Đô ngự sử chuyên lo việc can gián nhà vua và thanh tra các quan lại trong cả nước. Phạm Đạo Phú cùng với Phạm Bảo được người đời đánh giá là \"Anh em cùng nhau nối tiếp trước sau, trọn vẹn tiếng tốt ở đương thời\" (Văn bia ở miếu thờ hai ông đỗ đại khoa ở làng Hưng Thịnh do Hoàng giáp Phạm Văn Nghị soạn). Sau khi anh em ông mất, thi hài hai ông đều được an táng ở làng, đều được làng Hưng Thịnh thờ làm Phúc thần. Trong đền thờ hai ông có câu đối: Sơn nhạc giáng thần cố lý tân từ linh tích tại Văn chương minh thế thạch bi kim bảng thịnh danh truyền Tạm dịch: Núi lớn giáng thần, dấu thiêng thiêng ở làng xưa đền mới Văn chương sáng sủa, tiếng tốt đẹp truyền bia đá bảng vàng Câu đối của Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh, người làng Chân Mỹ, huyện Đại An (nay thuộc làng Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định) viết là: Tích Lê triều Hồng Đức thái bình thiên, Đinh Mùi, Canh Tuất lưỡng khoa phật kinh liên kế Kim Nam quận Đại An văn vật địa, Phạm Xá, Hưng Thịnh nhị xã thần miếu tương vương Tạm dịch: Xưa Hồng Đức triều Lê, trời thanh bình, Đinh Mùi, Canh Tuất hai khoa liền nhau đỗ đạt. Nay quận Đại An nước Nam, đất văn vật, Phạm Xá, Hưng Thịnh hai xã cùng thờ miếu thần) Trước hiên đình có câu đối của Hoàng giáp La Ngạn Đỗ Huy Liêu (người làng La Ngạn, huyện Đại An nay là thôn La Ngạn, xã Yên Đồng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Đinh) như sau: Hồng Đức đương thiên huynh đệ bảng Nha thành thử địa cổ kim danh Tạm dịch: Anh em đề bảng thời Hồng Đức ấy Muôn thuở lừng danh đất Nha Thành này Năm 1493, Ngô Kính Thần được Lê Thánh Tông cử đi sứ Trung Quốc. Tại Cung Đình vua Minh ra câu đối: Nhật hỏa, Vân yên, bạch trú thiêu tàn Ngọc Thỏ. Nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng. Ngô Kính Thần hiểu rõ dụng ý và mục đích đe dọa của vua Minh, ý bóng gió của câu này là kẻ mạnh sẽ thắng kẻ yếu, tức là Đại Việt phải thuần phục Thiên triều, cần phải khẳng định ý chí và sức mạnh quật cường của Đại Việt. ông đọc: Nguyệt cung, Tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc Kim Ô. Nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời. Vế đối lại thật giỏi về nghĩa về chữ. Lại thấy trăng lưỡi kiềm như cánh cung, những vì sao tròn như viên đạn, đây là sự hình dung thật tuyệt. Song, hay hơn cả là vế đối tỏ rõ sức cứng rắn của người nước Việt, không lời đe dọa nào làm cho run sợ, sẵn sàng đối phó với kẻ thù. Vế đối lại hình tượng sắc sảo, khí phách quật cường. Nếu người Minh dùng “lửa mặt trời” (NHẬT HỎA) để đốt cháy “trăng Đại Việt” (THIÊU TÀN NGỌC THỎ) thì dân Đại Việt lại dùng cái “cung mặt trăng” (NGUYỆT CUNG) để bắn rụng “mặt trời phương Bắc” (XẠ LẠC KIM Ô). Nghe xong vế đối, vua Minh nổi giận, ra lệnh bắt Ngô Kính Thần tống giam vào ngục. Trước đây, người ta vẫn gán vế đối này cho Mạc Đĩnh Chi đời nhà Trần. Khoa thi năm Nhâm Tuất (1502) niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 đời Lê Hiến Tông có Nguyễn Kim - sinh năm 1470, người làng Thạch Lựu, nay là thôn Thạch Lựu, xã An Thái, huyện An Lão. Ông đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân, lúc 33 tuổi, làm quan đến chức Hiến Sát sứ, khi mất được tặng hàm Hữu Thị lang. Hai con trai ông là Nguyễn Chuyên Mĩ, Nguyễn Đốc Tín cùng đỗ khoa Hồng Thuận thứ 6 khoa thi năm Giáp Tuất (1514) đời Lê Tương Dực; ở quê ông, người ta vẫn còn lưu truyền đôi câu đối: Đồng thế đồng triều tam tiến sĩ Nhất gia nhất nhật lưỡng vinh quy Nghĩa là: Cùng một đời, cùng một triều đại có 3 người đỗ tiến sĩ Cùng một nhà, cùng một ngày có hai người được vua phong cho vinh quy Tương truyền, năm lên sáu tuổi, một hôm Giản Thanh đang chơi ngựa bằng tua cau thì có viên quan nghỉ hưu trên đường đi tới. Lính tráng ra oai dẹp đường, nhưng Giản Thanh vẫn cưỡi tua cau đứng nhìn. Viên quan bèn hỏi: \"Cháu bé đã đi học chưa?\" Khi nghe Giản Thanh trả lời là đã biết chữ, làm được câu đối, viên quan liền ra thử vế đối: vế ra: Trẻ cưỡi mo cau! Giản Thanh nhìn thấy người lính đứng bế con hạc gỗ, đội biển vua ban, nên đối luôn: Già chơi hạc gỗ! Viên quan biết Nguyễn Giản Thanh phát lộ tài năng sớm, sau này ắt sẽ làm nên sự nghiệp, nên khen ngợi và thưởng cho tiền. Nguyễn Giản Thanh là con trai của Tiến Sĩ Nguyễn Giản Liên, nhưng cha mất sớm. Ngay từ nhỏ, Giản Thanh đã có phong tư tài mạo sáng sủa, thông minh đĩnh ngộ. Quả nhiên, mấy năm sau, đến kỳ thi đại khoa năm Mậu Thìn đời vua Lê Uy Mục (1508), các quan giám khảo chấm được hai người xuất sắc nhất là Hứa Tam Tỉnh và Nguyễn Giản Thanh. Cả hai đều cân sức cân tài, xem ra Nguyễn Giản Thanh văn hay, bay bổng hơn, nhưng Hứa Tam Tỉnh thâm trầm, sâu sắc hơn. Các quan trường có ý chọn Tam Tỉnh đứng đầu, nhưng vẫn còn khâu cuối cùng do nhà vua trực tiếp sát hạch. Vua cho vời 2 vị vào chầu. Buổi chầu hôm ấy có mặt hoàng thái hậu, mẹ nuôi của vua. Bà thấy Hứa Tam Tỉnh lùn thấp, đen đủi, trong khi Nguyễn Giản Thanh người cao ráo, trắng trẻo thư sinh, bà chỉ ngay mà nói: \"Ồ, đây hẳn là trạng nguyên tân khoa. Xứng đáng quá đi rồi!\" Vua cũng đã xem các văn bài của cả 2 người và thấy bài của Hứa Tam Tỉnh nhỉnh hơn cả, nhưng thái hậu làm cho bị động, đành cho tiến hành thêm một bước thử tài nữa. Nhà vua ban giấy bút và phán bảo cả 2 người làm bài phú \"Phụng thành xuân sắc\" ngay tại chỗ. Hứa Tam Tỉnh uyên thâm làm một bài phú bằng Hán văn. Trong khi đó Giản Thanh phóng bút viết bài phú bằng tiếng Nôm, vốn là thế mạnh của mình. Quả nhiên, nghe Tam Tỉnh trầm trầm đọc bài phú, thái hậu không hiểu gì cả. Đến lượt Giản Thanh cất tiếng đọc sang sảng, tả cảnh phồn hoa của chốn đế đô có những đoạn rất bay bướm, Thái hậu nắc nỏm khen hay. Chiều lòng bà, vua Uy Mục bèn chấm cho chàng họ Nguyễn đỗ trạng. Biết được chuyện chỉ vì đẹp trai mà Nguyễn Giản Thanh đoạt mất chức trạng nguyên của Hứa Tam Tỉnh, người làng mình xứng đáng hơn, các bậc trí giả làng Vọng Nguyệt (tục gọi là làng Ngọt), huyện Yên Phong, Bắc Ninh, tỏ ra bất bình, bèn đặt tên cho Nguyễn Giản Thanh là \"Mạo Trạng nguyên\". Tên gọi này có hai nghĩa, mạo là diện mạo, là vẻ mặt, đồng thời cũng có nghĩa là giả mạo, còn dân gian thì lưu truyền câu \"Trạng Me đè Trạng Ngọt\". Hứa Tam Tỉnh người xã Như Nguyệt, huyện Yên Phong (nay thuộc xã Tam Giang huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh), đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh khoa Mậu Thìn niên hiệu Đoan Khánh năm thứ 4 (1508) đời vua Lê Uy Mục, từng được cử đi sứ (năm 1516) sang nhà Minh (Trung Quốc). Sau, ông ra làm quan với nhà Mạc, lại được cử đi sứ sang nhà Minh. Khi trở về, ông được thăng Thượng thư Bộ Lại, hàm Thiếu bảo, tước Đôn Giáo bá, về trí sĩ. Tương truyền Hứa Tam Tỉnh lúc còn trẻ tương tư con gái của một Vị Quan Thượng Thư, bà mẹ vì thương Trạng nên đánh liều đến năn nỉ Quan Thượng, Quan Thượng cho gọi vào. Thoạt thấy Trạng, Quan Thượng không hài lòng vì Trạng vừa lùn vừa ốm, da thâm như chì chỉ có đôi mắt là tinh anh và đối đáp về sách vở rất lưu loát. Quan cho mời Thầy về dạy thêm và chẳng bao lâu Trạng đỗ thủ khoa kì thi hương được Quan cho phép thành thân cùng con gái mình. Tối hôm động phòng, sắp bước vào buồng bị tiểu thư chơi ngặt đưa tay không cho vào, ra câu đối bảo đối được mới cho vô: vế ra: Ốc lậu nguyệt xuyên hình như kê noãn tam tam tứ tứ (Nhà thủng bóng Trăng soi xuống trông hình như ba bốn trứng gà) Thình lình bị chận nên \"quê\" tâm thần bị chi phối nên Ông không đối ngay được. Xấu hổ, bèn lững thững dạo bờ Sông. Gió mát trăng thanh nước như vui mừng lăn tăn gợn sóng..Tức cảnh sinh tình hốt nhiên Ông nảy ra ý đối bèn bươn bả vào nhà gỏ cửa phòng xin đối: vế đối: Giang trường phong lộng, thế tự long lân điệp điệp trùng trùng (Sông dài gió thổi trông sóng lớp lớp như vẩy Rồng) Tiểu thư nghe vế đối rất chỉnh và hay hơn cái vế \"tam tam tứ tứ\" của nàng nhiều, nên cười khúc khích, ngoắt tay cho Trạng vào. Hôm sau, nàng đem chuyện này kể lại cho cha nghe, Quan Thượng nghe xong vế đối liền bảo: \"Cứ câu này thì sau này ắt hẳn nó sẽ đổ Trạng\" và quả đúng như lời Quan Thượng đoán. Hoàng Nghĩa Phú sinh ra ở làng Huyền Khê, sau đổi là Đan Sỹ, xã Trung Thanh Oai, tổng Thượng Thanh Oai, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên nay là làng Đa Sỹ, phường Kiến Hưng, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Một lần, Nghĩa Phú theo cha đến thăm quan Huyện doãn Lê Đài. Quan huyện đã thử trí thông minh cậu học trò nhỏ, ra câu đối rằng: 多 士 一 轄 農 多 抑 或 士 多 Đa Sỹ nhất hạt nông đa ức hoặc Sỹ Đa Nghĩa Phú đáp lại: 極 治 之 時 亂 極 必 然 治 極 Cực trị chi thời loạn cực tất nhiên trị cực Hai câu đối - đáp nhau này từng chữ đối nhau ý tứ chống chọi lại nhau quyết liệt và sâu sắc, thể hiện con người có tầm nhìn xa trông rộng tài tình. Ta có thể hiểu ý của hai câu ấy như sau: Quan huyện thì tự hào rằng: \"khen cho quan huyện chính, tóm quát mọi việc của cả một vùng, dân cũng nhiều mà binh lính cũng lắm.\" Học trò nhỏ thì chê rằng: \"khổ cho sự chuyên quyền, gây ra nhiều lộn xộn, sẽ dẫn đến trị lại những quá đáng.\" Năm 20 tuổi, Hoàng Nghĩa Phú được bổ đi làm Huấn đạo ở huyện Lệ Thủy, năm 27 tuổi được bổ làm quan Hàn Lâm viện Hiệu lý. Năm 1534, được bổ làm Giám sát Ngự sử Binh bộ Tả Thị lang rồi thăng Đông các Đại học sỹ và tiếp tục làm quan đến Tham tri chính trị, Tham tri Chính phủ. Năm 1548, ông lui về nghỉ hưu. Nhân dân làng Đồng Dương (phường Đồng Mai, quận Hà Đông) lập đền thờ cả 3 thế hệ nhà ông. Trong hậu cung của ngôi đền thờ (nay là Đình thờ) trang nghiêm của làng Đồng Hoàng có đôi câu đối: 桂 籍 聯 輝 三 世 譜 桐 亭 祀 事 一 村 祠 Quế tịch liên huy tam thế phả Đồng đình tự sự nhất thôn từ Nghĩa là: Sách quế liên tiếp rực rỡ ba đời ghi rõ Đình làng Đồng Dương thờ phụng một lòng cúng tế Nguyễn Bỉnh Khiêm tự Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng). Ông ra ứng thí khi đã 44 tuổi, đỗ đầu. Năm 1535, lại ra tỉnh thì được đỗ thứ nhứt, khi vào đình đối, lại đỗ Tấn Sĩ đệ nhứt danh, được bổ chức Đông Các Hiệu Thư, trong thời Thái Tông nhà Mạc. Ông cáo quan xin về trí sĩ giữa năm Quảng Hòa thứ 2 (1542), khi mới 52 tuổi. Khi về trí sĩ, ông dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ, mở trường dạy học cạnh sông Hàn Giang, do đó còn có tên là Tuyết Giang và được học trò gọi ông là “Tuyết Giang Phu Tử”. Đương thời họ Nguyễn, họ Trịnh đều phái sứ giả đến hỏi ông những việc hệ trọng. Khi ông mất, nhà Mạc cử quan phụ chính triều đình là Ứng Vương Mạc Đôn Nhượng dẫn đầu các quan đại thần về dự. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang nói lên sự trân trọng rất lớn của nhà Mạc với Trạng Trình. Trong buổi lễ tang ấy, Ứng Vương đã thay mặt vua truy tặng Nguyễn Bỉnh Khiêm tước Thái Phó Trình Quốc Công. Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên là Văn Đạt. Mẹ ông là Nhữ thị vốn tinh thông tướng số và có ước vọng là lấy chồng làm vua hoặc có con làm vua. Do đó trong quá trình dạy dỗ, bà đã truyền cho ông mơ ước ấy rồi. Một hôm khi bà đi vắng, ông Định ở nhà với con và tình cờ hát: Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung Không ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh nhảu ứng đối lại ngay: Vịn tay tiên, vị tay tiên Khi bà về đến nhà, ông rất tâm đắc kể lại chuyện ấy thì bị bà trách nuôi con mong làm vua làm chúa cớ sao lại mong làm bầy tôi (nguyệt chỉ bầy tôi). Câu đối viết cho nhà thờ họ Lều gốc Mạc ở Thường Tín - Nhị Khê: Tứ bách niên tiền chung phục thủy (Bốn trăm năm trước, cuối cùng trở lại như ban đầu) Thập tam thế hậu dị nhi đồng (Mười ba đời sau, khác biệt mà vẫn cùng chung) Năm 1592, nhà Mạc thất thủ Thăng Long, họ Trịnh thi hành chiến dịch truy sát nhà Mạc thảm khốc: Lê quý Đôn viết trong Đại Việt thông sử : “Bình An vương Trịnh Tùng giết hết bọn ngụy đảng, đem quân phá hết cung điện ở Cổ Trai, hủy bia ở mộ, chặt hết cây trồng trong lăng. Đó là sự truy phạt vậy.” Trịnh Tùng đã giết hàng nghìn người họ Mạc. Trước tình trạng trên, để giữ lấy dòng tộc, tránh nguy cơ bị tuyệt diệt, họ Mạc chủ trương đổi họ thay tên, “mai danh ẩn tích”. Tuy “ẩn tích mai danh”, nhưng tổ tiên vẫn tìm mọi biện pháp để con cháu nhận ra nhau. Các Cụ quy định và truyền lại các quy ước đổi họ như: Khử túc bất khử thủ, đệm chữ Đăng, mật hiệu trên chữ viết, mật hiệu trên hiện vật, truyền khẩu, lời văn trên gia phả...Năm 1992, đúng 400 năm sau, ban liên lạc họ Mạc được thành lập, các con cháu dòng họ Mạc và họ khác gốc Mạc tập trung gia phả lại biên soạn thành cuốn \"Hợp Biên Thế Phả Họ Mạc\" và đang có chiều hướng quy tụ lại đổi hết quay về họ Mạc bằng nhiều phương án khác nhau, thế mới thấy lời sấm của Trạng Trình quả là hiệu nghiệm. Câu đối viết cho quan Tổng Đốc Hải Dương: Tương truyền lúc sắp mất, Trạng Trình có giao cho con cháu một cái ống tre sơn son thếp vàng gắn bít hai đầu và dặn đến đúng năm tháng ấy ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh Tống Đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu vãn được tình thế gia đình nhưng tuyệt đối không được ai mở xem, trừ quan Tổng đốc. Cái ống tre ấy truyền đến người cháu 7 đời cụ, mới rước lên Dinh quan Tổng đốc, đúng vào ngày giờ đã ghi trong gia phả. Khi quan mở ống, thấy một cuộn giấy, ngài rút ra xem thấy có hai câu chữ nho: Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách (Tao cứu mày khỏi ách xà rơi) Nhĩ cứu ngã thất thế chi bần (Mày cứu tao cháu bảy đời khó) Đang lúc bận việc, quan Tổng Đốc thấy hai câu nói xấc xược gọi quan bằng mày ấy, ngài cả giận sẵn cầm chiếc quạt, ngài đứng dậy chạy lại định đánh người cháu Trạng. Nhưng vừa bước khỏi sập, chiếc xà nhà đã từ ngay trên đỉnh đầu đổ rớt xuống đánh rầm một cái. Phúc bảy mươi đời, ngài mới bước ra, nên không sao. Quan Tổng Đốc lúc đó mới giật mình, hiểu rõ Cụ Trạng đã cứu cho mình khỏi cái chết bất đắc kỳ tử. Quan phải ân cần xin lỗi người cháu Cụ, mời về tư thất thế đãi cơm rượu, rồi đưa một số tiền ra giúp, để cứu vãn cho gia đình con cháu Cụ khi đó đang lâm vào hoàn cảnh cực kỳ túng thiếu. Những câu đối ở đền thờ Trạng Trình xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng: Hải tang tang hải, duy hữu Nguyễn tộc Trạng nguyên từ vô khuyết (Bể dâu dâu bể, chỉ có đền thờ Trạng nguyên họ Nguyễn là không hề mẻ sứt) Cổ kim kim cổ, đương cảnh danh tính hinh hương thiện bất vong (xưa nay nay xưa, họ tên ở chốn này thơm hương, tốt không quên) Trình quốc đại danh nam dữ bắc (Đại danh của Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm vang dội cả phương nam lẫn phương bắc) Am hương thắng địa thục nhi từ (Đất danh thắng ở làng Trung Am vừa là trường học, vừa là đền thờ) Hai ngọn Tốn bút hun đúc nên quả phúc Một dải sông Hàn nuôi dưỡng tâm hoa Kế tuyệt, phù suy Gia Cát Lượng (Nối được cái đã đứt, đỡ được cái đã suy như Gia Cát Lượng) Tri lai, tàng vãng Thiệu Nghiên Phu (Tìm hiểu việc đã qua, dự đoán việc mai sau như Thiệu Nghiên Phu) NGUYỄN ĐỨC LƯỢNG người xã Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông. Ông đỗ Trạng Nguyên khoa Tân Mùi, đời Lê Tương Dực, niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1514), làm quan đến chức Tả Thị lang bộ Lễ; Sau khi chết được tặng Thượng Thư. Cháu gọi ông bằng cậu là Nguyễn Thiến, hiệu Cảo Xuyên, đỗ Trạng Nguyên khoa Nhâm Thìn (1532) đời Mạc Đăng Doanh, niên hiệu Đại chính thứ 3. Làm quan dưới triều nhà Mạc đến chức Lại bộ Thượng thư, Ngự sử đài đô ngự sử, Đông các Đại học sĩ, Nhập thị kinh diên, tước Thư quận công. Do sự kiện nầy và qua kết quả đỗ đạt của giòng họ, nên trong nhà thờ của Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng có đôi câu đối: “Cữu Trạng nguyên, sanh Trạng nguyên nhất giáp khoa danh quang sử bút Phụ Tiến sĩ, tử Tiến sĩ bát truyền chung đỉnh dụ gia khương Tạm dịch: Cậu Trạng nguyên, cháu Trạng nguyên, khoa bảng đỗ đầu, sáng ngời sử sách Cha tiến sĩ, con tiến sĩ, tám đời hưởng lộc vua ban, phúc lớn gia truyền Đồng Văn Năng sinh cuối thế kỷ thứ XV, mất cuối của thế kỷ thứ XVI. Tên ông còn gọi trong dân gian là “Ông Phổ”, là Đức Tổ đời thứ 4 của dòng họ Đồng thôn Thanh Cao, xã Thạch Khê, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Bấy giờ Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, Đồng Văn Năng lập nhiều công lớn trong công cuộc chấn hưng Lê triều, xứng đáng với lời khen ngợi của nhân dân: “Công đối Quỳnh Sơn vạn Trượng cao Đức lưu hoàng thủy thiên thu mãn” Đồng Văn Năng là vị thần “Dực bảo trung hưng linh phù bản cảnh, Lê triều tán trị công thần, Anh dũng tướng quân, Phổ dương hầu Đồng phủ quân tôn thần” được nhân dân tôn làm Thành Hoàng làng - Vị thần bảo hộ của mỗi làng Việt cổ truyền, sự linh thiêng của thần được các triều đại phong kiến ban cấp sắc phong chuẩn cho dân làng thờ phụng tại Đền Sắc Trản Nội thôn Thanh Cao, xã Thạch Khê, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Trên cột trụ chính giữa nhà thờ khắc câu đối chữ Hán, nội dung: “Qua điệt hiến diên Hà Tĩnh bắc Thuỷ nguyên phái dẫn Hải thành đông” Tạm dịch: “Con cháu vui mừng ở phía bắc tỉnh Hà (Hà Tĩnh) Cội nguồn bắt đầu từ phía đông thành Hải (Hải Dương)” Câu đối khắc trên hai cột trước: “Mộc bản thuỷ nguyên thiên thu hợp Phong tần nhã cát đức kỳ tâm” Tạm dịch: “Nước có nguồn cây có gốc nghìn năm vẫn vậy Phong tần nhã cát” (tư cách mỗi người) cốt ở tâm” Câu đối khắc trên hai cột giữa: “Nhập kỳ môn đắc kiến tông miếu Xuất do hộ nhược hữu dung thanh” Tạm dịch: “Vào đến cửa đã được thấy miếu mạo (thờ phụng linh thiêng Ra khỏi ngõ ngỡ còn nhìn rõ dung nhan nghe được tiếng nói” Nhà thờ Thần tổ Đồng Văn Năng nằm vị trí bên trái nhà thờ họ (nhìn trong ra), có quy mô nhỏ gọn hơn, hướng chính Nam. Hai bên khắc câu đối chữ Hán: “Tán trị Lê dân hàm hậu trạch Linh phù Đồng tộc hạ hồng ân” Tạm dịch: “Công lớn giúp (Triều đình), dân đen đều thấm ân huệ dày nặng Phép thiêng giúp (con cháu họ Đồng), cả họ mừng được ơn lớn” Phía trước, thiết kế bốn cột đỡ lấy hệ thống mái hiên, trên các cột có ghi một câu đối bằng chữ quốc ngữ: “Hội tụ đồng xanh hoà nhạc ngựa Đối lưu nước bạc sáng làn gươm” Một câu đối bằng chữ Hán: “Sinh vi dũng tướng, tử vi thần Công tại đan đình, danh tại sử” Dẫu Long phúc xưa, Thạch Khê nay, chỉ là một làng quê nhỏ bé trên đất Thạch Hà. Một làng quê chủ yếu sống bằng nghề làm ruộng, mà ruộng lại xấu, bạc màu, nhưng đã là một làng quê đã từng phồn thịnh nhất xứ Nghệ, kể từ đầu thế kỷ thứ XIV và là một trong những làng quê đã từng: “Đất đã nên đất: Thủy tụ long hồi Người lại nên người: Nam thanh nữ tú” Trần Phỉ Khanh quê ở Chi Nê, Thanh Oai, Hà Đông, đậu Thám hoa, triều Đoan Khánh, làm quan thượng thư nhà Mạc. Bấy giờ có người (không rõ ai) viết tặng đôi câu đối như sau: 歷代魁科天下有 Lịch đại khôi khoa thiên hạ hữu (Khôi khoa nhiều đời, thế gian có) 一門致仕世間無 Nhất môn trí sĩ thế gian vô (Hưu trí một nhà, thiên hạ không) Vào cuối thời Lê Sơ (đầu thế kỷ XVI) ở làng Xuân Lôi, huyện Vũ Ninh, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Xuân Bình, xã Đại Xuân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) có cậu bé tên là Hoàng Văn Tán gia cảnh tuy nghèo túng nhưng rất thông minh và giỏi đối đáp. Một hôm có cụ Chánh mang lễ và dẫn con trai đến nhập học. Nhìn lên mâm lễ lớn vừa đặt trên hương án, thầy đồ tức thì ra một vế đối có ý thử tài trò mới và các nho sinh: Con ruồi đậu mâm xôi, mâm xôi đậu Vì thầy chơi chữ nên vế ra này rất khó đối, cả đám học trò ngơ ngác nhíu mày im lặng, thầy đồ lắc đầu, hết hy vọng. Bất ngờ cậu bé Tán từ bếp chạy lên, tay vẫn sách siêu nước bốc hơi nghi ngút, cậu kính cẩn xin phép thầy được đối lại, thầy gật đầu bằng lòng. Cụ Chánh và đám nho sinh đứng ngây như phỗng nhìn cậu bé Tán với vẻ ngờ vực. Tán dõng dạc đọc: Cái kiến bò đĩa thịt, đĩa thịt bò Khi chuẩn bị “lều chõng” lên đường đi thi thì trời nổi cơn mưa, thầy đồ muốn khảo thí các môn sinh lần cuối bèn ra một vế đối: Lác đác mưa sa làng Hạ Vũ (Hạ Vũ tức làng Phương Vĩ, phường Vũ Ninh ngày nay - quê thầy đồ, nhưng vấn đề ở đây là Hạ Vũ cũng có nghĩa là mưa sa). Một lần nữa cả môn trường im lặng, thầy trầm tư vẻ mặt không vui. Bỗng nhiên có tiếng xin thầy được đối vang lên từ phía sau, thầy ngoảnh lại chính là Hoàng Văn Tán nói, thấy vậy thầy vui vẻ đồng ý nhận lời. Tán đáp lại rằng: Ầm ầm sấm động đất Xuân Lôi. (Xuân Lôi là quê của Hoàng Văn Tán, cũng có nghĩa là sấm động mùa Xuân). Tán vừa đọc dứt vế đối thì trên trời lóe chớp và tiếp theo là một tiếng sấm rất lớn. Thầy đồ sung sướng reo lên: \"Trạng nguyên của ta đây rồi!\" Và kỳ thi năm đó Hoàng Văn Tán đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ nhất danh Trạng nguyên, sau ông làm đến chức Tả thị lang bộ lễ cho nhà Mạc. Ông được giao cùng với Đông các đại học sĩ Đạo Nguyện bá Nguyễn Văn Thái thảo tờ chiếu của Lê Cung Hoàng nhường ngôi cho Mạc Đăng Dung (Đại Việt Sử ký Toàn thư chỉ chép là Nguyễn Văn Thái thảo chiếu này). Vế đối này có thuyết khác lại chép là của Nguyễn Tự Cường nhưng lời lẽ có khác đôi chút, điển tích như sau: Nguyễn Tự Cường người làng Xuân Lôi, tuy đã lớn tuổi, có vợ con rồi mà vẫn bị mang tiếng là người dốt nát. Lúc ông 30 tuổi, vợ ông cố năn nỉ một vị đại khoa để xin cho ông được phép khai tâm. Vị đại khoa nhận lời, nhưng ông Cường học tối dạ, ba ngày không thuộc một bài. Thầy không muốn dạy nữa, ngỏ ý trả ông về với vợ, nhưng bà vợ năn nỉ quá, ông bèn thương tình ra cho một câu đối, nếu đối được thì ông dạy, bằng không thì thôi. Nhân tên làng của thầy là làng Hạ Vũ và gặp lúc đang mưa, thầy liền ra câu đối: Làng Hạ Vũ mưa bay phất phới. Nguyễn Tự Cường liền ứng khẩu đối luôn là: Đất Xuân Lôi sấm động ù ù. Thầy liền cả kinh mà nói rằng: “Coi câu đối của anh thì cái khí tượng đại khoa đã biểu lộ. Thực là ít có, thế nào anh cũng thành đạt được. Như thế thì, dù anh không muốn học, tôi cũng khuyên cho đi học”. Quả đúng như lời thầy tiên đoán, ông Nguyễn Tự Cường về sau đỗ Hoàng Giáp, khoa niên hiệu Hồng Thuận thứ 16 triều vua Tương Dực nhà Lê. Trần Tất Văn, người làng Nguyệt Áng, tổng Đại Hoàng, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay là thôn Nguyệt Áng, xã Thái Sơn, huyện An Lão, TP. Hải Phòng) thi đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Thống Nguyên thứ 5 (1526) đời vua Lê Cung Hoàng. Ông là tác giả bài biểu Lui vạn binh nổi tiếng, tương truyền, Mao Bá Ôn đọc biểu rơi nước mắt rồi quyết định lui quân. Trong lịch sử bang giao thời Đại Việt, lời lẽ và sức mạnh của bài biểu “Lui vạn binh” của Trạng nguyên Trần Tất Văn có thể được sánh ngang với lời đối đanh thép “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” của sứ thần Giang Văn Minh. Trần Tất Văn làm quan nhà Mạc đến chức Thượng thư, tước Hàn Xuyên Bá. Làng Nguyệt Áng - nơi Trạng nguyên Trần Tất Văn sinh ra và lớn lên có mạch núi cao, sông Cửu Biều lượn quanh, đất đai tươi tốt, khí tinh hoa tụ họp lại. Bởi thế, dân làng còn mãi truyền tụng câu đối ca ngợi truyền thống hiếu học của quê hương do cha con Trạng nguyên Trần Tất Văn là người đắp móng, xây nền như sau: “Một áng văn chương, dò đâu đó, nền Tể Tướng đất Trạng Nguyên, làng Nguyệt Áng địa linh nhân kiệt Mấy hàng chữ nghĩa, đáng là bao, của Thương Thư nhà An Sát, đất Cổ Am nguyện lộng phong lâu” Giáp Hải tự là Tiềm Phu, hiệu Tiết Trai, tục gọi là Trạng Kế. Ông quê làng Dĩnh Kế, huyện Ph­ượng Nhãn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang). Giáp Hải đỗ Trạng nguyên năm Mậu Tuất, niên hiệu Đại Chính thứ chín (1538) đời Mạc Thái Tông. Dư­ới triều Mạc, ông giữ chức Tuyên phủ đồng tri, thăng Lại bộ Thư­ợng thư­, kiêm Đông các đại học sĩ Nhập thị kinh diên, thăng hàm Thiếu bảo tư­ớc Sách quốc công. Giáp Hải rất giỏi về văn học và ngoại giao, nhiều lần đi sứ phư­ơng Bắc, ông đư­ợc ngư­ời Minh kính phục và trang trọng gọi là Giáp Trạng Nguyên. Vua Mạc Mậu Hợp tặng ông lá cờ thêu đôi câu đối khi về h­ưu: \"Trạng đầu tể t­ướng Đẩu Nam tuấn Quốc lão, đế s­ư, thiên hạ tôn\" Dịch nghĩa: Đỗ trạng nguyên, làm tể tướng, danh tựa Nam Đẩu Là quốc lão, làm thầy vua, đư­ợc mọi ng­ười kính trọng Có 1 Thầy đồ muốn thử tài học sinh của mình, ra một vế đối: Kiến đậu cành cam, bò quấn quít Thầy dùng tiểu xảo: có cam lại có quýt. Chữ quýt vừa là tiếng đệm, vừa là tên cây. Cả đám học trò loay hoay nghĩ mãi chưa ra thì chú bé hầu trà của thầy đồ đã chắp tay: \"Thưa thầy, con xin đối\". Cả thầy đồ và đám học sinh đều ngạc nhiên. Thầy đồ bảo: \"Phải học luật thơ, luật phú mới đối được chứ. Con có học gì đâu? Nhưng thôi được, cho con cứ đọc.\" Thưa thầy và xin phép các anh ở đây, con xin đối là: Ngựa về đường Bưởi, chạy lanh chanh Gần như giật mình, thầy đồ đập tay xuống chiếu: \"Giỏi lắm! Giỏi lắm! Rất hay, rất chỉnh\". Thầy bảo với cả lớp: \"Các anh thấy chưa? Cam quýt đối với bưởi chanh. Hay lắm! Mà ý tứ lại khoáng đạt hào hùng hơn câu ra. Các anh nên nhớ lấy\". Thầy quay lại chú bé: \"Nhưng sao mà con lại nói đường Bưởi? Đường Bưởi ở đâu?\" Chú bé đáp: \"Thưa thầy tha lỗi con nói đường Bưởi là vì con nghĩ đến quê con. Con ở làng Bưởi Nồi, tức là Đại Bái.\" Chú bé nói đúng. Chú tên là Phạm Hoảng, quê ở Đại Bái (nay thuộc huyện Gia Lương, Bắc Ninh). Chú vốn theo nghề gò đồng của làng này. Một hôm, khi gò mảnh dát, chú lỡ đập búa vào chân. Đau qua, chú bực mình vứt đe xuống ruộng bỏ đi ở hầu trà nước cho thầy đồ. Hàng ngày, nhập tâm lời giảng của thầy, lời kể của sách, lời đọc bài của học sinh mà chú được mở mang trí tuệ. Thấy chú bé có khiếu, thầy đồ và nhà chủ đã giúp đỡ cho chú học tập. Sau này, Phạm Hoảng đã thành công rực rỡ. Ông đỗ Hoàng Giáp đời Mạc (1535), đồng khóa với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hôm vinh quy về làng, làng không dám nhận. Ông Hoàng Giáp phải ra đám ruộng, mò lấy hòn đe mình đã vứt xuống để chứng minh với dân làng rằng chính mình quê ở Bưởi Nồi, Đại Bái. Nguyễn Mẫn Đốc, người họ Tam Sơn - Tiết Nghĩa, quê làng Dòng, xã Xuân Lũng, huyện Sơn Vi, nay là huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Bảng nhãn Nguyễn Mẫn Đốc vì phù Lê, diệt Mạc mà tuẫn tiết được các tài liệu ghi nhận chính xác đến từng chi tiết và cơ bản là thống nhất. Hài cốt của ông được liệm trong quan, ngoài quách đồng, cho rước về quê táng tại một quả đồi ở xóm Lũng Bô. Còn được dựng Lăng miếu thờ theo kiểu thờ một vương tước, vì thế nơi ấy có tên là Rừng Lăng (Lăng nghĩa gốc là đồi đất lớn). Đôi câu đối tương truyền vua ban được lưu truyền trong dòng họ và làng xã một thời: \"Tảo tuế khôi khoa thiên hạ hữu Trung thần tiết nghĩa thế gian vô Dich nghia: Đỗ đạt sớm thì thiên hạ có người Ít tuổi mà tiết nghĩa thế gian không có ai\". Xã chí Xuân Lũng, bản chữ Hán và quốc ngữ hiện còn lưu giữ ở Viện nghiên cứu Hán Nôm, do lý trưởng Nguyễn Liên, tiên chỉ Lê Như Bách và trưởng bạ Nguyễn Viết Đạo thị thực, ký tên và áp triện năm 1943, còn ghi lại đôi câu đối: \"Thần trung tử hiếu cương thường tại Địa hiếu thiên lưu tiết nghĩa trường\" ý rằng bề tôi trung, con cháu hiếu thảo, cương thường còn, tiết nghĩa bền Câu đối ở đình Hải Yến: Đình Hải Yến - phường Yên Hải - thị xã Quảng Yên - tỉnh Quảng Ninh được xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII. Đình thờ thần Phạm Tử Nghi làm thành hoàng che chở cho dân làng. Ngoài ra, đình còn phối thờ các vị Tiên Công của các dòng họ đã có công lập làng Hải Yến. Phạm Tử Nghi là tướng nhà Mạc, người làng Vinh Niệm, tổng An Dương, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương – nay là phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Việt Nam. Phạm Tử Nghi được nhà Mạc thu dụng, cất nhắc làm Thái uý, tước Tứ Dương hầu. Trong đền thờ Phạm Tử Nghi có câu đối đề: Tướng Mạc, thần Lê, danh bất hủ Cừu Minh, hận Hán, tiết di cao Dịch nghĩa: Tướng Mạc, thần Lê, tên còn mãi Thù Minh ghét Hán khí tiết cao Minh sử ghi nhận: “Mạn Lĩnh Hải náo động”. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư: “Tử Nghi trốn vào đất Minh, thả quân đi bắt người cướp của ở Quảng Đông, Quảng Tây, người Minh không thể kìm chế được” Câu đối khắc ở miếu Đôn phường Niệm Nghĩa quận lê Chân - Hải Phòng: Thánh thần hải sơn chung lưỡng quốc linh thanh truyền sử sách Hiếu trung thiên địa phạm ức niên lăng miếu hệ dân ân. Dịch: Thánh thần do khí sáng của non sông hai nước uy linh còn sử chép Trung hiếu là khuôn thiêng, trong trời đất nghìn đời, lăng miếu ở nơi dân. Tại miếu Vu Linh hiện còn các đôi câu đối ca ngợi Phạm Tử Nghi như sau: Thánh đức linh thiêng, Đông Hải núi sông thiên cổ miếu Thần thông chính trực, xã tắc vững bền bốn mùa hương và: Đức lớn yên dân thiên cổ thịnh Công cao hộ quốc vạn niên thường. Theo gia phả họ Nguyễn Ba Ngành kể lại cụ tổ họ Ba Ngành là Ngô Tướng Công, tên thật là Ngô Tiến Đức sau đổi thành Nguyễn Tiến Đức vốn người gốc Thanh Hóa, làm quan giám thị dưới thời Lê Sơ. Cụ bà Mai Thị Tình sinh hạ được 3 người con trai: Con trưởng tên là Nguyễn Duy Tín; con thứ Nguyễn Duy Thường; con thứ 3 là Nguyễn Chính Tuân. Nguyễn Chính Tuân người Lâm Thao xã Xuân Lũng huyện Sơn Vi nay là làng Dòng xã Xuân Lũng huyện Phong Châu tỉnh Phú Thọ, do không chịu theo nhà Mạc nên cả 3 anh em trai đều cải họ Nguyễn Ngô. Nơi thờ danh nhân Nguyễn Chính Tuân có tên là \"Từ đường họ Ba Ngành\" được xây dựng vào năm 1882 dưới chân một quả gò nhỏ nằm giữa xóm Làng San Nội. Cổng từ đường nằm sát ven con đường làng nhỏ, phía trên đề 3 chữ hán \"Tiến sĩ từ\" được mô phỏng theo kiểu táp môn 2 tầng 8 mái, hai bên cửa vòm được trang trí câu đối. Câu đối trong từ đường : Ngô tổ chung gia tuỳ Lê khứ Mạc thời huấn cải Nguyễn gia Kim Bùi Khắc Nhất quê xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, dự thi “Chế khoa” mở lần thứ hai vào năm Ất Sửu, niên hiệu Chính Trị, triều Lê Anh Tông (1565) và đỗ Đệ nhất giáp chế khoa, Bảng nhãn. Ở nhà thờ ông hiện còn thấy mấy đôi câu đối chữ Hán sau: Tứ thập tứ tải tuyên cao sự kinh lục Bộ Thất thập thất niên hưởng thọ sĩ lịch tam triều Dịch: Bốn mươi bốn năm công to kinh qua sáu bộ Bảy mươi bảy tuổi hưởng thọ trải suốt ba triều và: Chính Trị Ất Sửu khoa Bảng nhãn Trung Hưng đệ nhị các Công thần Dịch: Triều Chính Trị Khoa Ất Sửu thi đỗ Bảng nhãn Hàng công thần triều Trung Hưng xếp bậc thứ hai Sau khi thi đỗ, ông được bổ làm quan, tại vị 44 năm thì mất. Về quân sự, ông giữ chức Binh bộ thượng thư nhiều năm. Về chính trị, ông từng làm Tả thị lang bộ Công, phụ trách việc tu bổ, xây dựng khẩn trương lại cung điện, tường thành, kho tàng...Rồi làm Tả thị lang bộ Hình, coi sóc việc tù ngục, xét xử các vụ kiện. Khi mất người dân Bột Thái (Hoằng Lộc) dựng nhà thờ để tưởng niệm, ghi nhớ công đức và chọn một vị trí đẹp để đặt phần mộ ông và đề tặng câu đối như sau: Long phi ứng tại thiên thượng thái Hổ phục linh cư địa hạ thành Dịch: Phía trên trời cao thì có rồng bay lượn Ở dưới đất thiêng thì có hổ quỳ chầu Mạc Cảnh Huống húy Lịch (1542-1677) là con út của Thái tông Mạc Đăng Doanh, dưới thời vua Mạc Mậu Hợp, Mạc Cảnh Huống quyết định đưa gia đình vào Đàng Trong với ý đồ giúp cho Nguyễn Hoàng. Ông là vị chỉ huy tối cao của quân đội Đàng Trong, người vạch ra chiến lược quân sự để chống quân Trịnh ở phía Bắc và bình định quân Chiêm ở phương Nam. Ông giúp chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635-1648) cho đến năm 1638 ông mới xin từ quan, nghỉ việc công ở tuổi 96 để tu hành. Dưới đây là những câu đối khắc trên lăng mộ và đền thờ ông tại làng Trà Kiệu huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam. Ở trên 2 trụ cổng lăng khắc hai hàng câu đổi chữ Hán chạy dọc sơn màu váng trên nền đỏ: Bắc địa hưng bang đa tuấn kiệt Nam thiên khai quốc đại công thần. Tạm dịch: Đất Bắc dựng non nhiều anh kiệt Trời Nam mở cõi lắm công thần Ngoài câu đối bằng chữ Hán ở phía trước lăng mộ của danh thần Mạc Cảnh Huống đã được nêu ở trên còn có các câu đối khác: “Tổ lai Bắc địa căn nguyên thủy Hồi trứ Nam thiên vũ trụ tiên” Tạm dịch: “Gốc trước quê cha trên đất Bắc Về xây tiên tổ chốn trời Nam” Ở bên Tả của chánh tẩm treo câu đối màu vàng trên nền đỏ: “Quốc tước tập phong hoa cổn miện Công thần phò chúa tráng dư đồ” Tạm dịch: “ Tước hiệu vua ban cùng mũ áo Công thần phò chúa mở cõi bờ” Ở bên Hữu của tẩm treo câu đối: “Trà Sơn linh tú phụng quang cửu Đông Phụ căn miêu tộc tánh trường” Tạm dịch: Núi Trà Kiệu linh kiệt mãi quang vinh Gò Đông gốc rễ lưu danh họ Ở gian giữa chính điện treo câu đối: Quốc súng công thần khâm đế mạng Sắc phong Thượng tướng hà triều ân Tạm dịch: Nước quý công thần vâng mệnh chúa Sắc phong Thượng tướng chịu ơn vua Năm 1557, ở thôn An Thái, làng Vân Cát, huyện Vụ Bản, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay, có một gia đình nhà họ Lê. Phu nhân Lê Thái Công mang thai gần đến kỳ sinh nở, Lê Thái Công bỗng ngã ra bất tỉnh, thấy mình được đưa lên Thiên Đình. Tại đây, Thái Công dự một bữa tiệc lớn, do Ngọc Hoàng khoản đãi. Ông thấy Công Chuá Quỳnh Nương lỡ tay làm rơi chén ngọc, bị đày ải xuống trần gian. Khi Thái Công tỉnh dậy, thì phu nhân vừa hạ sinh được một cô con gái, Thái Công đặt tên con là Giáng Tiên. Năm 18 tuổi, nàng kết duyên cùng Đào Lang. Ba năm sau, Giáng Tiên đột ngột từ trần. Ngọc Hoàng thấy nàng chưa hết hạn đi đày, bắt phải trở xuống thế gian. Lần này, nàng xuất hiện dưới lốt một vị nữ thần, đi theo là 2 ngọc nữ Quế Nương và Thị Nương. Chẳng mấy chốc, thiên hạ đều biết tiếng các vị tiên nữ, vì những phép linh ứng của 3 nàng. Dân chúng tỏ lòng biết ơn, đã xây một ngôi đền thờ cạnh núi, để thờ phượng. Đền thờ này được gọi là đền thờ Công Chuá Liễu Hạnh. Triều đình nghe danh tiếng, đã phong tặng nàng làm Thượng Đẳng Phúc Thần. Sau khi Liễu Hạnh về trời, hai tiên nữ Quế Nương và Thị Nương thường đứng ra làm trung gian cho dân chúng cầu xin đến Công Chúa. Dân gian tin tưởng Bà Chuá Liễu, lập đền thờ bà khá trọng thể ở Phủ Giầy, Nam Định, nơi nàng đầu thai. Dân cũng lập đền thờ Bà Chuá Liễu ở Phố Cát và Đền Sòng tại Thanh Hoá, nơi nàng xuống trần lần thứ hai. Phủ Thánh Đài còn gọi là phủ Tổ, phủ Đá là nơi thờ tổ tiên mẫu của làng Vân Cát. Ở đây có đôi câu đối do Đông các Đại học sĩ tổng đốc trí sĩ làng Miêu Nha, huyện Kiến An Mai Trung Cát đề tặng như sau: Hoàng Lê quốc phái bản bản nguyên, minh đức kỳ lai viễn hĩ Vân Cát hương dân tôn tôn tử, kế thế vật thế dẫn chi (Dòng dõi vua Lê, nguồn gốc lưu truyền, đức sáng bao trùm lâu lắm vậy Dân làng Vân Cát, cháu con nối tiếp, chớ hề thay đổi nếp xưa đi) Câu đối của Tổng đốc Nam Định Đoàn Triển: Chân thân tòng để khuyết, tam giáng sinh duy tinh duy hiếu, thiên cổ mẫu nghi. Thúc nhiên xa cái vân du, do yết tâm kinh phù thế đạo Linh thanh liệt Nam thiên, tứ bất tử thị phật thị tiên, vạn gia từ mộ. Đương thử giang hà nhật hạ, khởi duyên phong hội biến thần quyền Chân thân từ để khuyết, ba độ giáng sinh vẫn trinh vẫn hiếu, muôn thuở khuôn mẫu người mẹ. Bỗng nhiên xe lọng xa vời, còn để tâm kinh dạy cho thế đạo. Thiêng liêng ở Nam Giao, thứ tư bất tử là phật, là tiên, mọi nhà kính mến lòng từ. Đang buổi non sông ngày xuống, đâu vì phong hội thay đổi thần quyến Năm 1938, Lăng mộ được các đệ tử Đào Chi ở đền Phổ Hóa (Huế) công đức xây dựng bằng đá xanh. Trong đó có đôi câu đối của ba chị em Đào Chi: Sinh hóa suốt ba phen, trinh hiếu gươm treo miền quận Bắc Tinh thần 500 lẻ, anh linh bóng dọi chốn thành Nam Đền thờ Ngài ở Hà-nội mang tên là đền Ngọc-hồ (do tích vì Ngài làm vỡ bầu ngọc mà bị giáng trần, như đã nói ở đầu bài này). Trước đền có một bức hoành đăng mang bốn chữ đại tự 玉壺世界 (ngọc hồ thế giới, tức thế giới bầu ngọc), có ý chỉ đền tượng trưng cho cả một thế giới. Hai bên còn có đôi câu đối sau: 壺中日月依然天竺清光, 玉盞樓臺別占蓬萊世界 日焰月臨玉壺燦爛, 山纏水繞浦葛奇觀 Hồ trung nhật nguyệt y nhiên Thiên-trúc thanh quang, Ngọc trản lâu đài biệt chiếm Bồng-lai thế giới Nhật diễm nguyệt lâm, ngọc hồ xán lạn, Sơn triền thủy nhiễu, Phố Cát kỳ quan dịch: Nhật nguyệt trong bầu giống trời Phật giáo trong sáng, Chén ngọc lâu đài riêng chiếm thế giới Bồng-lai Trời soi trăng chiếu, bầu ngọc xán lạn, Núi chồng sông lượn, Phố Cát cảnh lạ Đôi câu đối này có ý nói Thánh mẫu Liễu-hạnh ngự trị thế giới Ngọc-hồ, nơi trời trăng trong sáng như trời Thiên-trúc (ý chỉ trời Phật giáo), cũng là thế giới Ngọc-trản, tràn đầy rượu ngon để cho các thi nhân ngồi trên lầu đài thưởng thức mà ngâm vịnh thiên nhiên vũ trụ vạn vật, thật sướng như sống trong Bồng-lai tiên cảnh. Tại đền Kiếm-hồ có một đôi câu đối biểu đạt rõ ràng chân bản lai diện mục của Thánh mẫu Liễu-hạnh, một người mẹ hiền từ chẳng phải của riêng loài người mà là của vạn vật muôn loài: 成物如地, 生物如天, 陶鎔物類如大造之難得名, 言歷代袞華昭懿鑠. 出世為僊, 降世為佛, 普度世人為慈母之憫斯鬻子, 萬方芹曝樂尊親. Thành vật như địa, sinh vật như thiên, đào dung vật loại như đại tạo chi nan đắc danh ngôn, lịch đại cổn hoa chiêu ý thước Xuất thế vi Tiên, giáng thế vi Phật, phổ độ thế nhân vi từ mẫu chi mẫn tư chúc tử, vạn phương cần bộc lạc tôn thân Tạm dịch là: Làm nên vật như đất, sinh nên vật như trời, nung đúc các loài như công lớn tạo hóa khó nói được tên, đời đời áo bào hoa sáng ý đẹp Xuất thế là Tiên, giáng thế là Phật, độ khắp người đời làm Mẹ hiền thương sót con thơ, muôn phương hương khói vui lòng tôn yêu Phùng Khắc Khoan hiệu là Nghị Trai, tự là Hoằng Phu, người ở làng Bùng (nay là làng Phùng Xá, đất Sơn Tây) tục gọi là Trạng Bùng. Tương truyền rằng Khoan là anh em cùng mẹ khác cha với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Phùng Khắc Khoan lớn lên, được mẹ cho đi Hải Dương theo học anh là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm Canh Thìn (1580), nhà Lê Trung hưng mở Hội thi ở Vạn Lại, Thanh Hoá, lấy đỗ sáu người, Phùng Khắc Khoan đỗ thứ hai, được thăng chức Đô cấp sự trung. Trong đời Lê Thế Tông (1600 - 1619), ông lĩnh chức Công bộ Thượng thư, kiêm Quốc tử giám Tế tửu. Câu đối tự thuật: Đương lúc vội vàng chàng những muốn... Bây giờ thong thả thiếp tha hồ... Ở đây Trạng Bùng đã khéo vận dụng câu ca dao:\"Đương khi tắt lửa cơm sôi, lợn kêu con khóc chồng đòi tòm tem...Bây giờ lửa đã cháy lên, lợn no con nín tòm tem thì tom\" Đối đáp với Công Chúa Liễu Hạnh: Khi nhà Lê khôi phục Thăng Long, Phùng Khắc Khoan được cử đi sứ triều Minh bên Tàu. Trạng Bùng hoàn thành chuyến đi sứ từ Trung Quốc về đến Lạng Sơn, trên đường đi qua một ngôi chùa, trước sân có ba cây thông, một cô gái xinh đẹp ngồi đó, vừa đàn vừa hát. Phùng Khắc Khoan lên tiếng ghẹo: 三木森庭坐著好兮女子 Tam mộc xâm đình, tọa trước hảo hề nữ tử (Ba cây che sân, một cô gái đẹp ngồi đó). Không ngờ cô gái đối ngay: 重山出路走來使者吏人 Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân (Núi non mở đường, người sứ giả đi, đó là một vị quan) Trạng Bùng vừa ngạc nhiên vừa khâm phục cô gái. Bởi vế ra đối của ông tuy là lời lẽ dung dị, nhưng dùng cách ghép chữ không dễ đối: ba chữ “mộc” [木] (cây), ghép lại thành chữ “sâm” [森] (rậm rạp); chữ “hảo” [好] (tốt, đẹp), do chữ “ nữ” [女] (phụ nữ) và chữ “tử” [子] (con) ghép lại. Cô gái cũng dùng lời lẽ bình thường, và cũng sử dụng lối ghép chữ: hai chữ “sơn” [山] (núi), ghép lại thành chữ “xuất” [出] (ra, mở); chữ “sứ” [使] (đi sứ), do chữ “lại” [吏] (quan lại) và chữ “nhân” [人] (người) ghép lại. Ông hứng khởi đọc luôn câu khác: 山人憑一几莫非仙女臨凡 Sơn nhân bằng nhất kỷ, mạc phi tiên nữ lâm phàm (chữ “sơn” [山] (núi) ghép với chữ “nhân” [人] (người), thành chữ “tiên” [仙] (tiên); chữ “bằng” [朋] có chữ “kỉ” [几] (ghế); chữ “nhất” [一] ghép với chữ “kỉ” [几] thành chữ “phàm” [凡] (trần tục). Cả câu có nghĩa: Cô gái miền núi ngồi trên ghế, phải chăng là nàng tiên giáng trần? Cô gái cũng đáp lại một cách tài tình: 文子帶長巾必是學生侍帳 Văn từ đối trường cân, tất thị học sinh thị trướng. Lại vẫn dùng lối ghép chữ: chữ “văn” [文] ghép với chữ “tử” [子], thành chữ “học” [學]; chữ “đới” [帶] có chữ “cân” [巾] (cái khăn); chữ “trường” [長] ghép với chữ “cân” [巾] thành chữ “trướng” [帳] (màn). Cả câu có nghĩa: Chàng văn nhân chít khăn dài, chính là cậu học sinh nhìn vào màn đấy chăng? Phùng Khắc Khoan thấy vậy, muốn hỏi lai lịch thì đã biến mất rồi, chỉ thấy gỗ nằm ngổn ngang, hình ra bốn chỗ: “Mão khẩu công chúa”, và có một cây gỗ dựng viết bốn chữ “Thủy mã dĩ tẩu”. Những người cùng đi tỏ vẻ không hiểu, ông Phùng giảng giải: “Mộc” [木] là cây gỗ, ghép với chữ “ mão” [卯] thành chữ “liễu” [柳], ghép với chữ “khẩu” [口] ra thành chữ “hạnh” [杏]. Tiên nữ vừa rồi chính là công chúa Liễu Hạnh. Còn chữ “băng” [冫] ghép với chữ “mã” [馬], là họ Phùng [馮] của ta; chữ “dĩ” [已] nằm cạnh chữ “tẩu” [走] chính là chữ “khởi” [起]. Chắc công chúa muốn ta khởi công xây dựng ngôi chùa. Sau đó, Phùng Khắc Khoan lập tức xuất tiền tiến hành khởi công trùng tu ngôi chùa này Tương truyền, một lần Phùng Khắc Khoan cùng hai bạn văn thơ (không rõ tên) họ Lý và họ Ngô đi chơi lênh đênh trên một chiếc thuyền ở Hồ Tây, cầm kỳ thi tửu. Bỗng họ trông thấy một khóm cây đào xanh tốt um tùm, bèn len thuyền vào bên trong thì thấy có một tòa lầu nguy nga, ngoài cửa bên trên có đề bốn chữ \"Tây hồ phong nguyệt (gió trăng hồ Tây) và hai bên có đôi liễn viết lối chữ thảo: 湖中閒日月 城外小乾坤 Hồ trung nhàn nhật nguyệt Thành ngoại tiểu càn khôn Dịch nghĩa: Trong hồ nhật nguyệt nhàn Ngoài thành vũ trụ nhỏ Trước lầu có che một bức mành mành, thấp thoáng bên trong bóng một thiếu nữ mặc áo đỏ lịch sự. Họ Lý cất tiếng hỏi: \"Chỗ lâu đài này có phải là cảnh tiên không? Anh em chúng tôi vô tình lỡ bước tới đây, muốn mượn cảnh này làm chỗ Lan-đình thắng hội, không biết tiên nữ có dung cho hay không?\" Thiếu nữ bèn đáp: \"Chỗ này không phải phàm trần, nếu các ông quả là bậc phong nhã, thì tôi đây cũng không hẹp gì.\" Ba người bèn đậu thuyền bước lên. Bên trong thấy có bàn đá, bèn giở bầu rượu túi thơ ra uống và ngâm vịnh. Thiếu nữ hỏi rằng: \"Các ông tới đây có tài nhả ngọc phun châu, văn chương đủ kinh động quỉ thần. Nay tôi có một đề thơ muốn cùng các ngài xướng họa.\" Thiếu nữ đó chính là Liễu Hạnh công chúa hạ phàm: Liễu-Hạnh: 西湖別占一壺天 Tây hồ biệt chiếm nhất hồ thiên Lý: 縱目乾坤盡豁然, 古樹遠莊青寞寞 Túng mục càn khôn tận khoát nhiên, cổ thụ viễn trang thanh mịch mịch Phùng: 金牛闊水綠涓涓,生涯何處數間屋 Kim ngưu khoát thủy lục quyên quyên, sinh nhai hà xứ sổ gian ốc Ngô: 活計誰家一隻船, 隔竹疏離聞犬吠 Hoạt kế thùy gia nhất chích thuyền, cách trúc sơ ly văn khuyển phệ Lý: 烹茶破壁透廚煙, 輕輕桂棹手中蕩 Phanh trà phá bích thấu trù yên, khinh khinh quế trạo thủ trung đãng Phùng: 短短簑衣身上穿, 彷彿洞庭游范蠡 Đoản đoản suy y thân thượng xuyên, phảng phất Động đình du Phạm-Lãi Ngô: 依稀碧漢泛張騫, 千尋浩蕩暗深淺 Y hy bích Hán phiếm Trương-Khiên, thiên tầm hạo đãng ám thâm thiển Lý: 四顧微茫迭後先, 款乃往來紅蓼畔 Tứ cố vi mang điệt hậu tiên, khoản nãi vãng lai hồng liệu bạn Phùng: 嘔啞出入白蘆邊, 沙中獵戲忘機鷺 Ẩu nha xuất nhập bạch lô biên, sa trung liệp hí vong cơ lộ Ngô: 雲外閒觀率性鳶, 幾曲滄歌聞水國 Vân ngoại nhàn quan suất tính diên, kỷ khúc thương ca văn thủy quốc Lý: 一雙白眼放塵喧, 交頭對話倚荷蓋 Nhất song bạch nhãn phóng trần huyên, giao đầu đối thoại ỷ hà cái Phùng: 伸手相招戲莢錢, 笠放蓮間藏寀嫩 Thân thủ tương chiêu hí giáp tiền, lạp phóng liên gian tàng thái nộn Ngô: 籃沉梢底養魚鮮, 或將淡酒花叢酌 Lam trầm sao để dưỡng ngư tiên, hoặc tương đạm tửu hoa tùng chước Lý: 辰枕長篙樹影眠, 醉後相看拋水面 Thần chẩm trường cao thụ ảnh miên, túy hậu tương khan phao thủy diện Phùng: 浴餘自樂曝風前, 安華牧子新朋結 Dục dư tự lạc bộc phong tiền, an hoa mục tử tân bằng kết Ngô: 上苑樵夫舊約堅, 抱膝徐吾觀蚌勢 Thượng uyển tiều phu cựu ước kiên, bão tất từ ngô quan bạng thế Lý: 探領笑彼沒龍淵, 網疏每避勢途險 Thám lĩnh tiếu bỉ một long uyên, võng sơ mỗi tị thế đồ hiểm Phùng: 釣直羞將利餌懸, 寒渚夏來猶愛日 Điếu trực tu tương lợi nhĩ huyền, hàn chử hạ lai do ái nhật Ngô: 長安冬盡未知年, 三公肯煙霞換 Trường an đông tận vị tri niên, tam công khẳng bả yên hà hoán Lý: 半點寧容俗慮牽, 渭水任符文伯卜 Bán điểm ninh dung tục lự khiên, vị-thủy nhậm phù văn bá bốc, Phùng: 桃源好訪武陵緣, 閒鐘乍覺心為佛 Đào nguyên hảo phỏng Vũ-lăng duyên, nhàn chung sạ giác tâm vi Phật Liễu-Hạnh kết thúc: 得月應知我是仙 Đắc nguyệt ưng tri ngã thị Tiên Phan-kế-Bính đã dịch bài này như sau: Chúa Liễu xướng: Hồ Tây riêng chiếm một bầu trời, Lý: Bát ngát bốn mùa rộng mắt coi. Cõi ngọc xanh xanh làng phía cạnh, Phùng: Trâu vàng biêng biếc nước vành khơi.Che mưa nhà lợp vài gian cỏ, Ngô: Chéo gió ai bơi một chiếc chài.Rậu thủng chó đua đàn sủa tiếng, Lý: Trời hôm bếp thổi khói tuôn hơi.Mơn mơn tay lái con chèo quế, Phùng: Xàn xạt mình đeo chiếc áo tơi.Thuyền Phạm phất phơ chơi bể rộng, Ngô: Bè Trương thấp thoáng thả sông trời.Đò đưa bãi lác tai dồn dã, Lý: Giọng hát bờ lau tiếng thảnh thơi.Cò xuống đưa qua vùng cát đậu, Phùng: Diều bay sẻ liệng đám mây chơi.Khúc ca trong đục ẩm bên nước, Ngô: Quầng mắt xanh đen sạch bụi đời.Đầu gối long hà lai láng chuyện, Lý: Tay soi tiền giáp lả lơi cười.Chốc sen ngả nón chứa rau búp, Phùng: Đáy nước dìm phao bắt cá tươi.Có lúc kề hoa vầy tiệc rượu, Ngô: Họa khi tựa bóng đứng đầu mui.Say rồi cởi áo quăng dòng mái, Lý: Tắm đoạn xoay quần hóng gió phơi.Trẻ mục Yên-hoa bầy tiệc rượu, Phùng: Lũ tiều Thượng-uyển hẹn lời dai.Bắt cò cứ vững ngồi rình bụi, Ngô: Mò ngọc khen ai khéo lặn ngòi.Tay lưới thế thần khôn mắc vướng, Lý: Lưỡi câu danh lợi nhẹ tham mồi.Hạ rồi bến mát còn yêu nắng, Phùng: Đông hết thành xuân chửa thấy mai.Thú cảnh yên hà sang dễ đọ, Ngô: Sóng lòng trần tục dạ hồ vơi.Xe săn Vị-thủy tha hồ hỏi, Lý: Thuyền tới Đào-nguyên mặc sức bơi.Chuông sớm giục thanh lòng Phật đó, Chúa Liễu kết thúc một câu: Trăng tròn soi một bóng Tiên thôi. Sau đó, Tiên-chúa giã cảnh Hồ Tây qua chơi Sóc-hương tỉnh Nghệ-an, Hoành-sơn cùng là Khoa-lãnh, Thủy-khê, bao nhiêu kỳ sơn tú thủy Ngài từng du lịch cả. Lại qua Đèo Ngang Phố Cát tỉnh Thanh-hóa, thấy cỏ cây xanh tốt, Ngài bèn hiển thánh tại đây. Dân thôn kính sợ, bèn lập đền thờ Ngài. Ngô Trí Hòa quê xã Lý Trai, huyện Đông Thành, nay là xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu, con của Ngô Trí Trai. Năm 28 tuổi ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), khoa Nhâm Thân, niên hiệu Quang Hưng (1592). Cùng khoa ấy, cha ông là Ngô Trí Tri đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ. Ngô Trí Hòa làm quan nhiều nơi: Sơn Tây, Thanh Hóa, rồi về triều. Làm quan đến chức Hiệp mưu tá lý dực vận tán trị công thần, Hộ bộ thượng thư kiêm Tế tửu quốc tử giám rồi lên đến chức Thiếu Bảo, tước Phú Xuân hầu. Khi mất được tặng Thái phó, tước Xuân quận công. Triều đình hạ chiếu cho lập đền thờ và giao Tiến sĩ Thượng thư Nguyễn Nghi viết văn bia. Hiện có câu đối: Lưỡng quốc Trạng nguyên, thiên hạ hữu Đồng khoa phụ tử, thế gian vô Dịch: Trạng nguyên hai nước, thiên hạ có Phụ tử đồng khoa, thế gian không", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Socrates Buenaventura Villegas", "role": "user" }, { "content": "Socrates Buenaventura Villegas (sinh 1960) là một Giám mục người Philippines của Giáo hội Công giáo Rôma. Nếu chúng ta bám lấy Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ không được cứu giúp. Philippines tổ chức 21 ngày cầu nguyện cho sự “chữa lành của quốc gia\" (16 tháng bảy 2020) Wikipedia có bài viết về: Socrates Buenaventura Villegas Wikimedia Commons có phương tiện liên quan tới: Socrates B. Villegas", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Chúa tể những chiếc nhẫn", "role": "user" }, { "content": "Chúa tể những chiếc nhẫn là một tiểu thuyết của J. R. Tolkien. Đến một nửa số anh em đây tôi vẫn chưa biết rõ bằng một nửa tôi mong muốn, và đến một nửa số anh em đây tôi chưa yêu quý được bằng một nửa những gì anh em xứng đáng. Chương I, trang 37. Con đường cứ chạy dài chạy mãi Tự cửa ngoài miết mải vô chừng. Hút trước mắt con đường đã trải, Sức ta còn, còn đuổi theo cùng; Cùng theo đuổi chân vung phấn khởi Tới thênh thang đường mới nhập vào Bao ngã rẽ về bao đích gọi. Tiếp về đâu? Chưa nói được nào. Chương I, trang 44-45. Đấy là một lời khen, nên dĩ nhiên không đúng. Chương I, trang 49. Ba Nhẫn cho các tiên chúa sống dưới gầm trời xanh Bảy cho các chúa người lùn dưới sảnh đá bất diệt Chín cho con người phàm trần định mệnh đành phải chết Một cho chúa tể hắc ám ngự cao trên ngai đen. Ở Vùng Đất Đen Mordor nơi trú ngụ bóng đêm. Một nhẫn chúa thống trị tất cả, một nhẫn chúa tìm ra hết Một nhẫn chúa tập hợp tất cả, trong bóng tối trói buộc hết Ở Vùng Đất Đen Mordor nơi trú ngụ bóng đêm. Chương II, trang 65. Tất cả những gì chúng ta cần quyết định là làm gì với cái thời đại rơi vào tay chúng ta. Chương II, trang 65. Khối kẻ đang sống đang phải chết. Một số đã chết lại đáng sống. Cháu có thể trao cái đáng ấy cho bọn họ không? Vậy đừng quá nôn nóng đưa ra lời phán sinh tử. Vì kể cả bậc nhất mực khôn ngoan cũng không lường nổi mọi kết cục. Ta không mấy vọng Gollum có thể được cứu chữa trước khi gã chết, nhưng vẫn còn một cơ may. Vả chăng gã bị ràng buộc với vận mệnh của chiếc Nhẫn. Trái tim mách bảo ta rằng gã còn vài nhiệm vụ trước khi kết cuộc giở ra, bất kể là tốt hay xấu. Chương II, trang 77. Trích dẫn từ bản dịch của Nguyễn Thị Thu Yến, Đặng Trần Việt và An Lý, Nhà xuất bản Văn học và Nhã Nam. Wikipedia có bài viết về: Chúa tể những chiếc nhẫn", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Fez", "role": "user" }, { "content": "Fez là cố đô của Ma Rốc và một trong những thành phố thời Trung cổ lâu đời nhất và lớn nhất trên thế giới. Fez là thủ đô thời trung cổ của Ma-rốc, và một thành phố lớn của nền văn minh cao Hồi giáo. Fez thành phố cổ cbảo tồn tốt nhất trong thế giới Ả Rập, những sắc màu rực rỡ, mê cung Medina Fes el-Bali, đó là tình cờ cũng khu đô thị không có xe lớn nhất thế giới. Vận chuyển hàng hóa được cung cấp bởi lừa, toa xe, và xe máy. Royal Air Maroc có chuyến bay hàng ngày giữa Casablanca với London-Gatwick và Paris-Orly đến sân bay Fes-Saiss. Jetairfly. Bay giữa Charleroi và Brussels hai lần hàng tuần Ryanair cung cấp các chuyến bay từ Girona (Barcelona), Madrid, Sevilla, Alicante, Frankfurt (Hahn), Düsseldorf (Weeze), Milano (Bergamo), Pisa, Bologna (từ tháng 11 năm 2010), Rome (Ciampino), Charleroi (Brussels), Eindhoven, Marseille và London Stansted để Fez, mặc dù không phải bay hàng ngày. Transavia bay từ Paris-Orly đến Fez. Easy Jet bay giữa Paris-CDG với Fez Sân bay này nằm khoảng 15 km từ thành phố. Nếu bạn không có quá nhiều hành lý, có thể đón xe buýt. Xe buýt địa phương 16 hiện nay là một xe \"đưa đón sân bay\" và có giá vé \"2Euro/20 DH\" cho một chuyến đi duy nhất. Nó được đánh dấu không còn rõ ràng như xe buýt 16 nhưng đó là một xe buýt Volvo mới với một bản in ở phía bên phải (Fez - Sân bay). Nó chạy khoảng 30 phút. Nó sẽ đưa bạn đến nhà ga xe lửa và đi xe khoảng 25-30 phút. Vé có thể được mua trên xe buýt. Nếu bạn đi từ sân bay Fez, trạm xe buýt nằm bên trái của lối vào nhà ga xe lửa. Bạn có thể mua vé trước tại tiền mặt bàn tại trạm xe buýt. Nhưng cho phép nhiều thời gian như khởi hành có thể là thất thường. Nếu bạn đang lên cho một thách thức địa phương sau khi cuộc hành trình của bạn, chọn taxi. Có một mức giá cố định cho một xe taxi DH 120 từ sân bay đến Medina. Nếu đến vào ban đêm nên đặt trước.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Luanda", "role": "user" }, { "content": "Luanda là thủ đô và thành phố lớn nhất Angola. Luanda (tên gọi cũ: Loanda) là thủ đô và thành phố lớn nhất tại Angola. Nằm bên bờ Đại Tây Dương, Luanda là thương cảng quan trọng bậc nhất tại Angola với dân số ước tính 4,8 triệu người (năm 2007). Thành phố này cũng là thủ phủ của tỉnh Luanda. Nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Paulo Dias de Novais đã thành lập Luanda vào năm 1575 với tên gọi “São Paulo de Loanda”. Người Bồ Đào Nha bắt đầu xây dựng các pháo đài tại Luanda, đầu tiên là pháo đài \"Fortaleza São Pedro da Barra\" vào năm 1618 và pháo đài \"Fortaleza de São Miguel\" vào năm 1638. Bắt đầu từ năm 1627, Luanda chính thức trở thành trung tâm hành chính của thuộc địa Angola của Bồ Đào Nha. Tuy nhiên trong khoảng thời gian giữa năm 1640 và 1648, thành phố này đã bị cai trị bởi người Hà Lan. Luanda ban đầu là một trung tâm buôn bán nô lệ của Châu Phi. Người da đen bắt được ở Châu Phi được tập trung tại Luanda trước khi đưa lên thuyền sang làm nhân công tại các đồn điền và hầm mỏ tại Brasil với điều kiện sống vô cùng khắc nghiệt. Trên cảng Luanda, những tàu buôn nô lệ của Brazil luôn tấp nập và ảnh hưởng văn hóa của Brazil cũng có tác động mạnh mẽ đến Luanda hơn so với các vùng khác. Vào thế kỉ 19, dưới sự cai trị của Bồ Đào Nha, kinh tế Luanda đã phát triển mạnh mẽ. Năm 1836, việc buôn bán nô lệ da đen bị bãi bỏ và bắt đầu từ năm 1844, các tàu buôn nước ngoài được cập bến Luanda. Thành phố nhanh chóng trở nên sầm uất và là một trong những thành phố hoa lệ nhất của người Bồ Đào Nha ngoài chính quốc. Luanda là một hải cảng chuyên xuất khẩu các mặt hàng như dầu cọ, dầu lạc, sáp, gỗ xây dựng, ngà voi, bông gòn, cà phê và ca cao. Nhiều loại cây như ngô, thuốc lá, sắn được trồng rộng rãi. Hệ thống thoát nước hoàn chỉnh đã giúp dân số thành phố tăng nhanh. Trong cuộc chiến tranh thuộc địa Bồ Đào Nha (1961-1974), Luanda không bị ảnh hưởng, kinh tế tiếp tục phát triển nhanh chóng. Đa phần cư dân thành phố trước năm 1975 là người da trắng gốc Bồ Đào Nha. Tuy nhiên họ đã rời đi sau khi Angola giành được độc lập năm 1975, chủ yếu trở về Bồ Đào Nha hoặc di cư sang một số nước khác như Nam Phi. Cộng đồng người da đen tại Luanda thì lại không có đủ kinh nghiệm để quản lý thành phố. Cuộc nội chiến Angola kéo dài (1975-2002) đã càng khiến hạ tầng thành phố suy sụp. Ngày nay sau khi chiến tranh kết thúc, thành phố Luanda đang dần phục hồi và phát triển. Luanda có thể chia làm hai phần: baixa de luanda (Hạ Luanda) và cidade alta (Thượng Luanda). Hạ Luanda nằm ngay cạnh hải cảng, là phần thành phố cũ với những di tích lịch sử từ thời thuộc địa. Còn phần Thượng Luanda thì mới được xây dựng trong nội địa với những công trình kiến trúc mới. Thành phố có các trường đại học: Đại học Agostinho Neto (1963), Viện Nghiên cứu Giáo dục và Dịch vụ Xã hội (1962) và Bảo tàng Angola (1938). Nhìn chung khí hậu tại Luanda là nóng và ẩm. Dòng biển lạnh Beneguela ngoài khơi Đại Tây Dương đã ngăn cản hơi ẩm từ biển ngưng tụ thành mưa mà chỉ có những đám sương mù thường xuyên xuất hiện để ngăn nhiệt độ không xuống quá thấp về ban đêm. Lượng mưa trung bình năm tại Luanda là 323 mm (tương đương 12,7 inch) nhưng không đều giữa các năm, tùy theo cường độ mạnh yếu của dòng biển lạnh. Mùa mưa ngắn tập trung chủ yếu giữa tháng 3 và tháng 4. Sân bay Quatro de Fevereiro (IATA: LAD, ICAO: FNLU) ở Luanda, thủ đô của Angola. Mặc dù số lượng khách du lịch rất thấp của thành phố, nó có một số lượng đáng ngạc nhiên các tuyến bay quốc tế, trong đó chủ yếu là phục vụ người Angola ở nước ngoài (như Brazil) và số lượng ngày càng tăng của các công ty phục vụ các ngành công nghiệp dầu mỏ và kim cương cũng như xây dựng lại (thực hiện phần lớn bởi Trung Quốc công nhân và các công ty Brazil). Một vài hãng vẫn hoạt động các tuyến đường dựa trên các liên minh chiến tranh lạnh (đến Havana và Moscow). Thành phố này là trung tâm của hãng hàng không quốc gia Angola là TAAG Angola Airlines, một trong ba hãng hàng không có lợi nhuận trong tiểu vùng Sahara châu Phi, trong đó cung cấp các chuyến bay đến 15 thành phố Angola. Họ cung cấp các chuyến bay đến nhiều thành phố trong West-Central/Southern Châu Phi bao gồm các chuyến bay hàng ngày đến Johannesburg cũng như Douala, Cameroon, Sal, Cape Verde, Bangui, CAR, Kinshasa, DRC; Brazzaville và Pointe Noire ở Congo; Windhoek, Namibia; Sao Tome, Sao Tome và Principe; Lusaka, Zambia, Harare, Zimbabwe. Dịch vụ đường dài của họ bao gồm: Dubai, Bắc Kinh (thông qua Dubai), Lisbon, Paris, và các chuyến bay xuyên Đại Tây Dương đến Rio de Janeiro, São Paulo, và Salvador de Bahia ở Brazil. Ngoài TAAG, hai hãng hàng không Angola (Air Gemini & SonAir) phục vụ cho khoảng một chục sân bay mỗi khắp đất nước. Dịch vụ quốc tế bao gồm các chuyến bay đến / từ: Dubai (tiểu vương quốc), Frankfurt (Lufthansa), London-Heathrow (BA), Paris-de Gaulle (Air France), Windhoek (Air Namibia), Brussels (Brussels Airlines), Havana (Cubana, theo mùa), Moscow (Aeroflot), Bắc Kinh (Hải Nam, qua Dubai), Addis Ababa (Ethiopia), Lisbon (Bồ Đào Nha TAP). Delta Air Lines đã bắt đầu các chuyến bay hàng tuần từ Atlanta (thông qua Sal) tháng Sáu năm 2009, nhưng bị trì hoãn việc mở rộng châu Phi lớn của nó đến năm 2010 do cuộc khủng hoảng tài chính. TAAG đã được gỡ bỏ khỏi danh sách đen của EU trong tháng 7 năm 2009 và (tính đến 09 tháng 8) dự kiến ​​sẽ giới thiệu thêm nhiều chuyến bay tới châu Âu trong tương lai gần (đặc biệt là London Gatwick). Các hãng hàng không đã tìm cách để bắt đầu một dịch vụ đến Houston, Hoa Kỳ khi nó nhận được máy bay Boeing 777-200ERs trong năm 2006, nhưng đã bị từ chối cho bảo trì / hồ sơ an toàn kém của nó. Khi rời khỏi đất nước không có bất kỳ Kwanza đến sân bay vì bất hợp pháp để cố gắng đưa Kwanza ra nước ngoài, bạn có thể được ngừng lại bởi cảnh sát tài chính và bị phạt nặng (tất cả Kwanza của bạn mang theo và phần lớn số tiền khác của bạn) hoặc bị bỏ tù. Chính phủ hiện đang đầu tư vào một hệ thống xe buýt mở rộng và thu hút dân Luanda sử dụng nó. Một phương tiện phổ biến cho người dân địa phương để có được xung quanh thành phố là của mini xe buýt taxi (Candongueiros), dễ nhận biết bởi màu xanh nhạt và màu trắng của chúng. Mặc dù họ được coi là nguy hiểm bởi hầu hết người nước ngoài, người dân địa phương sử dụng chúng hàng ngày. Vào ban ngày, cho đến khoảng 8:00, họ là một phương tiện an toàn, thuận tiện, và thường rất nhanh vận chuyển trong nội thành. Giá vé là 100 Kwanzas cho mỗi chuyến đi, trừ khi trời mưa hoặc giao thông nặng, trong trường hợp này, giá vé được tăng gấp đôi. Xem xét sử dụng Taxi Macon một công ty taxi tư nhân (xung quanh chuyến đi 20/30 USD). Eco Tur cũng cho thuê 4x4 / xe minibus và chuyển sân bay với trình điều khiển song ngữ (paul@eco-tur.com) 244 912 501 387 B Home sẽ cung cấp cho xe đón ở sân bay và có sẵn cho thuê (trình điều khiển) 244 222 264 423 B Home có văn phòng tại Luanda, Angola và ở Houston, Texas. +1-281-444-5988 (Văn phòng Houston). Một công ty mới Afri-taxi bắt đầu hoạt động vào đầu tháng 1 năm 2010, trong thời gian cho các Cup châu Phi của giải đấu bóng đá quốc gia. Công ty sẽ có 150 xe tại Luanda và một cấp bậc tại sân bay. Các con đường tại Luanda nói chung là ổ, cũng như trường hợp trên các tuyến đường chính giữa các thành phố, nhưng ở nơi khác chất lượng đường giảm đáng kể. Đừng ngạc nhiên nếu bạn gặp phải vấn đề bất ngờ trong mùa mưa. Trong Luanda đường phố chính được mở, nhưng đường phố trong các khu nhà ổ chuột đang được sửa chữa, và hầu hết những con đường không có đèn tín hiệu. Như đã đề cập trước đây, có những cải tiến được thực hiện trên toàn thành phố. Tắc nghẽn giao thông là một vấn đề lớn với thiếu của giao thông công cộng và rất nhiều taxi minibus.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Genève", "role": "user" }, { "content": "Geneva là thành phố lớn của Thụy Sĩ. Genève /ʒənɛv/ (tiếng Anh: Geneva /dʒənivə/; tiếng Đức: Genf (trợ giúp·chi tiết) /gɛnf/; tiếng Ý: Ginevra; phiên âm: Giơ-ne-vơ; Hán-Việt: Nhật Nội Ngỏa) là thành phố đông dân thứ hai ở Thụy Sĩ (sau Zürich), và là thành phố Romandy (phần nói tiếng Pháp của Thụy Sĩ) đông dân nhất. Genève nằm nơi hồ Genève (tiếng Pháp: Lac Léman) chảy vào sông Rhône, và là thủ phủ của bang Genève. Dân số trong nội vi thành phố là 191.415 (Tháng 12 năm 2010) và của khu vực đô thị — mở rộng vào Pháp và Vaud — là khoảng 700.000. Genève được nhiều người xem như là thành phố toàn cầu, chủ yếu là do sự có mặt của nhiều tổ chức quốc tế ở đây, kể cả tổng hành dinh Châu Âu của Liên Hiệp Quốc. Geneva là tên một vùng dân cư của người Celt của vùng Allobroges. Cái tên Genava (hay là Genua) trong tiếng Latin xuất hiện lần đầu tiên trong những bài viết của Julius Caesar trong De Bello Gallico, trong những lời bình của ông về các trận chiến Gallic. Tên của nó có thể là trùng với tên nguyên gốc trong tiếng Ligurian là Genua (Genova ngày nay), nghĩa là \"đầu gối\"; là, \"góc\", chỉ đến vị trí địa lý của nó; mặc dù có lẽ đúng hơn là nó dựa trên gốc gen- hay \"sinh ra\" (Genawa là nơi sinh ra dòng sông từ tử cung của hồ; có lẽ là tên đầy đủ nghĩa là \"sinh ra từ nước\"). Sau sự chinh phạt của La Mã nó trở thành một phần của Provincia Romana (Gallia Narbonensis). Vào năm 58 TCN, tại Genève, Caesar bao vây Helvetii trên đường hành quân về phía tây. Vào thế kỉ thứ 9 nó trở thành thủ đô của Burgundy. Mặc dù Genève bị tranh chấp giữa người Burgundian và người Frank và Thánh chế La Mã, thực tế nó được cai quản bởi các giám mục của thành phố, cho đến thời Cải cách Kháng Cách, khi Genève trở thành một nước cộng hòa. Nhà thờ St. Pierre ở khu phố cổ của Genève Nhờ vào công sức của các nhà cải cách như là John Calvin, Genève đôi khi được mệnh danh là \"Roma Kháng Cách\". Vào thế kỉ 16 Genève là trung tâm của nền Thần học Calvin; Nhà thờ St. Pierre ở nơi mà bây giờ gọi là Khu phố cổ là nhà thờ riêng của John Calvin. Trong thời gian đó khi nước Anh dưới quyền cai trị của Nữ hoàng Mary I, một người đàn áp phong trào Kháng Cách (Protestant), một số lớn các học giả Kháng Cách bỏ trốn sang Genève. Trong những học giả này có William Whittingham người chỉ đạo việc biên dịch bản Kinh Thánh Genève với sự hợp tác của Miles Coverdale, Christopher Goodman, Anthony Gilby, Thomas Sampson và William Cole. Một trong những sự kiện lịch sử quan trọng ở Genève là l'Escalade (nghĩa đen: \"chia lại tỉ lệ bức tường\"). Đối với người dân Genève, l'Escalade là biểu tượng cho sự độc lập của họ. Nó đánh dấu cố gắng cuối cùng trong một chuỗi các tấn công được tổ chức trong suốt thế kỉ 16 bởi xứ Savoy, muốn sát nhập Genève như là thủ phủ phía bắc của dãy Alps. Lần tấn công cuối cùng này diễn ra vào đêm 11-12 tháng 12 năm 1602 và được kỉ niệm hàng năm tại Khu phố cổ với nhiều cuộc diễu hành với nhiều ngựa, súng đại bác và quân lính ăn mặc theo quân phục của thời đó. Genève, hay chính thức là \"Bang & Cộng hòa Genève\", trở thành một bang của Thụy Sĩ vào năm 1815. Hiệp ước Genève lần đầu tiên được kí vào năm 1864, để bảo vệ bệnh binh và thương binh trong chiến tranh. Genève nằm tại tọa độ 46°12 Bắc, 6°09' Đông, về phía cạnh tây nam của hồ Genève, nơi hồ chảy vào sông Rhône. Nó được bao quanh bởi hai dãy núi, dãy Alps và dãy Jura. Thành phố Genève có diện tích 15.86 km2, trong khi diện tích của bang Genève là 282 km2, tính luôn cả hai vùng đất của Céligny ở Vaud. Phần của hồ gắn liền vào Genève có diện tích 38 km2 và đôi khi được nhắc đến như là Petit lac (hồ nhỏ). Tiểu bang chỉ có 4.5 km đường biên giới với phần còn lại của Thụy Sĩ; trên tổng số 107.5 km đường biên giới, phần còn lại 103 km chia chung với Pháp, với Départment de l'Ain về phía bắc và Département de la Haute-Savoie về phía nam. Độ cao của Genève là 373.6 m, và tương ứng với độ cao của phần rộng lớn nhất của Pierres du Niton, hai tảng đá lớn nhô lên trên hồ từ cuối thời băng hà. Tảng đá này được chọn bởi Tướng Guillaume Henri Dufour như là điểm chuẩn cho tất cả các việc đo đạc ở Thụy Sĩ. Con sông lớn thứ hai ở Genève là sông Arve chảy vào sông Rhône chỉ hơi về phía tây trung tâm thành phố. Genève nằm ở phía tây nam Thuỵ Sĩ. Phía nam hướng về đỉnh núi Blanc - ngọn núi cao nhất trong dãy Alps, gần bên hồ Genève là dòng sông Rhone chảy qua thành phố, chia thành phố làm hai phần, bên bờ trái là thành phố cổ kính, bên phải là thành phố hiện đại. Trên bờ sông có 8 chiếc cầu nối liền hai bờ. Genève là vùng đất phát triển quanh cây cầu lớn nhất, thành phố này được núi đồi và ao hồ bao bọc nên khí hậu quanh năm ôn hoà, non xanh nước biếc, phong cảnh đẹp như tranh nên được gọi là Thánh địa của du khách. Khí hậu của Genève ôn hòa. Mùa đông không quá khắc nghiệt thường có sương mù nhẹ vào ban đêm. Mùa hè thì ấm áp một cách dễ chịu. Lượng mưa phân bố khá đều trong năm mặc dù mùa thu có vẻ mưa nhiều hơn các mùa khác trong năm. Genève thường có tuyết rơi vào những tháng lạnh trong năm. Những vùng núi gần thành phố thường có tuyết rơi nhiều và rất thích hợp cho môn thể thao trượt tuyết như ở Verbier và Crans-Montana là những nơi chỉ cách thành phố hơn một giờ đi xe. Núi Salève (cao 1400 m) nằm ở biên giới Pháp-Thụy Sĩ là điểm đến trượt tuyết gần nhất. Vào những năm 2000–2009, nhiệt độ trung bình trong năm là 11 °C và số giờ nắng trung bình trong năm là 2003 giờ. Sân bay quốc tế Geneva Cointrin (IATA: GVA, ICAO: LSGG) là một sân bay ở Genève, Thụy Sỹ. Tọa độ 46°15′B, 6°8′Đ, cách trung tâm thành phố 5 km và có kết nối bằng đường cao tốc, xe bus và đường sắt (SBB-CFF-FFS). Phía Bắc của sân bay bị giới hạn bởi biên giới Pháp - Thụy Sỹ và sân bay có thể đến được từ cả hai quốc gia này. Khách trên các chuyến bay đến từ và đi khỏi Pháp không cần qua thủ tục hải quan và xuất nhập cảnh của Thụy Sỹ nếu họ vẫn ở bên trong khu vực Pháp của sân bay. Việc vận chuyển hàng cũng có thế đến từ hai nước.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Santorini", "role": "user" }, { "content": "Santorini tên chính thức Thira là một hòn đảo ở miền nam biển Aegea, nằm cách 200 km (120 mi) về phía đông nam của Hy Lạp đại lục. Có một số làng trên đảo Santorini. Fira - các cảnh quan tuyệt đẹp thị trấn nằm trên vách đá, có tất cả những gì Oia có, nhưng nhưng đông đúc hơn. Karterados - 2 km về phía nam Fira. Ở đây bạn có thể tìm thấy những kiến ​​trúc truyền thống Santorini Kamari - bãi biển sỏi đen. Firostefani - chỉ cần 10 phút đi bộ từ Fira, đưa ra quan điểm độc đáo của núi lửa và hoàng hôn. Imerovigli - thị trấn nghỉ mát nhỏ một xe buýt ngắn đi xe từ Fira. Có quan điểm hoàn toàn cảnh quan tuyệt đẹp của hoàng hôn (tất cả các con đường xuống đường chân trời) và Oia. Oia hay Ia - cho hoàng hôn khó quên, có lẽ là nơi quyến rũ nhất trên đảo. Pyrgos - điểm cao nhất trên đảo, tu viện đẹp như tranh vẽ và những con đường, có thể cạnh tranh với Oia. Perissa - Nice, những bãi biển được tổ chức tốt và tốt quán rượu cá Hy Lạp. Megalochori-truyền thống làng với rất nhiều nhà thờ Cycladic trắng cũ. Akrotiri-Truy cập vào trang web khảo cổ Aktotiri. Mesariá - Trung tâm của hòn đảo. Có một thị trường nhỏ trên đường mỗi buổi sáng với cá tươi. Đừng bỏ lỡ bất động sản Argiros để xem một ngôi nhà thế kỷ 19 xây dựng lại hoàn toàn. Monolithos - Nice bãi biển và một vài quán rượu tốt. Rất tốt cho trẻ em, như là nước nông. Vlichada - một ngôi làng nhỏ và bãi biển. Vothonas - một ngôi làng đá nhỏ, nhà thờ Thánh Ann là đây. Kiến trúc đó là ngôi làng kỳ lạ trên đảo, như tất cả các tòa nhà được cắt từ khe núi mà nó được in Cũng có Thirasia, một ngôi làng trên đảo gần đó với cùng một tên truy cập của khách du lịch ít hơn. Có excurisions hàng ngày đến (núi lửa) Đảo Kameni cũng đạt đảo Thirasia. Đây là đảo lớn nhất của một quần đảo nhỏ, hình vòng tròn có cùng tên và là tàn dư của một miệng núi lửa. Đây là thành viên cực nam của nhóm đảo Cyclades, với diện tích xấp xỉ 73 km2 (28 sq mi). Khu tự quản Santorini bao gồm các đảo có người ở là Santorini và Therasia cùng các đảo không người ở Nea Kameni, Palaia Kameni, Aspronisi, và Christiana. Tổng diện tích của khu tự quản là 90,623 km2 (34,990 sq mi). Santorini là một phần của đơn vị thuộc vùng Thira. Santorini về cơ bản là những gì còn lại sau một vụ nổ núi lửa khổng lồ đã tàn phá các khu định cư đầu tiên trên một hòn đảo đơn nhất, và tạo ra hõm chảo núi lửa địa chất như hiện nay. Một phá nước hình chữ nhật khổng lồ ở giữa với kích thước 12 nhân 7 km (7,5 nhân 4,3 mi), bao quanh là các vách đá dựng đứng cao 300 m (980 ft) tại ba mặt. Ở mặt thứ tư, phá nước tách biệt với biển nhờ hòn đảo nhỏ hơn là Therasia; phá nước được nối với biển ở hai nơi, phía tây bắc và tây nam. Hõm chảo sâu 400m và cho phép tất cả tàu thuyền ngoại trừ những loại ngoại cỡ neo đậu bất kỳ địa điểm nào; tuy vậy, một bến du thuyền mới đã được xây dựng tại Vlychada ở bờ biển phía tây nam của đảo. Cảng chính được gọi là Athinias. Thủ phủ của đảo là Fira, bám vào đỉnh vách đá nhô ra phá nước. Các đá núi lửa hiện diện từ trước khi phun trào có đặc điểm nổi bật là olivin và có sự hiện diện ở mức độ nhỏ song đáng chú ý của hornblend. Đây là trung tâm núi lửa hoạt động mạnh nhất trong Cung núi lửa Nam Aegea, mực dù những gì còn lại cho đến nay là một hõm chảo núi lửa chứa đầy nước. Cung núi lửa dài xấp xỉ 500 km (310 mi) và rộng 20 đến 40 km (12 đến 25 mi). Khu vực có các hoạt động núi lửa đầu tiên vào khoảng 3–4 triệu năm trước, mặc dù các hiện tượng núi lửa tại Thera bắt đầu khoảng 2 triệu năm trước đây với các dòng dung nham được phun ra từ các lỗ thông quanh Akrotiri. Hòn đảo là nơi đã diễn ra một trong những vụ phun trào núi lửa lớn nhất từng được ghi nhận trong lịch sử: vụ phun trào Minoa (đôi khi gọi là phun trào Thera), xảy ra vào khoảng 3600 năm trước vào thời điểm đỉnh cao của nền văn minh Minoa. Vụ phun trào đã để lại một miệng núi lửa bao quanh một lớp tro núi lửa dày hàng trăm feet và có thể đã gián tiếp dẫn đến sự sụp đổ của nền văn minh Minoa trên đảo Crete, 110 km (68 mi) về phía nam bằng một trận sóng thần khồng lồ. Tuy vậy, thuyết này không được hợp lý về mặt niên đại, vì khi nền văn minh Minoa sụp đổ không phải là thời điểm xuất hiện sóng thần, mà là khoảng 90 năm sau. Một thuyết phổ biến khác cho rằng vụ phun trào Thera là khởi nguồn của huyền thoại Atlantis. Sân bay quốc gia Santorini (Thira) [1] là một sân bay ở Santorini / Thira, Hy Lạp (IATA: JTR, ICAO: LGSR), nằm ở phía bắc của làng Kamari. Với các chuyến bay thường xuyên từ Athena của Olympic Air [2], Aegean Airlines [3] và AirSea dòng com. / (một hãng hàng không thủy phi cơ). Thời gian bay từ Athens đến Santorini là khoảng 30 phút. Trong suốt mùa hè, Sky Express [4] kết nối với hòn đảo Santorini nổi tiếng khác như Crete (Heraklion), Rhodes và Mykonos. Trong những tháng của tháng bảy và tháng tám hãng hàng không Astra [5] bay từ Thessaloniki. Từ tháng đến tháng mười điều lệ các hãng hàng không bay trực tiếp đến Santorini từ nhiều sân bay châu Âu. Air Berlin [6] bay từ Berlin Tegel (TXL), Düsseldorf (DUS), Hamburg (HAM), Nuremberg (NUE) và Vienna (VIE); Condor [7] ruồi từ Düsseldorf (DUS), Stuttgart (STR), Frankfurt (FRA), Munich (MUC), Hamburg (HAM); EasyJet [8] bay từ London Gatwick (LGW) và Milan Malpensa (MXP); Edelweiss Air [9] bay từ Zurich (ZRH); Germanwings [10] bay từ Cologne / Bonn (CGN), Munich (MUC) và Stuttgart (STR); Jetairfly [11] bay từ Brussels (BRU); Meridiana [12] bay từ Milan Malpensa (MXP)); Na Uy [13] bay từ Copenhagen (CPH), Oslo (OSL) và Stockholm (ARN); ThomasCook [14] [15] bay từ London Gatwick (LGW), Manchester (MAN) và Brussels (BRU); Thompson [16] bay từ Manchester (MAN) Transavia [17] bay từ Amsterdam (AMS). Từ sân bay có xe buýt để Fira, nơi bạn có thể thay đổi cho xe buýt cho các thị trấn khác. Taxi cũng thường được chờ đợi tại sân bay, nhưng cạnh tranh cho họ có thể được quan tâm. Nhiều khách sạn Santorini cung cấp chuyển sân bay, thường cho một khoản phí đó là nhiều hơn một xe taxi sẽ tính phí cho bạn, nhưng một số có thể tìm thấy nó có giá trị nó cho sự tiện lợi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Thanh xuân", "role": "user" }, { "content": "Cách duy nhất để kết thúc một mối tình đơn phương là tỏ tình. —Reply 1994 Con đường trưởng thành sẽ luôn có sự rời xa nhau theo cách này hay cách khác. Khi đó, chúng tôi luôn tin rằng rời xa nhau vì ngày mai gặp lại, vì vậy mới nói Hẹn gặp lại. Thật ra, thế giới này quá rộng lớn, ban đầu mọi người nói mãi mãi không xa nhau. Một lần xa nhau rồi có thể sau này sẽ không còn cơ hội gặp lại nữa. Rồi hai bên đều phải quên đi. Tạm biệt thực ra không phải là từ biệt, mà là một lời hứa. —Năm tháng vội vã Hồi trẻ chúng ta luôn coi nhẹ phần mở đầu, đến khi kết thúc lại đớn đâu tê tái. Còn khi đã trưởng thành, chín chắn, chúng ta có thể né tránh sự tổn thương, ấu trĩ, nhưng cũng đã để mất đi dũng khí thuở ban đầu. —Năm tháng vội vã Khi bạn còn đang ở tuổi thanh xuân, bạn luôn cho rằng mọi câu hỏi đều có thể tìm ra lời đáp, nhưng khi đã già, biết đau bạn lại cảm thấy trong đời người thật ra không có gì gọi là lời đáp cả. —Thiên thần sa ngã Thanh xuân là quãng thời gian đầy sóng gió bởi vì lúc đấy chúng ta không biết câu trả lời là gì. Chúng ta không biết thật sự bản thân muốn gì, ai thật lòng yêu chúng ta và chúng ta thật lòng yêu ai. Đó là quãng thời gian chúng ta cứ quẩn quanh đây đó để tìm kiếm câu trả lời. Và rồi khi chúng ta bất ngờ biết được câu trả lời, bất giác chúng ta đã trưởng thành, đã trải qua những lần ly biệt và chia ly khi ít khi nhiều. —Reply 1997 Tình yêu đầu không chỉ là một hồi ức đẹp của tuổi trẻ mà nó còn có sức mạnh thay đổi cuộc đời một con người và tồn tại bất diệt trong trái tim của chúng ta. —A Walk To Remember Trong mỗi chàng trai đều có một cô gái mà bạn không được đụng đến. Cô gái ấy mang tên Mối tình đầu. —Reply 1994 Tuổi thanh xuân giống như một cơn mưa rào, dù cho bạn từng bị cảm lạnh vì tắm mưa, bạn vẫn muốn đắm mình trong cơn mưa ấy một lần nữa. —Cô gái năm ấy chúng ta cùng theo đuổi Tuổi thanh xuân là quãng thời gian để con người nhớ nhung, hoài niệm. Khi bạn ôm nó vào lòng, nó sẽ chẳng đáng một xu, chỉ khi bạn dốc hết nó, quay đầu nhìn lại, tất cả mới có ý nghĩa. Những người đã từng yêu và làm tổn thương chúng ta đều có ý nghĩa với sự tồn tại tuổi xuân của chúng ta. —Anh có thích nước Mỹ không? Tuổi mười tám, chúng ta sẽ dễ dàng yêu một ai đó, cũng thường âu lo vì những chuyện cỏn con. Tuổi mười tám, người lớn thường hay nói chúng ta dễ dàng bật cười vì những chuyện giản đơn. Những lúc ấy, chúng ta thường thật lòng, dốc lòng dốc sức hơn cả người lớn. —Reply 197 Chia ly là một việc vừa thống khổ vừa dặn vặt người ta, thế nhưng không chia ly, bạn vĩnh viễn không thể cảm nhận được độ sâu đậm của tình cảm. —Thượng ẩn Cuối cùng cũng sẽ có một ngày như thế, tình cảm của chúng ta sẽ trở nên nhạt nhẽo, tôi trở nên chính chắn, chững chạc, cậu trở nên thông minh, phóng khoáng, thời gian sẽ mài giũa từng góc cạnh của tình yêu [...]. Tôi sẽ không còn vì một vết sẹo ở trên tay cậu mà đau lòng, cậu cũng sẽ không còn vì một câu nói của tôi mà xù lông giơ chân lên [...]. —Thượng ẩn Ai cũng có tuổi trẻ và những câu truyện về tuổi trẻ của riêng mình, trong mỗi câu chuyện ấy đều có những hồi ức đẹp kèm theo cả sự tiếc nuối mãi in dấu lại nơi đáy trái tim. Ai cũng tùng có một thời áo trắng để mộng mơ, một thời thích thầm cậu bạn cùng lớp nhưng mãi chẳng thể can đam cất lời. Một thời say nắng cô bạn lớp trưởng tóc dài nhưng tình yêu cứ thế chôn dấu... Để rồi cứ thế, năm tháng đi qua, thanh xuân và cả tình yêu kia ở lại với những điều là kí ức ngọt ngào nhưng cũng đầy tiếc nuối. Chẳng có cảnh nào đáng buồn hơn là thấy một người bi quan trẻ tuổi. —Mark Twain Không thể nào chạy thắng tuổi thanh xuân, nên chỉ mong luôn được sống hết mình. Để sau này nhìn lại, bạn và tôi sẽ không nghĩ đến hai từ tiếc nuối. Cảm ơn vì đã để chúng ta gặp nhau năm ấy. Ngủ dậy muộn thì mất cả ngày, tuổi trẻ mà không học tập thì phí mất cả cuộc đời. —Ngạn ngữ Trung Quốc Nếu thời niên thiếu và tuổi trẻ còn là thứ gì khác ngoài hư ảo, thì chẳng lẽ đó không phải là tham vọng trưởng thành sao? —Vincent Van Gogh Thanh xuân, thứ vẫn khiến bạn thèm muốn cho dù lúc ấy bạn có nghịch ngợm, ấu trĩ và nông nổi. Đơn giản vì ở đó có những người bạn thật sự, chơi với nhau không mưu toan, tính toán. Tuổi trẻ được xem là thời gian đẹp nhất của một đời người. Cũng bởi vậy mỗi kỷ niệm thuộc về khoảng ký ức này luôn được chúng ta nâng niu cất giữ, bao gồm cả tình yêu. Thanh xuân kết thúc bằng những lời thề, những lời hẹn ước... Nhưng tương lai là sự vạn biến, không a có thể nắm chắc. Điều đáng trân trọng là trong khoảnh khắc đó, bạn vf tôi đã dùng sự trân thành để hứa với nhau. Lúc đó, trái tim của chúng ta có nhau. Tôi sống với sự đớn đau trong tuổi trẻ, nhưng lại ngọt ngào trong những năm tháng trưởng thành. —Albert Einstein", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Erwin Rommel", "role": "user" }, { "content": "Erwin Johannes Eugen Rommel (15 tháng 11 năm 1891 – 14 tháng 10 năm 1944) (còn được biết đến với tên Cáo Sa mạc, Wüstenfuchs, là một trong những vị Thống chế lừng danh nhất của nước Đức trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sweat saves blood, blood saves lives, and brains saves both. Sự vất vả cứu lấy sự đổ máu, sự đổ máu cứu lấy mạng sống, và trí tuệ cứu cả hai. Mortal danger is an effective antidote for fixed ideas. Mối nguy hiểm chết người chính là thứ thuốc giải hiệu quả cho những quan điểm cứng nhắc. It is also greatly in the commander s own interest to have a personal picture of the front and a clear idea of the problems his subordinates are having to face. It is the only way in which he can keep his ideas permanently up to date and adapted to changing conditions. If he fights his battles as a game of chess, he will become rigidly fixed in academic theory and admiration of his own ideas. Tốt nhất là người chỉ huy phải có được một ý niệm trực tiếp về tình hình ngoài tiền tuyến và những vấn đề mà cấp dưới của anh phải đối mặt. Đó là cách duy nhất để giữ tư duy không trở nên lạc hậu hay rơi vào lối mòn. Đánh trận mà theo kiểu đánh cờ thì đầu óc sẽ trở nên cừng nhắc sách vở, và anh sẽ thành ra cứ tự ngồi đó mà tự ngưỡng mộ những ý tưởng của chính mình. (Rommel là người thực hành tiêu biểu nhất của trường phái \"chỉ huy từ tuyến đầu\", thường xuyên tự mình xông pha những nơi nguy hiểm nhất, với lý tưởng đồng cam cộng khổ với quân dân của mình. Đây cũng là một trong những điểm gây tranh cãi nhất trong nghệ thuật quân sự của ông. Kesselring và nhiều người khác chỉ trích ông kịch liệt, cho là hành vi không thích hợp với một vị Thống chế, gây ảnh hưởng đến khả năng bao quát toàn cục khi chỉ huy những lực lượng lớn) There are always moments when the commander’s place is not back with his staff but up with the troops. It is sheer nonsense to say that maintenance of the men’s morale is the job of the battalion commander alone. The higher the rank, the greater the effect of the example. The men tend to feel no kind of contact with a commander who, they know, is sitting somewhere in headquarters. What they want is what might be termed a physical contact with him. In moments of panic, fatigue, or disorganization, or when something out of the ordinary has to be demanded from them, the personal example of the commander works wonders, especially if he has had the wit to create some sort of legend around himself. Có những lúc người chỉ huy không thể cứ ngồi mãi với ban tham mưu, mà phải ra mặt trận cùng với lính của mính. Thật là vớ vẩn nếu cho rằng trách nhiệm duy trì tinh thần chiến đấu của binh sĩ là của các chỉ huy cấp tiểu đoàn! Cấp bậc càng cao thì ảnh hưởng của người chỉ huy càng lớn. Binh lính sẽ không cảm thấy có mối liên hệ nào với một ông chỉ huy mà họ biết là đang ngồi ỳ ở đại bản doanh. Họ muốn một sự tiếp xúc thực. Khi nào họ hoảng hốt, mệt mỏi, mất tổ chức, hay khi anh cần đỏi hỏi ở họ một cái gì trên mức bình thường, tấm gương cá nhân của người chỉ huy sẽ tạo ra những điều kỳ diệu, đặc biệt nếu anh đủ thông minh để tạo ra một không khí huyền thoại xung quanh con người mình. (Là người ý thức được các nguy cơ của sự mạo hiểm, ông thường đề cao sự táo bạo. Là người hay chú ý các yểu tố kỹ thuật, ông lại đề cao những yếu tố con người như tinh thần của binh lính lên hàng đâu, còn với sĩ quan thì ông đánh giá yếu tố nghị lực, cá tính và tính thực tế còn hơn cả khả năng tư duy thuần túy) The best form of welfare for the troops is first-rate training. Cách bảo vệ tốt nhất cho binh lính là sự huấn luyện ở mức tốt nhất. Don't fight a battle if you don't gain anything by winning. Đừng đánh nếu không thu được bất cứ gì từ chiến thắng. In a man-to-man fight, the winner is he who has one more round in his magazine. Trong một trận đấu tay đôi, người chiến thắng là kẻ có nhiều đạn hơn. Courage which goes against military expediency is stupidity, or, if it is insisted upon by a commander, irresponsibility. Dũng cảm mà đi ngược lại với lợi ích quân sự là sự ngu dốt; (hơn nữa) khi được đòi hỏi bởi cấp chỉ huy thì là sự vô trách nhiệm. So long as one isn't carrying one's head under one's arm, things aren't too bad. Khi đầu còn chưa rơi thì mọi việc còn chưa quá tệ. A risk is a chance you take; if it fails you can recover. A gamble is a chance taken;if it fails, recovery is impossible. Mạo hiểm là khi bạn chộp lấy một cơ hội mà biết rằng nếu hỏng chăng nữa thì còn cơ hồi phục. Đánh bạc là khi bạn nắm lấy cơ hội mà chấp nhận rằng nếu hỏng thì không có cứu vớt. There is one unalterable difference between a soldier and a civilian: the civilian never does more than he is paid to do. Có một điểm khác biệt không bao giờ thay đổi được giữa một người thường dân và một người lính: người thường dân không bao giờ làm thêm so với số tiền mà họ được trả. What difference does it make if you have two tanks to my one, when you spread them out and let me smash them in detail? Ăn thua gì nếu bạn có hai xe tăng và tôi chỉ có một, khi bạn chia hai xe ra hai bên và tôi bắn cả hai tan ra từng mảnh? The best plan is the one made when the battle is over. Kế hoạch tốt nhất là kế hoạch nghĩ ra sau khi trận đánh đã kết thúc In the absence of orders, go find something and kill it. Khi chưa nhận được lệnh thì kiếm cái gì mà giết đi. The officers of a panzer division must learn to think and act independently within the framework of the general plan and not wait until they receive orders. Các sĩ quan của Sư đoàn Panzer phải học cách suy nghĩ và hành động một cách độc lập từ những căn bản trong kế hoạch tổng quát chứ không phải đợi đến khi nhận được mệnh lệnh. Men are basically smart or dumb and lazy or ambitious. The dumb and ambitious ones are dangerous and I get rid of them. The dumb and lazy ones I give mundane duties. The smart ambitious ones I put on my staff. The smart and lazy ones I make my commanders. Con người, về cơ bản, gồm có những kẻ thông minh hay đần độn và những kẻ lười biếng hay có nhiều hoài bão. Những kẻ đần độn mà có nhiều hoài bão thì rất nguy hiểm, tôi sẽ loại bỏ những người này. Những kẻ đần độn mà lười biếng, tôi giao cho họ những công việc tầm thường. Những kẻ thông minh và có nhiều hoài bão, tôi sẽ đưa họ vào ban tham mưu của mình. Những kẻ thông mình mà lại lười nhác, tôi cho họ làm chỉ huy trưởng. (Không rõ nguồn, thường được gán cho Rommel) Be an example to your men, in your duty and in private life. Never spare yourself, and let the troops see that you don't in your endurance of fatigue and privation. Always be tactful and well-mannered and teach your subordinates to do the same. Avoid excessive sharpness or harshness of voice, which usually indicates the man who has shortcomings of his own to hide. Phải làm gương cho lính của mình, trong nhiệm vụ và trong đời tư. Đừng bao giờ nghĩ riêng cho mình, và phải cho lính thấy mình không nghĩ cho mình trong những phút khó khăn,cực nhọc, thiếu thốn. Luôn luôn tế nhị và đàng hoàng khi giáo dục kẻ dưới để họ làm theo. Tránh đay nghiến hay nặng tiếng, vì đó thường là bằng chứng chính bản thân người chỉ huy cũng có khuyết điểm cần che dấu (Theo von Mellenthin và những người khác, Rommel thường thẳng tính quá mức và thậm chí thô hay giữ khoảng cách với các cấp dưới trực tiếp và cấp trên, nhưng ông lúc nào cũng tế nhị, tình cảm và lịch lãm với binh lính, sĩ quan cấp thấp và tù binh). The future battle on the ground will be preceded by battle in the air. This will determine which of the contestants has to suffer operational and tactical disadvantages and be forced throughout the battle into adoption compromise solutions. Trong tương lai, trận đánh trên bộ sẽ đi sau trận đánh trên không. Từ đó sẽ quyết định bên nào sẽ chịu thiệt thòi về kế hoạch và chiến thuật và suốt trận đánh sẽ phải chấp nhận những giải quyết bất lợi. Anyone who has to fight, even with the most modern weapons, against an enemy in complete command of the air, fights like a savage against modern European troops, under the same handicaps and with the same chances of success. Bất cứ ai, dù với vũ khí tân kỳ nhất, phải đánh nhau khi quân địch đã hoàn toàn làm chủ tình thế trên không, sẽ chiến đấu giống như quân mọi rợ chống lại quân đội hiện đại châu Âu, với những thiệt thòi tương tự và cơ hội thành công tương tự. One must not judge everyone in the world by his qualities as a soldier: otherwise we should have no civilization. Không nên đánh giá con người ta chỉ dựa trên các phẩm chất quân sự của họ, bằng không thì chúng ta sẽ không có văn minh (Rommel nói điều này khi nhận xét về người Ý - Chú ý rằng chính ông thường càm thấy thất vọng về chất lượng của quân Ý). The art of concentrating strength at one point, forcing a breakthrough, rolling up and securing the flanks on either side, and then penetrating like lightning deep into his rear, before the enemy has time to react-is Blitzkrieg. Nghệ thuật tập trung sức mạnh vào một điểm, chọc thủng qua, vòng trở lại, che hai bên, rồi tấn công như bão vào phía sau, trước khi địch có thời giờ phản ứng là Blitzkrieg. The commander must have contact with his men. He must be capable of feeling and thinking with them. The soldier must have confidence in him. There is one cardinal principle which must always be remembered: One must never make a show of false emotions to one`s men. The ordinary soldier has a surprisingly good nose for what is true and what is false. Người chỉ huy phải giữ mối liên hệ với lính mình. Cần phải chia sẻ suy nghĩ và đồng cảm được với họ. Phải để cho người lính có cảm giác tin cậy ở chỉ huy mình. Một nguyên tắc côt tử cần phải nhớ đó là: Người chỉ huy không được phép biểu lộ tình cảm theo lối giả dối (để lấy lòng binh sĩ). Đừng khinh rẻ những người lính bình thường, họ cũng tự biết cảm nhận cái gì thật cái gì dối đấy. Messages can't be intercepted if they aren't sent, can they? Mật thư không bao giờ bị lấy cắp nếu không được gửi, phải thế không? This business with the Jews has got to stop. Những trò Nhà nước đang làm với dân Do Thái cần phải chấm dứt! Wikipedia có thể loại liên quan Erwin Rommel", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Sheffield", "role": "user" }, { "content": "Sheffield [1] là một thành phố ở Yorkshire ở miền Bắc nước Anh. Với dân số 551.800, nó là một trong những Vương quốc Anh và các thành phố lớn nhất Châu Âu. Khoảng 1,75 triệu người sống trong khu vực đô thị rộng lớn hơn, (South Yorkshire), trong đó bao gồm Rkhácham, Barnsley, và Doncaster. Sheffield là một thành phố công nghiệp, thành phố quốc tế và văn hóa nổi tiếng với không gian của nó màu xanh lá cây mở, tài năng sáng tạo, triển lãm, thể dục thể thao và dao kéo. Không giống như nhiều thành phố lớn khác ở Vương quốc Anh, Sheffield có một số lượng rất lớn các công cây xanh, cây vượt số dân số thế giới với tỷ lệ cây:người là 3:1. Thành phố này nằm ở phần cực phía nam của Yorkshire, với Derbyshire về phía tây, Nottinghamshire về phía nam, và Lincolnshire về phía đông. Các thành phố lớn khu vực gần thành phố này (tất cả 1 giờ đi hoặc ít hơn, bằng tàu hỏa) là Manchester (phía tây), Leeds (phía Bắc) và Nottingham - Derby conurbation (phía nam). Đường cao tốc M1 chạy qua Trung tâm mua sắm Meadowhall Sheffield ở phía đông của trung tâm thành phố, đỉnh đẹp công viên quốc gia Quận kéo dài đến trong ranh giới thành phố phía tây, và khu vực Pennines Nam (\"cuối cùng của đất nước Wine mùa hè\") nằm ngay đến phía bắc.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Bờ Biển Ngà", "role": "user" }, { "content": "Côte d'Ivoire [1] (Bờ Biển Ngà) là một quốc gia thuộc tây Châu Phi. Quốc gia này phía nam giáp với bờ biển Bắc Đại Tây Dương, và được bao quanh bởi Ghana về phía đông, phía tây Liberia, Guinea về phía Tây Bắc, Mali ở phía bắc, và Burkina Faso ở phía đông bắc. Các mối quan hệ với Pháp kể từ khi độc lập vào năm 1966, phát triển sản xuất ca cao xuất khẩu và đầu tư nước ngoài khiến Bờ Biển Ngà là một trong những quốc gia giàu nhất của các quốc gia châu Phi nhiệt đới, nhưng không bảo vệ mình khỏi các bất ổn chính trị. Trong tháng 12 năm 1999, một cuộc đảo chính quân sự - lần đầu tiên trong lịch sử Côte d'Ivoire - lật đổ chính phủ. Lãnh đạo chính quyền Robert Guei ngang nhiên gian lận bầu cử được tổ chức vào cuối năm 1999 và tuyên bố mình là người chiến thắng. Biểu tình của dân chúng buộc ông thôi chức và đối thủ Laurent Gbagbo vào giải phóng. Các thành viên bất đồng chính kiến ​​và các thành viên bất mãn của quân đội Bờ Biển Ngà đã phát động một cuộc đảo chính thất bại trong tháng 9 năm 2002. Lực lượng nổi dậy tuyên bố chủ quyền nửa phía bắc của đất nước, và trong tháng 1 năm 2003 đã được cấp các vị trí bộ trưởng trong một chính phủ đoàn kết dưới sự bảo trợ của Hòa bình Accord Linas-Marcoussis. Tổng thống Gbagbo và lực lượng nổi dậy tiếp tục thực hiện các hiệp ước hòa bình trong tháng 12 năm 2003 sau khi một bế tắc ba tháng, nhưng vấn đề mà gây ra cuộc nội chiến, chẳng hạn như cải cách ruộng đất và căn cứ để công dân, vẫn chưa được giải quyết. Những cư dân đầu tiên của Bờ Biển Ngà đã để lại dấu vết chứng minh cho sự tồn tại của mình rải rác khắp nơi trên vùng đất này. Những nhà sử học đều tin rằng những cư dân đầu tiên đó đã được thay thế hoặc bij đồng hóa bởi tổ tiên của cư dân Bờ Biển Ngà hiện nay bắt đầu từ thế kỉ XVI, bao gồm người Ehotilé (Aboisso), người Kotrowou (Fresco), người Zéhiri (Grand Lahou), người Ega và người Diès (Divo). Côte d'Ivoire là vùng đất hấp dẫn đối với các thương gia Pháp và Bồ Đào Nha từ thế kỉ 15. Họ đến đây để tìm kiếm ngà voi và nô lệ. Năm 1842, thực dân Pháp chiếm các vùng ven biển, thiết lập chế độ thuộc địa năm 1893 và sáp nhập vào lãnh thổ Tây Phi thuộc Pháp năm 1896. Năm 1934, Abidjan trở thành thủ đô, đất nước phát triển nhờ khai khẩn các đồn điền ca cao và cà phê, việc khai thác rừng được dễ dàng nhờ việc xây dựng đường sắt Abidjan-Niger kéo dài đến biên giới vùng Thượng Volta. Côte d'Ivoire giành độc lập năm 1960. Côte d'Ivoire cùng Dahomay (Bénin), Niger và Burkina Faso thành lập đồng minh thuế quan năm 1959. Côte d’Ivoire là một trong những nước có nền kinh tế phát triển trong vùng châu Phi cận Sahara, đứng đầu thế giới về xuất khẩu ca cao, là một trong những nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới. Houphouët-Boigny trở thành Tổng thống sau khi đất nước độc lập (1960). Boigny tái đắc cử sáu lần và giữ chức này cho đến năm 1993. Lực lượng sinh viên, nông dân và thợ thuyền đã phản đối buộc Tổng thống phải hợp pháp hóa các đảng đối lập và tổ chức các cuộc bầu cử Tổng thống vào tháng 10 năm 1990. Houphouet Boigny giành thắng lợi với 81% số phiếu. Về chính trị, Houphouët-Boigny lãnh đạo Bờ Biển Ngà với chính sách \"bàn tay sắt\". Một số nhận xét mềm mỏng hơn cho rằng sự lãnh đạo của ông giống với hình thái \"phụ quyền-gia trưởng\". Không có tự do báo chí và chỉ có một chính đảng tồn tại. Điều này được một số người chấp nhận điều này như yêu cầu tất yếu nhằm mục đích tranh thủ lá phiếu của cử tri. Houphouët-Boigny cũng bị chỉ trích bởi những vấn đề liên quan các dự án quy mô lớn. Nhiều người cho rằng việc chi hàng triệu USD để cải tạo Yamoussoukro, quê hương của Houphouët Boigny, thành thủ đô mới là vô cùng lãng phí; một số người khác thì ủng hộ tầm nhìn của ông theo hướng phát triển thành phố này thành một trung tâm hòa bình, giáo dục và tôn giáo ngay giữa lòng Bờ Biển Ngà. Nhưng vào những năm đầu thập niên 80 của thế kỉ 20, suy thoái kinh té thế giới cộng với hạn hán đã tác động không nhỏ đến kinh tế Bờ Biển Ngà. Cùng với việc lạm dụng khai thác gỗ và đường bị rớt giá, nợ nước ngoài của Bờ Biển Ngà tăng lên gấp 3. Tội phạm gia tăng một cách đáng lo ngại ở Abidjan. Vào năm 1990, hàng trăm cán bộ nhà nước và sinh viên gây bạo loạn để phản đối tình trạng tham nhũng đang hoành hành. Cuộc bạo loạn buộc chính phủ phải chuyển sang nền dân chủ đa đảng. Sức khỏe của Houphouët-Boigny ngày càng yếu và chết vào năm 1993. Ông đề cử Henri Konan Bédié là người kế nhiệm. Tháng 10 năm 1995, Bédié giành chiến thắng áp đảo trước phe đối lập rời rạc và thiếu tổ chức trong lần tái tranh cử. Bédié thắt chặt sự kiểm soát về chính trị, tống giam hơn 700 người ủng hộ phe đối lập. Tuy nhiên, kinh tế của Bờ Biển Ngà lại có những dấu hiệu khả quan như lạm phát giảm và chính phủ cố gắng xóa bỏ nợ nước ngoài. Khác với Houphouët-Boigny, người chủ trương tránh những mâu thuẫn sắc tộc và để ngỏ một số vị trí trong bộ máy hành chính cho những người nhập cư từ các nước láng giếng, Bản mẫu:Bedié chú trọng vào quan điểm \"Ivority\" (tiếng Pháp: Ivoirité) để loại bỏ đối thủ của ông ta Alassane Ouattara, vốn có bố mẹ là người phía bắc Bờ Biển Ngà, khỏi cuộc đua vào chiếc ghế tổng thống. Tuy nhiên, chính sách loại bỏ người nước ngoài này đã làm căng thẳng mối quan hệ giữa các sắc tộc khác nhau ở Bờ Biển Ngà, vốn từ trước đến nay có số lượng dân nhập cư chiếm phần lớn trong tổng số dân của cả nước. Tương tự, Bédié đã loại bỏ nhiều đối thủ chính trị khỏi quân đội. Cuối năm 1999, một nhóm sĩ quan bất mãn với chính phủ đã tổ chức một cuộc đảo chính quân sự, đưa tướng Robert Guéï lên nắm quyền. Bédié bỏ trốn sang Pháp. Chính quyền mới đã giảm bớt tình hình tội phạm và tham nhũng, cùng với việc áp đặt giới nghiêm và vận động rộng khắp trên đường phố về một xã hội tiết kiệm hơn. Cuộc bầu cử tổng thống tháng 10 năm 2000 giữa hai ứng cử viên Laurent Gbagbo và Guéï diễn ra quyết liệt nhưng hòa bình. Sự kiện nổi bật tiếp theo cuộc bầu cử tổng thống được đánh dấu bằng cuộc bạo loạn của quân đội và dân chúng Bờ Biển Ngà. Cuộc bạo loạn đã khiến 180 người chết và Guéï phải nhường lại chiếc ghế cho Gbagbo. Tòa án tối cao Bờ Biển Ngà ra quyết định phế truất Alassane Ouattara vì gốc gác Burkinabé của ông ta. Hiến pháp Bờ Biển Ngà tại thời điểm đó cũng như dưới thời Guéï không cho phép người không đáp ứng đủ yêu cầu về quốc tịch đứng ra tranh cử tổng thống. Sự kiện này đã châm ngòi cho những xô xát bạo lực giữa người ủng hộ Alassane Ouattara, chủ yếu là cư dân đến từ phía bắc Bờ Biển Ngà, và cảnh sát chống bạo động ở thủ đô Yamoussoukro. Mỗi bên đều tuyên bố thắng lợi trong cuộc bầu cử được cho là gian lận. Sự phản đối của nhân dân biến thành bạo động và buộc Tướng Guei rời khỏi nhóm quân đội nổí loạn mưu toan đảo chính. Tướng Guei và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Doudou bị giết trong cuộc chiến giữa quân Chính phủ và phe nổi dậy. Tổng thống Laurent Gbagbo, đắc cử năm 2000, tố cáo Guei tiến hành đảo chính. Abidjan - vẫn là trung tâm hành chính và các nước khác duy trì đại sứ quán của họ ở đó. Korhogo - trụ sở quân nổi loạn, nếu không bình dị, tấp nập với thương mại trong tháng hai-tháng năm nhờ mua bán bông và hạt điều. Aboisso - cột mốc quan trọng trên các tuyến đường kết nối Abidjan và tuyến đường thương mại Ghana Bouake - thành phố lớn thứ hai Dabou San Pedro - thành phố cảng thứ hai Yamoussoukro - Mặc dù là thủ đô chính thức từ năm 1983, nó không phải là trung tâm hành chính. Grand-Bassam - Một thị trấn ven biển đầy quyến rũ thuộc địa, nơi nghỉ cuối tuần của cư dân Abidjan. Có hiệu lực từ ngày 15 tháng hai năm 2009, tất cả các công dân nước ngoài Cefa thăm Bờ Biển Ngà phải có thị thực trước khi đến. Quá trình này trực tuyến tại Website chính thức Visa. Sân bay quốc tế Felix Houphouet-Boigny có tuyến bay thường lệ hàng ngày với Paris (Air France [2]) và Brussels (hãng hàng không Brussels [3]). Ngoài ra còn có các chuyến bay đến thủ đô Tây Phi khác. Các chuyến tàu giữa Abidjan và Ougadougou cắt qua lãnh thổ nổi loạn và không nên thực hiện bởi du khách nước ngoài. Bạn nên vào Bờ Biển Ngà từ Guinea, Liberia, Mali, hoặc Burkina Faso. Biên giới Ghana là khá an toàn. Nếu bạn nhập cảnh vào Elubo, bạn có thể dễ dàng bắt một xe taxi chia sẻ để Aboisso và sau đó một xe buýt đến Abidjan. Có khoảng mười điểm kiểm tra quân sự giữa biên giới và Abidjan do đó bản nên chuẩn bị tài liệu sẵn sàng. Nếu bạn không có tài liệu thích hợp của tiêm chủng của bạn tại cửa khẩu bạn sẽ bị buộc phải trả một khoản tiền nhỏ và họ sẽ cung cấp cho bạn một tiêm tại một phòng khám tại chỗ. Xe buýt chạy hàng ngày giữa Abidjan và Accra. Dịch vụ được cung cấp xen kẽ giữa các STC (Ghana) và cong ty đối tác Bờ Biển Ngà. Abidjan có một chuyến đi buổi tối đẹp trên đầm phá trong thành phố cho khách du lịch.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Belgorod", "role": "user" }, { "content": "Belgorod (tiếng Nga: Белгород) là một thành phố ở phía tây nước Nga, nằm trên sông Donets Seversky chỉ cách 40 km về phía bắc biên giới với Ukraina, tại 50°37′B 36°35′Đ. Đây là trung tâm hành chính của tỉnh Belgorod. Dân số: 337.030 (2002). Belgorod có sân bay quốc tế Belgorod (EGO). Sân bay quốc tế Belgorod.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Linköping", "role": "user" }, { "content": "Linköping là một thành phố Thụy Điển. Thành phố này nằm ở miền nam Thụy Điển, với dân số 97.428 người tại thời điểm năm 2005. Nó là thủ phủ của đô thị Linköping với 140.367 dân (2007) và là thủ phủ của hạt Östergötland. Linköping là nơi đóng trụ sở của Giáo phận Linköping (Giáo hội Thụy Điển) và nổi tiếng với nhà thờ của mình. Linköping là trung tâm của một vùng văn hóa cũ và tổ chức kỷ niệm 700 của nó vào năm 1987. Ngày nay Linköping được biết đến với các trường đại học và ngành công nghiệp công nghệ cao của nó. Kiến trúc nổi bật trung tâm thành phố là tháp chuông của nhà thờ. Thành phố này nằm phía nam của hồ Roxen. Tại \"trận Stångebro\" năm 1598, thành phố đã chiến đấu ở phía bên Công giáo và bị thất thủ. Một đài tưởng niệm của trận chiến được tìm thấy ngay bên ngoài trung tâm thành phố. Các \"cuộc tắm máu của Linköping\" sau năm 1600 được nhớ đến với một đài tưởng niệm tại quảng trường chính. Linköping có một trường đại học và các sinh viên là một phần quan trọng của cuộc sống của thành phố cả ngày lẫn đêm. Sân bay Skavsta [1] - Được sử dụng bởi Ryanair. Nằm 100 km về phía Đông Bắc Linköping. Một chuyến xe buýt đưa đón [2] (90 phút) liên kết đường bộ giữa trung tâm Linköping và sân bay Skavsta. Khởi hành từ Resecentrum. Sân bay Linköping [3] - Chuyến bay hầu như chỉ để Amsterdam và Copenhagen. Không có xe buýt con thoi giữa sân bay và cResecentrum và bạn cần phải đi taxi từ sân bay. Sân bay Norrköping [4] - Chuyến bay hầu như chỉ để Helsinki, Visby, München và Copenhagen. Nằm 45 km về phía Đông Bắc Linköping. Lâu đài Linköping [5], từ thế kỷ 13, là nơi cư trú của giám mục cho đến khi cải cách Lutheran trong thế kỷ 16. Bây giờ nó là nơi cư trú của cảnh sát trưởng (landshövding) cho quận Östergötland. Lâu đài này còn sở hữu một bảo tàng. Tòa thị chính [6] (stadshuset) được dựng lên như một trường trung học (läroverk) vào năm 1864. Trên lối vào của nó là cụm từ tiếng Latin \"Initium sapientie Timor Domini\" (kính sợ Chúa là sự khởi đầu của tất cả mọi sự học hành). Tam giác quyền lực này là trên đỉnh của một ngọn đồi nhỏ mà từ đó chính (Storgatan) dốc đường phố của thành phố xuống quảng trường chính (Stortorget) và tiếp tục xuống cầu (Stångebro) trên sông Stångån. Trong phần mở rộng của nó, con đường này là một phần của đường nước cũ để Norrköping và Stockholm. Các tòa nhà công cộng. Nằm trên đỉnh đồi là những thư viện công cộng, các tòa nhà hành chính đối với các giáo phận, tòa giám mục, và một nhà thể thao (gymnastikhuset [7]) được xây dựng vào năm 1881 . Các thư viện hiện nay được xây dựng vào năm 1998, nhưng các bộ sưu tập của nhà thờ cũ thư viện ngày trở lại trước khi Gutenberg. Phía bắc là phòng hòa nhạc (Konsert & Kongress), bảo tàng quận (Ostergotlands länsmuseum) bên cạnh các Raoul Wallenberg plaza, và hai trường trung học (Katedralskolan, Berzeliusskolan). Gamla Linköping (Old Linköping) và Valla fritidsområde. Một bảo tàng ngoài trời, phía tây của trung tâm thành phố. Tòa nhà đẹp từng nằm trong trung tâm của Linköping đã được cứu khỏi phá bỏ và chuyển đến khu vực này để làm cho nó là một thị trấn nhỏ riêng của nó. Ở đây bạn thực tế có thể tận hưởng cuộc sống của Linköping trong thế kỷ 19. Các công dân của Linköping thưởng thức tham gia của cuộc sống và bạn có thể nhìn thấy những người thực sự mặc quần áo lên và làm việc như công dân của Gamla Linköping. Cũng nên nhớ để mua sô cô la sản xuất trong nước và bánh kẹo để giảm 'Gamla Linköping (Old Linköping) và 'Valla fritidsområde cùng nhau có hơn 20 bảo tàng. 'Bảo tàng Không quân Thụy Điển (Flygvapenmuseum) [8] ở ngoại ô tính năng Malmen hơn một trăm máy bay từ những năm đầu thế kỷ 20 đến thời hiện đại. Bảo tàng đã lớn của nó mới mở lại các bảo tàng 12: ngày của tháng sáu năm 2010, với các đặc điểm mới. IT-ceum [9] là một bảo tàng máy tính và tin học, nằm trong công viên khoa học Mjärdevi, nơi bạn sẽ tìm thấy nhiều trong các công ty CNTT của Linköping. Bảo tàng bao gồm cả máy tính Thụy Điển cổ và các sự kiện hiện tại hơn, chẳng hạn như các cảnh giới thiệu với các sản phẩm đa phương tiện thời gian thực của nó. Triển lãm mô tả cả hai kỹ thuật và các khía cạnh xã hội của máy tính. Dấu hiệu của bảo tàng là cả trong tiếng Thụy Điển và tiếng Anh. Vào cửa miễn phí. Linköpings Slotts-& ​​Domkyrkomuseum (Lâu đài và Bảo tàng Nhà thờ) [10] - một bảo tàng cho thấy lịch sử của thị trấn như một trụ sở cho các giám mục từ thế kỷ 12. Nằm bên trong lâu đài. Ostergotlands länsmuseum (Bảo tàng Hạt Östergötland) [11] - một bảo tàng thể hiện lịch sử của tỉnh. Nó còn sở hữu một bộ sưu tập nghệ thuật lớn với nghệ thuật cả cũ và đương đại. Thăm Nhà thờ Linköping. Đừng bỏ lỡ các cơ buổi concerto. Đi bộ xung quanh thành phố. Gamla Linköping, Vallaskogen (Kryddbodtorget 1) (About 2km west of Linköping central. North of Vallaskogen). Đi bộ xung quanh và khám phá những ngôi nhà cũ một lần nằm trong Linköping Tham gia một trận hockey, tại đấu trường Linköping HC - Trung tâm Cloetta, chỉ cần 5 phút đi bộ từ trung tâm thành phố. Trong học kỳ, nói chuyện với các sinh viên tại trường đại học. Nhiều người trong số họ sẽ được vui để cho bạn một thời gian tốt! Đi thuyền trên kênh Kinda [12]. Khám phá Linköpings Trädgårdsförening thư giãn công viên trong khu vực trung tâm. Kisa đến Boxholm theo đường mòn Malexandermorden bằng xe hơi. Kniv å gaffel, Drottninggatan 26. Thực phẩm Địa Trung Hải. Mains 119-219 SEK. Wokaway, Repslagaregatan 22. Thức ăn Thái giá bình dân ăn tại chỗ hoặc mang đi. Mains 45-99 SEK. Wasabi Sushi Bar, Storgatan 27. Sushi ngon. Mains 69-179 SEK. Riva, Ågatan 43. Thức ăn Ý và Mỹ. Mains 79-255 SEK. BK (Bar & Kök), Ågatan 47. Mains 145-229 SEK. Thai Coconut, S:t Larsgatan 25A. Thức ăn Thái, không phục vụ thức uống có cồn. Mains 95-149 SEK, Lunch 60 SEK. Yogi, Platensgatan 5. Thức ăn ngon Ấn Độ phong cách, cay hoặc không cay. Mains 135-168 SEK. Texas Longhorn, S:t Larsgatan 25C. Nhà hàng bít tết Texas. Mains 145-570 SEK. Halong, S:t Larsgatan 12. Thức ăn châu Á gần nhà ga tàu hỏa. Mains 65-115 SEK. Sangria, Platensgatan 1. Các món ăn Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Mains 168-278 SEK. Gula Huset (The Yellow House), Klostergatan 19. Mains 140-260SEK. Kikkobar, Ågatan 39. Sushi, thức ăn Nhật. 140-280SEK. The Bishops Arms, Ågatan 27, ☎ 013 10 09 93NOCC. Thức ăn phong cách Anh, khoai tây chiên và cá. Mains 124-256 SEK. De Klomp, St Larsgatan 13 (opposite hotel Skandic Frimurare), ☎ 013-4655563NOCC. Cà phê Hà Lan, bia. Mains 105-235. Stångebro Gatukök, Tanneforsvägen 92 (opposite Scandic Linköping City, at the roundabout near Norrköpingsvägen), ☎ 013 13 47 04NOCC. 11:30AM-10PM. Bánh mì kẹp. 80 SEK (burger with the lot, with pommes and a drink).", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Việt Nam", "role": "user" }, { "content": "Việt Nam là một quốc gia nằm ở phía đông bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực Đông Nam Á. Tôi từng coi Việt Nam như một cuộc chiến chứ không phải một quốc gia. John Pilger, trích dẫn trong Bạn có nhớ Việt Nam? (Do you remember Vietnam?) (1978). Bài viết bách khoa Việt Nam tại Wikipedia Bài viết này còn sơ khai.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Frankfurt", "role": "user" }, { "content": "Frankfurt là thành phố lớn nhất bang Hessen, trung tâm tài chính của Đức. Nằm bên dòng sông Main, Frankfurt là thủ đô tài chính của châu Âu và là trung tâm vận tải của Đức. Frankfurt là nơi tọa lạc của Ngân hàng Trung Tâm Châu Âu và trung tâm giao dịch chứng khoáng Frankfurt. Hơn nữa, đây còn là nơi tổ chức nhiều hội chợ giao thương quan trọng, như Frankfurt Auto Show hay Hội chợ sách Frankfurt. Đây còn là nơi sinh của of Johann Wolfgang von Goethe. Frankfurt là một thành phố của sự đối lập. Những chủ ngân hàng giàu có, sinh viên và những người bần cùng tồn tại trong một thành phố có nhiều tòa nhà cao chọc trời nhất châu Âu, nằm cạnh bên những tòa nhà cổ được bảo quản cực tốt. Khu vực trung tâm, đặc biệt là quảng trường Romer và bảo tàng tại River Main, thu hút hàng triệu du khách mỗi năm. Mặt khác, nhiều khu vực khác như Bockhenheim, Bornheim, Nordend và Sachsenhausen có những con đường và công viên còn nguyên vẹn từ thế kỷ 19, đa số thu hút du lịch đến rất nhiều. Frankfurt còn là thành phố có nhiều bảo tàng, nhà hát...cùng các hoạt động văn hóa đặc sắc khác. Frankfurt am Main, thường chỉ được viết là Frankfurt, với dân số hơn 670.000 người là thành phố lớn nhất của bang Hessen (Đức) và là thành phố lớn thứ 5 của Đức sau Berlin, Hamburg, München (Munich) và Köln (Cologne). Vùng đô thị Frankfurt có khoảng 2,26 triệu dân cư năm 2001, toàn bộ vùng đô thị Frankfurt Rhein-Main với trên 5 triệu dân cư là vùng đô thị Đức lớn thứ nhì sau Rhein-Ruhr. Từ năm 1875 Frankfurt am Main là thành phố lớn với hơn 100.000 dân cư. Việc xây dựng thành phố đã vượt xa khỏi ranh giới chật hẹp của thành phố. Từ Thời kỳ Trung cổ thành phố Frankfurt am Main liên tục thuộc về một trong những trung tâm quan trọng nhất trong nước Đức. Đã từ lâu, Frankfurt đã trở thành trung tâm thương mại của Đức. Trụ sở chính của Ngân hàng Trung ương Châu Âu và các ngân hàng lớn như Deutsche Bank, Dresdner Bank và Commerzbank đều tập trung tại đây. Thị trường chứng khoán Frankfurt là một trong những thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới. Frankfurt cũng là thành phố hội chợ quan trọng trên toàn thế giới. Ngoài ra Frankfurt còn là điểm nút giao thông quan trọng của Đức và Châu Âu. Frankfurt là một thành phố của tương phản. Chủ ngân hàng giàu có, sinh viên và những sinh viên bỏ học giữa chừng cùng tồn tại trong một thành phố có hầu hết các tòa nhà chọc trời tiên phong cao nhất của châu Âu bên cạnh các tòa nhà cũ được duy trì tốt. Khu vực trung tâm thành phố, đặc biệt là quảng trường Römer và các bảo tàng tại sông Main, thu hút hàng triệu du khách mỗi năm. Mặt khác, nhiều người ra khỏi khu dân cư cũ, chẳng hạn như Bockenheim, Bornheim, Nordend và Sachsenhausen, với đường phố của chúng còn nguyên vẹn đẹp thế kỷ 19 và công viên thường bị bỏ qua của du khách. Frankfurt là nơi có autobahns lớn và đường sắt của Đức giao nhau. Khoảng 650.000 người đi lại vào thành phố mỗi ngày, chưa kể 660.000 người thực sự sống ở đây. Với một sân bay lớn - lớn thứ ba ở châu Âu - đó là cửa ngõ vào Đức và đối với nhiều người cũng là điểm đến đầu tiên ở châu Âu. Hơn nữa, nó là một trung tâm chính cho các mối liên kết trong châu Âu và các chuyến bay liên lục địa. Frankfurt có tỷ lệ cao nhất của người nhập cư ở Đức: khoảng 25% (660.000) người Frankfurt không có hộ chiếu Đức và 10% là công dân quốc tịch Đức. Với khoảng 35% người nhập cư, Frankfurt là đa dạng nhất của thành phố của Đức. Frankfurt là nơi có nhiều viện bảo tàng, nhà hát và opera đẳng cấp thế giới. Thời điểm thích hợp nhất để đến Frankfurt là cuối mùa xuân và đầu mùa thu. Mùa hè thường có nắng và ấm áp, khoảng 25 °C (77 °F). Tuy nhiên cần chuẩn bị cho những ngày hè cực nóng khoảng 35 °C (95 °F), có mưa nhẹ. Mùa đông có thể lạnh và mưa (thường không thấp hơn -10 °C/14 °F), nhưng ở Frankfurt rất khó có tuyết. Nếu bạn muốn ở lại đêm, nên tránh thời điểm diễn ra các hội chợ thương mại, lúc đó tìm được chỗ nghỉ ngơi vừa túi tiền là một thử thách to lớn. Hội chợ lớn nhất là Frankfurt Motor Show (Automobil-Ausstellung) vào giữa tháng 8 và Hội chợ sách (Buchmesse) giữa tháng 10 hằng năm. Có hai văn phòng thông tin du lịch. Cách đơn giản nhất để có được là bên trong Nhà ga Trung tâm. Tìm kiếm các bảng hiệu: đó là gần lối ra chính, bên cạnh đường sắt khu vực dịch vụ Đức (DB). Các dữ liệu liên lạc chính thức là: Touristinfo Hauptbahnhof [1], (Tourist Information Central Station), Hauptbahnhof - Passage. +49 69 21 23 88 00 (fax: +49 69 21 23 78 80, mail: info@infofrankfurt.de). M-F 8AM - 9PM, Sa-Su + Holidays 9AM - 6PM; New Year + New Year's Eve 8AM - 1PM; closed on December 25 + 26. Touristinfo Römer [2], Römerberg 27. +49 69 21 23 88 00 (fax: +49 69 21 23 78 80, mail: info@infofrankfurt.de). M-F 9:30AM – 5:30PM, Sa-Su + Holidays 10AM - 4PM; New Year + New Year's Eve 10AM - 1PM; closed on December 25 + 26. Sân bay Frankfurt là sân bay lớn nhất Đức. Vietnam Airlines và Lufthansa có tuyến bay thẳng giữa Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh với Frankfurt. Từ Frankfurt có thể đi máy bay hoặc tàu lửa tốc độ cao đến các thành phố lớn của Đức. Frankfurt có ba nhà ga xe lửa chính, nhà ga chính (50.10682Hauptbahnhof1 Hauptbahnhof), Nhà ga Nam (50.09933Südbahnhof2 Südbahnhof) và sân bay (50.05292Flughafen Fernbahnhof3 Flughafen Fernbahnhof). Tuy nhiên, tàu hỏa liên thành phố dừng lại ở sân bay thường không dừng lại ở Hauptbahnhof (chỉ có một vài trường hợp ngoại lệ). Frankfurt Hauptbahnhof là một trong những nhà ga xe lửa lớn nhất và bận rộn nhất ở châu Âu. Frankfurt có kết nối đến các thành phố của Đức nhất - và một số điểm đến quốc tế - thông qua InterCity và tàu lửa tốc độ cao InterCity Express. Không có vấn đề để có được một kết nối đến bất kỳ điểm đến tàu từ Frankfurt. Hãy nhận biết rằng nhà ga Frankfurt là rất lớn, khó hiểu, nơi giống như mê cung cho người mới đến. Bạn hãy dự phòng thêm thời gian để xác định vị trí các khu vực nội trú cho tàu của bạn. Đừng ngần ngại hỏi ai đó để giúp đỡ lần đầu tiên. Có một bảng chỉ dẫn lớn trên lối ra chính / lối vào với điểm đến và các thông tin nền tảng, và bạn cũng có thể nhận được thông tin từ các văn phòng du lịch đường sắt trong ga. Từ văn phòng bán vé chính tại Frankfurt, bạn có thể mua 5 và 10 ngày thẻ du lịch đường sắt cho phép bạn đi du lịch xung quanh Đức sử dụng tất cả các chuyến tàu hỏa, bao gồm cả những tuyến liên tỉnh. Đây là một tiết kiệm đáng kể trên giá vé xe lửa từng cá nhân. Giá vé 5 ngày 189 € và vé 10 ngày 289 €. Bạn không thể mua những vé từ ga xe lửa trong khu vực. Frankfurt có hệ thống giao thông công cộng rất tuyệt vời tuy khá đắt tiền, bao gồm xe buýt, xe điện, S-Bahn và U-Bahn. Vé hàng ngày hay vé lẻ có thể mua từ những chiếc máy đặt ở trạm dừng. Nhất vào Einzelfahrt Frankfurt nếu muốn mua vé ở khu vực 50, đi khắp Frankfurt, kể cả sân bay. Kurzstrecken là loại vé tuyến ngắn có giá €1.60, vé lẻ giá €2.10 và vé Tageskarte (24 giờ) giá €4.90. Thẻ đi hằng tuần giá €19. Giao thông ở trung tâm Frankfurt rất thuận lợi, nhưng hệ thống đường một chiều có thể cực kỳ phiền phức. Tốt nhất bạn nên đậu xe lại trong những bãi đậu xe qua đêm và đi bộ. Đi dọc khu trung tâm bạn sẽ thấy những bảng chỉ đường và số của các bãi đậu xe hần đó. Bãi đậu xe miễn phí là Preungesheim gần cộng ra từ A661 và trạm dừng xe điện Preungesheim. 10 Römerberg, Römerberg 27 (Phía bắc cầu Eiserner Steg và trung tâm thành phố). Là trung tâm, một địa danh cũ của khu trung tâm Frankfurt. Ở đây có nhiều cao ốc và nhà thờ từ thế kỷ 14 – 15, những cao ốc này đã bị phá hủy trong thời gian Thế chiến thứ Hai nhưng sau đó được tái dựng. Römer là khu Thị chính của Frankfurt, ở đây có nhiều cửa hàng, quán cà phê... 12 Kaiserdom (Nhà thờ Saint Bartholomeus) (Nằm ngay bên cạnh Römerberg, U-Bahn U4/U5 „Dom/Römer\", Tàu điện 11/12 „Römer/Paulskirche\"). Nhà thờ chính với tháp cao 95 m của nó, được xây dựng theo phong cách Gothic trong thế kỷ 14. Từ 1562-1792, các hoàng đế của Thánh chế La Mã đã được trao vương miện trong nhà thờ. 13 Eiserner Steg (Iron bridge). Cây cầu tương đối nổi tiếng cho người đi bộ, được xây dựng trong năm 1869. Nó chỉ là một phút đi từ Römer. Băng qua cây cầu dẫn bạn đến Sachsenhausen và Cung cấp tầm nhìn đẹp ra đường chân trời. 14 [_id_inhalt=5021017Paulskirche] (St. Paul's Church) (Located just north of the Römer place). – Đó là một nhà thờ với biểu tượng chính trị quan trọng ở Đức. Nhà thờ này là trụ sở nghị viện đầu tiên được bầu một cách dân chủ ở Đức năm 1848. Như các tòa nhà lịch sử nhất ở trung tâm thành phố, nó đã bị phá hủy trong Thế chiến II, nhưng vì vậy những gì trong những tòa nhà đầu tiên được xây dựng lại sau năm 1945 (với nội thất khác nhau). Ngày nay tòa nhà được sử dụng như một khu tưởng niệm và trên trung tâm sự kiện, lưu trữ tức trao giải thưởng của giải Nobel Hòa bình của sách thương mại của Đức. Vào cửa tự do. Đa số các bảo tàng ở Đức đóng cửa vào ngày Thứ Hai, tuy có một số nơi ngoại lệ, giờ mở cửa chính xác cũng tùy vào từng bảo tàng. Nếu bạn muốn đến tham quan vào ngày lễ, hãy kiểm tra trước xem hôm đó bảo tàng có mở cửa hay không. Bảo tàng kiến trúc Đức - Deutsches Architektur Museum – Bảo tàng trưng bày nhiều mẫu thiết kế nhà cao tầng và kiến trúc. Ở đây còn có cả quán cà phê nhỏ. Đóng cửa hàng thứ hai. Phí vào cửa người lớn €6.00, trẻ em €3.00. Bảo tàng Phim của Đức - Deutsches Filmmuseum, Schaumainkai 41, +49..., fax +49 69 21237881. Bảo tàng Phim của Đức trưng bày nghệ thuật và lịch sử làm phim. Đóng cửa ngày thứ Hai.. Phí vào cửa người lớn €4.00, trẻ em €1.50. Städel-Museum, Dürerstrasse – tên đầy đủ là Staedelsches Kunstinstitut, đặt theo tên của Johann Friedrich Staedel. Bảo tàng trưng bày nhiều tác phẩm nghệ thuật hiện đại và cổ điển. Đằng sau bảo tàng là Städelschule, một trường nghệ thuật có khu bán thức ăn khá rẻ. Đóng cửa ngày thứ Hai. Phí vào cửa người lớn €8.00, sinh viên € 5.00. Trẻ em dưới 12 tuổi miễn phí. Jade, Moselstraße 25 ( gần Hauptbahnhof, 2 khối xuống Kaiserstrasse, sau đó bên phải, nó nằm bên trái). Không gian Trung Hoa nhỏ với một đám đông quốc tế. Tuyệt vời thực phẩm phục vụ trong phần rất lớn cho một mức giá rất rẻ. Thực đơn là ở Trung Quốc, Anh và Đức. Dịch vụ rất thân thiện. Pizza Monte Carlo, Diesterwegstraße 2 (góc Schweizer Platz), hàng ngày 17:30-23:00 (chỉ mở cửa từ 1 - 15 hàng tháng). Một nơi bánh pizza nhỏ ở miền trung Sachsenhausen, rất nên đến miễn là bạn có ý định mang về nhà ăn của bạn (và hầu hết mọi người), nhưng nó không có chỗ cho 2-3 người ngồi. Bánh pizza được làm bằng tay và rất ngon. Họ cũng phục vụ mì ống và một số món salad. € 4 - € 6. Bizim Doner, ga Frankfurt-Griesheim (tuyến S1 và S2 hướng Frankfurt-Höchst). Một cửa hàng nhỏ ở khu vực với thịt nướng tuyệt vời. 2,50 €-10 €. Pizzeria Charly Braun, Röderbergweg 121, Frankfurt-Ostend ( hai khối phía nam của ga U-Bahn Habsburgerallee), 49 069 49 29 41. M-F 10:30-10:00, đóng cửa ngày chủ nhật. Một nơi nhỏ với giá rẻ và tuyệt vời bánh pizza. Mì ống và xà lách cũng được phục vụ. Người dân địa phương thường gọi trong một trật tự và nhận trong hai mươi phút. 3,60 €, 7,10 € (tùy thuộc vào kích thước). Worscht tốt nhất trong thành phố [3]: nơi mà bạn có thể thử \"Curry-Wurst\", mà là một xúc xích thịt bò thái lát ăn kèm với sốt cà chua và gia vị cà ri, và được coi là một trong những sản phẩm thức ăn nhanh của Đức phổ biến nhất. Các Worscht tốt nhất trong thành phố đặc biệt vì nó cũng phục vụ các biến thể cực kỳ cay, sử dụng một số loại gia vị cay nhất có sẵn từ vùng khác nhau của thế giới. Cửa hàng có thể được tìm thấy trên Berger Strasse, trong Nordwestzentrum, và các địa điểm khác. Đây là nơi khách chỉ đứng mà không có chỗ ngồi. Đa số các cửa hàng mở cửa đến 8.00 tối, dù một số cửa hàng lớn ở khu trung tâm có thể đóng cửa lúc 21h đến 22h. Đa số các cửa hàng đều đóng cửa ngày Chủ nhật. Zeil là con đường mua sắm chính ở Frankfurt và cũng là một trong những con đường mua sắm hoạt động mạnh nhất châu Âu. Khu vực này có nhiều cửa hàng như Galeria Kaufhof hay Karstadt, các khu mua sắm phức hợp như Zeilgalerie và nhiều cửa hiệu khác, đa số là thời trang.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Du lịch Hàn Quốc", "role": "user" }, { "content": "Hàn Quốc là một quốc gia ở khu vực Đông Á lãnh thổ được chia thành hai phân biệt các quốc gia có chủ quyền, Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc. Nằm trên bán đảo Triều Tiên, Hàn Quốc giáp với Trung Quốc ở phía tây bắc và Nga về phía đông bắc. Nó được tách ra từ Nhật Bản ở phía đông của eo biển Hàn Quốc và Biển Nhật Bản (Biển Đông), và nó được tách ra từ Đài Loan về phía nam của Biển Đông Trung Quốc. Việc áp dụng các hệ thống chữ viết Trung Quốc (\" chữ Hán \"trong tiếng Hàn Quốc) trong thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên và Phật giáo trong thế kỷ thứ 4 có ảnh hưởng sâu sắc đến Tam Quốc Triều Tiên, trong đó lần đầu tiên được thống nhất trong các triều đại Silla (57 TCN - 935) dưới vua Munmu của triều đại Silla. Triều đại Silla thống nhất giảm xuống triều đại Goryeo trong 935 vào cuối Hậu Tam Quốc Triều Tiên thời đại. Cao Ly là một quốc gia có văn hóa và tạo ra Jikji trong thế kỷ 14. Cuộc xâm lược của người Mông Cổ vào thế kỷ 13, tuy nhiên, rất nhiều làm suy yếu các quốc gia, mà đã buộc phải trở thành một nước chư hầu. Sau khi đế quốc Mông Cổ sụp đổ 's, xung đột chính trị nghiêm trọng theo sau và Cao Ly được thay thế bởi triều đại Joseon trong năm 1388. 200 năm đầu tiên của thời kỳ Joseon đã được đánh dấu bằng hòa bình tương đối và thấy việc tạo ra bảng chữ cái Hàn Quốc Hangul bởi vua Sejong vào thế kỷ 14 và sự gia tăng ảnh hưởng của Nho giáo trong cả nước. Trong phần sau của triều đại, tuy nhiên, chính sách cô lập của Hàn Quốc được một cái tên Tây là \" vương quốc Hermit \". Vào cuối thế kỷ 19, đất nước đã trở thành đối tượng của những thiết kế thuộc địa của Nhật Bản. Năm 1910, Hàn Quốc đã được sáp nhập vào Nhật Bản và vẫn còn là một thuộc địa cho đến khi kết thúc Thế chiến II trong tháng 8 năm 1945. Năm 1945, Liên Xô và Mỹ đã nhất trí về sự đầu hàng của lực lượng Nhật Bản tại Hàn Quốc do hậu quả của chiến tranh thế giới II, rời khỏi Hàn Quốc phân vùng dọc theo vĩ tuyến 38, với miền Bắc dưới sự chiếm đóng của Liên Xô và phía Nam dưới sự chiếm đóng của Hoa Kỳ. Những trường hợp này nhanh chóng trở thành cơ sở cho các bộ phận của Hàn Quốc do hai siêu cường, làm trầm trọng thêm bởi sự bất lực của họ để thống nhất về các điều khoản của nền độc lập của Hàn Quốc. Hai Chiến tranh Lạnh đối thủ chính phủ sau đó thành lập trung vào ý thức hệ tương ứng của họ, dẫn đến phân chia của Hàn Quốc vào hai thực thể chính trị: Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc. Bắc Triều Tiên, tên chính thức Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, là một nhà nước độc đảng, bây giờ tập trung vào Kim Il-sung là Juche ý thức hệ, với một kế hoạch tập trung kinh tế công nghiệp. Hàn Quốc, chính thức Cộng hòa Hàn Quốc, là một đa bên nhà nước với tư bản chủ nghĩa nền kinh tế thị trường, cùng với các thành viên trong Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển và Tập đoàn của Hai mươi. Hai nước đã tách ra rất nhiều cả về văn hóa và kinh tế kể từ phân vùng của họ, mặc dù họ vẫn chia sẻ một nền văn hóa truyền thống thông thường và lịch sử Chiến tranh Lạnh trước. Tên Hàn Quốc Tên \"Hàn Quốc\", còn được gọi là \"Corea\", xuất phát từ Cao Ly kỳ của lịch sử Hàn Quốc, mà lần lượt giới thiệu đến các vương quốc cổ Goguryeo, triều đại Hàn Quốc đầu tiên đến thăm Ba Tư thương gia người gọi Koryo (Cao Ly; 고려) như Hàn Quốc. [5] Koryo (Cao Ly) cũng là tên của Goguryeo, mà đổi tên thành Koryo (Cao Ly) trong thế kỷ thứ 5 (dưới thời trị vì của vua Jangsu Goguryeo). Hàn Quốc hiện nay thường được sử dụng trong bối cảnh tiếng Anh của cả hai miền Bắc và Nam Triều Tiên. Trong các ngôn ngữ Hàn Quốc, Hàn Quốc nói chung được gọi là Han-guk (한국) tại Hàn Quốc, và Choson (조선) ở Bắc Triều Tiên. Tên thứ hai, cũng Latinh như Joseon, bắt nguồn từ triều đại Joseon và trước Cổ Triều Tiên. \"Vùng đất của Morning Calm\" là một ngôn ngữ Tiếng Anh tiêu đề cho các quốc gia có nguồn gốc lỏng lẻo từ chữ Hán ký tự cho Joseon. Lịch sử Thời tiền sử và Cổ Triều Tiên Chữ xiên Học viện Hàn Quốc của Bắc Mỹ đã phát hiện ra hóa thạch họ người cổ đại có nguồn gốc từ khoảng 100.000 BC trong các dung nham ở một trang web thành phố đá tại Hàn Quốc. Phân tích huỳnh quang và cao từ tính cho thấy các hóa thạch của núi lửa có thể là từ sớm nhất là 300 000 trước Công nguyên. Các bảo tồn tốt nhất gốm Hàn Quốc đi lại cho các kỳ đồ đá cũ lần khoảng 10.000 trước Công nguyên, và thời kỳ đồ đá thời gian bắt đầu khoảng 6000 trước Công nguyên. Cổ Triều Tiên sáng lập huyền thoại 's mô tả Dangun, một hậu duệ của thiên đường, như thiết lập vương quốc năm 2333 trước Công nguyên cho đến khi sự sụp đổ trong 108 trước Công nguyên. Vốn ban đầu có thể là tại Mãn Châu biên giới Hàn Quốc, nhưng sau đó được chuyển đến hôm nay là những gì Bình Nhưỡng, Bắc Triều Tiên. Trong 108 trước Công nguyên, người Trung Quốc thời nhà Hán đánh bại Wiman Joseon và cài đặt Bốn Commanderies của Han trong khu vực Tây Bắc của bán đảo Hàn Quốc và một phần của bán đảo Liêu Đông, để lại nhiều vương quốc nhỏ hơn và confederacies ở phía Nam và phía đông của bán đảo. 75 trước Công nguyên, ba trong số những commanderies đã giảm, nhưng các Commandery Lelang vẫn là một trung tâm giao lưu văn hóa và kinh tế với các triều đại kế tiếp của Trung Quốc cho đến 313, khi nó rơi xuống Goguryeo. Tên thực tế của đất nước này là \"Joseon\". Tuy nhiên, để phân biệt với triều đại Joseon thành lập vào cuối thế kỷ 14, \"Go\" (có nghĩa là cũ) được đóng trước khi \"Joseon\". Tam Quốc Chữ xiên Tam Quốc giai đoạn, đôi khi được gọi là Hoa Một số thời kỳ, là những năm đầu của những gì thường được gọi là thời Tam Quốc, sau sự sụp đổ của Cổ Triều Tiên nhưng trước khi Goguryeo, Baekje, và Silla đầy đủ phát triển thành vương quốc. Khoảng thời gian này thấy rất nhiều các quốc gia mọc lên từ những lãnh thổ cũ của Cổ Triều Tiên. Buyeo phát sinh trong ngày hôm nay của Bắc Triều Tiên và Nam Mãn Châu, từ khoảng thế kỷ thứ 2 sau công nguyên đến 494. Tàn dư của nó được hấp thụ bởi Goguryeo 494, và cả hai Goguryeo và Baekje, hai của Tam Quốc Triều Tiên, coi mình là người kế nhiệm của nó. Okjeo và Dongye của Bắc Triều Tiên cuối cùng được hấp thụ vào Goguryeo ngày càng tăng. Nằm ở phần phía nam của bán đảo Triều Tiên, Tam Hàn đề cập đến ba confederacies của Mahan, Jinhan, và Byeonhan. Mahan là lớn nhất và bao gồm 54 quốc gia. Byeonhan và Jinhan cả hai bao gồm mười hai tiểu bang, đưa tổng số 78 quốc gia trong Tam Hàn. Ba confederacies cuối cùng phát triển thành Baekje, Silla, và Gaya. Tam Quốc Tam Quốc của Hàn Quốc (Goguryeo, Silla và Baekje) chiếm ưu thế trong bán đảo và các bộ phận của Mãn Châu vào đầu thế kỷ 1. Họ cạnh tranh với nhau cả về kinh tế và quân sự. Goguryeo thống Buyeo, Okjeo, Dongye và các quốc gia khác trên lãnh thổ Cổ Triều Tiên trước đây. Goguryeo là thế lực thống trị nhất, nó đạt đến đỉnh cao của nó trong thế kỷ thứ 5, khi triều đại của Gwanggaeto the Great và con trai ông, Jangsu mở rộng lãnh thổ vào gần như tất cả Mãn Châu và một phần của Nội Mông, và lấy Seoul khu vực từ Baekje. Gwanggaeto và Jangsu khuất phục Bách Tế và Tân La trong thời gian của họ. Sau thế kỷ thứ 7, Goguryeo là liên tục có chiến tranh với nhà Tùy và Đường triều đại của Trung Quốc. Thành lập xung quanh hiện đại Seoul, phía tây nam vương quốc Baekje mở rộng vượt xa Bình Nhưỡng trong thời gian đỉnh cao của quyền hạn của mình trong thế kỷ thứ 4. Nó đã hấp thụ tất cả các tiểu bang Mahan và chinh phục hầu hết các phía tây bán đảo Triều Tiên (gồm các tỉnh hiện đại của Gyeonggi, Chungcheong và Jeolla, cũng như một phần của Hwanghae và Gangwon) để chính phủ trung ương. Baekje có được văn hóa và công nghệ Trung Quốc thông qua liên lạc với Nam triều trong việc mở rộng lãnh thổ của mình. Bằng chứng lịch sử cho thấy rằng văn hóa Nhật Bản, nghệ thuật và ngôn ngữ rất ảnh hưởng đến vương quốc Baekje và bản thân Hàn Quốc. Mặc dù hồ sơ sau đó cho rằng Silla, ở phía đông nam, là lâu đời nhất của ba vương quốc, bây giờ tin là đã được các vương quốc mới để phát triển. Đến thế kỷ thứ 2, Tân La đã tồn tại như một nhà nước lớn, chiếm và ảnh hưởng đến các quốc gia thành phố gần đó. Tân La bắt đầu có được sức mạnh khi nó sát nhập minh Gaya vào năm 562. Các minh Gaya nằm giữa Baekje và Silla. Ba vương quốc của Hàn Quốc thường warred với nhau và Tân La thường phải đối mặt với áp lực từ Baekje và Goguryeo nhưng tại thời điểm khác nhau Silla cũng liên minh với Baekje và Goguryeo để đạt được sự thống trị trên bán đảo. Trong 660, Vua Muyeol của Tân La ra lệnh cho quân đội của mình để tấn công Baekje. Chung Kim Yu-shin (Gim Yu-sin), được hỗ trợ bởi Tang lực lượng, chinh phục Bách Tế. Năm 661, Tân La và nhà Đường di chuyển trên Goguryeo nhưng đã bị đẩy lui. Vua Munmu, con trai của Muyeol và cháu của Tướng Kim tung ra một chiến dịch năm 667 và Goguryeo giảm trong các năm sau. Phía bắc và thời gian Hoa Nam Trong thế kỷ thứ 5, 6 và 7, điện Silla dần dần mở rộng trên bán đảo Triều Tiên. Silla đầu tiên sáp nhập liền kề minh Gaya. Bởi 660s, Silla đã liên minh với triều đại nhà Đường của Trung Quốc để chinh phục Baekje và Goguryeo sau. Sau khi đẩy lùi lực lượng của Trung Quốc, một phần Silla thống nhất bán đảo, bắt đầu một giai đoạn thường được gọi là Tân La Thống nhất. O Miền Bắc, int count Goguryeo Dae Joyeong Lead a group users Ti Nan Goguryeo to ' Cát Lâm Khu Vực Hỡi người Châu and Thành Lập Balhae(698-926) is people Thừa kế vương countries Goguryeo. o at the same time Đỉnh cao, Lãnh thổ Balhae of extension word Phía BắcMãn ChâuDown the provinces Miền Bắc Current max Hàn Quốc. Balhae have been destroy bởi allKhitans năm Kho hàng Còn 926. Nhật Bản chiếm đóng Năm 1910, một Hàn Quốc đã chiếm đóng quân là một bên buộc phải Hiệp ước Sáp nhập Nhật Bản-Hàn Quốc. Hiệp ước đã được ký kết bởi Lee Wan-Yong, người đã bị sức mạnh chung của luật sư của Hoàng Đế. Tuy nhiên, hoàng đế được cho là đã không thực sự phê chuẩn hiệp ước theo Yi Tae-jin. Có một tranh chấp kéo dài cho dù hiệp ước này là hợp pháp hoặc bất hợp pháp do ký bị cưỡng ép, đe dọa vũ lực và hối lộ. Kháng Hàn Quốc vào chiếm đóng tàn bạo của Nhật Bản đã được thể hiện trong bất bạo động ngày 01 tháng ba phong trào năm 1919, trong đó 7.000 người biểu tình đã bị giết bởi cảnh sát Nhật Bản và quân sự. Các phong trào giải phóng Hàn Quốc cũng lây lan sang nước láng giềng Mãn Châu và Siberia. Hơn năm triệu người Hàn Quốc đã nhập ngũ để bắt đầu lao động trong năm 1939, và hàng chục ngàn người đàn ông bị buộc vào quân sự của Nhật Bản. Gần 400.000 lao động Hàn Quốc thiệt mạng do chiến tranh. Khoảng 200.000 trẻ em gái và phụ nữ, chủ yếu là từ Trung Quốc và Hàn Quốc, đã bị buộc làm nô lệ tình dục cho quân đội Nhật Bản. Năm 1993, Giám đốc thư ký nội các Nhật Bản Yohei Kono thừa nhận những bất công khủng khiếp phải đối mặt với những mỹ từ hóa có tên là \" phụ nữ thoải mái \". Trong sự cai trị thuộc địa của Nhật Bản, ngôn ngữ Hàn Quốc đã bị đàn áp trong một nỗ lực để xóa bỏ bản sắc dân tộc của Hàn Quốc. Hàn Quốc đã buộc phải đưa tên họ Nhật Bản, được gọi là Soshi-kaimei. truyền thống văn hóa Hàn Quốc bị tổn thất nặng, như nhiều hiện vật văn hóa Hàn Quốc đã bị phá hủy hoặc đưa sang Nhật Bản. Cho đến ngày nay, hiện vật của Hàn Quốc có giá trị có thể thường được tìm thấy trong các bảo tàng Nhật Bản hoặc các bộ sưu tập tư nhân.Một cuộc điều tra của chính phủ Hàn Quốc xác định 75.311 sản văn hóa được đưa từ Hàn Quốc, 34.369 tại Nhật Bản và 17.803 ở Mỹ. Tuy nhiên, các chuyên gia ước tính rằng hơn 100.000 hiện vật thực sự vẫn còn ở Nhật Bản. quan chức Nhật Bản xem xét trả lại tài sản văn hóa của Hàn Quốc, nhưng cho đến nay điều này đã không xảy ra. Hàn Quốc và Nhật Bản vẫn còn tranh cãi về quyền sở hữu của Liancourt Rocks, hòn đảo nhỏ nằm ở phía đông của bán đảo Triều Tiên. Có một mức độ quan trọng của di cư đến các vùng lãnh thổ ở nước ngoài của Đế quốc Nhật Bản trong thời kỳ thuộc địa của Nhật Bản, bao gồm cả Hàn Quốc. Đến cuối Thế chiến II, đã có hơn 850.000 người định cư Nhật Bản tại Hàn Quốc. Sau khi Thế giới chiến II, hầu hết các Nhật Bản ở nước ngoài hồi hương về Nhật Bản. Chiến tranh Triều Tiên Với sự đầu hàng của Nhật Bản trong năm 1945, Liên Hiệp Quốc đã phát triển kế hoạch cho một chính quyền ủy thác, các Liên Xô quản lý bán đảo phía bắc của vĩ tuyến 38 và Hoa Kỳ quản lý miền Nam. Chính trị của Chiến tranh Lạnh kết quả thành lập năm 1948 của Chính phủ hai nước riêng biệt, Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc. Trong tháng 6 năm 1950 Bắc Triều Tiên xâm lăng miền Nam, sử dụng xe tăng Liên Xô và vũ khí. Trong chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) nhiều hơn một triệu người đã chết và ba năm chiến đấu trên toàn quốc bị phá hủy một cách hiệu quả nhất thành phố. Chiến tranh kết thúc trong một Hiệp định đình chiến tại xấp xỉ Giới Tuyến Quân. Bộ phận của Hàn Quốc Các hậu quả của chiến tranh thế giới II rời Hàn Quốc phân vùng dọc theo vĩ tuyến 38, với miền Bắc dưới sự chiếm đóng của Liên Xô và phía Nam dưới sự chiếm đóng của Hoa Kỳ hỗ trợ của các quốc gia đồng minh khác. Do đó, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, một nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa kiểu Liên Xô, được thành lập ở miền Bắc trong khi Hàn Quốc, một chế độ phong cách phương Tây, được thành lập ở miền Nam. Chiến tranh Triều Tiên nổ ra khi Liên Xô hậu thuẫn Bắc Triều Tiên xâm lược Hàn Quốc, mặc dù không bên đã đạt được nhiều lãnh thổ như một kết quả. Bán đảo Triều Tiên vẫn còn chia rẽ, các khu phi quân sự Hàn Quốc là biên giới trên thực tế giữa hai quốc gia. Từ những năm 1960, nền kinh tế Hàn Quốc đã tăng rất nhiều và cơ cấu kinh tế đã được thay đổi hoàn toàn. Năm 1957, Hàn Quốc đã có một thấp hơn bình quân đầu người GDP hơn Ghana, và năm 2008 là 17 lần so với Ghana. Theo RJ Rummel, lao động cưỡng bức, hành quyết và các trại tập trung phải chịu trách nhiệm cho hơn một triệu ca tử vong ở Bắc Triều Tiên 1948-1987, những người khác đã ước tính 400.000 trường hợp tử vong trong các trại tập trung một mình. Ước tính dựa trên gần đây nhất điều tra dân số Bắc Triều Tiên cho rằng 240.000 đến 420.000 người đã chết như là kết quả của những năm 1990 nạn đói và rằng đã có 600.000 đến 850.000 người chết không tự nhiên ở Bắc Triều Tiên 1993-2008. Căng thẳng tiếp tục cho đến ngày nay, nhưng các lĩnh vực chính trị là một trong những xa phức tạp hơn. Mối quan tâm gần đây Mỹ đã bày tỏ qua hành động khiêu khích của Bắc Triều Tiên của Hàn Quốc bằng cách thực hiện pháo kích đảo Yeonpyeong, mà bản thân nó nằm trên đường biên giới biển tranh chấp giữa hai nước. Địa lý Chữ xiên Hàn Quốc nằm trên bán đảo Triều Tiên trong Đông Bắc Á. Phía tây bắc, sông Amnok (sông Áp Lục) tách Hàn Quốc từ Trung Quốc và phía đông bắc, sông Duman (sông Tumen) tách Hàn Quốc từ Trung Quốc và Nga. Bán đảo này được bao quanh bởi biển Hoàng Hải ở phía tây, các biển Hoa Đông và eo biển Hàn Quốc về phía nam, và Biển Nhật Bản (Biển Đông) đến. đông đảo đáng chú ý bao gồm đảo Jeju (Jeju), đảo Ulleung (Ulleungdo), và Liancourt Rocks (Dokdo). Phần phía nam và phía tây của bán đảo đã phát triển tốt đồng bằng, trong khi phần phía đông và phía bắc là núi. Ngọn núi cao nhất ở Hàn Quốc là núi Paektu hoặc Paektusan (2.744 m), thông qua đó chạy biên giới với Trung Quốc. Phần mở rộng phía nam của núi Paektu là một vùng cao gọi là Gaema Heights. Cao nguyên này đã được đưa ra chủ yếu trong Kainozoi kiến tạo sơn và một phần bao phủ bởi vật chất núi lửa. Phía nam của Gaema Gowon, núi cao liên tiếp nằm dọc theo bờ biển phía đông của bán đảo. Dãy núi này được đặt tên Baekdudaegan. Một số núi đáng kể bao gồm núi Sobaek hoặc Sobaeksan (1.439 m), núi Kumgang hoặc Kumgangsan (1.638 m), núi Seorak hoặc Seoraksan (1.708 m), núi Taebaek hoặc Taebaeksan (1.567 m), và núi Jiri hoặc Jirisan (1.915 m). Có một số thấp hơn, hàng loạt núi trung học có hướng gần như vuông góc với Baekdudaegan. Chúng được phát triển dọc theo các đứt gãy kiến tạo sơn của Trung Sinh và hướng dẫn của họ về cơ bản phía tây bắc. Không giống như các ngọn núi cổ xưa nhất trên đất liền, các đảo quan trọng tại Hàn Quốc được hình thành bởi hoạt động núi lửa trong kiến tạo sơn Kainozoi. Đảo Jeju, nằm ngoài khơi bờ biển phía nam, là một hòn đảo núi lửa lớn có núi chính núi Halla hoặc Hallasan (1950 m) là cao nhất tại Hàn Quốc. Đảo Ulleung là một hòn đảo núi lửa ở Biển Nhật Bản, có thành phần là hơn felsic hơn Jeju-do. Các hòn đảo núi lửa có xu hướng trẻ hơn, hướng về phía Tây hơn. Bởi vì các khu vực miền núi là chủ yếu trên phần phía đông của bán đảo, các chính sông có xu hướng chảy về phía tây. Hai trường hợp ngoại lệ là phía nam chảy sông Nakdong (Nakdonggang) và sông Seomjin (Seomjingang). Con sông quan trọng chạy về phía tây bao gồm sông Amnok, các sông Chongchon (Chongchongang), các sông Taedong (Taedonggang), các sông Hàn (Hangang), các sông Geum (Geumgang), và sông Yeongsan (Yeongsangang). Những con sông có lũ lụt lớn và cung cấp một môi trường lý tưởng cho việc trồng lúa nước. Bờ biển phía nam và phía tây nam của Hàn Quốc tạo thành một phát triển tốt Rịa bờ biển, được gọi là Dadohae-jin ở Hàn Quốc. Bờ biển phức tạp của nó cung cấp biển nhẹ, và môi trường bình tĩnh kết quả cho phép chuyển hướng an toàn, câu cá, trồng rong biển. Ngoài bờ biển phức tạp, bờ biển phía tây của bán đảo Triều Tiên có biên độ thủy triều rất cao (tại Incheon, vào khoảng giữa bờ biển phía tây. Nó có thể nhận được càng cao 9 m). Bãi triều rộng lớn đã được phát triển ở phía nam và phía tây bờ biển. Động vật hoang dã Đời sống động vật của Hàn Quốc bao gồm một số lượng đáng kể các loài chim bản địa và cá nước ngọt. Bản địa hoặc đặc hữu loài của bán đảo Triều Tiên bao gồm Hàn Quốc thỏ, nai nước Hàn Quốc, chuột đồng Hàn Quốc, Hàn Quốc ếch nâu, thông Hàn Quốc và vân sam Hàn Quốc. Các khu phi quân sự Triều Tiên (DMZ) với rừng và thiên nhiên đất ngập nước là một điểm đa dạng sinh học độc đáo, trong đó nuôi dưỡng tám mươi hai loài đang bị đe dọa. Ngoài ra còn có khoảng 3.034 loài thực vật có mạch. Dân số Dân số của người Hàn Quốc là khoảng 73 triệu (Bắc Triều Tiên: 23 triệu USD, Hàn Quốc: 50 triệu USD). Hàn Quốc là chủ yếu dân cư của một cao đồng nhất dân tộc nhóm, Hàn Quốc, những người nói các ngôn ngữ Hàn Quốc. Số người nước ngoài sống tại Hàn Quốc cũng đã tăng lên đều đặn kể từ cuối thế kỷ 20, đặc biệt là ở Hàn Quốc, nơi có hơn 1 triệu người nước ngoài cư trú. Người ta ước tính rằng chỉ có 26.700 cái cũ cộng đồng Trung Quốc bây giờ vẫn còn ở Hàn Quốc. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, người nhập cư từ Trung Quốc đại lục đã tăng lên; 624.994 người của Trung Quốc đã di cư đến quốc tịch Hàn Quốc, trong đó có 443.566 của dân tộc Hàn Quốc gốc. cộng đồng nhỏ của các dân tộc Trung Quốc và Nhật Bản cũng được tìm thấy ở Bắc Triều Tiên. Các baekjeong là một \"bất khả xâm phạm\" nhóm outcaste của Hàn Quốc, thường được so sánh với burakumin của Nhật Bản và của Dalits Ấn Độ. Ngôn ngư Hàn Quốc là ngôn ngữ chính thức của cả hai miền Bắc và Nam Triều Tiên, và (cùng với tiếng phổ thông) của Hàn Quốc tự trị Yanbian tỉnh trong khu vực Mãn Châu của Trung Quốc. Trên toàn thế giới, có tới 80 triệu người nói tiếng của ngôn ngữ Hàn Quốc. Hàn Quốc có khoảng 50 triệu người nói trong khi Bắc Triều Tiên khoảng 23 triệu USD. Các tập đoàn lớn khác của người nói tiếng Hàn được tìm thấy ở Trung Quốc (khoảng 1,8 triệu người), các nước Mỹ (khoảng 900.000 loa), cựu Liên Xô (khoảng 350.000 người), Nhật Bản (khoảng 700.000), Canada (100.000), Malaysia (70.000) và Úc (150.000). Người ta ước tính rằng có khoảng 700.000 người nằm rải rác trên toàn thế giới những người có thể nói tiếng Hàn vì yêu cầu công việc (ví dụ, nhân viên bán hàng hoặc kinh doanh có địa chỉ liên lạc của Hàn Quốc), cuộc hôn nhân với người Hàn Quốc hoặc ra quan tâm tinh khiết trong ngôn ngữ. Các phả hệ phân loại của Hàn Quốc đang gây tranh cãi. Một số nhà ngôn ngữ học đặt nó trong Altaic gia đình ngôn ngữ, những người khác coi nó là một ngôn ngữ cô lập. Hàn Quốc là có sức dính trong hình thái của nó và SOV trong của nó cú pháp. Như Nhật Bản và Việt, Hàn Quốc đã vay mượn nhiều từ vựng từ Trung Quốc từ vựng hoặc tạo ra trên mô hình của Trung Quốc. Hàn Quốc hiện đại được viết gần như độc quyền trong các kịch bản của bảng chữ cái Hàn Quốc (được gọi là Hangul ở Hàn Quốc và Chosungul ở Trung Quốc và Bắc Triều Tiên), được phát minh vào thế kỷ 15. Trong khi Hangul có thể xuất hiện tốc ký, nó thực sự là một âm vị tổ chức thành các bảng chữ cái âm tiết khối. Mỗi khối bao gồm ít nhất hai trong số các chữ cái Hangul 24 (JAMO): ít nhất mỗi 14 một phụ âm và 10 nguyên âm. Trong lịch sử, bảng chữ cái có nhiều thư bổ sung (xem JAMO lỗi thời). Cho một mô tả âm vị của các chữ cái, thấy âm vị học Hàn Quốc. Hanja (chữ Trung Quốc) và bảng chữ cái Latin đôi khi bao gồm trong các văn bản tiếng Hàn, đặc biệt là ở Hàn Quốc. Văn hóa và nghệ thuật Trong các văn bản cổ của Trung Quốc, Hàn Quốc được gọi là \"Sông và núi thêu trên lụa\" (금수 강산, 锦 绣 江 山) và \"quốc gia Đông đàng hoàng\" (동방 예의 지국, 东 方 礼 仪 之 国). [60] cá nhân được coi là một năm cũ khi họ được sinh ra, như người Hàn Quốc nghĩ thời kỳ mang thai là một trong năm cuộc sống cho trẻ sơ sinh, và tăng tuổi tăng trên ngày năm mới chứ không phải là vào ngày kỷ niệm sinh nhật. Vì vậy, một trong những sinh ngay lập tức trước khi ngày đầu năm mới có thể chỉ là một vài ngày tuổi trong cách tính toán phương Tây, nhưng hai tuổi tại Hàn Quốc. Theo đó, tuổi tuyên bố một người Hàn Quốc (ít nhất là giữa các đồng nghiệp Hàn Quốc) sẽ được nhiều hơn tuổi của họ một hoặc hai năm theo cách tính toán phương Tây. Tuy nhiên, phương Tây toan tính đôi khi được áp dụng đối với các khái niệm về với tuổi hợp pháp, ví dụ, độ tuổi hợp pháp để mua rượu hoặc thuốc lá ở Hàn Quốc là 19, được đo theo cách tính toán phương Tây. Tôn giáo Nho giáo truyền thống đã thống trị tư tưởng của Hàn Quốc, cùng với sự đóng góp của Phật giáo, Đạo giáo, và Shaman Hàn Quốc. Từ giữa thế kỷ 20, tuy nhiên, Kitô giáo đã cạnh tranh với Phật giáo ở Hàn Quốc, trong khi thực hành tôn giáo đã bị đàn áp ở Bắc Triều Tiên. Trong suốt lịch sử và văn hóa Hàn Quốc, bất kể tách, ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống của Hàn Quốc Saman giáo, Phật giáo Đại thừa, Khổng giáo và Đạo giáo đã vẫn là một tôn giáo cơ bản của người dân Hàn Quốc cũng là một khía cạnh quan trọng của nền văn hóa của họ, tất cả những truyền thống này đã cùng tồn tại một cách hòa bình hàng trăm năm đến ngày hôm nay mặc dù westernisation mạnh mẽ từ Christian chuyển đổi truyền giáo ở miền Nam hoặc áp lực từ Juche chính phủ ở miền Bắc. Theo đến năm 2005 thống kê của chính phủ Hàn Quốc, khoảng 46% người dân xưng theo không tôn giáo cụ thể. Kitô hữu chiếm 29,2% dân số (trong đó có 18,3% người Tin Lành và Công giáo 10,9%) và Phật tử 22,8%. Hồi giáo ở Hàn Quốc được thực hiện bởi khoảng 45.000 người bản địa (khoảng 0,09% dân số), thêm vào một số 100.000 lao động nước ngoài từ các nước Hồi giáo. Ẩm thực Ẩm thực Hàn Quốc có lẽ là nổi tiếng với kim chi, một món ăn đặc biệt trong đó sử dụng một quá trình lên men quá trình bảo quản rau, phổ biến nhất là bắp cải. Kim chi được cho là làm giảm lỗ chân lông trên da, do đó làm giảm nếp nhăn và cung cấp chất dinh dưỡng cho da một cách tự nhiên. Nó cũng là lành mạnh, vì nó cung cấp vitamin và chất dinh dưỡng cần thiết. Gochujang (sốt truyền thống Hàn Quốc làm bằng ớt đỏ) cũng thường được sử dụng, thường xuyên tiêu (ớt) dán, kiếm các món ăn nổi tiếng là cay. Bulgogi (thịt nướng ướp, thường là thịt bò), galbi (ướp sườn nướng), và món samgyeopsal (thịt lợn) là món khai vị thịt phổ biến. Cá cũng là một mặt hàng phổ biến, vì nó là thịt truyền thống Hàn Quốc ăn. Bữa ăn thường đi kèm với một món súp hoặc món hầm, chẳng hạn như galbitang Xem thêm: vé máy bay đi Nhật Bản, vé máy bay đi Hàn Quốc, vé máy bay đi Anh", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Nghệ An", "role": "user" }, { "content": "Nghệ An là một tỉnh của Việt Nam. Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất Việt Nam, thuộc vùng Bắc Trung Bộ - miền Trung Việt Nam. Năm 2018, Nghệ An là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 4 về số dân, xếp thứ 10 về Tổng sản phẩm trên địa bàn, xếp thứ 54 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 19 về tốc độ tăng trưởng GRDP Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Vinh, nằm cách thủ đô Hà Nội 291 km về phía nam.. Trước đây, Nghệ An cùng với Hà Tĩnh có cùng một tên chung là Hoan Châu (trước đời Nhà Lý), Nghệ An châu (đời Nhà Lý, Trần), xứ Nghệ (năm 1490, đời vua Lê Thánh Tông), rồi trấn Nghệ An. Năm 1831, vua Minh Mạng chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (bắc sông Lam) và Hà Tĩnh (nam sông Lam). Năm 1976 đến 1991, Nghệ An và Hà Tĩnh sáp nhập thành một tỉnh- Nghệ Tĩnh. Từ năm 1991, lại tách ra thành 2 tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh. Chợ đầu mối tại Nghệ An là: Chợ Vinh Trang mua bán trực tuyến : Rao vặt Vinh TPVinh.vn", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Danh ngôn Tôn tử", "role": "user" }, { "content": "Thánh nhân yên bằng đạo, trị bằng nghĩa, động bằng lễ, nuôi bằng nhân Ra lệnh thì dùng văn, trị an thì dùng võ Tiên phát chế nhân Ra tay trước thắng địch Tác chiến bất ngờ Tấn công khi địch không đề phòng Lộng giả thành chân . hư hư , thực thực Lúc nhanh thì như gió cuốn . Lúc chậm rãi như rừng sâu . Lúc tấn công như lửa cháy . Lúc phòng ngự như núi đá Tránh chỗ mạnh đánh vào chỗ yếu . Tránh chỗ thực đánh vào chỗ hư Tự dưỏng mình để giành thắng lợi Biển giả thành thật . Biến that thành giả Bất chiến tự nhiên thành Không đánh vẫn thắng Tri kỷ tri bỉ , bách chiến bách thắng Biết hình biết ta, trăm trận trăm thắng Biết người biết ta, trăm trận không nguy Không biết người mà chỉ biết ta, một trận thắng một trận thua Không biết người, không biết ta, mọi trận đều bại. Người dày dạn trận mạc không nổi giận, Người biết cách chiến thắng không sợ hãi Người thông thái thắng trước khi chiến đấu Còn kẻ ngu muội chiến đấu để thắng. Đạo làm tướng trước nhất phải có,\"năm tài\" và tránh \"mười lỗi\". Năm tài là: trí, nhân, tín, dũng, trung. Trí thì biết cẩn thận, nhân thì biết thương người, tín thì không sai hẹn, dũng thì không ai dám phạm, trung thì không ở hai lòng. Còn mười điều lỗi: một là cậy vào cái dũng khinh thân mình, hai là gặp việc gấp thì nóng nảy, thiếu cẩn thận, ba là gặp lợi thì ham, bốn là vì lòng nhân không dám giết người, năm là ỷ lại vào sức mình không biết lo xa, sáu là tin mà không phòng, bảy là không chịu thu thập ý kiến mọi người, tám là việc đáng làm gấp mà do dự, chín là thiên vị, thiếu công bằng, mười là lười biếng, chỉ muốn sai người. Nếu có đủ \"năm tài\" và tránh được \"mười lỗi\" ấy, tất là tướng giỏi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Sổ tay tiếng Thụy Điển", "role": "user" }, { "content": "Tiếng Thụy Điển (svenska) là một ngôn ngữ được dùng chủ yếu ở Thụy Điển và Phần Lan. Tiếng Thụy Điển là nhánh phía bắc của nhóm ngôn ngữ German trong hệ ngôn ngữ Ấn-Âu. Tiếng Thụy Điển có liên hệ mật thiết với tiếng Đan Mạch và tiếng Na Uy, thường ai hiểu một trong hai tiếng đó đều có thể hiểu tiếng Thụy Điển. Ba thứ tiếng kể trên tách ra từ tiếng Na Uy cổ vào khoảng 10 thế kỷ trước đây. Tiếng Thụy Điển, tiếng Đan Mạch và tiếng Na Uy Bokmål thuộc vào nhóm ngôn ngữ Đông Scandinavia và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tiếng German Hạ. Người Thụy Điển thường hiểu tiếng Na Uy hơn tiếng Đan Mạch. Mặc dù người Thụy Điển ít hiểu tiếng Đan Mạch, không nhất thiết là người Đan Mạch không hiểu tiếng Thụy Điển. Tiếng Thụy Điển thuộc nhóm Đông Scandinavia của nhánh phía bắc của nhóm ngôn ngữ German, cùng với tiếng Na Uy và tiếng Đan Mạch. Nhánh này là một trong nhiều nhánh trong nhóm ngôn ngữ German của hệ Ấn-Âu. Xin chào. Hej. (HAY). Also hejsan (haysan). Trong các ngữ cảnh thân mật, bạn cũng có thể sử dụng tjena (Schenah - soft e), or tja (Scheh') Bạn khỏe không? Hur mår du? (Hoor mor doo?) Khỏe, cảm ơn. Tack, jag mår bra. (Tack, yag moor brah) Tên bạn là gì? Vad heter du? (Vaad HAY-tehr doo?) Tên tôi là ______. Jag heter ______. (Yag HAY-tehr _____.) Vui mừng được gặp bạn. Trevligt att träffa dig (TRAYV-leet at TREH-fa day) Cảm ơn. Tack. (TACK) Không có gì. Var så god (VAHR saw good) Bạn bao nhiêu tuổi. Hur gammal är du? (Heur gah mal air deu) Vâng/đúng. Ja. (YAH) Không/không đúng. Nej. (NAY) Có lẽ. Kanske. ('KAN-Share') Xin lỗi. (thu hút chú ý) Ursäkta (Ooshehk-ta) Xin lỗi. (xin thứ lỗi) Förlåt (Fur lowt) Tôi xin lỗi. Jag är ledsen (Yaag air lessen) Farewell Adjö (A-juuh) Tạm biệt Hej då (Hay doe) Tôi không thể nói tiếng Thụy Điển [tốt]. Jag kan inte tala 'svenska' [så bra] (Yaag can eenteh taahla 'svenskah' [sooh brah]) Does anyone here speak English? Talar någon engelska här? (Tah lar noa gohn ehng ehl ska hair) Is there someone here who speaks English? Finns det någon här som talar engelska (Feens day noegon hair som talar engelskah) Giúp tôi với/cứu tôi với! Hjälp! (Yelp) Coi chừng! Se upp (Say oop) Xin chào (buổi sáng). God morgon (Good Morron) Một ngày tốt đẹp/chào. God dag (Good daag) Xin chào (buổi chiều). God eftermiddag (Good eftermeedag) Xin chào (buổi tối). God kväll (Good kvell) Tạm biệt (ban đêm)/chúc ngủ ngon (đi ngủ) God natt (Good natt) Tôi hiểu. Jag förstår(Yag fur stoar) Tôi không hiểu. Jag förstår inte (Yag fur stoar ihn ter) Nhà vệ sinh ở đâu? Var ligger toaletten? (Vahr liggeh twa-LETT-en)", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Réunion", "role": "user" }, { "content": "Réunion là một lãnh thổ hải ngoại của Pháp nằm ở giữa Ấn Độ Dương, phía đông của đảo Madagascar. Điểm đến mê hoặc này được may mắn có một khí hậu nhiệt đới và cảnh quan núi lửa đẹp, có sức thu hút của nó là càng nhiều do những bãi biển cát trắng như phong cảnh núi non của nó. Tên cũ ban đầu của Réunion là Isle de Bourbon. Đảo Réunion cách Madagascar 700 km về phía đông và cách Mauritius 200 km về phía tây nam. Réunion có chiều dài là 63 km, rộng 45 km và diện tích khoảng 2.517 km2, hiện thuộc quyền sở hữu của Pháp và là một vùng hải ngoại của Pháp. Đơn vị tiền tệ sử dụng ở đây là Euro. Những người dân sống ở đây tự gọi mình là Réunionnais hay Créoles. Với dân số 720.934 người (7/2000), Réunion có một nền kinh tế tập trung vào xuất khẩu đường, du lịch và săn cá mập. Réunion có một lịch sử hình thành và phát triển khá lâu dài bắt đầu từ năm 1513 khi được người Bồ Đào Nha phát hiện và đặt tên là Santa Apollonia. Cái tên Réunion chỉ được biết đến từ năm 1793. Trong suốt lịch sử của nó, hòn đảo đã từng được đổi tên nhiều lần. Réunion là nơi hai Vua của Việt Nam là Thành Thái và Duy Tân bị đưa đi đày vào tháng 11 năm 1916. Người Bồ Đào Nha phát hiện ra hòn đảo không có người ở năm 1513. Từ 17 đến thế kỷ 19, người Pháp cho nhập cư bổ sung bằng dân châu Phi, Trung Quốc, Mã Lai, và Malabar Ấn Độ đã khiến đảo có nhiều dân tộc. Việc mở kênh đào Suez vào năm 1869 chi phí đảo tầm quan trọng của nó như là một điểm dừng chân trên con đường thương mại Đông Ấn. Nó vẫn là một thuộc địa cho đến năm 1946, khi nó trở thành một département của nước Cộng hòa Pháp. Người dân địa phương rất tự hào về kỷ niệm của việc bãi bỏ chế độ nô lệ (xảy ra ngày 20 tháng 12 năm 1848), trong một lễ hội địa phương gọi là \"La Fête Cafre\" (một \"cafre\" là tên được đặt cho một người sống ở bản địa của đảo , bây giờ sử dụng rộng rãi để giải quyết một người bạn). Cử chỉ này đối với quá khứ vẫn còn rất nhiều mặt trong xã hội ngày nay, và như vậy từ \"nô lệ\" (\"esclave\") là một sự xúc phạm nghiêm trọng đối với một người Réunion. Ngày nay, dân số của Reunion được đa dạng về nguồn gốc dân tộc, trong đó mỗi nhóm kế thừa truyền thống tương ứng của họ. Plaine-des-PalmistesRéunion dài 63 km, rộng 45 km với diện tích 2512 km2. Réunion có diện tích tương đương với đảo Hawaii và cả hai đều nằm trên những điểm nóng điểm nóng của vỏ trái đất. Piton de la Fournaise, một khiên núi lửa ở cực đông của đảo, nhô cao hơn mực nước biển 2.631 mét và thỉnh thoảng được ví như chị em với các núi lửa trên đảo Hawaii bởi những nét tương đồng về khí hậu và bản chất kiến tạo. Núi này đã phun trào hơn 100 lần kể từ 1640 và đang được giám sát liên tục. Lần phun trào gần đây nhất là vào ngày 4 tháng 4 2007. Ước tính khoảng 3 triệu m3 nham thạch đã được phun ra mỗi ngày[2]. Piton de la Fournaise được tạo ra bởi kiểu núi lửa phun trào kết hợp với phun nước nóng hotspot volcano. Nó cũng là tác nhân kiến tạo Piton des Neiges và các đảo Mauritius, Rodrigues. Núi lửa Piton des Neiges với độ cao 3.070m, là điểm cao nhất của Réunion, nằm về phía tây bắc của Piton de la Fournaise. Phía tây nam là cáccaldera và canyon. Mặc dù tên gọi của ngọn núi trọng tiếng Pháp có nghĩa \"ngọn núi tuyết\" nhưng tuyết chẳng bao giờ xuất hiện trên đỉnh của ngọn núi này. Các sườn của cả hai núi lửa này có thảm thực vật dày đặc. Đất nông nghiệp và các thành phố như Saint-Denis tập trung tại các dải đất ven biển bao quanh. Réunion còn có 3 caldera: Cirque de Salazie, Cirque de Cilaos Cirque de Mafate. Cái cuối cùng có thể tiếp cận bằng trực thăng hay đi bộ. Mía đường là cây trồng chính và nguồn xuất khẩu truyền thống của đảo. Du lịch là nguồn thu nhập quan trọng. Năm 2007, tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Réunion là 18,8 tỷ đô la Mỹ. [3] Thu nhập bình quân đầu người năm 2007 là 23,501 đô la Mỹ (tính theo giá thị trường)[3], cao nhất châu Phi. [4] ManapanyRéunion có thành phần dân cư giống như đảo Mauritius, gồm người gốc Ấn, người gốc Phi, người Malagasy, người Hoa và người Pháp, nhưng với tỷ lệ khác nhau. Creole (tên gọi chung cho tất cả nhóm người sinh ra trên đảo) là nhóm đa số. Người da trắng chiếm 1/4 dân số, người Ấn chiếm 21%, và hậu duệ của người Hoa chiếm phần còn lại. Ngoài ra cũng có một ít con cháu người Việt sinh sống trên đảo. Réunion có những nét tương đồng về văn hóa, thành phần dân tộc, ngôn ngữ, và phong tục với Mauritius và Seychelles. Tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức mặc dù tiếng Creole mang đặc trưng của vùng Réunion cũng được sử dụng phổ biến. Tiếng Hán được sử dụng trong cộng đồng Hoa Kiều nhưng thế hệ trẻ của cộng đồng này đang dần chuyển sang nói tiếng Pháp. Một bộ phận khá lớn dân số nói tiếng Tamil. Tiếng Ả rập được giảng dạy trong các đền thờ Hồi Giáo và được sử dụng trong cộng đồng Ả rập. Saint-Denis, thủ phủ đảo Réunion Saint-Gilles, nằm trên bờ biển phía tây, nơi có những bãi biển cát trắng. Saint-Leu, thành phố cho dân lướt sóng. Saint-Pierre, thành phố quan trọng thứ nhì trên đảo Reunion Etang-Salé, một thị trấn nhỏ trên bờ biển phía tây với một trong các bãi biển (núi lửa) cát đen Saint-Benoit, nơi bạn có thể tìm thấy những nhà máy hợp tác xã vani Mặc dù Reunion là một phần của Pháp, nó không phải là một phần của khu vực Schengen, vì vậy nó có quy định di trú và visa riêng của mình. Công dân của Mauritius, ví dụ, không cần phải có thị thực cho chuyến đi ngắn đến Reunion nhưng không cần xin thị thực đi thăm đại lục Pháp. Sân bay chính là Sân bay Quốc tế Roland Garros nằm gần Saint-Denis (RUN). Phần lớn các chuyến bay liên lục địa đến ở Reunion đến từ Pháp, với một số ít các sân bay khác thông qua Ấn Độ Dương. Hãng hàng không bay tới Reunion như sau: Air France [1] có các chuyến bay trực tiếp giữa Paris Orly và Roland Garros. Air Austral [2] là hãng hàng không địa phương chính, phục vụ nhiều điểm đến trong Phi và Ấn Độ Dương (Nam Phi, Comoros, Mauritius, Madagascar, Mayotte và Seychelles), cũng như Paris và Roissy Charles de Gaulle sân bay. Air Austral cũng cung cấp dịch vụ chuyển sang tàu nhanh TGV-Air cho các điểm đến khác nhau trong Pháp, và tuyến Thalys từ Paris tới Brussels. Nếu đến từ châu Á, có tuyến bay theo mùa từ Bangkok sân bay Suvarnabhumi. Corsair [3] cung cấp một dịch vụ hàng tuần đến Paris Orly, Lyon, Marseille và Toulouse. Air Mauritius [4] có các chuyến bay hàng ngày đến Sir Seewoosagur Ramgoolam sân bay, Port Louis, Mauritius. Interair Nam Phi [5] bay hàng tuần (Chủ nhật hàng tuần) từ sân bay quốc tế OR Tambo Johannesburg.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Douglas MacArthur", "role": "user" }, { "content": "Thống tướng Douglas MacArthur là một vị tướng của Hoa Kỳ và là Thống tướng Quân đội Philippine. Ông là Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ trong suốt thập niên 1930 và sau đó đã đóng một vai trò quan trọng trên mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai. MacArthur đã nhận được Huân chương Danh dự. Ông được bổ nhiệm chỉ huy cuộc xâm chiếm Nhật Bản mà đã được hoạch định tiến hành vào tháng 11 năm 1945. Nhưng khi thấy không còn cần thiết nữa, MacArthur chính thức chấp nhận sự đầu hàng của Nhật ngày 2 tháng 9 năm 1945. MacArthur giám sát cuộc chiếm đóng Nhật Bản từ 1945 đến 1951 và được công nhận vì những đóng góp cho những thay đổi dân chủ sâu rộng của đất nước này. Ông chỉ huy Tổng lực lượng quân sự do Liên hiệp quốc lãnh đạo để bảo vệ Nam Triều Tiên trước sự tấn công của Bắc Triều Tiên từ 1950–1951. MacArthur bị Tổng thống Harry Truman cắt chức tư lệnh tháng 4 năm 1951 vì không nghe lời thượng cấp liên quan đến việc ông không tuân theo các chỉ thị của tổng thống. Ông được biết đến với câu nói quân sự nổi tiếng: \"Trong chiến tranh, không có gì thay thế được chiến thắng\" (In war, there is no substitute for victory). MacArthur đã chiến đấu trong 3 cuộc chiến lớn (Đệ Nhất Thế chiến, Đệ Nhị Thế chiến và Chiến tranh Triều Tiên) và là một trong 5 người được phong quân hàm Thống tướng. Người lính là người cầu nguyện cho hòa bình nhiều hơn bất cứ ai, bởi chính người lính là người phải chịu đựng và mang những vết thương và sẹo chiến tranh nặng nề nhất. The soldier above all others prays for peace, for it is the soldier who must suffer and bear the deepest wounds and scars of war. Bổn phận, Danh dự, Đất nước. Ba từ thiêng liêng ấy cung kính nêu lên điều anh phải trở thành, điều anh có thể trở thành và điều anh sẽ trở thành. Duty, Honor, Country. Those three hallowed words reverently dictate what you ought to be, what you can be, what you will be. Tuổi tác ghi nếp nhăn lên cơ thể. Bỏ cuộc ghi nếp nhăn lên tâm hồn. Age wrinkles the body. Quitting wrinkles the soul. Chỉ những người không sợ chết là đáng sống. Only those are fit to live who are not afraid to die. Thế giới là mưu đồ triền miên chống lại kẻ can trường. Đó là cuộc vật lộn từ xa xưa: một bên là tiếng gào thét của đám đông, và bên kia là tiếng của lương tâm bạn. The world is in a constant conspiracy against the brave. It's the age-old struggle: the roar of the crowd on the one side, and the voice of your conscience on the other. Trên trái đất này không có sự bảo đảm; chỉ có cơ hội. There is no security on this earth; there is only opportunity. Trong chiến tranh, không có gì thay thế được chiến thắng. In war, there is no substitute for victory. Tai họa chết người khi bước vào bất cứ cuộc chiến nào mà không có ý định chiến thắng. It is fatal to enter any war without the will to win it. Trong chiến tranh, anh thắng hay thua, sống hay chết - và sự khác biệt chỉ là một chớp mắt. In war, you win or lose, live or die - and the difference is just an eyelash. Đừng bao giờ ra thứ mệnh lệnh không thể phục tùng. Never give an order that can't be obeyed. Và cũng giống như người lính già trong bản ballad ấy, giờ tôi khép lại sự nghiệp quân sự của mình và cứ thế nhạt nhòa đi, một người lính già đã nỗ lực thực hiện bổn phận vì Chúa đã cho mình nhìn ra bổn phận đó. And like the old soldier in that ballad, I now close my military career and just fade away, an old soldier who tried to do his duty as God gave him the sight to see that duty. Bạn được nhớ tới vì những luật lệ bạn phá vỡ. You are remembered for the rules you break. Thứ vận may tốt nhất là thứ vận may anh tự tạo ra cho chính mình. The best luck of all is the luck you make for yourself. Dù trong gông cùm hay dưới vòng nguyệt quế, tự do không biết đến điều gì khác ngoài chiến thắng. Whether in chains or in laurels, liberty knows nothing but victories. Chúng ta không rút lui - chúng ta đang tiến lên theo hướng khác. We are not retreating - we are advancing in another direction. Tôi lo lắng cho an toàn của Tổ quốc vĩ đại của chúng ta; không phải bởi vì những mối đe dọa từ bên ngoài, mà bởi vì những thế lực ngấm ngầm vận động từ bên trong. I am concerned for the security of our great Nation; not so much because of any threat from without, but because of the insidious forces working from within. Wikipedia có bài viết về: Douglas MacArthur", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Quần đảo Pitcairns", "role": "user" }, { "content": "Quần đảo Pitcairn (tiếng Pitkern: Pitkern Ailen), tên gọi chính thức: Pitcairn, Henderson, Ducie và Oeno, là một quần đảo nằm ở Nam Thái Bình Dương. Quần đảo là lãnh thổ hải ngoại của Anh (thuộc địa cũ của Anh), là vùng đất cuối cùng của Anh ở Thái Bình Dương. Chỉ có Đảo Pitcairn - đảo lớn thứ nhì - là có người ở. Quần đảo nổi tiếng nhất do nó là ngôi nhà của những hậu duệ của những người nổi loạn trên tàu Bounty và những người Tahiti đi cùng họ, một sự kiện được thuật lại trong nhiều cuốn sách và phim truyện. Câu chuyện vẫn còn rõ ràng do họ của nhiều cư dân trên đảo. Với chỉ 50 cư dân (từ chín gia đình), Pitcairn cũng đáng chú ý vì là vùng đất có chính quyền ít dân nhất thế giới (mặc dù nó không phải là quốc gia độc lập). Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Phi thuộc địa hóa liệt Quần đảo Pitcairn vào Danh sách các Vùng lãnh thổ không có chính quyền tự trị của Liên Hiệp Quốc. Đảo Pitcairn - là đảo duy nhất trong nhóm có người sinh sống Đảo Henderson - hòn đảo lớn nhất, một Di sản thế giới UNESCO với một số loài chim đang bị đe dọa Đảo Oeno, đảo Sandy - một cặp gần các hòn đảo, \"kỳ nghỉ\" tại chỗ của người dân địa phương Đảo Ducie - cách xa những đảo khác, với rất nhiều loài chim kỳ lạ", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Áo", "role": "user" }, { "content": "Áo (tiếng Đức: Österreich), quốc danh hiện tại là Cộng hòa Áo (tiếng Đức: Republik Österreich) là một quốc gia liên bang ở Trung Âu với thể chế dân chủ nghị viện. Nước Áo là thành viên của Liên Hiệp Quốc từ 1955 và từ 1995 là thành viên của Liên minh châu Âu. Nước Áo giáp Đức và Cộng hoà Séc ở phía bắc, Slovakia và Hungary về phía đông, Slovenia và Ý về phía nam, và Thụy Sĩ và Liechtenstein về phía tây. Khoảng 60% nước Áo là đồi núi, gồm một phần của núi Alpen về phía đông. Ở Oberösterreich và Niederösterreich là vùng núi Böhmen chạy dài đến Cộng hoà Séc và Bayern (Đức), ở biên giới phía đông là núi Karpaten. Ngọn núi cao nhất ở Áo là Grossglockner (3.797 m) ở Hohe Tauern. Các đồng bằng lớn nằm về phía đông dọc theo sông Donau, trước hết là vùng Aplenvorland và lưu vực Viên cũng như phía nam vùng Steiermark. Khí hậu khô dần đi từ tây sang đông và trở thành khí hậu lục địa ở các vùng phía đông và đông nam nước Áo. Mùa đông với nhiều tuyết đã đem lại cho ngành du lịch thêm một mùa thứ hai. Thời gian có ánh nắng mặt trời lâu hơn ở miền bắc nước Đức từ 10 đến 20 phần trăm. Nhiều phần của nước Áo ngày nay thuộc về Vương quốc Frank của Karl Đại đế (Karl der Grosse). Sau Hiệp ước Verdun (843), Vương quốc Frank Đông được thành lập, trong đó từ năm 856 có Marchia Orientalis, một vùng trong Niederösterreich ngày nay, được đặt dưới quyền của dòng họ Karoling. Từ năm 955, sau khi hoàng đế Otto I của Đế quốc La Mã Thần thánh chiến thắng người Hung, vương quốc được mở rộng về phía đông nam. Nhiều lãnh địa mới của các công tước và hầu tước được thành lập bên cạnh Karantanien và Marchia Orientalis. Năm 976 Marchia Orientalis được đặt dưới quyền của hầu tước Liutpold (hay Leopold I) thuộc dòng họ Babenberger. Vào năm 996 tên Ostarrichi được nhắc đến lần đầu tiên trong một văn kiện, cách viết thành Österreich phát triển từ tên này mà ra. Năm 1156 Ostarrichi trở thành một công quốc. Nối tiếp theo dòng họ Bebenberger là dòng họ Habsburg, do vua La Mã-Đức là Rudolf I sáng lập năm 1273. Triều đại mới này đã mở rộng lãnh thổ của mình từ năm 1278 cho đến năm 1526. Các nỗ lực vươn lên về quyền lực của họ đã đem lại một đại công quốc (Erzherzogtum) là yếu tố quan trọng trong liên minh của Đế quốc La Mã Thần thánh. Bắt đầu từ 1273, hay 1438 hầu như lúc nào triều đại Habsburg nào cũng đạt được danh hiệu vua Đức hoặc danh hiệu gắn liền vào đấy là danh hiệu hoàng đế La Mã Thần thánh cho đến năm 1804 khi hoàng đế Franz II (đế quốc La Mã Thần thánh) tự nhận thêm danh hiệu Hoàng đế Áo quốc (không thỏa thuận với luật của đế quốc) và Đế quốc La Mã Thần thánh tan rã vào năm 1806. Nước của Hoàng đế Áo là một quốc gia đa dân tộc. Lãnh địa của dòng họ Habsburg-Lothringer chạy dài từ Böhmen và Mähren qua nước Áo ngày nay xuyên qua Hungary sâu xuống đến tận bán đảo Balkan. Từ 1815 đến 1866 hoàng gia ở Viên cũng đứng đầu trong Liên minh Đức, tan rã sau Chiến tranh Áo–Phổ. Năm 1867 một nền quân chủ song đôi Áo–Hung được cấu thành nhưng chỉ lưu ý đến các quyền lợi của Áo và Hung; các yêu cầu chính trị của các nhóm dân tộc khác đòi độc lập nhiều hơn đã không được chú ý đến. Sau khi các vấn đế dân tộc bùng phát công khai qua Vụ ám sát thái tử Áo-Hung ở Sarajevo, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ năm 1914 dẫn đến chấm dứt nền quân chủ song đôi vào năm 1918. Áo-Hung bị tan rã và trên lãnh thổ đó hình thành các quốc gia mới và nước Đức-Áo (Deutschösterreich). Trong Hiệp định Saint-German tên quốc gia này và nguyện vọng liên kết cùng với Cộng hòa Đức mới (Cộng hòa Weimar) bị cấm. Ngày 21 tháng 10 năm 1919 tên được đổi thành \"Cộng hòa Áo\" (Republik Österreich); năm 1920 hiến pháp mới được thông qua; năm 1931 nguyện vọng thành lập liên minh thuế quan với Đế chế Đức bị cấm. Khoảng thời gian sau đó (1933) đã đem lại cho người dân một chế độ độc tài và năm 1938 việc gia nhập vào Đế chế Đức xã hội quốc gia của Adolf Hitler. Người độc tài trong Đế chế thứ ba đã thay thế tên quê hương của ông bởi \"Ostmark\" và ngay sau đó bởi \"Donau-und Alpengaue\". Chiến tranh thế giới lần thứ hai do Hitler gây ra cuối cùng đã chấm dứt chế độ phát xít chuyên chế và Đế chế thứ ba. Sau 1945 Đế chế thứ ba bị quân đội Đồng Minh chiếm đóng và giải tán. Áo được tái thành lập và được chia làm bốn vùng chiếm đóng. Sau khi Cộng hòa trong Hiệp định quốc gia ngày 15 tháng 5 năm 1955 cam kết không gia nhập một \"liên minh\" nào nữa, quân đội Đồng Minh đã rời khỏi nước Áo. Ngày 26 tháng 10 năm 1955 Áo tuyên bố \"trung lập vĩnh viễn\". \"Ngày quốc kỳ\" (Tag der Fahne) này được kỷ niệm trong trường học cho đến 1965; từ 1967 ngày này trở thành ngày quốc khánh. Năm 1969 Áo là nước cùng thành lập EFTA hướng tới một liên minh kinh tế. Nhờ vào tính trung lập nước Áo đã có thể kết nối các quan hệ kinh tế và văn hóa với các nước phía Tây và với các nước thuộc khối Đông Âu thời đấy, việc này đã giúp đỡ nước Áo lâu dài trong thời gian xây dựng lại. Sau khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt năm 1991 chính sách trung lập dứt khoát được nới lỏng nhưng việc diễn giải một cách thỏa đáng tính trung lập trong trật tự thế giới mới đã thay đổi từ đấy là một đề tài chính trị đối nội đang được tranh cãi. Năm 1995 Áo gia nhập Liên minh châu Âu (EU); năm 1999 Áo bỏ đồng Schilling và cùng với các nước khác trong Liên minh đưa đồng Euro vào sử dụng. Nước Áo có 9 tiểu bang: Mỗi tiểu bang được chia thành nhiều tỉnh (Bezirk). Tiểu bang của Áo đồng thời là một đơn vị vùng cấp hai của Liên minh Châu Âu. Chín tiểu bang của Áo nhóm lại thành ba nhóm tiểu bang. Nhóm tiểu bang là vùng cấp một của Liên minh Châu Âu. Đây không phải là một cấp hành chính. Việc phân nhóm chỉ nhằm mục đích thống kê. Viên - thành phố lớn nhất ở Áo, cũng như trung tâm văn hóa, kinh tế và chính trị của Áo. Bregenz - nổi tiếng với lễ hội âm nhạc mùa hè hàng năm Bregenzer Festspiele. Eisenstadt Graz - Innsbruck - trung tâm văn hóa và kinh tế của phương Tây Áo. Klagenfurt - Linz - Salzburg - một thành phố với một môi trường hấp dẫn và bối cảnh Alpine đẹp. Villach - Hồ Constance - một hồ nước lớn nằm ở Vorarlberg và chia sẻ với Thụy Sĩ và Đức Kaprun - một phần của khu vực thể thao Europa Pinswang - một trong những khu định cư cổ xưa nhất của miền Bắc Tyrolean Ausserfern, trên biên giới với Bavaria và đi bộ hoặc lái xe đến lâu đài vua Ludwig nổi tiếng Salzkammergut Thánh Anton - một khu nghỉ mát trượt tuyết nổi tiếng ở Áo trên biên giới Vorarlberg-Tyrolean Thermenland Wörthersee - một trong những hồ nhiệt độ cao nhất của Áo Zell am See - một trong những thị trấn du lịch núi quan trọng nhất trong Áo Có 6 sân bay ở Áo với các chuyến bay thường lệ. Sân bay quốc tế quan trọng nhất là Viên có kết nối đến tất cả các sân bay lớn trên thế giới. Sân bay quốc tế khác bao gồm Graz, Innsbruck, Klagenfurt, Linz và Salzburg cung cấp các chuyến bay nội địa cũng như kết nối với một số nước châu Âu. Những sân bay đặc biệt phổ biến với các hãng hàng không giá rẻ như Ryanair. Cho đi du lịch đến các quốc gia phương Tây nó được khuyến khích sử dụng rất gần sân bay Munich. Sân bay phổ biến nhất để đến Vorarlberg là Altenrhein (Áo), Friedrichshafen (Ryanair, InterSky) và Zurich (Thụy Sĩ). Nếu đến thăm Áo đến Áo chơi thể thao mùa đông, lựa chọn sân bay xem xét chi phí và thời gian cho toàn bộ chuyến đi (+ chuyển máy bay). Không giống như nhiều quốc gia, đến Áo chơi chơi trượt tuyết không có nghĩa là trước tiên phải đến thủ đô. Áo có rất nhiều kết nối với tất cả các nước láng giềng hàng ngày. Tất cả các nước láng giềng (thậm chí Lichtenstein) có tàu lửa chạy ít nhất hàng giờ. Nhiều nước (Cộng hòa Séc, Hungary, Đức, Slovakia, Thụy Sĩ) thậm chí thường xuyên hơn. Obb (Đường sắt Áo) vận hành tàu cao tốc ICE và RailJet từ thành phố như Zurich, Munich, Frankfurt, Passau, và Budapest. Eurocity tàu là tàu nhanh nhất có sẵn tiếp theo cũng như các đoàn tàu nối các thành phố lớn hơn Áo gọi là Intercity. Xe lửa khu vực được gọi là EURegio và chỉ đơn giản là Regionalzug cũng có sẵn từ tất cả 8 nước láng giềng của Áo. Viên là một trung tâm đường sắt lớn nhất nhưng các chuyến tàu ngày và đêm từ các nước Trung Âu đi đến nhiều điểm dừng trên Áo. Tàu ngày thường nhanh hơn so với các chuyến tàu đêm nhiều. Vé có thể được mua từ các địa điểm nhất định để Áo thông qua trang web Obb. Hạ tầng cơ sở giao thông, kể cả giao thông đường bộ lẫn giao thông đường sắt, đều chịu nhiều ảnh hưởng của địa thế nằm trên dãi núi Apls và về mặt khác là vị trí trung tâm trong Trung Âu. Giao thông qua dãi núi Alps đòi hỏi phải có nhiều hầm xuyên núi và cầu chịu đựng được điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Vì có vị trí ngay trong trung tâm Châu Âu nên Áo là một nước quá cảnh, đặc biệt là cho hướng bắc-nam và bắc-đông nam và từ khi bức màn sắt được mở cửa là cho hướng đông-tây. Điều này cũng có nghĩa là thường phải mở rộng đường giao thông, ngay trong các khu vực nhạy cảm về sinh thái, việc hay dẫn đến phản đối trong quần chúng. Để có thể giải quyết được sự cân bằng giữa kinh tế và sinh thái, nước Áo đã có nhiều biện pháp mà đã mang lại cho quốc gia này vai trò tiên phong trong lãnh vực bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong lãnh vực xe cơ giới. Các đạo luật quy định trong mỗi một xe cơ giới đều phải có bộ xúc tác giảm thiểu khí thải ra đời ở Áo tương đối sớm so với các quốc gia khác. Trên nhiều đoạn đường nhất định chỉ cho phép lưu hành xe tải gây ít tiếng ồn. Thế nhưng do nhiều quy định lại bị bãi bỏ nên người dân trong một số vùng nhất định như trong vùng đồng bằng sông Inn cảm nhận là bị các cơ quan điều hành giao thông trong nước và quốc tế bỏ mặc. Mạng lưới giao thông Áo bao gồm 2.000 km đường cao tốc và đường nhanh 10.000 km đường ưu tiên (trước kia là đường liên bang) 24.000 km đường tiểu bang (Landstraße) 70.000 km đường làng (Gemeidestraßen). Mạng lưới đường sá phần lớn thuộc về nhà nước. Trên đường cao tốc và đường nhanh ô tô và xe tải phải trả tiền. Phần lớn đường sắt là do Công ty Đường sắt liên bang Áo (Österreichische Bundesbahn – ÖBB) vận hành, là công ty đường sắt lớn nhất Áo. Một phần nhỏ đường sắt không thuộc liên bang, một phần do tư nhân và một phần khác do các tiểu bang sở hữu. S-Bahn (tàu nhanh) hiện nay chỉ có trong các vùng chung quanh Viên và Salzburg nhưng hiện đã có kế hoạch phát triển hệ thống S-Bahn cho các thành phố Graz, Linz và Insbruck. Viên là thành phố Áo duy nhất có một mạng lưới tàu điện ngầm. Một vài bến tàu điện trong thàng phố Linz được xây ngầm. Tàu điện có trong các thành phố Viên, Graz, Linz, Innsbruck và Gmunden. Ngoài ra tại làng Serfaus trong Tirol còn có một tàu chạy trên đệm không khí, thỉnh thoảng cũng còn được gọi là tàu điện ngầm nhỏ nhất thế giới. Áo nằm trong vùng khí hậu Trung Âu nên ở miền đông nước Áo có khí hậu mang đậm nét lục địa với lượng mưa thấp, mùa hè nắng nóng và mùa đông không quá lạnh. Ở vùng núi Alpen thì ngược lại có lượng mưa khá cao, mùa hè ngắng và mùa đông kéo dài. Du khách đến đây nên chuẩn bị trước để có thể thích nghi với khí hậu nơi này. Ở Áo có sự phân chia mùa rõ rệt. Mùa hè rơi vào khoảng tháng 6 cho đến tháng 8. Những tháng này là tháng nóng nhất và có lượng mưa cao nhất trong năm. Mùa đông có thể lạnh nhiều và kéo dài, nhất là vào tháng 12 cho đến tháng 2 hằng năm. Thời tiết vào mùa xuân và mùa thu có thể thay đổi nhiều nhưng nhiệt độ cũng khá dễ chịu chứ không quá khắc nghiệt. Du khách có thể đến viếng thăm Áo vào bất kỳ thời gian nào trong năm nhưng nên nhớ thời tiết có thể ảnh hưởng đến chuyến đi của bạn. Mùa hè thích hợp cho những chuyến đi bộ đường dài, đạp xe leo núi hay chèo thuyền ở sông hồ. Có rất nhiều lễ hội được tổ chức xuyên suốt cả năm nhưng lễ hội Âm Nhạc lớn nhất lại được tổ chức từ giữa tháng 5 đến tháng 10. Nếu muốn tận hưởng không khí ấm áp, du khách nên đến Áo vào tháng 4 cho đến tháng 10 mặc dù thời tiết vào khoảng thời gian này có thể thay đổi bất thường. Tháng 7 và 8 rơi vào cao điểm của mùa du lịch. Có rất nhiều du khách đến đây, giá cả cũng leo thang chóng mặt. Thời điểm này không thích hợp để leo núi, nhiều nơi cũng đóng cửa không hoạt động trong thời gian này trong đó gồm có nhà hát Opera. Bạn sẽ không có dịp xem dàn đồng ca nam ở Vienna biểu diễn, không thể tham quan trường dạy lái xe Tây Ban Nha. Bởi vậy, tháng 6 và tháng 9 là thời điểm tốt nhất cho du khách đi tham quan thành phố. Ngoại trừ những điểm trượt tuyết, bạn sẽ thấy những nơi còn lại trong thành phố yên tĩnh và vắng vẻ hơn vào mùa đông. Giá cả khách sạn cũng giảm xuống khá nhiều. Mặc dù mùa đông khá lạnh nhưng cũng rất tuyệt nếu đi du lịch vào thời điểm này. Đỉnh điểm của mùa đông rơi vào giữa tháng 12 cho đến cuối tháng 3. Trong khoảng thời gian này có lễ Giáng Sinh và Tết dương lịch. Những resort ở dãy núi Alpen rất vắng vẻ, thậm chí sẽ đóng cửa cho từ cuối tháng 4 cho đến giữa tháng 6, và tháng 11 cho đến đầu tháng 12. Đến Áo, du khách có thể đến thủ đô Viên - thành phố lịch sử nổi tiếng châu Âu nằm trong lòng chảo Vienna dưới chân núi phía Bắc dãy Alpen. Nơi đây có dòng sông Danube trong xanh êm đềm chảy qua thành phố. Khu rừng Vienna xanh tươi bao bọc thành phố khiến nơi đây trở thành một nơi lý tưởng tạo cảm hứng sáng tác cho các nghệ sỹ. Đặc biệt là về âm nhạc, với nhiều giai điệu được bắt nguồn từ đây, khiến Vienna nổi tiếng thế giới với cái tên dễ thương \"Thủ đô của thế giới âm nhạc\", và thêm vào đó là một truyền thống nhà hát lâu đời. Có lẽ chính vì thế mà ở đây có rất nhiều đường, công viên, nhà hát, nhà hội nghị mang tên các nhạc sỹ. Dạo một vòng trên đường lúc nào bạn cũng nghe thấy âm vang của những bản nhạc, những bài hát du dương. Du khách có thể tham quan Nhà thờ lớn Stephansdom, các quán rượu nho Heurigenschenken và hòa mình vào bầu không khí nhạc Waltz lãng mạn. Khu trung tâm thành phố - quận 1 là khu phố cổ, nơi đây chứa nhiều di tích lịch sử nhất như các nhà thờ, hoàng cung và con đường vòng đai nổi tiếng Ringstrasse bao quanh khu phố cổ. Ðại lộ vòng đai Ringstrasse được xây trên khu đất ngày xưa là tường thành thời trung cổ bảo vệ cho thành phố cổ Vienna. Trên con đường này, du khách có dịp chiêm ngưỡng tất cả 12 kiến trúc to lớn như Kịch Viện Quốc Gia, Tòa Thị Chính, Tòa Nhà Chứng Khoán, Trường Ðại Học, Hí Viện (\"Burgtheater\"), tòa Nhà Quốc Hội (\"Parlament\") và hai Viện Bảo Tàng. Quận 1 không chỉ là trung tâm lịch sử, văn hóa của thành phố mà còn là nơi thanh lịch, vật giá đắt nhất với những khu mua sắm sang trọng, những khách sạn đắt tiền và những nhà hàng với thực đơn nhiều nước trên thế giới. Tiệm Stadtbeisl trong khu phố cổ bán đủ các món ăn và bánh của dân Áo. Từ Viên đi về hướng Tây theo đại lộ Wiener-Bundesstrasse sẽ đến vùng ngoại ô thành phố . Du khách có thể tham quan khu hoàng cung mùa hè Schonbrunn Palace. Đây là nơi mà hoàng đế nước Pháp Napoléon đã từng ngự trị đây từ 1806 đến 1809. Thời ấy cung điện mùa hè Schonbrunn Palace được sơn màu vàng, có đến 2,000 căn phòng, có nhà nguyện và rạp hát riêng cũng như sở thú thành lập năm 1752 được xem là sở thú đầu tiên trên thế giới. Ngoài ra du khách còn có thể đến thăm là thành phố Salzburg - nơi sinh của thiên tài âm nhạc Mozart. Nơi đây có những dòng sông xanh biếc, uốn lượn chia thành phố thành 2 khu: một bên là khu nhà dân, một bên là lâu đài trên núi, khu trung tâm, nhà thờ. Những ngôi nhà cổ kính, không khí mát lạnh và những nụ cười thân thiện của người dân sẽ giúp bạn có những giây phút thư giãn thật sự. Đặc biệt trong mùa đông dù ngày hay đêm, bạn sẽ được ngắm vẻ đẹp lung linh của Salzburg trong tuyết trắng. Thành phố Innsbruck, thủ phủ của Tirol, được bao bọc bởi núi Alpen và sông Donau với vùng trồng nho Wachau cũng là một địa danh nổi tiếng với sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp của thiên nhiên và những khu đô thị sầm uất. Tiếng Đức là ngôn ngữ chính thức và là tiếng mẹ đẻ của khoảng 95% dân cư. Bên cạnh đó còn tiếng Slav và các ngôn ngữ khác của các dân tộc thiểu số. Những dân cư người Hung, người Slovenia và người Croat lâu đời ở Áo có quyền được dùng tiếng mẹ đẻ của mình trong trường học và giao thiệp với chính quyền. Tiếng Croatia và tiếng Slovenia là các tiếng chính thức bổ sung ở các tỉnh hành chánh và tòa án vùng Steiermark, Burgenland và Kärnten. Mỗi một hình thức phục vụ cứu cấp ở Áo thường có trung tâm điều hành riêng. Tất cả các số điện thoại cứu cấp đều có thể được gọi không tốn tiền tại mỗi một điện thoại công cộng. Các số điện thoại cứu cấp đều thống nhất trên toàn nước Áo, \"122\" cho cứu hỏa, \"133\" cho cảnh sát và \"144\"cho cứu thương. Ngoài ra còn có thể gọi không tốn tiền các số điện thoại cứu cấp khác như số điện thoại cứu cấp toàn Liên minh châu Âu \"112\". Lực lượng cứu thương (Rettungsdienst) được thông báo khi xảy ra tai nạn có người bị thương. Hội Chữ thập đỏ Áo chịu trách nhiệm cứu thương đặc biệt là trong vùng nông thôn. Bên cạnh đó, các tổ chức khác như Liên hiệp Samarit Công nhân (Arbeiter-Samarit-Bund), Tổ chức giúp đỡ tai nạn Johannit (Johanniter-Unfall-Hilfe), Hệ thống bệnh viện Dòng tu Malta Áo (Malteser Hospitaldienst Austria) và Chữ thập Xanh đều có trực cứu cấp. Trong Viên, nhiệm vụ này được chia sẻ giữa lực lượng cứu thương thành phố và các tổ chức giúp đỡ. Trực thăng cứu thương đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống cứu thương Áo. Đất nước này có mật độ trực thăng cứu thương cao nhất thế giới. Hiệp hội cứu thương đường không Christophorus (Christophorus Flugrettungsverein) sở hữu 16 chiếc trực thăng cứu thương bao phủ toàn diện tích nước Áo, bên cạnh đó, đặc biệt là trong các vùng du lịch, là nhiều dịch vụ tư nhân.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Câu đối khắc tại các đình, chùa, đền, miếu, phủ, điện khu vực Bắc Trung Bộ (Việt Nam)", "role": "user" }, { "content": "Khương Công Phụ người xã Định Công, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa - Việt Nam ngày nay, được vua Đường phong chức Hiệu thư lang, thăng dần đến chức Gián nghị đại phu, rồi Tể tướng. Đây quả là trường hợp \"có một không hai\" trong lịch sử Việt Nam, một người Việt lại cầm đầu bộ máy cai trị của cả đất nước Trung Hoa thiên tử! Sự kiện hai anh em họ Khương đất Việt cùng đỗ Tiến sĩ và cùng làm quan bên Trung Quốc, đã được người đời sau phản ánh trong đôi câu đối: \"Nhất triều trung huynh đệ đồng khoa Thiên tải hạ Bắc Nam khởi kính Tạm dịch: Đỗ cao nhất triều anh em cùng khoa Nghìn năm sau cả Trung Quốc và Việt Nam đều kính trọng Nhưng rồi đến lần trên đường chạy loạn, người con gái vua là công chúa Đường An chết. Vua Đường ra lệnh xây tháp, cử hành tang lễ cho con thật trọng thể, tốn kém. Khương Công Phụ đã can ngăn. Ông nói: \"Sơn Nam (là miền đất vua đang lánh nạn tạm thời) không phải là chỗ lâu dài. Làm ma cho công chúa nên để về kinh đô. Trên đường hành quân cần tiết kiệm tiền bạc để lo việc trước mắt đã...\". Vua Đường nổi giận, viện cớ, nói với viên quan là Lục Chí rằng: Công Phụ chỉ muốn vạch điều lầm lỗi của trẫm để cầu tiếng trung thực....\". Lúc Chí thấy Công Phụ giữ chức Gián nghị, Tể tướng, làm việc can gián điều sai trái của vua là đúng, bèn tâu trình, song vua Đường nhất quyết không nghe, cho biếm chức ông Khương, rồi sau đấy lại đày ông ra tận miền Tuyên Châu, tỉnh Phúc Kiến bây giờ. Cử nhân Đốc học Miễn Am Lê Văn Thạc (1782- 1876), đã có đôi câu đối rất hay khi bình luận về sự kiện trên: \"Phong vũ dĩ tồi công chúa tháp Hải vân trường chiếu Trạng nguyên từ\" Tạm dịch: Tháp công chúa gió mưa chốc đổ Đền Trạng nguyên \"mây biển\" mãi soi Từ \"mây biển\" tác giả dùng ở đây có ý nhắc đến tác phẩm \"Mây trắng rọi biển xuân\" bất hủ của Khương Công Phụ. Cái hay, cái tài của câu đối này là tác giả chỉ dùng có 14 chữ, nhưng đã thể hiện được đầy đủ những nét đặc trưng tài, đức của nhân vật lịch sử Khương Công Phụ, vị thần mà nhân dân địa phương thờ phụng. Sử sách xưa ghi chép rằng có lần vua nhà Đường bên Trung Quốc trên đường chạy loạn thì công chúa Đường An chết. Nhà vua ra lệnh tổ chức tang lễ long trọng, xây mộ tháp đồ sộ. Với tư cách là vị quan đầu triều, Khương Công Phụ đã thẳng thắn khuyên vua vì đất nước đang loạn lạc, chưa nên xây mộ to, tháp lớn, phung phí tiền của. Vua Đường đã nổi giận giáng chức và lưu đày ông Khương ra vùng biên ải. Nhưng rồi tháp công chúa đã đổ nát từ bao giờ, còn khí tiết và tài năng của Khương Công Phụ thì vẫn tồn tại mãi với thời gian. Chữ “Hải vân”, ông Miễn Am dùng là ngụ ý chỉ bài phú “Bạch vân chiếu xuân hải” (mây trắng rọi biển xuân), một tuyệt tác của Khương Công Phụ, mà các nho sĩ Việt Nam và Trung Quốc bao thế kỷ qua vẫn hết lời ca ngợi. Ngày nay ở thôn Cẩn Cầu, xã Định Thành còn đền thờ Khương Công Phụ. Trước cửa đền, có đề ba chữ Trạng Nguyên Từ'\" (Đền thờ Trạng nguyên) và đôi câu đối sau: Quế hải nhân văn vân phiến ngọc Phấn hương tướng chỉ bút song phong Dịch là: “Biển quế (chỉ nước ta) văn chương sáng ngời như phiến ngọc Quê tướng công có hai ngọn bút chỉ lên trời” Câu đối này gợi nhớ bài phú của tiến sĩ họ Khương có tiêu đề “Bạch vân chiếu xuân hải” (Mây trắng rọi xuống biển xuân) rất nổi tiếng, hiện còn chép trong các sách Trung Quốc và Việt Nam được nhiều thế hệ đánh giá là một tuyệt tác. Câu đối cũng mô ta quê hương ông - thôn Cẩm Cầu, xã Định Thành có ngọn núi Sơn và ngọn núi Chúa mọc cao vút lên tựa hai chiếc bút lông, tượng trưng cho vùng đất sinh thành người tài. Nghè Làng Kiều được xây dựng từ thời vua Lê Cung Hoàng (1526), tôn ngài Khương Tử Nha - một nhà chính trị - quân sự lỗi lạc giúp Văn vương diệt vua Trụ (nhà Thương), lập nhà Chu - một thời đại huy hoàng của Trung Hoa thời xưa. Trước năm 1945, làng Kiều thuộc xã Tứ Thôn gồm các làng: Yên Cát, Làng Thông và Hòa Chúng là các làng lớn của Tổng Cung Thượng thuộc vùng Đông Bắc huyện Quảng Xương. Ngày nay, dọc Quốc lộ 47 từ Thành phố Thanh Hóa xuống Sầm Sơn, tới km 13 rẽ trái tới trụ sở UBND xã Quảng Châu, rẽ trái khoảng 300 m là đến. Nghè nằm trên khu đất cồn rộng phía Tây Nam Làng Kiều. Từ việc chọn lọc thần hoàng trí tuệ đề cao học vấn, xây dựng những tư tưởng tiến bộ, độc đáo của làng xóm, tôn vinh sự học, lấy thành đạt trong khoa cử làm chuẩn mực như câu châm ngôn của địa phương: “Chu Khương Tôn Tử nghè ghi tại Sử Sỹ phong lưu chiếm đắc nhàn” Tạm dịch: Khương Tử Nha Tô Đông Pha Nghè thờ phụng Nho sinh mới về thành người đỗ đạt Phần trung đường là thần linh được hiện ra thành tượng, là những vị thần có lai lịch: đó là 3 pho tượng của Khương Tử Nha, Đinh Công Nhân Tín, Đinh Huy Nghiêm, những Thần Hoàng làng với câu đối: “Hoàng triều Đại Việt phong tam thánh Cố lý Tiên Trang hợp nhất từ” Tạm dịch: Các vua nước Việt phong ba Thánh Làng cổ Tiên Trang thờ một Nghè 2 câu đối được bố trí trang trọng 4 góc phía trước: “Lập đức, lập công dich dịch năng thanh bất hủ Vị thần, vị tổ du du linh tích trường tồn” Tạm dịch: Tạo đức lập công vời vợi tiếng thơm không ngớt Là thần là tổ rõ ràng linh tích còn dài Và: “Thành dân công đức lưu phương viễn Dịch thế cơ cưu hữu cốc di” Tạm dịch: Nên công đức tiếng thơm để mãi Nối đời nền nếp thóc gạo để về sau Triệu Thị Trinh sinh năm Bính Ngọ (226) ở Quân An, Cửu Chân (nay là Thiệu Hóa - Thanh Hóa). Năm 248, Triệu Thị Trinh xuất quân dựa theo một câu trong Binh pháp \"xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị\" nghĩa là \"ra quân bất ngờ, đánh lúc giặc chưa phòng bị thì tất thắng\". Khi ra trận, bà ngồi trên bành voi một ngà, trông rất oai phong nên tướng sĩ tôn bà là \"Nhụy Kiều tướng quân\". Bà dẫn quân xông pha trận mạc, hữu đột, tả xông oanh oanh liệt liệt khiến bọn giặc Đông Ngô rất khiếp sợ. Chúng bảo nhau: Hoành qua đương hổ dị, Đối diện Bà vương nan. Dịch: \"Múa gươm chống cọp thì dễ giáp mặt với vua bà thì thật khó\". Chúng không dám gọi thẳng tên bà mà gọi là \"Lệ Hải Bà Vương\". Nghĩa quân của bà Triệu đánh đâu thắng đó, khi đến Giao Chỉ, nhân dân nhất tề hưởng ứng. Bọn giặc phương Bắc lo sợ, sai Lục Dận sang làm thứ sử Giao Châu, đem tám ngàn quân sang nước ta. Tương truyền, Lục Dân ngán sợ sức mạnh của nghĩa quân do một người con gái chỉ huy, hắn nghĩ ra mưu kế để cho quân tướng lõa thể khi xáp trận với Triệu Thị Trinh. Kinh tởm trước chiến thuật hèn hạ ấy, bà cho lui voi, giặc lập tức đuổi theo. Đến núi Tùng Sơn (thuộc Phú Điền, Hậu Lộc - Thanh Hóa) bà không muốn bị rơi vào tay giặc nên quỳ xuống khấn với trời đất \"sinh vi tướng - tử vi thần\" rồi rút gươm tự sát. Hiện nay tại núi Tùng Sơn (làng Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc - Thanh Hóa) vẫn còn lăng mộ và đền thờ bà Triệu và một câu đối ca ngợi công đức của bà lưu truyền trong dân gian: Trông bành voi, Ngô cũng lắc đầu, sợ uy Lệ Hải Bà Vuơng, những muốn bon chân về Bắc quốc Ngồi yên ngựa, khách còn hoài cổ, khiếp danh Lạc Hồng Nữ Tướng, có chăng thẹn mặt đấng Nam nhi Câu đối cũng được các tác giả sử dụng để phê phán, châm biếm những thói hư tật xấu ở đời. Cho đến nay trong đền bà Triệu có 29 đạo sắc phong, trong đó có 5 đạo của triều Lý, 15 đạo sắc của nhà Lê và 9 đạo sắc của triều Nguyễn, phía trước lăng mộ bà còn ghi hai câu đối: Giang sơn hữu chủ Phong nguyệt vô biên. Có nghĩa: Sông núi có chủ Trăng gió không cùng. Câu đối của Chí Sĩ Dương Bá Trạc: Một đầu voi chống chọi với quân thù, sau Trưng nữ rạng danh bà Lệ Hải Ba thước vú tử sinh cùng đất nước, cho Ngô hoàng biết mặt gái Giao Châu Câu đối liên quan khác: Cửu Chân trăm trận gan hơn sắt Lục Dận nhiều phen mắt đã vàng Đền thờ Dương Đình Nghệ tại làng Giàng (thôn Dương Xá, Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Trận Đại La năm 931 đánh bại cuộc xâm lược lần thứ nhất của nhà Nam Hán đã thắng lợi giòn giã. Đôi câu đối ở đền thờ Anh hùng Dương Đình Nghệ trước đây tại làng Giàng (Dương Xá) đã chính xác ca ngợi vị chủ tướng và mô tả đầy hào sảng trận thắng này: “Dưỡng tam thiên nghĩa tử dĩ phục thù, hằng hằng kinh khí Chưởng bát vạn hùng sư nhi xuất chiến, lẫm lẫm oai thanh” Dịch nghĩa: Nuôi ba nghìn nghĩa tử để phục thù, khí phách kinh hồn Cầm tám vạn hùng binh mà ra trận, uy danh lừng lẫy Sách \"TƯ TRỊ THÔNG GIÁM của Tư Mã Quang đời Bắc Tống có đoạn: ”Dương Đình Nghệ người Ái Châu, nuôi ba nghìn giả tử, mưu đồ khôi phục Giao Châu. Viên tướng cai quản Giao Châu người Hán là Lí Tiến đã biết, nhưng ăn hối lộ của Nghệ nên làm như không nghe thấy. Năm Tân Mão (931), Đình Nghệ dấy quân bao vây Giao Châu, vua Hán sai Thừa chỉ Trình Bảo sang cứu, chưa đến nơi thành đã nguy ngập. Tiến bỏ trốn về bị vua Hán giết chết. Bảo vây Giao Châu, Đình Nghệ ra đánh, Bảo thua và tử trận.” Dương Đình Nghệ tự xưng làm Tiết độ sứ, vua Nam Hán ”biết chẳng thể tranh với ngài được nữa, đành bái tướng Tiết độ sứ châu Giao” Di tích tọa lạc trên địa phận làng Cự Nham, xã Quảng Nham, làng Cự Nham là tên chữ, nhân dân còn gọi là làng Mom là tên Nôm. Một bộ phận lớn dân Cự Nham đến lập nghiệp hành nghề (đánh cá) ở mỏm đất đã được bồi này, từ đó có tên mới là \"Làng Mỏm Cự Nham\". Đôi câu đối nhà thờ trung đường đền Phúc ghi: “Hương hỏa ức niên âm tích Tống Phong ba nhất trận mặc phù Trần” Tạm dịch: Hương khói muôn năm nhớ âm hồn người Tống Bão tố một trận ngầm phù hộ nhà Trần Năm 1285, giặc Nguyên xâm lược nước ta, vua Trần giao cho Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật thống lĩnh thủy quân và chọn Biện Sơn, Lạch Bạng, Lạch Mom là nơi tập trận và hội quân thủy bộ. Vua Trần cùng thủy thủ đoàn bí mật xuôi thuyền vào Nam đánh chặn Toa Đô đến lạch Mom hết gió đông, gió nam thổi mạnh, vua Trần lên bờ hội quân thủy bộ, vua cùng quần thần vào đền Mom dâng hương cầu khấn. Thần nhân ứng nghiệm đã có gió đông, vua Trần cùng đoàn thủy binh Đại Việt đánh quân thủy Toa Đô một trận đại bại. Khi giang sơn thu về một mối, vua Trần giữ lời hứa đã cấp sắc xây dựng đền Mom to lớn nguy nga, tự tay tặng các Hoành phi câu đối: “Xã tắc phát phu bất ư Mông Cổ đồng thiên địa Xuân thu trữ đậu trường giữ ly thiêng vạn cổ kim” Tạm dịch: Toàn dân cắt tóc xin thề không đội trời chung với giặc Mông Cổ Quanh năm cúng giỗ giữ niềm tin trong trời đất muôn đời Đền Xuân Phương tại làng Xuân Phương, xã Quảng Châu, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, thờ một nhân vật lịch sử đó là Nguyễn Phục. Ông quê ở xã Đoàn Tùng, huyện Gia Lộc (nay là huyện Tứ Lộc, tỉnh Hải Dương), thi đỗ Hoàng giáp đời vua Lê Nhân Tông; làm quan đến chức Hàn Lâm Viện, nắm chức Phi vận Tướng quân. Năm 1467, ông được bổ nhiệm chức Tham chính sứ, xứ Thanh Hóa (được quyền định đoạt mọi việc ở xứ Thanh Hóa) khi vua Lê Thánh Tông đi đánh giặc Chiêm Thành, ông được giao làm Đốc vận quân lương. Do chậm trễ thời gian, quân thiếu lương ăn, nhà vua nghe theo cung nhân xúi giục, khép tội bắt trói ông và ghép ông vào tội chết. Hiện đền thờ ông có khắc đôi câu đối như sau: “Lân giao hữu đạo thanh xuân hiếu Môn quán vô tư bạch nhật nhàn” Và: “Tượng Lĩnh tây hồi chung thọ mạch Mã giang bác dẫn chấn phong ba” Đền thờ Đông Hải Đại Vư­ơng - Nguyễn Phục còn có tên gọi là Đền thờ quan Hoàng Giáp, hay Đền đức Thánh tôn thần. Ngôi đền được xây dựng trên khoảnh đất ven biển xã Quảng Đại, huyện Quảng X­ương, cách Thành phố Thanh Hóa khoảng 15km về phía Đông Nam. Tước hiệu đầy đủ của Thành Hoàng Nguyễn Phục là: “Đông Hải Đại Vương, Uy Linh Hiển Ứng Dực Thánh Hộ Quốc Phù Tộ, Thượng Đẳng Phúc Thần, Bảo An Chính Trực Hựu Thiện Đôn Ngưng, Bảo Dực Trung Hưng, Thành Hoàng Nguyễn Phục”. Có hai đôi câu đối bài trí trong đền: \"Khoa giáp ức niên l­ưu Việt quốc Miếu đ­ường thiên cổ lãm thần uy\" Tạm dịch: Khoa giáp vạn năm l­ưu nư­ớc Việt Miếu đ­ường nghìn thuở vẫn lẫm liệt uy danh bậc thần Và: “Vạn đại thần từ tồn tại bản Thiên niên phụng sự phúc ph­ương dân” Tạm dịch: Vạn đời đền thờ Thần vẫn tồn tại trong bản xã Nghìn năm phụng thờ thần để phúc lại muôn dân Nghè Đệ Tứ nằm ở địa phận làng Hòa Chúng, xã Quảng Thọ. Trước năm 1945, Hòa Chúng thuộc xã Cung Thượng, tổng Cung Thượng, huyện Quảng Xương. Giai đoạn 1947, huyện đã hợp nhất 3 xã Lê Viêm, Bạch Đằng và Lãnh Phiên thành xã Quảng Châu. Năm 1954, xã Quảng Châu chia thành 3 xã: Quảng Thọ, Quảng Châu và Quảng Vinh...làng Hòa Chúng thuộc xã Quảng Thọ. Làng có 4 nghè, gồm Nghè Đình Thượng (đệ nhất), Nghè Ròng (đệ nhị), Nghè Thông (đệ tam) và Nghè Đệ Tứ. Nghè Đệ Tứ có treo câu đối: “Quần sinh đắc thiên thu vọng Lạc sự hoan đồng vạn chúng sinh” Dịch nghĩa: Sống quần tụ được ngàn thu trông cậy Làm việc vui cùng muôn vạn chúng sinh. Câu đối ở cột nanh: “Xa mã vãng lai huyền đại đạo U minh xuất nhập diện huyền cơ” Dịch nghĩa: Xe ngựa đi về theo đường đạo nghĩa cả Vào ra sáng tối, kỳ diệu máy then trời Và: “Tế tụng chưng thường thu tổ đức Lễ tuân chiêu mục trọng nhân luân” Dịch nghĩa: Tế dùng theo phép thông thường, thi hành đức độ tiên tổ Lễ tháng tuần bên chiêu mục, tôn trọng luân lý con người Khu di tích Núi và Đền Đồng Cổ đứng trên ngọn núi cao nhất thả tầm mắt về hướng Bắc ta bắt gập thành nhà Hồ. Chính diện hướng Đông là chùa Dáng, phía Nam là động Hồ Công, một phong cảnh đẹp của huyện Vĩnh Lộc. Dưới quán Triều Thiên là chùa Thanh Nguyên. Trong lòng ba quả núi có động Ích Minh xuyên núi ra sông Mã, Mùa hè, trong động nhiệt độ thấp hơn bên ngoài khiến ta dễ chịu. Phía hữu có hang Nội mát không kém. Phía Tây có hồ bán nguyệt nằm trong thung lũng núi Tam Thai quanh năm gợn sóng lăn tăn, có những câu đối khen rằng: Hồ bán nguyệt lung linh hổ phách Ấn tam thai giữ mạch long bài Và: Sơn trĩ tam thai vân tụ tán Hồ loan bán nguyệt thủy thăng trầm Nguyễn Văn Giai (1553 - 1628) là một Tam nguyên Hoàng giáp, từng giữ chức Tể tướng, tước Thái Bảo, Quận công. Ông nổi tiếng chính trực, biết giữ nghiêm pháp luật triều đình. Sau ngày ông mất, dân làng Đan Nê phụng thờ ông ở một ngôi nhà phía bên trái đền Đồng Cổ. Mùa xuân 2011, dân làng Đan Nê trùng tu đền Phúc nằm ở trung tâm làng. Người dân Đan Nê thờ Nguyễn Văn Giai như vị Thành hoàng vì ông không chỉ là vị khai quốc công thần mà chính ông đã nối nền văn hóa của người Đan Nê giữa xưa và nay. Đền Đồng Cổ có khắc câu đối quá hay như sau: Thiên vi anh, địa vi linh, tất mã giang tây thanh miếu cổ Thần đương trung, tử đương hiếu, Thăng Long thành Bắc thệ đàn cao Chủ tịch Hồ Chí Minh dựa theo ý câu đối trên đã nói : “Quân đội ta, Trung với Đảng, Hiếu với Dân nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” Hiện trên bia mộ của ông tại quê nhà vẫn còn khắc rõ đôi câu đối do chính vua Lê Kính Tông ban tặng trước lúc ông tạ thế: \"Quốc thạch trụ tam triều danh tướng Địa giang sơn vạn cổ phúc thần\" Tạm dịch nghĩa: Trải ba triều thuộc hàng danh tướng trụ cột của nước nhà Vạn năm sau là bậc phúc thần nơi sông núi quê hương) Đền Đồng Cổ làng Mỹ Đà còn một tên gọi khác ít phổ biến hơn là Liên Hoa linh từ. Do địa thế của làng và vị trí ngôi đền toạ lạc giống hình một đoá hoa Sen nên nhân dân gọi như vậy (tức đền linh Hoa Sen). Làng Mỹ Đà ngày nay thuộc xã Hoằng Minh huyện Hoằng Hoá tỉnh Thanh Hoá. Vùng đất này xa xưa gọi là Kẻ Cổ, thời Lý - Trần thuộc trang Mỹ Cụ, giáp Cổ Đằng, phủ Hà Trung, đạo Thanh Hoa. Thời Nguyễn làng Mỹ Đà có tên là xã Mỹ Đà, tổng Từ Minh, huyện Hoằng Hoá, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá. Đôi câu đối ở đền có nội dung như sau: Anh linh trợ Lý bình Chiêm tặc Hiển ứng phù Lê phạt Ngô quân Tương truyền, khi Lý Thái Tông còn đang là Thái Tử, đem quân đi dẹp giặc Chiêm. Qua địa giới trang Mỹ Cụ, huyện Cổ Đằng, phủ Hà Trung lúc giữa trưa, bỗng thấy trời nổi mưa gió, sấm chớp dữ dội. Trong khoảnh khắc thì trời quang mây tạnh trở lại, nhà vua nhận ra địa hình của bản trang như một đoá hoa sen, lập tức cho lập đàn tế ngay tại chỗ và đốt hương ngầm khấn. Đến nửa đêm bỗng thấy một vị thần nhân dáng hình uy nghi, đứng ở trên đàn tế tự xưng: \"Ta là Sơn Thần Đồng Cổ, theo vua đi dẹp giặc\". Nhà vua bèn cấp tốc cử giá tiến quân vào đồn giặc, giữa trận tự nhiên nổi lên ba tiếng trống đồng lớn vang như tiếng sấm dậy, quân giặc thấy vậy tưởng như trời đang trợ giúp cho quân ta, bèn cùng nhau bỏ chạy tan tác, thế là nhẹ nhàng mà giặc lui quân. Nhà vua khải hoàn trở về triều, lệnh cho đình thần đem sắc chỉ về bản trang, truyền cho dân dựng đền thờ trên chỗ đất Hoa Sen xưa từng là nơi lập đàn tế làm nơi hương khói phụng thờ Hai bên hương án treo đôi câu đối có nội dung: Mạch dẫn từ Càn uyển chuyển hành sơn bệ Khí chung vu Tốn trùng hưng quá thuỷ đài Nghè Sày thuộc địa phận làng Bình Hòa, xã Quảng Châu, huyện Quảng Xương. Nghè Sày nơi thờ ông Quản Di Đài thời Lê Trung hưng; ông từ nơi khác đến, xin làng một miếng đất ngụ cư, cuối cùng làng cũng thương tình cho ông một khu đất bỏ hoang toàn cát ở phía Bắc. Vào khóa thi cuối thời hậu Lê ông thi đỗ Tiến sĩ, trong làng một số vị quan lại chức sắc do sĩ diện với quê hương nên tỏ ý đố kỵ ghen ghét, coi thường ông chỉ là một nho sinh nghèo vừa phiêu bạt đến đây mà đã sớm được xứng bảng đề danh. Do vậy họ tỏ ý khinh rẻ và bày ra cái trò đem ghế nhổ mạ ra làm kiệu khênh, lọng bằng nón sổ vành, cờ bằng khố cho làng đi trước. Thấy cảnh trái ngang, dân làng miệt thị mình, ông quá uất hận liền tự vẫn. Việc ông Quản Di Đài thi đỗ Tiến sĩ khoa nào cho đến nay chưa có tài liệu nào ghi chép, chỉ thấy hiện nay một số các tài liệu thành văn hiện trong nghè nơi thờ ông có đề cập đến việc ông là Tiến sĩ được gọi là ông Nghè. Nội dung câu đối như sau: “Tiến sĩ tôn ông thiên cổ tại Quan nghè tưởng niệm quốc gia phong” Nghĩa là: Quí ông tôn quí đổ Tiến sĩ nghìn năm vẫn ở chốn này Tưởng niệm về quan nghè được đất nước phong tặng Cuối thế kỷ 13, nhà Tống bị quân Nguyên Mông đánh bại. Hoàng hậu và công chúa Tống đã nhảy xuống biển và trôi đến vùng biển Việt Nam, trong đó có Do Xuyên. Ngưới dân ở đây đã tôn họ làm thần, lập bàn thờ. Các vua phong kiến Việt Nam là “Tứ vị thánh nương”. Truớc kia có đền thờ riêng, nay nhập lại thành đền Lạch Bạn, thờ cả những nhân vật lịch sử Việt Nam thởi Lý, Trần như Tô Hiến Thành, Hoàng Minh Tự và các thiên thần như Sát hải Đại Vuơng. Trong đền có câu đối cổ: “Thế cụ kỷ tang điền, chung cổ sùng từ tồn cố Tống Linh thanh tế hải quốc, nhất phuơng hữu hưởng tự tiền trần” Dịch nghĩa: Cuộc thế đổi thay, muôn cõi vẫn thờ thời Tống cũ Tiếng thiêng tỏa khắp, một phuơng còn lễ thuở Trần xưa Đình Hào Lương xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá, nằm cách trung tâm khu di tích lịch sử Lam Kinh 3km về phía Đông Nam. Đình lập để thờ cúng bảy vị Thất tính tiên công và ba vị khai quốc công thần triều Lê Sơ: Lê Sao, Lê Bị, Lê Nhị. Lê Sao là người xã Đoạn Lương, huyện Lương Giang, thời Trùng Quang giữ chức Vũ hiển đại phu Thiên Ngưu vệ tướng quân, quản lĩnh ngự tiền Bình chương quân, gia phong Quang Lộc Đại phu xa vệ Đại tướng quân thượng trí. Lê Bị là người xã Đoạn Lương, huyện Lương Giang (nay là làng Hào Lương xã Xuân Lam). Ông sớm tham gia khởi nghĩa Lam Sơn cùng bình Định vương Lê Lợi. Sau khi chiến thắng giặc Minh Lê Lợi lên ngôi, vua luận ban thưởng cho ông tước Huyện thượng Hầu, Bảo Chính công thần, Nhập nội Thiếu uý. Lê Nhị là một tướng giỏi được xếp vào hàng thứ 42 trên 125 bậc khai quốc công thần. Năm Thuận Thiên thứ 1(1428) được vua sai cho làm Tổng quản Hà Nam phụ trách về quân binh. Bốn cột hiên được xây bằng gạch xi măng, hai cột giữa đắp nổi hai câu đối chữ Hán như sau: Tự tích hào lưu thắng địa (Từ xưa nét hào hoa còn lưu mãi nơi đất đẹp) Nhi Kim lương bống bí tiền công (Mà nay bậc lương đống toả mãi công lao) Làng Bồng Trung, xã Vĩnh Tân (Vĩnh Lộc) có dân cư sinh sống từ đầu thế kỷ XV. Đến năm Hồng Thuận thứ 2 (1510) dân cư ở khu vực Mã Mốc đã đông đúc, phồn thịnh, nên dân làng xin và được triều đình cho lập làng mới đặt tên là làng Đông Biện. Dưới triều vua Đồng Khánh (1866 - 1888) đổi tên làng Đông Biện là làng Bồng Trung (vì Biện là húy của mẹ vua Đồng Khánh). Làng Bồng Trung có ngôi đình 5 gian thuộc loại đình to, chiều dài 17 m, chiều rộng 9 m, làm toàn bằng gỗ lim. Dưới đây là những câu đối được khắc tại đình: Tụ thành ấp, hữu nho gia, hữu nông gia, hữu thương gia, Lam Điền ước tứ Thăng ư hương, vi tú sĩ, vi tiến sĩ, vi tạo sĩ, Chu lễ tân tam Dịch nghĩa: Tụ thành ấp, có nhà nho, nhà nông, nhà buôn, giàu có gấp bốn lần vùng Lam Điền Tiến lên lập làng, làm nên tú sĩ, tiến sĩ, tạo sĩ, có văn hiến lễ nghĩa gấp ba lần nhà Chu Chú giải: Tú sĩ: Người đỗ tú tài thời xưa. Tạo sĩ: Người đỗ tiến sĩ võ. Lam Điền: Một huyện của Trung Quốc. Chu: Một triều đại phong kiến Trung Quốc xưa kia nổi tiếng có kỷ cương. Đôi câu đối này đã nêu lên quá trình thành lập làng Bồng Trung từ ấp tiến lên làng, sự phát triển rực rỡ về kinh tế và văn hóa, giáo dục, nhiều người hiển đạt. Sinh khí thủy ư Đông thập nhật hạng phồn du đô thị Thái bình nghi cư Biện tứ bách niên văn hiến vu tư Dịch nghĩa: Sinh khí tốt lành xuất phát từ phương Đông, mười một xóm của quê hương vui như thành thị Thái bình nên tụ cư về đất Biện có bốn trăm năm văn hiến Chú giải: Phương Đông là nơi mặt trời mọc, người xưa cho là nguồn gốc của sự sống. Biện là Biện Kinh, kinh đô nhà Tống Trung Quốc. Ở đây tác giả mượn điển tích cũ để nói quê hương Đông Biện với dụng ý đối Đông với Biện. Bách niên tượng mã am quy bộ Tứ cố giang sơn nhập họa đồ Dịch nghĩa: Trăm năm voi ngựa qua lại đường làng Bốn mặt núi sông như chầu về làng Chú giải: làng Đông Biện - Bồng Trung có nhiều người làm quan, lại gần làng Bồng Thượng còn gọi là làng Báo, quê của các chúa Trịnh, nên có nhiều xe ngựa qua lại. Đương thời thường truyền tụng: “Ngựa xe về Bồng Báo” (Bồng là Bồng Trung, Báo là làng Báo). Quanh làng có nhiều núi, trong đó có núi tiến sĩ ở phía Đông Nam, trước làng có sông Mã. Câu đối trên ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương và cảnh sinh hoạt nhộn nhịp của làng Bồng Trung. Khu Nghĩa Trũng còn gọi là khu nghĩa trang chôn cất những vong hồn vô thừa nhận do Tri huyện huyện Quảng X­ương Đặng Huy Trứ xây dựng năm 1860. Khu Nghĩa Trũng được tọa lạc trên một khu đất rộng khoảng 2ha, nằm trên địa phận làng Nang thuộc tổng Cung Thượng, nay thuộc địa phận của thôn 10, thôn 11, xã Quảng Cát. Đối diện với nghĩa địa là phần đền miếu thờ cúng, nằm ở phía Đông rộng chừng 500m2, có t­ường rào bao quanh và cổng ra vào. Các đàn còn lại xây nhỏ hơn, nằm cách đều 4 góc ở đàn chính, kích th­ước mỗi đàn chiều dài 2m; chiều rộng 1,5m, có bức đại tự câu đối: “Hiền ngu, quý tiện, giai thiện cổ H­ương hoả đ­ường đàm tự ­ước niên” Nghĩa là: Khôn dại, sang hèn, đều phải chết Nhà đàn thờ cúng mãi không thôi Mai Thị Triều người con gái làng Mai xã Hào Môn huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia trấn Thanh Hoa (tên Thanh Hóa thời xưa). Chúa Trịnh Tráng (1623-1657) mến tiếng muốn vời vào cung để sớm hôm đỡ đần bên mình. Bà vui vẻ nhận lời nguyện làm bạn tri âm cùng chúa, nhưng không vào cung, bởi vì bà đã sớm nặng lòng với con dân làng của bà, còn bao người đói cơm rách áo, không được học hành, ốm đau không được chạy chữa thuốc thang. Chúa phải nể lòng chấp nhận cùng bà kết ngãi vợ chồng Tiên Thánh Tiên Thần, phá cách thói tục trần gian mà vẫn vui lòng và hân hạnh. Kíp khi bà mất dân làng làm sớ tâu về triều, vua liền phong cho bà làm phúc thần thượng đẳng cùng nhiều mỹ hiệu: Sư bà Huyên Từ - Ngọc Nữ, Mẫu Hương Phu Nhân. Người đời sau tặng đôi câu đối thờ về cuộc tình duyên thanh cao đẹp đẽ và khúc triết giữa bà với Chúa Vương họ Trịnh mà cổ kim đông tây chưa từng thấy bao giờ: Tấm thân dâng nước ghi truyền sử Tình Vương tâm sự đọng ly quỳnh hà thờ Lương y minh từ ở thôn Tân Thượng (thị trấn Quảng Xương, thường gọi là Lưu Vệ) thờ lương y Cao Văn Tân - người đã được vinh danh ở mục “Danh nhân đất nước, quê hương” trong cuốn “Địa chí huyện Quảng Xương” - NXB Từ điển Bách Khoa năm 2010. Tại Lương y minh từ các bức đại tự, hoành phi, câu đối được bố trí ở 3 nơi: Cổng nhà thờ, cửa nhà thờ và trong nhà thờ. Phía trên cổng, chính giữa có tên nhà thờ Lương y minh từ (nhà thờ ánh sáng Lương y). 2 cột ngoài cùng đắp nổi đôi câu đối: “Đất mẹ có sen, sen mãi thắm Trời quê ươm nắng, nắng luôn tươi” Câu đối ca ngợi một vùng quê tươi đẹp, luôn ấm áp ánh nắng mặt trời, cỏ cây tươi tốt, hương sen ngát thơm, tràn đầy vượng khí, nhắc nhở cháu con cố gắng giữ gìn cho quê hương luôn xanh, sạch, đẹp. Yêu quê hương càng phải vượt qua gian khổ rèn luyện để “Đất có sen, sen lại mọc”. Hai cột giữa treo đôi câu đối: “Phụ tử lương y kế thiên niên quảng nghiệp Nhi tôn đức dược truyền vạn đại lưu cơ” Nghĩa là: cha con, cháu chắt nối tiếp nhau lưu truyền, quảng bá sự nghiệp lương y, đức dược con cháu phải luôn tu dưỡng, phấn đấu để giữ gìn y đức, y đạo, y thuật, kế thừa, phát huy truyền thống “Lương y như từ mẫu” của tổ tiên Câu đối của Cao Bá Quát khắc phía trong cột cổng nhà thờ: “Kinh thế hữu tài giai bách luyện Độc thư vô tự bất thiên kim” Nghĩa là: Có tài giúp ích cho đời đều phải trải qua trăm lần tôi luyện gian khổ Đọc sách hay, sách tốt thì chữ nào cũng quý như ngàn vàng Làng Ngọc Đới, xã Quảng Phúc đã bao đời nay vẫn tôn thờ một vị thần. Đó là vị thần Thạch Trụ Đại Vương, là một hòn đá hấp thụ khí anh linh trời đất từ thuở khai thiên, lâp địa. Tương truyền, Thần thích ngao du sơn thủy, khi qua chơi miền sông Yên, thấy quang cảnh kỳ lạ thì dừng lại, xóm làng thưa thớt nhưng kiểu đất rất đẹp, dòng sông Yên xuôi về đến đây bỗng vòng lượn lại như lưu luyến không muốn trôi đi, giống hình cái Đai Ngọc của bậc Khanh tướng. Vì kiểu đất ấy, người có chữ đặt tên làng là Ngọc Đới, nghĩa là làng Đai Ngọc. Năm 1045, Lý Thái Tông thân chinh bình định phía Nam, đang mùa xuân, mùa nước cạn, đến khúc sông lượn thắt cổ bầu, thuyền ngự to nặng không tiến lên được, quân lính phải dùng dây kéo nhích từng bước. Thái Tông khấn: “Xin thần linh hiển thánh âm phù hộ cho dân đánh giặc Chiêm Thành, giữ yên bờ cõi, được như lời, vua sẽ ban sắc phong và sai dân lập đền thờ”. Thuyền nhà Vua lập tức rẽ nước đi băng băng, không cần ai kéo lôi chèo chống gỡ cả. Trận ấy thắng to, bắt được tướng giặc Chế Củ và năm vạn người Chiêm. Trước ban sắc phong làm Thạch Linh thần tướng, sau sai dân lập đền thờ với đôi câu đối: “Chiêm Thành trận Lý linh thanh chấn Ngọc Đới giang đào Thánh Thạch lưu” Phan Vân sinh năm Giáp Thìn (1364) tại xã Bắc Thành, Yên Thành, Nghệ An. Năm 1400, Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần. Ông rời Thăng Long vào Kẻ Rộc, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu khai khẩn đất hoang. Sau gần 20 năm khai phá diện tích đã lên tới 600 mẫu và lập được chánh sứ đông vui trên một ngọn đồi thoai thoải phía đông đập Bàn Trang. Ngoài sáu trăm mẫu ruộng thượng đẳng điền, Phan Vân còn tổ chức khai hoang một số cánh đồng và trang trại khác như Lôi Thị, Trại Chợ, Trại Dâu, Đồng Lầm, Đồng Cận...Tại đây Phan Vân đã tổ chức việc chiêu dân khai hoang, sau gần 20 năm khai phá diện tích đã lên tới 600 mẫu và lập được chánh sứ đông vui trên một ngọn đồi thoai thoải phía đông đập Bàn Trang. Phan Vân là người có nhiều đóng góp lớn cho cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn. Để nhớ ơn Phan Vân, người có công khai hoang lập ấp và dựng nên khu Chợ Rộc sầm uất, người dân nơi đây đã lập đền thờ ông. Tại đền thờ ông có đôi câu đối: \"Lục bách mẫu long hưng cửu kế, chiến tích quân lương, khởi tự triệu cơ khai sơn phá thạch Kỷ thiên dân lạc nghiệp an cư, thuần phong hậu tục tòng lai kế thế, ngương huệ hàm ân\" Nghĩa là: Sáu trăm mẫu kế lâu dài hưng thịnh, chiến tích quân lương, trước tự dựng nền đào núi, phá đá Mấy ngàn dân cùng lạc nghiệp an cư, thuần phong hậu tục, đời sau nối trước, muôn đội ơn sâu. Gia phả họ Hoàng Nghĩa ở Nghệ An ghi lại Tổ tiên xưa quê quán xã Hoàng Vân, huyện Kim Động, tỉnh Sơn Nam (nay là thôn Vân Nội, xã Hồng Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Ngài thủy tổ là Hoàng Thế Chân, sống thời Lê Thái Tổ (1428-1433) và Lê Thái Tông (1434-1439). Thế kỷ XVI, trong cuộc chiến tranh Nam Bắc triều giữa nhà Lê Trung Hưng và nhà Mạc, ngài Hồng Quốc công Hoàng Nghĩa Kiều (1540-1587) làm Đô đốc tổng binh ở Nghệ An, lấy bà Phan Thị Má ở làng Dương Xá, huyện Hưng Nguyên, sinh ra Phú Quận công Hoàng Nghĩa Lương. Đền thờ Phú Quận công ở làng Hoàng Nghĩa, nay thuộc xã Hưng Lĩnh, Hưng Nguyên, cạnh đê tả ngạn sông Lam, được con cháu xây dựng từ năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), quay mặt ra sông Lam và núi Thiên Nhẫn, gồm 2 nhà thượng và hạ. Hiện tại ở đền còn câu đối: Gia tiên Kim Động, Hoàng Vân, Nam thiên thế phiệt Miếu ngật Hưng Nguyên, Dương Xá, Hoan địa linh từ Nghĩa: Tổ tiên ở Kim Động, Hoàng Vân dòng dõi danh tiếng dưới trời Nam Đền miếu ở Hưng Nguyên, Dương Xá linh thiêng trên đất Châu Hoan - tức đất Nghệ An Và: Kinh quốc cựu phần lăng, Kim Động Hoàng Vân phát tích Quận thành kim miếu mạo, Hồng Sơn Lam thủy tăng huy Nghĩa: Kinh xứ cũ, nơi đặt lăng mộ. Kim Động, Hoàng Vân là nơi phát sinh gốc tích Quận thành mới, chỗ xây đền miếu, núi Hồng Lĩnh, sông Lam là chỗ sáng dọi càng tăng Nhà thờ họ ở Hoàng Trù còn ghi câu đối nói lên nguồn gốc họ hàng: Hoàng Vân chính khí truyền thiên cổ Chung Cự hùng thanh chấn ức niên Nghĩa là: Chính khí Hoàng Vân truyền muôn thuở Tiếng hùng Chung Cự dội ngàn năm Câu đối ở nhà thờ Vân Hồ, Hà Nội: Triệu tích vu Kim Động Hoàng Vân, vương viết tứ tước liệt quận thập tước Phân chi vu Nghệ An Dương Xá, nhất thôn tại tư diệc nhất thôn Đền Ngọc Điền được nhân dân xây dựng ngay trung tâm của làng Ngọc Điền thuộc khối 4, thị trấn Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Đền Ngọc Điền là nơi thờ Thành hoàng Cao Sơn, Cao Các và Thánh mẫu Liễu Hạnh, nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân làng Ngọc Điền ở Thị trấn Hưng Nguyên và các vùng lân cận. Hai bên tượng Mẫu Liễu Hạnh đặt đôi nến gỗ sơn nâu, hai cột hai bên treo câu đối chữ Hán: Bảo quốc hộ dân chiêu thánh đức Trừ tai giáng phúc hiển thần công Hệ thống cửa Hậu cung được làm theo kiểu bàn khoa gồm 1 cửa và 4 cánh, có kích thước, kiểu dáng như nhau. Hậu cung là nơi thờ Cao Sơn, Cao Các, hai trụ hai bên có câu đối: Công cao hộ quốc vạn niên trường Đức đại an dân thiên cổ thịnh Cao Sơn tên thật là Cao Hiển, tự là Vân Trường, quê ở Bảo Sơn, Trung Quốc. Vua nhà Tống cử Cao Hiển sang làm Tuyên phó sứ An Nam, ông giúp nhân dân An Nam diệt trừ sâu keo, thú dữ, tìm cách phát triển sản xuất. Khi ông mất, vua Tống phong cho ông làm An Nam quốc vương và giao cho nhân dân An Nam lập đền thờ. Cao Các người làng Châu Ái, Cao Xá, huyện Thọ Xuân, phủ Anh Đô. Khi gặp Đinh Bộ Lĩnh, thấy ông tư chất thông minh hơn người. Hỏi về học vấn đều đáp trôi chảy nên đã phong ông làm Giám Nghị Đại Phu. Sau trận đại thắng quân Chiêm, ông lâm bệnh và mất đột ngột tại quê nhà. Nhà thờ họ Nguyễn Bá Lai tại xã Quỳnh Giang - Quỳnh Lưu - Nghệ An. Nguyễn Bá Lai được phong là Bình Ngô Khai Quốc Bảo chính công thần, hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn khi vây hãm thành Thăng Long, vua Lê truy tặng là Thái Phó Thuần quận công, dân làng Cao Hậu Đông lập đền thờ. Nhà thờ này làm theo kiểu chữ nhị. Hậu cung ba gian, gian giữ thờ Quan Thái phó Thuần quận công và các con cháu Bái Dương hầu. Hai gian bên thờ các bà chúa, con gái của Nguyễn Bá Lai. Tiền đường 3 gian cách hậu cung 1 sân hẹp. Nhà thờ họ cụ Nguyễn Bá Lai trước đây đều có câu đối nói lên công tích của Cụ đối với dân làng trong việc mở mang làng Đăng Cao cũ cả thôn Đồng và thôn Đoài: “Quỳ Câu thác tích nguyên lưu viễn Vin lĩnh khai cơ cổ chí kim” Nguyễn Sư Hồi, tên lúc nhỏ là Nguyễn Đình Khôi, con trai trưởng của Thái sư Cương Quốc công Nguyễn Xý, sinh ngày 26/5/1444 - mất ngày 21/5/1506. Nguyễn Sư Hồi mất, triều đình cho mai táng ông tại Lùm Cò, gần đồn tiền tiêu Cửa Xá, tôn là Bản cảnh Thành hoàng và cho lập đền thờ ở làng Vạn Lộc, để nhân dân nhớ ơn, quanh năm thờ cúng. Các triều vua đều có sắc phong cho thần Bản cảnh Thành hoàng Nguyễn Sư Hồi. Đền có 3 tòa: Thượng, trung, hạ điện, nằm trên mặt bằng có diện tích 270 m2. Trong khuôn viên này còn có đền thờ 3 cha con Quận công họ Nguyễn, với bia đá 4 cạnh dựng thời Lê Trung hưng; có bia ghi công của danh y Phạm Đức Dụ; có mộ cá Ông và một số cây bàng cổ thụ hàng trăm năm, mặt trước cột nanh hoa biểu có ghi đôi câu đối Nôm: Chi biển Long giang, muôn dặm phong lôi lừng Xá Hải Đề tên thanh sử, nghìn năm hương hỏa rạng Lô Sơn Mặt sau có ghi câu đối: Tiền Gấm thủy, hậu Lô sơn, vạn cổ lý nhân văn vật địa Đông Xá hải, tây Tượng phục, thiên thu miếu vũ đức linh thanh Trung điện có thờ hai vị Thành Hoàng (Đông vị chính thần và Tây vị chính thần) và các vị Chánh Ngự y Phạm Đức Dụ, ba cha con quận công họ Nguyễn. Ở tòa này có câu đối: Khai cơ lập ấp lưu đại đức Phù bang bình tặc hiến anh linh Thượng điện, trên khám thờ có đặt hai long ngai thờ hai vị chính thần của đền. Gian bên trái thờ Chiêu Trưng vương Lê Khôi. Gian bên phải thờ Thái úy Quận công Nguyễn Sư Hồi. Đền Diên Nhất ở phường Nghi Hương, thị xã Cửa Lò thờ Hoàng hậu Hoàng Thị Lê và phối thờ các vị thần phật: Thành hoàng đức Bảo Cảnh Nguyễn Công Chính; Dương Cảnh Thành hoàng Lý Vực; Trung tín chính trực Trung đẳng thần; Tam tòa Thánh mẫu và 5 vị Tiên ông. Phường Nghi Hương, phía Bắc giáp P. Nghi Thu, phía Nam giáp P. Nghi Hòa, phía Tây giáp xã Nghi Thạch (huyện Nghi Lộc), phía Đông là bãi tắm Cửa Lò, trước Cách mạng tháng 8 thuộc xã Hiếu Hạp, tổng Thượng Xá, huyện Nghi Lộc. Bà Hoàng Thị Lê ở Văn Trung lúc còn trẻ là một cô gái vừa xinh đẹp, vừa giỏi giang việc nội trợ. Bà đã lọt vào mắt của vua Lê Chân Tông trong một lần nhà vua hành quân đi đánh chúa Nguyễn, dừng nghỉ chân ở bãi biển Cửa Lò và trở thành hoàng hậu của vua Lê Chân Tông (1643-1649). Sau khi nhà vua mất, bà về quê tổ chức giúp dân mở mang, phát triển nghề đi biển và nông trang, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải...Sau khi mất (1690), bà được dân tôn thờ tại đền Diên Nhất (Văn Trung), mặt trước cổng chính của đền có ghi đôi câu đối cổ: “Thượng Cầu Ngã, Hạ Bồi Mao, chiếu chỉ Lê Triều sáng nghiệp Bắc Lan Châu, Nam Lập Thạch, thần dân Đông Bái yên cư” Các câu đối khác: “Nghi trượng bảo lưu linh tự cổ Miếu từ tu tạo hiển như sơ” Tạm dịch nghĩa: Nghi trượng còn bảo lưu được dấu thiêng từ xưa Đền miếu tu tạo lại hiển linh như buổi đầu Và: “Cổ kim hữu đức năng tỷ phúc Thượng hạ vô tư khả đạt thiên” Tạm dịch: Xưa nay có nhân đức mới được hưởng nhiều phúc Trên dưới nếu vô tư sẽ cầu thấu tới trời Hoặc: “Thần chi vi đức kỳ thịnh Dân giả trực đạo nhi hành” Tạm dịch: Thần là làm đức nên phát thịnh Dân theo đường thẳng mà cùng đi Ðặng Hiệt (1730 - 1777), người thôn Văn Liêu, xã Uy Viễn, người thôn Văn Liêu, xã Uy Viễn. Ðặng Hiệt tên chữ là Sỹ Hàn, hiệu là Bác Ái Ðường. Khoa thi năm Quý Dậu (1753) đời Cảnh Hưng thi đỗ Tam trường, được bổ chức Tri châu Kỳ Sơn (Nghệ An). Dưới triều vua Cảnh Hưng, Ðặng Hiệt giữ chức Minh Nghị tướng quân táo trung tước đội thuỷ ngân, Tổng Binh sứ thăng làm Tổng Binh đồng trị, phong hàm Anh liệt tướng quân, tước Thái Nhạc hầu. Tiếp đó lại được thăng chức Ðô chỉ huy sứ tước Thái Nhạc quận công, giữ chức Tổng binh trấn thủ Nghệ An kiêm đốc vận quân lương cho chúa Trịnh đi đánh dẹp chúa Nguyễn ở Thuận Hoá. Ðặng Hiệt mất đột ngột tại nhiệm sở Vĩnh Doanh khi mới 47 tuổi. Hiện nay tại từ đường Thái Nhạc quận công ở xã Tiên Điền huyện Nghi Xuân tỉnh Nghệ An có câu đối ngoài cổng: Xa Tứ đình lư tri tổ đức Y quan môn hộ kiến tôn công Mặt tiền từ đường: trên cùng có 3 chữ Hán: \"Nam Dương Quận” và phía dưới có 3 câu đối: Sơn Vi Chương Ðức cựu môn phong Hồng Lĩnh Lam Giang tân địa quyết Phụ quốc huân danh thùy trúc bạch Yên nhưng tích tự bá hà sơn Võ lược anh huy sinh thụ tướng Văn khoa bảng giáp tử tôn thần Bên trong có câu đối: Tước long triều trụ thiên ân đại Cảnh đối Hồng Sơn địa vọng cao Mẹ vua Mai Thúc Loan người huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh) lưu lạc đến vùng rú Dẻ (xã Nam Thái ngày nay), hằng ngày kiếm củi hái rau sinh sống và sinh ra người con trai duy nhất. Khi bà mất, người con được dân làng cưu mang, lớn lên thành một thanh niên khỏe mạnh, vạm vỡ, trở thành Mai Hắc Đế sau này. Khu mộ của bà được xây dựng ngay trên đỉnh rú Dẻ, rất thiêng. Hai câu đối ở 2 cột trong đền thờ: 天祿梅林為舊貫 Thiên Lộc Mai Lâm vi cựu quán (Thiên Lộc: tên cũ của huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Mai Lâm: làng Mai Lâm xã Mai Phụ thuộc huyện Thiên Lộc xưa kia, nay thuộc huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Vi: là. Cựu quán: quê quán cũ, quê hương cũ. “Thiên Lộc Mai Lâm vi cựu quán” nghĩa là: “Làng Mai Lâm huyện Thiên Lộc xưa kia là quê hương cũ, quê hương gốc gác ban đầu (của thân mẫu vua Mai và vua Mai)” 東烈玉澄是新鄉 Đông Liệt Ngọc Trừng thị tân hương (Đông Liệt: xã Đông Liệt ngày xưa, nay là xã Nam Thái, huyện Nam Đàn. Ngọc Trừng là thôn Ngọc Trừng ngày xưa, nay là xóm 1 xã Nam Thái, huyện Nam Đàn. Thị: là. Tân hương: quê hương mới, quê hương thứ hai. “Đông Liệt Ngọc Trừng thị tân hương” nghĩa là “Thôn Ngọc Trừng xã Đông Liệt là quê hương mới, quê hương thứ 2 (của thân mẫu vua Mai và vua Mai)” Về nội dung, hai câu đối này đã giúp cho nhiều người biết và nhớ được rằng mẹ của vua Mai đã rời quê hương bản quán từ huyện Thiên Lộc (Can Lộc) tỉnh Hà Tĩnh đến huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An để làm ăn sinh sống trên quê hương thứ hai. Từ đó suy ra, chúng ta biết được rằng một số tinh hoa ở tỉnh Hà Tĩnh đã kết hợp với một số tinh hoa ở Nghệ An rồi sinh ra một nhân tài lỗi lạc từ trong một gia đình nông dân nghèo khổ cách đây 13 thế kỷ Hai câu đối ở hai cột quyết phía trước đền thờ: 小時滅虎為母報深讎 Tiểu thời diệt hổ, vị mẫu báo thâm thù (Tiểu thời: khi còn nhỏ bé. Vị: vì. Vị mẫu: vì mẹ. Báo: báo thù, trả thù. Thâm thù: mối thù sâu nặng. “Tiểu thời diệt hổ, vị mẫu báo thâm thù” nghĩa là “Khi còn nhỏ bé Mai Thúc Loan đã diệt hổ để báo mối thù sâu nặng cho mẹ”) 大時平賊為民除大辱 Đại thời bình tặc, vị dân trừ đại nhục (Đại thời: khi khôn lớn. Bình tặc: dẹp giặc, đánh giặc. Vị dân: vì nhân dân. Trừ: trừ khử, tiêu trừ. Đại nhục: nỗi nhục lớn. “Đại thời bình tặc, vị dân trừ đại nhục” nghĩa là “Khi khôn lớn (Mai Thúc Loan) đã lãnh đạo nhân dân ta đánh giặc Đường, trừ bỏ được nỗi nhục lớn cho dân tộc”) Mai Thúc Loan mới lên 10 tuổi thì mẹ ông chẳng may bị hổ vồ, cậu bé đã dũng cảm xông tới chém con hổ bị thương nặng, rồi sau đó diệt được nó. Qua sự kiện này, chúng ta thấy rằng khi còn nhỏ, Mai Thúc Loan đã vô cùng dũng cảm và hiếu thảo, trả được mối thù sâu nặng, cho mẹ yên lòng nơi suối vàng. Vế thứ hai đã ca ngợi và ghi nhớ công lao to lớn của vị anh hùng dân tộc vĩ đại Mai Đại Đế trong sự nghiệp đánh giặc Đường, rửa được nỗi nhục nhã to lớn cho dân tộc, lập nên triều đại nhà Mai oanh liệt trong gần 10 năm Đền thờ Mai Hắc Đế ở khu vực Ngọc Đái Sơn, trước thuộc làng Hương Lãm, tổng Nộn Liễu, nay là thị trấn Sa Nam. Đây là ngôi đền cổ uy nghi và nổi tiếng linh thiêng mà ngày xưa được coi là tổng hành dinh cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan. Khi vua xưng đế, lập quốc hiệu Vạn An thì nơi đây được coi là quốc đô. Trong đó có câu đối nổi tiếng liên quan đến lòng dân ngày ấy: Một dạ như cha con cầm tay mà đánh giặc Ngàn năm tựa vua tôi, sát cánh để lên trời Nguyễn Trường Tộ (1828 – 1871) còn được gọi là Thầy Lân, sinh tại làng Bùi Chu, thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Năm 27 tuổi, ông được giám mục Gauthier đưa vào chủng viện Tân ấp thuộc xứ đạo Xã Đoài để dạy chữ Hán cho giám mục, và được giám mục dạy lại cho chữ Pháp cũng như kiến thức khoa học châu Âu. Năm 1858, giám mục Gauthier đưa Nguyễn Trường Tộ sang Pháp để tạo điều kiện học tập, nâng cao kiến thức nhiều mặt. Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về Tổ quốc, Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ đã vượt hẳn lên trên tầm thời đại giữa thế kỷ 19 ở Việt Nam. Ông chết âm thầm ở làng quê Bùi Chu ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức thứ 24, tức 23 tháng 11 năm 1871. Bia đá ghi chép tiểu sử của Nguyễn Trường Tộ và lăng của ông được làm vào năm 1943 ở xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên. Ở bia đá ghi chép tiểu sử của Nguyễn Trường Tộ có hai câu đối bằng chữ Hán như sau: 忠 君 正 策 光 前 史 愛 國 精 神 起 後 人 Trung quân chính sách quang tiền sử Ái quốc tinh thần khởi hậu nhân Giải nghĩa từng từ như sau: 忠: trung thành, 君: vua; 忠 君: trung thành với vua; 正: chính xác, đúng đắn; 策: sách lược, mưu kế; 正 策: sách lược đúng đắn, mưu kế đúng đắn; 光: sáng ngời, 前 史: thời kỳ lịch sử trước kia; 愛 國: yêu nước; 愛 國 精 神: tinh thần yêu nước; 起: cổ vũ, khích lệ; 後 人: các thế hệ sau, các lớp người sau. Nghĩa của cả 2 câu này là: “Những sách lược đúng đắn, trung thành với vua (do ông Nguyễn Trường Tộ nêu ra) đã sáng ngời trong thời kỳ lịch sử trước kia (tức là thời kỳ ông Nguyễn Trường Tộ sống ở thế kỷ XIX). Tinh thần yêu nước (của ông Nguyễn Trường Tộ) đã cổ vũ các thế hệ sau ông”. Hai câu đối chữ Hán ở lăng Nguyễn Trường Tộ như sau: 一 失 足 成 千 古 恨 再 回 頭 是 百 年 基 Nhất thất túc thành thiên cổ hận Tái hồi đầu thị bách niên cơ Dịch nghĩa: “Một lần không thành công, để hận cho mãi mãi. Quay đầu nhìn trở lại, cơ đồ mất trăm năm”. Câu này vó nguồn gốc từ 1 điển cố Trung Hoa như sau: ông Dương Nghi đời nhà Minh đã dẫn 2 câu thơ của ông Dần đậu giải nguyên đời nhà Đường như sau: 一 失 腳 成 千 古 笑 再 回 頭 是 百 年 人 Nhất thất cước thành thiên cổ tiếu Tái hồi đầu thị bách niên nhân Nghĩa là “vừa lỡ bước, phạm sai lầm nên (mình) đã gây nên một trò cười muôn thuở (cho mọi người). Ngoái đầu lại (nhìn) thì (mình) đã là một người trăm tuổi”. Người trăm tuổi tức là người già hom hem, cuộc đời tàn lụi rồi, không còn gì nữa. Hai câu thơ trên lưu hành rộng rãi, trở thành 2 câu thơ dân gian, ít người biết tác giả của nó là ai. Nhân dân Trung Quốc sửa lại hai câu thơ trên như sau: 一 失 足 成 千 古 恨 再 回 頭 是 百 年 人 Nhất thất túc thành thiên cổ hận Tái hồi đầu thị bách niên nhân Giải nghĩa từng từ như sau: 一: vừa mới, 失 足: lỡ bước, phạm sai lầm, 成: trở thành, gây nên; 千 古: mãi mãi, muôn thuở; 恨: nỗi hối hận (danh từ); 再: lại, 回 頭: quay đầu, ngoái đầu nhìn, 是: là. Nghĩa của hai câu là “Vừa mới lỡ bước, phạm sai lầm mà (mình) đã tự gây nên sự hối hận mãi mãi. Quay đầu lại nhìn thì (mình) đã là người trăm tuổi rồi”. Tôi xin nói thêm để một số độc giả biết như sau: 腳 (cước) và 足 (túc) đều có nghĩa là cái chân để đi, để chạy, để nhảy của người và động vật. Vì thế, 失 腳 (thất cước) cũng đồng nghĩa với 失 足 (thất túc), nghĩa là lỡ bước, phạm sai lầm. Chữ 腳 và 足 đều là danh từ và đều là thành trắc như nhau. 笑 (tiếu) và 恨 (hận) cũng đều là danh từ và đều là thanh trắc như nhau. Thế là chúng ta thấy rằng Từ điển Từ Nguyên của Trung Quốc giải thích thật sáng sủa và dễ hiểu. Đền Bạch Mã nằm trên địa bàn thôn Tân Hà xã Võ liệt huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An, cạnh đường Hồ Chí Minh về quê Bác, cách cầu Rộ về phía Tây khoảng 3km. Theo truyền thuyết và đền phả thì Đền Bạch Mã được lập để thờ danh tướng Phan Đà người thôn Chi Linh xã Võ Lỉệt, một trong những người đã có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh ở thế kỷ 15. Phía trước cổng được đắp hình 2 voi chiến và 2 quản voi, hai bên mặt đối diện cột nanh ghi 2 câu đối được dịch là: “Trời rung đất chuyển công lao vĩ đại, triều đình khen thưởng khí sắc phong. Nước biếc non xanh, chuông thật linh thiêng, vũ trụ khua vang yên cảnh phúc” Một câu đối khác có nội dung như sau: Phù quốc lộ ư La Thành, vạn cổ uy thanh truyền mã tích Ngật tôn từ vu giang tứ, thiên thu vượng khí trấn Long Biên Tạm dịch: Giúp nước thịnh ở La Thành, muôn thuở uy danh truyền dấu ngựa Bến sông nước, nghìn năm vượng khí giữ Long Biên Đền Thánh Hoàng Mười được xây dựng dưới Triều vua Lê Thần Tông, niên hiệu Đức Long (năm 1634). Đây là ngôi đền nổi tiếng ở Nghệ An thờ đạo Mẫu Tứ phủ, vị thần được thờ chính là ông Hoàng Mười. Đức Thánh Hoàng Mười là con trai thứ mười của vua Thần Long Bát Hải Đại Vương và Đệ Nhất Thánh Mẫu Tiên Thiên Công chúa ở hồ Động Đình. Bát Hải Đại Vương vốn là Thiên Quan Đào Nguyên, vậy Hoàng mười là Hoàng tử thứ mười của Thiên Quan Đại Vương Bát Hải. Tương truyền rằng, ông là một vị tướng có công trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, ông hy sinh trong trận Âm Công đánh vào thành Lục Niên, Âm Công là một trận voi giã chiến, thuyền giả, ngài kéo quân đánh tập hậu làm quân Minh kinh hồn bạt vía. Ngài bị thương nặng chỉ kịp phi ngựa về đến quê nhà thì mất. Chính môn, với đôi cột quyết cao, trên mỗi đỉnh có hình con nghê ngước lên trời thẳm. Hai mặt ngoảnh ra đường khắc hai câu đối: Lê triều hiển hách Trung lương tướng Nam Quốc phương danh Thượng đẳng thần Tả, Hữu cũng là những chiếc cổng thấp hơn nhưng vẫn đường bệ với hàng hiên uy nghi ôm giữ lấy bức tạc môn có voi chầu, hổ phục với đôi câu đối: Linh khí tại thiên, danh tại sử Huân công ư quốc, đức ư dân Từ đó đi vào ta gặp Tả vu, Hữu vu; Lầu cô, Lầu cậu. Rồi bước dần lên Hạ điện, Trung điện và Thượng điện. Khu vực nào cũng được chạm trổ mỹ thuật, sơn son, thiếp vàng. Đôi câu đối ở hàng hiên của Hạ điện: Cao sơn hải hoạt sinh thành đức Nghĩa cửu, thiên trường hiếu kính tâm Đôi câu đối phía trong của tòa thờ này: Đế thích Long Vương khai thái vận Thiên sinh thần vũ dực hồng đồ Phủ thờ Trần Đăng Dinh, trước Cách mạng tháng Tám 1945, nằm ở thôn Phúc Thọ, tổng Quan Hóa, phủ Diễn Châu, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An. Sau năm 1945, đền thuộc vùng đất của xã Giai lạc, huyện Yên Thành. Từ năm 1953 xã Giai Lạc chia thành ba xã Đồng Thành, Phúc Thành và Hậu Thành, di tích thuộc xã Phúc Thành, huyện Yên Thành và tồn tại cho đến ngày nay. Trần Đăng Dinh (1691 - 1620) húy Càn, tự là Cương Nghị, còn tên gọi khác là Doanh Doanh. Trần Đăng Dinh là vị tướng có công đánh giặc an dân, chiêu dân, lập làng, mở chợ. Ông được người đời coi là \"Liêm dũng tử\", vị phúc thần và được nhiều làng lập đền thờ nhưng đền thờ chính được đặt ở làng Nam Sơn, xã Phúc Thành ngày nay. Trên các thân trụ đều được khắc câu đối với nội dung nhắc lại công đức của các vị thần được thờ trong đền: “ Nhật nguyệt chiếu tiền quang” “Sơn hà thùy hậu dụ” “Danh phù quốc trụ quang tiền sử” “Kiến lập cư dân thế hữu từ” Lê khôi, thụy là Võ Mục, con ông Lê Trừ là anh thứ hai của Lê Lợi. Lê Khôi làm quan 3 triều (Lê Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông) lên tới chức Khâm sai Tiết chế thủy lục như Dinh, Hộ vệ Thượng tướng quân. Năm 1446, ông phụng mệnh vua Nhân Tông đi đánh Chiêm Thành ở châu Thuận Hóa. Trên đườngvề, đoàn chiến thuyền đến chân núi Long Ngâm của dãy Nam Giới thì ông mất. Nhà vua cho lập đền thờ, phong tặng “ Chiêu Trưng Đại Vương”. Ở Hạ điện có đôi câu đối: Thượng đẳng hiển anh linh thiên hạ huyền công bang hải đạo Quốc triều long tự tải nhân bằng thịnh đức phát tài nguyên Lăng mộ của Đại vương ở phía sau thượng điện, không cao to, đồ sộ nhưng trang trọng, uy nghiêm. Sau hương án là lối vào có hai hổ chầu hai bên. Ở hai cột nanh có khắc đôi câu đối: “Yên chức hào kiệt Chiến tích anh hùng” Đền Chiêu Trưng Đại vương trầm mặc, thấp thoáng trong rừng xanh để quanh năm ngắm non trông bể, lắng nghe âm thanh của tạo hóa, hòa âm của sóng biển với gió rừng. Đúng như câu đối khắc ở đền vọng làng Dương Luật: Vạn cổ thanh danh tùy bất hủ Tam triều lãm vọng lẫm như sinh Dịch nghĩa: Tiếng tăm, công đức của Người mãi trường tồn Ba triều vua ngóng trong vẻ lẫm liệt oai hùng như Người còn đó Thượng thư Nguyễn Bá Lân (1700 - 1785) quê làng Cổ Đô, phủ Tiên Phong, trấn Sơn Tây (nay là thôn Cổ Đô, xã Cổ Đô, huyện Ba Vì, TP Hà Nội). Ông là người văn võ kiêm toàn, nhiều lần được chúa Trịnh cử đi trị loạn...đặc biệt, ông có công lớn trong đợt trấn ải ở biên cương Cao Bằng. Năm 1760, nhân dân Cao Bằng đã làm một bức trướng gấm vẽ hoa rồng để mừng Cụ và một bức trướng văn gửi lên chúa với tiêu đề: \"Cao Bằng đất khách hạ trướng văn\". Nhà thờ Nguyễn Bá Lân nằm trong khu dân cư thôn 11 xã Cổ Đạm huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh. Hiện có đôi câu đối nội dung như sau: Muôn đời hương khói làng có minh đình nhà có miếu Chín bệ ban ơn rạng rỡ từ họ Nguyễn gốc đời Lê Phía trên cao gian giữa tường sau hạ điện treo bức đại tự gồm 3 chữ Hán: Đức – Lưu – Quang (Đức dáng chảy mãi), phía dưới treo bức cửa võng thêu rồng và đôi câu đối chữ Hán: 祖功宗德千年盛 Tổ công tông đức thiên niên thịnh (Tổ tiên công đức ngàn năm thịnh) 子孝孫賢萬代榮 Tử hiếu tôn hiền vạn đại vinh (Con cháu hiếu hiền muôn thuở vinh) Giữa cửa chính lên trung điện đặt hương án gỗ và lư hương, hạc thờ. Hạ điện và trung điện cách nhau 1,60m được che bởi mái tôn cuốn vòm để sử dụng không gian hành lang. Trung điện có 3 gian rộng 25m2, kết cấu vì kèo và bố trí gian theo kiểu hạ điện nhưng kích thước có nhỏ hơn chút ít. Mái lopự ngói âm dương; bờ nóc, bờ chảy đắp kiên cố, giữa bờ nóc đắp hình mặt trời trong vòng tia lửa. Hai trụ giữa khắc đôi câu đối: Dương vũ hùng uy danh bất dẫn Hồi phong linh ứng trạch như tân Nghĩa là: Uy hùng vũ dũng danh còn mãi Oai phong đã ứng trạch như mới. Hai trụ gian bên khắc câu đối: Thiên thu vĩnh điện cương thường trụ Nhất tự vinh đàn cáo mệnh hoa Nghĩa là: Ngàn thu bền vững cội cương thường Một chữ vua ban cũng là hoa đẹp Thượng điện là nơi thờ cao nhất nên được tập trung bố trí cẩn trọng. Nơi cao nhất gian giữa đặt 2 giá ngai trong khảm gỗ lồng kính thờ Nguyễn Bá Lân và thủy tổ Nguyễn Biến. Đặc biệt trước bàn thờ gian trong treo đôi câu đối chữ Hán: Tổ đức tôn công lai dã viễn Xuân thường thu tự phụng duy tư Nghĩa là: Công đức tiên tổ đến nay đã xa Xuân thu thường kỳ phụng thờ ghi nhớ. Gian ngoài treo đôi câu đối chữ Hán: Thế phả tương truyền Nguyễn gia đệ tam phái Tổ tôn hợp tự Bảo Đại kỷ nguyên niên Nghĩa là: Thế phả tương truyền họ Nguyễn chi ba Tổ tôn hợp tự Bảo Đại năm đầu. Đặng Hữu Cán sinh năm Mậu Ngọ 1738, con một vị quan quê vùng Vân Tán (Da Dù) Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Ông gia nhập quân đội nhà Lê giữ chức Chánh suất đội và phụ trách nhiều đội quân nên gọi là Chánh suất đội trưởng. Nhà Lê suy yếu, Ông đưa quân lính tìm đến nghĩa quân Tây Sơn. Đặng Hữu Cán được Bắc Bình Vương - Nguyễn Huệ cử đi trấn ải ở bờ Nam sông Lam-Hà Tĩnh. Trong chiến dịch tiêu diệt 29 vạn quân Thanh xâm lược (1789), Đặng Hữu Cán đã góp phần đáng kể trong việc giúp Quang Trung - Nguyễn Huệ tuyển mộ thêm được hàng vạn binh sĩ ở Nghệ An, góp phần vào thắng lợi cuối cùng. Năm 1802, Đặng Hữu Cán bị bệnh mất tại Phú Xuân, tại đền thờ Đặng Hữu Cán ở xã Thạch Tiến huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh còn giữ câu đối được khắc trên 2 tấm gỗ sơn son thếp vàng, nội dung: Tổ khảo thiên thần thiên cổ tụy Xuân thu thường tự ức niên tân. Tạm dịch: Tinh thần của ông cha ngàn đời nhóm tại đây Cúng tế hai mùa Xuân Thu muôn năm vẫn cứ làm mãi. Miếu Biện Sơn Còn goi là miếu bà Chúa Sơn, một trong Tam toà Thánh mẫu. Tại xóm Biện Sơn, làng Thượng Yến, xã Hồng Lộc, huyện Can Lộc. Thời Hậu Lê (Thế kỷ XVI) được sắc phong Thượng đẳng thần. Hai cột trụ trước miếu đắp câu đối nội dung như sau: “Tướng nữ thần cung giai phát tích Biện Sơn cung ứng mạch tăng uy” Câu đối của Lệ Sơn phần lớn được sáng tác dành để thờ ở các công trình kiến trúc văn hóa của làng và các họ, những câu đối này chính là những thông điệp mà các thế hệ tiền nhân nhắn gửi lại cho lớp hậu thế của Lệ Sơn. Những câu đối này do 1 bô lão cự phách của làng là Nhà Nghiên Cứu Hán Nôm Lê Doạn (sinh 1920) cung cấp: Câu đối tại miếu thờ Ngài Sơ tổ Lê tộc đại tôn: Sơn hà phong cảnh đại quan (Sông núi, phong cảnh Lệ Sơn thể hiện tầm nhìn rộng lớn) Lễ nhạc y quan sở túy (Làng có nghi thức lễ nhạc, y phục đẹp: muốn nói phong tục tập quán thể hiện tính văn hóa cao) Cư tiên bát đại tính (Họ Lê định cư ở Lệ Sơn sớm nhất trong số 8 họ lớn của làng) Vi thủ tứ danh hương (Lệ Sơn là làng đứng đầu trong số 4 làng văn vật của phủ Quảng Trạch) Vạn thế sinh nhân tổ (Hàng vạn thế hệ con cháu được tổ tiên sinh ra) Ức niên bản thổ thần (Ngài Sơ tổ được tôn thờ làm thổ thần của Lệ Sơn đã hàng trăm năm) Câu đối tại miếu thờ Ngài Thủy tổ Lê tộc đại tôn: Thần sơn ngật ngật đề phong tráng (Núi Thần Vì (99 chóp) thẳng đứng trước gói bão nhờ có chân vững chãi, hùng mạnh) Sinh thủy nguyên nguyên phái dẫn trường (Rào Nước Mội do nước khắp nơi tụ hội về nên không bao giờ cạn) Rào mước mội là một con suối nước chảy ra từ trong lòng núi đá vôi ra một hang đá chỉ đủ một người nằm rồi chảy ra một cánh đồng tạo thành một bàu nước ngọt. Do nước chảy từ trong núi đá ra nên khi chảy ra hang đá thì nước trọng sạch và mát lạnh Nhiệt độ của nước về mùa hè chỉ vào khoàng 18-20 độ C. Nhờ dòng nước mát lạnh này Rào Nước mội trở thành một nhà tắm lý tưởng của làng Lệ Sơn giữa ngày hè oi bức. Rào có thể khai thác để làm nơi tham quan và du lịch tắm nước mát lạnh trong lành kết hợp với leo núi và câu cá. Sơ sinh nhân sỹ đội nông canh bất ngoại (Con người lúc ban đầu phải lấy việc học tập và sản xuất nông nghiệp để tồn tại không gì ngoài 2 vấn đề điều này) Cứu yên trạch cao khoa hiển hoạn kỳ trung (Nghiên cứu để giữ yên mồ mả sẽ giúp con cháu đỗ đạt cao, làm quan to đều là ở trong đó cả) Nhân xuất sơ, thủy lục lam sơn chung thụy khí (Tài trí người Lệ Sơn trước hết là nhờ khí thiêng sông núi chung đúc nên) Thiên tác thỉ, Linh nam Thần bắc triển hồng cơ (Trời sinh ra vùng đất phía Nam sông Gianh (Linh giang), phía bắc núi Thần Vì phát triển từ đời Hồng Đức) Triệu bồi đức hợp Càn Khôn đạt (Việc xây dựng làng Lệ Sơn là phù hợp với đạo lý của Trời, Đất) Khai tịch nhân tồn vũ trụ gian (Khai canh lập ấp nên làng xóm cho con người sinh sống là để tình thương yêu bao la cho hậu thế) Câu đối tại miếu thờ Trần tộc đại tôn: Hồng Đức khai canh tổ (Thủy tổ là đấng khai canh thời Hồng Đức) Duy Tân dực bảo thần (Đến đời vua Duy Tân được phong “Dực bảo trung hưng linh phù chi thần”) Như vậy, cặp câu đối này ca ngợi Thủy tổ họ Trần - Cố Trần Cảnh Hựu là người tham dự việc khai canh làng Lệ Sơn; đến đời vua Duy Tân được sắc phong thần. Phái hệ ức niên, tiên lĩnh cổ (Một dòng họ lâu đời tốt đẹp) Phạm mô thiên tải bút phong cao (Một nhà sư phạm mẫu mực có văn chương cao siêu) Câu đối này nhằm ca ngợi cố Trần Cảnh Huống - Sơ tổ họ Trần là một thầy giáo từng giữ chức Thái học mô phạm đường quan là người học rộng văn chương uyên bác. Tiếp mạch Thần sơn Tiên chỉ cựu (Nhà thờ tổ họ Trần ở vị trí tiếp được mạch núi Thần Vì nên Trần tộc có người làm Tiên chỉ làng Lệ Sơn) Án thừa Linh thủy hộ chân tân (Phía tiền án nhà thờ Trần họ có nước sông Gianh giúp khí tốt luôn đổi mới) Tam chi huyết thống lưu trường đại (Ba chi cùng huyết thống do Thủy tổ sinh ra giữ được sự lớn mạnh lâu dài) Nhất bản tồn dư ngũ bách niên (Từ một gốc sinh ra mà cả dòng họ đã lưu truyền lớn mạnh ở Lệ Sơn trên năm trăm năm) Câu đối rại miếu thờ họ Lương: Nước sông xanh mát bởi nguồn sâu Cành lá xum xuê nhờ gốc vững Chúng ta có thể hiểu rằng: \"con cháu trong họ tộc thành đạt là do công đức tổ tiên. Con cháu phát triển rường rạt là nhờ tổ tiên đã tạo nên gốc rễ vững chắc\". Tiên tổ khai canh ngời hậu thế (Công đức khai canh của thủy tổ sáng ngời mãi với các thế hệ sau) Tử tôn kế nghiệp rạng tiền nhân (Con cháu kế tục được truyền thống làm sáng ngời sự nghiệp của cha ông) Thủy tổ khai canh lập ấp miếu (Ngài thủy tổ có công khai canh lập ấp, dựng tôn miếu) Trung hưng dực bảo linh phù thần (Được Triều đình sắc phong là “Dực bảo trung hưng linh phù chi thần”) Công minh thạch bảng Bảng sơn cao (Phẩm chất công minh cứng rắn cao vời như lèn Bảng) Đức dụ nhân sinh Sinh thủy tú (Người sống có đức thì sẽ sinh được con cháu tốt đẹp) Câu đối ở miếu thờ họ Phan: Công cao thùy vạn cổ (Công lao của tổ tiên cao vời vợi) Đức hậu hiển ức niên (Đức lớn của tổ tiên để lại vinh hiển cho con cháu hàng vạn năm) Tổ tông công đức bách thế bất thiên (Công đức của tổ tiên muôn đời không thay đổi) Tử hiếu tôn từ vạn đại như kiên (Con hiếu cháu hiền vạn đời hưng thịnh) Câu đối tại miếu họ Bùi: Tiên tổ phúc dày lưu hậu thế Cháu con đức sáng rạng tiền nhân Câu đối trên Đình thánh (Văn chỉ thờ Khổng tử) của Lệ Sơn Thượng: Thánh đạo nhật trung thiên hưng giận phi quan Tần dự Hán (Đạo thánh giống như mặt trời lúc 12 giờ trưa tỏa ánh sáng khắp bán cầu) Tư văn vị trụy địa lưu hành hà hãn Á di Âu (Văn minh là của chung lưu hành cả địa cầu không chỉ riêng của Á, Âu) Câu đối của hậu duệ đời thứ 12 của Lê Văn Hành là Lê Bính - người chủ trì việc trùng tu đình làng đầu thế kỷ XX: Khí tác sơn hà công minh chính trực nhi nhất (Núi sông hun đúc nên con người nơi đây cái khí chất công minh chính trực được xếp hàng đầu) Đức hợp thượng hạ cao minh bác hậu vô cương (Từ quan, viên, chức dịch đến đinh tráng, lão hạng; từ trên xuống dưới đồng lòng hòa hợp thì sáng suốt, uyên bác vô biên) Câu đối tại miếu thờ Đức ông Mạnh Linh: Cửu trùng hoa tuấn thiên thân Mệnh (Dưới gầm trời này những người tài giỏi tuấn tú vẫn không thể vượt qua số phận (Thiên mệnh) ý của vế đối này còn muốn nói Đức ông Mệnh Linh qua đời là do số trời định sẵn vì ông “ngộ phải cuồng phong độc vũ”) Giang sơn chung tú địa dị Linh (Đất Lệ Sơn kỳ lạ và linh thiêng bỡi sông núi tươi đẹp. Đất Lệ Sơn linh dị vì sau khi Đức ông qua đời bên lùm cây lập tức được mối đùn đất lên thành một ngôi mộ tự nhiên. Mộ của Đức ông người xưa thường gọi là “mộ thiên táng”. Câu đối này lấy chữ cuối cùng trong mỗi vế ghép lại sẽ được tên của Đức ông là Mạnh Linh) Câu đối do nhà giáo Lê Ngọc Di sáng tác được viết trên cổng chào thôn Phúc tự: Quê hương cẩm tú sinh nhân kiệt Quần chúng cần lao dưỡng anh hùng Câu đối của nhà nghiên cứu Hán - Nôm Lê Doạn: Núi Vải tiềm tàng đầy quả ngọt Vườn Chùa ấp ủ đủ hoa thơm Câu đối của tác giả Đào Nguyên: Vui xuân cùng bè bạn viếng động Chân Linh Đón tết với cháu con thăm chùa Phúc Tự Câu đối của tác giả Lê Hữu Nguyên: Lệ Sơn linh địa truyền muôn thuở Văn Hóa tài nhân nối vạn thời Câu đối của tác giả Lê Bảo: Tiền bối khai canh dựng làng Lệ Sơn văn hiến Hậu sinh kế nghiệp xây xã Văn Hóa anh hùng Làng Cao Lao Hạ thuộc xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ban đầu từ những người di cư lập ấp từ thời Lý, đến thời hậu Lê, đặc biệt sau khi vua Lê Thánh Tông (1470) xuống chiếu mộ dân vào lập ấp ở châu Bố Chính; thì Cao Lao Hạ - Hạ Trạch mới chính thức hình thành. Câu đối thứ nhất: Hướng về phía Bắc: Tức là 2 vế, mặt trước cổng, từ ngoài đi vào Đình, tả phong cảnh trước mặt làng, mỗi vế đối có 11 chữ: 泠 水 外 潮 內 一 河 溪 來 活 水 橫 山 遠 供 近 三 沙 阜 作 平 山 Linh thủy ngoại triều nội nhất hà khê lai hoạt thủy Hoành Sơn viễn cung cận tam sa phụ túc bình sơn Tạm dịch: Ngoài Gianh có nước thủy triều, trong đồng Hói Hạ nước theo nhịp nhàng. Xa xa có dãy núi Hoành, Gần ba động cát tạo thành bình phong. “Linh thủy ngoại triều” nghĩa là bờn ngoài nước thủy triều Linh Giang, “Nội nhất hà khờ” là bờn trong một con húi, “lai hoạt thủy” là nước về vào ra, “Hoành Sơn viễn” Hoành Sơn ở xa, “cung 供” là cung cấp (nếu không có bộ nhân đứng 亻là chữ cộng 共như nhiều người đọc), “cận tam sa phụ” gần 3 cồn cát lớn, “tác bình sơn” là tạo bình phong, “tác” có nghĩa là tạo nên, sáng tác, nếu đọc chữ túc là không đúng, chữ túc (sung túc) viết 足hoặc lưu lại, tá túc viết 宿không phải chữ trên cột Đình “sa” cát, cồn cát, phù sa, “phụ” là gò, động, cồn cũng có nghĩa to lớn. Câu đối này như đoạn phú tả cảnh, nghĩa là: Ngoài thủy triều Linh Giang trong một khe nước chảy vào ra, Xa dãy Hoành Sơn gần 3 cồn cát tạo thành bình phong. Hay ở chỗ chữ thứ hai của câu tả là chữ thủy thì chữ cuối cùng cũng chữ thủy, chữ thứ hai của câu hữu là chữ sơn thì chữ cuối cùng cũng chữ sơn. Khi các cụ viết câu đối này thì chưa có đê như bây giờ, nên đứng ở làng nhìn thấy 3 cồn đất giữa sông Gianh rất rõ là cồn Hác, cồn Soi, cồn Văn Phú thẳng chính giữa minh đường đình làng. Cũng có thể hiểu câu hữu là: Dãy Hoành Sơn ở xa cung cấp 3 dòng phù sa (tam sa) bồi đắp tạo nên cồn Hác làm bình phong trước mặt đình. Minh đường đình làng là nơi tụ thủy, tụ sơn. Câu đối này đã xác định vị trí địa lý của Làng Cao Lao Hạ, phía Bắc tiếp giáp với dòng sông Gianh, ôm lấy làng quê trù phú, phía trước mặt đình có Hói Hạ một con Hói tự nhiên chảy qua cánh đồng phía Bắc Làng. Hói chảy từ Thượng Cầu phía Tây làng chảy về phía Đông của Làng, nối hào xung quanh thành Khu Túc, xuống Sác Biền, ven theo Đồng Phố, Hậu Hà, Đuồi Cùng rồi xuống cửa Hói Hạ, nhập lưu vào sông Gianh, theo thủy triều lên xuống. Ngày xưa thuyền bè từ sông Gianh đi vào Thành Chiêm đi qua hói Hạ, vùng này có địa danh Đồng Phố, chứng tỏ nơi vùng này hai bên Hói Hạ có Phố xá, nhưng do chiến tranh Trịnh Nguyễn nên phố xá không còn. Câu đối vừa tả phong cảnh Đình làng quay về hướng có phong thủy, địa lý rất đẹp, có sông, có núi, có động cát, tạo nên một bề thế vững vàng, sừng sững uy nghi. Câu đối thứ hai: Phía trong lòng 2 trụ cổng đông, tây đối diện, nói lên vị trí dựng đình, nếp sống thuần phong mỹ tục của làng, việc thờ cúng tổ tiên của làng đã lừng danh, 2 vế đối mỗi vế có 11 chữ: 立 示 凖 中 上 下 古 今 開 宇 庙 為 之 標 表 高 清 信 美 艶 江 山 Lập thị chuyển trung thượng hạ cổ kim khai vũ miếu Vi chi triêu biểu cao thanh tín mỹ diệm giang sơn Tạm dịch: Quê hương lừng lẫy danh hiền, thuần phong Mỹ tục vững bền giang sơn. Đình làng dựng giữa quê nhà, xưa nay trên dưới phụng thờ tổ tiên. “Lập” nghĩa là đứng, “thị” là tỏ rõ, đích thị, “chuẩn trung” là chính giữa, thượng hạ cổ kim” là trên dưới xưa nay, “khai vũ miếu” là dựng đình làng. Trong câu này nếu đọc “Lập cá chuyển trung...” tôi thấy không đúng, vì chữ cá 个, hoặc 個 nghĩa là cái, quả, con.., chữ “chuyển” có nghĩa là chuyển đổi, luân chuyển nhưng viết thế này 轉, 転 hoặc 转 không giống nơi cột đình, theo tôi chữ thứ 2 câu này là chữ thị viết theo kiểu dị dạng phồn thể của bộ thị. Có điều tôi không hiểu chữ miếu 庙có bộ nghiễm 广che chữ do 由, nhưng trên cột đình là bộ nạch疒che chữ do, chắc ở đây vì chữ miếu có nghĩa là đình làng khác với miếu thờ bình thường nên viết như vậy. “Vi chi” là làm nên, “tiêu biểu” là sự tiêu biểu, chữ biểu có nghĩa là bên ngoài (đối với chữ trung là ở giữa câu tả), cao-thanh-tín-mỹ-diễm là các tính từ tốt đẹp về tiếng tăm, diễm lệ không có từ nào hay hơn, “giang sơn” là sông núi. Trong bài Văn tế Đình Trung đọc tại đình trong ngày lễ Xuân Thủ đầu năm, đã mời các vị tiền hiền khai khẩn, các vị thành hoàng có công với làng với nước, là những danh Hiền. Ngôi đình làng dựng giữa quê nhà, toàn bộ giàn trò ngôi đình lần này làm bằng gỗ Dạ Hương khai thác tại Lòi Tuần rừng của làng. Cùng với các công trình tâm linh như: 24 nhà thờ Họ, Nghĩa trũng Cồn Cui, các miếu thờ như miếu thờ thần hoàng tướng quân Cần Vương Lê Mô Khải. Các gia đình, các dòng Họ vẫn giữ gìn tục lệ của Ông cha là thờ cúng tiên tổ Ông bà và cha mẹ... Câu đối thứ 3: Hướng phía Nam , tức là 2 mặt trong của 2 cột cổng, từ Đình làng nhìn ra, mỗi vế có 7 chữ, nói lên con đường giàu sang rộng mở, phong cảnh quê hương cầm tú, sinh nhiều danh hiền. 天 開 晟 會 光 強 井 地 出 名 賢 閱 古 今 Thiên khai thạnh hội quang cường thịnh Địa xuất danh hiền duyệt cổ kim Tạm dịch: Trời xanh mở hội mạnh giàu, xóa đói dân giàu văn minh. Đất lành sinh trưởng danh hiền, xưa nay truyền thống cổ truyền sử xanh “Thiên khai” là trời mở, “thịnh” là nhiều, to, rực rỡ, “hội” là hội hè, đô hội, quang là sáng, hào quang, “tỉnh” là cái giếng nhưng hiểu là khu dân cư, còn có nghĩa là ruộng tịch điền vua cày hoặc là ngôi sao Tỉnh một trong 28 vì sao sáng nhất trên trời (nhị thập bát tú). “Địa xuất” là đất sinh, “danh hiền” là người hiền tài,“duyệt” nghĩa là từng trải hoặc xem xét quyết định, “cổ kim” là xưa nay, lịch sử. Câu đối này có tính triết lý cao, như một câu sấm khẳng định nhưng rất khó dịch. Nếu hiểu chữ tỉnh là cái giếng có nghĩa bóng là khu dân cư, làng xã, chữ duyệt có nghĩa là từng trải, nghĩa bóng là thời nào cũng có. Mặc dù một nắng hai sương, khó khăn thiếu thốn, nhưng các bậc tổ tiên vẫn không quên tổ chức vui chơi, lễ hội, để động viên an ủi nhau tạo cho cuộc đời tươi vui, cầu mong yên ổn. Bởi vậy những ngày tết đến xuân về, những ngày lễ hội làng thường tổ chức các Hội thi: Thi thơ tại Đền Văn Thánh, Thi võ tại Đền Thánh Võ, thi chằm nón để văn ôn võ luyện, luyện nghề để chọn người tài. Tổ chức các trò chơi dân gian như: Cướp cù, Bài Chòi, đánh đu, kéo dây..vv . Qua đó để giúp nhau làm giàu, mở mang trí tuệ để có kiến thức đi thi khi triều đình mở khoa thi. Từ thời xa xưa, sống trong tình làng nghĩa xóm, các bậc tiền nhân đã có chủ trương giúp nhau xóa nghèo, xóa đói, xây dựng làng xã đổi mới văn minh. Câu đối thứ 4: Bố trí ở phía Đông, Tây, mặt ngoài của 2 cột trụ cổng, mỗi vế có 9 chữ đối nhau; nội dung ý nói truyền thống tốt đẹp của làng và cầu chúc cho sự bình yên của dân làng. 鄉 积 万 千 年 官 安 民 乐 里 成 二 十 邑 美 俗 纯 風 Hương tích vạn thiên niên quan yên dân lạc Lý Thành nhị thập ấp Mỹ tục thuần phong Tạm dịch: Ngàn năm Cao Hạ thơm hương, quan yên dân lạc quê hương vững bền. Hai mươi xóm của làng ta, thuần phong mỹ tục tiếng đà lừng danh Chữ “hương tích” là quê hương tích tụ, lưu giữ lại, “vạn thiên niên” là 10 triệu năm. Chữ “lý thành” là thành làng xã, “nhị thập ấp” là 20 xóm. Lời ca ngợi nhưng như là câu khấn (cầu khẩn) mong ước cho quan dân của làng mãi mãi bình yên, hưởng lạc, giữ gìn bản sắc, truyền thống của cha ông. Nghĩa Trũng là tên gọi của một nghĩa trang được xây dựng vào năm 1872, Ông Hoàng Hữu Lợi là một Bô lão làng Bích khê - Triệu Long mua một mảnh đất 7 sào của cư dân làng Thạch Hãn, trong đó, ông đã giành riêng 3 sào để lập nghĩa trang và tiến hành cho di dời những mồ mã vô chủ ở bờ sông Thạch Hãn và nhiều nơi khác trong Tỉnh về qui táng. Hoàng Hữu Lợi tự là Hoà Nghĩa, hiệu là Ngu Hồ Tiên Sinh, ông sinh năm Kỷ Tỵ (Gia Long thứ 8), mất năm Bính Tý (Tự Đức thứ 29) là một con người nho học uyên thâm, là thầy dạy hầu hết con cháu trong gia đình mà về sau đều là những tài năng xuất chúng, đỗ đạt cao, đức hạnh tốt đem tiếng thơm cho dòng họ. Tuy nhiên khi chiến tranh nổ ra, những người con trong Hoàng tộc phải tha hương, lánh nạn mưu sinh nên không còn mấy ai nhớ đến nghĩa trang này. Trong đống đổ nát hoang tàn đó, ông Nguyễn Đình Ngữ và Phạm Bá Trai là hai cư dân sinh sống tại làng Thạch Hãn thường xuyên chăm sóc, hương khói tại đền đã tiến hành công tác tái thiết Đàn Nghĩa Trũng và tìm thấy hai câu đối ở 2 cột chính điện có nội dung như sau: “ Ân Đức thiên thu tại Hương yên vạn cổ tồn ” Dịch là: “ Ân đức ngàn thu sẵn Khói hương vạn cổ tồn ” Ở mặt trước nghĩa trang là cổng tam quan với Long, Lân, Quy, Phụng, ở hai cột chánh điện là 2 câu đối : “ Thạch Hãn thơm nguồn đức hạnh Hồng Khê vững trọn nghĩa tình ” Tháng 9.2007, tại Nghĩa Trũng Đàn đã khánh thành một công trình là Cổng tam quan và dãy tường rào bề thế, hai bên cổng tam quan được khắc hai câu đối bằng chữ hán với nội dung như sau: “ Lịch tích thiên thu bằng thử địa Tâm hương nhất niệm tưởng anh hồn ” Làng Văn Quỹ nằm thuộc Xã Hải Tân, Huyện Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị, sông nước hữu tình, là vùng đất địa linh nhân kiệt, Con người ở đây sống chan hòa mến khách Làng có nhiều cảnh đẹp với sông Ô Lâu thơ mông. Đình làng Văn Quỹ có câu đối được đưa vào văn học CỔ HỌC QUẢNG TRỊ: (chú ý khởi đầu câu có chữ VĂN và chữ QUỸ): VĂN CHƯƠNG THIÊN CỔ THƯỜNG TỒN, THIÊN NHẬT NGUYỆT ĐỊA SƠN HÀ, Á VŨ ÂU PHONG NAN HỐI TẮC 文章千古常存天日月地山河亞雨歐風難匯塞 QUỸ PHẠM BÁCH NIÊN BẤT DỊCH, QUỐC QUÂN THẦN GIA PHỤ TỬ, HÁN HƯNG TẦN DIỆT KHỞI LONG Ô 匱範百年不昜國君臣家父子漢興秦滅豈隆汚 TẠM DỊCH: VĂN CHƯƠNG MUÔN THUỞ HÃY CÒN ĐÂY, ĐẤT SÔNG NÚI, TRỜI NGÀY ĐÊM, GIÓ Á MƯA ÂU... KHÔNG LẤP NỔI QUỸ PHẠM TRĂM NĂM ĐÂU ĐỔI ĐƯỢC, NƯỚC VUA TÔI, NHÀ ÔNG CHÁU , SUY TẦN THỊNH HÁN... NHỤC ĐÀNH SAO Câu đối khắc ở chùa Diệu Đức - Huế: Chùa Diệu Đức ở số 29/6/4 đường Điện Biên Phủ, thuộc phường Trường An, thành phố Huế. Chùa do một ban sáng lập gồm các sư bà Diệu Hương, Diệu Không, bà Công Tôn Nữ Thi Bàn, các ông Ưng Bàn, Ưng Uý, Tôn Thất Tùng vào năm 1932. Phần lớn các vị trụ trì các chùa ở miền Trung đều xuất thân từ Diệu Đức. Các sư Thể Yến, Viên Minh đã ra Hà Nội để dạy Phật pháp ở Ni viện Bồ Đề Gia Lâm năm 1942. Sau khi sư bà Diệu Hương viên tịch năm 1971 các sư trụ trì kế tiếp là sư Thể Yến và Diệu Trí. Đăng minh phạm vũ hồi tam giới Nguyệt lãng thiền quan phổ thập phương Câu đối khắc ở chùa Thuyền Tôn - Huế: Chùa Thuyền Tôn là một tổ đình lớn ở Huế, lúc đầu chỉ là một am tu của ngài Liễu Quán được dựng vào khoảng năm 1708 ở núi Thiên Thai, ngày nay thuộc thôn Ngũ Tây, xã Thuỷ An. Trong thế kỷ 20, ngài Giác Nhiên thuộc đời thứ 8 dòng thiền Liễu Quán, là người có công chấn hưng Phật Giáo, đồng sáng lập An Nam Phật Học Hội, Viên Âm Nguyệt San, lập trường đại học Phật Giáo ở chùa Tây Thiên, góp phần đào tạo các vị cao tăng như Thích Trí Thủ, Thích Đôn Hậu, Thích Mật Nguyệt, Thích Mật Hiển, và hai vị từ trong nam về sau trở thành danh tăng là Thích Thiện Hoa và Thích Thiện Hoà. 寶 鐸 長 鳴 不 斷 門 前 流 綠 水 Bảo đạc trường minh, bất đoạn môn tiền lưu lục thủy (Tiếng mõ vang dài, trước cửa không ngừng dòng suối biếc) 法 身 独 露 依 然 坐 裏 看 青 山 Pháp thân độc lộ, y nhiên tọa lý khán thanh sơn (Pháp thân một lối, trong phòng cứ vậy ngắm non xanh) Câu đối ở chùa Trường Xuân - Thuận Hóa: Chùa Trường Xuân ở số 11/11 đường Chi Lăng, gần bến đò chợ Dinh, thuộc Phường Phú Hiệp, thành phố Huế. Thoạt đầu chùa có tên là Kỳ Viên Am. Năm 1804 thời Gia Long, thời ngài Đạo Trung Chánh Định trú trì chùa được Cẩn Thận Hầu Hoàng Văn Cẩn và một số quan khác cúng dường trùng tu và am được gọi là Xuân An Tự. Năm 1909 phật tử đóng góp trùng tu và ngài Phước Hậu, thuộc đời thứ 42 dòng thiền Lâm Tế trụ trì, nhưng sau khi ngài viên tịch không có quí thầy kế tục. Năm 1975 thầy Tịnh Quang về trụ trì và gần đây năm 2001 đã tu sửa thành một kiến trúc mới, nhưng còn giữ lại trên lầu các khám thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thánh Mẫu và Quan Công. Ngọc chất giáng Hoàng cung, thổ thủy cửu long tề mộc dục Kim thân tu Tuyết lĩnh, hàm hoa bách điểu cạnh triều tham Từ câu đối này ta có thể giảng lại toàn thể lịch sử Đức Phật từ khi đản sinh đến khi thành đạo Câu đối khắc ở chùa làng La Chữ: Chùa ở làng La Chữ, được xây dựng từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần (1645-1687). Năm 1942 được Võ Vương Nguyễn Phúc Hoạt ban sắc tứ gọi là Chúc Thánh Đạo Tràng. Chùa được trùng tu năm 1838 dưới thời vua Minh Mạng. Ngoài tượng Phật, chùa còn thờ Quan Vũ, Quan Bình, Châu Xương, và bài vị tướng quân thời Tây Sơn là Võ Văn Dũng và vợ là Lê Thị Vi. Hiện chùa còn giữ được chuông đồng do tướng Võ Văn Dũng và vợ cho đúc để cúng dường. Viễn quan sơn hữu sắc Cận thính thủy vô thanh Câu đối diễn tả cảnh thực: xa xa về phía tây và phía nam là hình thế núi non hiện ra rất nhiều màu sắc, màu đất của đồi núi thấp ở gần; màu xanh đậm cây lá của núi ở xa, màu xanh dương đậm của những chỏm núí ở xa hơn và cao hơn. Lại thêm màu xanh da trời, màu trắng của từng đám mây xa, cao lơ lững... Cảnh đẹp thực khó tả. Bên sau vườn chùa rộng rải, ở dưới chân vùng đất cao có ngôi chùa tọa lạc ấy, lại có dòng nước chảy. Dòng nước nhỏ ôm bọc lấy cuộc đất, nước chảy thường xuyên nhưng lại không nghe tiếng róc rách. Câu đối vận dụng cảnh thực tế, và qua cảnh thực tế của một ngôi chùa mà nói lên bao nhiêu là giáo pháp của Đạo Phật. Các khái niệm “hữu, vô, thanh, sắc” ở đây không bao hàm nội dung có thiên hướng đòi lý giải; mà chúng chỉ cùng ứng với toàn bộ mười chữ của hai vế đối để nói lên cái ở sau văn tự, tức là lối diễn tả “ý tại ngôn ngoại”. Ở đây là muốn diễn tả Thiền đạo, thấy được cái không thấy. Ở xa thì núi có sắc tướng như vậy; nhiều màu khác nhau, hình thù cao thấp uốn lượn khác nhau; tròn, nhọn, lài lài khác nhau; nhưng núi đâu có phải thế! Cho nên người tu đạo Thiền, thấy được cái mà thiên hạ không thấy, tức là cái thực chất của núi; cao hơn là cái Thực của Đạo, của Giải thoát... Nghe được cái không nghe. Nghe tiếng nước róc rách là cái nghe vọng động. Nghe cái không nghe được mới thật là biết nghe. Những câu đối khắc ở chùa Từ Hiếu: Chùa tọa lạc ở thôn Dương Xuân Thượng III, xã Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa ban đầu là am An Dưỡng do Hòa thượng Nhất Định dựng vào năm 1843. Chùa được Vua Tự Đức ban tấm biển \"Sắc tứ Từ Hiếu Tự\". Cổng tam quan xây kiểu vòm cuốn hai tầng có mái, phía trên thờ tượng Hộ Pháp. Bên trong cổng là hồ bán nguyệt thả hoa sen, hoa súng xây năm 1931. Chùa là một ngôi Tổ đình ở Huế. Trước đây, chùa là một trong những nơi ấn hành kinh, luật của Phật giáo. Trong vườn tháp có tháp mộ của những danh tăng Nhất Định, Diệu Giác, Cương Kỷ...Chùa Từ Hiếu là danh lam thắng cảnh xưa nay của đất Thần Kinh (Theo Thư viện Hoa sen) 慈孝錫嘉名勸天下之為父為子 Từ Hiếu tứ gia danh, khuyến thiên hạ chi vi phụ, vi tử (Từ Hiếu tạo tiếng thơm, khuyên thiên hạ tròn đạo hiếu) 楊春成淨土忘斯世之如秋如冬 Dương Xuân thành Tịnh độ, vọng tư thế chi như thu, như đông (Dương Xuân thành cõi Phật, giúp thế gian vẹn cảnh xuân) 移孝為忠得其門而入 Di hiếu vi trung, đắc kỳ môn nhi nhập (Lấy chữ hiếu làm trung vào cửa Phật) 緣慈悟脫于彼岸先登 Duyên từ ngộ thoát, vu bỉ ngạn tiêu đăng (Theo lòng từ ngộ đạo vượt bến mê) 四海名人題古寺 Tứ hải danh nhân đề cổ tự (Danh nhân bốn bể đề cổ tự) 一山風物媚禪深 Nhất sơn phong vật mỵ thiền thâm (Phong cảnh một đồi đẹp thiền môn) 翠竹黃花霑法雨 Thúy trúc hoàng hoa triêm pháp vũ (Trúc biếc hoa vàng mưa pháp gội) 長松細草蔭慈雲 Trường tùng tế thảo ấm từ vân (Tùng cao cỏ thấp mây từ che) 慈孝表徽稱人心世道有關梵宇鐘聲宣大覺 Tứ Hiếu biểu huy xưng, nhân tâm thế đạo, hữu quan Phạm Vũ chung thanh tuyên đại giác (Từ Hiếu dậy danh thơm, đạo đời hòa hợp; Tiếng chuông chùa đưa vào đại giác) 楊春多美景古剎名藍所在如來慧日照中天 Dương Xuân đa mỹ cảnh, cổ sái danh lam, sở tại Như Lai tuệ nhật chiếu trung thiên (Dương Xuân nhiều cảnh đẹp, chùa núi êm đềm; Trí Như Lai chiếu đến trung thiên) 兜率天高京國同佛國 Đâu Suất thiên cao kinh quốc đồng Phật quốc (Đâu suất trời cao, đất vua, đất Phật là một) 上方月出前溪肖後溪 Thượng phương nguyệt xuất tiền khê tiếu hậu khê (Thượng phương trăng tỏ, khe trước, khe sau chẳng hai) 善信有良緣佛恩似海 Thiện tín hữu lương duyên, Phật ân tự hải (Thiện tín có lương duyên, ơn Phật như biển rộng) 孝慈皆福果帝澤如春 Hiếu Từ giai phúc quả, để trạch như xuân (Hiếu từ là quả, lộc vua tựa xuân) 福果自圓成妙覺得聞丞佛力 Phúc quả tự viên thành, diệu giác đắc văn thừa Phật lực (Phúc quả tự tròn đầy, đạo giác diệu kỳ nhờ Phật lực) 善根皆偉應慈航濟渡荷天恩 Thiện căn giai vĩ ứng, từ hàng tế độ hà Thiên ân (Thiện căn đếu ứng nghiệm, thuyền từ tế độ bởi Thiên tôn) 法雨頻施天地蒼生咸霑德澤 慧燈遍照普天世界共沐恩光 “Pháp vũ tần thi, thiên địa phương sinh hàm triêm đức trạch (Mưa pháp thường tuôn, mọi vật đều thấm ơn đức trạch) Tuệ đăng biến chiếu, phổ thiên thế giới cộng mộc ân quang” (Đèn tuệ chiếu khắp, ba ngàn thế giới gội ơn sâu) Phép của Phật luôn được thi hành đối với chúng sinh nên mọi vật đều được hưởng ơn từ đức Phật. Ngọn đèn sáng trí tuệ của Phật đã phá tan tối tăm hắc ám, chiếu sáng khắp cả tam thiên thế giới, khiến cho mọi vật được tắm gội ơn sâu. 石碑只在春山上 金錫授飛樂國中 “Thạch bi chỉ tại xuân sơn thượng Kim tích thụ phi lạc quốc trung.” Dịch nghĩa: Dương Xuân trên núi trồng bia đá Tây Phương trong cõi truyền trượng vàng) Câu đối trên khắc ở tháp hòa thượng Nhất Định Những câu đối khắc tại chùa Linh Mụ: Chùa Thiên Mụ hay còn gọi chùa Linh Mụ tọa lạc trên đồi Hà Khê, bên dòng sông Hương cách trung tâm thành phố 5km về phía tây, bây giờ thuộc xã Hương Long. Chùa được xây theo hình chữ nhất, theo đúng với hướng của kinh thành Phú Xuân, từ bến thuyền với bậc cấp, dẫn lên các bốn trụ biểu, rồi nhiều bậc cấp nữa dẫn lên nền cũ của đình Hương Nguyện, tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm. 開發菩提心而化統萬類 Khai phát bồ đề tâm, nhi hóa thống vạn loại (Mở tâm bồ đề để hóa thông vạn vật) 弘施方便力以覺悟群生 Hoằng thi phương tiện lực, dĩ giác ngộ quần sinh (Làm các phương tiện để giác ngộ chúng sinh) 法雨弘施萬木昆虫沾利益 Pháp vũ hoằng thi, vạn mộc côn trùng triêm lợi ích (Mưa pháp ban hành mọi chốn, cây cỏ, côn trùng hưởng lợi ích) 身雲變滿虛空世界放光明 Thân vân biến mãn, hư không thế giới phóng quang minh (Thân Phật biến hóa khắp nơi, hư không , thế giới tỏa hào quang) 心即佛濟人歸萬善 Tâm tức Phật, tế nhân qui vạn thiện (Tâm tức Phật, cứu người về vạn thiện) 色是空闡教定一心 Sắc tức không, xiển giáo định nhất tâm (Sắc tức không, truyền giáo hướng nhất tâm) 永留勝跡睹碑文而金碧曾暉 Vĩnh lưu thắng tích, đổ bi văn nhi kim bích tăng huy (Thắng tích lưu truyền, thấy văn bia, vàng ngọc sáng láng) 圓滿善緣聽鐘響而寶朱覺悟 Viên mãn thiện duyên, thính chung hưởng nhi bảo châu giác ngộ (Thiện duyên đầy đủ, nghe chuông ngân, châu báu rỡ ràng) Hằng hà sa giới Nam vô Phật Bác nhã kinh văn Cực lạc Thiên Câu đối dán trước Đại giới đàn chùa Thiền Lâm: 釋氏持律,儒者理中,總要修身誠意,自然徑値乎內,義方乎外 君子敕機,禪人習定,同歸見性明心,端由戒慎不覩,恐懼不聞 Thích thị trì luật, Nho giả lý trung, tổng yếu tu thân thành ý, tự nhiên kính trực hồ nội, nghĩa phương hồ ngoại; Quân tử sắc cơ, thiền nhân tập định, đồng quy kiến tánh minh tâm, đoan do giới thận bất đổ, khủng cụ bất văn. Nghĩa: Cửa Phật giới luật nhà Nho trung dung, chỉ cốt thành ý chính tâm, tự nhiên ngoài có nghĩa phương, trong có chánh trực; Quân tử cơ vi, Thiền sư nhập định, đều để minh tâm kiến tánh, bởi vì răn chỗ chẳng thấy, sợ chỗ chẳng nghe. Chùa Linh Quang (靈光寺) tọa lạc trên đỉnh bằng của dốc Bến Ngự, xưa kia gọi là núi Ngũ Bình làng Phú Xuân nay là phường Trường An Tp. Huế. Chùa Linh Quang vốn là do hai chùa Viêm Quang và Linh Giác hợp lại. Viêm Quang nguyên là thảo am của Tăng cang Đoàn Thiện Thụ dựng vào năm 1852. Còn Linh Giác được Thượng thư Bộ Hộ Tôn Thất Dương thành lập năm 1855 thờ tượng Quan Công. Từ ngoài đường Phan Bội Châu, đoạn gần khu lưu niệm nhà yêu nước Phan Bội Châu rẽ sang đường Ấu Triệu chúng ta sẽ bắt gặp tam quan chùa Linh Quang đề hai câu đối: 靈瑞鷄園燈點聰傳門般若 光開鷲嶺月輪明炤地伽藍 Linh thụy Kê Viên đăng điểm thông truyền môn bát nhã Quang khai Thứu Lãnh nguyệt luân minh chiếu địa già lam Dịch nghĩa: Linh thụy Kê Viên đèn sáng dọi truyền cửa Bát Nhã Quang khai Thứu Lãnh trăng tỏ chiếu khắp đất Già Lam Đi chừng 150m, cuối đường Ấu Triệu, chùa Linh Quang hiện ra với vẻ đẹp của một ngôi danh lam cổ tự của chốn thần kinh. Tam quan trong của chùa ghi câu đối: 庭外設三關即俗即真無違此道 藏中開四教於頓於漸在乎當人 Đình ngoại thiết tam quan tức tục tức chân vô vi thử đạo Tạng trung khai tứ giáo ư đốn ư tiệm tại hồ đương nhân Dịch nghĩa: Ngoài sân thiết tam quan, là tục, là chân không trái đạo này Trong kho khai tứ giáo, nơi đốn nơi tiệm chính ở người đây Đền Huyền Trân công chúa nằm trong khuôn viên rộng khoảng 28ha, nằm dưới chân núi Ngũ Phong thuộc P.An Tây, TP. Huế. Địa hình khu đất thoai thoải, kéo dài từ chân núi lên đến đỉnh, có rừng thông xanh mướt, giữa bốn bề là đồi núi trùng điệp. Đứng trên đỉnh núi nhìn xuống, du khách có thể thu vào tầm mắt một khoảng không gian bao la, sơn thủy hữu tình, phía xa xa là TP. Huế bên dòng sông Hương thơ mộng .Giữa không gian bảng lảng của vùng đồi núi Ngũ Phong, đền thờ Huyền Trân công chúa như uy nghiêm và huyền bí hơn với những nét văn hoá kiến trúc tiêu biểu của thời Trần. Trong đền có đôi câu đối nội dung như sau: Ô châu hoang địa biến tác Thuận Hoá Thần Kinh, nhất đới sơn hà cẩm tú. Nhân Tông doãn hứa thành vi đạo, tải quyết sách thiên trùng ân nghĩa khắc minh. Phần tiếng Việt: Ô châu vùng đất hoang biến thành Thuận Hoá Thần Kinh, một dải núi sông gấm vóc, Nhân Tông hứa gả trở nên đạo, tải quyết sách ngàn trùng ân nghĩa khắc ghi. Chuyện kể, vua Chiêm Thành Jaya Simhavarman III (Chế Mân) để cưới được Công chúa Huyền Trân đã đem hai châu Ô, Lý dâng lên vua Trần sính lễ. Vâng mệnh vua cha là Trần Nhân Tông và vua anh Trần Anh Tông, Huyền Trân đã gác tình riêng, gạt lệ xuống thuyền theo chồng, lập mối hòa hiếu và mở mang bờ cõi của đất nước về phương Nam. Đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế cũng được khai sinh từ đó, đến nay đã hơn 700 năm. Để ghi nhớ công ơn của Công chúa Triều đình nhà Nguyễn (1802 - 1945) đã lập miếu Đại Đế Vương ở làng Lịch Đợi, phường Đúc, TP Huế, thờ các vị khai quốc công thần, trong đó có Công chúa Huyền Trân. Những câu đối ở điện Thái Hòa: 厚澤深恩遐夷慕 Hậu trạch thâm ân hà di mộ (Nghĩa cả ơn sâu, xa gần mến) 神功聖德史書垂 Thần công thánh đức sử thư thùy (Thần công thánh đức, sử sách truyền) 霧散陰消清宇宙 Vụ tán âm tiêu thanh vũ trụ (Hết mưa, khí âm tan, trời đất sáng) 雲開日曜麗山河 Vân khai nhật diệu lệ sơn hà (Mây bay, ánh dương rạng, núi sông tươi) 閭閻醇厚民風美 Lư diêm thuần hậu dân phong mỹ (Xóm thôn thuần hậu phong tục đẹp) 天氣溫和室宇春 Thiên khí ôn hòa thất vũ xuân (Khí hậu ôn hòa gia đình vui) 萬物氣和齊發育 Vạn vật khí hòa tề phát dục (Khí hòa, vạn vật phát triển) 九州光備自和勻 Cửu châu quang bị tự hòa quân (Trời sáng, chín châu hòa đồng) 陶功渙零千秋似 Đào công hoán linh thiên thu tự (Ngàn năm còn mãi công giáo hóa) 華政仁輪萬世傳 Hoa chính nhân luân vạn thế truyền (Muôn kiếp chẳng mờ nếp nhân luân) 新圍湖水環青帶 Tân vi hồ thủy hoàn thanh đới (Một dòng nước chảy như giải ngọc) 三面雲山列錦屏 Tam diện vân sơn liệt cẩm bình (Ba mặt núi bao tựa bình phong) 倚院新梅升壁白 Ỷ viện tân mai thăng bích bạc (Mai nở vươn mình trên tường trắng) 從簷古樹入階青 Tùng thiềm cổ thụ nhập giai thanh (Cây xanh tỏa bóng theo hiên nhà) Những câu đối ở Thái Bình lâu: 一統山河重光日月 Nhất thống sơn hà trùng quang nhật nguyệt (Đất nước thống nhất, nhật nguyệt hội tụ) 八荒户牖六合庭除 Bát hoang hộ dũ lục hợp đình trừ (Nhà cửa xa xôi, sân vườn hợp hòa) 殫心萬歲勞神百姓 Đàn tâm vạn tuế, lao thần bách tính (Gắng sức vạn năm vì trăm họ) 希蹤二帝換美三王 Hy tung nhị đế, hoán mỹ tam vương (Bắt chước hai vua ( Nghiêu Thuấn) bởi ba vua) 大同之世外户不閑 Đại đồng chi thế ngoại hộ bất bế (Đời Đại Đồng cửa ngoài không đóng) 三代之民直道而行 Tam đại chi dân trực đạo nhi hành (Dân tam đại đạo phải cứ theo) Câu đối khắc ở Triệu Tổ miếu (tức miếu thờ Nguyễn Hoằng Kim) 四面光凝瓊闥日林千載樹 Tứ diện quang ngưng quỳnh thát, nhật lâm thiên tải thụ (Bốn mặt sáng cửa ngọc, mặt trời ngàn năm chiếu rừng cây) 九霄風定蘭庭香滿百枝花 Cửu tiêu phong định lan đình hương mãn bách chi hoa (Tám cõi gió lặng sân lan, hương thơm trăm hoa tỏa cành lá) Dưới thời các vua Nguyễn, triều đình Huế thiết lập Văn miếu, Võ miếu ở phía Tây Bắc kinh thành thuộc ấp Nội Súng, huyện Hương Trà gần đồi Thiên Mụ đối chênh với gò Long Thọ. Chính sử gọi Văn miếu, Võ miếu nhưng trong tâm thức người Huế quen gọi Văn Thánh, Võ Thánh. Ở đây có khắc đôi câu đối sau: “Tứ hải vi gia trường tuế nguyệt (Bốn biển là nhà theo năm tháng) Nhất thân thị đảm tác sơn hà” (Một thân trí dũng giữ sơn hà) Tại khuôn viên tỉnh lỵ Thừa Thiên, nguyên trước có lập hai miếu (một cái thờ văn ban, một cái thờ võ ban). Nhơn sự kiến thiết lại Tòa tỉnh trưởng nên phải làm chung lại một miếu để hiệp tự cho được trang hoành tráng lệ phụng thờ vĩnh viễn muôn năm. Dinh Phủ Doãn trước ở trong Thành Nội, cuối đường Trần Quốc Toản, năm 1899 mới dời sang đây... Ngày đó, phía sau Dinh còn là vùng cây cối rậm rạp, nên các quan cho lập am thờ linh vật như thế. câu đối phía trước miếu: Nhất niệm nhân dân tư chuẩn đức Tam Xuân trở đậu nhạ tân hương Tạm dịch nghĩa: “Muốn làm hướng về nhân dân lấy đức làm trọng”... và: Trung nghĩa thiên thu lưu chính khí Anh linh vạn cổ sùng thần uy Tổ Liễu Quán sanh tại làng Bạch Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Năm 1682, theo cha đi chùa Hội Tôn lễ Phật, gặp thiền sư Tế Viên, ngài cảm mến và xin phụ thân xuất gia tại đây. Năm 1690, vượt Trường Sơn ra đất Thuận Hóa, đầu sư với Giác Phong lão tổ ở chùa Thiên Thọ, núi Hàm Long (tức Phật học đường Báo Quốc bây giờ). Ở khoảng 3 cây số về phía Nam đàn Nam Giao có một ngôi tháp đến nay còn được giữ gìn hoàn hảo, đẹp đẽ ở trên một thửa đất có tường thành bao quanh, có tam cấp và hồ sen. Đó là ngôi tháp của Tổ Liễu Quán. Có thể nói đây là ngôi tháp hùng vĩ, cổ kính, uy nghiêm nhất từ xưa còn lại ở miền Trung và Nam Việt. Tháp có hai lớp tường thành bằng đá bao quanh. Lớp trong hình bát giác, cao độ 0m60 ở gần tháp. Lớp ngoài hình tứ giác cao độ 1m80, dày 1m. Trước tháp có tam cấp danh dự ngang 4m gồm 10 bậc, ở ngoài nhìn trên cổng tường vào tháp có hai câu đối: 寶鐸長鳴不段門前流綠水 法身獨露依然坐裏看清山 Bảo đạc trường minh bất đoạn môn tiền lưu lục thủy Pháp thân độc lộ y nhiên tọa lý khán thanh sơn Dịch nghĩa: Tiếng mõ vang lừng trước ngõ không ngừng dòng suối biếc Pháp thân vòi vọi, quanh tòa cao ngất dãy non xanh Phía trong tường thành là ngôi tháp dựng ở chính giữa, hình bát giác hồ vôi, cao 7 tầng độ 6m, mặt trước có bia đá, hai bên có hai câu đối: 棒喝眞豐家繼述 新良美化國包崇 Bổng hát chân phong gia kế thuật Tân lương mỹ hóa quốc bao sùng Dịch nghĩa: Chân phong của phép Thiền đánh hét được Ngài kế thừa truyền thuật Đất hòa tốt đẹp của bậc thầy hướng đạo được cả nước khen ngợi tôn sùng Phủ Thụy Thái ra đời năm 1847 là năm cuối của vua cha (Thiệu Trị) và năm đầu của vua anh (Tự Đức). Nam 1847, Hồng Y lên 15 tuổi (1833-1847), có lẽ là thời điểm Hồng Y được xuất các đi lập Phủ ở ấp Đông Trì để ở riêng. Ba mươi năm sau, ông qua đời, nhà riêng của ông trở thành nhà thờ ông. Hai mươi năm sau (1897), cháu nội của ông là vua Thành Thái cho xây dựng lớn nhà thờ của ông. Công trình có hai kiến trúc: Tiền đường phía trước và điện thờ phía sau. Thi công trong ba năm. Tháng Tám năm Canh Tý (1900) khánh thành. Từ đó nhà thờ được vinh danh là “Thụy Thái Vương Từ”. Trên các cột Phủ thờ treo 4 câu đối: Câu 1: Giữa trước: (hai bên án thờ vua Thiệu Trị) 寵樹蚤升瑞盎東藩桐削葉 靈根式固芬流兌野棣穠花 Sủng thụ tảo thăng thụy áng đông phiên đồng tước diệp Linh căn thức cố phân lưu đoài dã đệ nùng hoa Tạm dịch: Nhờ ơn vua mà sớm được thăng chức như cây đồng nảy lá ở hàng rào phía đông Gốc thiêng liêng thì sẻ giữ vững như cây đệ nở hoa rườm rà ở phía tây. Câu này do cháu gái thứ 8 là công chúa Châu Hoàn kính dâng Câu 2: Giữa sau: (hai cột hai bên án thờ Thụy Thái Vương) 若木分光桐葉圭猶傳帝子 皇枝藉慶梅花粧幸列天孫 Nhược mộc phân quang, đồng diệp, khuê, do truyền Đế tử Hoàng chi tạ khánh, mai hoa, trang hạnh liệt Thiên tôn Tạm dịch: Ánh sáng ngầm đời trước còn rực rỡ truyền lại cho con vua Cành lớn phúc lành tô điểm mai hoa tràn đầy cho cháu chúa Câu này do cháu gái là Tốn Tùy tức Công chúa Mỹ Lương kính dâng Câu 3: Ngoài trước: 藩邦祥開棠棣有花皆昔樹 仙源慶衍沁園一水是餘波 Phiên bang tường khai, đường lệ hữu hoa giai tích thụ Tiên nguyên khánh diễn, thấm viên nhất thủy thị dư ba Tạm dịch: Đất phên dậu mừng sinh con quý nhờ cây xưa nay đã nở hoa Dòng hoàng tộc càng đông đúc dòng nước vườn hoa có sóng thừa Câu này do cháu gái là Môn Gia tức Công chúa Phúc Lâm kính dâng Câu 4: Ngoài sau: 振振艷說麟之趾 挺挺榮看竹有筠 Chấn chấn diễm thuyết lân chi chỉ Đĩnh đĩnh vinh khán trúc hữu quân Tạm dịch: Vui đẹp cháu con (quyền quý) ngày phấn chấn Tre trúc lại sinh măng thật vẻ vang Thủy Dương là một xã nằm ở phía nam thành phố Huế, được hình thành từ những cuộc nam tiến của người Việt mà cụ thể ở đây là cuộc nam chinh thảo phạt Chiêm Thành diễn ra dưới thời Lê Thánh Tông năm 1470, mặc dù mảnh đất Thuận Hoá đã sát nhập vào bản đồ Đại Việt từ rất lâu trước đó. Dưới đây là những câu đối khắc tại đình, chùa, đền, miếu trong xã: Đình Thanh Thuỷ Thượng Trụ biểu, mặt ngoài 清也若水靈也若仙鶴表琴亭玄光自在 水之有源木之有本祖功尊德終古長留 Thanh dã nhược thủy, linh dã nhược sơn, hạc biểu cầm đình huyền quang tự tại Thủy chi hữu nguyên, mộc chi hữu bản, tổ công tôn đức chung cổ trường lưu Tạm dịch: Trong như nước, thiêng như núi, trụ biểu mái đình sáng tươi tự tại Cây có cội, nước có nguồn, công đức tổ tông lưu mãi muôn năm 精靈得造化高清濯濯洋洋萬古猶流正氣 英秀對岑山香水煌煌赫赫千秋共拜神清 Tinh linh đắc tạo hóa, cao thanh trạc trạc dương dương, vạn cổ do lưu chính khí Anh tú đối Sầm sơn, Hương Thủy hoàng hoàng hách hách, thiên thu cộng bái thần hưu Tạm dịch: Thiêng liêng nhờ tạo hoá, thanh cao rực rỡ mênh mông, muôn thuở lưu truyền chính khí Anh tú đối diện với đụn Sầm, Hương Thuỷ sáng trong mát mẻ, ngàn năm cùng đội ơn che chở của Thần. Mặt trong 清氣清天高彌來後箕尾托 水泉在地翰公南海榜碑靈 Thanh khí vi thiên, cao di lai hậu Cơ Vĩ thác Thủy tuyền tại địa, Hàn công nam hải bảng bi linh Tạm dịch: Khí lành là của trời, về sau lại càng cao như sao Cơ, sao Vĩ Suối nước tại đất, tiên Hàn Tương Tử ở biển nam linh thiêng ở bảng bia đây 得一以靈滾滾清泉一脈 有三不朽巍巍岑嶺三峰 Đắc nhất dĩ linh, cổn cổn thanh tuyền nhất mạch Hữu tam bất hủ, nguy nguy sầm lĩnh tam phong Tạm dịch: Được một đã linh, cuồn cuộn một mạch suối trong lành Có ba bất hủ, nguy nga ba ngọn núi Sầm Bình phong, mặt trước 清立清亭迎瑞氣 風來水面送奇香 Bình lập thanh đình nghênh thụy khí Phong lai thủy diện tống kì hương Tạm dịch: Bình phong đứng ở trước đình sáng đón mời khí lành Gió thổi tới mặt nước toả ra mùi hương lạ Bình phong, mặt sau 文武常班列 江山足護持 Văn võ thường ban liệt Giang sơn túc hộ trì Tạm dịch: Văn võ thường xếp bày; Non sông đủ hộ trì. Nội điện 護國庇民澤同香水潤 調元贊化功等象山高 Hộ quốc tí dân, trạch đồng Hương thủy nhuận Điều nguyên tán hóa, công đẳng Tượng sơn cao Tạm dịch: Bảo vệ nước che chở dân, ơn trạch thấm đẫm như sông Hương Điều nguyên chuyển hóa, công lao cao lớn sánh với núi Voi Vi đức kỳ thịnh hỹ Hữu công tắc tự chi Tạm dịch: Việc làm công đức thật là thịnh; Có công thì thờ phụng. Nhà truyền thống 聖道千秋留越地 師傳萬世照南天 Thánh đạo thiên thu lưu Việt địa Sư truyền vạn thế chiếu Nam thiên Tạm dịch: Đạo của thánh nhân ngàn năm lưu ở đất Việt Bậc thầy của muôn đời sáng mãi ở trời Nam 岑嶺巍巍山錦清 清泉滾滾水文章 Sầm lĩnh nguy nguy sơn cẩm tú Thanh tuyền cổn cổn thủy văn chương Tạm dịch: Núi Sầm vời vợi ấy là núi tươi đẹp Suối trong xanh cuồn cuộn ấy là nước văn chương Chùa Diệu Viên Gian ngoài (Lễ khánh thành đại trùng tu ngày tốt giữa xuân năm Tân tị, Phật lịch năm 2545. Các Phật tử chùa ni Diệu Viên cùng phụng cúng) 拜手灼玄香三千世結祥雲奉獻如來蓮座上 信心持佛號百八聲成正念清生淨土寶花中 Bái thủ chước huyền hương, tam thiên thế kết tường vân, phụng hiến Như Lai liên tòa thượng Tín tâm trì Phật hiệu, bách bát thanh thành chính niệm, tức sinh tịnh thổ bảo hoa trung Tạm dịch: Lạy đốt hương thơm, Ba ngàn thế giới kết thành đám mây lành, phụng dâng lên đức Phật trên tòa sen; Tâm tin giữ hiệu của Phật, một trăm lẻ tám tiếng chuông thành chính niệm, lập tức sinh vào cõi tịnh thổ trong cõi hoa báu. Phật tử Hoàng Văn Liên và Hoàng Công Minh phụng cúng. Lễ khánh thành đại trùng tu chùa Diệu Viên ở kinh đô Phú Xuân 妙義如來廣含藏行深了悟能體了 圓修正玄戒定慧清凡心化作聖心 Diệu nghĩa Như Lai quảng hàm tàng, hành thâm liễu ngộ năng thể liễu Viên tu chính huyền giới định tuệ, tức phàm tâm hóa tác thánh tâm Tạm dịch: Làm mầu nhiệm đạo nghĩa Như Lai thấm nhuần rộng lớn, thực hiện sâu sắc việc giác ngộ mới có thể giác ngộ được; Tu một cách tròn đầy giới định trí tuệ chân chính huyền diệu, lập tức tâm phàm tục biến thành tâm của bậc thánh nhân. Gian giữa 五峰山境人緣已定會聚修學佛 當吉地名祖道住錫初興逢玄場 Ngũ phong sơn cảnh, nhân duyên dĩ định, hội tụ tu học Phật Đương cát địa danh, tổ đạo trú tích, sơ hưng phùng huyền tràng Tạm dịch: Cõi núi Ngũ phong, nhân duyên đã định, hội họp mà tu học Phật Địa danh tốt lành, đạo tổ dựng thiền trượng, khi mới hưng gặp cõi nhiệm màu. Phật tử Vũ Thiên Ngọc phụng cúng. Lễ khánh thành đại trùng tu chùa Diệu Viên ở kinh đô Phú Xuân Gian trong cùng 將此深心奉塵清 是則名清報佛恩 Tương thử thâm tâm phụng trần sát Thị tắc danh vi báo Phật ân Tạm dịch: Đem cái thâm tâm này phụng ngôi chùa trần thế Ấy là danh để báo ơn Phật 人依法法依人頓妙隨机聞妙現 佛清心心清佛古今不異合清宗 Nhân y pháp, pháp y nhân, đốn diệu tùy cơ văn diệu hiện Phật tức tâm, tâm tức Phật, cổ kim bất dị hợp chân tông Tạm dịch: Người nương pháp, pháp dựa người, nhanh chóng tuỳ cơ nghe mà hiện ra mầu nhiệm Phật là tâm, tâm là Phật, xưa nay chẳng khác hợp với chân tông 掌上明珠光攝大千之界 手中金錫振開地獄之門 Chưởng thượng minh châu, quang nhiếp đại thiên chi giới Thủ trung kim tích, chấn khai địa ngục chi môn Tạm dịch: Quả minh châu nắm trên tay, soi sáng cả trăm ngàn cõi Gậy tầm xích vàng giữ trong tay, nâng mở cửa địa ngục Hậu điện 五峰金地叢林孤同光含空清色 當吉山頭寶清群巒翠鎖古猶今 Ngũ phong kim địa tùng lâm, cô đồng quang hàm không tức sắc Đương cát sơn đầu bảo sát, quần loan thúy tỏa cổ do kim Tạm dịch: Rừng rậm nơi đất vàng ở núi Ngũ Phong, lẻ loi ánh sáng ngậm không tức là sắc Chùa báu đầu non là nơi tốt đẹp, những ngọn núi biếc vây quanh từ xưa đến nay Miếu 五行列位仙娘 外境外乾英靈 Ngũ hành liệt vị tiên nương Ngoại cảnh ngoại càn anh linh Tạm dịch: Các vị tiên nương ngũ hành Anh linh ngoại cảnh ngoại càn Lăng hội chủ Hoàng Công Viết 佛護持名標淨域 神清覺地赴蓮城 Phật hộ trì danh tiêu tịnh vực Thần tẩm giác địa phó liên thành Tạm dịch: Phật hộ trì danh hiệu, nêu cao cõi tịnh thổ Thần tẩm giúp đỡ đất giác ngộ, đi đến thành hoa sen Mộ hiển khảo, nhận bồ đề giới chùa Từ Nghiêm hội chủ Hoàng Công Viết, tên tự là Tâm Minh. Lập xuân năm Tân Hợi. Tịch vào ngày 16 tháng tám năm Tân Hợi. Con cả Hoàng Công Do cùng thân quyến trong và ngoài chùa phụng lập Wikipedia có thể loại liên quan Câu đối khắc tại các đình, chùa, đền, miếu, phủ, điện khu vực Bắc Trung Bộ (Việt Nam)", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Mai Chí Thọ", "role": "user" }, { "content": "Theo lời kể của Đoàn Văn Toại thì Mai Chí Thọ đã từng chọn ra một nhóm tù nhân chính trị trong một trại giam và nói với họ như sau: \"Hồ Chí Minh có thể đã là một kẻ độc ác; Nixon có thể đã là một người vĩ đại. Người Mĩ có thể đã có chính nghĩa; chúng tôi có thể không có chính nghĩa. Nhưng chúng tôi đã thắng và người Mĩ đã bị đánh bại bởi vì chúng tôi đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một người vĩ đại, rằng Nixon là một kẻ giết người và người Mĩ là những kẻ xâm lược. Yếu tố then chốt đó là kiểm soát được người dân và quan điểm của họ. Chỉ có chủ nghĩa Marx-Lenin là có thể làm được điều đó. Không ai trong các anh từng thấy sự kháng cự đối với chế độ của những người cộng sản, vì vậy đừng suy nghĩ về chuyện đó. Quên chuyện đó đi. Giữa các anh — những người trí thức sáng suốt — và tôi, tôi xin nói với các anh sự thật.\" — Mai Chí Thọ, theo lời kể của Đoàn Văn Toại ^ Bản mẫu:Chú thích tạp chí", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Thành Cát Tư Hãn", "role": "user" }, { "content": "Thành Cát Tư Hãn (tiếng Mông Cổ: Чингис хаан, k.1162 – 1227), tên khai sinh Thiết Mộc Chân, là người thành lập Đế quốc Mông Cổ sau khi thống nhất các bộ lạc tại Trung Á. Ông được xem là một trong những nhà quân sự lỗi lạc và có ảnh hưởng nhất lịch sử thế giới. Ta là sự trừng phạt của trời. Nếu các ngươi không sai phạm, trời đã không cử ta xuống đây. Theo cuốn Tarikh-i Jahangushay [Lịch sử của kẻ chinh phục thế giới] của \"Ala-ad-Din\" Ata-Malik Juvaini (khoảng 1252-1260), do J.A. Boyle dịch năm 1958 (tr. 105) Hãy nhất trí rằng các bạn có thể chiến thắng kẻ thù của mình và có cuộc sống lâu dài, hạnh phúc. Theo cuốn Đế chế Mông Cổ: Sự trỗi dậy và Di sản (1940) của Michael Prawdin, tr. 224 Trong khoảng thời gian bảy năm, ta đã hoàn thành một công việc vĩ đại và thống nhất cả thế giới trong một đế chế. Được trích dẫn trong Những kẻ bạo chúa: 2500 năm của Quyền lực Tuyệt đối và Tham nhũng (2006) của Clive Foss, tr. 55 Bạn có thể tìm thấy Chúa ở khắp mọi nơi. Ông ấy sở hữu một nghị lực tuyệt vời, sự sáng suốt, thiên tài và sự hiểu biết. Nhà sử học Ba Tư Juzjani, người cùng thời với Thành Cát Tư Hãn. [Về mặt quân sự]...ông ta ngang hàng với Alexander Đại đế hay Napoléon I. Theo Encarta Encyclopedia. Một cái tên mà người Hồi giáo ghét và sợ nhất là Thành Cát Tư Hãn. Ông ta là một bóng ma, kẻ đã ám ảnh các nhà sử học Hồi giáo trong nhiều thế kỷ. Ông ta quét qua như một cơn lốc xoáy vào đế chế Hồi giáo Khwarazm hùng mạnh và rộng lớn nhất bấy giờ. Trong khoảng thời gian 5 năm ngắn ngủi (1219-1224 CN), ông ta đã tàn sát hàng triệu người Hồi giáo, và còn bắt giữ nhiều người khác bao gồm cả phụ nữ và trẻ em làm nô lệ, và san phẳng những thành phố đông dân và thịnh vượng nhất của Hồi giáo đương thời. Sita Ram Goel, Lời thỉnh cầu Kinh Qur'an Calcutta (1986) Thành Cát Tư Hãn đã kiến thiết một quốc gia từ đất bụi. K.S. Lal, Lịch sử Khaljis (1950) tr. 147 Wikipedia có bài viết về: Thành Cát Tư Hãn Wikimedia Commons có phương tiện liên quan tới: Thành Cát Tư Hãn", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Trinidad và Tobago", "role": "user" }, { "content": "Trinidad và Tobago, tên chính thức Cộng hoà Trinidad và Tobago, là một nước nằm ở phía nam Biển Caribe, 11 km (7 dặm) ngoài khơi bờ biển Venezuela. Nước này là một đảo quốc gồm hai đảo chính, Trinidad và Tobago, và 21 đảo nhỏ với tổng diện tích 5.128 km2 hay 1.864 mi2. Ước tính dân số vào tháng 7 năm 2006 là 1.065.842 người. Chiều dài trung bình của Trinidad là 80 km và chiều rộng trung bình là 59 km. Tobago là 41 km dài và 12 km ở điểm rộng nhất. Đảo lớn và đông dân hơn là Trinidad (nghĩa là \"Hòn đảo của Thiên Chúa Ba Ngôi\" - Trinity), trong khi Tobago nhỏ hơn (303 km2 hay 116 mi2; khoảng 6% tổng diện tích) và dân cư thưa thớt hơn (50.000 người; hay 5% tổng dân số). Các công dân chính thức được gọi là \"người Trinidad\" hay \"người Tobago\" hay \"công dân của Trinidad và Tobago\", nhưng người Trinidad thường để chỉ người Trinis còn cả người Trinidad và người Tobago thường được gọi là Trinbagonians. Không giống hầu hết các nước nói tiếng Anh ở vùng Caribbe, Trinidad và Tobago là một nước chủ yếu công nghiệp hóa với nền kinh tế dựa vào dầu mỏ và hóa dầu. Những con cháu của người Châu Phi và người Ấn Độ chiếm tới 80% dân số, phần còn lại chủ yếu là những người nhiều dòng máu với một số lượng nhỏ người Châu Âu, người Hoa và người Ả Rập Saudi-người Syria-người Liban. Trinidad và Tobago nổi tiếng về Lễ hội Carnival tiền-Lenten và là nơi ra đời của nhạc cụ steelpan, điệu nhạc calypso và lối khiêu vũ limbo. Cả Trinidad và Tobago đều đã từng là nơi cư trú của người da đỏ có nguồn gốc Nam Mỹ. Ít nhất, ở thời kỳ tiền nông nghiệp Archaic đã có người sinh sống tại Trinidad từ 7.000 năm trước, biến nó trở thành phần lục địa Caribbean có người sinh sống sớm nhất. Những dân tộc nông nghiệp sử dụng đồ gốm đã định cư tại Trinidad khoảng năm 250 TCN và sau đó di chuyển tới dãy Lesser Antilles. Khi người châu Âu tới đây, Trinidad là lãnh thổ của nhiều bộ tộc sử dụng các ngôn ngữ Arawakan và Cariban gồm Nepoya, Suppoya và Yao; trong khi Tobago thuộc quyền kiểm soát của Đảo Caribs và Galibi. Tên gọi Trinidad của người da đỏ là Kairi hay Iere thường được dịch thành \"Vùng đất của loài Chim ruồi\", dù nhiều người khác cho rằng nó chỉ đơn giản có nghĩa là \"hòn đảo\". Cristoforo Colombo đã tới đảo Trinidad vào ngày 31 tháng 7 năm 1498 và đặt tên nó theo Chúa ba ngôi (Trinity). Colpmbo cũng đã nhìn thấy Tobago, mà ông gọi là Bella Forma, nhưng ông không đổ bộ lên đảo này. Cái tên Tobago có lẽ bắt nguồn từ chữ tobacco (thuốc lá). Buổi đầu người Tây Ban Nha thiết lập cơ sở tại Trinidad, nhưng vì thiếu dân tới định cư nên cuối cùng họ cho phép tất cả mọi người châu Âu theo Cơ đốc giáo định cư trên hòn đảo, dẫn tới những cuộc di cư từ Pháp và các nước khác. Trong lúc đó, Tobago hết thuộc quyền cai trị của Anh đến Pháp đến Hà Lan và Courland. Anh đã củng cố quyền lực của mình trên cả hai hòn đảo trong thời gian Chiến tranh Napoléon, và họ gộp chúng vào thành thuộc địa Trinidad và Tobago năm 1889. Vì những cuộc tranh giành thuộc địa đó, những tên địa điểm theo tiếng của thổ dân châu Mỹ, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp và tiếng Anh rất phổ biến tại quốc gia này. Những người nô lệ châu Phi, người Ấn Độ, Trung Quốc, Bồ Đào Nha và những người lao động tự do từ châu Phi đã tới đây bổ sung vào lực lượng lao động trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Những cuộc di cư từ Barbados và Lesser Antilles, Venezuela và Syria và Liban cũng đã mang lại ảnh hưởng về mặt chủng tộc trên đất nước này. Dù ban đầu là một thuộc địa với mía và cacao là hai sản phẩm chủ lực của nền kinh tế ở thời điểm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Sau sự giảm sút sản lượng cacao (vì bệnh dịch và cuộc Đại khủng hoảng) dầu mỏ dần chiếm vị trí trọng yếu trong nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng và sự gia tăng thị phần dầu mỏ trong nền kinh tế dẫn tới những thay đổi trong cấu trúc xã hội. Sự hiện diện của những căn cứ quân sự Hoa Kỳ tại Chaguaramas và Cumuto ở Trinidad trong Thế chiến thứ hai đã làm thay đổi căn bản tính chất xã hội. Trong giai đoạn hậu chiến, làn sóng giải thực diễn ra khắp Đế quốc Anh dẫn tới sự thành lập Liên bang Tây Ấn năm 1958 như bước đầu tiên giành lại độc lập. Chaguaramas được đề xuất trở thành thủ đô của liên bang. Liên bang đã giải thể sau khi Jamaica rút lui, và Trinidad và Tobago đã lựa chọn độc lập năm 1962. Năm 1970, một số sinh viên đã tụ tập trước sứ quán Canada để phản đối khoản lệ phí visa cho sinh viên, ở thời ấy là kiểu bắt chước làn sóng nhân quyền thập niên 1960 tại Bắc Mỹ. Kết quả là cái mà ngày nay chúng ta gọi là Những cuộc nổi loạn quyền lực đen năm 1970[cần dẫn nguồn]. Năm 1976 nước này chấm dứt các quan hệ với chế độ quân chủ Anh và trở thành một nước cộng hoà bên trong Khối thịnh vượng chung Anh. Năm 1990, 114 người thuộc Jamaat al Muslimeen, do Yasin Abu Bakr (trước đó thường được gọi là Lennox Phillip) lãnh đạo, đã xông vào Nghị viện Trinidad & Tobago tại Nhà Đỏ, và đài truyền hình duy nhất đất nước ở thời điểm đó, giữ chính phủ làm con tin trong sáu ngày. Vụ này đã được giải quyết và từ đó đất nước hoàn toàn thanh bình. Dầu mỏ, hóa dầu và khí tự nhiên tiếp tục là xương sống của nền kinh tế quốc gia. Du lịch cũng là một nhân tố chủ chốt của kinh tế Tobago, và hòn đảo này vẫn là điểm đến ưa thích của nhiều khách du lịch châu Âu. Trinidad và Tobago là một trong những quốc gia thịnh vượng nhất vùng Caribbean, dù đã có sút kém so với thời \"bùng nổ dầu mỏ\" trong khoảng giữa 1973 và 1983. Năm 1991, Patrick Manning được bổ nhiệm làm Thủ tướng. Trong nhiều năm, giới lãnh đạo phải đương đầu với các cuộc nổi dậy của nhân dân phát sinh từ những khó khăn kinh tế và những đối kháng của thành phần cấp tiến. Tình trạng thất nghiệp và dư thừa nhân công là một trong những vấn đề dai dẳng ở đảo quốc này vàphần lớn nhân dân đòi Chính phủ quốc hữu hóa các ngành công nghiệp sản xuất đường và dầu mỏ hiện đang thuộc quyền kiểm soát của các công ty nước ngoài. Nước này gồm hai hòn đảo chính, Trinidad và Tobago, và 21 hòn đảo nhỏ hơn, các hòn đảo lớn nhất gồm Chacachacare, Monos, Huevos, Gaspar Grande (hay Gasparee), Little Tobago và St. Giles Is. Lãnh thổ đảo là hỗn hợp giữa các đồng bằng và các vùng núi. Điểm cao nhất nước nằm tại Dãy phía Bắc ở El Cerro del Aripo với độ cao 940 mét (3.085 foot) trên mực nước biển. Khí hậu nhiệt đới. Một năm có hai mùa: mùa khô trong sáu tháng đầu năm, và mùa mưa ở nửa cuối năm. Gió thường tới từ hướng đông bắc và thường bị ảnh hưởng bởi gió mậu dịch Đông Bắc. Không giống như hầu hết các hòn đảo khác ở vùng Caribbean, Trinidad và Tobago không bị ảnh hưởng bởi các cơn bão mạnh có sức tàn phá lớn như Bão Ivan, trận bão mạnh nhất đi qua gần hòn đảo này trong giai đoạn gần đây vào tháng 12, 2004. Đa số dân cư sống trên hòn đảo Trinidad, đây là nơi có nhiều thành phố và khu thị tứ lớn. Trinidad có ba vùng đô thị: Port of Spain, thủ đô, San Fernando, và Chaguanas. Trong số ba vùng đó, Chaguanas có tốc độ phát triển nhanh nhất. Thành phố lớn nhất tại Tobago là Scarborough. Trinidad được tạo nên từ nhiều kiểu nền đất khác nhau, đa phần là cát mịn và đất sét nặng. Các châu thổ đất bồi của Dãy phía bắc và vùng đất \"Hành lang Đông Tây\" là màu mỡ nhất. Dãy phía Bắc gồm phần lớn là những núi đá Thượng Jurassic và Cretaceous, đa số là andesite và đá phiến. Những vùng đất thấp phía bắc (Hành lang Đông Tây và Đồng bằng Caroni) gồm các kiến tạo từ thời Pleistocene hay cát và đất sét trẻ hơn với các con sông nhiều sỏi và đầm lầy đất bồi. Phía nam vùng này, Dãy Trung tâm là một nếp lồi phay nghịch gồm đá từ kỷ Cretaceous và Eocene, với các thành tạo theo thể Miocene dọc theo các sườn phía đông và phía nam. Đồng bằng Naparima và Đầm lầy Nariva tạo thành bộ phận phía nam của phay nghịc này. Các vùng đất thấp phía nam gồm cát thể Miocene và Pliocene, đất sét và sỏi. Chúng che giấu bên dưới các trầm tích dầu mỏ và khí tự nhiên, đặc biệt phía bắc Phay Los Bajos. Dãy phía Nam tạo thành phay nghịch nếp lồi thứ ba. Nó gồm nhiều dãy đồi, phần nổi tiếng nhất là Đồi Ba ngôi. Đá là đá sa thạch, đá phiến sétvà đá phù sa và đất sét đã được tạo thành từ thời Miocene và được đẩy lên cao trong kỷ Pleistocene. Cát dầu và các núi lửa bùn hiện diện đặc biệt nhiều ở vùng này. Dù chỉ nằm ngay ngoài khơi bờ biển Nam Mỹ, Trinidad và Tobago thường được coi là một phần của lục địa Bắc Mỹ vì nó có tính chất của một quốc gia vùng Caribbean. Xem Các quốc gia liên lục địa. Trinidad và Tobago là một quốc gia theo chính thể dân chủ tự do với một hệ thống lưỡng đảng và hệ thống quốc hội lưỡng viện dựa trên Hệ thống Westminster. Quốc trưởng của Trinidad và Tobago là Tổng thống, hiện nay là Giáo sư danh dự George Maxwell Richards. Lãnh đạo chính phủ và Thủ tướng. Tổng thống được bầu ra bởi một Ủy ban bầu cử gồm toàn bộ các thành viên của hai viện Nghị viện. Thủ tướng được Tổng thống chỉ định. Tổng thống buộc phải chỉ định lãnh đạo của đảng nào mà ông cho là được nhiều thành viên trong nghị viện ủng hộ nhất vào chức vụ đó; thường đó là lãnh đạo đảng giành được số ghế nhiều nhất trong cuộc bầu cử trước đó (trừ trường hợp cuộc Tổng tuyển cử năm 2001). Nghị viện gồm hai cấp, Thượng viện (31 thành viên) và Hạ viện (36 thành viên, sẽ tăng lên thành 41 thành viên kể từ cuộc bầu cử sau). Các thành viên thượng nghị viện do tổng thống chỉ định. Mười sáu Thượng nghị sĩ Chính phủ được chỉ định theo sự gợi ý của Thủ tướng, sáu Thượng nghị sĩ Đối lập được chỉ định theo sự gợi ý của Lãnh đạo phe đối lập và chín Thượng nghị sĩ độc lập được chỉ định bởi Tổng thống để đại diện cho những lĩnh vực dân sự xã hội khác. 36 thành viên của Hạ nghị viện do nhân dâu bầu ra với nhiệm kỳ tối đa 5 năm. Từ 24 tháng 12 năm 2001, đảng cầm quyền là Phong trào nhân dân quốc gia do Patrick Manning lãnh đạo; đảng Đối lập là Đại hội quốc gia thống nhất do Kamala Persad-Bissessar lãnh đạo (Lãnh đạo đối lập) và Winston Dookeran (UNC lãnh đạo chính trị). Trinidad và Tobago là một thành viên tích cực của Cộng đồng Caribbean (CARICOM) và Khối kinh tế, thị trường chung CARICOM (CSME). Trinidad và Tobago nổi tiếng là một địa điểm đầu tư tuyệt vời cho giới doanh nhân quốc tế. Một lĩnh vực phát triển hàng đầu trong bốn năm qua là khí tự nhiên. Du lịch là lĩnh vực đang phát triển, dù không chiếm tỷ trọng cao như nhiều hòn đảo vùng Caribbean khác. Nền kinh tế nước này có lợi thế nhờ lạm phát thấp và thặng dư thương mại. Năm 2002 được đánh dấu bởi sự phát triển vững chắc của khu vực dầu khí, bù lại một phần cho tình trạng không ổn định chính trị trong nước. Đặc điểm khí hậu ở đảo quốc này giúp phát triển các loại cây trồng nhiệt đới, đặc biệt là các đồn điền mía với sản lượng 129.000 tấn đường mỗi năm (1994). Các loại nông sản khác gồm: ca cao, cà phê, chuối, cam quýt, cơm dừa. Ngành chăn nuôi cũng rất phát triển. Công nghiệp chủ yếu dựa vào khai thác hyđrocacbon. Hồ Pitch ở phía Tây Nam đảo Trinidad, được khai thác từ thế kỉ 16, hiện nay cung cấp 108.000 tấn bitum (dùng làm nhựa rải đường) và phần lớn được xuất khẩu. Các vỉa dầu phần lớn ở miền Nam Trinidad cung cấp hơn 7 triệu tấn/năm (1994). Khai thác khí đốt cũng trên đà gia tăng. Dầu mỏ được xuất khẩu sang Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Phần lớn giếng dầu và các nhà máy lọc dầu đều nằm trong tay các công ti của Hoa Kỳ. Sản lượng hyđrocacbon chiếm 80% tổng giá trị các loại sản phẩm xuất khẩu. Khí hậu ôn hòa, phong cảnh thiên nhiên đẹp và mạng lưới giao thông vận tải tốt giúp cho ngành du lịch mang lại một nguồn thu nhập đáng kể. Nhân khẩu [sửa]Bài chi tiết: Nhân khẩu Trinidad và TobagoThành phần dân tộc của Trinidad và Tobago phản ánh một lịch sử chinh phục và di cư. Hai nhóm dân tộc chính - người Trinidad gốc Ấn (Indo-Trinidadian) và người Trinidad gốc Phi - chiếm tới 80% dân số, trong khi những người dân đa chủng tộc, con cháu của người Trinidad gốc Âu/người châu Âu, người Trinidad gốc Trung Quốc/người Hoa và người Trinidad gốc Ả Rập/người Syria-người Liban chiếm đa phần số còn lại. Theo cuộc điều tra dân số năm 1990, người Trinidad gốc Ấn chiếm 40,3% dân số, người Trinidad gốc Phi chiếm 39,5%, người đa chủng 18,4%, người Trinidad gốc Âu 0,6% và người Hoa, người Syria và các sắc tộc khác 1,2%. Người Trinidad gốc Âu, đặc biệt là hậu duệ của tầng lớp chủ đất cũ, thường được gọi là người Pháp Creole, thậm chí nếu tổ tiên họ là người di cư đến từ Tây Ban Nha, Anh, Bồ Đào Nha [2] hay Đức. Nhóm người Cocoa Payol đa chủng là con cháu của người định cư Tây Ban Nha và những người nhập cư đến từ Venezuela. Dân Trini Bồ Đào Nha gồm cả người da trắng và người lai. Nhóm thiểu số da đỏ châu Mỹ phần lớn là đa chủng - nhóm thiểu số rất nhỏ Carib, hậu duệ của những thổ dân bản địa, được tổ chức xung quanh Cộng đồng Santa Rosa Carib. Sự di cư ra khỏi Trinidad và Tobago, cũng như đối với các nước Caribbean khác, đạt mức độ cao trong lịch sử; đa số họ tới Hoa Kỳ, còn Canada và Anh tiếp nhận hầu hết số còn lại. Sự di cư này vẫn đang tiếp diễn, dù ở mức độ thấp hơn, thậm chí tỷ lệ sinh đã giảm mạnh tới mức tương đương với các nước phát triển. Nhiều tôn giáo hiện diện ở Trinidad và Tobago. Hai tôn giáo lớn nhất là Công giáo La Mã và đạo Hindu; Anh giáo, Hồi giáo, Presbyterian, Methodist là những tôn giáo nhỏ hơn. Hai đức tin đa tạp Afro-Caribbean là Shouter (hay Spiritual Baptist) và Orisha (trước kia được gọi là Shango, ít mang ý nghĩa ca tụng hơn) nằm trong những nhóm tôn giáo phát triển nhanh nhất, cũng như các nhà thờ của Evangelical và Fundamentalist theo kiểu Mỹ thường được đa số người Trinidad coi gộp vào với nhau thành \"Pentecostal\" (dù cách định danh này thường không chính xác). Nhà thờ Mormon đã mở rộng sự hiện diện của họ tại quốc gia này từ giữa thập niên 1980. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của quốc gia, nhưng tiếng Bhojpuri, ở trong nước thường được gọi là tiếng Hindi, cũng được sử dụng bởi một số người Trinidad gốc Ấn và hiện diện nhiều trong âm nhạc bình dân. Ngôn ngữ chính, tiếng Anh-Trinidad vừa được xếp hạng là một thổ ngữ vừa là một biến thể của tiếng Anh hay một kiểu tiếng Anh lai Trinidad (Trinidadian Creole English). Ngôn ngữ được sử dụng nhiều ở Tobago là tiếng Anh lai Tobago (Tobagonian Creole English). Cả hai ngôn ngữ đều chứa đựng các yếu tố châu Phi; tuy nhiên, tiếng Anh Trinidad bị ảnh hưởng nhiều từ tiếng Pháp và tiếng Pháp lai cũng như tiếng Bhojpuri/Hindi. Các ngôn ngữ châu Mỹ và các thứ tiếng địa phương thường chỉ được sử dụng trong những dịp không chính thức, và cho tới nay vẫn chưa có một hệ thống chuẩn hóa cách viết (giống như trong tiếng Anh tiêu chuẩn). Những vị du khách tới đây trong một thời gian ngắn không cần phải lo ngại về việc học tiếng địa phương/tiếng châu Mỹ, vì hầu như mọi người đều nói và hiểu được tiếng Anh. Tuy nhiên, thường thì người dân sử dụng tiếng địa phương/tiếng châu Mỹ để nói chuyện với nhau. Dù tiếng địa phương (một loại tiếng Pháp lai) từng là ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi trên hòn đảo này (và tại vùng bờ biển Paria Venezuela), nhưng hiện nay đã không còn giữ được vị trí đó nữa. Vì vị trí của Trinidad nằm trên bờ biển Nam Mỹ, nước này không phát triển nhiều quan hệ với các dân tộc nói tiếng Tây Ban Nha, vì thế cho tới năm 2004 chỉ có 1.500 trên tổng số 1,3 triệu dân Trinidad nói tiếng Tây Ban Nha.2. ^ Năm 2004 chính phủ đã đưa ra sáng kiến \"Tiếng Tây Ban Nha - Ngoại ngữ số một (SAFFL)\" [3], và công bố rộng rãi vào tháng 3 năm 2005. Các quy định của chính phủ hiện nay buộc các trường cao học phải dạy tiếng Tây Ban Nha cho sinh viên, trong khi 30% công chức sẽ phải có khả năng sử dụng ngôn ngữ này trong 5 năm tới. Người Venezuela thường tới Trinidad và Tobago để học tiếng Anh, và nhiều trường tiếng Anh đã mở rộng cả việc giảng dạy tiếng Tây Ban Nha. Văn hoá [sửa]Bài chi tiết: Văn hoá Trinidad và Tobago Hoa Chaconia (Warszewiczia coccinea) là loại hoa biểu tượng quốc gia của Trinidad và TobagoTrinidad và Tobago nổi tiếng về các lễ hội tuần chay của họ. Nước này cũng là nơi sản sinh ra âm nhạc calypso và nhạc cụ steelpan, được nhiều người công nhận là nhạc cụ duy nhất được phát minh ra trong thế kỷ 20. Nền văn hóa và tôn giáo đa dạng khiến nước này có nhiều lễ hội trong suốt năm. Các loại nghệ thuật bản xứ khác gồm âm nhạc Soca (một âm nhạc bắt nguồn từ calypso), Parang (âm nhạc Giáng sinh ảnh hưởng từ Venezuela), âm nhạc chutney, và pichakaree (các hình thức âm nhạc pha trộn giữa âm nhạc Caribbean và Ấn Độ) và điệu nhảy limbo nổi tiếng. Nghệ thuật ở nơi đây cũng sôi động. Trinidad và Tobago có hai tác giả đã đoạt giải Nobel về văn học, V. S. Naipaul và Derek Walcott sinh tại Saint Lucia. Nhà thiết kế thương hiệu Mas Peter Minshall không chỉ nổi tiếng về các trang phục dành cho lễ hội mà còn về vai trò của ông trong lễ khai mạc Thế vận hội Mùa hè 1992, Giải vô địch bóng đá thế giới 1994, Thế vận hội Mùa hè 1996 và Thế vận hội Mùa đông 2002, và ông đã đoạt một Giải Emmy. Trinidad và Tobago cũng đã đoạt hai giải Hoa hậu hoàn vũ, với Penny Commisiong năm 1977, và Wendy Fitzwilliams năm 1998. Port of Spain - là tên thủ đô của Trinidad và Tobago và là đô thị lớn thứ ba của quốc gia này, sau Chaguanas và San Fernando. San Fernando - thành phố phía Nam Scarborough (vốn của Tobago) quận: Arima - nơi sinh của nghệ sĩ nổi tiếng calypso \"Chúa Kitchener\" Chaguanas - phát triển nhanh nhất và lớn nhất thành phố chủ yếu là dân cư của con cháu của Đông Ấn Độ có giao kèo lao động Điểm Fortin - Nam đô thị phía Tây, nằm ở vùng ngoại ô của Pitch Lake La Brea và được biết đến với sản xuất dầu thị trấn: Chaguaramas - một thị trấn với một trong những trung tâm du thuyền lớn, cũng nổi tiếng với cuộc sống về đêm, địa điểm tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ 1999 cuộc thi. Princes Town Toco St James - người dân địa phương trìu mến gọi là thành phố không bao giờ ngủ Một hộ chiếu hợp lệ vẫn còn hạn trong thời kỳ ở lại quốc gia này. Tất cả các du khách phải có vé khứ hồi, cho thấy chứng minh tài chính để lo cho bản thân, và cung cấp địa chỉ trong TT, chẳng hạn như một khách sạn hoặc gia đình / bạn bè. Công dân của Hoa Kỳ, Canada, các nước Caricom (trừ Haiti), Singapore và các nước EU nhất và Châu Mỹ La Tinh không cần thị thực cho kỳ nghỉ hoặc kinh doanh của 90 ngày hoặc ít hơn. Quốc gia khác cần phải xin thị thực trước tại một đại sứ quán hoặc lãnh sự quán của TT ở nước ngoài. Khi rời khỏi đất nước, có thuế đi của TT $ 75 trên phà tới Venezuela.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Bénin", "role": "user" }, { "content": "Bénin [1] là một quốc gia thuộc châu Phi. Besnin có tên cũ là Dahomey (cho tới năm 1975) hay Dahomania. Nó có chung biên giới với Togo ở phía tây, Nigeria ở phía đông và Burkina Faso cùng Niger ở phía bắc; bờ biển ngắn ở phía nam nước này dẫn tới Eo Benin. Thủ đô của Bénin là Porto Novo, nhưng chính phủ đóng trụ sở tại Cotonou. Vương quốc Dahomey tại Châu Phi được một nhóm sắc tộc bản địa thành lập tại đồng bằng Abomey. Nhà sử học IA Akinjogbin đã đưa ra lý thuyết cho rằng sự mất an ninh do tình trạng buôn bán nô lệ có thể đã góp phần vào việc di cư hàng loạt của các nhóm người khác nhau, gồm cả một thành phần gia đình hoàng gia tại thành phố Allada, tới Abomey. Các nhóm đó kết hợp xung quanh một nền văn minh quân sự chặt chẽ với mục tiêu đảm bảo an ninh và cuối cùng là mở rộng các biên giới của vương quốc nhỏ bé. Dahomey được biết tới với nền văn hóa và các truyền thống riêng biệt của nó. Các chú bé được cho học nghề với những người lính từ khi còn rất nhỏ, và học về các truyền thống quân sự của vương quốc cho tới khi đủ tuổi gia nhập quân đội. Dahomey cũng nổi tiếng về một đội ngũ binh lính nữ ưu tú, được gọi là \"Ahosi\" hay \"những người mẹ của chúng ta\" trong tiếng Fongbe, nhưng thường được chuyển tự sang tiếng Anh là Dahomean Amazons. Sự nhấn mạnh trên nguyên tắc quân sự và thành công này khiến người Dahomey được những nhà nghiên cứu Châu Âu như Sir Richard Francis Burton đặt biệt hiệu \"những Sparta đen nhỏ bé\". Hiến tế người là việc thường xuyên, theo các nguồn tin đương thời; vào những ngày lễ và những dịp đặc biệt, hàng ngàn nô lệ và tù binh chiến tranh bị chém đầu trước công chúng. Một số niềm tin tôn giáo Dahomey cho rằng việc chém đầu người sẽ làm tăng uy danh và quyền lực của nhà vua Dahomey cũng như cho các chiến binh của họ. Dù những người thành lập Dahomey dường như ban đầu đã chống lại nó, việc buôn bán nô lệ luôn có trong tôn giáo của Dahomey trong hầu như suốt ba trăm năm, dẫn tới việc vùng này được gọi là \"Bờ biển Nô lệ\". Những nhu cầu nghi lễ triều đình, đòi hỏi một phần tù nhân bị bắt giữ qua các trận chiến phải được đem ra chặt đầu, dẫn tới việc giảm số lượng nô lệ xuất khẩu từ vùng này. Con số này đã giảm từ 20.000 ở cuối thế kỷ 17 xuống còn 12.000 vào đầu thập niên 1800. Sự suy giảm một phần do nhiều quốc gia thuộc địa đã tuyên bố việc buôn bán nô lệ là trái pháp luật. Sự sụt giảm này tiếp tục kéo dài tới năm 1885, khi con tàu buôn cuối cùng của Bồ Đào Nha rời cảng với những người nô lệ trên boong từ một nơi thuộc Bénin ngày nay. Cùng với vương quốc hùng mạnh Dahomey, một số lượng các quốc gia khác tại những vùng có người ở sau này sẽ trở thành Cộng hoà Bénin. Những quốc gia đáng chú ý gồm Ketu, Icha, Dassa, Anago, và các phụ nhóm của người nói tiếng Yoruba. Những nhóm này có quan hệ chặt chẽ với các phụ nhóm ở Nigeria ngày nay, và thường là kẻ đối địch với người Dahomey. Tuy nhiên, một số người lại là công dân của Dahomey và theo các tôn giáo như tại Porto Novo hiện nay, giữa hai nhóm có hôn nhân lai chủng. Các dân tộc phía bắc là Borgu, Mahi, và nhiều nhóm sắc tộc khác tạo nên dân số hiện nay của quốc gia. Tới giữa thế kỷ 19, Dahomey bắt đầu đánh mất vị trí và sức mạnh trong vùng, khiến người Pháp có cơ hội chiếm toàn bộ vùng này năm 1892. Năm 1899, vùng đất trở thành một phần của thuộc địa Tây Phi thuộc Pháp, vẫn giữ tên gọi là Dahomey. Năm 1958, nó được trao quyền tự trị với tên gọi Cộng hoà Dahomey, và bắt đầu có quyền độc lập hoàn toàn từ ngày 1 tháng 8 năm 1960. Trong 12 năm tiếp theo, những xung đột sắc tộc dẫn tới một giai đoạn hỗn loạn. Nhiều cuộc đảo chính, thay đổi chế độ, với ba nhân vật chính là Sourou Apithy, Hubert Maga và Justin Ahomadegbé, mỗi người trong số họ đều đại diện cho một vùng đất trong nước. Ba người này đã quyết định thành lập hội đồng tổng thống sau khi bạo lực đã ngăn cản cuộc bầu cử năm 1970. Năm 1972, một cuộc đảo chính quân sự do Mathieu Kérékou lãnh đạo đã lật đổ hội đồng. Ông lập ra một chính phủ theo chủ nghĩa Marx dưới quyền kiểm soát của Hội đồng Quân đội Cách mạng (CNR), và đất nước được đổi tên thành Cộng hòa Nhân dân Bénin năm 1975. Năm 1979, Hội đồng Quân đội Cách mạng giải tán và cuộc bầu cử diễn ra. Tới cuối thập niên 1980, Kérékou đã từ bỏ chủ nghĩa Marx sau một cuộc khủng hoảng kinh tế và quyết định tái lập hệ thống nghị viện tư bản. Ông bị đánh bại năm 1991 trong cuộc bầu cử trước Nicéphore Soglo, trở thành tổng thống da đen đầu tiên của Châu Phi thôi chức sau một cuộc bầu cử. Ông quay trở lại nắm quyền sau chiến thắng tại cuộc bầu cử năm 1996. Năm 2001, một cuộc bầu cử với kết quả sít sao khác khiến Kérékou tiếp tục thắng cử một nhiệm kỳ nữa. Những đối thủ của ông đã đưa ra một số lời buộc tội gian lận trong bầu cử. Tổng thống Kérékou và cựu Tổng thống Soglo không ra tranh cử trong cuộc bầu cử năm 2006, cả hai đều bị hiến pháp Bénin ngăn cấm tranh cử vì tuổi tác và Tổng thống Kérékou đã giữ hai nhiệm kỳ liên tiếp trước đó. Tổng thống Kérékou được nhiều người ca ngợi vì đã không tìm cách sửa đổi hiến pháp để có thể tiếp tục tại vị hay tranh cử nhiệm kỳ thứ ba, không giống như một số lãnh đạo Châu Phi khác. Một cuộc bầu cử, được cho là công bằng và tự do, đã được tổ chức ngày 5 tháng 3 năm 2006, và dẫn tới vòng loại trực tiếp giữa Yayi Boni và Adrien Houngbédji. Vòng loại trực tiếp được tổ chức ngày 19 tháng 3 với thắng lợi của Yayi Boni, ông lên nhậm chức ngày 6 tháng 4. Thắng lợi của cuộc bầu cử đa đảng tại Bénin được ca ngợi rộng rãi, và Bénin được nhiều bên coi là một hình mẫu dân chủ tại Châu Phi. Trải dài giữa sông Niger ở phía bắc và Eo Benin ở phía nam, cao độ của Bénin hầu như bằng nhau trên toàn đất nước. Đa phần dân số sống tại những đồng bằng ven biển phía nam, nơi có những thành phố lớn nhất nước, gồm Porto Novo và Cotonou. phía bắc đất nước đa phần gồm đồng cỏ và cao nguyên bán khô cằn. Khí hậu Bénin nóng và ẩm với lượng mưa khá nhỏ so với các nước Tây Phi khác, dù có hai mùa mưa (tháng 4, tháng 6 và tháng 9 tháng 11). Trong mùa đông gió bụi harmattan có thể khiến trời đêm lạnh hơn. Thành phố lớn nhất và là thủ đô là Cotonou. Cái tên Cotonou xuất phát từ câu ku tɔ nu (tại hồ thần chết) trong tiếng Fon, là phá ở bên cạnh. Đây là một minh chứng cho niềm tin rằng các ngôi sao rơi xuống tượng trưng cho những linh hồn người chết ở thế giới bên kia. Chuyện kể rằng khi Cotonou được thành lập, ánh sáng của các làng ven hồ Ganvié suốt dọc phá chiếu ánh lung linh trên mặt nước, cho thấy những ngôi sao rơi bên dưới. Ganvié là một làng chài gồm những nhà sàn ven hồ ở bờ phía tây phá. Thị trấn Ouidah là thủ đô tín ngưỡng của vodun, được dân bản địa gọi là glexwe. Đây từng là một cảng nô lệ lớn thời Bồ Đào Nha. Thị trấn Abomey là thủ đô cũ của Vương quốc Dahomey, và các vị vua Fon luôn sống ở đó. Tại tỉnh Atakora, các khu định cư Betamaribe bên cạnh biên giới Togolese được gọi là tata somba (nhà Somba); chúng nổi tiếng vì các pháo đài, với các ngôi nhà bên trong và những người dân ngủ trong các túp lều giữa các kho thóc trên mái. Chính trị Bénin dựa trên mô hình cộng hoà đại diện dân chủ tổng thống, theo đó Tổng thống Bénin vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là lãnh đạo chính phủ, và trên một hệ thống đa đảng đa dạng. Quyền hành pháp do chính phủ đảm nhận. Quyền lập pháp vừa do chính phủ vừa do nhánh lập pháp đảm nhận. Tư pháp độc lập với hành pháp và lập pháp. Hệ thống chính trị hiện nay được thành lập theo Hiến pháp Bénin năm 1990 và cuộc chuyển tiếp dân chủ sau đó năm 1991. Kinh tế Bénin còn ở tình trạng chưa phát triển và dựa chủ yếu vào nông nghiệp, sản xuất bông và thương mại vùng. Tăng trưởng sản xuất thực trung bình ở mức ổn định 5% trong sáu năm qua, nhưng mức tăng dân số quá nhanh khiến con số trên không còn mang ý nghĩa. Lạm phát đã giảm xuống trong những năm gần đây. Đề tăng mức tăng trưởng kinh tế hơn nữa, Bénin đã đưa ra các kế hoạch nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, nhấn mạnh hơn trên du lịch, khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm mới và sản phẩm nông nghiệp, cũng như tăng cường công nghệ thông tin và tin học. Chính sách tư nhân hóa năm 2001 cần tiếp tục thực hiện ở cả lĩnh vực viễn thông, nước, điện, và nông nghiệp, dù chính phủ ban đầu có e ngại trong các lĩnh vực đó. Câu lạc bộ Paris và các chủ nợ đã giãn nợ cho Bénin, tuy nhiên vẫn thúc ép nước này tăng tốc cải cách cơ cấu. Porto-Novo — thủ đô Abomey — các cung điện hoàng gia là Di sản thế giới UNESCO Cotonou — thành phố cảng, sân bay quốc tế Grand Popo — Thành phố nghỉ dưỡng bãi biển thị trấn nghỉ mát gần biên giới Togo Kétou Parakou —thành phố lớn nhất ở miền trung Malanville — thành phố lớn nhất ở viễn bắc, nằm ở biên giới với Niger Natitingou — thành phố lớn nhất trên đường đến bắc Togo hay Burkina Faso. Tanguiéta Phát phương tiện Ganvié Vườn quốc gia Pendjari Vườn quốc gia W Công dân quốc gia sau đây không cần visa: Algeria, Bulgaria, Burkina Faso, Cape Verde, Cộng hòa Trung Phi, Chad, Cộng hòa Congo, Bờ Biển Ngà, Gabon, Gambia, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Liberia, Madagascar, Mali, Mauritania, Niger, Nigeria, Rwanda, Senegal, Sierra Leone, Nam Phi, Đài Loan, và Togo. Thị thực có thể là mục duy nhất (40 USD) hoặc nhập cảnh nhiều lần (45 USD) và 30 ngày. Thị thực có giá 140 USD cho công dân Mỹ. Ở Paris, một chi phí thị thực nhập cảnh € 70 cho tất cả các công dân EU. Có rất nhiều chuyến bay quốc tế đến tại sân bay chính ở Cotonou. Từ đây bạn có thể kết nối đến Paris, Amsterdam, Moscow, và một loạt các thành phố ở Tây Phi. Để nhập cảnh, bạn sẽ cần bằng chứng rằng bạn đã tiêm chủng sốt vàng da, và điều này sẽ cần phải có sẵn tại sân bay. Không có dịch vụ đào tạo quốc tế tới Benin. Có giao cắt đất với tất cả các nước có chung biên giới nhưng do mâu thuẫn, nó chỉ được đề nghị để vượt qua hai biên giới ven biển với Togo và Nigeria.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Đại Học (kinh điển)", "role": "user" }, { "content": "Sách Đại Học dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi bước vào bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác việc nước. Tri chỉ nhi hậu hữu định, Định nhi hậu năng tỉnh, Tĩnh nhi hậu năng an, an nhi hậu năng lự, Lự nhi hậu năng đắc Có biết đến cùng sau mới định trí, định trí sau mới tỉnh, định tỉnh sau mới yên, yên sau mới có thể nghỉ ngợi tinh tường, nghỉ ngợi tinh tường sau mới lĩnh ngộ được điều hay lẽ phải.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Vancouver (Washington)", "role": "user" }, { "content": "Vancouver là một thành phố thuộc tiểu bang Washington, Hoa Kỳ. Vancouver, Washington là một thành phố nằm ở bờ bắc sông Columbia, là quận lỵ quận Clark, bang Washington, Hoa Kỳ. Theo điều tra dân số Hoa Kỳ 2010, thành phố có dân số 161.791 người. Đây là thành phố lớn thứ 145 Hoa Kỳ theo dân số và lớn thứ 4 bang. Thành phố có diện tích 119,5 km2, mật độ dân số 3479,4 người/dặm Anh vuông. Thành phố này là một phần của vùng đô thị Portland-Vancouver, vùng đô thị lớn thứ 23 ở Hoa Kỳ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Công viên Văn hoá Đầm Sen", "role": "user" }, { "content": "Công viên Văn hoá Đầm Sen là công viên giải trí nằm trên đường Hòa Bình, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. Công viên có diện tích 50 hecta gồm 20% là mặt hồ và 60% cây xanh và vườn hoa. Khi đến đây du khách có thể đi nhiều ngày mới thấu trên 30 khu vực: Khu trò chơi điện tử, Sân khấu cổ tích, Lâu đài cổ tích, Sân khấu quảng trường, Hồ Tây thu nhỏ, Nam tú thượng uyển, Non bộ - thủy cung, Ðảo khiêu vũ, Nhà sinh vật biển, Rối nước, Vườn chim thiên nhiên, Chùa cổ Giác Viên, Vườn bướm thiên nhiên, Khu câu cá, Khu trưng bày kỳ long, Quán trà đạo, Khu trò chơi mạo hiểm, Hồ thiên nga, Hồ ngựa phi, Vườn hoa châu Âu, Quảng trường La Mã, Quảng trường văn hoá, Sân khấu nhạc nước, Khu bowling, Khu dịch vụ thể thao, Hồ câu tôm, Nhà hàng thủy tạ, Khu trò chơi thiếu nhi, Ðèn tạo hình, Cầu cửu khúc, Nhà ga Monorail, đường ray Monorail, câu cá sấu, băng đăng... Vườn nhiệt đới với trên 70 loài chim và 20 loài thú sống quần cư. Một hòn non bộ cao 22m với nhiều thác ghềnh, hang động mà tầng hang động lớn nhất được bố trí thành thuỷ cung với đủ các loài cá nhiều màu. Rồi Nam tú thượng uyển với một hệ thống vườn phong lan, các loại cây cảnh bonsai phong phú và đa dạng. Với đối tượng thiếu niên ưa hiếu động trong công viên có khá nhiều sân chơi hấp dẫn: sân trượt patanh, xe ô tô điện, tàu trượt cao tốc, công viên nước...Ðặc biệt trong công viên nước Ðầm Sen có những công trình mà chưa công viên nào trong nước có: Tàu du lịch trên không (Monorail). Ngồi trên tàu chạy trên cao 5m so với mặt đất và với chiều dài gần 2000m du khách có thể quan sát toàn bộ cảnh trí công viên Ðầm Sen với góc nhìn đẹp nhất. Bạn nào ưa trò mạo hiểm có thể thử sức với thuyền mạo hiểm vượt thác. Con thuyền sẽ đưa bạn qua thác ghềnh, hang động, và lao xuống theo thác nước dựng đứng. Công trình gây ấn tượng nhiều nhất có lẽ là vườn Châu Âu - Quảng trường La Mã: đây là hệ thống vườn hoa kiểu châu Âu được tạo dáng bằng các bồn hoa hồng nhiều màu sắc, các cột trụ La Mã uy nghi, những tượng đá duyên dáng và sân khấu nhạc nước gồm 3.000 chổ ngồi... Sân khấu Laser Nhạc Nước được xây dựng năm 2005 với số vốn đầu tư 12 tỷ đồng, vị trí nằm phía sau vườn hoa Châu Âu, sân khấu có mái che với sức chứa 3.000 chỗ ngồi. Sân khấu Laser Nhạc Nước là một loại hình nghệ thuật độc đáo, hiện đại, duy nhất tại Việt Nam mà các kỹ sư Đầm Sen đã học được từ mô hình nhạc nước ở đảo Sentosa (Singapore). Đây là sự kết hợp giữa chương trình ca nhạc với sân khấu thiết kế chuyên biệt có hệ thống phun nước và đèn laser, chiếu phim trên màn hình nước cao 28m. Phối hợp yếu tố nghệ thuật với kỹ thuật, những vòi phun nước chuyển động huyền ảo với ánh sáng, màu sắc và âm nhạc. Đầm Sen là một trong những khu du lịch lớn đặc sắc nhất nước Việt Nam. Kiến trúc được kết hợp một cách hoàn mĩ nền văn hóa Đông-Tây và một chút vẻ đẹp thời La Mã. Ngoài những khu vui chơi, Đầm Sen còn có những nhà hàng, khách sạn và hàng chục các loại hình khác để phục vụ khách du lịch. Trước năm 1975, mảnh đất thuộc Công viên Văn hoá Đầm Sen hiện nay là một khu đầm lầy hoang hoá. Trong các năm 1976-1978, theo lời kêu gọi của Thành ủy - UBND TP Hồ Chí Minh, hàng chục ngàn lao động từ khắp các quận, huyện trong thành phố được huy động đến để nạo vét, trồng cây ở khu vực này. Năm 1983, công trình bước đầu đưa vào sử dụng khoảng 30 ha vừa mặt nước, vừa thảm xanh. Thành phố giao cho Quận 11 quản lý. UBND Quận 11 giao cho 3 đơn vị: Công ty Ăn uống Q.11, Công ty Văn hóa tổng hợp và Xí nghiệp nuôi trồng thủy sản khai thác. Năm 1989, công trình được giao cho Công ty Dịch vụ Du lịch Phú Thọ - đơn vị vừa mới tách ra từ Công ty Ăn uống Q.11 - quản lí và đầu tư cho đến nay. Đầm Sen gồm 5 cổng chính: Cổng Hòa Bình. Cổng Lạc Long Quân. Cổng Chùa Giác Viên. Cổng Tân Hóa. Cổng Thủy Tạ", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Điểm đến", "role": "user" }, { "content": "Wikivoyage tiếng Việt cung cấp cho bạn 1.847 bài viết về cẩm nang du lịch. Có nhiều cách để truy cập đến một bài viết về địa điểm: Nhấp vào bản đồ để xem các địa điểm Nhấp vào bản đồ bên dưới để chuyển đến một bài viết về địa điểm, sau truy cập đến bài viết mà bạn mong muốn (ví dụ: Bắc Mỹ → Hoa Kỳ → California → San Francisco): Truy cập đến một điểm đến bắt đầu với các liên kết dưới đây Nhấp vào liên kết bên dưới và sau đó truy cập đến bài viết mà bạn mong muốn (ví dụ: Bắc Mỹ → Hợp chủng quốc Hoa Kỳ → California → San Francisco): Tìm kiếm một bài viết về điểm đến theo tên Sử dụng hộp bên dưới để tìm kiếm một bài viết về một chủ đề hoặc điểm đến mà bạn quan tâm (ví dụ: tìm kiếm \"Tokyo\" hoặc \"Leo núi\"): Truy cập đến một điểm đến cụ thể Sử dụng bản đồ bên dưới để phóng to điểm đánh dấu cho một điểm đến cụ thể và xem bài viết của địa điểm đó trong Wikivoyage tiếng Việt (sử dụng lựa chọn menu bên phải phía dưới và chọn \"Bài viết gần đó\" sau khi bạn phóng to vào quốc gia hoặc địa điểm mà bạn đang quan tâm):", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Mexico", "role": "user" }, { "content": "Mexico là một quốc gia ở Trung Mỹ. Thủ đô là Thành phố Mexico. Phía bắc quốc gia này giáp Hoa Kỳ, phía nam giáp Guatemala và Belize. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Tây Ban Nha. Mexico, đất nước ở Trung Mỹ có hơn 100 triệu dân được biết đến như một địa danh du lịch hấp dẫn du khách đến từ mọi miền thế giới. Đất nuớc này nổi tiếng bởi các khu nghỉ mát trên bờ biển trải dài cát trắng, thiên nhiên kỳ thú, những công trình kiến trúc cổ, di tích lịch sử in đậm dấu ấn thời gian, truyền thống văn hóa và lòng mến khách, đặc biệt là dịch vụ du lịch được thế giới công nhận. Những thành tựu đạt được trong việc xây dựng đất nước thành một địa danh du lịch bền vững đã giúp Mexico giành được Giải thưởng du lịch thế giới năm 2001. Giải thưởng về du lịch tạo thêm động lực mới cho Mexico vạch kế hoạch phát triển du lịch thành ngành công nghiệp mạnh của đất nước. México (thường được phiên âm trong tiếng Việt là Mê-xi-cô hay Mê-hi-cô, Hán Việt: Mễ Tây Cơ), tên chính thức là Liên bang México (tiếng Tây Ban Nha: Estados Unidos Mexicanos) là một nước cộng hòa liên bang thuộc khu vực Bắc Mỹ. México là một quốc gia rộng lớn với diện tích gần 2 triệu km2, đứng hàng thứ 14 trên thế giới và dân số khoảng 106 triệu người, đứng hàng thứ 11 trên thế giới. Nước này giáp với Hoa Kỳ về phía bắc, giáp với Guatemala và Belize về phía đông nam, giáp với Thái Bình Dương về phía tây và tây nam, giáp với vịnh México về phía đông. Liên bang México là quốc gia theo thể chế cộng hòa liên bang. Nước này có tổng cộng 31 bang và 1 quận thuộc liên bang là thủ đô México, một trong những khu đô thị đông dân cư nhất trên thế giới. México là một đất nước có thiên nhiên đa dạng và nền văn hóa vô cùng đặc sắc, mang ảnh hưởng của cả nền văn hóa bản địa truyền thống và văn hóa Tây Ban Nha. Nước này có số lượng người nói tiếng Tây Ban Nha cao nhất trên thế giới và tôn giáo chủ yếu tại đây là Công giáo Rôma. Đất nước México là nơi ra đời của hai nền văn minh lớn của Châu Mỹ là Maya và Aztec. Bắt đầu từ thế kỉ 16, México bị thực dân Tây Ban Nha đô hộ và đến năm 1810 thì tuyên bố độc lập và chính thức được công nhận vào năm 1821. México hiện nay là quốc gia Mỹ Latinh duy nhất nằm trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế. Nước này hiện là nền kinh tế lớn thứ 11 trên thế giới và có thu nhập bình quân đầu người thuộc nhóm trung bình cao. Kinh tế México có mối liên hệ chặt chẽ với Canada và Mỹ nhờ Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ. México còn là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế khác như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới. Tuy được đánh giá là một trong những quốc gia đang lên và đóng vai trò quan trọng trong khu vực Mỹ Latinh, song México cũng gặp phải một số vấn đề khó khăn như sự bất bình đẳng trong thu nhập, nghèo đói và tình trạng bạo lực, buôn bán ma túy tại nhiều vùng của México. Dấu vết cổ xưa nhất về con người được tìm thấy tại thung lũng México là một bãi lửa trại được xác định có niên đại khoảng 21.000 năm trước[6]. Trong hàng ngàn năm, người da đỏ ở México đã sinh sống như những cộng đồng chuyên về săn bắn. Khoảng 9.000 năm trước, họ đã bắt đầu canh tác ngô và khởi đầu một cuộc cách mạng trong nông nghiệp, dẫn đến sự thành lập hàng loạt những quốc gia có trình độ phát triển cao và đạt được nhiều thành tựu to lớn về nhiều mặt, tiêu biểu là các quốc gia của người Maya và người Aztec. Họ đã đạt được nhiều thành tựu lớn về chữ viết, toán học, thiên văn học, nghệ thuật và kiến trúc... Những công trình tiêu biểu cho các nền văn hóa tiền Colombo này là các kim tự tháp, tiêu biểu như quần thể kim tự tháp tại Chichen Itza. Đế chế Aztec đã xây dựng nên một quốc gia hùng mạnh với thủ đô đặt tại Tenochtitlan, nay là thành phố México. Năm 1519, người Tây Ban Nha xâm lược các quốc gia của người da đỏ tại México. Năm 1521, thành phố Tenochtitlan bị chiếm đóng và phá hủy, đánh dấu sự chấm dứt của đế chế Aztec trên bản đồ thế giới. Người dân bản địa lần lượt bị bắt làm nô lệ hoặc bị tàn sát rất dã man, đồng thời bên cạnh đó là sự phá hủy vô cùng to lớn của người Tây Ban Nha đối với gia tài văn hóa truyền thống của họ. Năm 1535, Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha được thành lập tại México và một số vùng lân cận. Đây là thuộc địa đầu tiên và lớn nhất của người Tây Ban Nha tại Tân thế giới và đã đem lại một nguồn của cải dồi dào cho chính quốc thông qua sự cướp bóc tài nguyên và nô lệ tại đây. Gần 300 năm sau khi trở thành thuộc địa của Đế quốc Tây Ban Nha, vào năm 1810, một mục sư người México là Miguel Hidalgo y Costilla đã tuyên bố nền độc lập cho México. Tiếp theo đó là một cuộc chiến tranh kéo dài của nhân dân México chống lại quân đội Tây Ban Nha cho đến năm 1821, México chính thức giành được độc lập. Đế chế Thứ nhất của México được hình thành trong một thời gian ngắn ngủi, bao gồm toàn bộ lãnh thổ của nước México ngày nay, toàn bộ khu vực Trung Mỹ (trừ Panama và Belize), các bang miền tây và miền nam Hoa Kỳ (California, Nevada, Utah, Arizona, New Mexico, Texas). Agustin de Iturbide tự xưng là hoàng đế của Đế chế Thứ nhất nhưng bị các lực lượng cộng hòa lật đổ hai năm sau đó. Các tỉnh ở Trung Mỹ tách ra độc lập năm 1823 và thành lập nên nước Cộng hòa Liên bang Trung Mỹ, nhưng về sau bị vỡ vụn ra nhiều quốc gia độc lập nhỏ hơn. Bốn thập kỉ sau khi giành được quyền độc lập, đất nước México vẫn đầy các xung đột do sự đối đầu giữa những người tự do và bảo thủ tại nước này. Tướng Antonio Lopez de Santa Anna là một nhân vật có ảnh hưởng lớn đối với nền chính trị của México thời gian này. Năm 1836, ông thông qua Siete Leyes nhằm thể chế hóa chính phủ tập trung quyền lực tại México dẫn đến việc đình chỉ Hiến pháp 1824. Có ba vùng đất thuộc México đã nổi dậy đòi độc lập là Cộng hòa Texas, Cộng hòa Rio Grande và Cộng hòa Yucatan. México đã tái thu phục được Rio Grande và Yucatan nhưng đã thất bại trong việc chiếm lại Texas. Không chỉ vậy, Texas sau đó đã được sát nhập vào Hoa Kỳ và những tranh chấp về đất đai, lãnh thổ với nước láng giềng phương Bắc đã làm bùng nổ cuộc chiến tranh Mỹ-México (1846-1848) với thất bại nặng nề thuộc về México. Năm 1848, Hiệp ước Guadalupe-Hidalgo được ký kết, theo đó México mất tới 1/3 diện tích lãnh thổ cho Hoa Kỳ. Chán nản trước thất bại của tướng Santa Anna, một phong trào cải cách đã lan rộng tai México. Đây được gọi là thời kỳ 'La Reforma', với một hiến pháp mới được ban hành theo đó tái thành lập thể chế liên bang và lần đầu tiên giới thiệu về quyền tự do tôn giáo tại México. Những năm 1860, México phải đối mặt với sự xâm lăng của nước Pháp. Công tước Ferdinand Maximilian của Áo (thuộc dòng họ Habsburg) được chọn để trở thành vua của Đế chế México Thứ hai. Tuy nhiên chính thể phong kiến này cũng chỉ tồn tại được trong một thời gian ngắn ngủi. Năm 1867, Benito Juarez, một người da đỏ Zapotec đã tái khôi phục nền cộng hòa và trở thành tổng thống da đỏ đầu tiên của México. Ông được đánh giá là vị tổng thống vĩ đại nhất của México trong thế kỉ 19. Porfirio Diaz đã cai trị một cách độc tài đất nước México trong khoảng thời gian từ năm 1880 đến năm 1911. Giai đoạn này, được gọi là Porfiriato được biết đến với những thành tựu lớn của nền kinh tế México, khoa học, nghệ thuật phát triển song bên cạnh đó là sự bất bình đẳng trong thu nhập giữa người giàu và người nghèo và sự đàn áp về chính trị. Cuộc bầu cử giả mạo để tiếp tục nhiệm kỳ thứ năm của Diaz đã bị người dân phản ứng dữ dội, dẫn đến việc cuộc Cách mạng México bùng nổ vào năm 1910. Hệ quả của cuộc cách mạng là một hiến pháp mới đã được ban hành vào năm 1917 và tiếp sau đó là một loạt những biến động trên chính trường México. Đất nước rơi vào cuộc nội chiến giữa các phe phái và nhiều nhân vật lãnh đạo quan trọng bị ám sát. Tình hình tương đối ổn định trở lại từ khi Đảng Cách mạng Quốc gia, về sau đổi tên là Đảng Cách mạng Thể chế (PRI) lên nắm quyền vào năm 1929 và đóng vai trò quan trọng trên chính trường México suốt 71 năm sau đó. Thời gian từ thập niên 1940 đến 1980 được đánh dấu bởi sự phát triển kinh tế vượt bậc của México và được các nhà sử học gọi là \"El Milagro Mexicano\", tức \"Phép màu México\". México đã có những cố gắng quan trọng trong việc quốc hữu hóa các tài sản của quốc gia như khoáng sản và dầu khí. vào năm 1938, tổng thống Lázaro Cárdenas đã quyết định quốc hữu hóa tất cả các công ty khai thác dầu và buộc họ phải sát nhập vào PEMEX, công ty dầu khí quốc doanh của México. Sự kiện này đã gây ra một cuộc khủng hoảng trong quan hệ ngoại giao giữa México với các nước tham gia khai thác tài nguyên tại đây. Kinh tế phát triển nhưng vẫn chưa đủ sức xóa hết những căng thẳng trong xã hội México, mà đỉnh cao là cuộc thảm sát Tlatelolco tại chính thủ đô México năm 1968[8]. Thời kỳ hoàng kim của kinh tế México kết thúc vào năm 1982 với một cuộc đại khủng hoảng. Giá dầu lửa, mặt hàng xuất khẩu chủ lực của México bị mất giá trầm trọng, tỉ lệ lãi suất tăng vọt và chính phủ México hoàn toàn bị vỡ nợ với những khoản nợ khổng lồ. Tiếp theo đó là một thời kỳ lạm phát kéo dài và México trở thành một quốc gia phá sản. México lại một lần nữa đối mặt với khủng hoảng kinh tế - tài chính lớn vào cuối năm 1994 với tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1995 là -6,9%[9]. Hiện nay tình hình kinh tế México đã có nhiều cải thiện quan trọng theo hướng tự do hóa thị trường, đồng thời liên kết với các bạn hàng lớn là Hoa Kỳ và Canada để phát triển trong NAFTA (Hiệp định Tự do Thương mại Bắc Mỹ). Tăng trưởng kinh tế dần đi vào ổn định và México đã trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới. Về chính trị, đã có một sự thay đổi lớn trên chính trường México trong cuộc bầu cử năm 2000. Lần đầu tiên sau 71 năm, Đảng Cách mạng Thể chế (PRI) để mất chiếc ghế tổng thống vào tay Đảng Hành động Quốc gia (PAN) là ông Vicente Fox. Trong cuộc bầu cử năm 2006, PRI thậm chí còn bị tụt xuống thứ ba, sau khi bị Đảng Cách mạng Dân chủ (PRD) vượt lên. Tổng thống México hiện nay là ông Felipe Calderon (2006-2012) của đảng PAN. Calderon tuyên chuyến với các băng đảng ma túy và tổ chức chiến dịch vào các cùng do các tay buôn lậu kiểm soát. Đất nước México có địa hình chủ yếu là đồi núi. Nước này có 3 dãy núi chính và đều nằm dọc theo đường bờ biển của Mexico. Trong đó Siera Madre Occidental là dãy núi dài nhất, kéo dài tới 5000 km theo dọc bờ biển phía tây giáp Thái Bình Dương của nước này. Ở bờ biển phía đông có dãy núi Siera Madre Oriental dài 1350 km và vùng bờ biển phía nam có dãy Sierra Madre de Sur dài 1200 km. Nằm giữa những dãy núi này với đường bờ biển là các đồng bằng nhỏ và hẹp. Cao nguyên México chiếm một phần lớn diện tích trung tâm đất nước và nằm giữa hai dãy Siera Madrea Occidental và Siera Madre Oriental. Trong khi phía bắc cao nguyên México có địa hình thấp hơn (trung bình khoảng 1100 m) với nhiều bồn địa thì phía nam cao nguyên địa hình lại cao hơn. Những thung lũng thuộc miền nam cao nguyên México tập trung rất nhiều thành phố lớn như thành phố Mexico hay Guadalajara. Mexico nằm trên một khu vực không ổn định, gần nơi tiếp giáp giữa hai địa mảng Cocos và Bắc Mỹ nền thường hay xảy ra những trận động đất và núi lửa phun trào. Ngọn núi lửa Orizaba (5636 m) là ngọn núi cao nhất tại México và thứ ba tại Bắc Mỹ. Dãy núi lớn thứ ba tại México là Sierra Nevada, hay được gọi là Vành đai núi lửa Mexico là một chuỗi các núi lửa chắn ngang đất nước México theo chiều đông-tây. Dãy núi lớn thứ tư của México là Sierra Madre del Sur nằm dọc theo bờ biển tây nam nước này. Mexico có khoảng 150 con sông nhưng lượng nước phân bố không đồng đều trên toàn bộ lãnh thổ. Phần nhiều các con sông lớn đều chảy về phía đông vào vịnh Mexico và biển Caribbean. Có thể nói, đường chí tuyến bắc đã phân chia lãnh thổ México thành hai vùng khí hậu riêng biệt: nửa phía bắc chí tuyến có khí hậu ôn hòa còn nửa phía nam chí tuyến thì có điều kiện khí hậu phụ thuộc nhiều vào độ cao. México là một đất nước có nhiều núi non trùng điệp và điều này đã khiến cho México trở thành một trong những quốc gia có hệ thống khí hậu đa dạng nhất trên thế giới. Ở nửa phía nam của đường chí tuyến, tại những vùng có độ cao không vượt quá 1000 m thì có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm quanh năm, với nhiệt độ trung bình năm dao động trong khoảng 24° - 28 °C, chênh lệch nhiệt độ giữa mùa hè và mùa đông không quá lớn, chỉ khoảng 5 °C. Trong khi đó, những vùng ở phía bắc đường chí tuyến của México thì có nhiệt độ trung bình năm thấp hơn, vào khoảng 20° - 24 °C với mùa hè nóng ẩm còn mùa đông thì lạnh và khô. Thung lũng México nằm ở phía nam đường chí tuyến là một khu vực tập trung nhiều khu vực đô thị lớn của đất nước, trong đó có thành phố Mexico. Khu vực này nằm ở độ cao trên 2000 m nên nhìn chung có khí hậu ôn hòa tương đối dễ chịu, nhiệt độ trung bình năm dao động trong khoảng 16° - 18 °C. Nhiều vùng đất ở Mexico, đặc biệt là tại phía bắc đường chí tuyến thường có rất ít mưa, tạo nên một số vùng hoang mạc lớn tại đất nước này. Trong khi đó miền nam México (đặc biệt là những vùng đồng bằng duyên hải như bán đảo Yucatan) thì lượng mưa thường đạt trên 2000 mm/năm. Thành phố Mexico - Thủ đô của nước Cộng hòa, một trong ba thành phố lớn nhất trên thế giới, và một trung tâm đô thị phức tạp với một lịch sử 700 năm. Tại Thành phố Mexico, bạn sẽ tìm thấy tất cả mọi thứ từ công viên, di tích Aztec, kiến ​​trúc thuộc địa, viện bảo tàng, để cuộc sống về đêm và mua sắm. Acapulco - Đô thị bãi biển tinh tế nổi tiếng với cuộc sống về đêm hàng đầu, ẩm thực thanh lịch, giao thông tắc nghẽn. Cancún - một trong những nơi có bãi biển nổi tiếng nhất thế giới, nổi tiếng với vùng nước của trong Caribbea, bầu không khí bên sống động, và sự phong phú các cơ sở vui chơi giải trí. Guadalajara - một thành phố truyền thống, thủ phủ bang Jalisco, nơi có âm nhạc mariachi và tequila. Guadalajara có thời tiết mùa xuân vĩnh viễn và trung tâm thành phố thuộc địa của nó là duyên dáng và tinh tế. Mazatlan - Thành thị bờ biển Thái Bình Dương, Mazatlan là một hải cảng, một trung tâm giao với phà đi Baja California, và là một điểm đến khu nghỉ mát bãi biển với bờ cát dài hàng dặm. Monterrey - một thành phố lớn hiện đại là trung tâm thương mại và công nghiệp của miền Bắc Mexico. Monterrey hưởng một môi trường khô, miền núi, được biết đến với cơ sở hạ tầng giáo dục và giao thông vận tải chất lượng cao của nó. San Luis Potosi - nằm ở trung tâm Mexico, một thành phố thuộc địa đã từng là một nhà sản xuất bạc quan trọng, nhưng ngày nay, kinh tế dựa vào sản xuất. Taxco - tọa lạc ở trung tâm phía tây của Mexico Cuernavaca, phố núi dốc đẹp này đã từng là một nơi sản xuất bạc lớn, và nay có một vị trí mạnh mẽ trong thương mại bạc trang trí, từ phụ kiện giá rẻ đến đồ trang sức thanh lịch nhất. Tijuana - điểm cắt biên giới bận rộn nhất của Mexico, là nơi qua lại cho người đi bộ và phương tiện cá nhân, nằm gần với San Diego. Los Cabos - Đến Los Cabos ở Mexico như đến với một tụ điểm của những tương phản điển hình của thế giới. Du khách không thể quên chiêm ngưỡng những bãi biển đẹp xanh ngắt một màu với những dải cát trắng mịn. Nơi đây nổi tiếng với những bãi cát hoang, khách sạn, biệt thự, sân golf để du khách có thể thỏa thích niềm mong đợi của mình. Các khoảng trống sa mạc khô cằn xen kẽ những công trường với máy xúc và cần cẩu hiện đại. Tất cả những vườn nhà, cây cảnh, thảm cỏ, bãi golf đều xanh rì, mà chỉ có \"no nê\" nước ngọt mới tươi tắn được đến như thế. Đây là một địa điểm lý tưởng cho những ai muốn đến với những hoang mạc khô cằn nhưng không kém phần hấp dẫn. Cancun - Nếu bạn đã xem phim \"Cướp biển cùng Caribe\" bạn sẽ bị thu hút bởi những cảnh quay trên bãi biển tuyệt đẹp. Một trong những địa danh có bãi biển đẹp thơ mộng thu hút hàng triệu khách du lịch tới thăm là Cancun. Cancun được mệnh danh là thiên đường vùng biển Caribe với những bãi biển đẹp nổi tiếng. Mỗi năm có đến hàng nghìn cặp đôi đã dành tuần trăng mật của mình ở Cancun. Đây một bãi biển thật sự lãng mạn với những khách sạn có đầy đủ các dịch vụ phục vụ chu đáo. Đi dọc các con phố, du khách sẽ gặp rất nhiều các nhà hàng sang trọng và các ban nhạc đường phố với những bộ đồ và nhạc cụ truyền thống. Mexico nằm ở khu vực nhiệt đới, nhưng do địa thế cao nên mùa đông không quá lạnh và mùa hè không quá nóng. Khí hậu ôn hòa nên là nơi nghỉ hè và điều dưỡng lý tưởng. Khí hậu nhiệt đới, ở miền Bắc khí hậu á nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình tháng giêng 10 - 25 độ C, tháng bảy 15 - 30 độ C. Lượng mưa từ 100 - 3.000 mm/năm. Mùa đông, miền Bắc Mexico có khí hậu lạnh với nhiệt độ trung bình từ 8 độ C – 12 độ C, về đêm nhiệt độ xuống còn 50C và có tuyết rơi thường xuyên. Mùa hè khí hậu miền Bắc rất nóng, thỉnh thoảng có những trận mưa rất to vào buổi chiều với mưa nặng hạt và mưa đá. Mùa này cũng có những trận bão kéo theo mưa lớn bất thường. Nhiệt độ mùa hè có thể lên đến 39 độ C. Mùa mưa bão thường xảy đến ở vùng biển trung tâm thành phố gần biển Caribbean và Vịnh Mexico. Do đặc điểm thời tiết, du khách nên đi du lịch vào mùa đông để tránh có bão hay xảy đến. Người có quốc tịch Việt Nam phải làm thị thực du lịch tại đại sứ quán hay lãnh sứ quán Mexicó tại Việt Nam. Nước này không cho làm thủ tục ở đại sứ quán Mexicó ở nước ngoài. Thủ tục gồm : 1. Điền đầy đủ thông tin vào đơn xin cấp thị thực Mê-hi-cô 2. Một ảnh màu, nền trắng có kích thước 3 × 4 cm, không che mặt, không đeo kính, chụp chính diện. 3. Nộp hộ chiếu còn thời hạn trên 6 tháng và một bản copy hộ chiếu cùng các visa đã có. 4. Nếu không phải là công dân Việt Nam, xin vui lòng mang theo giấy tờ chứng minh cư trú hợp pháp tại Việt Nam (bản gốc và bản sao). 5. Đề nghị nộp giấy tờ theo yêu cầu của một trong các hạng mục sau: - a. Chứng minh ràng buộc về tài sản, công việc - b. Chứng minh năng lực tài chính - c. Thư mời Một số người Việt có thể đi miễn thị thực: \"Những người xin thị thực có thị thực hoặc visa cư trú tạm thời của các nước Mỹ, Nhật Bản, Anh, Canada hoặc các nước trong khối liên Minh Châu Âu (Schengen), sẽ được miễn thị thực vào Mê-hi-cô với mục đích du lịch và công tác trong thời gian tối đa là 6 tháng. Những người sở hữu thẻ APEC cũng thuộc diện được miễn thị thực Mê-hi-cô.\" Theo Bộ Ngoại giao Mexico (Secretaria de Relaciones Exteriores), người nước ngoài nào đó có ý định ở lại trong México ít hơn 180 ngày với mục đích du lịch hoặc 30 ngày cho mục đích công việc có thể điền vào một thẻ du lịch tại biên giới hoặc khi hạ cánh tại sân bay sau khi trình một hộ chiếu hợp lệ, với chi phí 22 đô la Mỹ. Nếu đến bằng đường hàng không, chi phí này được bao gồm trong giá vé. Dịch vụ này dành cho công dân của Andorra, Argentina, Aruba, Úc, Áo, Bahamas, Bỉ, Belize, Bulgaria, Canada, Chile, Costa Rica, Síp, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Pháp, Đức, Anh, Hy Lạp, Hồng Kông, Hungary, Ai-len, Iceland, Israel, Ý, Nhật Bản, Latvia, Liechtenstein, Litva, Luxembourg, Malta, Monaco, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Panama, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Puerto Rico, Romania, San Marino, Singapore, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Hàn Quốc, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Trinidad và Tobago, Hoa Kỳ, Uruguay và Venezuela (xem danh sách chính thức tại [1]). Thường trú nhân của Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Vương quốc Anh, và các nước Schengen cũng hội đủ điều kiện cho thị thực khi đến bất kể quốc tịch. Thẻ du lịch hiện tại Mexico được chính thức gọi là một Forma Migratoria Múltiple (Mẫu Di Trú nhiều lần), hoặc FMM. Nó có dãy đục lỗ răng cưa chia thẻ thành hai phần, trong đó phía bên phải yêu cầu một số thông tin như yêu cầu ở phía bên trái. Lúc nhập cảnh, sau khi xem xét hộ chiếu của bạn và FMM đã điền thông tin, nhân viên nhập cảnh sẽ đóng dấu vào hộ chiếu của bạn và FMM, xé đôi FMM dọc theo lỗ răng cưa và trả lại nửa bên phải của FMM lại cho bạn cùng với hộ chiếu của bạn. Hãy giữ FMM cùng với hộ chiếu của bạn tại mọi thời điểm. Đó là trách nhiệm của bạn để đảm bảo rằng phía bên phải của FMM được trả lại cho chính phủ Mexico tại thời điểm khởi hành để các mã vạch có thể được quét, do đó cho thấy rằng bạn rời khỏi đất nước vào dúng thời gian. Ví dụ, nếu bạn đang bay Aeromexico, họ sẽ yêu cầu hộ chiếu và FMM của bạn khi nhận phòng cho gia đình chuyến bay của bạn, sau đó chủ yếu FMM của bạn để thẻ lên máy bay của bạn. Bạn phải đưa cả thẻ lên máy bay cùng với FMM của bạn đến các nhân viên cửa khẩu khi bạn lên chuyến bay của bạn. Nếu bạn bị mất FMM của bạn trong chuyến thăm của bạn đến Mexico, bạn có thể bị chậm trễ đáng kể và tiền phạt trước khi bạn có thể rời khỏi đất nước. Ủy quyền điện tử (electronica Autorización) [2] để đi du lịch đến Mexico có sẵn trên Internet cho công dân từ Ukraina, Nga và Brazil. Dân từ Peru có thể sử dụng dịch vụ này trong những trường hợp bị hạn chế. Quốc tịch khác phải liên hệ với lãnh sự quán Mexico để tìm ra các yêu cầu đối với công dân của đất nước của họ, và có thể phải nộp đơn xin và có được một thị thực trước đi du lịch. Nếu bạn có nhu cầu thông tin khác, Mexico có văn phòng ngoại giao tại các thành phố sau đây trên thế giới: [3]. Các lãnh sự quán ở Mỹ thường được mở cho doanh nghiệp để không người dân (qua điện thoại hoặc trong người) chỉ 08:30-12:30. Nhân viên nhập cảnh vào thời điểm của bạn có hiệu Mexico cũng có thể yêu cầu bạn chứng minh rằng bạn có đủ khả năng thanh toán kinh tế và một vé khứ hồi. Đầu năm 2017 không có chuyến bay trực tiếp từ quốc gia Châu Á. Chuyến bay ưa ghé Hoa Ky hay Canada. Chuyến bay ghé Hoa Kỳ là vấn đề lớn cho nhiều người vì nước đó yêu cầu mỗi người bay xuyên qua phải có thị thực hợp lệ, phải nhập xuất nhập cảnh và hải cảng mặc dụ không đi ra ngoài sân bay. Cho nên người quốc tịch Việt Nam không có thực thị Hoa Kỳ hay không muốn đi Hoa Kỳ phải chọn chuyến bay ghé Canada. Hiện có hàng trăm chuyến bay hàng ngày nối Mexico với các thành phố lớn nhỏ trên khắp Bắc Mỹ. Các hãng hàng không bay từ Bắc Mỹ đến Mexico gồm có Air Canada, American Airlines, Delta, vv.. cũng như các hãng hàng không giảm giá như JetBlue, Spirit, và WestJet. Southwest Airlines cũng có kế hoạch để thêm dịch vụ cho Mexico tiếp theo chủ đề năm để phê chuẩn theo quy định. Cũng được coi là nhà cung cấp giảm giá Mexico 'Volaris', mà hiện đang hoạt động từ nhiều thành phố lớn của Mỹ (bao gồm cả Chicago, Denver, Las Vegas, Oakland và Orlando) thông qua các trung tâm của họ trong Mexico City và Guadalajara. Lưu ý rằng như với cả Hoa Kỳ và Canada, bạn sẽ phải làm thủ tục nhập cư và hải quan tại cảng Mexico đầu tiên nhập cảnh, mặc dù sân bay có thể không là điểm đến cuối cùng của bạn. (Ví dụ, nhiều chuyến đi trên Aeromexico sẽ liên quan đến kết nối thông qua Mexico City làm trung tâm của nó.) Sau đó, bạn sẽ phải kiểm tra lại túi của bạn và có thể đi qua an ninh một lần nữa để bay tiếp đến điểm đến của bạn. Bay thẳng hoặc từ Sydney, Brisbane, Melbourne và Auckland (New Zealand) đến Los Angeles. Delta, Qantas, Hoa, và V Australia cung cấp các tuyến bay thẳng từ Úc đến Los Angeles. Air New Zealand cung cấp các tuyến bay thẳng từ Úc và các tuyến bay thẳng từ Auckland đến Los Angeles. Hawaiian Airlines và Air Tahiti Nui các tuyến bay thẳng hoặc một điểm dừng đến Los Angeles từ Úc và New Zealand. Nhiều hãng hàng không bay từ Los Angeles đến Mexico bao gồm Aeroméxico, Alaska, Volaris, Horizon, Aerolitoral, và Mỹ. Nhiều tùy chọn có sẵn nếu kết nối thông qua một thành phố khác của Mỹ. Ngoài ra, hãy chắc chắn để có một cái nhìn tốt ở thị thực trước - thậm chí chỉ cần cho quá cảnh, bạn sẽ cần một cái gì đó cho Hoa Kỳ, và nếu bạn nhận được một miễn thị thực, họ đối xử với Mexico như một phần của Hoa Kỳ, có nghĩa là nếu bạn ở lại lâu hơn 90 ngày ở Mexico, bạn sẽ cần phải đi xa hơn về phía nam trước khi trở về Hoa Kỳ. Hầu hết các hãng hàng không thương mại liên kết Mexico trực tiếp sang châu Âu. Luôn luôn là đáng để so sánh cung cấp chuyến bay từ các hãng hàng không có thể đưa bạn đến thành phố Mexico hoặc Cancun thông qua nhiều trung tâm châu Âu, như Frankfurt, Paris, Amsterdam, Madrid..... thời gian bay từ các thành phố là luôn luôn xấp xỉ 11 giờ (+ chuyến bay kết nối của bạn từ nhà, nếu bạn không lên trực tiếp tại các sân bay đã đề cập) Mặc dù tiếng Tây Ban Nha được 97% dân số México sử dụng song nó không được công nhận là ngôn ngữ chính thức duy nhất của quốc gia. Theo Hiến Pháp của Mexico, tất cả các ngôn ngữ bản địa đều được quyền bình đẳng ngang với tiếng Tây Ban Nha, bất kể số người nói nhiều hay ít. Người dân hoàn toàn có quyền được yêu cầu cung cấp các dịch vụ công cộng và các tài liệu bằng ngôn ngữ bản địa của mình. Thậm chí chính phủ México còn công nhận cả những ngôn ngữ bản địa của người da đỏ không có nguồn gốc từ México như tiếng của người Kickapoo (nhập cư từ Hoa Kỳ) và ngôn ngữ của những người da đỏ tị nạn Guatemala. México cũng đã thành lập các trường học song ngữ ở cấp tiểu học và trung học cho các học sinh nói ngôn ngữ bản địa. Hiện nay, có khoảng 7,1% dân số México có nói ít nhất một ngôn ngữ bản địa và có khoảng 1,2% dân số hoàn toàn không sử dụng tiếng Tây Ban Nha. Mexico là quốc gia có số lượng người nói tiếng Tây Ban Nha nhiều nhất thế giới, hơn gấp đôi Tây Ban Nha là nơi bắt nguồn của ngôn ngữ này. Do vậy, México có vai trò quan trọng trong việc truyền bá ảnh hưởng của tiếng Tây Ban Nha ra thế giới, đặc biệt là vào Mỹ. Khoảng 1/3 số người nói tiếng Tây Ban Nha trên thế giới sống tại Mexico. Bên cạnh đó, tiếng Nahualt là thứ tiếng được sử dụng phổ biến thứ nhì tại đất nước này với 1,5 triệu người sử dụng, sau đó là tiếng Yucatec Maya với 800.000 người. Một số ngôn ngữ thiểu số của México đang có nguy cơ biến mất, ví dụ như tiếng Lacandon được sử dụng bởi không quá 100 người. Tiếng Anh được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng người Mỹ tại Mexico, những thành phố giáp biên giới phía bắc và các trung tâm kinh tế, tài chính lớn. Một số ngôn ngữ gốc Âu khác cũng được sử dụng nhiều là tiếng Venetian (bắt nguồn từ Ý), tiếng Plautdietsch (miền nam Đức), tiếng Đức, tiếng Pháp và tiếng Digan. Đồng đô la, euro, hay pound sẽ đi một cách dài ở Mexico. Nếu giả định rằng đồng peso có tỷ giá so với đô la Mỹ còn khá ổn định, bạn sẽ thấy đây là một quốc gia phải chăng để đi du lịch và sống khá thoải mái trong hầu hết các khu vực của đất nước trên 75$US đến 125$US cho mỗi người trong ngày. Giữa 40$US và 70$US sẽ giúp bạn có được một phòng ở sạch sẽ và thoải mái cho 2 người, phòng tắm một mình và điều hòa không khí, phần còn lại bạn trả tiền ăn (đầy đủ cho bữa trưa hay tối trong một nhà hàng thường mất khoảng 15$US đến 25$US), phương tiện đi lại, quà vặt, thức uống và bảo hiểm. Ngân sách cho du khách ở trọ có thể dễ dàng bao gồm chi phí các nhà hàng và 2 bữa ăn một ngày mất khoảng 40$. Thêm vào các chi phí, bạn sẽ chi thêm 60$ đến 80$. Các trường hợp ngoại lệ là chính các bờ biển Caribê, một phần của Baija Califonia và một số khu nghỉ mát ở Thái Bình Dương, thị xã, phòng có thể dễ hơn 50% chi phí các nơi khác. Ẩm thực tại México nổi tiếng thế giới với hương vị cay nồng, cách trang trí món ăn sặc sỡ và sự đa dạng về các loại gia vị khác nhau. Nhiều món ăn México ngày nay dựa trên những thực phẩm truyền thống thời kỳ tiền Colombo, kết hợp với những món ăn Tây Ban Nha do người Châu Âu mang đến đã làm nên một sự đa dạng nhưng vô cùng độc đáo trong ẩm thực nước này. Khi đến Mexico, người Tây Ban Nha đã mang theo gạo, thịt bò, thịt lợn, thịt gà, rượu nho và tỏi. Trong khi đó người dân da đỏ tại México cũng có rất nhiều loại thực phẩm đặc sắc mà ngày nay được phổ biến khắp thế giới như ngô, cà chua, vanilla, đu đủ, dứa, ớt cay, khoai lang, đậu, lạc, chocolate... Bữa ăn truyền thống đối với người México bản địa chủ yếu có ngô như lương thực chính, kết hợp với các loài thảo mộc, ớt, cà chua. Ngày nay việc sử dụng gạo cũng rất phổ biến tai México để làm lương thực, ngoài ra còn có lúa mì. Chocalate cũng bắt nguồn từ México nhưng ngày xưa, người da đỏ chủ yếu dùng để uống. México cũng là nơi ra đời của nhiều loại bánh ngô như bánh ngô có nhân (tacos, nhân bánh có thể là nhiều loại thịt hoặc rau), bánh ngô phomat (quesadillas) hay bánh ngô cay (enchiladas). Mỗi vùng miền trên đất nước México có thể có những loại thực phẩm đặc trưng riêng. Thứ đồ uống phổ biến và đặc trưng cho México là rượu tequila. https://embamex2.sre.gob.mx/vietnam/index.php/2016-05-10-16-33-44/2016-05-10-16-30-56", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Núi Fuji", "role": "user" }, { "content": "Núi Fuji (富士山 Fuji-san, 3776 mét) là ngọn núi cao nhất Nhật Bản và là tâm điểm của vườn quốc gia Fuji-Hakone-Izu sắc màu rực rỡ. Có thể nhìn thấy từ Tokyo vào một ngày đẹp trời, ngọn núi nằm về phía tây của Tokyo trên các hòn đảo chính Honshu, trải dài biên giới giữa Yamanashi và Shizuoka quận. Một ngọn núi lửa hình nón cân xứng hoàn hảo, ngọn núi là một biểu tượng quốc gia gần như hoang đường bất tử trong vô số tác phẩm nghệ thuật. Nhật Bản gọi núi Fuji là Fuji-san, nhưng san (山) ở đây chỉ có nghĩa là \"núi\", và không có gì để làm với san kính cẩn (さん) cho tên của người dân. \"Fujiyama\" là một hiểu sai về tên, và không bao giờ được sử dụng bởi người Nhật - ngoại trừ trong cụm từ bộ Fujiyama geisha, một than thở việc Nhật Bản bị hiểu lầm ở phương Tây. Nếu bạn có các kỹ năng, leo núi ngoài mùa leo cao điểm có thể là một trải nghiệm tuyệt vời - tưởng tượng được mình là người duy nhất trên ngọn núi bao quanh bởi tuyết nhìn ra một cảnh quan tuyệt vời ở độ cao 3776m! Và bạn không cần phải đi tất cả các lối, như trong điều kiện thời tiết tốt, độ dốc của Fuji thu hút rất nhiều người làm các hoạt động thể thao khác nhau. Mùa leo núi chính thức kéo dài hai tháng, từ tháng bảy đến tháng tám. Ngay cả trong những tháng này, khi Tokyo thường nóng bức với 40 °C thì nhiệt độ ở đầu có thể ở dưới lạnh vào ban đêm và leo núi phải ăn mặc đủ ấm. Leo núi ngoài mùa chính thức là cực kỳ nguy hiểm nếu không có kinh nghiệm leo núi và thiết bị. Gần như tất cả các cơ sở đều đóng cửa trong mùa giảm giá. Thời tiết, không thể đoán trước bất kỳ thời gian của năm, là hết sức xấu xa trong mùa đông (nhiệt độ dưới -40 °C đã được báo cáo lên trên) và có những trường hợp người được nghĩa đen bị thổi bay bởi gió núi cao. Tất cả các con đường đến trạm thứ 5 được đóng cửa ra của mùa giải, do đó bạn sẽ có một chặng đường dài đi bộ. Nhưng nếu bạn nhấn mạnh, bạn đang khuyến khích ít nhất là tập tin một kế hoạch leo núi với cảnh sát Yoshida (chỉ có tiếng Nhật). May mắn thay, có một vài lựa chọn cho những người không đủ sức khỏe để leo lên hoặc những người muốn có được \"đến gần\" lên núi trong mùa-off. Những con đường mòn ở dưới cùng của ngọn núi ít dốc, và phù hợp hơn cho một tăng chiều tại bất kỳ thời gian của năm. Gần đó Fuji Five Lakes (Fuji-Goko) có nhiều điểm gần với núi, và Hakone cũng cung cấp điểm ngoạn mục. Trong một bản chất chi nhánh tập trung ít việc để làm, thành phố Fujiyoshida, trong đó có nhiều núi, cũng là nơi có Fuji-Q Highland, một công viên giải trí hàng đầu. Núi Fuji có thể được tiếp cận từ mọi phía, nhưng lưu ý rằng lịch trình vận chuyển được cắt mạnh ngoài mùa leo núi chính thức trong tháng Bảy và tháng Tám. Để cập nhật thông tin, thành phố Fujiyoshida duy trì một trang truy cập Fuji danh sách các tuyến đường và lịch trình hiện tại. Từ Tokyo, tùy chọn dễ dàng nhất và phổ biến nhất là để có một chuyến xe buýt từ Shinjuku để trailhead tại trạm thứ năm Kawaguchiko. Phương Pháp kinh tế nhất là bởi Odakyu tàu từ Shinjuku đến Gotemba, mặc dù bạn sẽ phải thay đổi xe lửa và sự khác biệt giá là khá tối thiểu. Sân bay núi Fuji Shizuoka gần Shizuoka mở vào tháng 6 năm 2009. Mặc dù có tên như vậy, đó là hơn 80 km về phía tây của núi và không gần gũi hơn với núi Fuji hơn các sân bay của Tokyo. Tùy chọn dễ dàng nhất để lên các sườn núi Fuji là để có đón xe buýt nhanh Keio từ Shinjuku ở Tokyo. Các tuyến xe buýt mất 2 đến 2,5 giờ, tùy thuộc vào giao thông, chi phí ¥ 2600, và sẽ đưa bạn trực tiếp để bắt đầu leo ​​lên tại Trạm 5 Kawaguchiko. Để mua một vé, đi theo lối tây tại trạm Shinjuku, sau đó làm theo vòng tròn của điểm dừng xe buýt bên trái. Tòa nhà Keio là trên góc gần điểm dừng 26, đối diện với Yodobashi Camera. Bạn có thể đặt chỗ miễn phí tại trang web Keio. Bạn vẫn sẽ cần phải trả tiền cho vé tại nhà ga. Không thể đi xe lửa trực tiếp đến núi Fuji, nhưng bạn có thể nhận được khá gần và đổi qua một chiếc xe buýt cho phần còn lại của con đường, và làm nó theo cách này cho phép bạn sử dụng bất kỳ các tuyến đường đi lên hoặc xuống. Từ Tokyo, hai điểm lên tàu chính là Fujiyoshida và Gotemba, trong khi du khách đến từ miền tây Nhật Bản có thể lựa chọn không cho Fujinomiya (Shin-Fuji). Fujiyoshida có thể đạt được bằng cách theo tuyến JR Chuo đến Otsuki và thay đổi sang tuyến Fujikyu. Tuyến Fujikyu đi qua Fujiyoshida để Kawaguchiko, từ nơi các xe buýt theo giờ (50 phút, ¥ 1700) đưa đón đến trạm thứ 5. Nếu bạn có kế hoạch đi bộ từ chân núi, Fujiyoshida là, cũng, điểm khởi đầu của tuyến đường Yoshida. Bạn sẽ có thể truy cập Fujiyoshida Sengenjinja (đền thờ) trên đường đến đỉnh núi. Túp lều từ nhà ga 7 trở đi cũng cung cấp chỗ ở cơ bản, và cần phải đặt chỗ. Giá được chuẩn hóa mức ¥ 5250 một đêm cho một không gian rất chật hẹp (một thảm tatami hoặc ít hơn) chia sẻ với 150-500 người lạ hôi miệng, hay ngáy và có tất hôi, cộng với một tùy chọn ¥ 1050/2100 cho một / hai bữa ăn. Lưu ý rằng hầu hết những túp lều sẽ không cho phép du khách ở lại trong những túp lều (được sưởi ấm) mà không phải trả một khoản phí nghỉ ngơi, hoặc ¥ 1000-2000 mỗi giờ hoặc ¥ 5.000 cho toàn bộ đêm. Lệ phí có thể được miễn nếu bạn mua một bữa ăn. Những túp lều cũng có nhà vệ sinh rất cơ bản, nhưng họ thu phí (¥ 100/200). Thay vì các chất khử thơm độc hại thông thường, một số các nhà vệ sinh sử dụng một mùi hương để át mùi của chất thải.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Camagüey", "role": "user" }, { "content": "Camagüey là một thành phố và là một đô thị tự quản ở miền trung Cuba, là thành phố lớn thứ 3 nước này. Thành phố Camagüey là tỉnh lỵ của tỉnh Camagüey. Sau khi liên tục bị hải tặc tấn công, thành phố ban đầu (được thành lập với tên gọi Santa María del Puerto del Príncipe vào năm 1515 bên bờ biển bắc) được dời sâu vào trong nội địa vào năm 1528. Thành phố đã được xây dựng với các đường ngõ ngoằn nghoèo để dễ phòng thủ chống lại hải tặc hơn. Có nhiều ngõ cụt và đường ngã ba dẫn đến các quảng trường với các kích thước khác nhau. Chỉ có một đường ra ở thành phố này, nếu hải tặc đi vào thành phố được thì dân thành phố cũng có thể tóm được. Trung tâm lịch sử của thành phố là di sản thế giới UNESCO. Biểu tượng của thành phố Camagüey là chiếc nồi đất sét hay tinajón, dùng để hứng nước mưa dùng. Ở thành phố này hiện diện khắp nơi trong thành phố này với kích cỡ từ loại nhỏ bằng bàn taycho đến loại có thể chứa 2 người, dùng làm tượng đài cũng như sử dụng. Truyền thuyết của dân địa phương cho rằng nếu bạn uống nước từ một tinajón, bạn sẽ yêu thành phố và luôn luôn quay trở lại đây. Thành phố này có Đại học Camagüey.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Évora", "role": "user" }, { "content": "Évora là thành phố Bồ Đào Nha. Đây là \"thành phố bảo tàng\". Bạn có thể tới Évora bằng nhiều cách: Bằng xe buýt [1], (từ Lisbon giá vé khoảng 10 euro cho sinh viên và khoảng 12 € mà không giảm giá) Bằng xe hơi (khoảng cách: 140 Km, từ Lisboa đi theo A2 bởi một trong hai cây cầu, sau đó đi A6, sau đó N114 đến Évora, cầu đường có thu lệ phí) Xe lửa (khoảng cách: 130 km). Có 4 chuyến tàu đi Évora hàng ngày (5 đoàn tàu vào ngày chủ nhật). Chuyến đi kéo dài 1 giờ 20 phút và đó là một đoàn tàu rất thoải mái. Nhà ga xe lửa Évora nằm gần trung tâm thành phố (khoảng 10 phút đi bộ). Bạn có thể kiểm tra thời gian biểu của xe lửa trong trang web chính thức của Comboios de Bồ Đào Nha [2].", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Cambridge (Anh)", "role": "user" }, { "content": "Cambridge là thành phố thuộc tiểu bang Anh, Vương quốc Anh. Thành phố có trường đại học danh tiếng thế giới: Đại học Cambridge. Cambridge, thành phố trung tâm hành chính của Cambridgeshire, miền Trung nước Anh, bên Sông Cam. Thành phố Cambridge có diện tích 40,7 km2 và dân số 118.500 người. Cambridge nổi tiếng là trung tâm giáo dục và học thuật và là nơi có Đại học Cambridge danh tiếng châu Âu và thế giới. Đây cũng là một trung tâm thị trường cho khu vực nông nghiệp xung quanh. Thành phố có các ngành sản xuất thiết bị điện tử và công cụ chính xác. Thành phố Cambridge giữ được vẻ cổ kính thời Trung Cổ với các công trình đặc sắc, bao gồm: Nhà thờ Saint Bene't, một công trình kiến trúc tôn giáo theo phong cách Saxon được xây dựng vào thế kỷ 10; Nhà thờ Holy Sepulchre được phục chế, một trong bốn nhà thờ Norman hình tròn ở Anh. Nhà nguyện King’s College (bắt đầu năm 1446) là một ví dụ đẹp nhất về kiến trúc Gothic ở châu Âu. Thành phố Cambridge có nhiều công viên và vườn và nhiều bảo tàng và phòng trưng bày tranh, nổi bật nhất là Bảo tàng Fitzwilliam. Cambridge còn là chủ nhà của festival nghệ thuật hàng năm và một hội chợ giữa mùa Hè có từ đầu thế kỷ 16. Một tiền đồn quân sự của La Mã có lẽ đã hiện diện ở khu vực gần Cambridge ngày nay. Trong thời kỳ Anglo-Saxon, mậu dịch giữa miền Trung Anh và lục địa châu Âu đã được thực hiện thông qua cây cầu bắc qua Sông Cam ở đây. Trong thế kỷ 12, nhiều dòng tu tôn giáo đã thiết lập các tu viện và các trường học ở Cambridge. Đại học Cambridge bắt đầu từ các trường này thừ thế kỷ 13. Cambridge nhận được cấp điều lệ đầu tiên năm 1207.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Luzon", "role": "user" }, { "content": "Luzon là một đảo của Philippines. Luzon gồm Metro Manila, Bicol, Cordillera Administrative Region, Ilocos Region, Cagayan Valley, Central Luzon, Calabarzon, Marinduque, Mindoro, Romblon. Nhóm đảo đầu mút phía bắc, nơi đặt chính quyền trung ương Luzon hải đảo lớn nhất của Philippines, nằm ở miền Bắc quốc gia này. Luzon cũng là tên chung của một trong ba miền địa lý của Philippines. Luzon nắm vai trò quan trọng vào bậc nhất về mặt kinh tế cũng như chính trị của đất nước này. Ngoài đảo chính, miền Luzon còn có các quần đảo Batanes và Babuyan ở phía bắc, Catanduanes, Marinduque, Masbate, Romblon, và Mindoro ở phía nam. Quần đảo Palawan - trước đây là một tỉnh được xếp vào miền Luzon đã được chuyển cho Vùng VI của miền Visayas vào năm 2005. Trong các bản đồ cũ, đảo Luzon được gọi là Luconia hoặc Lucon.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Biysk", "role": "user" }, { "content": "Biysk (tiếng Nga: Бийск) là thành phố lớn thứ hai ở vùng Altai, Tây Siberia, Nga. Tiền thân của đô thị này là pháo đài gỗ Bikatunskaya, được thành lập vào năm 1709 theo lệnh Sa hoàng Peter Đại đế. Về sau, nơi này trở thành trung tâm kinh tế thay vì căn cứ quân sự. Ngày nay, Biysk được mệnh danh là \"cánh cổng dẫn vào dãy Altai\" và \"thành phố khoa học\". Những người xuất thân từ Biysk bao gồm nhà ngoại giao Alexander Bessmertnykh, họa sĩ Lev Bogomolets, nhà soạn nhạc Aleksandr Lokshin và nhà báo Vsevolod Kukushkin. Vì sân bay Biysk không còn hoạt động thường xuyên nên cách nhanh nhất để đến đây là đi tàu hỏa. 52.535341269202746Nhà ga Biysk1 Nhà ga Biysk, 9 Quảng trường V. M. Shukshina. Phục vụ các chuyến tàu từ thủ đô Moskva (2 ngày 13 giờ), Severobaikalsk (2 ngày 4 giờ), Tomsk (14 giờ 56 phút) và Barnaul (2 gờ 52 phút). 52.533914822450534Bến xe Biysk2 Bến xe Biysk (Автовокзал г.Бийск), 86 đường Vali Maksimovoy, ☎ +7 385 440-52-48. Phục vụ các chuyến xe buýt từ mọi thành phố lớn của Tây Siberia như Barnaul, Kemerovo, Novosibirsk, Novokuznetsk, Omsk, Tomsk. Bên trong thành phố có nhiều tuyến xe điện, xe buýt, xe buýt nhỏ và taxi. Các dịch vụ taxi chính ở Biysk là Komfort, Maxim, Yandex và Troyka. Bạn cũng có thể đi bộ vì thành phố này không quá rộng lớn. Giống như thủ phủ vùng Barnaul, nơi này cũng có một bến cảng (nằm trên đường Peschanyy Kar'yer) để vận tải đường sông trở nên thuận lợi hơn. 52.5390493721126Bảo tàng Lịch sử Địa phương Biyskiy1 Bảo tàng Lịch sử Địa phương Biyskiy (Бийский Краеведческий Музей), 42 đường Sovetskaya, ☎ +7 385 432-68-08. 52.54224196745627Bảo tàng Đồng hồ2 Bảo tàng Đồng hồ (Музей Часов), ☎ +7 385 433-12-46. Thứ 2 đến thứ 6: 09:00–17:00 (đóng cửa vào hai ngày cuối tuần). Có một bảo tàng cùng tên tại thành phố Angarsk, tỉnh Irkutsk. 52.54503469089739Bảo tàng Sứ mệnh Tinh thần Altai3 Bảo tàng Sứ mệnh Tinh thần Altai (Музей Алтайской духовной миссии), 1 đường Irkutskaya, ☎ +7 963 524-56-74. 09:00–17:00 hàng ngày. 52.54908433461055Bảo tàng Voinov4 Bảo tàng Voinov (Музей воинов), 109 đường Lenina, ☎ +7 385 432-94-52. Thứ 2 đến thứ 6: 08:00–17:00 (cũng đóng cửa vào hai ngày cuối tuần). 52.52863781155969Bảo tàng Nhân dân5 Bảo tàng Nhân dân (Народный Музей), ☎ +7 913 218-00-46. Thứ 4 đến Chủ nhật: 09:00–17:00 (đóng cửa vào hai ngày đầu tuần). 52.42028563203125Bảo tàng Tưởng niệm Mihaila Sergeevicha Evdokimov6 Bảo tàng Tưởng niệm Mihaila Sergeevicha Evdokimov, ☎ +7 960 948-25-58. 10:00–13:00, 14:00–17:00 hàng ngày. 52.5025229700911Nhà thờ Pokrovskaya7 Nhà thờ Pokrovskaya (покровская церковь), 3 đường Lesnaya. 09:00–17:00 hàng ngày. 52.50520026779353Nhà thờ Cuộc sống Mới8 Nhà thờ Cuộc sống Mới (Церковь Новая Жизнь), 67 đường Chaykovskogo. 52.54435318434836Nhà thờ lớn Theotokos9 Nhà thờ lớn Theotokos, 13 đường Sovetskaya, ☎ +7 385 433-78-77. Thứ 2 đến thứ 6: 07:00–17:00. Thứ 7 và Chủ nhật: 07:00–18:00. 52.508794530469466Nhà thờ Hồi giáo Biysk10 Nhà thờ Hồi giáo Biysk (мечеть), 84 đường Razina. Chỉ mở cửa vào Chủ nhật, đóng cửa vào những ngày còn lại. 52.52512769734017Đài tưởng niệm xe chở xăng dầu11 Đài tưởng niệm xe chở xăng dầu (Памятник Бензовозу) (nằm ở phía đông thành phố). 52.540034071093785Đài tưởng niệm thợ điện12 Đài tưởng niệm thợ điện (Памятник Электрикам) (nằm trên một hòn cù lao giữa sông Biya). 52.54256089223137Đài tưởng niệm Lenin13 Đài tưởng niệm Lenin (памятник В.И.Ленину). 52.517456937681104Đài tưởng niệm những người đã hy sinh trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại14 Đài tưởng niệm những người đã hy sinh trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. 52.486479368871656Đài tưởng niệm Tên lửa Rsm-5215 Đài tưởng niệm Tên lửa Rsm-52. 52.54673148548602Tượng đài Sa hoàng Peter Đại đế16 Tượng đài Sa hoàng Peter Đại đế, 3 đường Dvoynykh. 52.507600966684535Công viên Zabroshennyy Skver17 Công viên Zabroshennyy Skver (заброшенный сквер), trên đường Chaykovskogo. Một địa điểm rất phù hợp để khám phá môi trường sống của các loài chim trong vùng. 52.51207051240252Công viên Leningradskiy18 Công viên Leningradskiy (nằm trong trung tâm thành phố, giữa các đường Leningradskaya, Bytovaya và Gorno-Altayskaya). 52.503640183427706Công viên Stroiteley19 Công viên Stroiteley (Парк Строителей). 52.54904275414948Nhà hát múa rối U Lukomor'ya1 Nhà hát múa rối U Lukomor'ya (У Лукоморья), 109 đường Lenin. 52.51325495853604Nhà hát Ogonek2 Nhà hát Ogonek (Огонек), 56 đường Gorrno-Altayskaya, ☎ +7 913 235-07-84. 52.51683556279936Rạp chiếu phim Kino Altay3 Rạp chiếu phim Kino Altay (từ trung tâm y tế Rostok, đi thêm 556 m nữa về phía nam). 52.54309249077217Rạp chiếu phim4 Rạp chiếu phim, 200 đường Il'i Mukhacheva, ☎ +7 385 455-53-16. 52.53353534697699Sông Biya5 Sông Biya. Bạn có thể câu cá hoặc chèo xuồng trên sông. 52.5091212359618Bể bơi Del'fin6 Bể bơi Del'fin, 17 đường Razina, ☎ +7 385 443-04-80. 52.50846170554653Sân vận động Yubileynyy7 Sân vận động Yubileynyy, 60 đường Lipovogo, ☎ +7 385 444-76-30. 52.53858478388148Cửa hàng Sibirskoye Zdorov'ye1 Cửa hàng Sibirskoye Zdorov'ye, 79 đường Krasnoarmeyskaya, ☎ +7 385 433-50-22. 52.536460991961576Cửa hàng Igry Dzhentl'menov2 Cửa hàng Igry Dzhentl'menov, 58H đường Kazantsevykh, ☎ +7 962 814-76-49. Thứ 2 đến thứ 7: 11:00–19:00. Chủ nhật: 15:00–18:00. Bán nhiều món đồ lưu niệm. 52.53421589764803Cửa hàng Bravo3 Cửa hàng Bravo, 7 đường Vali Maksimovoy, ☎ +7 385 441-80-80. 52.51188891430046Trung tâm thương mại Priob'ye4 Trung tâm thương mại Priob'ye (Приобье Торговый Центр). 52.507620944511274Cửa hàng Nutra5 Cửa hàng Nutra, 74 đường Vasil'yeva (từ nhà hàng Orlan, đi thêm 153 m nữa về phía tây). 52.50461143878588Siêu thị Magnit6 Siêu thị Magnit, ☎ +7 800 200-90-02. 09:30–21:30 hàng ngày. Chủ yếu bán thực phẩm và các mặt hàng tiêu dùng cơ bản. 52.51475339627174Siêu thị Pyaterochka7 Siêu thị Pyaterochka (Пятерочка), 43 đường Gorno-Altayskaya. 52.515080004162364Siêu thị Aniks8 Siêu thị Aniks, ☎ +7 800 100-88-10. Thứ 2 đến thứ 7: 08:00–22:00. Chủ nhật: 09:00–22:00. 52.54050071906937Nhà hàng KFC1 Nhà hàng KFC, 18 đại lộ Kommunarskiy (nằm rất gần nhà hàng Staryy Gorod), ☎ +7 385 466-66-30. Nhà hàng chủ yếu phục vụ đồ ăn nhanh như khoai tây chiên, gà rán và nhiều loại món tráng miệng. 52.54308643083697Nhà hàng Burger King2 Nhà hàng Burger King, 200 đường Il'i Mukhacheva (từ quán cà phê Asia, đi thêm 194 m nữa về phía tây nam), ☎ +7 495 544-50-00. 10:00–21:50 hàng ngày. Nhà hàng phục vụ bánh mì kẹp thịt nướng, khoai tây chiên và sữa lắc. 52.54456097540617Nhà hàng A Vot I3 Nhà hàng A Vot I (А вот и суши) (gần chi nhánh ngân hàng Sovkombank), ☎ +7 385 455-55-35. Một nhà hàng bình dân, ấm cúng và phù hợp với trẻ em. Chuyên phục vụ các món sushi. 52.54412595989758Nhà hàng Kalina Krasnaya4 Nhà hàng Kalina Krasnaya, ☎ +7 385 433-77-92. 11:00–00:00 hàng ngày. Một nhà hàng sang trọng với thực đơn phong phú, bao gồm các món thịt giăm bông, khoai tây, salad và đồ ăn tráng miệng. 52.51228609370568Nhà hàng Skovorodovna5 Nhà hàng Skovorodovna (Сковородовна), 205/2 đường Sovetskaya, ☎ +7 963 517-46-49. Chuyên phục vụ bánh kếp theo kiểu truyền thống. Có một trung tâm thương mại ở gần đó. 52.51921617618801Nhà hàng Stolovaya M-526 Nhà hàng Stolovaya M-52 (Столовая М-52), 194 đường Sovetskaya (nằm gần bờ sông Biya), ☎ +7 385 433-56-99. Các món ăn chính tại đây là súp cà chua và bánh kếp. 52.53660643944447Nhà hàng Asia Sushi7 Nhà hàng Asia Sushi, trên đường Kazantsevykh (gần cửa hàng vật nuôi và Đại học Y dược Biysk), ☎ +7 983 391-20-10. Một nhà hàng phục vụ sushi khác. 52.535379958233534Nhà hàng Wasabi8 Nhà hàng Wasabi, 4A đường Vali Maksimovoy, ☎ +7 961 977-77-16. Có dịch vụ giao đồ ăn riêng. Các món ăn phổ biến nhất tại đây bao gồm pizza, nem cuốn và sushi. 52.54012826950017Nhà hàng Trattoria LA MIA9 Nhà hàng Trattoria LA MIA (Траттория LA MIA), 39 đường Krasnoarmeyskaya, ☎ +7 963 505-27-94. 10:00–22:30 hàng ngày. 52.5153063002412Quán cà phê Shokolatte1 Quán cà phê Shokolatte, 65/1 đường Voinov-Internatsionalistov, ☎ +7 385 455-50-18. 52.51388299171496Quán cà phê Astoriya2 Quán cà phê Astoriya, 56/1 đường Gorno-Altayskaya, ☎ +7 385 444-98-22. 52.51210321689424Quán cà phê Kennedy`s3 Quán cà phê Kennedy`s, 205/2 đường Sovetskaya, ☎ +7 962 807-11-30. 52.51771416360266Quán bar Khozyain4 Quán bar Khozyain, 22 đường Trofimova, ☎ +7 961 988-25-23. 52.515611799554655Quán bar Bochka5 Quán bar Bochka, 22 đường Mashinostroiteley. 52.51567666640226Quán rượu Gans6 Quán rượu Gans, 216A đường Sovetskaya. 12:00–02:00 hàng ngày. 52.51251360620313Quán rượu Iceberg7 Quán rượu Iceberg, 37 đường Mart'yanova, ☎ +7 913 223-28-88. 12:00–04:00 hàng ngày. 52.5480359681672Khách sạn Pod Televyshkoy1 Khách sạn Pod Televyshkoy (Гостиница под телевышкой), 20 đường Volochayevskaya, ☎ +7 960 960-62-62. Khách sạn có đầy đủ tiện nghi bao gồm Wi-Fi miễn phí, bữa sáng miễn phí, điều hòa nhiệt độ và dịch vụ giặt ủi. 13 USD. 52.548466174175026Khách sạn Gostinyy Dvor2 Khách sạn Gostinyy Dvor (Гостиный двор), 228 đường Lenin (nằm khá gần cửa hàng Mariya-Ra). Một khách sạn nhỏ, bình dân và phù hợp với trẻ em. 14 USD. 52.510433145835655Nhà nghỉ Original3 Nhà nghỉ Original, 93/1 đường Leningradskaya, ☎ +7 960 957-70-70. 13 USD. 52.527265948595755Khách sạn Altay4 Khách sạn Altay, 33/1 đường Shishkova, ☎ +7 909 502-55-22. Khách sạn có một bể bơi, đồng thời chấp nhận vật nuôi. 13 USD. 52.510297592291614Khách sạn California5 Khách sạn California (CALIFORNIA, отель), 213/2 đường Sovetskaya, ☎ +7 961 242-01-11. Nhận phòng: 13:00, trả phòng: 12:00. Từ khách sạn này, bạn có thể ngắm toàn cảnh dòng sông Biya gần đó. 19 USD. 52.53896537379601Khách sạn Tsentralnaya6 Khách sạn Tsentralnaya, 256 đường Lenin (nằm gần siêu thị Magnit), ☎ +7 800 201-34-84. Khách sạn có Wi-Fi miễn phí và một khu ATM nhỏ. 25 USD. 52.48707782902288Khách sạn Vostok7 Khách sạn Vostok, 20/1 đường Radishcheva, ☎ +7 385 431-01-80. Có bữa sáng, điều hòa nhiệt độ và phù hợp với trẻ em. 23 USD. 52.51426851361849Khách sạn SV8 Khách sạn SV (Гостиница SV-Отель), 212 đường Sovetskaya, ☎ +7 385 436-48-36. Có bể bơi trong nhà, xe đưa đón ra sân bay và trung tâm thể dục. 37 USD. 52.547899628246626Khách sạn Prague9 Khách sạn Prague, 65 đường Moprovskiy, ☎ +7 800 707-99-61. 37 USD. 52.54182813471877Khách sạn On the old site10 Khách sạn On the old site (На Старом месте), ☎ +7 385 433-87-88. Có dịch vụ phòng và một nhà hàng trong khuôn viên. 37 USD. 52.54131035187492Bệnh viện thành phố1 Bệnh viện thành phố (Центральная Городская Больница), 210 đường Sadovaya, ☎ +7 385 437-53-39. Bệnh viện lớn với một hiệu thuốc và khu ATM. 52.54113317667808Bệnh viện nhi thành phố2 Bệnh viện nhi thành phố (Городская детская больница), 37 đường Korolenko, ☎ +7 385 441-13-63. 52.532012553970745Hiệu thuốc Vash Doktor3 Hiệu thuốc Vash Doktor (\"Ваш Доктор\"), 147 đường Trofimova. 52.53285964118702Hiệu thuốc Drugaya Apteka4 Hiệu thuốc Drugaya Apteka, ☎ +7 913 090-02-65. 52.54127425379478Hiệu thuốc Farmakopeyka5 Hiệu thuốc Farmakopeyka, 13 đường Muromtsevskiy, ☎ +7 800 200-97-07. 52.53366351579565Hiệu thuốc Altayvitaminy6 Hiệu thuốc Altayvitaminy, 13/1 đường Vali Maksimovoy, ☎ +7 385 441-74-12. 52.48828453836923Hiệu thuốc Evalar7 Hiệu thuốc Evalar, 33 đường Dekabristov, ☎ +7 385 431-40-66. Một số nhà hàng và khách sạn ở Biysk có thể cung cấp mạng Wi-Fi không dây miễn phí. Những dịch vụ viễn thông chính tại đây là Vaynet, Telekom Servis, Prestizh, Megafon, dom.ru và Sotrudnik. Barnaul, trung tâm hành chính của vùng Altai. Thành phố này có hơn 600.000 người và nằm bên sông Obi. Rubtsovsk, thành phố lớn thứ ba của vùng với một mỏ cuprit lớn. Gorno-Altaisk, thủ đô của nước Cộng hòa Altai cũng nằm khá gần Biysk.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà", "role": "user" }, { "content": "Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà nằm ở Lâm Đồng, Việt Nam. a. Tính da dạng hệ thực vật Kết quả tập hợp được cho thấy Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà có 1.561 loài thực vật có mạch, thuộc 5 ngành, 161 họ và 681 chi. Trong đó: - Ngành Mộc tặc (Equysetophyta): 01 họ, 01chi, 01 loài. - Ngành Thông Đất (Lycopodiophyta): 02 họ, 03 chi, 10 loài. - Ngành Dương xỉ (Polypodiophyta): 19 họ, 51 chi, 106 loài. - Ngành Hạt trần (Pinophyta):, 07 họ,08 chi, 18 loài (bổ sung 04 loài). - Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta). - Lớp Hạt kín 1 lá mầm: 17 họ, 155 chi, 417 loài (loại bỏ 02 loài, bổ sung 20 loài). - Lớp Hạt kín 2 lá mầm: 145 họ, 463 chi, 1009 loài (loại bỏ 11 loài, bổ sung 45 loài). b. Các loài lan Gồm 258 loài, với 26 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam 2007, Nghị định 32 và sách đỏ IUCN 2009. c Cây làm thuốc Theo số liệu hiện nay, VQG Bidoup-Núi Bà có 461 loài cây làm thuốc, thuộc 82 chi, gồm: - Ngành mộc lan (Magnoliophyta): 449 loài.  Lớp Mộc Lan (Magnoliopsida): 386 loài.  Lớp Hành (Liliopsida): 63 loài. - Ngành Thông Đất (Lycopodiophyta): 01 loài. - Ngành Dương xỉ (Polypodiophyta): 07 loài. - Ngành Hạt trần (Pinophyta):04 loài. d Các loài thực vật cần quan tâm nghiên cứu cho công tác bảo tồn Các loài thực vật cần được chú trọng nghiên cứu nhằm phục vụ cho công tác bảo tồn tại Vườn Quốc gia gồm các loài thuộc ngành Thông (Pinophyta), các loài Lan và một số loài khác.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Firenze", "role": "user" }, { "content": "Firenze là thành phố thuộc Ý. Firenze là thủ phủ của vùng Toscana, Ý. Từ 1865 đến 1870 đây cũng là thủ đô của vương quốc Ý. Firenze nằm bên sông Arno, dân số khoảng 400.000 người, khoảng 200.000 sinh sống trong các khu vực nội thành. Các khu lân cận có khoảng 956.000 người ở. Từ thời trung cổ Firenze đã là trung tâm thương mãi và văn hoá của Châu Âu, được xem như là nơi phát động trào lưu thời kỳ phục hưng của Ý - gia đình Medici nổi tiếng từ khi cai trị Firenze. Firenze nổi tiếng về nghệ thuật và kiến trúc. Người ta thường cho rằng trong mỗi 1.000 nghệ sĩ có tiếng của thiên kỷ thứ nhì, 350 có từng làm việc tại Firenze. Trung tâm lịch sử tại Firenze được UNESCO chọn làm Di sản thế giới năm 1982. Florence là nơi sinh của thời kỳ Phục hưng Ý. Về chính trị, kinh tế, văn hóa và nó là thành phố quan trọng nhất ở châu Âu trong khoảng 250 năm, từ một thời gian trước năm 1300 cho đến đầu những năm 1500. Người Firenze tái sáng chế tiền dưới hình thức florin vàng. Loại tiền tệ này là động lực thúc đẩy châu Âu thoát ra khỏi \"Các thời kỳ đen tối\" một thuật ngữ được tạo ra bởi Petrarch, một người Firenzecó gia đình đã bị lưu đày đến Arezzo. Họ tài trợ cho phát triển công nghiệp trên khắp châu Âu, từ Anh đến Bruges, đến Lyon, tới Hungary. Họ tài trợ cho vua Anh trong Chiến tranh Trăm năm. Họ tài trợ cho giáo hoàng, bao gồm việc xây dựng các cung điện của giáo hoàng ở Avignon và xây dựng lại St Peters và Tòa thánh Vatican khi giáo hoàng trở về Rome từ \"giam cầm Babylon\". Dante, Petrarch, và Boccaccio đi tiên phong trong việc sử dụng tiếng địa phương, việc sử dụng một ngôn ngữ khác ngoài tiếng Latin. Trong trường hợp của họ, tiếng Tuscan, trong đó, do họ, đã trở thành tiếng Ý. Vì Dante, et al., Đã viết trong Tuscan, Geoffrey Chaucer, người đã dành rất nhiều thời gian ở miền Bắc Italia và những người đã đánh cắp câu chuyện nhỏ của Boccaccio, viết bằng tiếng Anh. Những người khác bắt đầu viết bằng tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha. Đây là khởi đầu của sự kết thúc của Latin như một ngôn ngữ chung trên toàn châu Âu. Các cư dân Firenze, có lẽ đáng chú ý nhất Filippo Brunelleschi (1377-1466) và Leon Batist'Alberti (1404-1472) phát minh ra cả hai thời kỳ Phục hưng và kiến ​​trúc tân cổ điển. Những phong cách kiến ​​trúc cách mạng hóa cách Rome, London, Paris và các thành phố lớn khác ở châu Âu từ Barcelona đến St Petersburg được xây dựng. Những người Firenze là động lực thúc đẩy Kỷ nguyên khám phá. Ngân hàng Florence tài trợ tiền cho Henry-Nhà hàng hải và các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha, người đi tiên phong trong các tuyến đường vòng qua châu Phi đến Ấn Độ và Viễn Đông. Đó là một bản đồ được vẽ bởi người Firenze Paulo del Pozzo Toscanelli, một sinh viên của Brunelleschi, mà Columbus sử dụng để bán \"sự nghiệp\" của mình cho các quốc vương Tây Ban Nha, và sau đó ông đã sử dụng trong chuyến đi đầu tiên của mình. \"Projection\" nổi tiếng của Mercator là một phiên bản tinh tế của bản đồ Toscanelli, có tính đến các nước châu Mỹ, mà về nó rõ ràng người Firenze không biết. Tây bán cầu chính nó được đặt theo tên của một nhà văn người Florence tuyên bố là một nhà thám hiểm và mapmaker, Amerigo Vespucci. Gallileo và các nhà khoa học khác đi tiên phong trong nghiên cứu về quang học, đạn, thiên văn học, giải phẫu học, và như vậy. Pico della Mirandola, Leonardo Bruni, Machiavelli, và nhiều người khác đã đặt nền móng cho sự hiểu biết của chúng ta về khoa học chính trị. Opera được phát minh ở Florence. Florence đầy ắp nhà thờ có chứa một số các nghệ thuật tốt nhất trên thế giới: San Miniato al Monte, San Lorenzo, Santa Maria Novella, Santa Trinita, nhà nguyện Brancacci tại Santa Maria del Carmine, Santa Croce, Santo Spirito, SS Annunziata, Ognissanti, và nhiều hơn nữa. Sau đó có các phòng trưng bày nghệ thuật. Uffizi và Cung điện Pitti là hai trong số các phòng trưng bày hình ảnh nổi tiếng nhất trên thế giới. Nhưng trái tim và linh hồn của Florence là trong hai bộ sưu tập tuyệt vời của tác phẩm điêu khắc, các Bargello và Bảo tàng các tác phẩm của Duomo. Họ đang tràn đầy rực rỡ, sáng tạo cách mạng của Donatello, Verrochio, Desiderio da Settignano, Michelangelo, và rất nhiều kiệt tác khác để tạo ra một cơ thể của công việc duy nhất trên thế giới. Và, tất nhiên, đó là Accademia, với David của Michelangelo, có lẽ là tác phẩm nổi tiếng nhất của nghệ thuật bất cứ nơi nào, cộng với các tù nhân và nô lệ chưa hoàn thành tuyệt vời chưa hoàn thành mà Michelangelo đã tạo tác trên cho ngôi mộ của Giáo hoàng Julius II. Florence có hơn 80 viện bảo tàng. Trong số những công trình nổi bật ở thành phố có Palazzo della Signoria (hay còn gọi là Palazzo Vecchio), một tòa nhà tuyệt vời với phòng tuyệt vời và một số nghệ thuật tuyệt vời, Bảo tàng Khảo cổ học, Bảo tàng Lịch sử Khoa học, Palazzo Davanzatti, Bảo tàng Stibbert, St Marks, các nhà nguyện Medici, Bảo tàng tác phẩm của Santa Croce, Bảo tàng của Cloister of Santa Maria Novella, Bảo tàng động vật học (\"La Specola\"), các Bardini, và Museo Horne. Ngoài ra còn có một bộ sưu tập tuyệt vời của tác phẩm của nhà điêu khắc hiện đại, Marino Marini, trong một bảo tàng mang tên ông. Nếu bạn quan tâm đến nhiếp ảnh, bạn không nên bỏ lỡ bộ sưu tập tuyệt vời của tác phẩm của các nhiếp ảnh gia đầu tiên, anh em Alinari. Tráng lệ Strozzi Palace là địa điểm của nhiều cuộc triển lãm đặc biệt Để có được một tầm nhìn tổng quan tuyệt vời của thành phố, bạn có nhiều sự lựa chọn: leo lên mái vòm của nhà thờ lớn hoặc Tháp Chuông Giotto là dễ dàng hơn nhiều hoặc đầu cho Piazzale Michelangelo một bãi đậu xe lớn trên sườn đồi phía nam của trung tâm thành phố, hoặc leo lên một chút nữa đến nhà thờ San Miniato al Monte, một kiệt tác tuyệt vời thế kỷ 11, với các tác phẩm điêu khắc thời Phục hưng tuyệt vời. Tại giờ kinh tối, các nhà sư thêm cho vẻ đẹp với tiếng hô. Sân bay quốc tế Amerigo Vespucci của Firenze (IATA: FLR) (được người dân địa phương gọi là \"Peretola\") được kết nối tốt với các trung tâm của thành phố, từ sân bay đến thành phố trong khoảng mười lăm phút bằng taxi hoặc xe buýt. Ataf-Sita \"Vola in Bus\" có phí dịch vụ 5,00 € một chiều, và chạy vòng giữa các sân bay và nhà ga xe lửa trung tâm mỗi nửa giờ 05:30-8:00, sau đó một lần một giờ sau đó. Lưu ý rằng xe buýt 5:30 từ góc Valfonda và Piazza Adua là phía bắc của nhà ga xe lửa thay vì từ trạm xe buýt ATAF-SITA là ở phía tây của nhà ga xe lửa. Bạn có thể mua vé trên xe buýt. Giá cước taxi 25 € cho taxi từ sân bay đến bất cứ nơi nào trong trung tâm lịch sử của Florence. Họ sẽ tính phí 1 € thêm cho mỗi phần của hành lý xử lý bởi các trình điều khiển. Các chuyến bay rẻ hơn nhiều tới các điểm đến trên khắp châu Âu có thể được tìm thấy tại sân bay Pisa (IATA: PSA). Các hãng hàng không chi phí thấp, có đường bay đến Pisa bao gồm Thomsonfly, Easyjet, Ryanair, Transavia, Wizzair và HLX. Pisa và Florence sân bay được nối với nhau bằng đường sắt và đường xe buýt. Cả hai rời khỏi và đến cổng chính vào sân bay. Trạm xe buýt ở Florence là ngay trên đường từ nhà ga xe lửa chính, \"Firenze SMN\". Lịch trình đào tạo có sẵn tại http://www.trenitalia.it. Lịch trình xe buýt có sẵn tại http://www.terravision.eu/florence_pisa.html. Vé tàu giá 7,80 € một chiều, chi phí xe buýt 6 € một chiều, và 10 € cho chiều trở lại. Những chiếc xe buýt chạy thường xuyên hơn. Một số tàu không đến nhà ga xe lửa chính, và những người khác đòi hỏi một sự thay đổi ở Pisa Centrale.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Mai Văn Phấn", "role": "user" }, { "content": "Mai Văn Phấn (sinh 1955) là một nhà thơ người Việt Nam. Dù được viết theo bất kỳ khuynh hướng nào, thơ ca luôn mang vẻ đẹp nguyên khởi, nhằm phục sinh, tái tạo thế giới, luôn đối lập với cái ác, xấu xa, gian tà.. Vẻ đẹp và quyền năng của thơ ca (Tham luận tại Liên hoan thơ châu Á-Thái Bình Dương lần thứ nhất – Ngày 2/2/2012 tại Tp. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh) Việc sáng tạo thi ca gần giống trạng thái bàng hoàng của một đứa trẻ lần đầu được nhìn thấy những hiện tượng kỳ lạ của thiên nhiên và khám phá những bí ẩn, phức tạp của con người. [...] Nhà thơ là người được chọn (tạm gọi Thượng đế chọn), được “ơn gọi” trong tinh thần của Jesus Christ, gặp được “nhân duyên” trong Phật giáo. Sáng tạo, tinh thần cho điểm đến (Nhà thơ Ko Hyeong Ryeol, Tổng biên tập tạp chí Thi Bình (The poet society of Asia) thực hiện) Wikipedia có bài viết về: Mai Văn Phấn", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Quảng Trị/Thị xã Quảng Trị", "role": "user" }, { "content": "Thị xã Quảng Trị là một thị xã thuộc tỉnh Quảng Trị, Việt Nam, cách Đông Hà 12 km về phía nam. Thị xã ra đời khi vào ngày 17 tháng 2 năm 1906, Toàn quyền Jean Baptiste Paul Beau ra nghị định thành lập thị xã Quảng Trị (tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị). Sau khi ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên hợp nhất thành tỉnh Bình Trị Thiên (tháng 5 năm 1976), thị trấn Quảng Trị trở thành huyện lỵ của huyện Triệu Phong. Trong chiến tranh Việt Nam, thành cổ Quảng Trị là chiến trường ác liệt, trận Thành cổ Quảng Trị là một trận chiến giữa một bên là Quân đội Nhân dân Việt Nam với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và một bên là Quân lực Việt Nam Cộng hòa với Quân đội Hoa Kỳ tại thành cổ Quảng Trị vào năm 1972. Đây là một trong những trận chiến ác liệt bậc nhất trong Chiến dịch Xuân Hè 1972, một phần của Chiến tranh Việt Nam. Tháng 1 năm 1977, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên ra quyết định thành lập thị trấn Triệu Phong. Tiếp đó, hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng hợp nhất thành huyện Triệu Hải thì thị trấn Triệu Phong được đổi thành thị trấn Triệu Hải. Ngày 15 tháng 8 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam ra quyết định thành lập thị trấn Quảng Trị (thị trấn Triệu Hải và trung tâm là xã Hải Trí - làng Thạch Hãn). Thánh địa La Vang (Tiểu Vương Cung Thánh đường La Vang), huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị (La Vang cách trung tâm thị xã Quảng Trị 6 km ven theo Quốc lộ 1 về phía nam). La Vang là một thánh địa và là nơi hành hương quan trọng của người Công giáo Việt Nam, thuộc Tổng Giáo phận Huế. Các tín hữu tin rằng, Đức Mẹ Maria hiển linh ở khu vực này vào năm 1798. Một nhà thờ đã được xây dựng gần ba cây đa, nơi họ tin là Đức Mẹ đã hiện ra và được Tòa Thánh tôn phong là Tiểu Vương Cung Thánh đường La Vang từ năm 1961. Đây là một trong ba trung tâm hành hương Công giáo được chính quyền Việt Nam hiện nay công nhận. Thành cổ Quảng Trị. Huế Đông Hà", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Patong", "role": "user" }, { "content": "Patong là một thành phố trên đảo Phuket thuộc Nam Thái Lan. Patong là một thủ đô tiệc tùng của Châu Á, với một cuộc sống về đêm nổi tiếng thế giới và một bãi biển tuyệt vời. Thành phố có các khách sạn, nhà hàng đẳng cấp thế giới, câu lạc bộ đêm và các điểm du lịch khác nhau, đây là một thiên đường giành cho những người ăn chơi về đêm, với nhiều khu vui chơi giải trí và vô số thanh cụm với nhau trong và xung quanh đường Bangla và Đường Bãi biển. Thành phố có mại dâm nữ, người chuyển đổi giới tính, và mại dâm nam phục vụ cho mọi khách tìm sex, tuy nhiên chỉ xem nó như thế này là một sai lầm, thành phố cũng còn nhiều thứ cho gia đình, những cặp đi với nhau. Sân bay quốc tế Phuket cách Patong 35 km phía bắc của Patong. Xe limousine từ sân bay đến Patong có giá 600 baht (45 phút). Taxi có đồng hồ là 400 + baht (từ trạm chờ taxi tại sân bay. Bỏ qua các chào hàng và rẽ phải khi bạn ra khỏi nhà ga). Xe buýt nhỏ chia sẻ là 150 baht (nhưng 180 baht trong Patong chỉ đạo sân bay, giả sử bạn đặt thông qua một hãng). Một cách tốn thời gian rẻ hơn, nhưng nhiều hơn, tùy chọn là để có những xe buýt máy lạnhđưa đón sân bay thoải mái đến thành phố Phuket (85 baht, 1 giờ), và chuyển đổi đó để một chiếc xe buýt địa phương đến Patong. Xem \"Bằng xe buýt\". Ngoài ra, nếu bạn rành đường, bạn có thể xuống xe buýt sau khi bạn vượt qua trung tâm mua sắm Big C trên bên phải (xe buýt sân bay đi đến cùng bên tay trái, và con đường dẫn tới Kathu Patong và sau đó là bên phải tại cùng một ngã tư), sau đó bắt xe buýt địa phương đến Patong ở đó. Xe buýt địa phương đến Patong được đánh dấu rõ ràng bằng tiếng Anh và tiếng Thái.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Đảo Hantu", "role": "user" }, { "content": "Pulau Hantu là hòn đảo nhỏ ngoài khơi phía Nam Singapore. Pulau Hantu được tạo thành từ hai hòn đảo nhỏ là Pulau Hantu Besar (Đảo ma lớn) và Pulau Hantu Kechil (Đảo ma nhỏ), với tổng diện tích 12,6 ha, cả hai đều có những khu dã ngoại và chòi nghỉ cho một ngày thú vị ngoài trời. Với những vùng vịnh, bãi biển nằm rải rác kèm theo làn nước trong xanh đã khiến nơi đây trở thành địa điểm tuyệt vời cho các hoạt động như câu cá, bơi lội và lặn snorkelling. Sinh vật biển và san hô ở đây cũng rất phong phú. Trong tiếng Mã Lai Pulau Hantu có nghĩa là \"hòn đảo của những bóng ma\" vì người ta tin rằng hồn ma của các chiến binh Mã Lai cổ xưa vẫn lang thang trên đảo sau cuộc tử chiến tai đôi của họ tại đây.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Đông Nam Pháp", "role": "user" }, { "content": "Đông Nam Pháp là một khu vực thuộc Pháp. Khu vực này gồm có các vùng Rhône-Alpes, Languedoc-Roussillon, Provence-Alpes-Côte d'Azur, Corsica. Vùng du lịch chính của ngoại ô Paris, với khí hậu ấm và biển xanh nằm tương phản với các dãy núi Anpơ thuộc Pháp. Corsica Rhône-Alpes Languedoc-Roussillon Provence-Alpes-Côte d'Azur", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Hậu Giang", "role": "user" }, { "content": "Hậu Giang là một tỉnh của Việt Nam. Tỉnh lỵ là Thành phố Vị Thanh. Hậu Giang là một tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long. Hậu Giang là tỉnh ở trung tâm châu thổ sông MêKông, thành phố Vị Thanh trung tâm hành chính của tỉnh cách thành phố Hồ Chí Minh 240 km về phía tây nam, cách thành phố Cần Thơ 60 km theo Quốc lộ 61 và chỉ cách 40 km theo đường nối Vị Thanh – thành phố Cần Thơ. Hậu Giang là tỉnh thuộc khu vực nội địa của Đồng bằng Sông Cửu Long. Trước năm 1945, Hậu Giang là tên gọi của sông Hậu. Vùng đất thuộc tỉnh Hậu Giang ngày nay nằm rải rác ở nhiều tỉnh khác nhau. Sau 30 tháng 04 năm 1975, tỉnh Hậu Giang được thành lập trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Phong Dinh và Ba Xuyên thời Việt Nam Cộng Hoà. Cuối năm 1991 tỉnh Hậu Giang được chia thành Cần Thơ và Sóc Trăng. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, tỉnh Cần Thơ được chia thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang ngày nay Hậu Giang là một trong những trung tâm lúa gạo của miền Tây Nam Bộ. Tỉnh có thế mạnh về cây lúa và cây ăn quả các loại, có nguồn thủy sản phong phú, chủ yếu tôm cá nước ngọt và chăn nuôi gia súc. Sông Mái Dầm có đặc sản cá ngát nổi tiếng. Tỉnh nổi tiếng với chợ nổi Ngã Bảy và nhiều di tích lịch sử cấp quốc gia như di tích Khởi Nghĩa Nam Kỳ, di tích Liên Hiệp Đình Chiến Nam Bộ, Căn cứ Tỉnh Ủy Cần Thơ, di tích Tầm Vu, đền thờ Bác Hồ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Khakassia", "role": "user" }, { "content": "Khakassia (tiếng Nga: Хака́сия) là một nước cộng hòa ở phía tây Siberia, giáp với Cộng hòa Altai về phía tây nam, tỉnh Kemerovo về phía tây, vùng Krasnoyarsk về phía bắc và đông và Tuva về phía đông nam. 53.71647Abakan1 Abakan — thủ đô của nước cộng hòa 52.6498Abaza2 Abaza — thị trấn quan trọng nhất ở miền nam Khakassia, gần ranh giới với Tuva 53.81647Chernogorsk3 Chernogorsk — đô thị lớn thứ hai của khu vực, từng có một trại cải tạo lao động Liên Xô 53.0998Sayanogorsk4 Sayanogorsk — có một trong những nhà máy luyện nhôm lớn nhất thế giới 54.49092Shira5 Shira — nằm gần hồ nước mặn cùng tên 53.9998Sorsk6 Sorsk 52.05389Khu bảo tồn thiên nhiên Khakassia1 Khu bảo tồn thiên nhiên Khakassia — có nhiều ngôi mộ của người tiền sử 54.6791Sunduki2 Sunduki — một quần thể đá sa thạch ở phía bắc Khakassia Dân bản địa ở Khakassia nói được tiếng Khakas và tiếng Nga. Cả hai ngôn ngữ này đều được viết bằng ký tự Kirin nên bạn sẽ cần học nó trước khi khởi hành. Những món ăn của dân tộc Khakas bản địa bao gồm lúa mạch đen, hạt kê, thịt cừu và thịt ngựa. Vùng Altai Cộng hòa Altai Tỉnh Kemerovo Tỉnh Novosibirsk Tỉnh Omsk Tỉnh Tomsk", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Yemen", "role": "user" }, { "content": "'Yemen (tiếng Ả Rập: اليَمَن al-Yaman), quốc hiệu chính thức là Cộng hòa Yemen' (tiếng Ả Rập: الجمهورية اليمنية al-Jumhuuriyya al-Yamaniyya, âm Hán-Việt là Diệp Môn) là một quốc gia ở bán đảo Ả Rập, Tây Nam Á. Thủ đô là Sana'a. Yemen có khoảng 23 triệu dân và rộng gần 530.000 km2. Quốc gia này giáp với Ả Rập Saudi ở phía Bắc, Hồng hải ở phía Tây, biển Ả Rập và vịnh Aden ở phía Nam, và Oman ở phía Đông. Trước ngày 22 tháng 5 năm 1990, Yemen là 2 nước Bắc Yemen và Nam Yemen. Sana'a (tiếng Ả Rập: صنعاء‎, tên khác Sanaa hoặc Ṣan‘ā’) (IPA: [sʕanʕaːʔ]) là thủ đô và thành phố lớn nhất của Yemen.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Hà Lan", "role": "user" }, { "content": "Hà Lan là một quốc gia nhỏ ở đồng bằng sông Cửu trũng phía tây bắc Châu Âu. Với hơn 16,7 triệu người trong một khu vực gần gấp đôi kích thước của New Jersey, đó là một đất nước đông dân mà nổi tiếng với các họa sĩ của mình, cối xay gió, hoa tulip. Phần lớn đất nước này bao gồm vùng đất nổi tiếng là bằng phẳng, nhiều lần được hình thành thông qua cải tạo đất. Hà Lan là một trong những quốc gia có mật độ dân số cao và nằm thấp nhất so với mực nước biển trên thế giới. Hà Lan có khoảng 27% diện tích và 60% dân số nằm ở khu vực có độ cao dưới mực nước biển. Các chính sách tự do của quốc gia này thông thường được đề cập tới ở nước ngoài. Quốc gia này là nơi đặt trụ sở của Tòa án Quốc tế vì Công lý. Amsterdam là thủ đô chính thức được công nhận trong hiến pháp. Den Haag (hay còn gọi là La Haye theo tiếng Pháp) là thủ đô hành chính (nơi hội họp của chính phủ), nơi ở của Nữ hoàng, và là nơi đặt trụ sở của nhiều đại sứ quán, của Toà án quốc tế. Hà Lan cũng là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới cho phép sử dụng ma tuý công khai; công nhận mại dâm như một nghề hợp pháp, khu phố mại dâm hay còn gọi là khu Đèn Đỏ ở Amsterdam còn là một điểm đến trong hầu hết các tour du lịch. Hà Lan cũng đi tiên phong trong việc công nhận kết hôn đồng giới. Hà Lan nằm ở vùng đất thấp, có diện tích 41.543 km2, dân số 16,7 triệu người (2011). Hà Lan nổi tiếng với hệ thống đê điều và các công trình lấn biển, cối xay gió và hoa tuy líp. Vùng này là nơi định cư của các bộ tộc Arawak và Carib trước khi người Tây Ban Nha đến đây vào thế kỉ 16. Hai nhà thám hiểm Alonso de Ojeda và Amerigo Vespucci phát hiện ra đảo Curaao năm 1499. Người Hà Lan đến xâm chiếm đảo Curaçao cùng hai đảo Aruba và Bonaire năm 1634, Peter Stuyvesant trở thành viên Toàn quyền đầu tiên ở Curaçao. Sau khi Vương quốc Frank bị chia cắt, Hà Lan thuộc về Vương quốc Frank Đông (Regnum Teutinicae) và sau đó thuộc về Đế quốc La Mã Thần thánh dân tộc Đức. Dưới triều của hoàng đế Karl V, người đồng thời cũng là vua Tây Ban Nha, nước được chia thành 17 tỉnh và cũng bao gồm phần lớn nước Bỉ ngày nay. Sau tuyên bố độc lập của 7 tỉnh miền Bắc (Liên minh Utrecht) vào ngày 23 tháng 1 năm 1579 và cuộc chiến 80 năm kế tiếp theo đó chống lại dòng họ Habsburg Tây Ban Nha, nền độc lập trên hình thức đối với Tây Ban Nha được ghi nhận trong Hòa ước Münster, là một phần của Hòa ước Westfalen vào ngày 15 tháng 5 năm 1648, dẫn đến việc tách ra khỏi Đế chế Đức trong thời kỳ Trung cổ, đồng thời với Thụy Sĩ. Ngày này được xem là ngày nước Hà Lan ra đời. Trong thời gian sau đó nước Hà Lan, là Cộng hòa Hà Lan Thống nhất (Republiek der Zeven Verenigde Nederlanden - Cộng hòa của bảy tỉnh Hà Lan Thống nhất), lớn mạnh trở thành một trong những thế lực kinh tế và hàng hải lớn nhất của thế kỷ 17. Trong thời gian đấy nhiều thuộc địa và địa điểm buôn bán được thiết lập trên toàn thế giới. Nieuw Amsterdam (Amsterdam mới) được thành lập, thành phố mà sau này được đổi tên thành New York. Tại Châu Á người Hà Lan thiết lập thuộc địa Nederlands-Indië, nước Indonesia ngày nay, độc lập vào tháng 12 năm 1949. Trong vùng đông bắc Nam Mỹ (Suriname) và vùng biển Caribbean cũng thành hình thuộc địa Hà Lan (Aruba, Curaçao, Bonaire, Saba, Sint Eustatius và Saint Martin); các đảo này là phần đất tự trị của vương quốc Hà Lan. Vì thế mà vương quốc Hà Lan bao gồm chính thức là 3 phần: Hà Lan, Aruba và quần đảo Antille thuộc Hà Lan. Năm 1796, với sự hỗ trợ của Pháp, Cộng hòa Batavia (Bataafse Republiek) được thành lập, được gọi theo bộ tộc người German là Bataver, đầu tiên định cư tại vùng giữa sông Rhein và sông Maas. Năm 1806 Napoléon thành lập Vương quốc Holland từ Cộng hòa này. Sau khi bị nước Pháp dưới thời Napoléon I thôn tính, vương quốc Nederlande được thành lập, bao gồm cả nước Bỉ ngày nay. Vị vua đầu tiên là Wilhelm I từ dòng dõi Oranje-Nassau. Bỉ và cùng với nước Bỉ là vùng Flandern Franken Hạ giành được độc lập sau cuộc Cách mạng Bỉ năm 1830 nhưng mãi đến 1839 mới được Wilhelm I công nhận. Vua Hà Lan đồng thời cũng là Đại Công quốc của Luxembourg, nơi Đạo luật Salica (Lex Salica) không cho phép người nguyên thủ quốc gia là nữ. Khi Wilhelm III chết chỉ để lại một người con gái (nữ hoàng Wilhelmina), ngai vàng Luxembourg được chuyển về một nhánh kế thừa khác trong dòng họ Nassau và người anh em họ của Wilhelm là Adolf von Nassau kế nhiệm tại đó. Nước Hà Lan chính thức trung lập trong Đệ nhất thế chiến và đã có thể thành công trong việc không tham gia vào cuộc chiến. Thế nhưng Hà Lan vẫn động viên toàn bộ quân đội cho đến khi chiến tranh kết thúc và thêm vào đó là phải đối phó với làn sóng người di tản từ nước Bỉ bị Đế chế Đức chiếm đóng. Trong Đệ nhị thế chiến chính phủ Hà Lan cũng đã cố gắng không tham gia chiến tranh; những lời cảnh báo khác đi không được tin. Thế nhưng Hitler đã ra lệnh xâm chiếm Hà Lan, để có thể thôn tính nước Pháp từ phía Bắc vòng qua tuyến phòng thủ Maginot. Sau 3 ngày chiến đấu, quân đội Đức bắt buộc Hà Lan đầu hàng vào đêm 14 tháng 5 năm 1940 bằng cuộc bỏ bom Rotterdam. Trung tâm thành phố bị phá hủy hầu hết vì bom và những đám cháy kế tiếp theo đó. Đây là cuộc bỏ bom trên diện rộng đầu tiên trong Đệ nhị thế chiến. Đất nước bị quân đội Đức chiếm đóng từ tháng 5 năm 1940 cho đến tháng 5 năm 1945. Nhiều người Hà Lan hợp tác với chế độ chiếm đóng và nhiều người cũng đã tiếp thu ý tưởng của một Đại Đế chế Đức hay Đại Đế chế German, thuộc vào trong số đó là những người Hà Lan nói tiếng Đức. Việc truy nã người Do Thái xảy ra tại Hà Lan đặc biệt dữ dội: không một nước nào khác ở Châu Âu lại có nhiều người có tính ngưỡng đạo Do Thái bị bắt đi trại tập trung nhiều như thế. Cho đến nay vai trò của các cơ quan hành chính Hà Lan và của công ty tàu hỏa Hà Lan vẫn chưa được làm rõ hoàn toàn. Tượng trưng cho việc truy nã người Do Thái là vụ việc của Anne Frank. Thế nhưng đa số người dân phải cam chịu cảnh chiếm đóng. Phần phía Nam của Hà Lan được quân đội Đồng minh đang tiến quân giải phóng vào nửa cuối năm 1944; phần miền Bắc mãi cho đến khi chiến tranh chấm dứt. Nước Hà Lan là thành viên thành lập Liên minh Kinh tế Benelux (Low Coutries) và cũng là nước đồng thành lập khối NATO và Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (và vì thế cũng là nước đồng thành lập Liên minh Châu Âu). Trong thập niên 1980, các quy định mang tính tự do trong các việc về người thiểu số và về tiêu dùng các loại thuốc gây nghiện \"mềm\" được đưa ra. Đi trước các thay đổi luật pháp này là nhiều xung đột trầm trọng với người nước ngoài, đã bắt buộc chính phủ Hà Lan phải hành động. Các quy định của Hà Lan trước đó hoàn toàn là những gì khác với những quy định được coi là gương mẫu. Trong những năm 1990, đặc biệt là vụ thảm sát tại Srebrenica đã có nhiều tác động chính trị lớn và bắt buộc chính phủ phải từ chức vào năm 1994. Antille thuộc Hà lan trở thành vùng tự trị năm 1954, đảo Aruba tách khỏi nhóm đảo này năm 1986. Năm 1994, dân cư trên nhóm đảo này bỏ phiếu quyết định duy trì việc liên hiệp với Hà lan. Trong thời gian vừa qua mô hình chính trị đa văn hóa rộng lượng của Hà Lan đã trải qua nhiều thử thách. Các vấn đề của đường lối chính trị này biểu hiện đặc biệt ở vụ giết người của phái dân túy (populist) Pim Fortuin, người đã tạo một vết sướt sâu đậm trên hình tượng Hà Lan. Thêm vào đó, chính sách chính trị tự do tạo điều kiện thuận lợi cho việc những người theo đạo Hồi quá khích và những người được gọi là giảng đạo căm thù di dân vào Hà Lan: vào ngày 2 tháng 11 năm 2004 đạo diễn Theo van Gogh bị giết chết. Hậu quả của việc này là nhiều cuộc tấn công các đền thờ đạo Hồi và những tuyên bố thù địch chống lại người dân theo đạo Hồi. Từ đấy phần lớn người dân yêu cầu một chính sách không khoan nhượng đối với những người di dân có hành động bạo lực và thay đổi các luật lệ di dân được cảm nhận là quá tự do. Và cũng từ thời điểm đấy nhiều chính trị gia phải được cảnh sát bảo vệ vì họ vẫn tiếp tục bị người theo đạo Hồi đe dọa. Khoảng một nửa nước Hà Lan có độ cao ít hơn 1 mét trên mặt biển, một vài vùng còn thấp hơn cả mực nước biển. Điểm cao nhất của nước Hà Lan, Vaalserberg nằm ở phía đông-nam, cao hơn mức Amsterdam 322,50 m, tại đấy cũng là góc 3 nước, giáp ranh giới với Đức và Bỉ. Nhiều phần của Hà Lan thí dụ như gần toàn bộ tỉnh Flevoland được tạo thành do lấn biển chiếm đất. Vào khoảng 1/5 (18,41%) diện tích là nước, trong đó phần lớn nhất là IJsselmeer, ngày xưa nguyên là một vịnh của biển Bắc, đã được ngăn bằng một con đập dài 29 km vào năm 1932 để lấy đất. Các con sông quan trọng nhất của Hà Lan là sông Rhein, sông Waal và sông Maas. Hướng gió chính ở Hà Lan là hướng tây-nam với kết quả là một khí hậu đại dương ôn hòa với mùa hè mát và mùa đông không lạnh. Hà Lan có ranh giới về phía tây và phía bắc là biển Bắc, về phía đông là Đức và về phía nam là Bỉ. Từ sau khi cuộc chiếm đóng của Pháp chấm dứt vào năm 1815, nước Hà Lan có một nền quân chủ nghị viện, đứng đầu là hoàng gia Hà Lan Oranien-Nassau. Hà Lan được coi là một trong những nước tự do nhất thế giới (về báo chí, mại dâm, sử dụng ma túy..) xuất phát từ đề cao chủ nghĩa cá nhân, nhân quyền. Nữ hoàng/vua vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là thành phần của chính phủ bên cạnh Thủ tướng và các Bộ trưởng. Nữ hoàng/vua có trách nhiệm đọc các bài phát biểu hàng năm, khai mạc quốc hội và thông qua kế hoạch năm của chính phủ vào ngày Thứ Ba tuần thứ ba của Tháng Chín. Nữ Hoàng/vua có vai trò quan trọng trong việc lập chính phủ mới sau khi bầu nghị viện. Hiện nay vua Hà Lan là Willem-Alexander. Hà Lan là một chế độ quân chủ lập hiến, hành chính chia thành 12 tỉnh ( tỉnh thành). Mặc dù Hà Lan là một nước nhỏ, các tỉnh này là tương đối đa dạng và có nhiều khác biệt văn hóa và ngôn ngữ. Chúng có thể được chia thành bốn khu vực: Bài viết này mô tả một phần Châu Âu của Vương quốc Hà Lan. Các Caribbean đảo Bonaire, Sint Eustatius và Saba là \"thành phố đặc biệt\" tích hợp đầy đủ ở Hà Lan thích hợp. Bên cạnh Hà Lan thích hợp, Aruba, Curaçao và Sint Maarten là các quốc gia thành phần bên trong Vương quốc Hà Lan. Amsterdam - kiến trúc ấn tượng, kênh đào đẹp ( grachten), viện bảo tàng và thái độ tự do Delft - thị xã hoang sơ lịch sử với gốm sứ màu xanh và trắng nổi tiếng thế giới Groningen - thành phố sinh viên với một bầu không khí thoải mái và cuộc sống về đêm cho đến khi mặt trời thức dậy Den Haag hay La Hay - thủ đô tư pháp của thế giới, chỗ của chính phủ và các gia đình hoàng gia Leiden - thành phố sinh viên với các trường đại học lâu đời nhất của đất nước và ba bảo tàng quốc gia Maastricht - thành phố thời trung cổ với các nền văn hóa khác nhau, phong cách và kiến ​​trúc của miền Nam Nijmegen - thành phố lâu đời nhất của đất nước, nổi tiếng với những cuộc tuần hành của nó, chính trị cánh tả và số lượng sinh viên lớn Rotterdam - kiến trúc hiện đại, cuộc sống về đêm tốt, nghệ thuật sôi động và cảng lớn nhất của Châu Âu Utrecht - trung tâm lịch sử, cửa hàng đồ cổ và Nhà Rietveld Schröder- Đây là một điểm đến thú vị bên ngoài các thành phố lớn. Efteling - công viên giải trí nổi tiếng với các yếu tố như câu chuyện cổ tích thần tiên và người lùn Vườn quốc gia Hoge Veluwe - vườn quốc gia lớn nhất với Heathlands, cồn cát và rừng Keukenhof - hơn 800.000 du khách ngắmnhững cánh đồng hoa lớn mỗi mùa xuân Kinderdijk - những cối xay gió cho cảnh quan Hà Lan điển hình trong tất cả vinh quang của nó Schokland - hòn đảo cũ sơ tán vào năm 1859, một ngôi làng ma được bảo quản tốt vẫn Nam Limburg - cảnh quan xanh đồi núi, làng đẹp như tranh vẽ, lâu đài và vườn cây ăn trái Texel - hòn đảo lớn nhất phù hợp để đi xe đạp, xem chim, đi bộ, bơi lội và cưỡi ngựa Zaanse Schans - bảo tàng ngoài trời với cối xay gió Hà Lan và nhà Zaan Zaanstreek-Waterland - làng điển hình của Hà Lan và lấn biển với guốc, nhà gỗ và cối xay gió Hà Lan là một thành viên của Hiệp ước Schengen. Điều này có nghĩa rằng có thể có vị trí kiểm tra hải quan nhưng không có kiểm tra xuất nhập cảnh (đi du lịch trong khối Schengen nhưng đến/đi từ một quốc gia không thuộc EU) hoặc bạn có thể phải qua thủ tục nhập cư nhưng không hải quan (đi du lịch trong EU nhưng đến/đi từ một nước không thuộc khối Schengen). Lưu ý rằng bất kể bạn đang đi du lịch trong khu vực Schengen hay không, nhiều hãng hàng không vẫn sẽ nhấn mạnh khi nhìn thấy thẻ căn cước của bạn hoặc hộ chiếu. Sân bay quốc tế Schilpol là sân bay lớn nhất Hà Lan, là một trong những sân bay bận rộn nhất Châu Âu. Sân bay Schiphol [1], gần Amsterdam, là một trung tâm châu Âu, và sau sân bay ở London, Paris và sân bay Frankfurt - sân bay lớn nhất của châu Âu. Cho đến nay nó là sân bay quốc tế lớn nhất ở Hà Lan, và một điểm tham quan, nó nằm ở độ cao 4 mét dưới đây có nghĩa là mực nước biển. Du khách có thể dễ dàng bay từ hầu hết các nơi trên thế giới và sau đó kết nối với các hãng hàng không lớn nhất của Hà Lan KLM [2]. Một số các hãng hàng không cũng bay tới Hà Lan. Jet2.com [3], Easyjet [4], Transavia [5] và khác chi phí thấp hãng phục vụ Schiphol, cung cấp một cách khá kinh tế cho thành phố-hop đến Amsterdam từ những điểm khác ở châu Âu. Đặc biệt là bay đến / từ quần đảo Anh và các nước Địa Trung Hải có thể là tương đối rẻ. Điều quan trọng là bạn đặt càng sớm càng tốt, khi giá có xu hướng cao hơn khi gần giờ khởi hành. Từ Schiphol có kết nối đường sắt tuyệt vời: Amsterdam, Rotterdam, The Hague, Utrecht và nhiều thành phố khác có một dịch vụ đào tạo trực tiếp. Xe lửa tốc độ cao quốc tế khởi hành đến Antwerp, Brussels và Paris. Nhà ga xe lửa tại Schiphol nằm dưới đất, dưới hội trường sân bay chính. Tàu là cách nhanh nhất và rẻ nhất để có được xung quanh trong Hà Lan. Taxi đắt: taxi hợp pháp có biển số màu xanh, những người khác cần phải tránh. Dịch vụ taxi bất hợp pháp thường xuyên được cung cấp bên ngoài sân bay, nhưng sẽ tính phí một số tiền lớn cho các khách sạn thậm chí ngắn tripsSome ở Amsterdam, và xung quanh sân bay, có một dịch vụ xe buýt đưa đón. Sân bay quốc tế khác là Sân bay Eindhoven,Sân bay Maastricht / Aachen ',Sân bay Rotterdam The Hague ', và Sân bay Groningen Eelde '. Những sân bay nhỏ hơn chủ yếu phục vụ các hãng hàng không chi phí thấp. Sân bay Eindhoven và Maastricht / Aachen Sân bay chủ yếu được sử dụng bởi Ryanair [6], trong khi sân bay Rotterdam là thường xuyên bởi Transavia [7], công ty con chi phí thấp của KLM cho khách du lịch. Các nhà điều hành CityJet làm một chuyến đi đi lại tốn kém để thành phố London. Một xe buýt kết nối trực tiếp, hoặc đến nhà ga địa phương và sau đó đi xe lửa là cách tốt nhất để có được đến Amsterdam hay bất kỳ thị trấn khác. Có một dịch vụ xe buýt đi thẳng giữa Sân bay Eindhoven và Ga Trung tâm Amsterdam. Cũng có thể đến Hà Lan qua các sân bay nằm ở các nước xung quanh. Sân bay nhiều được sử dụng là sân bay quốc tế Düsseldorf' [8] và Sân bay Brussels '[9]. Hãng hàng không giá thấp châu Âu (Ryanair và Air Berlin [10]) cũng sử dụng các sân bay của Münster-Osnabrück và Weeze / Niederrhein là gần hoặc ngay tại biên giới Hà Lan / Đức. Từ hai sân bay này có các chuyến bay thường xuyên đến các địa điểm lớn của châu Âu. Xe lửa tốc độ cao có thể là phương tiện thoải mái nhất trong các loại hình giao thông vận tải giữa các thành phố lớn của châu Âu. Trong khi một số hãng hàng không chi phí thấp cung cấp giao dịch rẻ hơn, hãy nhớ rằng đường cao tốc quốc tế kết nối trung tâm thành phố, chứ không phải là sân bay mà thường nằm bên ngoài thành phố. Ngoài ra, xe lửa không yêu cầu phải có mặt một giờ trước khi khởi hành và có thể là một phần của trải nghiệm kỳ nghỉ. Hãy nhớ rằng vé với giá rẻ nhất thường được bán ra sớm và đặt chỗ thường có thể 3 (bình thường) đến 6 (City Night Line) tháng trước. Đặt chỗ trước có thể được thực hiện thông qua NS HiSpeed (Đường sắt Hà Lan) hoặc của đối tác của nó Đức và Bỉ. Xe lửa tốc độ cao Thalys [11], kết nối Hà Lan với Pháp và Bỉ, là một chút đắt tiền, nhưng nếu bạn đặt trở lại trước hoặc nếu bạn dưới 26 tuổi hoặc trên 60 tuổi, bạn có thể nhận được vé rẻ. Nó cũng nhanh hơn, thông thường rẻ hơn và thuận tiện hơn bay. Xe lửa trực tiếp khởi hành từ Amsterdam, Sân bay Schiphol và Rotterdam. Maastricht cũng có thể được tiếp cận bằng các Thalys đến Liège, Aachen. Thay đổi tàu tại Liège-Guillemins cho tàu trực tiếp đến Maastricht. Xem thêm chi tiết [12]. Kể từ ngày 09 tháng 12 tháng 2012, tàu mới, Fyra tốc độ kết nối Antwerp và Brussels với Rotterdam, Sân bay Schiphol và Amsterdam. Tuy nhiên, kể từ 17 tháng 5 năm 2013, tất cả các dịch vụ tàu Fyra đã bị tạm dừng cho đến khi có thông báo mới do các vấn đề kỹ thuật. Một cách khác là có sẵn bằng cách đón tàu lửa từ Antwerp đi Roosendaal và đổi sang tàu IC Rotterdam và Amsterdam.' ' Nhà ga St Pancras của London được kết nối với Hà Lan bởi Eurostar xe lửa tốc độ cao thông qua Brussels Midi / Zuid / trạm Nam. Sử dụng một trong những kết nối nêu trên. Để tránh phải trả tiền cho một vé xe lửa quốc tế trên tuyến đường giữa Amsterdam và Antwerp, bạn có thể nhận ra trong một trong những ga biên giới Essen (Bỉ) và Roosendaal (Hà Lan) và đi bộ đến khác trên chân. Bạn có thể theo đường chính giữa hai địa điểm và sẽ cần phải đi bộ khoảng 10 km trong một, mặc dù địa hình đặc biệt không có người ở căn hộ và cởi mở. Tàu cao tốc ICE [13] chạy từ Basel qua Frankfurt Amsterdam, thông qua Cologne, Düsseldorf, Arnhem, và Utrecht. Tàu liên tỉnh chạy từ Berlin và Hannover qua Osnabrück đến Amsterdam và Hengelo, Deventer, Apeldoorn, Amersfoort và Hilversum. Tàu đêm Thành phố và xe lửa Euronight cung cấp các kết nối trực tiếp qua đêm từ các thành phố như München, Zurich, Copenhagen, Innsbruck, Warsaw và Prague. Ngoài ra còn có một số xe lửa khu vực từ và Đức: Từ Groningen và Leer xe lửa chạy mỗi hai giờ [14]. Có xe lửa giữa Enschede và Münster mỗi giờ, còn giữa Enschede và Dortmund mỗi giờ / en / index.shtml. Xe lửa chạy hàng giờ giữa Venlo và Hamm, thông qua Mönchengladbach và Düsseldorf [15]. Xe lửa chạy mỗi giờ từ Heerlen và Aachen và hơn nữa đi Eschweiler / Stolberg (Rheinland) shtml. Xe lửa chạy mỗi giờ từ Hengelo và Bad Bentheim [16]. Một ngoại lệ đáng chú ý là đối với đào tạo đặc biệt này, được mua vé trên tàu và thẻ chip OV là không hợp lệ! Ngôn ngữ quốc gia ở Hà Lan là tiếng Hà Lan. Tiếng Hà Lan, đặc biệt là dưới dạng ngôn ngữ nói, là một phần có thể hiểu được đối với những người biết tiếng Đức khác (đặc biệt là tiếng Germanic và tiếng Frisia), và bạn có thể có thể có hiểu một phần tiếng này nếu nói chậm. Bên cạnh tiếng Hà Lan, một số ngôn ngữ khác được sử dụng tại Hà Lan, ở các tỉnh phía đông của Groningen, Overijsel, Drenthe và người Gelderand nói một biến thể phương ngữ của Hạ Saxon (tiếng Grunnegs hoặc Tweants ví dụ). Tại tỉnh Limburg phần lớn nói tiếng Limburgish, một ngôn ngữ duy nhất ở châu Âu vì việc sử dụng độ cao thấp và giai điệu dài để phân biệt các từ (ví dụ: 'Veer' với một giai điệu cao có nghĩa là \"chúng tôi\", trong khi cùng một từ với một giai điệu thấp có nghĩa là 'bốn'). Tiếng Frisia, cùng với Hà Lan, một ngôn ngữ chính thức ở tỉnh Friesland. Tiếng Frisia là sinh ngữ gần gũi nhất với tiếng Anh. Các hình thức khác của tiếng Frisia cũng được nói của thiểu số nhỏ ở Đức. Khi đi du lịch thông qua Friesland bạn thấy nhiều bảng chỉ đường bằng hai ngôn ngữ (tương tự như Wales và South Tyrol). Đây cũng là trường hợp ở miền nam Limburg. Tất cả mọi người nói tiếng Hà Lan, nhưng người Frisia bảo vệ của những ngôn ngữ thiểu số nhiều đến mức nếu bạn gọi ly bia bằng ngôn ngữ này thì ly bia tiếp theo bạn gọi có thể được miễn phí. Vùng biên giới Đức, tiếng Đức được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, bên ngoài của các tỉnh miền đông, một số lượng tốt của người dân (đặc biệt là trong thế hệ trẻ) cũng có thể nói tiếng Đức. Tiếng Pháp được hiểu bởi một số người, đặc biệt là các thế hệ cũ. Ngôn ngữ nhập cư nổi bật trong khu vực đô thị, chúng bao gồm tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Ả Rập, Sranan-Tongo (Surinam) và tiếng Papiamento (Netherlands Antilles). \"Tất cả họ đều nói tiếng Anh ở đó\" là khá chính xác cho Hà Lan. Được dạy tiếng Anh và các ngôn ngữ châu Âu khác như một ngoại ngữ từ khi còn nhỏ (chủ yếu là Đức xếp thứ hai, tiếng Pháp vào thứ ba và thậm chí cả Tây Ban Nha ở vị trí thứ tư) làm cho một số người Hà Lan là dân đa ngôn ngữ thông thạo nhất trên lục địa này. Vì tất cả những người nhập cư ở Hà Lan thậm chí còn có thể tìm thấy một người nói tiếng Ả Rập hay Thổ Nhĩ Kỳ, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Amsterdam và Utrecht. Trong các trường trung học, tiếng Nga, tiếng Hy Lạp cổ đại và tiếng Latin được dạy. Du khách đến các thành phố lớn sẽ có xoay xở được mà không cần học một từ của tiếng Hà Lan. Các chương trình truyền hình nước ngoài và phim gần như luôn luôn được hiển thị trong ngôn ngữ gốc của họ với phụ đề. Chương trình chỉ có trẻ em được lồng Hà Lan.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Grenada", "role": "user" }, { "content": "Grenada (tiếng Anh: Grenada, Tiếng Việt: Grê-na-đa[1]) là một quốc đảo thuộc vùng biển Caribê gồm một đảo chính và sáu đảo nhỏ hơn nằm gần Grenadines, là một quốc gia thuộc Châu Mỹ. Đảo Grenada do Cristoforo Colombo khám phá ra năm 1498, và đặt tên là Concepción. trở thành thuộc địa của Pháp (1650), được nhượng lại cho Anh (1762-1779); Pháp chiếm lại thuộc địa cũ và giao lại cho Anh từ năm 1783. Ngay từ thế kỷ 17, người Pháp đã nhìn thấy tiềm năng của St.George - thủ đô Grenada - khi so sánh không thuộc địa nào của mình lại có cảng biển tự nhiên như nơi đây. Thế nhưng chế độ thuộc địa của Pháp và sau đó là thực dân Anh đã từng bước \"gầy dựng\" nên một lịch sử Grenada tang thương và biến động. Suốt những thế kỷ sau là những cuộc cách mạng, đấu tranh triền miên để giành lại nền độc lập của Grenada. Grenada tuyên bố độc lập năm 1974 và là thành viên thuộc Khối Liên hiệp Anh. Từ năm 1979, nhóm quân sự cánh tả thân Cuba lên cầm quyền. Cũng chỉ mới đây, vào những năm đầu thập niên 1980, khi một phần phía tây nam Grenada còn nằm trong hành lang phong tỏa của Mỹ, quốc gia này luôn chìm ngập trong hình ảnh bị bao vây của tầng tầng lớp lớp lực lượng vũ trang cũng như các chuyến xe chở nhiên liệu xuất cảng nối đuôi nhau trong bụi khói mịt mờ. Khi ấy Grenada thoi thóp như cơ thể một chàng thanh niên lực lưỡng bị bòn rút hết sinh khí. Sau đó, với sự giúp đỡ của Chính phủ Cuba và Nga, một số nhóm đảo chính đã bắt giữ Thủ tướng đương nhiệm. Chính quyền Tổng thống Reagan chấp nhận rút lui, từ bỏ sự ảnh hưởng lên Grenada khi thấy lực lượng ở đây đang dần lớn mạnh và bắt đầu được sự ủng hộ của các quốc gia khác trên thế giới. Grenada chuyển mình thức dậy và sinh sôi lớn mạnh từ đây. Hoa Kỳ rút quân năm 1985. Đảng Quốc gia Mới (NND) dưới sự lãnh đạo của Dr. Keith C. Mitchel giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1995. Đảng này chiếm tất cả 15 ghế trong Quốc hội trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1999. [3] Grenada nằm ở quần đảo Tiểu Antilles, Trung Mỹ; gồm đảo Grenada và một phần phía Nam quần đảo Grenadines. Grenada là một đảo núi lửa cách bờ biển Venezuela 161 km; đỉnh St. Catherine (840 m) thuộc dãy núi băng ngang qua đảo này. Các thung lũng nằm giữa các dãy núi trông rất ấn tượng và đất đai cũng rất màu mỡ với rất nhiều dòng suối nhỏ chảy siết. Trên đảo còn có nhiều dòng suối nước nóng, nhiều hồ nước trên núi và những bãi biển tuyệt vời. Khí hậu trên đảo mang tính nhiệt đới. Lượng mưa trung bình là 1.524 mm ở ven biển. [4] Kinh tế quốc gia dựa vào nông nghiệp trồng trọt (ca cao, chuối, nhục đậu khấu), đánh bắt cá và du lịch. Kinh tế đạt được những tiến bộ nhờ chính sách cải cách thuế và quản lí kinh tế vĩ mô một cách cẩn thận. Điều này đã giúp cho sự tăng trường kinh tế năm 1989-1999 đạt 5%-6%. Thương mại, xây dựng và du lịch giúp cho các hoạt động kinh tế đạt hiệu quả hơn. Grenada cùng 7 nước khác trong khu vực thuộc Tổ chức các nước vùng Đông Caribbean (OECS) tham gia vào một Ngân hàng trung ương chung và sử dụng đồng tiền chung là đô la East caribbean (XCD). [5] Cũng giống như nhiều quốc gia nằm trong Khối Liên hiệp Anh khác, Grenada là quốc gia theo chế độ quân chủ lập hiến với Nữ hoàng Anh Elizabeth II là nguyên thủ quốc gia thông qua một Toàn quyền làm đại diện. Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng. Toàn quyền do Nữ hoàng Anh bổ nhiệm; Toàn quyền bổ nhiệm Thủ tướng. Thủ tướng điều hành các thành viên trong Nội các. Cơ quan lập pháp của Grenada là Quốc hội lưỡng viện: Thượng nghị viện gồm 13 thành viên được bổ nhiệm. Hạ nghị viện gồm 15 thành viên, được bầu theo phổ thông đầu phiếu, nhiệm kì 5 năm. St. George - thủ đô Grand Anse Bay - khu du lịch chính Gouyave - trung tâm của huyện St John - nơi có sự kiện \"Ngày thứ Sáu cá\" diễn ra hàng tuần Sauteurs - trung tâm của huyện Thánh Patrick Grenville - trung tâm của huyện St Andrew Hillsborough - thị trấn chính của Carriacou Một hộ chiếu và và một vé máy bay khứ hồi hoặc vé đi tiếp hợp lệ. Visa không cần đối với công dân của Hoa Kỳ, Canada, Vương quốc Anh và phụ thuộc của nó, các quốc gia thịnh vượng chung Anh, các nước vùng Caribbean (ngoại trừ Cuba), Venezuela, các nước Liên minh châu Âu và phụ thuộc của họ, Na Uy, Nhật Bản, và Israel. Cộng đồng các quốc gia độc lập như Nga và Ukraine và các nước Đông Âu khác được yêu cầu phải mua một thị thực du lịch khi đến Grenada và chi phí EC $ 25. Miễn thuế khoản phụ cấp - Các cá nhân, một lít Anh trong tổng số các loại rượu vang và rượu mạnh, thuốc lá nửa pound hoặc 50 điếu xì gà hoặc thuốc lá 200. Không hạn chế về số tiền mà có thể được mang vào các mặt hàng hạn chế những loại trái cây, rau, thịt, đất, ma túy, vũ khí và đạn dược. Sân bay quốc tế Maurice Bishop (IATA: GND) (ICAO: TGPY) nằm trên hòn đảo chính của Grenada, ở trên một bán đảo ở góc phía tây nam cực đoan trong khu vực Salines điểm. Đó là khoảng 4 km từ thủ đô của St George. Đồng bằng (New York JFK), British Airways, American Eagle, American Airlines, Monarch, Air Canada (mùa đông), Virgin Atlantic (Anh), Liat, Caribbean Airlines, Condor (Đức - mùa đông), Sky Service (Toronto) và Conviasa (VE) (từ Porlamar, Margarita) có tuyến bay thẳng đến Grenada, kết nối có thể được thực hiện trên Liat qua Trinidad và Barbados, và cũng từ Barbados qua SVG Các hãng hàng không. Nhiều tàu du lịch cập bến hoặc gần St George giữa tháng mười và tháng Năm. Một nhà ga tàu du lịch lớn được hoàn thành vào năm 2005, cho phép lên đến 4 tàu được cập cảng cùng một lúc. Ga \"trung tâm mua sắm\" nhà nhiều cửa hàng. Osprey Lines Limited, Điện thoại: (473) 440-8126, [3]. Dịch vụ phà giữa các đảo của Granada, Carriacou và Nhỏ Martinique. Các tàu thủy thuê chuyến có kích cỡ khác nhau và thuyền viên có thể được tìm thấy bằng cách tìm hiểu tại khách sạn hoặc Grenada Yacht Club ở St George hoặc trang web du lịch chính thức của hòn đảo: www.grenadagrenadines.com. Tiếng Anh chuẩn là ngôn ngữ chính thức của Grenada và được sử dụng rộng rãi, tuy nhiên một ngôn ngữ Creole dựa trên tiếng Anh (không được gọi như vậy bởi người dân địa phương) là tiếng chi phối của hầu hết mọi người Grenadian và có thể khó khăn cho những người bên ngoài của vùng biển Caribbean khu vực để hiểu. Tiếng Pháp thổ ngữ sử dụng là ngôn ngữ phương ngữ nói trong Grenada, nhưng nó chỉ còn lại trong các thế hệ lớn tuổi hơn.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Hawaii", "role": "user" }, { "content": "Hawaii [1] (tiếng Hawaii: Hawaiʻi) là một tiểu bang thứ 50 Hoa Kỳ. Hawaii nằm gần trung tâm của phía bắc Thái Bình Dương, Hawaii đánh dấu góc đông bắc của Polynesia. Trong khi nó đã từng là một trung tâm chính cho các ngành công nghiệp đánh bắt cá voi, đường, dứa, ngày nay có nền kinh tế phụ thuộc vào ngành du lịch và quân đội Hoa Kỳ. Vẻ đẹp tự nhiên của hòn đảo tiếp tục là một trong những tài sản lớn nhất của Hawaii. Honolulu là thủ phủ bang, thành phố lớn nhất và trung tâm văn hóa. Tiếng Hawaii và tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của Hawaii. Hawaii là một quần đảo có hơn mười chín hòn đảo núi lửa riêng biệt nằm trên một địa chất \"điểm nóng\" ở miền Trung Thái Bình Dương. Các mảng Thái Bình Dương mà trên đó quần đảo di chuyển về phía tây bắc, vì vậy nói chung các đảo lớn tuổi hơn và nhỏ hơn (do xói mòn) khi bạn chuyển từ phía đông nam đến phía tây bắc. Có tám đảo chính, sáu trong số đó là mở cửa cho du lịch. Hawaii (Hawaiʻi) - hầu như luôn luôn được gọi là Đảo Lớn để tránh nhầm lẫn - là đảo lớn nhất của các đảo và là nơi có Mauna Kea, Mauna Loa (lớn nhất và một trong những núi lửa hoạt động mạnh nhất trên trái đất), Vườn quốc gia núi lửa Hawaii [2], các khu vực trồng cà phê và trồng cây Macadamia, trại chăn nuôi, và những bãi biển cát thậm chí màu xanh lá cây. Kailua-Kona là một phần bận rộn nhất của hòn đảo trên khô, bên dưới gió, và gần khu nghỉ mát lớn Kohala Coast với lượng mưa hàng năm gần như bằng không, khu Coast mega-khu nghỉ mát. Đường hình yên ngựa (khá khá và phải xem - mặc dù những gì các công ty cho thuê xe nói) đi giữa những ngọn núi lửa khổng lồ và kết nối Kohala với Hilo, thành phố lớn nhất trên đảo lớn và quận lỵ với hàng năm lượng mưa hơn 300 cm mỗi năm. Không giống như bất cứ nơi nào khác trên thế giới và chắc chắn đáng để xem. Oahu (Oʻahu), được đặt biệt hiệu là \"Nơi tụ hợp,\" là đảo phát triển và đông dân nhất. Đảo chứa 80% của toàn bộ cư dân tiểu bang. Bờ phía nam của nó là nơi có thành phố Honolulu, thủ phủ bang và thành phố lớn nhất, bốn trong số năm kama'aina (cư dân Hawaii) gọi đảo này là nhà. Đây là trung tâm của chính phủ và thương mại của bang, và Waikiki, bãi biển được cho là địa điểm du lịch nổi tiếng nhất ở Hawaii. Bên ngoài thành phố là các cánh đồng dứa, và North Shore Oahu, được biết đến mỗi mùa đông như là nơi có một số những con sóng lớn nhất thế giới. Khu tưởng niệm quốc gia USS tại Trân Châu Cảng cũng là điểm đến của du khách rất phổ biến. Maui là hòn đảo lớn thứ hai trong chuỗi và là nơi có miệng ngọn núi lửa cao 10.023 foot (3.055 m) Haleakala. Nó được mệnh danh là \"Thung lũng Đảo\" do có đồng bằng hẹp giữa Haleakala và núi Tây Maui. Ở phía tây của hòn đảo là khu nghỉ mát của Lahaina, Kaanapali và Kapalua, trong khi phía nam là nơi có Kihei và Wailea. Phía đông là ngôi làng nhỏ của Hana, đến được từ một trong những con đường ngoằn ngoèo đẹp nhất thế giới. Kauai (Kauaʻi), \"Đảo Vườn,\" là nơi có nhiều kỳ quan thiên nhiên, chẳng hạn như sông Wailua, Waimea Canyon, và bờ biển Na Pali. Núi Waialeale được biết đến như một trong những điểm có mưa nhiều nhất trên thế giới. Đảo này có nhiều bãi biển nhất trong các đảo chính, với bãi biển dài nhất là bãi Polihale với độ dài 17 dặm dài. Nó tương tự như Đảo Lớn ở chỗ nó có mang lại cảm giác nông thôn nhiều nhất trong số 4 hòn đảo lớn. Molokai (Molokaʻi), \"Đảo Bạn Bè,\" là đảo lớn thứ 5 và là một trong những đảo kém phát triển nhất của các đảo chính Hawaiian. Tại đây có Kalaupapa, địa điểm mà những người bị bệnh phong lâu dài đã bị buộc phải sống cách ly ở đây bởi chính quyền Hawaii cho đến năm 1969. Bây giờ nó được biết đến với cảnh quan nguyên sơ, nhiệt đới, môi trường tốt, phong phú và sâu sắc truyền thống Hawaii, và một nền văn hóa thân thiện với du khách Lanai (Lānaʻi) được gọi là Đảo Dứa, trước đây trồng dứa lớn nhất thế giới thuộc sở hữu của Dole Foods, ngày nay nó là nhà của hai khu nghỉ dưỡng cao cấp. Chỉ 3.135 người sống trên 141 dặm vuông của đảo. Không có đèn giao thông, rạp chiếu phim hay tiệm bánh. Chỉ có một trạm xăng và ba con đường chính. Nó được bao quanh với những bãi biển rộng lớn và trống rỗng, có thể truy cập chỉ bằng xe bốn bánh. Niihau (Niʻihau) là một hòn đảo sở hữu tư nhân với toàn bộ là cư dân Hawaii bản địa. Cho đến gần đây, hòn đảo là ra giới hạn cho tất cả, trừ các thành viên gia đình và khách mời của chủ sở hữu. Du lịch đến hòn đảo này được giới hạn trong máy bay trực thăng, ATV, và chuyến du ngoạn săn bắn có nguồn gốc trên Kauai. Có khoảng 130 cư dân Niihau và Thổ Dân Hawaii là ngôn ngữ chính thức. Họ không có nước sinh hoạt, sử dụng năng lượng mặt trời và sống thuê miễn phí. Kahoolawe (Kahoʻolawe), trước đây là phạm vi đánh bom của Hải quân Hoa Kỳ, vẫn còn không có người ở. Những nỗ lực đang được thực hiện để phục hồi đảo, nhưng nỗ lực dọn dẹp tiếp tục. Honolulu - thủ phủ bang, thành phố thịnh vượng nhất bang Kahuku - trên Oahu Kailua - trên Oahu Lihue (Hawaiian: Līhuʻe) - on Kauai Lahaina (Hawaiian: Lāhainā) - on Maui Kahului - on Maui Wailuku - on Maui Hilo - largest city on the Big Island Kailua-Kona - on the Big Island Ala Kahakai National Historic Trail on the Big Island. Haleakala National Park on Maui Hawaii Volcanoes National Park on the Big Island Kalaupapa National Historical Park on Moloka‘i Pu'uhonua o Honaunau National Historical Park on the Big Island USS Arizona National Memorial on O‘ahu Waimea Canyon on Kaua‘i NaPali Coast on Kaua‘i Waikiki on O‘ahu", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Nguyễn Bá Thanh", "role": "user" }, { "content": "Nguyễn Bá Thanh (1953 – 2015) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Đà Nẵng, Ủy viên Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Việt Nam. Ông cũng từng là phó trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng - cơ quan trực thuộc Bộ Chính trị. Tôi muốn nghe ý kiến cơ sở, nhưng lại chỉ nghe các đồng chí xin tiền ngân sách. \"Ông Nguyễn Bá Thanh: \"Tôi cần ý kiến, nhưng chỉ nghe xin tiền...\"\" của Hoàng Văn Minh, Lao động, 12 tháng 1 năm 2013. Không ít cán bộ có cái thói vừa ăn vừa phá, phá tàn canh nền kinh tế. \"Ông Nguyễn Bá Thanh: 'Nhiều cán bộ vừa ăn vừa phá'\", VnExpress, 11 tháng 1 năm 2013. Tôi chỉ so sánh hai con đường đó để cho thấy công tác giám sát của ta có cũng như không. Mấy ông ngồi trong quán cà phê nhìn ra, được dúi cho cái phong bì là im ngay. Thử hỏi làm sao cho chất lượng. Còn giám sát nước ngoài, nhà thầu làm ẩu là bắt đào lên làm lại, chết liền. \"'Cho hốt liền, không nói nhiều'\" của Vũ Trung, VietNamNet, 10 tháng 1 năm 2013. Sắp tới tôi sẽ rà một số cái, cho hốt liền, không nói nhiều. \"'Cho hốt liền, không nói nhiều'\" của Vũ Trung, VietNamNet, 10 tháng 1 năm 2013. Đúng là Trung Quốc đã và đang dùng vũ lực xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của chúng ta. Không những vậy, họ còn thể hiện rõ mưu đồ độc chiếm Biển Đông. Tuy nhiên, quan điểm xuyên suốt của Đảng [chỉ Đảng Cộng sản Việt Nam] và Nhà nước là không để một tấc đất nào của cha ông vào tay nước khác. Chúng ta dùng các biện pháp hòa bình để tuyên truyền, đấu tranh yêu cầu Trung Quốc rút khỏi lãnh thổ Việt Nam. Nhất định, chúng ta sẽ lấy lại hết những phần lãnh thổ đã bị mất và sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xấu nhất có thể xảy ra. \"Ông Bá Thanh: 'Chúng ta sẽ lấy lại những gì đã mất'\" của H.Nhì, D.Tiến, VietNamNet, ngày 2 tháng 7 năm 2014. Cái được lớn nhất là lòng dân. Phát biểu về những thành quả của Thành phố Đà Nẵng ngày 24 tháng 2 năm 2012. Yếu thì đừng cho ra gió. Nói về việc các nhà đầu tư thiếu vốn nhưng được cho phép đấu thầu. Làm thì phải có lửa, ai mệt quá giơ tay xin nghỉ. Phát biểu yêu cầu cán bộ nhận thức tầm quan trọng của quỹ hỗ trợ phụ nữ nghèo và “vào cuộc quyết liệt”. Không để tiền lấn át nhân cách. [...] Nếu muốn làm giàu thì nên đi làm kinh doanh, đừng vào ngành này mà kiếm chác, cắt xén thì mất nhân tâm lắm. Nói tại buổi làm việc với cán bộ Sở Lao động Thương binh – Xã hội Thành phố Đà Nẵng ngày 14 tháng 1 năm 2013. Tôi muốn xách rượu xuống ngồi uống với mấy ông xe thồ. Nói về vấn đề an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong đó phê phán lực lượng dân quân tự vệ \"ngồi ì ra tại trụ sở\" và tuyên dương các tổ lái xe ôm tay không bắt cướp. Mấy ông thèm bạo lực gia đình chết với tui. Tui quay cho mà chóng mặt thì thôi, hết đưa ra kiểm điểm ở tổ dân phố, tui đưa tiếp lên phường, xã. Phát biểu trong buổi nói chuyện với các cá nhân từng bạo hành trong gia đình. Wikipedia có bài viết về: Nguyễn Bá Thanh", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Bali", "role": "user" }, { "content": "Bali là một hòn đảo du lịch nổi tiếng thuộc Indonesia. Hòn đảo này thu hút du khách với các bờ biển đẹp, cảnh quan rừng núi và văn hoá bản địa hấp dẫn. Denpasar - một thành phố nhộn nhịp, trung tâm hành chính và trung tâm giao thông của hòn đảo nhưng không phải là một điểm đến du lịch lớn Candidasa - một thị trấn yên tĩnh ven biển, Bali Aga và cửa ngõ vào bờ biển phía đông Kuta - trung tâm lướt sóng, đến nay khu vực được phát triển nặng nề nhất tại Bali. Rất nhiều khu mua sắm và cuộc sống về đêm và các trung tâm của văn hóa đảng cấp thấp hơn ở Bali Jimbaran - gần sân bay, khu du lịch biển phía, một bãi biển đẹp có mái che và hải sản nhà hàng phía Nam Kuta Legian - nằm giữa Kuta và Seminyak, cũng là tên của đường phố chính của Kuta Lovina - bãi biển cát núi lửa đen đẹp và rạn san hô Sanur - khu nghỉ dưỡng biển và bên bãi biển nổi tiếng với các gia đình cũ Seminyak - ykhu du lịch bãi biển cao cấp hơn và yên tĩnh hơn và biệt thự chỉ về phía bắc của Legian, với một số nhà hàng cao cấp thời trang và quán bar thiết kế hợp thời trang và câu lạc bộ khiêu vũ Ubud - trung tâm của nghệ thuật và khiêu vũ ở chân đồi, với một số viện bảo tàng, các rừng khỉ và rất nhiều nghệ thuật và cửa hàng thủ công Amed - một khu vực bình lặng, làng chài truyền thống gồm những bãi biển cát đen, rạn san hô và lặn tuyệt vời Bedugul - hồ đẹp ở vùng núi, một sân golf, các vườn thực vật và Ulun Danu Bratan đền nổi tiếng Bán đảo Bukit - cực nam của Bali, với khu vực lướt sóng đẳng cấp thế giới, bãi biển tuyệt vời, và các vách đá treo Chùa không thể bỏ qua Uluwatu Kintamani - núi lửa hoạt động Batur, phong cảnh núi non tuyệt vời, nhiệt độ lạnh và nơi trồng cây ăn quả Núi Agung - ngọn núi cao nhất ở Bali và mẹ của ngôi đền Besakih Nusa Dua - một vùng đất của khu nghỉ dưỡng cao cấp và một bãi biển cát dài vàng Nusa Lembongan - lặn, bơi và lướt sóng và một nơi tuyệt vời để thư giãn Nusa Penida - hoang dã, chắc chắn và thoải mái và không đi theo lối mòn mọi người thường chọn khi bạn ở ở Bali Vườn quốc gia Tây Bali - leo núi, ngắm chim chóc và lặn trong khu vực bảo tồn thiên nhiên chỉ đáng kể của Bali Bali là một trong số hơn 17.000 hòn đảo trong quần đảo Indonesia và nằm chỉ hơn 2 km (gần 1,5 dặm) từ mũi phía đông của đảo Java và phía tây của đảo Lombok. Hòn đảo, nơi có khoảng 4 triệu người, khoảng 144 km (90 dặm.) Từ đông sang tây và 80 km (50 dặm) hướng bắc-nam. Từ \"thiên đường\" được hiểu sử dụng rất nhiều tại Bali. Người dân thân thiện, hiếu khách, một nền văn hóa lộng lẫy thị giác và tinh thần, và bãi biển tuyệt đẹp với lướt sóng tuyệt vời và lặn đã thực hiện Bali thu hút du lịch hàng đầu ở Indonesia. Tám mươi phần trăm của khách quốc tế đến Indonesia đi nơi nào khác nhưng Bali. Sự phổ biến của nó là không phải không có mặt trái của nó, một Kuta từng là thiên đường đã biến thành một Warren tắc nghẽn của các công trình bê tông, những người bán hàng đeo bám và những kẻ lừa đảo khách du lịch quá mức. Tầm nhìn của hòn đảo này cũng đã thu hút được sự chú ý không mong muốn của những kẻ khủng bố trong năm 2002 và 2005. Tuy nhiên, Bali đã qó thể giữ lại kỳ diệu của nó. Bali là một điểm đến tuyệt vời với một cái gì đó cho tất cả mọi người, và mặc dù rất nhiều đi du lịch, bạn vẫn có thể tìm thấy một số hòa bình và yên tĩnh, nếu bạn muốn. Bali có thể nhận được rất đông đúc vào tháng Bảy và tháng Tám và một lần nữa vào dịp Giáng sinh và năm mới, cả hai mùa du lịch cao điểm. Người Úc cũng ghé thăm trong ngày nghỉ học vào đầu tháng tư, cuối tháng sáu và cuối tháng Chín, trong khi khách du lịch trong nước từ các nơi khác ở Indonesia lần trong ngày lễ quốc gia. Ngoài những mùa cao điểm, Bali có thể yên tĩnh một cách đáng ngạc nhiên, và bạn có thể tìm thấy giảm giá tốt về chỗ ở. Những người Hindu đầu tiên đã Bali vào đầu 100 trước Công nguyên, nhưng các nền văn hóa độc đáo mà bất cứ du khách ngày nay đến Bali đều ca ngợi chủ yếu từ nước láng giềng Java, với một số ảnh hưởng từ Bali xa vật linh qua. Sự cai trị của đế quốc Majapahit Java của hơn Bali đã trở thành hoàn toàn trong thế kỷ 14 khi Gajah Mada, Thủ tướng của vua Java, đánh bại vua Bali tại Bedulu. Sự cai trị của đế quốc Majapahit dẫn đến dòng đầu tiên của văn hóa Java, hầu hết tất cả trong kiến ​​trúc, múa, hội họa, điêu khắc và nhà hát múa rối Wayang. Tất cả điều này vẫn còn rất rõ ràng ngày hôm nay. Rất ít người Bali mà đã không chấp nhận nền văn hóa Hindu Java được biết đến ngày nay được gọi là là Bali Aga (\"ban đầu của Bali\") và vẫn sống trong những ngôi làng bị cô lập của Tenganan gần Candidasa và Trunyan trên bờ biển phía đông xa của hồ Batur tại Kintamani. Với sự trỗi dậy của Hồi giáo trong quần đảo Indonesia, là đế quốc Majapahit trong Java giảm và Bali đã trở thành độc lập vào khoảng đầu thế kỷ 16. Tầng lớp quý tộc Java tìm thấy nơi trú ẩn tại Bali, mang lại một làn sóng mạnh mẽ hơn của Ấn Độ giáo nghệ thuật, văn học và tôn giáo. Việc chia rẽ trong số các rajas cầm quyền, đôi khi chiến đấu với quân xâm lược ra từ Java nay là Java Hồi giáo ở phía tây và làm đột phá để chinh phục Lombok về phía đông, phía bắc của hòn đảo cuối cùng đã bị chiếm bởi thực dân Hà Lan trong một loạt các cuộc chiến tranh tàn bạo từ 1846 đến năm 1849. Phía nam Bali không bị chinh phục cho đến năm 1906, và phía đông Bali không đầu hàng cho đến năm 1908. Trong cả hai năm 1906 và 1908, nhiều người Bali đã chọn cái chết hơn là chịu nhục nhã và nhất tề chiến đấu chống lại cho đến khi kết thúc cay đắng, họ thường đi thẳng vào họng đại bác và súng thần công Hà Lan. Cách chiến đấu tự sát này được gọi là Puputan. Chiến thắng là vui buồn lẫn lộn, do những hình ảnh của Puputan cao hoen ố người Hà Lan trong cộng đồng quốc tế. Có lẽ để bù đắp cho điều này, người Hà Lan đã không làm cho người Bali nhập vào một hệ thống canh tác buộc, như đã xảy ra trong Java, và thay vào đó cố gắng để thúc đẩy nền văn hóa Bali thông qua chính sách của họ về Baliseering hoặc \"Bali hóa Bali\". Bali đã trở thành một phần của nước Cộng hòa mới giành độc lập của Indonesia vào năm 1945. Trong năm 1965. Sau khi cuộc đảo chính mà mở bạo động do chế độ Suharto xúi giục chống cộng sản lan rộng trên khắp Indonesia. Tại Bali, nó đã được cho biết rằng các con sông chạy màu đỏ với các vụ giết người trả thù đối với những người nghi là cộng sản, hầu hết các ước tính về số người chết là 80.000, hay khoảng năm phần trăm dân số của Bali vào thời điểm đó. Chương hiện tại trong lịch sử của Bali bắt đầu trong những năm bảy mươi khi hippies dũng cảm và người lướt khám phá những bãi biển và sóng của Bali, du lịch và nhanh chóng trở thành nguồn thu nhập lớn nhất. Mặc dù những cú sốc của các cuộc tấn công khủng bố vào năm 2002 và năm 2005, hòn đảo huyền diệu tiếp tục thu hút đám đông, và văn hóa của Bali vẫn là ngoạn mục hơn bao giờ hết. Sân bay quốc tế Ngurah Rai là sân bay phục vụ Bali. Sân bay cách Denpasar 45 phút đi xe hơi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Al-Farabi", "role": "user" }, { "content": "Abū Nasr Muhammad ibn al-Farakh al-Fārābi (sinh 872 - mất giữa ngày 14 tháng 12 năm 950 với 12 tháng 1 năm 951) là một nhà triết học và nhà khoa học Hồi giáo người Ba Tư hoặc Thổ Nhĩ Kỳ. Một thành phố công bằng nên tôn trọng công lý và sự công chính, ghét bạo ngược và bất công. H. Gibb et al., eds., \"Mazalim\", The Dictionary of Islam quyển IV (Leiden: Brill, 1991) Wikimedia Commons có phương tiện liên quan tới: Al-Farabi al-Farabi tại Islamic Philosophy Online Giới thiệu về al-Farabi Bài viết này còn sơ khai.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Saint Lucia", "role": "user" }, { "content": "Saint Lucia là một đảo quốc nằm trong lòng Đại Tây Dương, phía đông vùng biển Caribe, thuộc khu vục Trung Mỹ. Với một phần nằm trên Lesser Antilles, vùng lãnh thổ này toạ lạc phía bắc của quần đảo Saint Vincent và Grenadines, tây bắc Barbados và phía nam Martinique. Nơi đây còn được biết đến với tên gọi khác là \"Helen của vùng tây Ấn\" bởi sự tranh chấp giữa hai nước Anh - Pháp, tựa như cuộc chiến giành lấy Helen của thành Troy trong sử thi Iliad. Saint Lucia là một trong số những đảo quốc có khí hậu gió mùa, được mệnh danh là Thánh Lucia thành Syracuse. Người Châu Âu đầu tiên đặt chân đến nơi đây từ những năm 1500 và sau đó người Pháp biến vùng đất này thành thuộc địa của họ bằng Hiệp ước năm 1600 với người Carib. Nhưng trong suốt một thời gian dài (1663-1667), Saint Lucia lại rơi vào tay người Anh. Không dưới 14 lần, hai nước Anh - Pháp phải lao vào chiến trận để giành lấy mảnh đất màu mỡ này. Mãi đến năm 1814, cuộc tranh chấp mới kết thúc với phần thắng nghiêng về người Anh. Năm 1924, chính quyền đại diện Saint Lucia được thành lập và từ năm 1954 - 1962, đảo quốc này là thành viên của Liên đoàn Tây Ấn (Federation of the West Indies). Ngày 22 tháng 2 năm 1979, Saint Lucia chính thức trở thành quốc gia độc lập, thành viên của Khối Thịnh Vượng chung Anh Theo một truyền thống sai lệch cho rằng đảo này do Colombo phát hiện ra nhằm ngày lễ kính Thánh Lucia thành Syracuse ngày 13 tháng 12 năm 1498 hoặc năm 1502. Suốt hai thế kỉ kể từ khám phá ra đảo này, lịch sử đảo Saint Lucia phản ánh một quá trình đấu tranh lâu đài giữa thực dân Anh và thực dân Pháp để giành quyền sở hữu. Vào thế kỉ 17, cả người Pháp và người Anh đến định cư ở đảo này. Những người nô lệ được đem đến để khai khẩn các đồn điền mía và người bản xứ Carib ở đây bị tuyệt chủng. Cuộc tranh giành quyền sở hữu kéo dài cho đến khi Pháp nhượng lại cho Anh năm 1814. Saint Lucia trở thảnh quốc gia độc lập thuộc Khối Liên hiệp Anh năm 1979. Sau một thời kì xáo trộn, John Compton trở thành Thủ tướng từ năm 1982. Năm 1997, Kenny Anthony trở thành Thủ tướng sau khi đảng Lao động St.Lucia (SLP) giành 16 trên tổng số 17 ghế trong Quốc hội. Đảo quốc Saint Lucia nằm ở quần đảo Tiểu Antilles , thuộc khu vực Trung Mỹ; ở phía Nam đảo Martinique của Pháp. Saint Lucia là một đảo núi lửa, địa hình gồ ghề: một chuỗi các dãy núi trải dài từ Bắc đến Nam, phân nhánh thành các mỏm núi đổ dốc về phía biển. Các đường bờ biển bị khoét sâu vào đất liền. Cảng Castries được xây dựng bên một bờ vịnh nhỏ và sâu, đảo Bồ câu nằm ở phía Bắc cảng Castries, nối liền với bãi biển thuộc đảo Saint Lucia bằng một con đê. Đảo này trở thành công viên thiên nhiên từ năm 1979. Vịnh Marigot ở phía Nam cảng Castries là một trong những vịnh đẹp ở vùng biển Antilles. visit \"www.stlucia.cc\" for best vácation in stlucia. Nước này theo chế độ quân chủ lập hiến. Đứng đầu nhà nước là Nữ hoàng Anh thông qua đại diện là Thống đốc. Đứng đầu chính phủ là Thủ tướng. Thống đốc do Nữ hoàng bổ nhiệm; Thủ tướng do Thống đốc bổ nhiệm, thường là người đứng đầu của đảng hoặc của liên minh chiếm đa số sau bầu cử Quốc hội. Cơ quan lập pháp là Quốc hội lưỡng viện: Thượng nghị viện gồm 11 thành viên, trong đó 6 thành viên được bổ nhiệm dựa trên tư vấn của Thủ tướng, 3 thành viên dựa trên tư vấn của phe đối lập và 2 thành viên sau khi tham khảo ý kiến của các nhóm xã hội, kinh tế và tôn giáo. Hạ nghị viện gồm 17 thành viên, được bầu theo phổ thông đầu phiếu, nhiệm kì 5 năm. Kinh tế Saint Lucia chủ yếu dựa vào phát triển các đồn điền chuối, ca cao và dừa. Đây cũng là hai loại nông sản xuất khẩu chính. Ngoài ngư nghiệp, ngành du lịch đang được chú trọng và phát triển. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống đường bộ và khách sạn đầy đủ tiện nghi đã thu hút du khách đến bờ biển phía Tây, nơi có những bờ biển tuyệt đẹp và những phong cảnh núi non đầy ấn tượng. Công dân của các nước sau đây không cần thị thực: Andorra, Antigua và Barbuda, Argentina, Áo, Bahamas, Barbados, Beglium, Belize, Bosnia và Herzegovina, Botswana, Brazil, Brunei, Bulgaria, Canada, Chile, Cuba, Cyprus, Cộng hòa Séc, Đan Mạch (bao gồm Quần đảo Faroe và Greenland), Dominica, Estonia, Fiji, Phần Lan, Pháp, Georgia, Đức, Hy Lạp, Grenada, Hungary, Iceland, Ireland, Israel, Italy, Jamaica, Nhật Bản, Kiribati, Hàn Quốc, Kuwait, Latvia, Lesotho, Liechtenstein, Lithania, Luxembourg, Malawi , Maldives, Man-ta, Quần đảo Marshall, Mauritius, Mexico, Monaco, Montenegro, Namibia, Nauru, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Panama, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Rumani, Saint Kitts và Nevis, Saint Vincent và Grenadines, Samoa, San Marino , Seychelles, Singapore, Slovakia, Slovenia, Quần đảo Solomon, Nam Phi, Tây Ban Nha, Swaziland, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Đài Loan, Tanzania, Tonga, Trinidad và Tobago, Thổ Nhĩ Kỳ, Tuvalu, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Uruguay, Vanuatu, và Zambia. Đối với các lãnh thổ phụ thuộc: Các khu tự quản của Hà Lan Bonaire, Saba, Sint Eustatius, và các quốc gia thành phần Hà Lan Aruba, Curaçao, Sint Marteen Các cộng đồng hải ngoại Pháp Polynesia thuộc Pháp và Saint Martin Các lãnh thổ hải ngoại của Pháp Guiana thuộc Pháp, Guadelope, và Martinique Các vùng lãnh thổ hải ngoại của Anh Anguilla, Bermuda, Cayman Islands, Gibraltar, Montserrat, Saint Helena, và người Thổ Nhĩ Kỳ và Caicos Islands Tất cả ba lãnh thổ thuộc Anh quốc Guam và quần đảo Bắc Mariana. Nếu quốc tịch của bạn không được nhắc đến ở trên, bạn sẽ cần phải nộp đơn xin visa. Tính đến thời điểm này, các công dân của Haiti không cần thị thực nhưng điều này chỉ là tạm thời. Hầu hết các quốc gia phải trả phí visa 50$ cho một visa nhập cảnh một lần. Thời hạn kéo dài 6 tuần, và gia hạn đôi khi có thể được thực hiện tại phòng nhập cư Saint Lucia. St Lucia có hai sân bay, Sân bay George FL Charles (SLU), gần Castries. Hewanorra quốc tế (UVF), gần Vieux Fort. - Sân bay George FL Charles là gần gũi hơn với nhiều khu nghỉ mát bao gồm tất cả, có một nhà ga và đường băng khiêm tốn và có thể dễ dàng hỗ trợ các chuyến bay thương mại giữa các hòn đảo. Nhà ga là khoảng hai km từ trung tâm thành phố Castries, vì vậy có thể đi bộ nếu bạn không có nhiều hành lý. - Hewanorra là lớn hơn, nhưng có thể là một 1 giờ đi bằng taxi từ hầu hết các khu nghỉ mát lớn ở phía bắc. Tuy nhiên, cuộc hành trình về phía bắc là một cách tốt để xem hòn đảo này ngoại trừ nếu bạn đến vào ban đêm.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Suman Pokhrel", "role": "user" }, { "content": "Suman Pokhrel (21 tháng 9 năm 1967) là nhà thơ, nhà viết kịch, dịch giả và nghệ sĩ. Ông là nhà thờ duy nhất của Nepal đã hai lần nhận được Giải thưởng Văn học SAARC, vào năm 2013 và 2015 cho các tác phẩm thơ và những đóng góp của ông cho thơ ca và nghệ thuật nói chung ở khu vực Nam Á. Mỗi khoảnh khắc, dòng đời trôi len lỏi như ngọn nến lung linh. Lời chúc mừng sinh nhật đến bản thân Để cho nỗi đau cứ say sưa ca hát Những bản tình ca mênh mông bát ngát. Bài hát của tâm hồn Đêm nay sẽ uống giọt tình đến say mèm mặc sức tung hoành thả mình trong bóng tối. Mong tôi không nhìn thấy những giấc mơ Tôi say Khi dòng cảm xúc riêng hóa rượu.Tôi quên bản thân mình, quên thế giới và quên đi tất cả. Đền Taj Mahal và tình yêu của tôi Nhưng có đấy sự khác biệt giữa hai ta Có tất cả, nhà vua là tất cả giàu có như ông, giá mà tôi đã thế sẽ chẳng đợi sau khi người yêu dấu lìa đời mới dựng Taj Mahal, tôn vinh nàng mãi mãi. Đền Taj Mahal và tình yêu của tôi Tôi cứ mãi nghĩ suy đỏ thẫm này là gì, phải chăng màu của trái tim đôi tình nhân chia cắt ném vào những con đường trái ngược phải chăng ánh sáng đỏ của tâm trí gặp nhau sau những khoảnh khắc tăm tối chia ly? Màu của chân trời Sáng ngự trên đỉnh cao tối ẩn vào lòng đất vô tình, tôi dõi theo, làn sáng tràn mi mắt rải màu sắc nơi nơi tới khi chạm chân trời. Màu của chân trời ^ Suman Pokhrel. Người Hà Nội (2020-09-26). Truy cập ngày 2020-10-02.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Trung Oregon", "role": "user" }, { "content": "Trung Oregon là một vùng thuộc Oregon. Bend Madras Redmond Sunriver - Một khu nghỉ mát lớn. Sisters Warm Springs Núi Bachelor Fort Rock. Crack-in-the-Ground. Lost Forest. Devil's Playground. Hole-in-the-Ground. Cougar Mountain. Green Mountain. Willamette Valley, về phía Tây Eastern Oregon, về phía Đông Mt. Hood and Columbia Gorge, về phía Bắc", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Ulan Ude", "role": "user" }, { "content": "Ulan Ude (tiếng Nga: Ула́н-Удэ́) là thủ đô của nước Cộng hòa Buryatia, trực thuộc Liên bang Nga. Nó nằm trên điểm giao nhau giữa sông Uda và sông Selenga. Ulan Ude, ban đầu được gọi là Udinskoye, đã được định cư bởi dân du mục Buryat từ nhiều thế kỷ trước. Vào những năm 1650, do sự chia rẽ trong Giáo hội Chính thống Nga, một số tín đồ đã buộc phải rời bỏ nhà cửa và trốn đến Siberia để được tự do thực hành tôn giáo. Ulan Ude được chính thức thành lập vào năm 1666, khi ấy còn là một pháo đài gỗ nhỏ (ostrog). Do nằm trên các tuyến đường thương mại giữa Nga, Trung Quốc và Mông Cổ, nơi này đã trở thành một thành phố buôn bán thịnh vượng. Vào năm 1900, tuyến đường sắt xuyên Siberia đã chạy qua đây, thúc đẩy hơn nữa sự phát triển kinh tế. Ulan Ude có nghĩa là \"sông Uda màu đỏ\" trong tiếng Buryat bản địa. Người nước ngoài bị cấm ghé thăm thành phố này trước năm 1991. Người Buryat chiếm hơn 20% tổng dân số của Ulan Ude, và ảnh hưởng của văn hóa Mông Cổ đối với thành phố được thể hiện rất rõ ràng. Tuy nhiên, phần lớn công trình tôn giáo của họ đã bị chính quyền Liên Xô phá hủy trong những năm 1930. Shaman giáo, Phật giáo và Chính thống giáo Đông phương đều được thực hành phổ biến ở Ulan Ude. Hiện thành phố có khoảng 400.000 cư dân. Thành phố nằm trên hợp lưu của sông Uda và sông Selenga, giữa hai dãy núi Khamar-Daban và Ulan-Burgasy. Nó cách hồ Baikal 100 km (62 mi) về phía nam, dọc theo sông Uda. Du lịch hiện đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Thời tiết có thể rất nóng vào mùa hè và lạnh tới mức đóng băng trong mùa đông. Ba tháng đầu năm có nhiệt độ thấp nhất, có thể xuống dưới -27 °C vào ban đêm. Tháng 4 và tháng 5 cũng lạnh, nhưng không đến mức đóng băng. Tháng 6, tháng 7 và tháng 8 là những tháng dễ chịu nhất với nhiều ánh nắng mặt trời và nhiệt độ ở mức 20 °C. Tháng 9 và tháng 10 là những tháng giao mùa, nhưng chưa lạnh lắm. Tháng 11 và tháng 12 rất lạnh, với nhiệt độ dưới 0 °C. Thành phố có độ ẩm khá thấp. 51.80485960332412Sân bay Ulan Ude1 Sân bay Ulan Ude (còn được gọi là Sân bay quốc tế Baikal, IATA: UUD) (cách trung tâm thành phố 12 km về phía tây), ☎ +7 301 222-76-11. Sân bay phục vụ khoảng 300.000 hành khách mỗi năm. Nó có các chuyến bay thường kỳ đến nhiều thành phố lớn của Nga như Moskva (mất 7 tiếng, 14.500 rúp), Krasnoyarsk, Vladivostok, Blagoveshchensk, Irkutsk, Khabarovsk và Novosibirsk. Các chuyến bay quốc tế có lộ trình đến Ulaanbaatar, Bắc Kinh và Seoul. Nhà ga đường sắt nằm ở trung tâm thành phố, cách đường Lenin 5 phút đi bộ. Xem thêm: Tuyến đường sắt xuyên Siberia Tất cả các chuyến tàu xuyên Siberia đều dừng tại Ulan Ude, cách điểm xuất phát (Moskva) khoảng 5.642 km (3.506 mi). Lịch trình và giá vé tàu có thể được tìm thấy trên trang web của RZD. Có một số chuyến tàu hàng ngày từ Moskva (95 giờ, 4000-11000 rúp), Krasnoyarsk (25 giờ, 1600-8400 rúp), Irkutsk (8 giờ, 750-4000 rúp), Novosibirsk (40 giờ, 2200-10400 rúp), Omsk (50 giờ, 2600-7600 rúp), Yekaterinburg (63 giờ, 3300-9000 rúp), Perm (70 giờ, 3500-9600 rúp), Vladivostok (61 giờ, 3300-16000 rúp), Ulaanbaatar (22 giờ, bao gồm điểm dừng tại biên giới), và Bắc Kinh (66 giờ, một lần mỗi tuần). Ulan Ude là thành phố lớn đầu tiên của Nga trên tuyến đường sắt với Mông Cổ. Bến xe buýt Selenga (còn được gọi là Yuzhniy) nằm ở số 32 Korabelnaya, cuối đường Sovetskaya. Nó cách nhà ga đường sắt 1,5 km (0,93 dặm). Bạn có thể đến đây bằng taxi định tuyến (marshrutka) số 29/30 hoặc đi bộ. Có một phòng giữ hành lý mở cửa từ 8:00 sáng đến 8:00 tối. Đôi khi nó được gọi là \"Bến xe phía Nam\" (bến xe phía Bắc không còn tồn tại). Lưu ý rằng nhiều chuyến xe buýt, bao gồm cả những chuyến đến Irkutsk, hồ Baikal, Arshan và Chita đều dừng ở nhà ga đường sắt. Nhìn chung, xe buýt ít thoải mái hơn tàu hỏa; tuy nhiên chúng thường rẻ hơn và nhanh hơn. Nhiều thị trấn nhỏ ở Buryatia không có ga đường sắt, nên xe buýt là phương tiện giao thông công cộng duy nhất để đến những khu vực này. Có những chiếc xe buýt hàng ngày đến và từ Ulaanbaatar, khởi hành từ lúc 7:30 sáng và mất 10–12 giờ để đến Ulan Ude. Vé có thể được mua tại các văn phòng đại lý du lịch với giá 1100 rúp. Những chiếc xe buýt nhỏ hơn chạy từ thị trấn biên giới Kyakhta. Các chuyến xe này khởi hành từ 7:00 sáng đến 7:00 tối. Hành trình kéo dài 3 giờ vài có giá 250 rúp. Tài xế xe buýt nhỏ có lẽ sẽ yêu cầu bạn trả thêm 50 rúp cho mỗi kiện hành lý. Những chuyến xe khác sẽ đến và đi từ hồ Baikal (mất 3 giờ, 300 rúp), Irkutsk (9 giờ, 700 rúp), Arshan và Chita. Chúng đều khởi hành từ nhà ga đường sắt (một khi đã đầy chỗ). Khu vực trung tâm thành phố đủ nhỏ để bạn có thể đi bộ đến các điểm tham quan khác nhau. Nơi này cũng có nhiều dịch vụ taxi như Vezot, Miks, Prem'yer, 24 Chasa và Baikal. Các phương tiện giao thông công cộng ở Ulan Ude là xe điện và xe buýt. Khi đi những phương tiện này, bạn cần trả 30 rúp. 51.83502549028275Bức tượng đầu Lenin lớn nhất thế giới1 Bức tượng đầu Lenin lớn nhất thế giới. Được tạc vào năm 1970 để kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Vladimir Lenin, bức tượng cao 7.7 mét và nặng tới 42 tấn. 51.83293050719864Khải hoàn môn2 Khải hoàn môn, trên đường Lenin, ☎ +7 914 985-16-24. Nơi này có hình điêu khắc một con đại bàng hai đầu, biểu tượng của nước Nga. 51.83147768591974Tượng điêu khắc của thương nhân Verkhneudinsky3 Tượng điêu khắc của thương nhân Verkhneudinsky, cũng nằm trên đường Lenin. 51.84191022906002Đài kỷ niệm A. S. Pushkin4 Đài kỷ niệm A. S. Pushkin, 24 đường Gagarin. 51.88412436370029Bảo tàng Dân tộc học5 Bảo tàng Dân tộc học, trên đường Poselok Verkhnyaya Berezovka (cách trung tâm thành phố 8 km về phía đông bắc), ☎ +7 301 233-25-10. Thứ 4 đến Chủ nhật: 09:00–17:30. Đóng cửa vào hai ngày đầu tuần. Bảo tàng có những ngôi lều truyền thống của người Buryat bản địa, chùa Phật giáo, những ngôi mộ thời tiền sử và một vườn thú quy mô nhỏ. 180 rúp. 51.82767153686073Bảo tàng Lịch sử6 Bảo tàng Lịch sử, 26 đường Lenin, ☎ +7 301 221-25-22. Được thành lập vào ngày 10 tháng 12 năm 1999 theo nghị quyết của chính quyền thành phố. Nơi này trưng bày sách vở, trang phục và đồ tạo tác quý hiếm của khu vực. Những hiện vật trong bảo tàng liên quan đến ba tôn giáo khác nhau: Phật giáo, Shaman giáo và Thiên Chúa giáo. 51.825582671699635Bảo tàng Tự nhiên Buryatia7 Bảo tàng Tự nhiên Buryatia, nằm trên đường Kuybysheva, ☎ +7 301 221-41-49. 10:00–06:00 hàng ngày (đóng cửa vào thứ 2). Bao gồm những cuộc triển lãm về hệ động thực vật của khu vực. 51.83520726688693Bảo tàng Địa chất8 Bảo tàng Địa chất, 57 đường Lenin, ☎ +7 301 221-82-64. Có bộ sưu tập khoáng sản và đá quý lớn nhất trong khu vực xung quanh hồ Baikal. 51.82553294967005Bảo tàng Mỹ thuật Sampilov9 Bảo tàng Mỹ thuật Sampilov, ☎ +7 301 221-43-93. 10:00–18:00 hàng ngày (đóng cửa vào thứ 2). Được biết đến với hơn 7000 tác phẩm nghệ thuật khác nhau của các họa sĩ trong vùng. 51.821664954258736Bảo tàng Lev Bardamov10 Bảo tàng Lev Bardamov (nằm rất gần bờ sông Uda). 11:00–18:00 hàng ngày. 51.833130628841545Nhà hát Opera và Ba lê quốc gia Buryat1 Nhà hát Opera và Ba lê quốc gia Buryat, 51 đường Lenin, ☎ +7 301 221-36-00, e-mail: uuopera@mail.ru. 150–700 rúp. 51.835658330802445Rạp chiếu phim RGB2 Rạp chiếu phim RGB, 41 đường Korabel'naya, ☎ +7 301 257-67-77. 51.831026740261635Nhà hát Múa rối Ulger3 Nhà hát Múa rối Ulger (gần trung tâm thương mại Stolichnyy), ☎ +7 902 564-70-04. Những món ăn truyền thống của người dân địa phương bao gồm bánh bao nhân thịt hấp (buuz), bánh kếp chiên (khushuur), súp nước luộc thịt (bukhlyor) và mỳ (shuleen). 51.82008526907384Nhà hàng Modern Nomads1 Nhà hàng Modern Nomads, 67A đường Trubacheyeva (nằm rất gần bờ sông Uda). 51.824212192013064Nhà hàng Chaplin2 Nhà hàng Chaplin, 32 đường Baltakhinova, ☎ +7 301 251-30-00. Chủ nhật đến thứ 5: 11:00–01:00. Thứ 6 và thứ 7: 11:00–05:00. 51.81864041388338Nhà hàng Baran Na Korove3 Nhà hàng Baran Na Korove, 4 đường Babushkin, ☎ +7 301 267-03-33. Chủ nhật đến thứ 5: 11:00–01:00. Thứ 6 và thứ 7: 11:00–02:00. 51.816942421337764Nhà hàng Reston Sad4 Nhà hàng Reston Sad (Рестон Сад), 12 đường Babushkin. 11:00–00:00 hàng ngày. 51.82803046918359Nhà hàng Goryachaya Chashka5 Nhà hàng Goryachaya Chashka, 17 đường Baltakhinova, ☎ +7 301 230-15-57. 51.83678321154981Nhà hàng Limonad6 Nhà hàng Limonad, ☎ +7 301 224-88-88. Thứ 2 đến thứ 6: 08:00–22:00. Thứ 7 đến Chủ nhật: 10:00–22:00. 51.83991257003227Nhà hàng Orda7 Nhà hàng Orda, ☎ +7 301 244-38-38. 12:00–02:00 hàng ngày. 51.843184331063Nhà hàng Razdol'ye8 Nhà hàng Razdol'ye, 8A đường Limonova, ☎ +7 301 244-14-00. Thứ 2 đến thứ 6: 12:00–01:00. Thứ 7 và Chủ nhật: 14:00–01:00. Một trong những thức uống phổ biến trong thành phố là rượu Baikalpharm (một chi nhánh địa phương của vodka). 51.82085733858049Quán rượu Bukhin Khaus1 Quán rượu Bukhin Khaus, 13A đường Lebedeva (nằm rất gần siêu thị Absolyut), ☎ +7 908 594-22-54. 51.825751683666155Quán rượu Stimul2 Quán rượu Stimul (cách cửa hàng Titan hơn 100 m), ☎ +7 301 222-24-60. 51.83923645176042Quán rượu Harat3 Quán rượu Harat, ☎ +7 301 244-22-15. Chủ nhật đến thứ 4: 12:00–01:00. Thứ 5: 12:00–02:00. Thứ 6 và thứ 7: 12:00–04:00. 51.82540114639058Quán cà phê Gorodok\"4 Quán cà phê Gorodok\", 3 đường Tolstogo, ☎ +7 301 222-28-51. 12:00–23:00 hàng ngày. 51.833253337006234Quán cà phê Trista Barista5 Quán cà phê Trista Barista, 52 đường Lenin, ☎ +7 983 424-80-83. 51.83380487144614Quán cà phê Tochka6 Quán cà phê Tochka, 32 đường Korabel'naya (nằm gần bờ sông Selenga). Hầu hết các khách sạn và nhà nghỉ đều cung cấp Wi-Fi miễn phí, thiết bị đầu cuối máy tính, thẻ tín dụng và đơn xin thị thực. 51.837377583983596Khách sạn Shumak1 Khách sạn Shumak, trên đường Revolyutsii, ☎ +7 902 160-81-81. Khách sạn có Wi-Fi, bữa sáng miễn phí, dịch vụ giặt ủi, điều hòa nhiệt độ, đồng thời chấp nhận vật nuôi. 21 USD. 51.84043529159893Khách sạn Victoria2 Khách sạn Victoria, 33 đường Tsivileva (cách khách sạn Shumak khoảng 300 m về phía tây bắc), ☎ +7 301 245-30-02. 18 USD. 51.84397802994643Khách sạn Vitaliya3 Khách sạn Vitaliya, 68 đường Revolyutsii, ☎ +7 301 244-55-56. Khách sạn cũng chấp nhận vật nuôi. 16 USD. 51.846390560473964Khách sạn Gobi4 Khách sạn Gobi, trên đường Dobrolyubova, ☎ +7 902 164-33-48. Khách sạn phù hợp với trẻ em. 14 USD. 51.82902423906059Quán trọ Relax5 Quán trọ Relax, 5 đường Frunze, ☎ +7 301 222-12-50. Có một cửa hàng rau quả trong khuôn viên quán trọ. 19 USD. 51.8287528949917Khách sạn 4 Komnaty6 Khách sạn 4 Komnaty, 21 đường Kalandarishvili, ☎ +7 301 221-35-51. 19 USD. 51.83937905587149Khách sạn Mergen Bator7 Khách sạn Mergen Bator, 19 đường Borsoyeva, ☎ +7 301 220-00-02. Nhận phòng: 15:00, trả phòng: 12:00. Khách sạn có bãi đỗ xe miễn phí, bể bơi trong nhà và phù hợp cho người khuyết tật. 82 USD. 51.83374213351999Khách sạn Baikal Plaza8 Khách sạn Baikal Plaza, 12 đường Yerbanova, ☎ +7 301 258-02-14. Có một phòng tắm xông hơi. 49 USD. 51.83173739116712Khách sạn Siberia9 Khách sạn Siberia, 1 đường Pochtamtskaya, ☎ +7 301 229-72-57. Có nhà hàng và trung tâm thể dục trong khuôn viên. 42 USD. 51.83905674823117Khách sạn Sagaan Morin10 Khách sạn Sagaan Morin, 25 đường Gagarin, ☎ +7 301 244-40-19, e-mail: info@sagaan-morin.ru. Có bể bơi trong nhà. 56 USD. 51.8174139421534Khách sạn Reston11 Khách sạn Reston, 20 đường Grazhdanskaya, ☎ +7 301 237-97-77. Nhận phòng: 13:00, trả phòng: 12:00. 64 USD. Viện Nghiên cứu Y học Mông Cổ, Phật giáo và Tây Tạng, 6 đường Sakhyanovoi, ☎ +7 8 (3012) 433 551, e-mail: imbt@imbt.ru. 08:30–18:00. Nếu cần, bạn sẽ được điều trị các bệnh cấp tính và mãn tính bằng các thảo dược truyền thống của Tây Tạng. Mã điện thoại của thành phố Ulan Ude là +7 301. Bạn có thể mua thẻ SIM trong thành phố (thẻ SIM mua từ những nơi khác như Moskva hay Saint Petersburg có thể bị tính phí chuyển vùng). Wi-Fi miễn phí có sẵn ở nhiều khách sạn, trung tâm mua sắm, trường đại học, rạp chiếu phim, hàng quán, cũng như một số công viên. Ngoài ra cũng có những điểm truy cập Wi-Fi mà bạn phải trả phí. Bạn cũng có thể mua thẻ GPRS để truyền dữ liệu qua mạng di động. Mông Cổ, 6 đường Profsoyuznaya, ☎ +7 3012 21-52-75, fax: +7 (3012) 21-41-88. Ngoài việc đi đến các thành phố tiếp theo trên tuyến đường sắt xuyên Siberia và tuyến đường sắt xuyên Mông Cổ, bạn cũng có thể đến thăm hồ Baikal (hồ nước sâu nhất và cổ nhất thế giới) bằng xe buýt. Nó chiếm khoảng 20% lượng nước ngọt toàn cầu.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Gia Lai", "role": "user" }, { "content": "Gia Lai là một tỉnh miền núi nằm ở khu vực phía bắc cao nguyên Trung Bộ thuộc vùng Tây Nguyên của Việt Nam. Tỉnh Gia Lai được tái lập lập vào ngày 12 tháng 8 năm 1991, Gia Lai - Kon Tum tách thành hai tỉnh là Gia Lai và Kon Tum. Gia Lai là một tỉnh miền núi nằm ở phía bắc Tây Nguyên trên độ cao trung bình 700 - 800 mét so với mực nước biển, nằm trải dài từ 12°58'20\" đến 14°36'30\" vĩ bắc, từ 107°27'23\" đến 108°54'40\"kinh đông. Phía đông của tỉnh giáp với các tỉnh là Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên. Phía tây giáp tỉnh Ratanakiri thuộc Campuchia, có đường biên giới chạy dài khoảng 90 km. Phía nam giáp tỉnh Đắk Lắk, và phía phía bắc của tỉnh giáp tỉnh Kon Tum. Gia Lai thuộc vùng khí hậu cao nguyên nhiệt đới gió mùa, dồi dào về độ ẩm, có lượng mưa lớn, không có bão và sương muối. Khí hậu ở đây được chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. ... Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm là 22 – 250C Biển Hồ - Hồ T'Nưng gần Pleiku. Chùa Minh Thành. Sân vận động Pleiku. Công viên Diên Hồng. Làng Plei Ốp. Hàng thông trăm tuổi. Biển Hồ chè. Núi Chư Nâm. Núi lửa Chư Đăng Ya. Chùa Bửu Minh. Núi Hàm Rồng. Núi đá Pleiku. Khu bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng. Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh. Thác K50 hay còn gọi là thác Hang Én. Thác Phú Cường. Thác Kon Bông. Thác Xung Khoeng. Đảo cô đơn và Hồ A Yun Hạ. Thác Đôi và ruộng bậc thang. Thác Đội 3. Thác Kon Lốc. Làng chài Sê San. Chè Bàu Cạn. Thác Hang Dơi. Thác Mơ. Bún cua thúi Gia Lai. Phở khô Gia Lai. Các món muối Tây Nguyên. Món ăn đồng bào Jrai. Cháo lòng bánh hỏi. Gà xông khói Jrai. Món lá mì. Các món nướng trong lá.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Học tập", "role": "user" }, { "content": "Cần phải lựa chọn một cách nghiêm ngặt xem nên học gì và không nên học gì. Lev. Tolstoy Có học vấn không có đạo đức như một kẻ xấu; có đạo đức không có học vấn như một người thô bỉ. Roosevelt Đừng xấu hổ khi không biết, chỉ xấu hổ khi không học. Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Tục ngữ Việt Nam Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới. N.Mandela Giáo dục là một điều đáng kính trọng, nhưng nên nhớ rằng đôi khi những điều được dạy là những cái không đáng biết. Oscar Wilde Học đi đôi với hành. Học đâu, biết đó. Học một, biết mười. Học trong quá khứ, sống trong thực tại, chuẩn bị cho tương lai. Học cầu tinh hơn cầu kỳ , cầu hiểu hơn thuộc lòng Học mà không chơi là chôn vùi tuổi trẻ. Chơi mà không học thì mất cả tương lai. Học không biết chán, dạy người không biết mỏi. Khổng Tử Học, học nữa, học mãi. Lenin Mục tiêu của giáo dục không phải là dạy cách kiếm sống hay cung cấp công cụ để đạt được sự giàu có, mà đó phải là con đường dẫn lối tâm hồn con người vươn đến cái Chân và thực hành cái Thiện. Vijaya Lakshmi Pandit Nhà trường chỉ cho chúng ta chiếc chìa khóa tri thức, học trong cuộc sống là công việc cả đời. Bill Gates Tiên học lễ, hậu học văn. Việc học như đi thuyền trên dòng nước ngược. Không tiến ắt sẽ lùi. Wikipedia có bài viết về: Học tập", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.", "role": "system" }, { "content": "Moskva", "role": "user" }, { "content": "Moskva là thành phố thủ đô của Nga. Moskva nằm trên bờ sông Moskva, giữa lưu vực của hai con sông lớn là Volga và Oka, có diện tích 878,7 km2 thuộc khu Trung tâm Nga (trên thực tế khu vực này nằm ở phía Tây của nước Nga thuộc khu vực Châu Âu). Thị trưởng hiện nay của thành phố là Sergey Sobyanin. Moskva cũng là trung tâm hành chính của tỉnh Moskva (chữ Kirill: Московскaя область). Trước đây, Moskva đã từng là thủ đô của Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết (tức Liên Xô) cho đến năm 1991 khi chính quyền Liên bang sụp đổ và sớm hơn nữa là của các công quốc và đại công quốc Moskva (chữ Kirill: Московское княжество). Các địa điểm, địa danh lịch sử nổi tiếng nhất của Moskva phải kể đến là: điện Kremli (Кремль) trụ sở của Nhà nước Liên bang Nga, bên cạnh nó là Quảng trường Đỏ (Красная площадь), nhà thờ lớn Vasily Blazhenny (храм Василия Блаженного) với mái vòm hình củ tỏi. Giáo chủ Moskva cũng đồng thời là người đứng đầu Chính thống giáo Nga. Moskva là một trung tâm vận tải hàng không của Nga. Moskva (IATA: MOW) có 3 sân bay chính hiện đại: Sân bay quốc tế Domodedovo (IATA: DME) +7 495 933-66-66 [1] – sân bay mới nhất và bận rộn nhất trong ba sân bay, được nhiều hãng hàng không quốc tế sử dụng, như British Airways và Lufthansa, các hãng cạnh tranh của Aeroflot và S7 Sân bay quốc tế Sheremetyevo, (IATA: SVO) +7 495 232-65-65 [2] – đã là sân bay chính, một trung tâm bận rộn và là sân bay nhà của hãng Aeroflot Sân bay quốc tế Vnukovo (IATA: VKO) Tel: (Trụ sở) +7 495 436-71-9 [3] Du khách công vụ có thể sử dụnge: Sân bay Ostafyevo (ICAO: UUMO) [4] – sân bay nhà của Gazpromavia Hiện có các tuyến bay thẳng nối Moskva với Hà Nội (Vietnam Airlines và Aeroflot), Cam Ranh (Vietnam Airlines và một số hãng bay thuê chuyến), Thành phố Hồ Chí Minh (Vietnam Airlines và Aeroflot). Giao thông trong thành phố có thể kể đến hệ thống tàu điện ngầm (metro) Moskva, là một hệ thống metro tuyệt vời, các nhà ga được trang trí bằng các bức tranh treo tường hay khảm vào tường có giá trị nghệ thuật. Bắt đầu hoạt động vào ngày 15 tháng 5 năm 1935, hiện nay hệ thống này có 11 tuyến đường với tổng chiều dài 278 km và hơn 170 ga. Tại các ga rất phổ biến các loại hình đèn chùm pha lê chiếu sáng. Hệ thống này là bận rộn nhất thế giới với hơn 9 triệu lượt hành khách mỗi ngày và tại giờ cao điểm cứ mỗi 90 giây lại có một chuyến tàu. Hệ thống metro Moskva được thiết kế là các tuyến đường \"thẳng\" giao nhau tại khu vực gần trung tâm thành phố. Ngoài ra còn có một tuyến đi theo đường \"tròn\" liên kết tất cả các tuyến kia. Do các ga metro đặt tương đối xa nhau (so sánh với các thành phố khác), có thể tới 4 km, nên hệ thống xe buýt rất phát triển. Các tuyến xe buýt chạy qua các ga metro và bao phủ toàn bộ khu vực dân cư. Thông thường cứ mỗi phút lại có một chuyến xe buýt và giá cả khá rẻ so với các thành phố lớn khác của Châu Âu (khoảng 1USD / 1 chuyến). Mỗi một phố chính trong thành phố đều có ít nhất một tuyến xe buýt phục vụ và không có một khu nhà chung cư nào trong số 13.000 chung cư lại phải mất hơn vài phút đi bộ. Ở đây cũng có các hệ thống xe điện trên đường ray (Трамвай-tramvai) và xe điện bánh hơi (Троллейбус-trolleybus). Trước đây rất ít người sử dụng ô tô cá nhân để đi lại do thường xuyên xảy ra tắc nghẽn giao thông. Tuy nhiên, phần lớn các gia đình trung lưu có ô tô để đi lại trong những ngày nghỉ cuối tuần và lễ hội. Theo một số ước tính, có trên 2,5 triệu ô tô lưu thông trên địa bàn thành phố trong ngày (2004). 3 năm trở lại đây (từ 2004) do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Liên Bang Nga, đặc biệt là Moskva, số lượng xe hơi cá nhân đã bùng nổ với sự đa dạng về chủng loại, nguồn gốc, tắc đường đã trở thành \"chuyện thường ngày ở huyện\". Rất nhiều công chức đến công ty bằng xe riêng đã phải đi trước giờ làm việc buổi sáng (8-9 giờ) cả tiếng đồng hồ. Tắc đường trên diện rộng từ sáng đến đêm khuya. Tổ hợp Nhà hát Lớn và Nhà hát Nhỏ. (Большой и Mалый театры) Kolomenskoye (Коломенское) Điện Kremli nằm giữa lòng thành phố, trên ngọn một quả đồi được bao quanh bởi bức tường gạch dày kiên cố, nổi bật với 20 ngọn tháp. Toàn bộ quần thể này bao gồm các nhà thờ, cung điện, viện bảo tàng, cơ quan chính phủ... Mỗi công trình là một thực thể sống động gắn liền với từng giai đoạn lịch sử của nước Nga. Ở giữa Kremlin là cung điện Amoury, hiện là viện bảo tàng phong phú và cổ kính nhất, trưng bày toàn bộ kỷ vật quý giá của Hoàng gia từ tấm khăn choàng nạm trang sức quý đến mũ miện nạm kim cương, cỗ xe ngựa... Trang viên Kuskovo (Кусково) Manezh (Mанеж) Tháp Ostankino, tháp truyền hình cao nhất Châu Âu Trang viên Ostankino (Останкино) Trang viên Tsaritsyno (Царицыно) Trang viên Kuzminki (Кузьминки) Viện bảo tàng Pushkin - bảo tàng mỹ thuật Quảng trường Đỏ, lăng Lenin Nhà thờ lớn Vasily Blazhenny Tháp phát thanh Sukhov Nhà thờ Chúa Cứu thế (Храм Христа Спасителя) Viện bảo tàng Tretyakov Trung tâm triển lãm toàn Nga (VĐNKha) Vườn bách thú Moskva Tòa nhà trường Lomonosov và phong cảnh. 55.754722GUM1 GUM, Phía Đông Quảng trường Đỏ, ☎ +7 (495) 788-4343, fax: +7 (495) 777-7565, e-mail: info@gum.ru. GUM chiếm toàn bộ phía Đông của Quảng trường Đỏ, và nhìn giống như một cung điện hơn một trung tâm mua sắm. Trung tâm thương mại-mua sắm GUM được xây dựng từ thế kỷ 19 hoạt động cho đến nay. Trung tâm có nôị thất trang nhã. Trung tâm nổi bật với ba vườn song song. Ngoài ra còn có cả đài phun nước. Những con phố luôn nườm nượp người qua lại. Hàng hóa của trung tâm đa dạng. Là những hàng hóa của những thương hiệu nổi tiếng. Du khách không chỉ thỏa thích tản bộ trên con đường đầy ắp những cửa hàng. Mà còn có thể ghé từng gian hàng để tìm cho mình những sản phẩm yêu thích. Detskiy Mir. Detskiy Mir là khu chuyên bán đồ chơi trẻ em và các loại CDs của Nga cũng như của các nước. Ở đây có khá nhiều những cửa hàng phục vụ cho du khách nhu cầu mua sắm đồ chơi cho Trẻ em. Hàng hóa nơi đây cũng đa dạng. Có cửa hàng bán đồ chơi hiện đại nhưng cũng có nhiêù cửa hàng bán các loại đồ chơi truyền thống của Nga. Ngày nào Detskiy Mir cũng đông đúc khách du lịch và khách địa phương đến tìm mua những món quà, những món đồ chơi. Ngày nay trẻ em Nga và trẻ em các nước lân cận vẫn ưa thích các sản phẩm đồ chơi truyền thống. Ngoài ra Detskiy Mir còn có nhiều cửa hàng chuyên bán các loại đĩa nhạc. Времена года, ☎ (495) 644-48-48NOCC, e-mail: info@vremena-goda-moscow.com. Vremena Goda là một trung tâm mua sắm sang trọng nằm ở Moscow lưu trữ các cửa hàng quốc tế như Chanel, Porsche và Cartier, rạp chiếu phim VIP, nhà hàng hợp thời trang, spa và nhiều hơn nữa Trong thời gian gần đây tại Moskva xuất hiện rất nhiều các nhà hàng ăn uống với giá cả dao động nhiều. Giá đồ ăn trung bình trên một người trong các nhà hàng trung và cao cấp sẽ từ $30 đến $200, đặc biệt nếu có gọi rượu vang nổi tiếng. Những đồ ăn kiểu \"căng tin\" trong các stolovaya (tiếng Nga: столовая - nhà ăn tự phục vụ) có giá khoảng ba đôla Mỹ (47.000 đ tiền Việt). Hệ thống các nhà hàng, như \"Moo-Moo\", cung cấp đồ ăn kiểu căng tin có chất lượng theo thực đơn kiểu Anh có giá khoảng 5 đô la Mỹ cho mỗi người. Mặc dù phần đông người Moskva không thường xuyên ăn uống thậm chí trong các nhà hàng ăn rẻ tiền nhất, nhưng rất nhiều nhà hàng \"bậc trung\" mới vẫn xuất hiện và mở cửa, nhắm vào các gia đình trong những ngày nghỉ cuối tuần. Một loạt các cửa hàng bán đồ ăn nhanh mọc xung quanh các nhà ga xe lửa và metro. Hệ thống này bao gồm cả các cửa hàng khắp mọi nơi của McDonald's và các hệ thống khác, đáng kể nhất là Rostiks, chuyên bán các đồ ăn làm từ gà. Ngoài ra hàng loạt các cửa hàng bán cà phê cũng mọc ra xung quanh thành phố này.", "role": "assistant" } ]