messages
listlengths 3
3
|
---|
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Helen Keller",
"role": "user"
},
{
"content": "Helen Adams Keller (27 tháng 6, 1880 – 1 tháng 6, 1968) là nhà văn, nhà hoạt động chính trị và giảng viên người Mỹ. Chừng nào mà kỷ niệm về những người bạn thân thương vẫn sống trong tim tôi, tôi sẽ nói rằng đời tốt đẹp. So long as the memory of certain beloved friends lives in my heart, I shall say that life is good. Cùng bước với một người bạn trong bóng tối tốt hơn là bước một mình trong ánh sáng. Walking with a friend in the dark is better than walking alone in the light. Cũng như sự ích kỷ và phàn nàn làm tha hóa tâm hồn, tình yêu với những niềm vui của mình làm tầm nhìn trở nên rõ ràng và sắc nét. As selfishness and complaint pervert the mind, so love with its joy clears and sharpens the vision. Chúng ta không bao giờ có thể học được sự can đảm và kiên nhẫn nếu chỉ có niềm vui trên thế gian này. We could never learn to be brave and patient, if there were only joy in the world. Cuộc sống là một chuỗi bài học mà bạn cần phải sống mới hiểu được. Life is a succession of lessons which must be lived to be understood. Cuộc sống rất thú vị, và thú vị nhất khi nó được sống vì người khác. Life is an exciting business, and most exciting when it is lived for others. Chúng ta có thể đã chữa trị được hầu hết thói xấu xa; nhưng chúng ta vẫn chưa tìm ra liều thuốc cho thói xấu tồi tệ nhất, sự vô cảm của con người. We may have found a cure for most evils; but we have found no remedy for the worst of them all, the apathy of human beings. Cả thế giới ngập tràn thống khổ. Nó cũng ngập tràn chiến thắng. All the world is full of suffering. It is also full of overcoming. Đừng bao giờ cúi đầu. Hãy luôn ngẩng cao. Nhìn thẳng vào mắt thế giới. Never bend your head. Always hold it high. Look the world straight in the eye. Điều tôi đi tìm không ở ngoài kia, nó ở trong bản thân tôi. What I am looking for is not out there, it is in me. Điều tốt đẹp nhất trên thế gian này không thể nhìn thấy hoặc thậm chí chạm vào - chúng phải được cảm nhận bằng trái tim. The best and most beautiful things in the world cannot be seen or even touched - they must be felt with the heart. Hãy quay về hướng mặt trời, và bạn sẽ không thấy bóng tối. Keep your face to the sunshine and you cannot see a shadow. Kết quả cao nhất của giáo dục là sự khoan dung. The highest result of education is tolerance. Không ai có quyền hưởng thụ hạnh phúc mà không tạo ra nó. No one has a right to consume happiness without producing it. Không kẻ bi quan nào có thể phát hiện ra bí ẩn của những vì sao, hay căng buồm tới miền đất mới, hay mở cánh cửa vào linh hồn của con người. No pessimist ever discovered the secret of the stars, or sailed to an uncharted land, or opened a new doorway for the human spirit. Khi ta làm hết sức của mình, ta không thể biết điều kỳ diệu nào sẽ xảy đến trong cuộc sống của ta, hoặc trong cuộc sống của người khác. When we do the best that we can, we never know what miracle is wrought in our life, or in the life of another. Lạc quan là niềm tin dẫn tới thành tựu. Bạn chẳng thể làm được điều gì mà thiếu đi hy vọng và sự tự tin. Optimism is the faith that leads to achievement. Nothing can be done without hope and confidence. Mọi thứ đều chứa đựng điều bí ẩn, thậm chí cả bóng tối và sự câm lặng, và tôi học được rằng cho dù tôi ở trạng thái nào, tôi cũng có thể yên bình. Everything has its wonders, even darkness and silence, and I learn, whatever state I may be in, therein to be content. Một mình, ta làm được rất ít; cùng nhau, ta làm được rất nhiều. Alone we can do so little; together we can do so much. Nhiều người không biết nhiều hơn những gì nằm ngoài tầm trải nghiệm nhỏ bé của mình. Họ nhìn vào trong mình - và chẳng tìm thấy gì cả! Vì thế họ kết luận rằng cũng chẳng có gì ở bên ngoài họ. Many people know so little about what is beyond their short range of experience. They look within themselves - and find nothing! Therefore they conclude that there is nothing outside themselves either. Niềm tin là sức mạnh có thể khiến thế giới tan vỡ xuất hiện trong ánh sáng. Faith is the strength by which a shattered world shall emerge into the light. Nhiều người có ý tưởng sai lầm về điều sản sinh ra hạnh phúc đích thực. Nó không đạt được qua sự tự thỏa mãn mà qua sự trung thành với một mục đích đáng giá. Many persons have a wrong idea of what constitutes true happiness. It is not attained through self-gratification but through fidelity to a worthy purpose. Người ta không thích suy nghĩ. Nếu một người nghĩ, anh ta phải đi đến kết luận. Kết luận không phải lúc nào cũng dễ chịu. People do not like to think. If one thinks, one must reach conclusions. Conclusions are not always pleasant. Sự phong phú tuyệt diệu của trải nghiệm sẽ mất đi đôi chút phần thưởng niềm vui nếu không có giới hạn để vượt qua. Thời khắc lên tới đỉnh núi sẽ chẳng tuyệt vời được bằng một nửa nếu không phải đi qua những thung lũng tối tăm. The marvelous richness of human experience would lose something of rewarding joy if there were no limitations to overcome. The hilltop hour would not be half so wonderful if there were no dark valleys to traverse. Sự khoan dung là món quà lớn nhất của tâm hồn; nó đòi hỏi nỗ lực của bộ não cũng nhiều như khi bạn phải giữ thăng bằng khi đi xe đạp. Toleration is the greatest gift of the mind; it requires the same effort of the brain that it takes to balance oneself on a bicycle. Sự đảm bảo chỉ là mê tín mà thôi. Nó không tồn tại trong tự nhiên, loài người nói chung cũng không trải nghiệm nó. Lảng tránh nguy hiểm về lâu dài không an toàn hơn nhảy thẳng vào nguy hiểm. Cuộc sống hoặc là một cuộc phiêu lưu táo bạo, hoặc chẳng là gì cả. Security is mostly a superstition. It does not exist in nature, nor do the children of men as a whole experience it. Avoiding danger is no safer in the long run than outright exposure. Life is either a daring adventure, or nothing. Thay vì so sánh mình với những người may mắn hơn mình, ta nên so sánh mình với số đông con người. Và rồi sẽ có vẻ như chúng ta là những người may mắn. Instead of comparing our lot with that of those who are more fortunate than we are, we should compare it with the lot of the great majority of our fellow men. It then appears that we are among the privileged. Ta không thể đánh mất những gì ta từng tận hưởng. Tất cả những gì ta yêu sâu sắc trở thành một phần trong ta. What we have once enjoyed we can never lose. All that we love deeply becomes a part of us. Thành công và hạnh phúc nằm trong bạn. Quyết tâm hạnh phúc, và niềm vui sẽ đi cùng bạn để hình thành đạo quân bất khả chiến bại chống lại nghịch cảnh. Your success and happiness lies in you. Resolve to keep happy, and your joy and you shall form an invincible host against difficulties. Tính cách không thể phát triển một cách dễ dàng và yên lặng. Chỉ qua trải nghiệm thử thách và gian khổ mà tâm hồn trở nên mạnh mẽ hơn, hoài bão hình thành và thành công đạt được. Character cannot be developed in ease and quiet. Only through experience of trial and suffering can the soul be strengthened, ambition inspired, and success achieved. Thật tuyệt vời là con người đã sử dụng biết bao thời gian để chống lại cái ác. Giá mà họ cũng sử dụng năng lượng đó để yêu thương người khác, cái ác sẽ tự chết vì buồn chán. It is wonderful how much time good people spend fighting the devil. If they would only expend the same amount of energy loving their fellow men, the devil would die in his own tracks of ennui. Trước khi số đông con người tràn đầy tinh thần trách nhiệm đối với lợi ích của người khác, công bằng xã hội sẽ chẳng bao giờ đạt được. Until the great mass of the people shall be filled with the sense of responsibility for each other's welfare, social justice can never be attained. Thật khó để khiến những người có mọi thứ quan tâm tới những người chẳng có thứ gì. It is hard to interest those who have everything in those who have nothing. Tôi chỉ là một, nhưng tôi vẫn là một. Tôi không thể làm mọi thứ, nhưng tôi vẫn có thể làm gì đó; và bởi vì tôi không thể làm tất cả, tôi sẽ không từ chối làm điều tôi có thể. I am only one, but still I am one. I cannot do everything, but still I can do something; and because I cannot do everything, I will not refuse to do something that I can do. Tôi khao khát làm được những điều vĩ đại và cao cả, nhưng trách nhiệm chính của tôi là làm được những điều nhỏ nhặt như thể chúng vĩ đại và cao cả. I long to accomplish a great and noble task, but it is my chief duty to accomplish small tasks as if they were great and noble. Thật tuyệt vời khi trèo lên những ngọn núi trong trẻo của bầu trời. Đằng sau tôi và trước tôi là Chúa, và tôi không sợ hãi. It's wonderful to climb the liquid mountains of the sky. Behind me and before me is God and I have no fears. Trường học không phải nơi để đi tìm ý tưởng. College isn't the place to go for ideas. Trong lúc họ còn đang nói với nhau không thể làm được điều đó đâu, nó đã được làm xong rồi. While they were saying among themselves it cannot be done, it was done. Thế giới đang tiến về phía trước, không phải bởi cú đẩy mạnh mẽ của những anh hùng, mà bởi tổng hòa cú đẩy yếu hơn của những người lao động lương thiện. The world is moved along, not only by the mighty shoves of its heroes, but also by the aggregate of tiny pushes of each honest worker. Than thân trách phận là kẻ thù tồi tệ nhất của chúng ta, và nếu ta đầu hàng nó, ta sẽ chẳng làm được gì khôn ngoan trên thế giới này. Self-pity is our worst enemy and if we yield to it, we can never do anything wise in this world. Wikipedia có bài viết về: Helen Keller",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Singapore",
"role": "user"
},
{
"content": "Singapore là một thành phố rất lớn với nhiều bài viết về các khu của nó như các điểm tham quan, nhà hàng. Singapore (phiên âm tiếng Việt: Xinh-ga-po, Hán Việt: Tân Gia Ba, tiếng Trung: 新加坡; tiếng Mã Lai: Singapura; tiếng Tamil: சிங்கப்பூர்), tên đầy đủ là Cộng hòa Singapore (tiếng Anh: Republic of Singapore; Trung: 新加坡共和國 (Tân Gia Ba Cộng hòa quốc)/ Xīnjiāpō gònghéguó; tiếng Mã Lai: Republik Singapura; tiếng Tamil: சிங்கப்பூர் குடியரசு Ciŋkappūr Kudiyarasu), là quốc gia nhỏ nhất ở Đông Nam Á, nằm phía nam của bán đảo Mã Lai, tiếp giáp tiểu bang Johor của Malaysia về phía bắc và đối diện đảo Riau của Indonesia về phía nam. Là nước nhiệt đới, Singapore nằm phía bắc đường xích đạo, chỉ cách 137 km. Được thành lập như một thuộc địa mậu dịch của Anh vào năm 1819, từ khi giành được độc lập, đất nước này đã trở thành một trong những quốc gia thịnh vượng nhất thế giới và tự hào sở hữu một trong các cảng biển đông đúc nhất trên thế giới. Nơi đây có những món ăn huyền thoại, với các trung tâm nhộn nhịp người bán hàng rong và các quán cà phê phục vụ 24 giờ, cung cấp đồ ăn với giá cả phải chăng tới từ mọi bộ phận của văn hóa châu Á. Kết hợp các tòa nhà chọc trời và những ga tàu điện ngầm của một thành phố giàu có và hiện đại, với sự pha trộn ảnh hưởng từ các văn hoa của Trung Quốc, Mã Lai và Ấn Độ và nền khí hậu nhiệt đới, với thức ăn ngon, mua sắm thuận tiện và một khung cảnh cuộc sống về đêm, Garden City là một điểm dừng chân thú vị, một địa điểm lý tưởng cho những dự định trong tương lai của khu vực. Người Việt trước năm 1950 còn biết đến Singapore dưới tên Chiêu Nam, Tân Châu và Hạ Châu. Singapore vốn là làng chài của người Mã Lai, sang thế kỷ 19 thì bị người Anh chiếm làm thuộc địa. Quân đội Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng Singapore trong Thế chiến thứ hai để rồi sang thời kỳ hậu thuộc địa thì Singapore gia nhập Liên bang Mã Lai. Khi Singapore tiếp thu độc lập thì quốc gia mới phải đối diện với một số thử thách: tài nguyên thiên nhiên hạn hẹp, xã hội phân tán, chính trị bất ổn và kinh tế yếu kém. Bằng cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài và kế hoạch công nghiệp hóa của chính phủ, Singapore đã tự tạo một nền kinh tế dựa vào thương nghiệp và gia công xuất khẩu hàng điện tử. Hơn 90% dân cư Singapore sống trong các khu nhà xây dựng sẵn của Ban Phát triển Nhà ở và gần một nửa dân cư sử dụng phương tiện giao thông công cộng hàng ngày. Chính nhờ các phương tiện giao thông công cộng này cùng với sự chủ động của chính phủ trong các vấn đề môi trường đã làm cho sự ô nhiễm môi trường ở Singapore chỉ còn lại ở vùng công nghiệp nặng ở đảo Jurong. Theo hiến pháp, Singapore là một nước dân chủ đại nghị. Ban đầu, Singapore theo thể chế xã hội chủ nghĩa dân chủ sau khi độc lập, sử dụng một hệ thống kinh tế phúc lợi. Tuy nhiên sau đó chính phủ Singapore đã nghiêng dần về phía cánh hữu. Tên Singapore xuất phát từ Singapura trong tiếng Malaysia (hay tiếng Malay), vốn được lấy từ nguồn gốc của chữ Phạn là singa (sư tử) và pura (thành phố). Từ đó Singapore được biết với cái tên Thành phố Sư Tử. Tên gọi này bắt nguồn từ một vị hoàng tử tên là Sang Nila Utama. Theo truyền thuyết, vị hoàng tử này nhìn thấy một con sư tử là sinh vật sống đầu tiên trên hòn đảo và do đó đặt tên cho hòn đảo là Thành phố Sư Tử (Singapura). Những bằng chứng đầu tiên về sự tồn tại của hòn đảo được tìm thấy trong những văn bản của Trung Quốc từ thế kỉ thứ 3. Hòn đảo là nơi chiếm đóng của đế chế Sumatran Srivijaya và khởi đầu có tên theo tiếng Java là Temasek. Temasek phát triển thành một thành phố thương mại thịnh vượng nhưng sau đó dần dần suy tàn. Từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 19, Singapore là một phần của Vương quốc Johor. Năm 1819, ông Thomas Stamford Raffles, một viên chức của công ty East India (của Anh), đã kí một thỏa thuận với vua của Johor. Ông đồng thời thiết lập Singapore trở thành một trạm thông thương buôn bán và nơi định cư, sau này đã nhanh chóng phát triển và thu hút sự di dân từ nhiều chủng tộc khác nhau. Singapore sau đó đã trở thành thuộc địa của Anh năm 1867. Sau một chuỗi các hoạt động mở mang lãnh thổ, Đế quốc Anh nhanh chóng đưa Singapore trở thành một trung tâm tập trung và phân phối dựa vào vị trí rất quan trọng của nó trên con đường biển nối giữa Châu Âu và Trung Quốc. Tượng của ông Thomas Stamford Raffles, được dựng tại nơi ông đầu tiên đặt chân lên Singapore. Ông được xem là người tìm ra Singapore mới. Trong Thế chiến thứ hai, quân đội Đế quốc Nhật xâm chiếm Malaya và những vùng lân cận trong Cuộc chiến Malaya, lên đến cực điểm tại Cuộc chiến Singapore. Quân Anh không được chuẩn bị và nhanh chóng thất thủ mặc dù có lực lượng đông hơn. Anh giao nộp Singapore cho quân Nhật vào ngày 15 tháng 2 năm 1942. Người Nhật đổi tên Singapore sang tiếng Nhật thành Chiêu Nam đảo (昭南島 Shōnantō), nghĩa là \"Đảo Ánh sáng Miền Nam\", và chiếm đóng nó cho đến khi quân Anh trở lại chiếm hòn đảo một tháng sau sự đầu hàng của Nhật vào tháng 9 năm 1945. Singapore trở thành một nhà nước tự chủ năm 1959 với người đứng đầu nhà nước đầu tiên là Yusof bin Ishak và thủ tướng đầu tiên là Lý Quang Diệu sau cuộc bầu cử năm 1959. Cuộc trưng cầu dân ý về việc sát nhập Singapore vào Liên bang Mã Lai đã đạt được năm 1962, đưa Singapore trở thành một thành viên của liên bang Mã Lai cùng với Malaya, Sabah và Sarawak như là một bang có quyền tự trị vào tháng 9 năm 1963. Singapore bị tách ra khỏi liên bang vào ngày 7 tháng 8 năm 1965 sau những bất đồng quan điểm chính trị chính phủ của bang và hội đồng liên bang tại Kuala Lumpur. Singapore được độc lập 2 ngày sau đó, vào ngày 9 tháng 8 năm 1965, sau này đã trở thành ngày Quốc khánh của Singapore. Malaysia là nước đầu tiên công nhận nền độc lập của Singapore. Độc lập đồng nghĩa với tự túc, Singapore đã phải đối mặt với nhiều khó khăn trong giai đoạn này, bao gồm nạn thất nghiệp, thiếu nhà ở, đất đai và tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ. Với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và Đồng Minh, trong nhiệm kỳ của mình từ năm 1959 đến 1990, Thủ tướng Lý Quang Diệu đã từng bước kiềm chế thất nghiệp, lạm phát, tăng mức sống và thực hiện một chương trình nhà ở công cộng với quy mô lớn. Các cơ sở hạ tầng kinh tế của đất nước được phát triển, mối đe dọa của căng thẳng chủng tộc được loại bỏ và một hệ thống phòng vệ quốc gia được thiết lập. Singapore từ một nước đang phát triển trở thành một nước phát triển vào cuối thế kỷ 20. Năm 1990, Goh Chok Tong kế nhiệm chức thủ tướng, đối mặt với nhiều khó khăn bao gồm ảnh hưởng kinh tế từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997, sự lan tràn của SARS năm 2003 cũng như những đe dọa khủng bố từ Jemaah Islamiah, hậu 11 tháng 9 và các vụ đánh bom ở Bali. Năm 2004, Lý Hiển Long, con trai cả của Lý Quang Diệu, trở thành thủ tướng thứ ba. Singapore là một đảo quốc nhỏ có diện tích tương đương đảo Phú Quốc của Việt Nam, nhưng có dân số hơn 5 triệu người, và là nước có mật độ dân số đông thứ 2 trên thế giới sau Monaco. Tuy nhiên, không giống các nước đông dân khác, Singapore có hơn 50% diện tích được phủ xanh và có hơn 50 công viên chính và 4 khu bảo tồn thiên nhiên. Các khu dân cư lớn mọc khắp đảo, bao bọc xung quan trunh tâm thành phố hiện đại và sạch sẽ. Trung tâm thành phố nằm ở phía nam và bao gồm hầu hết khu vực mua sắm Orchard Road, Riverside, khu vực Vịnh Marina mới và khu tài chính cao ốc Shenton Way. Tất cả khu này còn được gọi tắt một cách thân mật là CBD (Central Business District - Khu kinh doanh trung tâm), hoặc đơn giản hơn là phố (town) Có nhiều thứ để ngắm nhìn bên ngoài trung tâm thành phố chính của Singapore, từ khu trung tâm HDB, nơi thức ăn bán rong là vua, đến Sở thú Singapore (Singapore Zoo). Hoặc bạn có thể thư giãn trong các công viên và bãi biển của bờ Đông (East Coast) và Sentosa. Ở trung tâm, hệ thông địa chỉ của Singapore khá tương tự như các nước phương Tây (ví dụ, 17 Orchard Road - số 17 đại lộ Orchard), nhưng những công tác phát triển nhà ở mới ở ngoại ô có thể xuất hiện những điều đáng sợ hơn: một địa chỉ điển hình có thể là \"Blk 505 Jurong West St 51 #01-186\". Ở đây, \"Blk 505\" là số lô nhà ở (Blk = Block - lô nhà), \"Jurong West St 51\" là tên đường/số thứ tự đường, và \"#01-186\" nghĩa là tầng 1, đơn vị số 186, gian hàng hoặc cửa hàng số 186. Chữ số đầu tiên của cả số lô nhà ở và số thứ tự đường là số thứ tự của vùng (trong trường hợp này là 5), khiến công việc khoanh vùng địa chỉ chính xác trở nên dễ dàng hơn. Ngoài ra còn có mã bưu chính 6 chữ số, trong đó, có xem xét diện tích nhỏ của hòn đảo, nói chung tương ứng chính xác với một tòa nhà. Ví dụ, \"Blk 9 Bedok South Ave 2\" là \"Singapore 460009\". Cuối cùng, bạn cũng sẽ gặp những thuật ngữ Mã Lai tại các địa chỉ: phổ biến nhất là Jalan (Jln) dành cho \"Đại lộ\" (\"Road\"), Lorong (Lor) dành cho \"Đường\" (\"Lane\"), Bukit (Bt) dành cho \"Đồi\" (\"Hill\") và Kampong (Kg) cho \"Làng\" (\"Village\"). Các công cụ hữu ích cho việc tìm các địa chỉ bao gồm StreetDirectory.com, GoThere.sg và OneMap.sg. Cụm \"Blk\" và số đơn vị có thể và nên được bỏ qua khi nhập địa chỉ vào các trang web này: \"505 Jurong West St 51\" sẽ hữu ích hơn. Hầu hết công dân các nước có thể đến Singapore mà không cần visa. Điều này tham chiếu từ Cơ quan Di trú (Immigration and Checkpoints Authority) về đường lối chỉ đạo hiện tại, bao gồm một danh sách hơn 30 quốc gia cần phải xin visa trước. Công dân mang quốc tịch Việt Nam mang hộ chiếu phổ thông được miễn visa trong 30 ngày. Thời hạn visa tùy theo quốc tịch và theo điểm vào Singapore: hầu hết được cấp 14 hoặc 30 ngày, mặc dù người mang hộ chiếu Khu vực kinh tế châu Âu (EEA) và Hoa Kỳ có thể được cấp 90 ngày. Công dân từ các nước Cộng đồng các Quốc gia Độc lập (CIS) (Nga, Ukraina, Kazakhstan) có thể chuyển chuyến 4 ngày mà không cần visa, nếu họ có vé đi tiếp đến nước thứ ba. Tương tự như nhiều quốc gia khác, có một mẫu đơn mà bạn cần phải hoàn thành (với Singapore, nó được gọi là D/E card) và trao lại cho nhân viên nhập cảnh tại cửa khẩu. Bạn giữ lại một phần mẫu đơn, phần này bạn cần phải nộp khi rời Singapore, vì vậy cố gắng đừng để thất lạc nó. Trên mặt sau của mẫu đơn có một lời nhắc nhở về hình phạt tử hình đối với việc vận chuyển ma túy vào đất nước, được viết bằng chữ in hoa màu đỏ. Đàn ông vào Singapore một cách bất hợp pháp hoặc ở quá hạn visa hơn 90/30/14 phải đối mặt với hình phạt đánh gậy bắt buộc (3 gậy). Singapore có bộ luật chống ma túy rất nghiêm ngặt, và tội danh buôn bán ma túy được quy vào án tử hình bắt buộc — điều này cũng được áp dụng cho người nước ngoài. Thậm chí nếu bạn chưa nhập cảnh vào Singapore về mặt kĩ thuật và chỉ đơn thuần đang quá cảnh (tức là thay đổi chuyến bay mà không cần phải vượt qua kiểm soát thị thực và hải quan) trong khi đang tàng trữ ma túy, bạn vẫn sẽ phải chịu án tử hình. Sự hoang tưởng cũng có thể được lưu ý, rằng ở Singapore, thậm chí sẽ là phạm tội nếu có bất kì chất chuyển hóa ma túy nào trong cơ thể bạn, ngay cả khi chúng đã được tiêu thụ bên ngoài Singapore, và Hải quan đôi khi làm xét nghiệm nước tiểu tại chỗ ở sân bay! Ngoài ra, mang vật liệu nổ hoặc vũ khí không giấy phép cũng là một hành vi chịu án tử hình tại Singapore. Mang theo các đơn thuốc đối với bất kì loại thuốc nào mà bạn có thể có với bạn, và được sự cho phép từ Cơ quan Khoa học Y tế Singapore (Singapore Health Sciences Authority) (HSA: trang chủ mới tại [1] trước khi mang theo bất kì thuốc an thần (ví dụ như Valium/diazepam) hoặc thuốc giảm đau mạnh nào (ví dụ như codeine) để nhập cảnh. (Nếu bạn có thể quét và đính kèm tất cả các tài liệu cần thiết vào trong một e-mail liên lạc với trang web này, bạn có thể nhận được sự cho phép bằng văn bản trong ít nhất là 10 ngày, thường là 3-4 tuần. Gửi bằng thư bình thường từ bất kì khoảng cách lớn nào, cho phép một vài tháng.) Những hình thức lập dị hay hippie có thể nhận sự chú ý nhiều hơn từ Hải quan, nhưng việc cạo râu và cắt tóc không còn là một điều kiện phải có để nhập cảnh. Hình thức trợ cấp miễn thuế cho đồ uống có cồn là một lít với mỗi loại đồ uống bất kì như rượu vang, bia và rượu mạnh, mặc dù 1 L rượu mạnh có thể thay thế với 1 L rượu vang hoặc bia, trừ khi bạn đang nhập cảnh từ Malaysia. Du khách nhập cảnh từ Malaysia không được hưởng bất kì hình thức trợ cấp miễn thuế nào. Đồ uống có cồn không thể được mang vào bởi người dưới 18 tuổi. Không có hình thức trợ cấp miễn thuế nào dành cho thuốc lá: tất cả thuốc lá hợp pháp bán ở Singapore đều được đóng dấu \"SDPC\", và người hút thuốc bị bắt với thuốc lá không được đóng dấu có thể bị phạt $500 cho mỗi gói. (Mặc dù vậy, trong thực tế mang theo một gói đã mở thường được bỏ qua và tha thứ) Nếu bạn khai báo thuốc lá hoặc rượu quá mức tại hải quan, bạn có thể lựa chọn nộp thuế, hoặc để lực lượng hải quan giữ thuốc lá cho đến khi bạn rời khỏi Singapore. Nhập khẩu kẹo cao su phi y tế là bất hợp pháp về mặt pháp lý, nhưng trong thực tế cán bộ hải quan sẽ thường không bận tâm với một vài thanh cho nhu cầu cá nhân. Không có giới hạn về số tiền có thể mang vào hoặc đưa khỏi Singapore. Tuy nhiên, hải quan Singapore đòi hỏi bạn phải khai báo nếu bạn đang mang vào hoặc đưa khỏi bất cứ số tiền nào có giá trị lớn hơn SGD30,000 hoặc tương đương bằng ngoại tệ, và bạn sẽ được yêu cầu hoàn thành một số thủ tục giấy tờ. Văn hóa phẩm khiêu dâm, hàng hóa vi phạm bản quyền và các ấn phẩm của Nhân chứng Jehovah (Jehovah's Witnesses) và Giáo hội Thống nhất (Unification Church) có thể không được mang vào Singapore, và hành lý được quét tại các cửa khẩu trên biển và đất liền. Về lý thuyết, tất cả các phương tiện truyền thông mang tính giải trí bao gồm phim ảnh và băng trò chơi video phải được gửi đến Ban Kiểm duyệt (Board of Censors) phê duyệt trước khi chúng có thể được đưa vào Singapore, nhưng rất hiếm khi điều này được thực hiện cho hàng hóa gốc (không vi phạm bản quyền). Mặt khác, CD hoặc DVD nhập lậu có thể khiến bạn phải chịu phat tiền lên đến $1000 cho mỗi đĩa. Sân bay Changi Changi Airport (IATA: SIN; ICAO: WSSS) là một trong những sân bay lớn nhất Châu Á và thế giới (xem Skytrax). Sân bay có 3 nhà ga chính (T1, T2 và T3). Dùng Taxi là cách nhanh nhất để đến trung tâm thành phố với chi phí khoảng $20–30 bai gồm phí phụ thu sân bay $3–5. Phí phụ thu 50% áp dụng trong khoảng thời gian 00:01-06:00. Bạn cũng có thể sử dụng tàu điện nhanh mất khoảng 30 phút với chi phí $1,90, các chuyến tàu hoạt động từ 05:31 đến 23:18. Sân bay Seletar (IATA: XSP; ICAO: WSSL), được hoàn thành vào năm 1928 và ban đầu dùng cho dân dụng năm 1930, là sân bay đầu tiên của Singapore. Trong khi các sân bay xây dựng sau như Kallang và Paya Lebar đóng cửa và chuyển thành sân bay quân sự, Seletar vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Từ Việt Nam Các hãng bay trực tiếp đến Singapore gồm: Vietnam Airlines; Tiger Airways; Lion Air; Singapore Airlines; Jetstar Asia; SilkAir. Singapore là điểm dừng cuối cùng ở phía nam của tuyến tàu Keretapi Tanah Melayu của Malaysia (Malayan Railway hay KTMB) [2]. Có 2 chuyến tàu ban ngày (the Ekspres Sinaran Pagi và Ekspres Rakyat) và một chuyến tàu đêm (Ekspres Senandung Malam) chạy hàng ngày từ Kuala Lumpur, và cũng có một chuyến tàu ngày (the Lambaian Timur departing Singapore at 04:45) và tàu đêm (Ekspres Timuran departing at 18:00) chạy hàng ngày dọc theo \"Jungle Railway\" giữa Singapore và Gua Musang (Lambian Timur) hoặc Tumpat (Ekspres Timuran), gần Kota Bharu ở Bờ Đông Malaysia. Các chuyến tàu sạch sẽ và khá hiệu quả nhưng chậm hơn buýt. Singapore nối liền với bán đảo Mã Lai qua hai ngã: Causeway là đường thuận tiện nhất và nối bắc Singapore với trung tâm của Johor Bahru. Đường thứ 2 được gọi là Second Link nối giữa Tuas ở tây Singapore với Tanjung Kupang ở phần phía tây của bang Johor. Buýt trực tiếp 2 chiều nối với Malaysia Có nhiều chuyến buýt nối với Kuala Lumpur và các địa điểm khác ở Malaysia qua cửa khẩu Woodlands Checkpoint và Second Link ở Tuas. Tuy nhiên, không có nhà ga buýt trung tâm và các công ty vận tải xuất phát từ nhiều nơi khác nhau trong thành phố. Các tuyến buýt chính gồm: Aeroline, ☎ +65 6258 8800. Buýt hạng sang phục vụ suất ăn trên xe, ổ cắm điện, khu vực phòng chờ, đến Kuala Lumpur và Petaling Jaya. Khởi hàng từ HarbourFront Centre. From $47 one-way. First Coach, ☎ +65 6822 2111. không rườm rà, nhưng các chuyến buýt cốch633 gác chân tốt. Điểm bán vé khác ở máy bán vé công cộng: buýt khởi hàng từ quảng trường Novena (Novena MRT) ở Singapore và đến (KJ 16) Bangsar LRT ở Kuala Lumpur. $33/55 single/return. NiCE, ☎ +65 6256 5755. Có hơn 20 chuyến khởi hành hàng ngày từ nhà ga cũ ở Kuala Lumpur. Các chuyến buýt Double-decker NiCE 2 (27 chỗ) RM80, buýt hạng sang NiCE++ (18 chỗ) RM88. Khởi hành từ Copthorne Orchid Hotel trên đường Dunearn. Transnasional, ☎ +60 2 6294 7034 (Malaysia). Nhà vận hành buýt lớn nhất Malaysia, có các chuyến buýt đi thẳng từ Singapore đến bán Malaysia. Khởi hàng từ đường Lavender St. Executive/economy buses RM80/35. Transtar, ☎ +65 6299 9009. Solitaire được trang bị chỗ ngủ được của Transtar ($63) và ghế bọc da hạng nhất ($49) hiện là loại tốt nhất giống như ghế mas-sa, có tiếp viên, video theo yêu cầu và thậm chí là Wi-Fi. Buýt siêu VIP hơn có giá $25/39, chạy thẳng đến Malacca và Genting. Khởi hành từ Golden Mile Complex, Beach Rd (gần ga Lavender MRT). Các nhà điều hành khác có các dịch vụ chia sẽ cổng bán vé//đặt chỗ. Nhiều chuyến không có phuơng tiện gì cả, sử dụng khu phức hợp mua sắm Golden Mile Complex gần Bugis là bãi đậu ở Singapore. Easibook, ☎ +65 6444 0745. Bus Online Ticket. Đến/Đi từ Johor Bahru Singapore là một trong số ít quốc gia mà bạn có thể đến/đi bằng taxi. Trong khi các hãng taxi thường không được phép qua biên giới vào Malaysia và ngược lại, thì những taxi được cấp phép đặc biệt có thể đến trung tâm mua sắm Kotaraya (duy nhất) có thể được đặt chỗ từ Johor Taxi Service theo số điện thoại ☎ +65 6296 7054, $45 1 chiều), các hãng taxi của Malaysia có thể đón ở đường Rochor Rd ($32 cho nhóm, hoặc $8/người nếu bạn muốn chia tiền với những người khác). Các chuyến phà nối Singapore với các đảo thuộc quần đảo Riau, Indonesia, và bang Johor của Malaysia. Singapore có 5 bến phà có các chuyến đi quốc tế gồm: HarbourFront (trước đây là World Trade Centre) gần Sentosa, Marina Bay Cruise Centre ở Marina Bay, Tanah Merah Ferry Terminal thuộc East Coast, cũng như Changi Ferry Terminal và Changi Point Ferry Terminal, ở tận cùng phía tây của đảo. Đến/Đi từ các bến phà: HarbourFront FT: nằm gần nhà ga MRT HarbourFront. Marina Bay Cruise Centre: Đón buýt đến nhà ga MRT Marina Bay. Tanah Merah FT: Xuống tại nhà ga MRT Bedok và đó buýt số 35 đến bến phà. Changi FT: không có trạm xe buýt nằm gần đó, có thể đón taxi từ Changi Village hay Tanah Merah MRT. Changi Point FT: Đón buýt số 2, 29 hoặc 59 đến Changi Village Bus Terminal và đi bộ đến bến phà. Đi lại ở Singapore rất dễ: hệ thống giao thông công cộng cực kỳ dễ sử dụng và taxi có giá cả hợp lý. Có rất ít du khách thuê ô tô. Gothere.sg là công cụ tốt để bạn có thể chọn tuyến nhanh nhất bằng MRT và buýt và thậm chí là taxi giữa hai điểm bất kỳ trong thành phố. Hướng dẫn đi tàu điện ngầm (trích từ bài viết Kinh nghiem du lich Singapore) MRT của Sing có mấy tuyến cơ bản sau đây: East West (EW) – màu xanh lá North South (NS) – màu đỏ North East (NE) – màu tím Circle (CC) – màu cam Thời gian MRT, các bạn theo web này để xem bản đồ các trạm MRT (trong website này cũng có cả bus): http://smrt.com.sg/Trains/NetworkMap.aspx Time và thông tin chuyến cuối cùng/đầu tiên cho từng trạm: http://www.smrt.com.sg/Trains/Networ...x?stations=all Để đi MRT thuận tiện, bạn cần có bản đồ MRT. Bản đồ này có ở Changi airport. Hoặc vào link trên để download bản đồ. Khi đi MRT cần lưu ý 3 điều: Tên trạm: gồm chữ viết tắt của tên tuyến và số thứ tự của trạm. Ví dụ: tên trạm bạn bắt đầu đi là Little India sẽ được ký hiệu là NE7 và tên trạm bạn kết thúc là Newton sẽ được ký hiệu là NS21. Tên hướng: tên trạm cuối cùng của tuyến sẽ được đặt cho tên hướng. Tên hướng ghi ngay trên cửa lên tàu. Trạm chuyển tuyến (interchange): có 1 số trạm là trạm trung chuyển giữa tuyến màu xanh và màu đỏ, màu đỏ và màu tím, màu tím và màu xanh. Bạn nhìn trên bản đồ sẽ thấy trạm có đường giao nhau giữa các tuyến. Cách mua vé: Bạn phải tự mua vé ở máy bán vé tự động. Máy tự động chấp nhận tất cả các loại tiền xu, còn tiền giấy thì giá trị cao nhất là tờ S$10. Nếu trong túi bạn toàn tiền S$50 thì bạn hãy liên hệ quầy Passenger Service để đổi tiền lẻ. Thẻ đi MRT là thẻ nhựa, sau khi có thẻ bạn chỉ cần quẹt vào chỗ barrier (khe quẹt thẻ ở cửa) thì cửa xe sẽ mở để bạn đi qua. Bạn xem bảng hướng dẫn để tìm đúng chuyến tàu của bạn và lên tàu. Bạn nhớ giữ vé để quẹt thẻ khi đi ra. (Nếu làm mất thì bạn sẽ không ra khỏi trạm được) Đồng thời giữ vé để trả lại và nhận lại tiền. Mỗi vé sẽ được trả lại S$1. Bạn trả lại vé tại máy mua vé tự động và nhận lại tiền của mình. Thay vì quy định tuổi tác của trẻ em để miễn vé (phải có giấy chứng minh phiền phức), nhiều nơi và dịch vụ ở Singapore áp dụng chế độ miễn vé theo chiều cao. Lời khuyên tốt nhất, qua đó việc đầu tiên là đi mua liền cái thẻ Elinkcard – Thẻ này link khắp nơi. Thẻ EZ-Link là phương thức thanh toán thông dụng nhất của người sử dụng xe buýt và tàu điện ngầm (MRT) ở Singapore, với chi phí khá rẻ và tiết kiệm cho người sử dụng. Bạn có thể xem thêm một số Kinh nghiệm du lịch về Singapore tại đây Singapore có ngôn ngữ đại diện cho từng dân tộc trong số bốn nhóm dân tộc chính của mình [3]. Bốn ngôn ngữ chính thức trong Hiến pháp của Singapore là tiếng Anh, tiếng Hoa, tiếng Mã Lai và tiếng Tamil. Tuy nhiên, để ghi nhớ dân tộc Mã Lai là những cư dân bản địa đầu tiên của đất nước, ngôn ngữ quốc gia được chọn là tiếng Bahasa Melayu, hay còn gọi là tiếng Mã Lai. Sự có mặt của các ngôn ngữ khác, đặc biệt là các biến thể của tiếng Mã Lai và tiếng Hoa, đã có ảnh hưởng rõ rệt đến cách dùng tiếng Anh tại Singapore. Ảnh hưởng này đặc biệt rõ nét trong cách sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp thông thường, một dạng tiếng Anh lai tiếng địa phương thường được biết đến với tên gọi Singlish. Là một dấu hiệu đặc trưng để nhận biết người Singapore, ngôn ngữ này tiêu biểu cho hình thức biến tấu ngôn ngữ bằng cách lồng ghép các từ của tiếng Mã Lai, tiếng Hoa và tiếng Ấn vào tiếng Anh. Các loại tiền tệ Singapore là 'đô la Singapore, viết tắt là 'SGD, 'S $ hay chỉ là '$ (như sử dụng trong hướng dẫn này), được chia thành 100 xu. Có tiền là 0.05 đô la (vàng), $ 0,10 (bạc), $ 0,20 (bạc), $ 0,50 (bạc) và $ 1 (vàng), cộng với tiền trị giá 2$ (màu tím), 5$ (màu xanh lá cây), $ 10 (màu đỏ), $ 50 (màu xanh), $ 100 (màu cam), $ 1000 (màu tím) và 10.000 $ (vàng). Đô la Brunei được cố định ở mức ngang bằng với đồng đô la Singapore và hai đồng tiền có thể được sử dụng thay thế cho nhau trong cả nước, do đó, không quá ngạc nhiên nếu bạn nhận được một lưu ý Brunei như thay đổi. Bạn có thể giả định rằng các dấu hiệu '$' được dùng trong đảo quốc gia đề cập đến SGD trừ khi nó bao gồm chữ cái đầu khác (ví dụ như Mỹ hoặc $ USD dùng cho đô la Mỹ). Nhà hàng thường được hiển thị như giá 19,99 $ + +, có nghĩa là phí dịch vụ (10%) và thuế bán hàng (7%) chưa được tính vào và sẽ được thêm vào hóa đơn của bạn. Khi bạn nhìn thấy NETT, nó có nghĩa là nó bao gồm tất cả các loại thuế và phí dịch vụ. 'Tiền boa' nói chung là không phổ biến tại Singapore, và được chính thức tán thành bởi các chính phủ, mặc dù phục vụ có khoảng 2$ hoặc hơn. Taxi thường sẽ thối tiền cho bạn đến đồng xu cuối cùng, hoặc tròn có lợi cho bạn. Máy ATM có phổ biến tại Singapore vàthẻ tín dụng được chấp nhận rộng rãi (mặc dù một số cửa hàng có thể thu phụ phí 3%, và taxi thu nhiều hơn đến 15%). Séc nói chung là không được các nhà bán lẻ chấp nhận, nhưng có thể được tiền mặt tại hầu hết các gian hàng trao đổi. Các thẻ eZ-Link và Nets flash được chấp nhận ở một số cửa hàng tiện lợi và chuỗi thức ăn nhanh. Gian hàng 'đổi tiền' có thể được tìm thấy trong tất cả các trung tâm mua sắm và thường cung cấp mức giá tốt hơn, giờ mở cửa tốt hơn và dịch vụ nhanh hơn nhiều so với các ngân hàng. Khu vực rất lớn hoạt động 24 giờ tại Mustafa trong Tiểu Ấn chấp nhận hầu hết các tiền tệ ở mức giá rất tốt, cũng như các cửa hàng nhỏ cạnh tranh khốc liệt tại Change Alley gần Raffles Place MRT. Đối với số lượng lớn, yêu cầu báo giá, vì nó thường sẽ giúp bạn có được tốc độ tốt hơn so với hiển thị trên diễn đàn. Giá tại sân bay là không tốt như trong thành phố, và trong khi nhiều cửa hàng chấp nhận ngoại tệ lớn, giá của chúng thường là khủng khiếp. Lãnh sự quán Việt Nam, 10 Leedon Park, ☎ +65 64625938, +65 64625994 (lãnh sự).",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Quần đảo Natuna",
"role": "user"
},
{
"content": "Quần đảo Natuna (Natuna Regency) là một quần đảo gồm 272 hòn đảo, tạo thành một phần của tỉnh đảo Riau, Indonesia. Các hòn đảo nằm ở Biển Đông, nằm giữa Bờ Đông của bán đảo Malaysia và đảo Borneo. Bản mẫu:Listing Có một cảng chính ở Selat Lampa, phía nam Pulalu Bunguran, hòn đảo chính, nơi Pelni Bukit Raya dừng giữa Jakarta đến Pontianak gần như cứ sau 15 ngày. Ngoài ra còn có Sabuk và Perentis, phục vụ nhiều nơi khác nhau trong quần đảo. Từ Selat Lampa, ở bến cảng chính, bạn có thể đi thuyền nhỏ đến Pulau Sabang Mawang; Pulau Kumbik; Pulau Sedanau với giá 15.000-20.000 Rp, nơi bạn có thể ở trong một nhà khách đơn giản. Chuyến đi mất nửa giờ. Ở Pulau Bunguran, có xe chia sẻ, 1 giờ. Tại Ranai, bạn có thể nhận được một văn phòng nhập cư, nơi có thể gia hạn visa ypur. Không có phương tiện giao thông công cộng trên đảo, nhưng có thể thuê một chiếc xe đạp ở Ranai. Ranai có rất nhiều khách sạn. Nhà khách Mira là rẻ nhất, 50.000 Rp cho một phòng đôi đơn giản có quạt và phòng tắm. Pulau Sabang Mawang: Từ Selat Lampa, bạn có thể yêu cầu thả tại Sabang Mawang Balai, nơi có Abdul Ghafur Home Stay, (Rp50.000, 2017), một gia đình ấm áp, không có người nói tiếng Anh. Ở Sabang Mawang Barat, có một khách sạn với giá 50.000 Rp. Pulau Kumbik có hai khách sạn, khách sạn Raimbow (Rp50.000, 2017), trên bến cảng, cách đó vài mét.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Port Said",
"role": "user"
},
{
"content": "Port Said là thành phố thứ ba của Ai Cập, có một di sản quốc tế, giáp với Địa Trung Hải, nơi có ngọn hải đăng Port Said Port Said là thành phố ở Đông Bắc Ai Cập và là tỉnh lỵ của tỉnh Port Said. Đây là một thành phố cảng bên bờ Địa Trung Hải, tại lối và Kênh đào Suez. Thành phố nằm trên một vùng cát kẹp giữa Địa Trung Hải và Hồ Manzilah. Các ngành nghề chính của thành phố này gồm có: đánh bắt thủy sản, sản xuất hóa chất, chế biến thực phẩm và thuốc lá. Thành phố này cũng có ngành thương mại dựa trên cảng của mình như: buôn bán gạo và bông, kinh doanh xăng dầu phụ vụ cho tàu biển đi qua Kênh đào Suez. Thành phố Port Said cũng là một nơi nghỉ mát mùa Hè. Port Said được thành lập năm 1859, khi người ta bắt đầu tiến hành đào Kênh đào Suez.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Öland",
"role": "user"
},
{
"content": "Öland là hòn đảo lớn thứ hai Thụy Điển, sau Gotland. Nó nằm trong biển Baltic ngoài khơi bờ biển Småland, nối với đất liền bằng một cây cầu từ Kalmar. Borgholm Färjestaden Mörbylånga Öland là khá thưa thớt dân cư, với hầu hết phần đất bao gồm đất nông nghiệp hoặc trong khu rừng phía bắc. Trong khi tiếng Anh được biết đến rộng rãi bởi hầu hết người Thụy Điển, trình độ tiếng Anh nói ở nông thôn (bao gồm cả Öland) đáng chú ý là thấp hơn, ví dụ, trình độ tiếng Anh của cư dân ở Stockholm. Hầu hết các dấu hiệu thông tin du lịch ghi bằng tiếng Thụy Điển, tiếng Anh, tiếng Đức và trong trường hợp hiếm hoi của tiếng Hà Lan và / hoặc tiếng Pháp. Bạn đến đây bằng xe hơi hoặc xe buýt từ Kalmar qua cầu Ölandsbron. Giao thông bị hạn chế. Không có đường sắt trên Öland. và các tuyến xe buýt và xe buýt khởi hành rất ít, ngay cả khi tình hình trở nên tốt hơn rất nhiều trong mùa du lịch từ đầu tháng Sáu đến giữa tháng Tám. Đi xe bus, tuy nhiên, vẫn là cách thuận tiện nhất để có được xung quanh trên đảo, vì chúng bao gồm hầu hết các đảo và có thể giúp bạn đi xe đạp trong khoảng cách các điểm tham quan thú vị và những bãi biển đẹp. Nên mang theo một chiếc xe đạp, và thuận lợi là hành khách được phép mang xe đạp trên những chiếc xe buýt. Đó cũng là cách tốt nhất để trải nghiệm những cảnh quan độc đáo của Öland. Có những con đường mòn đi xe đạp rất đẹp dọc theo bờ biển dài Öland. Xe buýt là rất ít, và thậm chí không đi gần nhiều địa điểm thú vị. Öland là tuy nhiên rất chiếc xe đạp thân thiện với nhiều đường nhỏ rất thích hợp cho đi xe đạp và không đồi để nói chuyện. Lâu đài Borgholm (Borgholms slott). (hay đúng hơn là một phế tích, vì nó bị đốt cháy trong thế kỷ 19). Nó không mở cửa quanh năm, nhưng bạn luôn có thể chiêm ngưỡng nó từ xa. Cảnh quan nông nghiệp miền Nam (Alvaret) của Öland là một di sản thế giới UNESCO. Đó là một cảnh quan độc đáo với các loài quý hiếm và bằng chứng về các khu định cư của con người từ thời tiền sử. Nơi này thường được liệt kê như là một trong những-phải nhìn thấy ở Thụy Điển bởi Thụy Điển, cũng như quốc tế, tạp chí du lịch. Các biệt thự trong Borgholm có rất nhiều nhân vật, và đó là thay vì giải trí để đi bộ xung quanh và nhìn vào chúng. Solliden là nơi nghỉ hè của Hoàng gia với khu vườn xinh đẹp của nó. Bảo tàng Vida trưng bày các tác phẩm của những người khác Bertil và Ulrika Wallien và Ulf Trotzig Eketorp một pháo đài cũ bắt nguồn từ thời trung cổ với các hoạt động cho trẻ em Boda Sand một bãi biển cát trắng tuyệt đẹp trên rất phía bắc của đảo. Để đạt được điều đó bạn đi bộ qua một khu rừng mê hoặc gọi là rừng của Trolls (Trollskogen). Các kiến tạo đá, được gọi là raukar, trên bãi biển Byerum đẹp. Những hình được tạo ra bởi sự mài mòn tự nhiên qua hàng ngàn năm. Nếu bạn muốn nhìn thấy nhiều hơn các 'raukar' mà chúng trên thực tế thậm chí còn phong phú hơn trên hòn đảo lớn nhất của Thụy Điển, Gotland. Các mũi Bắc của hòn đảo, với ngọn hải đăng của nó (Lange Erik), bảo tồn thiên nhiên và 'lĩnh vực của Hải vương tinh' (Neptuni Angar) Những mẹo phía Nam của hòn đảo, với ngọn hải đăng của nó (Lange Jan) và sân chim / trung tâm (Ottenby Fågelstation). Cảnh quan phía nam của Mörbylånga, mà nay cũng là một di sản thế giới của UNESCO. Hồ duy nhất trên Öland, Hornsjön",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Sakhalin",
"role": "user"
},
{
"content": "Sakhalin (tiếng Nga: Сахали́н, suh-khah-LEEN), ban đầu được người Nhật gọi là Karafuto (樺太, kah-rah-foo-toh), là một hòn đảo lớn và rất thưa thớt dân cư. Đây cũng là trung tâm của cuộc tranh giành quyền lực lâu dài giữa Liên Xô/Nga và Nhật Bản để giành quyền kiểm soát các trữ lượng dầu khí lớn của mình. Sakhalin có cảnh quan rất đẹp, mặc dù ngành du lịch tại đây chưa phát triển. Tuy nhiên, thức ăn ngon và khách sạn phục vụ người nước ngoài luôn có sẵn trên đảo. 46.966667Yuzhno-Sakhalinsk1 Yuzhno-Sakhalinsk (Ю́жно-Сахали́нск) – tỉnh lỵ và thành phố lớn nhất của Sakhalin 50.9Alexandrovsk-Sakhalinsky2 Alexandrovsk-Sakhalinsky (Алекса́ндровск-Сахали́нский) – nhà văn nổi tiếng Anton Chekhov đã ghé thăm nơi này 47.05Kholmsk3 Kholmsk (Холмск) – Cảng phía tây Sakhalin 46.633333Korsakov4 Korsakov (Корса́ков) – Cảng phía nam Sakhalin 51.8125Nogliki5 Nogliki (Ноглики) – Một thành phố dầu khí ở đầu phía bắc của tuyến đường sắt 53.583333Okha6 Okha (Оха́) – thị trấn cực bắc của đảo Sakhalin, đồng thời là trung tâm dầu mỏ đang phát triển mạnh Sakhalin là nơi sinh sống của một số bộ lạc bản địa kể từ thời kỳ đồ đá. Người Ainu (cũng có mặt trên Hokkaido, Nhật Bản) cư trú ở nửa phía nam của hòn đảo. Sau khi Thế chiến thứ II kết thúc, nhiều người đã hồi hương về nước Nhật. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Sakhalin đã trải qua một thời kỳ bùng nổ dầu mỏ. Khi đó, nhiều công ty dầu khí của Nga và nước ngoài đổ vào hòn đảo nhằm đóng góp cho cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên các đường ống dẫn và khai thác gỗ là mối đe dọa đáng kể đối với thiên nhiên kỳ vĩ của vùng đất này. Đã có những lời phàn nàn rằng sự bùng nổ dầu mỏ sẽ không mang lại nhiều lợi ích cho người dân trên đảo. Cũng như những nơi khác ở Nga, tiếng Nga là ngôn ngữ chính thức. Có khoảng 30.000 người Hàn định cư trên đảo, mặc dù nhiều người không nói được tiếng Hàn. Thủ phủ Yuzhno-Sakhalinsk là nơi cư trú của một nhóm thiểu số khá lớn người Azerbaijan, trong đó có nhiều tài xế taxi. Nhân viên trong các khách sạn và nhà hàng hạng sang trong thành phố cũng có thể hiểu được tiếng Nhật vì nơi này nằm gần Nhật Bản. Mặc dù Joseph Stalin từng cố gắng xây dựng một đường hầm dưới eo biển Tartar để đến Sakhalin, kế hoạch này đã sớm bị bỏ dở sau khi vài cây số được hoàn thiện. Nhà nước vẫn có ý định hoàn thành công trình này nhưng thiếu hụt ngân sách, vì vậy các lựa chọn duy nhất đển đến Sakhalin là đi thuyền hoặc lên máy bay. Yuzhno-Sakhalinsk là trung tâm chính của tất cả các phương tiện giao thông. Xe buýt, xe buýt nhỏ thuê bao và xe lửa đều khởi hành từ nhà ga ở trung tâm thành phố, Nga đi Nhật Bản qua Sakhalin. Sakhalin được kết nối với đảo Hokkaido, Nhật Bản bằng một chuyến phà vào mùa hè (2 lần/tuần) - bài viết về hành trình này cho bạn biết cách đến đó. Sakhalin có rất nhiều cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp để khám phá. Tuy nhiên, việc thám hiểm vùng hoang dã của Sakhalin đòi hỏi sự kiên nhẫn, những kế hoạch cẩn thận và mức độ chu đáo. Một giải pháp thay thế dễ dàng hơn là tìm kiếm sự hỗ trợ của một nhà điều hành tour du lịch địa phương. Yuzhno-Sakhalin có các món ăn Hàn Quốc rất ngon bao gồm tteokbokki, bulgogi và tất nhiên là kimchi. Nhà máy bia Kolos ở Yuzhno-Sakhalinsk sản xuất một số loại bia tuyệt vời, đặc biệt là Bir Rinzo và Pivzavod Sahalinskij. Khuôn viên nhà máy bia nằm trên đường Sakhalinskaya, Yuzhno-Sakhalinsk. Hầu hết mọi đô thị lớn trên đảo đều có một nhà máy bia địa phương. Cà phê, sinh tố trái cây, đồ uống có ga và nước tinh khiết cũng được phục vụ trong nhiều nhà hàng và quán bar của Sakhalin. Nhìn chung Sakhalin là một nơi khá an toàn. Tuy nhiên, thủ phủ Yuzhno có tỷ lệ tội phạm vị thành niên cao nhất trong toàn liên bang. Phần lớn Sakhalin là nơi hoang dã thực sự, cách xa cơ sở y tế hoặc khu đô thị gần nhất. Nhiệt độ tại các vùng lãnh nguyên phía bắc có thể giảm cực nhanh trong mùa hè, đặc biệt là khi mặt trời lặn. Nhưng ngay cả sự thay đổi hướng gió cũng có thể khiến bạn rùng mình đột ngột, hoặc tệ hơn nhiều. Nếu bạn cần chăm sóc y tế, hãy đến Yuzhno-Sakhalinsk vì thành phố có rất nhiều cơ sở y tế. Trong trường hợp khẩn cấp, các nhà máy chế biến dầu ở Nogliki và Okha là những lựa chọn tốt nhất cho bạn. Họ có thể không được thân thiện cho lắm, nhưng họ đã quen giao dịch với nhân viên nước ngoài và có khả năng chở khách bằng máy bay. Tiền mặt luôn cần thiết, nhưng giấy chứng nhận bảo hiểm y tế/du lịch cũng sẽ rất hữu ích. Quần đảo Kuril — Bạn có thể đến đây bằng cách lên máy bay hoặc phà đến đảo Kunashir, trong chuỗi đảo Kuril (2 lần/tháng). Đây là một trong những môi trường sống tự nhiên độc đáo nhất thế giới, bao gồm các loài sinh vật có nguồn gốc từ Nhật Bản. Dù vậy, nhiều loài đã tuyệt chủng do các hoạt động công nghiệp của con người. Nhật Bản — Với dịch vụ phà theo mùa đến Wakkanai ở Nhật Bản, Sakhalin là một điểm trung chuyển tốt cho các hành trình trên Đường sắt Xuyên Siberia. Bài Nga đi Nhật Bản qua Sakhalin có các thông tin chi tiết. Vùng Khabarovsk — Vùng này có đường bở biển dài khoảng 2000 km dọc theo Thái Bình Dương, đồng thời được biết đến với những khu bảo tồn thiên nhiên. Thành phố Khabarovsk có rất nhiều bảo tàng và một nhà thờ lớn, nơi du khách có thể chiêm ngưỡng kiến trúc truyền thống. Bán đảo Kamchatka có rất nhiều điểm tham quan tự nhiên, chẳng hạn như núi lửa và hồ axit. Vùng này cũng mang sự phong phú của động vật hoang dã Bắc Cực, cá, các trò chơi dân gian và sinh vật biển.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Dortmund",
"role": "user"
},
{
"content": "Dortmund (tiếng La tinh: Tremonia) là một thành phố nằm về phía đông của vùng Ruhr. Dortmund là thành phố lớn nhất cũng như là trung tâm kinh tế và thương mại của Westfalen. Tùy theo thời điểm thống kê và nguồn, thành phố đứng hàng từ thứ sáu đến thứ tám trong số các thành phố lớn nhất Đức. Dortmund phát triển từ một thành phố công nghiệp trở thành một nơi của công nghệ cao trong bang Nordrhein-Westfalen: được biết đến trước kia đạc biệt là qua thép, than đá và bia cũng như qua câu lạc bộ bóng đá Borussia Dortmund, việc biến đổi từ công nghiệp nặng qua dịch vụ và nghiên cứu cho đến công nghệ cao đã hoàn tất. Mặc dầu vậy thành phố vẫn còn có một trong những tỷ lệ thất nghiệp cao nhất trong miền tây nước Đức. Dortmund là trọng điểm giao thông quan trọng nhất về phía đông của vùng Ruhr và là điểm thu hút cho vùng phù cận chịu nhiều ảnh hưởng nông thôn. Từ khi vượt qua ngưỡng 100.000 người dân vào năm 1895, Dortmund là một thành phố lớn. Biểu tượng của thành phố là Nhà thờ thánh Reinoldus, Chữ U Dortmund, Tháp Florian cũng như là Sân vận động Westfalen, Công viên Westfalen và Hội trường Westfalen (Westfalenhallen). Sân bay Dortmund (DTM) [1] là sân bay nhà của một số hãng hàng không chi phí thấp (easyJet, Wizzair, Air Berlin) và phục vụ khách du lịch chủ yếu là các quốc gia và châu Âu. Không có đào tạo trực tiếp hoặc kết nối xe điện đến sân bay, nhưng có xe buýt con thoi giữa các sân bay và nhà ga trung tâm Dortmund hoặc nhà ga Holzwickede. Đến và đi Nhà ga trung tâm: Xe buýt đưa đón có thể được tìm thấy đối diện với ga xe lửa chính. Cuộc hành trình kéo dài 25 - 30 phút và chi phí 6,5 € cho mỗi hành khách (6-14 trẻ em 2 €; trẻ em miễn phí). Dịch vụ xe buýt này không bao gồm trong một thẻ du lịch. Thông qua Aplerbeck Các 440 xe buýt đi Aplerbeck quá khứ, nơi hành khách có thể thay đổi để U-bahn U47 mà sẽ đi đến Hbf thông qua chính U-bahn trung tâm, Stadtgarten. Cuộc hành trình là khoảng 45min. Giá vé là 2.50 hoặc travelcard có thể được sử dụng. Dịch vụ này chạy thường xuyên hơn so với xe buýt đưa đón. Từ nhà ga Holzwickede: Một tuyến xe buýt (€ 3/passenger), chạy thường xuyên về mỗi 15 phút 5:00-23:00 Chuyến đi đến nhà ga mất khoảng. 5 phút. Bằng taxi: hiện có giá khoảng 25 Euro cho chuyến đi đến Trung tâm Thành phố. Phải kiểm tra đồng hồ trên xe, nếu không có thì đón một xe taxi khác nhau! Xem truyền hình tháp Florian. Hãy đi xe trên H-Bahn. Sở thú Dortmund, Mergelteichstr. 80, 49 0231 / 50-28.581 Rosarium ( Deutsches Rosarium VDR), Westfalenpark - An der Buschmühle 3, Tel. ' +49-231- 50-26.100 hoặc -26.116, Fax' +49-231- 5.026.111. Rosarium này có một bộ sưu tập của hơn 3000 loài hoa hồng. Hohensyburg là điểm đến được ưa thích ở phía nam của Dortmund, tàn tích của Syburg (năm 1100) tháp Vincke và một tầm nhìn đẹp hơn thung lũng Ruhr từ tưởng niệm Kaiser-Wilhelm (cuối thế kỷ 19) Reinoldikirche Marienkirche Giáo Hội tại thành phố Dortmund nastraj, Leopoldstr., [0] 231 / 4862 Eiskaffee Roma, Neugasse, [0] 231 / 4863 Mykonos, Schönstr., [0] 231 / 17195 Hellas7, Alte Gasse, [0] 231 / 4127 Zum Goldenen Anker, Lorchheimer-Str, [0] 231 / 22734 Bacchus, Ringstr., [0] 231 / 24687 Dilo, Eichenweg, [0] 231 / 29018 Drei Groschen Keller, Allers Weg, [0] 231 / 15318 Vetter, Promenadeplatz, [0] 231 / 7732 Schneider, Breisacherstr., [0] 231 / 22514 Golden Tweenis, Tiergarten, [0] 231 / 23785 Brinkhoff, Leisberg, [0] 231 / 72 Pamukkale Grill, Luisenstr. 36/Dudenstr., [0] 231 / 163324 Phía Nam thành phố, trên đường đi Westfalenhalle Dortmund City Hotel, Silberstraße 37-43 44137 Dortmund, ☎ 02 31 477966NOCC. Trả phòng: 11:00. Khách sạn và nhân viên rất dễ chịu. Cực kỳ đẹp mắt và phòng trung tâm. Hostel Ruhgebiet [2], ký túc xá 8 giường ký túc xá giá từ 17 €, nằm ở Kreuzviertel, một trong những khu vực sôi động nhất của Dortmund với nhiều quán bar và nhà hàng NH Dortmund, Königswall, 1. D-44137 Dortmund, ☎ +49.231.90550FORMAT. 4 sao ở trung tâm thành phố, có 190 phòng. Rooms from 63€. Stadthotel Drees [3], 4 sao, nhân viên thân thiện, giá cả phải chăng, gần Westfalenhallen, Westfalenstadion và Thành phố Mercure Grand Hotel Dortmund An Den Westfalenhallen [4] (Lindemannstraße 88, 44137 Dortmund, (+49)231/91130) Khách sạn 4 sao này nằm phía Nam của trung tâm (khoảng 20 phút đi bộ, hoặc khoảng 8 € trong một xe taxi) nhưng rất tiện dụng (đi bộ chưa đầy 5 phút) đến Westfalenhallen (Trung tâm Triển lãm) và sân vận động bóng đá. Mercure Hotel Dortmund City [5] (Kampstraße 35-37, 44137 Dortmund, (49) 231 / 58.970) khách sạn 3 sao này nằm ở trung tâm của thành phố, chưa đầy 5 phút từ nhà ga chính và một vài phút từ phố mua sắm chính. Ibis Dortmund [6] (Märkische Straße 73, 44.141 Dortmund) Ibis này là phía Nam của trung tâm, khoảng 15 phút đi bộ. Nó chỉ là 1 km từ Westfalenhallen và sân vận động bóng đá. Savoy Hotel, Haupstr, [0] 231 / 1367 Kaiserhof, Neugasse, [0] 231 / 15451 Carlton Hotel, Kumlbacher Str., [0] 231 / 10855 Hotel President, Jahnstr., [0] 231 / 24690 Quality Hotel, Schönfeldstrasse, [0] 231 / 24706 Colour Hotel, Alter markt, [0] 231 / 2784 Colour Hotel, Kaulbachstrasse, [0] 231 / 18698 Concord, Pfaffengrund, [0] 231 / 18897 Hotel Union, Nymphenburgerstr., [0] 231 / 29998",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Idaho",
"role": "user"
},
{
"content": "Idaho là một tiểu bang Hoa Kỳ. Boise - thủ phủ Idaho và thành phố lớn nhất, Boise tập trung vào nghệ thuật công cộng và di sản. Nó có quy ước đô thị trong khi duy trì một cảm giác thị trấn nhỏ. Ở Boise, các công ty công nghệ cao, bao gồm Micron, sử dụng nhiều của những người làm việc trong khu vực. Có rất nhiều đài tưởng niệm, một trung tâm phát hiện, bảo tàng nghệ thuật và một trung tâm thành phố sôi động. Ngoài ra còn có một số ít các rạp chiếu phim, nhà hát Morrison Trung tâm và một sân trượt băng. Một sân bay địa phương và các khách sạn khác nhau, thuộc sở hữu của địa phương và quốc gia, sẽ làm cho nó dễ dàng để có kế hoạch một chuyến đi đó. Coeur d'Alene - Một thành phố Bắc Idaho nép mình trong dãy núi với hồ giải trí tuyệt vời. Idaho Falls - Trung tâm thương mại và nông nghiệp của Đông Idaho, nhà của Idaho Kỹ thuật Quốc gia Labs Moscow - Nơi có Đại học Idaho, kết hợp nông nghiệp và làng đại học Shelley - Nơi có lễ kỷ niệm Ngày khoai tây Stanley Gần dãy núi Sawtooth cung cấp rất nhiều hoạt động ngoài trời, bao gồm cả quý khách đến thăm hồ cá màu đỏ được đặt trực tiếp bên dưới Sawtooths. Twin Falls - thành phố lớn trẻ Idaho và là trung tâm của khu vực Nam Trung bộ Idaho. Pocatello - thị trấn miền Nam Idaho. Nơi có Đại học bang Idaho Sandpoint - Địa điểm trượt tuyết lớn và hồ tuyệt vời",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Dakar",
"role": "user"
},
{
"content": "Dakar là thủ đô của Senegal. Dakar là thành phố phía Tây Senegal tọa lạc trên mũi của Bán đảo Vert (điểm cực Tây của lục địa Châu Phi), nằm bên bờ Đại Tây Dương. Đây là thành phố lớn nhất và là thủ đô của quốc gia này. Cảng Dakar, một trong những cảng tốt nhất ở Tây Phi, được trang bị các trang thiết bị bốc dỡ hàng hiện đại có các nhà kho, trạm xăng cho tàu bè và các cầu cảng. Vị trí chiến lược của thành phố nằm giữa châu Âu và Nam Phi và giữa châu Âu và Nam Mỹ đã khiến cho nó thành một trung tâm hàng hải và hàng không quan trọng. Là một trung tâm đường bộ và đường sắt của Senegal, Dakar cũng được kết nối với các thành phố quan trọng Châu Phichâu Phi khác bằng đường sắt và đường hàng không.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Vườn quốc gia Vatnajökull",
"role": "user"
},
{
"content": "Vườn quốc gia Vatnajökull là một vườn quốc gia ở Iceland là vườn quốc gia lớn nhất châu Âu. Vườn quốc gia này được thành lập vào ngày 07 tháng Sáu năm 2008 và bao gồm các vườn quốc gia cũ là vườn quốc gia Skaftafell và vườn quốc gia Jökulsárgljúfur. Diện tích 12.000 km2, vườn quốc gia này chiếm diện tích khoảng 12% bề mặt của Iceland. Công viên là nơi có ngọn núi cao nhất của Iceland (Hvannadalshnúkur), sông băng lớn nhất (Vatnajökull), và thác nước mạnh nhất châu Âu (Dettifoss). Vườn quốc gia này nằm ở phía tây của Vatnajökull - sông băng lớn nhất châu Âu. Skaftafell là tên của ngọn đồi chạy dọc theo một trong những sông băng và ngón tay giữa những ngọn núi. Có một trung tâm du khách (mở đến tận 4:00) và khu cắm trại (giữa mở tháng) với đầy đủ tiện nghi và truy cập cho người khuyết tật. Vườn quốc gia này có thác nước Dettifoss cũng đứng đầu châu Âu về lượng nước xả (trung bình khoảng 193 mét khối mỗi giây). Lượng nước xả của nó luôn tăng, đặc biệt vào những lúc thời thiết hoặc hoạt động núi lửa làm tan chảy sông băng Vatnajokull. Luôn đi kèm với thác Dettifoss là hai thác nước lớn khác: Selfoss (cách chỉ vài kilomet về phía nam), và Hafragilsfoss (cách vài kilomet về phía bắc). Từ hai bên bờ sông Jokulsa đều có thể dẫn đến vị trí các thác nước, tuy nhiên, khách du lịch cần phải rất cẩn thận khi đi bộ trên địa hình trơn trượt và ghồ ghề nơi đây. Ở bờ tây, các trang thiết bị không có gì và tầm nhìn bị che khuất bởi bụi nước. Ở bờ phía đông, có một bảng thông tin được nhóm nhân viên ở vườn quốc gia Vatnajökull bảo trì, và đây cũng là nơi có tầm nhìn đẹp nhất.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Goa",
"role": "user"
},
{
"content": "Goa (tiếng Konkani: गोंय goṃya; tiếng Marathi: गोवा govā; tiếng Bồ Đào Nha: Goa) là bang nhỏ nhất Ấn Độ về mặt diện tích và là bang nhỏ thứ 4 về dân số. Bang nay nằm ở bờ biển phía tây của Ấn Độ ở vùng có tên gọi là Konkan, Goa giáp bangMaharashtra về phía bắc, Karnataka về phía đông và biển Ả Rập tạo thành bờ biển phía tây của nó. Panaji (Panjim) là thủ phủ bang, Vasco-da-Gama (Vasco) là thành phố lớn nhất còng thành phố lịch sử Margao vẫn phô bày ảnh hưởng của văn hóa Bồ Đào Nha. Những nhà buôn người Bồ Đào Nha đã lần đầu đến đây vào thế kỷ 15 và đã sớm thôn tín nó ngay sau đó. Chế độ thực dân Bồ Đào Nha đã tồn tại trong 450 năm (một trong những chốn thuộc địa bị chiếm đóng lâu nhất thế giới), cho đến khi nó được Ấn Độ tiếp quản năm 1961. [3][4] Nổi tiếng nhờ những bãi biển, Goa có hàng trăm ngàn du khách quốc tế và nội địa đến tham quan mỗi năm. Goa cũng nổi tiếng có có ngôi đền và kiến trúc di sản thế giới bao gồm Basilica of Bom Jesus ở Goa Cổ, khiến nó là một trong những địa điểm hành hương Thiên Chúa giáo lớn nhất thế giới ở châu Á. [cần dẫn nguồn] Goa cũng phong phú về hệ thực vật và hệ động vật, nhờ vị trí của nó gần dãy núi Tây Ghats, được xếp loại là một biodiversity hotspot. Panaji - Panjim, cũng được gọi một Ponn'je trong Konkani, và trước đó được gọi là Pangim và Nova Goa trong thời kỳ cai trị của Bồ Đào Nha) - thủ phủ bang. Margao - Là trung tâm thương mại và văn hóa của Goa, Margao thành phố đông dân và sâm uất thứ nhì ở Goa. Vasco da Gama - Đó là một trong những thành phố đông dân cư nằm ở huyện phía nam Goa của Marmagoa Taluka. Vasco Da Gama là 30 km từ Panaji, thủ đô của Goa. Old Goa - Đây là nơi có của nhà thờ, tu viện và đài kỷ niệm thế kỷ thứ mười sáu. Mapusa - Thị trấn này nằm ở Bắc Goa và khoảng 13 Km từ Panji. Mapusa là một trong những trung tâm thị trường quan trọng ở Goa. Goa cũng có một số lượng thị xã nhỏ hơn, quyến rũ và đôi khi đông đúc như dọc theo vành đai bãi biển (Calangute, Candolim), và trong nội địa (Chaudi trong Canacona, Sanvordem-Quepem, Bicholim, thị trấn Pernem, vv). Một số trong số này là cửa ngõ đến các khu vực du lịch gần đó. Ngoài ra, Goa có gần 350 làng, thường có cảnh đẹp.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Solon",
"role": "user"
},
{
"content": "Solon (638-559 TCN) là một trong bảy nhà hiền triết thời Cổ đại, nhà thơ, người làm luật xuất thân từ Athena. Sinh ra trong một dòng họ rất quý phái, nhưng sống như người công dân có mức sống vừa phải. Được người dân Athena bầu làm Quan chấp chính và giao cho những thẩm quyền rất lớn để thiết lập một chế độ nhà nước mới. Chúng ta có thể biết được các luật pháp khi đó được thông qua nhờ những bài thơ của bản thân ông. Ai làm cho nhiều người sợ hãi, thì kẻ đó cũng sợ hãi nhiều người. Wikipedia có bài viết về: Solon Bài viết này còn sơ khai.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "La Paz",
"role": "user"
},
{
"content": "La Paz là một thành phố thuộc Bolivia. La Paz là thủ đô hành chính của Bolivia, cùng là lỵ sở phân bộ La Paz. Theo thống kê năm 2001, dân số thành phố cùng vùng phụ cận (thị trấn El Alto và Viacha) là khoảng hơn 1 triệu. La Paz được xây dựng trong một hẻm núi tạo ra bởi sông Choqueyapu (Hiện nay khu vực hẻm núi đã được xây dựng hết), chạy về phía tây bắc về phía đông nam. Đường chính của thành phố, chạy theo dòng sông, thay đổi tên trên chiều dài của nó, nhưng đoạn qua trung tâm có hàng cây qua lõi trung tâm thành phố được gọi là Prado. Địa lý La Paz, đặc biệt là độ cao, phản ánh xã hội của thành phố: bạn càng đi thấp hơn, thì dân cư càng giàu có hơn. Trong khi nhiều paceños tầng lớp trung lưu sống ở căn hộ cao tầng gần trung tâm, các hộ thực sự giàu có ở trong các khu dân cư thấp phía tây nam của Prado. Lý do cho sự phân chia này là thấp hơn bạn đi trong thành phố là nhẹ hơn thời tiết. Và nhìn lên từ trung tâm, những ngọn đồi xung quanh được dán với những ngôi nhà gạch tạm bợ của những người đấu tranh với hy vọng một ngày đạt phía dưới. Thành phố vệ tinh của El Alto, trong đó sân bay tọa lạc, được trải rộng trên một khu vực rộng lớn phía tây của hẻm núi, trên altiplano.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Trung Lào",
"role": "user"
},
{
"content": "Trung Lào là một khu tự trị nằm ở trung bộ của Lào. Từ bắc đến nam: Viêng Chăn - Thủ đô Lào. Phonsavan - điểm truy cập đến Cánh đồng Chum. Tha Khaek - một cơ sở phổ biến để khám phá vườn quốc gia Phou Hin Boun bao gồm hang động Konglor nổi tiếng. Paksan Ban Nahin Khammuan Vang Vieng - thành phố ven sông nổi tiếng với du khách ba lô chèo thuyền trên sông Viêng Xai - nổi tiếng với những hang động Pathet Lào. Sầm Nứa - để truy cập vào Viêng Xai. Cánh đồng Chum - hàng trăm chum bí ẩn. Hang động Tham Nong Pafa",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Harry Potter và Hoàng tử lai",
"role": "user"
},
{
"content": "Harry Potter và Hoàng tử lai là cuốn sách thứ sáu trong bộ truyện Harry Potter của nhà văn J.K. Rowling. Truyện được xuất bản lần đầu năm 2005. Tôi đã cho rằng các vị sẽ mời tôi vào phòng khách, dè đâu bằng chứng nãy giờ cho thấy nếu cứ lạc quan quá đáng như vậy thì thành ra ngu. Và bây giờ, Harry, chúng ta hãy bước vào đêm và đuổi theo cô ả phù phiếm - cuộc phiêu lưu. Chúng ta phải cố gằng để không bị nhấn chìm dưới nỗi khổ cùa mình, Harry à, mà chúng ta phải đứng dậy chiến đấu. Thầy xin ngả mũ trước con — hay đúng ra là thầy sẽ ngã mũ rồi, nếu không sợ gửi cho con con nhền nhện. (với Harry) Chúng ta không nên trì hoãn lâu hơn cái cơ hội ca cẩm của bà Molly về cái sự ốm nhom ốm nhách của con. Mặc dù, dĩ nhiên, nếu thầy là một Tử thần Thực tử thì thầy ắt sẽ phải nghiên cứu sở thích mùi mứt của chính thầy trước khi hóa thân thành chính thầy. Con hiểu chưa? Voldermort đã tự tạo ra cho hắn kẻ thù đáng sợ nhất, cũng như những bạo chúa vẫn làm. Con có biết rằng những bạo chúa sợ nhất những kẻ bị họ áp bức không? Tất cả các bạo chúa đều hiểu rằng, một ngày nào đó, trong số những nạn nhân của họ chắc chắn sẽ có một người đứng lên chống lại họ. Chẳng có gì từ một cái xác cũng như chẳng có gì từ bóng tối là đáng sợ cả. [...] Chính cái không biết mới làm chúng ta sợ khi chúng ta nhìn xuống xác chết và bóng tối, chỉ thế thôi, không hơn. (sau khi uống lọ nước màu xanh lục) GIẾT TA ĐI! (khi Harry nói với ông \"Đừng lo.\") Thầy không lo, Harry ạ. Vì thầy đi cùng với con. Cụ Dumbledore nói con người dễ dàng tha thứ cho người khác vì đã sai hơn là vì đã đúng. Ôi, thôi mà, Harry, không phải đội Quidditch nổi tiếng, mà chính là bồ! Bồ chưa bao giờ hấp dẫn hơn lúc này, và thành thật mà nói, cũng chưa bao giờ hợp thời trang như lúc này. (với Harry) Trước kia bồ có lần nói với tụi mình là một khi đã muốn thì vẫn có đủ thời gian để quay lại. Tụi mình vẫn còn thời gian mà, đúng không? (về lý do Ron rớt môn Độn thổ) Thiệt là xui xẻo, một chi tiết vặt thôi, giám khảo phát hiện nó đã bỏ sót lại đằng sau nửa cái lông mày... (khi Harry định đi xuống chòi của bác Hagrid thay vì đến chỗ thầy Slughorn) Mình đoán chắc là tại Phúc lạc dược chăng? Bồ còn chai nào khác chứa đầy... Mình không biết nữa... (Ron) Cuồng dược hả? Chỉ việc tọng một sỏi dê vào họng chúng. Cắt Sâu Mãi Mãi — dành cho kẻ thù. Thần Sáng là một bộ phận của Bè đảng Nanh Mục, em tưởng ai cũng biết điều đó. Họ đang âm mưu lật đổ Bộ Pháp thuật từ bên trong bằng cách xài Pháp thuật Hắc ám kết hợp với bệnh nha chu. (khi Harry mời cô bé đến buổi tiệc của thầy Slughorn) Có phải anh nhuộm lông mày để đi dự tiệc không? Em có nên nhuộm lông mày của em không? Ai làm bầm mắt mày thế, Granger? Tao muốn gởi hoa tặng kẻ đó. (với Harry) Mày liệu hồn nhanh chân lên, họ đang đợi 'Đội trưởng Được chọn' — 'Thằng bé Ghi bàn' — hay mỹ danh gì gì đó mà họ gán cho mày những ngày này. I'll be moving on to bigger and better things. He will only be gone from the school when none here are loyal to him. [about Albus Dumbledore] [Harry thinks] how they had talked about fighting a losing battle, and that it was important to fight, and to fight again, and to keep fighting, to keep evil at bay, though never quite eradicated. Xuất sắc. Thiệt là xuất sắc. Đúng... mình sẽ đi xuống chòi của bác Hagrid. Ma thì trong suốt. Snape! Snape! Tôi đã dạy hắn! Tôi tưởng tôi phải biết rõ hắn chứ. MERLIN'S BEARD! Parry Otter, Thằng bé Được chọn... chà... hay cái gì nó na ná như vậy. Avada Kedavra! Xong rồi. Mày dám dùng chính thần chú của tao chống lại tao hả, Potter? Chính tao là người đã sáng tạo ra chúng... Tao, Hoàng tử lai! Hèn, mày gọi tao thế hả, Potter? Cha mày cũng không bao giờ dám tấn công tao trừ phi có bốn chọi một, tao tự hỏi mày gọi cha mày là gì? Ôi, đến mà khuấy cái vạc của em Nếu anh làm đúng điệu Thì em sẽ đun sôi ái tình sốt dẻo cho anh Để anh được ấm áp đêm nay. Ối, tụi con ngày càng biết ơn má nhiều hơn, má à, bây giờ tụi con tự giặt vớ của mình. (với Ron) Vậy chứ anh với Lavender thì sao, ở nơi nào cũng quấn lấy nhau như một cặp lươn thì sao? [To Harry] Looking for Ron? He's over there, the filthy hypocrite. (khi Harry chia tay cô bé) Là vì cái lý do cao quý ngu ngốc đó phải không? (về hình xăm của Ron) Một con Bông thoa Lùn, nhưng em không nói ở đâu. Xin lỗi, có phải mi là dấu vết của một linh hồn vừa rời bỏ thế gian không? Hy vọng bồ đánh bại McLag — ủa — Smith chứ. (về Aragog) Cứ tin mình đi, chết sẽ làm cho nó tốt mã hơn. Cám ơn. Ơ... nhưng tại sao mình lại cần đến vớ? Tụi mình sẽ đi với bồ dù có bất cứ chuyện gì. Sự vĩ đại gây ra đố kỵ, đố kỵ sinh ra hận thù, hận thù đẻ ra dối trá. (Quảng cáo của tiệm Phù thủy quỷ quái của Weasley) Tại sao quý vị lại lo lắng về Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy? Quý vị NÊN lo lắng về AI-CŨNG-KHÔNG-Ị Cái cảm giác táo bón đang kìm kẹp đất nước! Wikipedia có bài viết về: Harry Potter và Hoàng tử lai",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Đan Mạch",
"role": "user"
},
{
"content": "Đan Mạch (tiếng Đan Mạch: Danmark) là một quốc gia thuộc vùng Scandinavia ở Bắc Âu và là thành viên chính của Vương quốc Đan Mạch. Phần chính của nó là Jutland, một bán đảo phía bắc của Đức, nhưng cũng có một số đảo, trong đó có hai người lớn, Zealand và Funen trong biển Baltic giữa Jutland và Thụy Điển. Tách ra từ các đảo khác, Bornholm nằm tự giữa Thụy Điển và Ba Lan trong biển Baltic. Từng là trụ sở của cướp Viking và sau đó một cường quốc lớn ở bắc Châu Âu, Đan Mạch đã phát triển thành một quốc gia thịnh vượng hiện đại đã tham gia hội nhập chính trị và kinh tế chung của Châu Âu. Tuy nhiên, cả nước đã chọn không tham gia Hiệp ước Maastricht Liên minh Châu Âu, hệ thống tiền tệ Châu Âu (EMU), và các vấn đề liên quan đến công việc nội bộ nhất định. Đan Mạch nằm ở vùng cực nam của các nước Nordic, nằm phía Tây Nam của Thụy Điển, phía Nam của Na Uy và giáp với Đức về phía Nam. Đan Mạch giáp cả biển Baltic và biển Bắc, bao gồm một bán đảo lớn, Jutland (Jylland) và nhiều đảo, được biết đến nhiều nhất là Zealand (Sjælland), Funen (Fyn), Vendsyssel-Thy, Lolland, Falster, Bornholm, và hàng trăm đảo nhỏ thường được gọi là quần đảo Đan Mạch. Đan Mạch từ lâu đã kiểm soát cửa ngõ vào biển Baltic. Trước khi có kênh đào Kiel, nước chảy vào biển Baltic qua ba eo biển được gọi là những eo biển Đan Mạch. Các phát hiện khảo cổ ở Đan Mạch có niên đại từ năm 130.000–110.000 trước Công nguyên trong thời kỳ gian băng Eem[7]. Con người đã sống ở Đan Mạch từ khoảng năm 12.500 trước Công nguyên và có bằng chứng ngành nông nghiệp đã tồn tại từ khoảng năm 3900 trước Công nguyên[8]. Thời kỳ đồ đồng Nordic (1.800–600 trước Công nguyên) ở Đan Mạch đã được đánh dấu bằng các gò mộ để lại nhiều phát hiện khảo cổ, bao gồm lur và Sun Chariot. Trong Thời kỳ Đồ sắt tiền La Mã (500 trước Công nguyên – 1 Công nguyên), các nhóm dân bản địa bắt đầu di cư về phía nam, dù[8] những người Đan Mạch đầu tiên đến Đan Mạch giữa thời kỳ tiền La Mã và Thời kỳ Đồ sắt German[9], trong Thời kỳ Đồ sắt La Mã (sau Công nguyên 1–400). Thời tiền sử ở Đan Mạch cách nay khoảng 15.000 năm, khi sông băng lục địa (inland ice) trôi chệch về phía bắc do một sự thay đổi khí hậu. Những người săn bắt tuần lộc (loại hươu lớn có sừng nhiều nhánh, tên khoa học là Rangifer tarandus) đã sống tại đây, sau đó tới những người sống bằng nghề săn bắt các muông thú khác và những người đánh cá trải qua hàng thiên niên kỷ. Cách nay khoảng 6.000 năm thì bắt đầu thời đại đồ đá của người săn bắt, dần dần thay thế bằng thời đại đồ đá của nông dân, sau đó là thời đại đồ đồng, rồi thời đại đồ sắt. Ngay cuối thời đại đồ sắt, tức khoảng thế kỷ thứ 8, ở đây đã tồn tại một chính quyền trung ương mạnh, bằng chứng là đã có công trình Dannevirke gồm hệ thống bờ lũy cao, dài 14 km ở cách phía nam biên giới Đan Mạch - Đức hiện nay khoảng 40 km, gần bên thành phố viking Hedeby (tiếng Đức là Haithabu), vùng Slien gần Schleswig. Ngoài ra trong thời đại đồ sắt còn một hệ thống kênh đào ngang qua đảo Samsø dài khoảng 500 m, rộng 11 m để tàu thuyền lưu thông, thời đó dùng làm một khâu của căn cứ hải quân bảo vệ thành phố Aarhus, gọi là Kanhavekanalen. Tàu Ladby, con tàu lớn nhất của người Viking được tìm thấy ngoài khơi Đan Mạch. Cối xay gió DybboelThời tiền sử kết thúc vào thời Viking, khi những người Viking Đan Mạch bắt đầu đi buôn bán và cứớp bóc ở phần lớn châu Âu. Nhờ có 2 tấm bia đá khắc chữ rune ở Jelling (nam bán đảo Jylland, tấm nhỏ do Gorm già dựng khoảng năm 955, tấm lớn do Harald răng xanh dựng khoảng năm 965) mà ta biết vị vua đầu tiên của bán đảo Jylland là Gorm già Gorm den Gamle và là cha của Harald Blauzahn (Harald răng xanh), người sau này đã thống nhất Đan Mạch vào năm 980. Hai tấm bia kể trên được coi là \"Giấy khai sinh của Đan Mạch\". Cho tới tận thế kỷ 11 người Đan Mạch vẫn còn được coi là người Viking, dân tộc đã từng làm chủ nhiều thuộc địa và thâu tóm việc buôn bán khắp châu Âu. Người Viking cũng như thường xuyên cướp phá và gây chiến. Họ bắt đầu đòi cái gọi là Danegæld (món nợ người Đan Mạch) theo đó thì các vua Anh phải nộp thuế cho vua Đan Mạch, để không bị cướp bóc, vì họ có một hạm đội rất mạnh. Rất nhiều lần trong lịch sử Đan Mạch đã giành được quyền kiểm soát Vương quốc Anh, Na Uy, Thuỵ Điển và một phần lớn bờ biển Baltic, cũng như phần phía bắc nước Đức. Vùng Skåne (phần đất phía nam Thuỵ Điển ngày nay) cũng đã từng thuộc về Đan Mạch trong một thời gian dài trước khi trao cho Thụy Điển sau Hòa ước Roskilde vào năm 1658. Liên hiệp Đan Mạch - Na Uy (1380-1814) kết thúc vào năm 1814 cùng với việc Na Uy bị sát nhập vào Thuỵ Điển (tới năm 1905). Riêng Greenland, quần đảo Faroe, Iceland (cho tới năm 1944) và vùng Đan Mạch-Tây Ấn (cho tới năm 1917) vẫn thuộc quyền sở hữu của của Đan Mạch. Phong trào dân tộc và những người dân chủ ở Đan Mạch bắt đầu tạo được nhiều ảnh hưởng từ thập niên 1830. Sau cuộc cách mạng châu Âu 1848, nhà nước quân chủ lập hiến Đan Mạch được thành lập: hiến pháp đầu tiên được soạn thảo. Sau khi thất bại trong cuộc Chiến tranh Phổ-Đan Mạch năm 1864, Đan Mạch buộc phải cắt vùng Schleswig-Holstein cho nước Phổ. Kể từ sau thất bại này Đan Mạch giữ một thái độ nhất quyết trung lập trong đối ngoại của quốc gia cho đến sau Thế chiến thứ nhất. Một nhóm các binh sĩ Đan Mạch vào buổi sáng khi cuộc xâm lược của Đức vào Đan Mạch bắt đầu, ngày 9 tháng 4 năm 1940.Sau Thế chiến thứ nhất biên giới Đan Mạch - Đức được tái xác lập, lần này là lui về phía nam. Năm 1920 nó được xác định chính thức và tồn tại cho đến ngày nay: bắc Schleswig trở về với Đan Mạch. Việc thường xuyên thay đổi đường biên giới dẫn tới sự tồn tại của hai bộ phận dân cư thiểu số ở hai phía: người Đức ở nam Đan Mạch và người Đan Mạch ở miền bắc nước Đức. Từ ngày 9 tháng 4 năm 1940 cho đến khi kết thúc Thế chiến thứ hai Đan Mạch nằm dưới sự chiếm đóng của quân đội Đức. Cuộc nổi dậy của nhân dân Đan Mạch chống lại sự thảm sát người Do Thái đã trở nên tiêu biểu. Tháng 10 năm 1943 những người Do Thái ở Đan Mạch đã được nhân dân Đan Mạch cứu thoát. Sau chiến tranh, Đan Mạch trở thành thành viên của khối NATO. Năm 1973 vương quốc này là quốc gia Bắc Âu đầu tiên trở thành thành viên của Cộng đồng châu Âu, nay là Liên minh châu Âu, sau cuộc trưng cầu dân ý. Năm 1989, Đan Mạch trở thành nước đầu tiên trên thế giới thông qua luật cho phép người đồng tính luyến ái được phép chung sống với nhau. Sau cuộc trưng cầu ý dân năm 1992, người Đan Mạch phản đối việc phê chuẩn hiệp ước Maastricht (Hiệp ước ngày 7 tháng 2 năm 1992, thành lập Liên minh châu Âu của 12 quốc gia thành viên của Cộng đồng Kinh tế châu Âu), nhưng lại chấp nhận vào năm 1993. Trong cuộc trưng cầu ý dân năm 2000, Đan Mạch từ chối lưu hành đồng euro. Đất nước thuộc vùng Scandinavia với diện tích 43.000 km2, một phần ba trong số đó là diện tích của 443 hòn đảo lớn nhỏ. Hai hòn đảo lớn nhất là Zealand (Sjælland) – rộng khoảng 7.000 km2 và Funen (Fyn) – khoảng 3.000 km2. Đường bờ biển dài tới 7.314 km. Địa hình của Đan Mạch khá bằng phẳng, với điểm cao nhất chưa tới 171 m so với mực nước biển. Bán đảo Jutland (Jylland) hình thành nên phần đất liền của Đan Mạch. Nó trải dài trên 300 km tính từ biên giới với Đức. Các cồn cát, vũng biển và bãi bồi bảo vệ bờ tây của bán đảo trước những cơn bão dữ dội từ ngoài Bắc Hải. 443 hòn đảo lớn nhỏ tập trung chủ yếu trên biển Baltic, ngay sát với bờ tây của Jutland. Chỉ 76 trong số này có người ở. Độ cao trung bình của Đan Mạch so với mực nước biển là 30 m. Những khối băng lớn của thời kì băng hà đã hình thành nên Đan Mạch ngày nay. Một vành đai băng cổ đã chia cắt phần đông và tây của Jutland. Vịnh hẹp khoét sâu vào đất liền lớn nhất có tên là Limfjorden, chạy xuyên ngang phần phía bắc bán đảo hướng tới mũi Skagen. Phía đông Jutland là Eo biển Lillebælt ngăn cách đảo Funen(Fyn) với lục địa. Đông nam Funen có hệ thống cầu nối với hòn đảo nhỏ Langeland. Chếch sang phía đông một chút là đảo Zealand (Sjælland), ngăn cách với Funen bởi Eo biển Storebælt. Trên bờ phía đông của đảo này ta sẽ tìm thấy thủ đô Copenhagen(København). Xa xa về phía đông là hòn đảo granit có tên Bornholm. Trên đảo Greenland (Grønland)có khoảng hơn 55.000 dân cư sinh sống, 48.000 trong số họ là người thiểu số Inuit. Thủ phủ của Greenland là Nuuk. Từ năm 1380 hòn đảo này là thuộc địa của Đan Mạch, từ năm 1953 nó trở thành một lãnh thổ tự trị thuộc Đan Mạch. Hình Đan Mạch chụp từ vệ tinhQuần đảo Faroe (Farøerne) (thủ phủ: Tórshavn, diện tích 1.399 km2, 44.800 dân) là thuộc địa của Na Uy từ năm 1035 tới năm 1814. Quần đảo này có khí hậu ôn hoà, dễ chịu chủ yếu nhờ vào ảnh hưởng của dòng hải lưu Gulf. Luật căn bản - cũng gọi là luật hiến pháp - của Vương quốc Đan Mạch (Danmarks Riges Grundlov) được vua Frederik VII kÝ ban hành ngày 5 tháng 6 năm 1849. Luật này chuyển quốc gia Đan Mạch từ một vương quốc do một người cai trị (enevælde) sang một quốc gia theo chính thể quân chủ lập hiến với chế độ tam quyền phân lập. Quyền lập pháp ở trong tay quốc hội (Folketinget), quyền hành pháp do chính phủ đảm nhiệm và quyền tư pháp độc lập. Người đứng đầu quốc gia (chỉ đóng vai trò tượng trưng) là vua hoặc nữ hoàng. Hiện nay đứng đầu vương quốc là Nữ hoàng Margrethe II. Luật căn bản này đã trải qua 3 đợt tu chính: lần thứ nhất vào năm 1866, lần thứ hai vào năm 1915 (cho phép các phụ nữ được quyền ứng và bầu cử) và lần thứ ba vào năm 1953 Đan Mạch theo thể chế quân chủ lập hiến và hệ thống chính trị đa đảng, đứng đầu Nhà nước là Nữ hoàng. Nữ hoàng chỉ mang tính lễ nghi, không còn quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị thuộc về cơ quan hành pháp (Chính phủ), đứng đầu là Thủ tướng. Kể từ năm 1953, Quốc hội Đan Mạch bỏ việc phân chia Quốc hội thành Thượng viện và Hạ viện (do hai viện nay có quyền hạn như nhau nên rất khó để phân biệt) và theo chế độ một viện (unicameral) với 179 nghị sỹ (trong đó 2 ghế dành riêng cho đảo Greenland và 2 ghế dành cho quần đảo Faroe), được bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 4 năm. Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị ở Đan Mạch là nền dân chủ liên hiệp. Từ năm 1909, không có một đảng nào giành đa số tuyệt đối trong bầu cử; phần lớn là chính phủ thiểu số của một đảng hoặc chính phủ liên minh 2-3 đảng. Kể từ thập kỷ 1980, trong quốc hội luôn có đại diện của ít nhất là 7 đảng. Quốc hội Đan Mạch (Folketinget) nắm quyền lập pháp, gồm 179 đại biểu và được bầu 4 năm một lần. Trong số 179 đại biểu quốc hội có hai đại diện của đảo Greenland và hai đại diện của quần đảo Faroe. Mặc dù không hiển thị rõ ràng trên bản đồ, Đan Mạch bao gồm hơn 400 hòn đảo, trong đó 72 có dân cư. Bán đảo Jutland và các đảo chính bao gồm các khu vực chúng tôi sử dụng trong hướng dẫn này. Gần 40% dân số của cả nước sinh sống trên đảo Zealand, mặc dù nó chỉ chiếm 1⁄6 của đất nước Copenhagen ( København) - thủ đô của Đan Mạch và thành phố lớn với dân số 1,2 triệu trong khu vực đô thị và một số lượng lớn các dịch vụ cho những trải nghiệm văn hóa, mua sắm và nguồn cảm hứng của các truyền thống thiết kế Đan Mạch. Aarhus - thành phố lớn nhất trên bán đảo Jutland và thành phố lớn thứ hai của Đan Mạch, với dân số 0,3 triệu trong khu vực đô thị và một rực rỡ bảo tàng lộ thiên chứa tòa nhà lịch sử từ các thị trấn và thành phố trên khắp Đan Mạch, nhiều trong số đó từ những năm 1800. Odense - thành phố chính của đảo Funen, và thành phố lớn thứ ba của Đan Mạch, được biết đến như nơi sinh của HC Andersen, nhưng The Village Funen bảo tàng ngoài trời của tòa nhà trang trại thế kỷ 18, và lâu đài Egeskov, một trong những lâu đài Renaissance bảo tồn tốt nhất ở Châu Âu cũng là điểm thu hút tốt Aalborg - nơi có một trung tâm thành phố lịch sử và đẹp như tranh vẽ và ồn ào đường phố Jomfru Ane Gade, nổi bật với một số cuộc sống về đêm sôi động nhất đất nước Esbjerg - trung tâm các ngành của Đạn Mạch: công nghiệp khí đốt, đánh cá ngoài khơi và dầu, và một đoạn ngắn 15 phút phà đi từ đảo ấm cúng của Fano Herning - thị trấn nhỏ nhưng đầy tham vọng này là một điểm khởi đầu tuyệt vời với những bãi biển tuyệt đẹp của bờ biển phía tây của Jutland Nykøbing Falster - nép mình bởi một vịnh đẹp như tranh vẽ, bạn có thể khám phá các tu viện cũ, lâu đài, hoặc đặt ra để các vách đá vôi ngoạn mục của mon hoặc những bãi biển tốt của hòn đảo Sønderborg - khám phá tinh thần Đan Mạch trong một thành phố mà Đan Mạch cuối cùng đã thừa nhận tham vọng siêu cường của mình, và đi lang thang qua các lâu đài cổ hay các cung điện hoàng gia của Gråsten Thisted - mặc dù nhỏ, nó là trung tâm chính của khu vực Thy trong Tây Bắc Jutland. Nằ trực tiếp trên bờ eo biển Limfjord, nó làm cho một số hoạt động thuyền buồm tuyệt vời và hoạt động thường thư giãn. Đây cũng là cửa ngõ vào có tính chất phong phú trong tất cả các khu vực, trong đó một phần lớn được bảo tồn như Vườn Quốc gia Thy. Ronne - thủ phủ và điểm cửa ngõ đến hòn đảo kỳ nghỉ hấp dẫn Bornholm, với làng ấm cúng của mình, nhà thờ quanh thần bí và sự hư hại lâu đài ngoạn mục của Hammershus Skagen - điểm phía bắc nhất của đất liền, thị trấn ngủ yên này bùng thức tỉnh với hoạt động du lịch trong mùa hè. Đây là nơi để xem như hai đại dương gặp nhau ở \"đỉnh của Đan Mạch\", đạp xe đạp xung quanh môi trường xung quanh danh lam thắng cảnh, ăn bữa trưa với hải sản tuyệt vời. Nó là một trong những khu mùa hè nổi tiếng nhất trong cả nước, trong đó có các Copenhagen giàu có và nổi tiếng. Roskilde - cự ly nửa giờ từ Copenhagen đó là một thành phố đẹp đẽ, lưu giữ một di sản thế giới được liệt kê nhà thờ cũng như một bảo tàng tàu Viking lớn. Ribe - thành phố lâu đời nhất trong nước, nó là nhỏ nhưng có một thánh đường lớn bao quanh bởi các con đường rải sỏi lãng mạn và một nửa bằng gỗ, ngôi nhà đầy màu sắc. Đó là một nơi tuyệt vời để khám phá lịch sử của đất nước, đặc biệt là những người Viking, cũng như là một cửa ngõ vào vườn quốc gia biển Wadden. Anholt - hơn 45 km từ khu vực gần đất liền và khá cách bằng nhau giữa Thụy Điển và Đan Mạch, hòn đảo hẻo lánh này cung cấp sa mạc lớn nhất ở Bắc Âu và là một trong các quần thể hải cẩu lớn nhất Scandinavia. Ertholmene - nhóm nhỏ quần đảo này dưới sự quản lý của Bộ Quốc phòng Đan Mạch, chiếm phần lớn phía đông Đan Mạch và nhà của một khu bảo tồn chim lớn, cũng như các hệ thống phòng thủ lâu đời. Fano - đảo dài 16 km và rộng 5 kmg, một khung cảnh lớn bất thường của môi trường tự nhiên khác nhau trên một diện tích nhỏ: cát, sức khỏe, đồng cỏ và gỗ thông. FeMo - nổi tiếng nhất là một trong những pháo đài đầu tiên cho phong trào đấu tranh đòi nữ quyền, ngày nay thu hút cả người đồng tính nữ và nữ quyền, mặc dù bản thân Priding chào đón tất cả phụ nữ. Hirsholm - một trong sáu hòn đảo nhỏ 7 km về phía đông bắc của Frederikshavn, ghi nhận số lượng đông đảo các loài chim, nhưng cũng là nơi để một số những bãi biển tuyệt vời và một số lượng tương đối lớn của nhiên liệu, kể từ chiến tranh thế giới II. Læsø - bỏ lại mọi thứ để đến hòn đảo xa xôi này trong \"vành đai sa mạc\" của Đan Mạch, đi xe qua những đụn cát trên lưng ngựa và xem trang trại độc đáo với mái rong biển. Vườn quốc gia Kongernes Nordsjælland - vườn quốc gia mới bao gồm các căn cứ săn bắn cũ của các vị vua cổ đại. Samso - có lẽ là hòn đảo \"xanh\" nhất của Đan Mạch gần đây đã thu hút được sự chú ý của khách quốc tế kể từ khi nhiệt và năng lượng sử dụng trên hòn đảo này là độc quyền sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo, cũng như quê hương của lễ hội âm nhạc hàng năm Festival Samso. Vách đá Stevns - một vách đá 65 triệu năm tuổi tạo thành đá vôi và đá phấn, trải dài hơn 12 km trên bờ biển và lên đến 41 mét so với mực nước biển. Vườn Quốc gia Thy - nằm dọc theo bờ biển phía Tây Bắc Jutland, khu vực này là vườn quốc gia đầu tiên ở Đan Mạch. Vườn quốc gia có diện tích 24,370 ha đất ở bờ biển phía tây của Bắc Jutland giữa Aggertange và Hanstholm. Các phần ven biển của công viên bao gồm các cồn cát, cồn cát cây thạch nam, các đồn điền cồn cũng như hồ. Một phần của công viên nội địa chủ yếu bao gồm đất nông nghiệp. Sydfynske Øhav - một nhóm đảo nhỏ phía nam của Svendborg tại Funen, những đảo chủ yếu là Langeland và Tåsinge. Là những địa điểm khám phá tuyệt vời trên mặt nước đặc biệt, có thể đến bằng phà công cộng, tàu thuyền nhỏ hoặc thuyền kayak, du khách đến thăm ngôi làng nhỏ. Các hồ Silkeborg - phổ biến và đẹp, đồi núi, xung quanh phủ rừng của các hồ và sông làm cho nó là nơi để tận hưởng thiên nhiên, hoặc đi bộ đường dài, leo núi hay chèo thuyền. Đan Mạch là một thành viên của Hiệp ước Schengen. Không có kiểm soát biên giới giữa các quốc gia đã kÝ kết và thực hiện các điều ước quốc tế - Liên minh Châu Âu (ngoại trừ Bulgaria, Cyprus, Ireland, Romania và Vương quốc Anh), Iceland, Liechtenstein, Na Uy và Thụy Sĩ. Tương tự như vậy, thị thực được cấp cho bất kỳ thành viên Schengen có giá trị trong tất cả các nước khác đã kÝ kết và thực hiện các điều ước quốc tế. Nhưng hãy cẩn thận: không phải tất cả các thành viên EU đã kÝ hiệp ước Schengen, và không phải tất cả các thành viên trong khối Schengen là một phần của Liên minh Châu Âu. Lưu Ý rằng bất kể bạn đang đi du lịch trong khu vực Schengen hay không, nhiều hãng hàng không vẫn sẽ nhấn mạnh khi nhìn thấy thẻ ID của bạn hoặc hộ chiếu. Công dân của EU và EFTA (Iceland, Liechtenstein, Na Uy, Thụy Sĩ) nước chỉ cần một chứng minh thư quốc gia hợp lệ hoặc hộ chiếu nhập cảnh - trong trường hợp không họ sẽ cần phải có thị thực cư trú lâu lÚc nào bất kỳ. Đan Mạch được phục vụ bởi hai sân bay lớn và vài sân bay nhỏ gần như tất cả cung cấp các kết nối quốc tế. Các hãng hàng không châu Âu cung cấp hầu hết các tuyến đường đến Copenhagen, và nhiều hãng cũng bay đến Billund, nhưng SAS Scandinavian Airlines [1] vẫn là hãng chiếm ưu thế. Cầu thủ chủ chốt trong thị trường chi phí thấp bao gồm Norwegian [2], Easyjet [3], Transavia [4] and finally Ryanair [5] và cuối cùng Ryanair [6] trong đó có dịch vụ chỉ cho các sân bay địa phương. Sân bay Copenhagen [7] (IATA: CPH, ICAO: EKCH) là sân bay lớn nhất Scandinavia. Sân bay này nằm ở Kastrup thị trấn trên đảo Amager, 8 km từ trung tâm Copenhagen. Sân bay được kết nối bằng xe lửa đến Ga Trung tâm Copenhagen và xa hơn nữa cũng như Malmo và các thị trấn khác trong Thụy Điển. Một cách giá vé đến ga Trung tâm Copenhagen là DKK 34 và tàu cứ 10 phút lại. Xe buýt và taxi cũng có sẵn. Sân bay Billund (IATA: BLL, ICAO: EKBI) ở Nam Trung Bộ Jutland là sân bay lớn thứ 2 của Đan Mạch, và các sân bay chính cho toàn bộ bán đảo. Đó lĩnh vực các chuyến bay đến các trung tâm lớn của châu Âu: Frankfurt, London và Amsterdam, nhiều thủ đô châu Âu, quần đảo Faeroe cũng như điểm đến kỳ nghỉ phía nam châu Âu. Nằm ở thị trấn Billund, 29 km từ Vejle, 65 km từ Esbjerg, 104 km từ Odense, 100 km từ Aarhus, 210 km từ Aalborg, và 262 km từ Copenhagen. Sân bay được kết nối bằng xe buýt đến các thành phố và thị trấn lớn trong khu vực. Taxi cũng có sẵn. Sân bay Aalborg (IATA: AAL, ICAO: EKYT khoảng 7 km về phía đông của trung tâm thành phố, là thứ 3 của Đan Mạch sân bay lớn nhất với các chuyến bay tới khoảng 20 điểm đến châu Âu, bao gồm Oslo, Reykjavik và quần đảo Faroe cũng như các trung tâm lớn như London, Paris, Amsterdam, và Istanbul. hãng lớn bao gồm Na Uy, SAS, Thổ Nhĩ Kỳ Các hãng hàng không, và Atlantic Airways. Nó sẽ được lưu ý rằng nhiều tuyến đường được giới hạn trong mùa. Sân bay Aarhus (IATA: AAR, ICAO: EKAH) nằm trên bán đảo Djursland 44 km phía đông bắc của Aarhus, 50 km từ Randers, 90 km từ Silkeborg, 99 km fra Horsens, 98 km từ Viborg và 138; km từ Aalborg. Một sân bay shuttlebus kết nối sân bay đến Ga Trung tâm Aarhus từ nơi bạn có thể tiếp cận với phần còn lại của Jutland bằng tàu hỏa. Hãng không quốc gia phục vụ sân bay Aarhus là Ryanair, British Airways và Finnair. Sân bay Malmö-Sturup (IATA: MMX, ICAO: ESMS) nằm 61 km từ Copenhagen ở miền Nam Thụy Điển và cung cấp các chuyến bay vé giá thấp với Wizzair [8] đi Đông Âu và Ryanair đến London (Stansted), Ba Lan và Tây Ban Nha. Một xe buýt đưa đón sân bay kết nối sân bay với nhà ga trung tâm Copenhagen. FlyBus phí £ 10 / 100DK cho đi xe. Có năm chuyến tàu trực tiếp mỗi ngày (sáu từ tháng 16) từ Hamburg đi Copenhagen, khoảng hai giờ, một trong những đoàn tàu kéo dài đến Berlin. Các đoàn tàu được nạp vào một chiếc phà cho việc thông qua đường biển từ Puttgarten để Rødby, và tổng thời gian cuộc hành trình là khoảng 4,5 giờ (6,5 giờ đến Berlin). Ngoài ra còn có hai tàu hàng ngày đi Aarhus từ Hamburg (một chuyến xuất phát từ Praha) thông qua Padborg. Tàu khác từ Đức gồm tàu từ Flensburg đến Copenhagen và xe lửa từ Niebüll để Esbjerg. Nếu bạn đang đến từ xa ở châu Âu, có một chuyến tàu đêm từ Amsterdam, Basel, Berlin, và Praha, dừng lại ở Đan Mạch trong Padborg, Kolding, Odense, Roskilde, và Copenhagen. Từ Thụy Điển có tàu trực tiếp giờ từ Gothenburg và đến năm tàu trực tiếp từ Stockholm đến Copenhagen. Ngoài các chuyến tàu trực tiếp giữa Oresund kết nối Copenhagen với tàu chấm dứt ở Malmö mỗi 20 phút, thời gian chạy tàu mất 35 phút. Đan Mạch được kết nối trực tiếp đến Autobahn của Đức trên đường E45 (tuyến đường 7 Đức), chạy gần Hamburg và chạy dọc theo bờ biển phía đông của bán đảo Jutland, chạy đến Frederikshavn ở miền Bắc, đi qua thành phố thứ hai của Đan Mạch Aarhus trên đường đi. Nhiều người lái xe đi từ Đức đến các lựa chọn thủ đô Đan Mạch với một trong các phà chở xe hơi thường xuyên, rút ngắn chuyến đi 137 km từ Hamburg và 309 km từ Berlin tương ứng, và tránh được 235 DKK cầu số điện thoại, vì vậy Giá của qua phà gần như bù đắp bằng khí thêm cần thiết để có những chặng đường dài xung quanh. Từ Thụy Điển chạy theo đường E20 từ Gothenburg (312 km) hoặc E4 từ Stockholm (655 km) Malmö và kết nối với các cầu Oresund [9] (325 DKK). Nhiều người Na Uy cũng lựa chọn cho tuyến đường này khi đi đến Copenhagen, nhưng có một số phà xe hơi đi qua eo biển giữa hai nước, đặc biệt là Hirtshals trên mũi phía bắc của Jutland, được kết nối với mạng lưới đường cao tốc Đan Mạch. Nếu bạn đang ở một trong những quốc gia láng giềng, xe buýt đường dài cung cấp một lựa chọn đi lại tiết kiệm tốt. Từ Đức một số công ty xe buýt hoạt động các tuyến đường từ Hamburg và Berlin đến Copenhagen và Aarhus. Một chuyến đi từ Berlin đến Copenhagen có thể có giá ít nhất là 200 DKK, nhưng thường sẽ thiết lập lại khoảng 300 DKK (40 €) và mất khoảng 8 giờ, một con đường phổ biến từ Hamburg đến Aarhus mất khoảng 5 tiếng rưỡi. Hãy thử kiểm tra các công ty sau; Berolina [10], Eurolines [11], và Abildskou [http:// abildskou.dk / bằng xe buýt-to-berlin-hoặc-hamburg-sân bay]. Đối với Scandinavia có ba kết nối hàng ngày và một đêm, xe buýt từ Gothenburg (4 1⁄2 giờ) và Oslo (8 giờ), và hai xe buýt hàng ngày từ Stockholm (9 giờ) được chia thành một ngày và một chiếc xe buýt đêm, hãy kiểm tra GoByBus [12] và Swebus [13] kiểm tra giá và lịch trình - khi tìm kiếm nó có thể là hữu ích để biết Copenhagen là Köpenhamn trong tiếng Thụy Điển. Do chiến tranh Bosnia trong thập niên 1990, có một số công ty xe buýt phục vụ cộng đồng người Bosnia, trong đó cung cấp một và xe giá vé rẻ và xả ít khí thải để đến được để phía bên kia của lục địa châu Âu. Toptourist [14] và Autoprevoz [15] chạy từ địa điểm khác nhau trong Bosnia và Hercegovina và Serbia để Đan Mạch, mùa thấp điểm du lịch khoảng 1.000 DKK (140 €) cho một vé khứ hồi. Cách nhanh nhất giữa Na Uy và châu lục này là thông qua các đường cao tốc của Đan Mạch, điều này đã đảm bảo kết nối phà thường xuyên đến Na Uy, với các cảng đông đúc nhất là Hirtshals, từ đó một chuyến đi đến Na Uy có ít nhất là 3 tiếng rưỡi. Các tuyến đường đông người qua lại là phà Rødby-Puttgarden - con đường nhanh nhất giữa Thụy Điển và Copenhagen lục địa Châu Âu - đó vẫn là một trong các cửa phà bận rộn nhất trên thế giới (mặc dù một cây cầu là nằm trên bản vẽ). Và mặc dù nó đã được suy yếu trong nhiều năm qua, với sự cạnh tranh ngày càng tăng của các hãng hàng không chi phí thấp, Đan Mạch cũng có phà chỉ còn lại giữa Vương quốc Anh và Bắc Âu (Harwich-Esbjerg, 19 giờ là vận chuyển hàng hóa / xe và hành khách phà và Immingham - Esbjerg, khoảng 20 giờ, tuyến Harwich chở hàng hóa nhưng không có dịch vụ hành khách). Phà thường có một tiêu chuẩn rất cao và quy định an toàn phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Smyril Line Seyðisfjörður (Iceland) via Tórshavn (Faroe Islands) - Hirtshals Đến Đan Mạch, để đi lại giữa các điểm du lịch du khách có thể lựa chọn nhiều phương tiện khác nhau. Những chuyến bay nội địa thường ít, và việc đưa thêm nhiều chuyến tàu điện đi vào hoạt động đã khiến cho việc đi lại bằng máy bay trở nên không thuận tiện cho lắm. Hầu hết khắp nơi ở Đan Mạch đều có những tuyến xe buýt. Và có rất nhiều chuyến chạy đến nơi đúng với giờ hoạt động của xe điện. Vì vậy rất thuận tiện cho du khách khi muốn đi xe buýt lẫn xe điện. Đan Mạch có hệ thống xe điện tốt, giá vé chấp nhận được và phục vụ thường xuyên. Ở Đan Mạch, xe hơi chạy về phía bên tay phải. Khi lên xe bạn bắt buộc phải gài thắt lưng an toàn. Địa hình Đan Mạch khá phẳng, lý tưởng cho đạp xe đạp. Nếu thích bạn cũng có thể đi tham quan bằng xe đạp. Bạn có thể đạp xe đến những vùng quê để tự mình khám phá, hay đi lại ngay giữa lòng thành phố. Bạn có thể thuê ở các phòng thông tin du lịch Tourist Information. Ở thủ đô Copenhagen, nếu muốn thuê xe đạp ở thì cũng rất dễ mà ko mất tiền. Bạn chỉ cần đặt cọc 20-30 krone (tiền Đan Mạch) rồi có thể lấy xe đi. Khi trả xe thì bạn sẽ được nhận lại tiền đặt cọc. Bãi xe đạp kiểu này có ở trên 100 điểm trong thành phố. Ngoài ra còn có hệ thống phà hoạt động thường xuyên, kết nối Đan Mạch với các hòn đảo. Mặc dù khá mạo hiểm, nhưng nếu thích bạn cũng có thể thuê một chiếc du thuyền rồi lướt đi dạo vòng quanh và tự mình khám phá những cảnh vật ở nơi đây. Ngôn ngữ quốc gia của Đan Mạch là tiếng Đan Mạch, một thành viên của nhánh gốc Đức của nhóm ngôn ngữ Ấn-Âu, và trong đó gia đình, một phần của miền Bắc Đức, nhóm Đông Bắc Âu. Đó là, trong lý thuyết, rất giống với tiếng Na Uy Uy và cũng với tiếng Thụy Điển, và ở một mức độ hiểu đối với những người nói những ngôn ngữ, đặc biệt là bằng văn bản. Tuy nhiên âm thanh của nó bị ảnh hưởng hơn bởi ngôn ngữ giọng cổ Đức, chứ không phải là ngôn ngữ du dương tìm thấy ở phía bắc và sự hiểu biết nói Đan Mạch có thể là một dấu vết khó khăn hơn cho những người chỉ nói tiếng Thụy Điển hay Na Uy. Nó cũng là xa hơn liên quan đến Iceland và Faroe, mặc dù nói Đan Mạch là không hiểu lẫn nhau với các thứ tiếng. Tiếng Anh được sử dụng rộng rãi trong Đan Mạch (gần 90% dân số có thể nói tiếng Anh, làm cho Đan Mạch là một trong những quốc gia thành thạo tiếng Anh nhất trên hành tinh mà tiếng Anh không phải là ngôn ngữ chính thức), và nhiều người Đan Mạch có có trình độ tiếng Anh gần như dân bản địa. Học sinh Đan Mạch bắt đầu học tiếng Anh trong lớp ba, Học tiếng Anh và thường xuyên tiếp tục cho đến khi học sinh hoàn thành trung học, và nhiều khóa học đại học của Đan Mạch được hoàn toàn hoặc một phần dạy bằng tiếng Anh. Về vấn đề này, nó là giá trị lưu ý rằng Đan Mạch có lẽ là một trong rất ít quốc gia trên thế giới mà, như một người nước ngoài, bạn không nhận được điểm thêm cho cố gắng để nói tiếng mẹ đẻ, và người Đan Mạch nói chung có rất ít kiên nhẫn với những người nói tiếng Đan Mạch không thông thạo. Vì vậy, ngoại trừ một vài từ như Tak (cảm ơn bạn) hoặc Undskyld (xin lỗi), bạn chỉ nên nói tiếng Anh thôi thay vì cố nói tiếng Đan Mạch. Tuy ở Bắc Âu, nhưng nhờ dòng hải lưu nóng chảy gần, nên Đan Mạch có khí hậu ôn hòa và dễ chịu. Vào mùa hè nhiệt độ cũng chỉ khoảng 20 độ C và giảm đáng kể khi đêm xuống. Vào mùa đông thì nhiệt độ giảm xuống còn khoảng 0 độ C. Tuy có mưa quanh năm nhưng lượng mưa cũng chỉ ở mức vừa phải. Nhìn chúng nếu bạn có thể chịu được cái lạnh của mùa đông thì khí hậu ở Đan Mạch sẽ không làm cho bạn cảm thấy khó chịu khi đi du lịch ở nơi này. Cuối tháng 6 cho đến tháng 8 là mùa của những lễ hội ở Đan Mạch. Vào thời điểm này có nhiều lễ hội lớn được diễn ra như Roskilde, một lễ hội đường phố và tắm nắng ở trên bãi biển. Những viện bảo tàng sẽ mở cửa xuyên suốt để phục vụ du khách trong suốt thời điểm này. Bên cạnh đó còn có nhiều điều thú vị khác như các khách sạn thường giảm giá phòng cho du khách đến đây. Tuy nhiên cũng chính vì như vậy mà vào thời điểm từ cuối tháng 6 đến tháng 8 này có rất đông du khách đến đây. Có thể bạn sẽ cảm thấy ngột ngạt và khó chịu. Nếu như thế thì bạn nên đến đây từ cuối tháng 8 trở đi vì lúc này học sinh bắt đầu trở lại trường học. Bạn sẽ có thể tận hưởng được không khí mùa hè nhưng không phải chịu cảnh đông đúc, chật chội. Từ tháng 5 cho đến đầu tháng 6 là thời điểm thú vị để bạn làm một chuyến du lịch đến Đan Mạch. Nhiệt độ lúc này khá ấm áp, dễ chịu. Và hơn hết bạn sẽ tránh được thời điểm đông du khách nhất. Vào mùa thu cũng khá dễ chịu tuy nhiên cảnh vật không phải ở đâu cũng đẹp. Ở vùng nông thôn hầu hết đều mang màu nâu sẫm. Mùa đông ở Đan Mạch thì rất lạnh, đêm dài hơn ngày. Chính vì vậy mà du khách ít đến đây vào thời điềm này. Nhiều điểm du lịch đóng cửa vào tháng 10 cho đến tận cuối tháng 4. Copenhagen - thủ đô Đan Mạch - nằm trên đảo Zeeland, chỉ có gần 1,5 triệu dân, không có nhà chọc trời. Copenhagen hấp dẫn với các kiến trúc cổ xưa vẫn còn nguyên vẹn, các lâu đài, các nhà thờ, các con đường nhỏ hẹp lát đá, các con kênh trong vắt chảy qua thành phố. Du khách đến đây sẽ đi qua phố Stroget là con đường cổ nhất ở Copenhagen xuyên qua trung tâm thành phố. Hai đầu phố là hai quảng trường lớn: Kongens ở phía Đông và Tòa thị chính ở phía Tây. Con phố dài 2 km chia thành 5 đoạn phố nhỏ và trở thành phố đi bộ từ mùa Noel năm 1962. Nhiều quán ăn Đan Mạch, Trung Hoa, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Pháp, Nhật Bản... tập trung tại con đường này. Có quán loại sang ở tầng lầu, có quán bình dân ở ngay mặt phố, quảng trường. Trên phố cũng có nhiều bảo tàng nhỏ như Amber Twins gồm rất nhiều mẫu vật đủ loại làm bằng hổ phách; hay Bảo tàng Ripley \"độc nhất vô nhị\" ở châu Âu, 16 phòng trong diện tích 1.200m2 trưng bày toàn những vật lạ kỳ, hiếm có. Gần phố Stroget là công viên Tivoli rộng 82.000m2, được xây dựng từ năm 1843, là niềm tự hào của người dân Copenhagen. Tivoli là một công viên giải trí và cũng là một vườn hoa rực rỡ. Ban đêm, vườn hoa này được chiếu sáng bởi 100.000 bóng đèn màu. Tivoli có đủ các kiểu kiến trúc, các trò giải trí cho trẻ em và cả người lớn. Có những chiếc đu quay kiểu cổ điển, những nhà hàng dành cho gia đình và các quán ăn đặc biệt phục vụ khách sành ăn. Để bảo tồn phong cách lâu đời của một công viên kiểu cổ điển, đèn neon bị cấm sử dụng và người ta hạn chế tối đa việc sử dụng các vật liệu bằng xi măng, cốt thép. Đây còn là nơi ưa thích của những nhóm du khách trẻ tuổi ồn ào và mạo hiểm. Thiếu nhi thích đi trên những chiếc xe hơi kiểu cổ chầm chậm quanh công viên, thanh thiếu niên lại thích cảm giác ú tim trên những toa xe chạy trên những đường trượt uốn lượn trên cao. Công viên còn có những anh lính bảo vệ trong trang phục theo kiểu Hoàng Gia xưa đi diễu hành hộ tống những đứa trẻ ngồi trong những cỗ xe ngựa kéo dạo quanh những khu vườn. Tại đây còn có một nhà hát kịch câm kiểu Trung Hoa được xây dựng từ năm 1874 rất đặc biệt với tấm màn sân khấu hình con công- một trong những sân khấu lâu đời nhất của châu Âu thường biểu diễn những vở hài kịch truyền thống - gọi là \"hài kịch ứng tác\". Công viên chỉ mở cửa 6 tháng trong năm (từ trung tuần tháng 4 đến hạ tuần tháng 9) với nhiều chương trình biểu diễn nghệ thuật đặc sắc. Cạnh công viên Tivoli là Khu bảo tàng tượng Glyptotek, nhìn ra Đại lộ H.C. Andersen. Bước dọc đại lộ, cùng phía công viên Tivoli là Bảo tàng sáp Tussaud mở cửa từ năm 1894. Du khách sẽ không khỏi ngạc nhiên khi vừa bước vào cửa đã thấy vua hề Charles Chaplin y như thật đang ngả mũ chào. Xem bảo tàng, du khách như được gặp gần 300 nhân vật nổi tiếng thế giới, từ Marilyin Monroe, Mao Trạch Đông đến Bill Clinton... Bên kia đại lộ, Tòa thị chính sừng sững trong một khuôn viên rộng hơn 7.000m2 với tháp chuông cao 106m. Từ trên tháp, có thể thấy toàn cảnh thủ đô trải dài theo bờ biển. Một số lâu đài tiêu biểu ở Copenhagen như: Charlottenborg (cung điện mùa hè của hoàng gia), Amalienborg (cung điện mùa đông của hoàng gia), Christianborg (trụ sở quốc hội, tòa án tối cao, văn phòng thủ tướng) là nơi du khách thường ghé qua. Điểm tham quan quan trọng của thủ đô Copenhagen mà du khách không thể bỏ qua, đó là bức tượng Nàng tiên cá được đặt trên một tảng đá nhìn xuống vịnh Oresund. Bức tượng Nàng tiên cá có nguồn gốc gắn với câu chuyện cổ tích của đại văn hào Đan Mạch Christian Andersen - là tác phẩm của nhà điêu khắc Edward Eriksen (1876-1954) - được làm theo yêu cầu của ông Carlsberg Jacobsen (người sáng lập ra hãng bia Carlsberg) làm tặng phẩm cho thủ đô Copenhagen. Tuyệt tác này được hoàn thành vào năm 1913 và trở thành biểu tượng của nước Đan Mạch. Phía Bắc của tượng Nàng tiên cá là cầu tàu Langelinie dài 1 km, là bến đỗ cho một lượng lớn tàu bè. Nơi đây không chỉ thu hút đông đảo du khách nước ngoài mà ngay cả người bản xứ. Các gia đình Đan Mạch thích đi dạo ở Langelinie trong bất kỳ thời tiết nào để cảm nhận sự gần gũi của biển cả. Langelinie quyến rũ khi trời mưa hay có bão với những tia nước đập vào cầu tàu. Bến tàu, được xây dựng từ năm 1894 cùng với sự thiết lập của cảng tự do Copenhagen, có một tòa nhà kiểu cổ rất đẹp với nền lát bằng những tảng đá khối - xưa là kho trữ hàng, ngày nay là nơi bán quà lưu niệm cũng như các đặc sản chọn lọc của Đan Mạch. Đây cũng là nơi cung cấp thông tin du lịch, trao đổi ngoại tệ, cà phê, nhà hàng... Ra khỏi thủ đô Copenhagen, du khách có thể ngắm cảnh nông thôn ở ngay ba đảo nhỏ phía nam là Lolland, Falster và Mon). Ở đây có những thành phố xinh xinh của tỉnh lẻ, những làng mạc duyên dáng, những nhà thờ nông thôn, những lâu đài hoàng gia cổ kính. Nơi tập họp đông nhất là khu quảng trường Nytorv. Du khách có thể tham quan nhà thờ Đấng cứu thế, Sở giao dịch chứng khoán trên đường đi tham quan lâu đài Rosenborg để ngắm nhìn những trang sức của Nữ Hoàng Đan Mạch. Hay đi tham quan Viện Bảo Tàng và nhà hát Hoàng Gia, ghé coi các bức ảnh của Cung điện Amalienborg và ngắm nhìn bức tượng bức tượng cô gái người cá bé nhỏ với cái nhìn đăm chiêu, buồn bã đang hướng mắt nhìn ra hải cảng xa xa. Buổi tối tha hồ dạo phố, la cà mấy quán bar hay café, hay đi ra khu bến tàu. Nếu có thời gian, du khách có thể tham quan các đảo như bán đảo Jutland - thủ phủ của nó là Arhus, thành phố lớn thứ hai của đất nước Đan Mạch, có nhiều di tích người Viking (những chiến binh được coi là tổ tiên của người Bắc Âu). Arhus dành ra một khu tái hiện những tòa nhà cổ tứ khắp đất nước Đan Mạch. Phía Bắc đảo là vùng đồi, nhiều rừng nhất nước. Còn đảo Funen có thành phố Odense, quê hương nhà văn Christian Andersen. Nơi đây luôn xanh mượt, gợi không khí các chuyện cổ tích của ông. Đặc biệt, đảo Borholm ở biển Baltic đẹp như tranh với những vách đá cao sát biển, bãi cát dài, rừng rậm, thành phố nhỏ...; đảo Groenland với băng tuyết bao phủ; quần đảo Faroerre có khoảng 4.000 dân, sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản. Đặc biệt đảo Borholm ở biển Baltique đẹp như tranh với những vách đá cao sát biển, bãi cát dài, rừng rậm, thành phố nhỏ nên thơ. Ngoài ra, du khách cũng nên đến tham quan quần đảo Faroe ở Bắc Đại Tây Dương. Nơi đây có khoảng 4 vạn dân, sống về đánh cá là chính. Ở một số đảo núi đá, du khách có thể thấy hàng triệu chim biển đến đẻ và ấp trứng, có những trạm chim lớn. Quần đảo này có khí hậu ôn hoà, dễ chịu chủ yếu nhờ vào ảnh hưởng của dòng hải lưu Gulf. Ngoại trừ loài hươu sừng nhiều nhánh, Đan Mạch hầu như không có thêm loài thú lớn nào khác. Ngược lại, nơi đây lại là thế giới của vô số các loài chim. Nếu so với những nước cùng nằm trong khu vực Scandinavian thì giá cả ở Đan Mạch cũng thuộc hàng đắt đỏ. Hầu hết phí dịch vụ, tiền thuê phòng ở khách sạn hay mua sắm đều bị tính thuế đến 25%. Tùy theo cách bạn đi du lịch mà số tiền bạn phải chi tiêu hằng sẽ cao hay thấp. Nếu bạn ở nhà nghỉ bình dân và tự chuẩn bị thức ăn cho mình thì trung bình một ngày bạn tiêu hết 40$. Còn nếu bạn ở khách sạn sang trọng và ăn ở nhà hàng thì một ngày bạn có thể mất từ 70$ cho đến 100$. Một vài nơi dùng bữa khá rẻ như ở những ngôi chợ địa phương, buffet Mediterranean, pizza hay thức ăn Hy lạp... Ở Đan Mạch, nếu bạn thuê xe thì sẽ phải trả rất nhiều tiền. Giá cao gấp 3 lần tiền thuê xe ở Đức. Ở Đan Mạch, đơn vị tiền tệ là Krone. Không như những nước châu Âu khác, Đan Mạch không sử dụng đồng Euro. Chỉ có một số cửa hàng ở Copenhagen mới chấp nhận thanh toán bằng đồng Euro. Vì vậy tốt nhất du khách nên đổi tiền USD từ trong nước rồi sang Đan Mạch đổi tiền Krone. Nếu muốn đổi tiền, bạn có thể đến bất kỳ ngân hàng nào ở Đan Mạch. Thường thì ngân hàng làm việc từ 9 giờ đến 16 giờ tất các các ngày. Một số ngân hàng mở cửa cho đến 17 giờ 30 hay 18 giờ vào ngày thứ 5 trong tuần. Hầu hết các nhà hàng, cửa hàng mua sắm đều chấp nhận thanh toán bằng thẻ Visa hay Master. Ở Copenhagen, du khách cũng có thể đổi tiền ở những điểm giao dịch trên đường. Tuy nhiên bạn sẽ bị thiệt vì tỉ giá khá thấp.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Zuunmod",
"role": "user"
},
{
"content": "Zuunmod là thủ phủ tỉnh Töv (còn được gọi là Tuv) ở miền trung Mông Cổ. Zuunmod nằm ở phía nam của Khu bảo tồn nghiêm ngặt Bogd Khan Uul. Đây là một đô thị yên tĩnh và có một bảo tàng nhỏ, một công viên cùng với vài công trình tôn giáo. Nó được bao quanh bởi thảo nguyên Mông Cổ và nhiều ngọn đồi thấp. Năm 1696, một trận chiến đã diễn ra tại Zuunmod giữa quân đội Mãn Thanh do hoàng đế Khang Hy chỉ huy và quân Mông Cổ do Galdan Boshugtu Khan lãnh đạo. Trận chiến đã kết thúc với thắng lợi thuộc về nhà Thanh. Nếu muốn đến Zuunmod, bạn có thể lên xe buýt cỡ trung bình hoặc nhỏ. Chúng thường có giá rẻ (khoảng 2000 ₮) và đông đúc. Từ 08:00 đến 20:00 hàng ngày, xe buýt sẽ khởi hành từ bến xe Trung tâm Rồng ở thủ đô Ulaanbaatar. Nếu không muốn đi xe buýt, bạn có thể thuê taxi. Thành phố Zuunmod không có sân bay riêng nên bạn không thể đến đó bằng đường hàng không. Zuunmod đủ nhỏ để bạn đi bộ hoặc đạp xe đến các địa điểm khác nhau trong thành phố. 47.76474724073377Tu viện Manjusri1 Tu viện Manjusri (Манзуширын хийд), ☎ +976 9603 5559. Tu viện Phật giáo Tây Tạng này tôn thờ vị Bồ tát Văn-thù-sư-lợi. Nó được thành lập năm 1733 nhưng đến năm 1937 thì bị chính quyền Cộng sản phá hủy. Năm 1998, nhà nước đã quyết định bảo vệ khu vực này và khôi phục tòa nhà chính, biến nó thành một bảo tàng. Tu viện nằm cách thủ đô Ulaanbaatar 15 km, trên sườn phía nam của núi Bogd Khan. Có một nhà trọ ngay trong khuôn viên. 47.70691538895657Khu vườn trung tâm2 Khu vườn trung tâm (Зуунмод хотын төв цэцэрлэг) (nằm gần khu chợ trung tâm). 47.7006954475208Tu viện Dashchoinkhorlon3 Tu viện Dashchoinkhorlon. Trước khi bị phá hủy năm 1937, tu viện mang tên Bangiin Khiiree. Sau khi được xây dựng lại vào năm 1992, nơi này được đổi tên và bao gồm các bức tượng của Tsongkhapa (một vị lạt ma Tây Tạng) và Thích Ca Mâu Ni. Tại đây vẫn còn một số bảo tháp cổ chưa bị hư hại. 47.706294227333316Bảo tàng tỉnh Töv4 Bảo tàng tỉnh Töv (đối diện với khu vườn trung tâm), ☎ +976 7027 3619. Tại Zuunmod, bạn có thể thuê ngựa để cưỡi trên đồng cỏ hoặc tham dự lễ hội Naadam truyền thống. Lễ hội được tổ chức vào tháng 7 hàng năm, khi vùng này đón nhiều khách du lịch nhất. 47.71231368198349Chợ Khodol1 Chợ Khodol, ☎ +976 8911 0205. 47.704949807112264Khu chợ trung tâm2 Khu chợ trung tâm (төв маркет) (phía nam khu vườn trung tâm), ☎ +976 9511 1000. 47.70250945861076Siêu thị Nomin3 Siêu thị Nomin (gần nhà hàng K-8). 47.706667761165654Chợ Dalai eej4 Chợ Dalai eej (Далай ээж) (nằm ở phía đông bắc khu trung tâm thành phố). 47.70977945264324Cửa hàng Camera15 Cửa hàng Camera1. Chuyên bán các loại máy ảnh. 47.70854240719009Cửa hàng tạp phẩm Zayaaga LLC6 Cửa hàng tạp phẩm Zayaaga LLC (Заяага ХХК). 47.707799706882476Nhà hàng Arvai1 Nhà hàng Arvai (cùng đường với khách sạn Zuunmod). Có dịch vụ karaoke. 47.70844874110192Nhà hàng Samata2 Nhà hàng Samata (Самата). 47.706499442082354Nhà hàng MD3 Nhà hàng MD, ☎ +976 9919 9507. Cũng có dịch vụ karaoke trong nhà hàng. 47.70580363818262Nhà hàng Ekhlel4 Nhà hàng Ekhlel (Эхлэл Бэйкери), ☎ +976 9155 2000. 47.707029188782904Nhà hàng Chansaa5 Nhà hàng Chansaa (Чансаа), ☎ +976 9400 7285. 47.70722682691763Nhà hàng K-46 Nhà hàng K-4. 10:30–22:00 hàng ngày. Phù hợp cho trẻ em. 47.7058676586987Nhà hàng K-67 Nhà hàng K-6 (phía nam nhà hàng MD). 47.70262497520153Nhà hàng K-78 Nhà hàng K-7. Một nhà hàng bình dân nhỏ. 47.70298425443414Nhà hàng K-89 Nhà hàng K-8, ☎ +976 8894 1046. 08:45–22:45 hàng ngày. 47.70956208776454Quán cà phê Wonderful days1 Quán cà phê Wonderful days (nằm gần khách sạn Zuunmod), ☎ +976 8973 1004. Zuunmod có một số khách sạn, nhưng chúng có thể bị đóng cửa tạm thời trong mùa đông. 47.70895138333239Khách sạn Zuunmod1 Khách sạn Zuunmod (nằm ở phía đông bắc khu vườn trung tâm), ☎ +976 7027 2887. Một khách sạn hai tầng nhỏ. Các nhà nghỉ, nhà hàng và quán rượu tại Zuunmod có thể cung cấp dịch vụ internet không dây miễn phí. Các nhà mạng cung cấp điện thoại di động chính tại khu vực này là MobiCom, Skytel, G-mobile và Unitel. Khu dự trữ sinh quyển Bogd Khan Uul ở ngay phía bắc thành phố. Khustain Nuruu, Khogno Khan và Gorkhi-Terelj - các vườn quốc gia tại Trung Mông Cổ. Khu bảo tồn thiên nhiên Gun-Galuut.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Sổ tay tiếng Tây Ban Nha",
"role": "user"
},
{
"content": "Lưu ý: Đối với hầu hết các phần, những ví dụ này cung cấp cách phát âm của Mỹ Latinh, không thực sự của Tây Ban Nha. Chào bạn (thân mật) Hola (OH-lah) Chúc một ngày tốt lành Que pase un buen día (keh PAH-seh un BWEHN DEE-ah) Bạn khỏe không? (thân mật) ¿Cómo estás? (KOH-moh ehs-TAHS?) Ông/Bà khỏe không? (lịch sự) ¿Cómo está usted? (KOH-moh ehs-TAH oos-TEHD?) Cảm ơn, tôi khỏe Muy bien, gracias. (MOO-ee byehn, GRAH-syahs) Tên của bạn là gì? (thân mật) ¿Cómo te llamas? (KOH-moh TAY YAH-mahs?) Tên của ông/bà là gì? (lịch sự) ¿Cómo se llama usted? (KOH-moh SAY YAH-mah oos-TEHD?) Bạn là ai? (thân mật) ¿Quién eres? (KYEN EH-rehs?) Ông/Bà là ai? (lịch sự) ¿Quién es usted? (KYEN ehs oos-TEHD?) Tên tôi là ______ Me llamo ______ (MEH YAH-moh _____ ) Tôi là ______ Yo soy ______ (YOH SOY ______) Rất vui được gặp bạn/ông/bà Encantado/a (ehn-kahn-TAH-doh/ehn-kahn-TAH-dah) Rất hân hạnh (được làm quen, được gặp mặt) Mucho gusto. (MOO-choh GOOS-toh) Làm ơn Por favor (POHR fah-BOHR) Cảm ơn Gracias (GRAH-syahs) Không có gì De nada (DAY NAH-dah) Vâng / Ừ / Dạ / Đúng vậy Sí (SEE) Không / Không đúng No (NOH) Xin tha lỗi (vì đã phạm lỗi) Disculpe (dees-KOOL-peh) Xin lỗi (vì đã phạm lỗi hoặc muốn ngắt lời, muốn đi qua...) Perdone (pehr-DOHN-eh) Tôi xin phép (trước khi làm điều gì đó) Permiso (pehr-MEE-so) Xin lỗi (tỏ ý hối tiếc vì đã làm sai) Lo siento (LOH SYEHN-toh) Tạm biệt / Hẹn gặp lại Adiós (ah-DYOHS) / Hasta luego (AHS-tah LWEH-goh) Tôi có thể nói được chút ít tiếng Tây Ban Nha Hablo un poco español. (ah-BLOH oon POH-koh eha-pah-NYOHL) Tôi không nói được (tốt) tiếng Tây Ban Nha No hablo (bien) español (noh AH-bloh (byehn) ehs-pah-NYOL) Bạn nói được tiếng Anh không? (thân mật) ¿Hablas inglés? (AH-blahs een-GLEHS?) Ông/Bà nói được tiếng Anh không? (lịch sự) ¿Habla usted inglés? (AH-blah oos-TEHD een-GLEHS?) Có người nào ở đây nói được tiếng Anh không? ¿Hay alguien que hable inglés? (ai ahl-GYEHN keh AH-bleh een-GLEHS?) Cứu tôi với! ¡Ayuda! (ah-YOO-dah!) / ¡Socorro! (soh-KOHR-roh!) Chào bạn/ông/bà (lời chào vào buổi sáng, buổi trưa) Buenos días (BWEH-nohs DEE-ahs) Chào bạn/ông/bà (lời chào vào buổi chiều / buổi tối) Buenas tardes (BWEH-nahs TAR-dehs) Chào bạn/ông/bà (lời chào vào ban đêm) / Chúc ngủ ngon Buenas noches (BWEH-nahs NOH-chehs) Tôi không hiểu No entiendo (NOH ehn-TYEHN-doh) Xin ông/bà nói chậm hơn! ¿Podría usted hablar más despacio por favor? (poh-DREE-ah oos-TEHD ah-BLAHR MAHS dehs-PAH-syoh pohr fah-BOHR?) Xin ông/bà lặp lại lần nữa! ¿Podría usted repetirlo por favor? (poh-DREE-ah oos-TEHD reh-peh-TEER-loh pohr fah-BOHR?) Nhà vệ sinh ở đâu vậy? ¿Dónde está el baño? (DOHN-deh ehss-TAH EHL BAH-nyoh?) / In Spain: ¿Dónde están los aseos? (DOHN-deh ehs-TAHN lohs ah-SEH-ohs) Hãy để tôi yên. Déjame en paz. (DEH-hah-meh ehn PAHS) Đừng động vào tôi! ¡No me toques! (noh meh TOH-kehs!) Llamaré a la policía. (yah-mah-REH ah lah poh-lee-SEE-ah) Cảnh sát! ¡Policía! (poh-lee-SEE-ah!) Cướp, cướp, bắt lấy nó! ¡Alto, ladrón! (AHL-toh, lah-DROHN!) Tôi cần giúp đỡ. Necesito ayuda. (neh-seh-SEE-toh ah-YOO-dah) Đây là trường hợp khẩn cấp. Es una emergencia. (ehs OO-nah eh-mehr-HEHN-syah) Tôi bị lạc đường. Estoy perdido/a (ehs-TOY pehr-DEE-doh/dah) Tôi bị mất túi xách tay. Perdí mi bolsa/bolso/cartera. (pehr-DEE mee BOHL-sah / BOHL-soh / kahr-TEH-rah) Tôi bị mất ví. Perdí la cartera/billetera. (pehr-DEE lah kahr-TEH-rah / bee-yeh-TEH-rah) Tôi bị ốm. Estoy enfermo/a. (ehs-TOY ehn-FEHR-moh/mah) Tôi bị thương. Estoy herido/a. (ehs-TOY heh-REE-doh/dah) Tôi cần đến bác sĩ. Necesito un médico. (neh-seh-SEE-toh OON MEH-dee-coh) Tôi có thể sử dụng điện thoại của ông/bà không? ¿Puedo usar su teléfono? (PWEH-doh oo-SAHR soo teh-LEH-foh-noh?) Tôi có thể mượn điện thoại di động của ông/bà không? ¿Me presta su celular/móvil? (meh PREHS-tah soo seh-loo-LAHR / MOH-beel?) (\"celular\" ở châu Mỹ; \"móvil\" ở Tây Ban Nha và châu Phi) Tôi cần phải gọi đại sứ quán. Necesito llamar a la embajada (neh-seh-SEE-toh yah-MAHR ah lah em-bah-HAH-dah) Nhìn chung, hệ thống đánh số của Tây Ban Nha khá đơn giản. Đối với các số từ 21 đến 29, \"e\" từ \"veinte\" được thay thế bằng \"i\" và số thứ tự được thêm vào phía sau. Đối với các số từ 31 đến 99, hàng chục và hàng đơn vị được phân tách bằng \"y\" (ví dụ: 31: treinta y una; 99: noventa y nueve). Lưu ý rằng \"y\" không được sử dụng để phân tách hàng trăm với hàng chục hoặc hàng nghìn với hàng trăm. Từ 200 trở đi, hàng trăm được đặt tên bằng cách sử dụng số thứ tự + cientos (ví dụ: 200: doscientos), song các số 500 (quinientos), 700 (setecientos) và 900 (novecientos) là những ngoại lệ của quy tắc này và cần được để ý. Việc đặt tên cho hàng nghìn là đơn giản, với số thứ tự + mil. Từ hàng triệu trở đi, lưu ý rằng số nhiều được sử dụng cho các số trên 1.000.000. Cũng lưu ý rằng không giống như tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha sử dụng thang âm dài. Do đó, un billón và un trillón không giống với \"một tỷ\" và \"một nghìn tỷ\" trong tiếng Anh. 0 cero (SEH-roh) 1 uno (OO-noh) 2 dos (dohs) 3 tres (trehs) 4 cuatro (KWAH-troh) 5 cinco (SEEN-koh) 6 seis (SEH-ees) 7 siete (see-EH-teh) 8 ocho (OH-choh) 9 nueve (noo-EH-beh) 10 diez (dee-EHS) 11 once (OHN-seh) 12 doce (DOH-seh) 13 trece (TREH-seh) 14 catorce (kah-TOHR-seh) 15 quince (KEEN-seh) 16 dieciséis (dee-EH-see-SEH-ees) 17 diecisiete (dee-EH-see-see-EH-teh) 18 dieciocho (dee-EH-see-OH-choh) 19 diecinueve (dee-EH-see-NOO-EH-beh) 20 veinte (VAIN-teh) 21 veintiuno (VAIN-tee-OO-noh) 22 veintidós (VAIN-tee-DOHS) 23 veintitrés (VAIN-tee-TREHS) 30 treinta (TRAIN-tah) 31 treinta y uno 32 treinta y dos 40 cuarenta (kwah-REHN-tah) 50 cincuenta (seen-KWEHN-tah) 60 sesenta (seh-SEHN-tah) 70 setenta (seh-TEHN-tah) 80 ochenta (oh-CHEHN-tah) 90 noventa (noh-BEHN-tah) 100 cien (see-EHN) 101 ciento uno 102 ciento dos 200 doscientos (dohs-see-EHN-tohs) 201 doscientos uno 202 doscientos dos 300 trescientos (trehs-see-EHN-tohs) 500 quinientos (kee-nee-EHN-tohs) 700 setecientos 900 novecientos 1.000 mil (MEEL) 1.001 mil uno 1.002 mil dos 2.000 dos mil (dohs MEEL) 3.000 tres mil 1.000.000 un millón (oon mee-YOHN) 2.000.000 dos millones 1.000.000.000 mil millones (meel mee-YOH-nehs) 1.000.000.000.000 un billón (oon bee-YOHN) nửa medio (MEH-dyoh) ít hơn menos (MEH-nohs) nhiều hơn más (MAHS) bây giờ ahora (ah-OH-rah) lát nữa / sau đó después (dehs-PWEHS) trước đó antes (AHN-tehs) buổi sáng mañana (mah-NYAH-nah) buổi chiều / buổi tối tarde (TAHR-deh) ban đêm noche (NOH-cheh) 1 giờ sáng la una de la madrugada; la una de la mañana (lah OOH-nah deh lah mah-droo-GAH-dah; lah OOH-nah deh lah mah-NYAH-nah) 2 giờ sáng las dos de la madrugada; las dos de la mañana (lahs DOHS deh lah mah-droo-GAH-dah; lahss DOHS deh lah mah-NYAH-nah) 10 giờ sáng las diez de la mañana (lahs dee-EHS deh lah mah-NYAH-nah) trưa mediodía; las doce de la mañana (meh-dee-oh-DEE-ah; lahs DOH-seh deh lah mah-NYAH-nah) 1 giờ chiều la una de la tarde (lah OOH-nah deh lah TAHR-deh) 2 giờ chiều las dos de la tarde (lahs DOHS deh lah TAHR-deh) 10 giờ tối las diez de la noche (lahs dee-EHS deh lah NOH-cheh) nữa đêm medianoche; las doce de la noche (meh-dee-yah-NOH-cheh; lahs DOH-seh deh lah NOH-cheh) 9 giờ sáng nueve de la mañana (9:00) 12 giờ 30 trưa doce y media de la mañana (12:30) una de la tarde (13 00) 10 giờ tối diez de la noche (22:00) 2 giờ sáng dos de la madrugada hoặc dos de la mañana (2:00) phút minuto(s) (mee-NOO-toh(s)) giờ hora(s) (OH-rah(s)) ngày día(s) (DEE-ah(s)) tuần semana(s) (seh-MAH-nah(s)) tháng mes(es) (MEHS-(ehs)) năm año(s) (AH-nyoh(s)) hôm nay hoy (oy) hôm qua ayer (ah-YEHR) ngày mai mañana (mah-NYAH-nah) tuần này esta semana (EHS-tah seh-MAH-nah) tuần trước la semana pasada (lah seh-MAH-nah pah-SAH-dah) tuần sau la semana que viene (lah seh-MAH-nah keh BYEH-neh) Chú ý: Tất cả các ngày trong tuần đều viết chữ thường. Thứ hai lunes (LOO-nehs) Thứ ba martes (MAHR-tehs) Thứ tư miércoles (MYEHR-koh-lehs) Thứ năm jueves (WEH-vehs) Thứ sáu viernes (VYEHR-nehs) Thứ bảy sábado (SAH-bah-doh) Chủ nhật domingo (doh-MEEN-goh) Một tuần lễ bắt đầu vào thứ hai. Chú ý: Tất cả các tháng trong tiếng Tây Ban Nha được viết bằng chữ thường. Tháng 1 enero (eh-NEH-roh) Tháng 2 febrero (feh-BREH-roh) Tháng 3 marzo (MAR-soh) Tháng 4 abril (ah-BREEL) Tháng 5 mayo (MAH-joh) Tháng 6 junio (HOO-nyoh) Tháng 7 julio (HOO-lyoh) Tháng 8 agosto (ah-GOHS-toh) Tháng 9 septiembre (sehp-TYEHM-breh) Tháng 10 octubre (ohk-TOO-breh) Tháng 11 noviembre (noh-VYEHM-breh) Tháng 12 diciembre (dee-SYEHM-breh) Ngày được viết ở dạng ngày-tháng-năm. Tất cả cách nói và viết, các hình thức dài và ngắn theo mô hình này: 7 tháng 5 năm 2003 7 de mayo de 2003 23 tháng 10 năm 1997 23 de octubre de 1997 Cấu trúc ngày-tháng (ví dụ 4 de julio) thường không được viết tắt. Trong các trường hợp hiếm hoi mà viết tắt được sử dụng, cách viết tháng bằng số thường không được sử dụng nhưng lại bằng chữ đầu tiên. Ví dụ thông thường là: 23-F 23 de febrero, ngày của một cuộc đảo chính thất bại ở Tây Ban Nha (1981) 11-S 11 de septiembre, ngày tấn công vào tòa tháp đôi WTC (2001) (và của cuộc đảo chính Chile năm 1973). đen negro (NEH-groh) trắng blanco (BLAHN-koh) xám gris (GREES) đỏ rojo (ROH-hoh) xanh lam azul (ah-SOOL) vàng amarillo (ah-mah-REE-yoh) xanh lục verde (BEHR-deh) cam naranja (nah-RAHN-hah), anaranjado (ah-nah-rahn-HA-doh) tím púrpura (POOR-poo-rah), morado (moh-RAH-doh), violeta (vee-oh-LEH-tah) hồng rosa (ROH-sah) nâu marrón (mahr-ROHN) (it should be noted \"marrón\" is used to describe color of objects), café (kah-FEH) (used mostly for skin color, clothing and fabric), castaño (kahs-TAH-nyoh) (is used primarily for skin color, eye color and hair color). ô tô carro(KAHR-roh), coche (KOH-cheh), auto (OW-toh) xe buýt autobús (ow-toh-BOOS), guagua (GWAH-gwah) xe thùng furgoneta (foor-goh-NEH-tah), combi (KOHM-bee) xe tải camión (kah-MYOHN) máy bay avión (ah-BYOHN), aeroplano (ah-eh-roh-PLAH-noh) trực thăng helicóptero (eh-lee-KOHP-teh-roh) tàu hỏa tren (trehn) tàu điện ngầm metro (MEH-troh) xe điện tranvía (trahns-BYAH) xe điện chở hành khách trole (TROH-leh), trolebús (troh-leh-BOOS) thuyền bote (BOH-teh) tàu thủy barco (BAHR-koh) phà transbordador (trahns-bohr-dah-DOHR) xe đạp bicicleta (bee-see-KLEH-tah) xe máy motocicleta (moh-toh-see-KLEH-tah) Giá một vé đến _____ là bao nhiêu? ¿Cuánto cuesta un billete (Tây Ban Nha) / pasaje (Nam Mỹ) / boleto (Mexico) a _____? (KWAHN-toh KWEHS-tah oon beeh-YEH-teh/pah-SAH-heh/boe-LAY-toe ___) Một vé đến _____, làm ơn. Un boleto/pasaje a _____, por favor. (oon boh-LEH-toh/pah-SAH-heh ah _______, pohr fah-BOHR.) Tàu (hỏa)/xe buýt này đi đâu? ¿A donde va este tren/autobús? (ah DOHN-deh bah EHS-teh trehn/ ow-toh-BOOS?) Tàu (hỏa)/xe buýt này đến đâu _____? ¿Donde está el tren/autobús hacia _____? (DOHN-deh ehs-TAH ehl trehn/ ow-toh-BOOS ah-syah_____?) Tàu (hỏa)/xe buýt có dừng lại ở _____? ¿Se para este tren/autobús en? _____? (seh PAH-rah EHS-teh trehn/ow-toh-BOOS ehn___?) Khi nào tàu (hỏa)/xe buýt _____ nghỉ? ¿Cuándo hace el tren/autobús para_____ departa? (KWAHN-doh AH-seh ehl trehn/ow-toh-BOOS PAH-rah____deh-PAHR-tah?) Khi nào thì tàu (hỏa)/xe buýt này đến _____? ¿Cuándo llegará este tren/autobús a _____? (KWAHN-doh yeh-gah-RAH EHS-teh trehn/ow-toh-BOOS ah____?) Làm thế nào để tôi đến _____ ? ¿Cómo puedo llegar a _____ ? (KOH-moh PWEH-doh yeh-GAHR ah____?) ...nhà ga xe lửa? ...la estación de tren? (....lah ehs-tah-SYOHN deh trehn?) ...bến xe buýt? ...la estación de autobuses? (....lah ehs-tah-SYOHN deh ow-toh-BOO-sehs?) ...sân bay? ...al aeropuerto? (ehl ah-eh-roh-PWEHR-toh?) ...trung tâm thành phố? ...al centro? (ahl SEHN-troh?) ...nhà nghỉ thanh niên? ...al hostal? (ahl ohs-TAHL) ...khách sạn _____? ...el hotel _____ ? (ehl oh-TEHL?) ...tới đại sứ quán Việt Nam? ...el consulado de vietnamita? (ehl kohn-soo-LAH-doh deh viet-nam-mitaa) Nơi nào có nhiều... ¿Dónde hay muchos... (DOHN-deh eye MOO-chohs) ...khách sạn? ...hoteles? (oh-TEH-lehs) ...nhà hàng? ...restaurantes? (rehs-tow-RAHN-tehs) ...khách sạn? ...bares? (BAH-rehs) ...thắng cảnh? ...sitios para visitar? (SEE-tyohs PAH-rah bee-see-TAHR) Bạn có thể chỉ [vị trí] của tôi trên bản đồ? ¿Puede enseñarme/mostrarme en el mapa? (PWEH-deh ehn-seh-NYAHR-meh/mohs-TRAHR-meh ehn ehl MAH-pah?) đường calle (KAH-yeh) rẽ trái. Gire/doble/da vuelta a la izquierda. (HEE-reh/DOH-bleh/dah VWEHL-tah ah lah ees-KYEHR-dah) rẽ phải. Gire/doble/da vuelta a la derecha. (HEE-reh/DOH-bleh/dah VWEHL-tah ah lah deh-REH-chah) trái izquierda (ees-KYEHR-dah) phải derecha (deh-REH-chah) thẳng về phía trước todo recto (TOH-doh REHK-toh), siga derecho (SEE-gah deh-REH-choh) hướng tới _____ hacia el/la_____ (HAH-syah ehl/lah) quá _____ pasado el/la _____ (pah-SAH-doh ehl/lah) trước _____ antes de _____ (AHN-tehs deh) Cho biết vị trí _____ ở đâu. busque el/la _____. (BOOS-keh ehl/lah) ngã ba / ngã tư / giao lộ intersección, cruce (een-tehr-sehk-SYOHN, KROO-seh) bắc norte (NOHR-teh) nam sur (soor) đông este (EHS-teh) tây oeste (ooh-EHS-teh) đường dốc lên hacia arriba (AH-syah ahr-REE-bah) dốc xuống hacia abajo (AH-syah ah-BAH-hoh) Taxi! ¡Taxi! (TAHK-see) Đưa tôi tới _____, làm ơn. Lléveme a _____, por favor. (YEH-beh-meh ah) Đến _____ hết bao nhiêu tiền? ¿Cuanto cuesta ir hasta/a _____? (KWAHN-toh KWEHS-tah eer AHS-tah/ah) Hãy để tôi ở lại đây, làm ơn. Déjeme ahí, por favor. (DEH-heh-meh ah-EE, pohr FAH-bohr) Do you have any rooms available? ¿Hay habitaciones libres? (ai ah-bee-tah-SYOH-nehs LI-brehs?) How much does a room cost for one person/two people? ¿Cuanto cuesta una habitación para una persona/para dos personas? (KWAHN-toh KWEHS-tah OO-nah ah-bee-tah-SYOHN PAH-rah OO-nah pehr-SOH-nah/PAH-rah dohs pehr-SOH-nahs?) Does the room come with...? ¿La habitación viene con....? (lah ah-bee-tah-SYOHN BYEH-neh kohn?) ...bedsheets? ...sábanas? (SAH-bah-nahs?) ...a bathroom? ...un baño? (oon BAH-nyoh?) ...a telephone? ...un teléfono? (oon teh-LEH-foh-noh?) ...a TV? ...un televisor? (oon teh-leh-vee-SOHR?) ...with Internet access? ...con acceso al internet? (kohn ahk-SEH-soh ahl een-terh-NEHT?) ...with room service? ...con servicio a la habitación? (kohn sehr-BEE-syoh ah lah ah-bee-tah-SYOHN?) ...a double bed? ...una cama de matrimonio? (OO-nah KAH-mah mah-tree-MOH-nyoh?) ...a single bed? ...una cama sola? (OO-nah KAH-mah SOH-lah?) May I see the room first? ¿Puedo ver la habitación primero? (PWEH-doh vehr lah ah-bee-tah-SYOHN pree-MEH-roh?) Do you have anything quieter? ¿Tiene algo más tranquilo? (TYEH-neh AHL-goh MAHS trahn-KEE-loh?) ...bigger? ...más grande? (MAHS GRAHN-deh) ...cleaner? ...más limpio? (MAHS LEEM-pyoh) ...cheaper? ...más barato? (MAHS bah-RAH-toh) OK, I'll take it. Muy bien, la tomaré. (MOO-ee byehn, lah toh-mah-REH) I will stay for _____ night(s). Me quedaré ______ noche(s). (meh keh-dah-REH ___ NOH-cheh(s)) Can you suggest other hotels? ¿Puede recomendarme otros hoteles? (PWEH-deh reh-koh-mehn-DAHR-meh OH-trohs oh-TEH-lehs?) Do you have a safe? ¿Hay caja fuerte? (eye KAH-hah FWEHR-teh?) ...lockers? ...taquillas?/casilleros?/guardaropas? (tah-KEE-yahs/kah-see-YEH-rohs?/gwah-rdah-ROH-pahs) Is breakfast/supper included? ¿El desayuno/la cena va incluido/a? (ehl deh-sah-YOO-noh/lah SEH-nah bah een-kloo-WEE-doh/ah?) What time is breakfast/supper? ¿A qué hora es el desayuno/la cena? (ah KEH OH-rah ehs ehl deh-sah-YOO-noh/lah SEH-nah?) Please clean my room. Por favor, limpie mi habitación. (pohr fah-BOHR, LEEM-pyeh mee ah-bee-tah-SYOHN) Can you wake me at _____? ¿Puede despertarme a las _____? (PWEH-deh dehs-pehr-TAHR-meh ah lahs) I want to check out. Quiero dejar el hotel. (KYEH-roh deh-HAHR ehl oh-TEHL) Do you accept American/Australian/Canadian dollars? ¿Aceptan dólares estadounidenses/australianos/canadienses? (ah-SEHP-tahn DOH-lah-rehs ehs-tah-dow-oo-nee-DEHN-sehs/ows-trah-LYAH-nohs/kah-nah-DYEHN-sehs?) Do you accept British pounds? ¿Aceptan libras esterlinas británicas? (ah-SEHP-tahn LEE-brahs ehs-tehr-LEE-nahs bree-TAH-nee-kahs?) Do you accept euros? ¿Aceptan euros? (ah-SEHP-tahn eh-OO-rohs?) Do you accept credit cards? ¿Aceptan tarjeta de crédito? (ah-SEHP-tahn tahr-HEH-tah deh KREH-dee-toh?) Can you change money for me? ¿Me puede cambiar dinero? (meh PWEH-deh kahm-BYAHR dee-NEH-roh?) Where can I get money changed? ¿Dónde puedo cambiar dinero? (DOHN-deh PWEH-doh kahm-BYAHR dee-NEH-roh?) Can you change a traveler's check for me? ¿Me puede cambiar cheques de viaje? (meh PWEH-deh kahm-BYAHR CHEH-kehs deh BYAH-heh?) Where can I get a traveler's check changed? ¿Dónde me pueden cambiar cheques de viaje? (DOHN-deh meh PWEH-dehn kahm-BYAHR CHEH-kehs deh BYAH-heh?) What is the exchange rate? ¿A cuánto está el cambio? (ah KWAHN-toh ehs-TAH ehl KAHM-byoh?) Where is an automatic teller machine (ATM)? ¿Dónde hay un cajero automático? (DOHN-deh eye kah-HEH-roh ow-toh-MAH-tee-koh?) I need small change. Necesito cambio pequeño. (neh-seh-SEE-toh KAHM-byoh peh-KEH-nyoh) I need big bills. Necesito billetes grandes. (neh-seh-SEE-toh bee-YEH-tehs GRAHN-dehs) I need coins Necesito monedas. (neh-seh-SEE-toh moh-NEH-dahs) plate plato (PLAH-toh) bowl tazón/cuenco (tah-SOHN/KWEHN-koh) spoon cuchara (koo-CHAH-rah) fork tenedor (teh-NEH-dohr) drinking glass vaso/copa (BAH-soh/KOH-pah) knife cuchillo (koo-CHEE-yoh) cup/mug taza (TAH-sah) saucer platillo (plah-TEE-yoh) napkin/serviette servilleta (sehr-bee-YEH-tah) A table for one person/two people, please. Una mesa para una persona/dos personas, por favor. (OO-nah MEH-sah pah-rah OO-nah pehr-SOH-nah / dohs pehr-SOH-nahs pohr fah-BOHR) Can I look at the menu, please? ¿Puedo ver el menú, por favor? (PWEH-doh behr ehl meh-NOO pohr fah-BOHR?) Can I look in the kitchen? ¿Puedo entrar a la cocina? (PWEH-doh ehn-TRAHR ah lah koh-SEE-nah?) Is there a house specialty? ¿Hay alguna especialidad de la casa? (ay ahl-GOO-nah ehs-peh-syah-lee-DAHD deh lah KAH-sah?) Is there a local specialty? ¿Hay alguna especialidad regional/de la zona? (ay ahl-GOO-nah ehs-peh-syah-lee-DAHD reh-hyoh-NAHL/deh lah SOH-nah?) I'm a vegetarian. Soy vegetariano/-na. (soy beh-heh-tah-RYAH-noh/-nah) I don't eat pork. No como cerdo. (noh KOH-moh SEHR-doh) I only eat kosher food. Sólo como comida kosher. (SOH-loh KOH-moh koh-MEE-dah koh-SHEHR) (In a restaurant they will stare at you, since \"kosher\" is as Spanish as \"empanada\" is English.) Can you make it \"lite\", please? (less oil/butter/lard) ¿Puede poner poco aceite/poca mantequilla/poca grasa/manteca? (PWEH-deh poh-NEHR POH-koh ah-SAY-teh/POH-kah mahn-teh-KEE-yah/POH-kah GRAH-sah/mahn-TEH-kah?) fixed-price meal comida precio fijo (koh-MEE-dah preh-see-oh fee-ho) à la carte a la carta (ah lah KAHR-tah) breakfast desayuno (deh-sah-YOO-noh) lunch comida (koh-MEE-dah) (Spain, Mexico), almuerzo (ahl-MWEHR-soh) (South America) dinner or supper cena (SEH-nah) (everywhere) snack bocado (boh-KAH-doh) I want _____. Quiero _____. (KYEH-roh) I want a dish containing _____. Quisiera un plato que lleve _____. (kee-SYEH-rah oon PLAH-toh keh YEH-beh) chicken pollo. (POH-yoh) beef ternera (tehr-NEH-rah), vacuno (bah-KOO-noh), res (rehss) fish pescado (pehs-KAH-doh) ham jamón (hah-MOHN) sausage salchicha (sahl-CHEE-chah), vienesa (byeh-NEH-sah) cheese queso (KEH-soh) eggs huevos (oo-WEH-bohs) salad ensalada (ehn-sah-LAH-dah) (fresh) vegetables verduras (frescas) (behr-DOO-rahs (FREHS-kahs)) (fresh) fruit fruta (fresca) (FROO-tah (FREHS-kah)) bread pan (pahn) toast tostada (tohs-TAH-dah) noodles fideos (FEE-deh-ohs) rice arroz (ahr-ROHS) beans frijoles (free-HOH-lehs), habichuelas (ah-bee-CHWEH-lahs) May I have a glass of _____? ¿Me puede poner/traer un vaso de _____? (meh PWEH-deh poh-NEHR/trah-EHR oon BAH-soh deh?) May I have a cup of _____? ¿Me puede poner/traer una taza de _____? (meh PWEH-deh poh-NEHR/trah-EHR OO-nah TAH-sah deh?) May I have a bottle of _____? ¿Me puede poner/traer una botella de _____? (meh PWEH-deh poh-NEHR/trah-EHR OO-nah boh-TEH-yah deh?) coffee café (kah-FEH) tea (drink) té (TEH) juice zumo (THOO-mo) (Spain), jugo (HOO-goh) (South America) water agua (AH-gwah) (bubbly) water agua con gas (AH-gwah kohn gahs) (if you say agua, if you ask at the bar, it will be tap water (for free), at the table it is normally bottled); Agua mineral (AH-gwah mee-neh-RAHL) is bottled mineral water. beer cerveza (sehr-VAY-sah) red/white wine vino tinto/blanco (BEE-noh TEEN-toh/BLAHN-koh) May I have some _____? ¿Me puede dar un poco de _____? (meh PWEH-deh dahr oon POH-koh deh?) salt sal (sahl) black pepper pimienta (pee-MYEHN-tah) butter mantequilla (mahn-teh-KEE-yah), manteca (mahn-TEH-kah) (in Argentina) Excuse me, waiter? (getting attention of server') ¡camarero! (kah-mah-REH-roh) (Spain), ¡mesero! (meh-SEH-roh) (Latin America), ¡mozo! (MOH-zoh) (Argentina) I'm finished. He acabado, terminé (heh ah-kah-BAH-doh, tehr-mee-NEH) (The first phrase can refer to the finishing of a completely unrelated physiological activity) It was delicious. Estaba delicioso/muy bueno/muy rico. (Arg.) (ehs-TAH-bah deh-lee-SYOH-soh/MOO-ee BWEH-noh/MOO-ee REE-koh) Please clear the plates. Puede llevarse los platos. (PWEH-deh yeh-BAHR-seh lohs PLAH-tohs) The check, please. La cuenta, por favor. (lah KWEHN-tah, pohr fah-BOHR) Note that you must ask for the bill. A gringo was known to have waited until 2 in the morning because he was too shy to ask:). bar barra (BAHR-rah) tavern/pub taberna (tah-BEHR-nah) club club (kloob) Could we dance here? ¿Podríamos bailar aquí? (poh-DREE-ah-mohs BAI-lahr ah-KEE?) What time do you close? ¿A qué hora usted cierra? (ah KEH OH-rah oos-TEHD SYEHR-rah?) Do you serve alcohol? ¿Sirve usted el alcohol? (SEER-beh oos-TEHD ehl ahl-koh-OHL?) Is there table service? ¿Hay servicio a la mesa? (eye sehr-BEE-syoh ah lah MEH-sah?) A beer/two beers, please. Una cerveza/dos cervezas, por favor. (OO-nah sehr-BEH-sah/dohs sehr-BEH-sahs, pohr FAH-bohr) A glass of red/white wine. Un vaso de vino tinto/blanco. (oon BAH-soh deh BEE-noh TEEN-toh/BLAHN-koh) A pint (of beer) Una jarra de cerveza (normally it will be half a liter, not really a pint); In Chile or Argentina un schop might be anywhere from 300mL to one litre; in Spain the most common is una caña which is 200mL in a tube glass; you can also ask for un quinto (200mL bottle) or un tercio (330mL bottle) A glass of draft beer Un schop (oon SHOHP) (Chile and Argentina) / Una cerveza de barril (OO-nah sehr-BEH-sah deh bahr-REEL) (Mexico); in Spain you can ask for Cerveza negra, not very common in spanish Bares, but easy to find in Pubs (Pub=small club where just drinks are served). _____ (hard liquor) and _____ (mixer). _____ con _____. In Spain, Cubata is Coke with whiskey A bottle. Una botella. (OO-nah boh-TEH-yah) whiskey whisky (WEES-kee) vodka vodka (BOHD-kah) rum ron (rohn) water agua (AH-gwah) tonic water agua tónica (AH-gwah TOH-nee-kah) orange juice jugo de naranja (HOO-goh deh NAH-rahn-hah) Coke (soda) Coca-Cola (refresco) (KOH-kah-KOH-lah (reh-FREHS-koh)) Do you have any bar snacks? ¿Tiene algo para picar? (TYEH-neh AHL-goh PAH-rah pee-KARH) (In Spain they will give you tapas (TAH-pahs), depends a lot on the bar.) A toast! ¡Un Brindi! (oon BREEN-dee) One more, please. Otro/a ______, por favor. (OH-troh/ah pohr-FAH-bohr) Another round, please. Otra ronda, por favor. (OH-trah ROHN-dah, pohr FAH-bohr) Cheers! ¡Salud! (sah-LOOD) When is closing time? ¿Cuándo cierran? (KWAHN-doh SYEHR-rahn) Do you have this in my size? ¿Tiene esto de mi talla? (TYEH-neh EHS-toh deh mee TAH-yah?) How much is this? ¿Cuánto cuesta? (KWAHN-toh KWEHS-tah?) That's too expensive. Es demasiado caro. (ehs deh-mah-MYAH-doh KAH-roh) Would you take Visa/American dollars? ¿Aceptan Visa/dólares Americano? (ah-SEHP-tahn BEE-sah/DOH-lah-rehs ah-meh-ree-KAH-noh?) expensive caro (KAH-roh) cheap barato (bah-RAH-toh) I can't afford it. Es muy caro para mí. (ehs MOO-ee KAH-roh PAH-rah mee) I don't want it. No lo quiero. (noh loh KYEH-roh) You're cheating me. Me está engañando. (meh ehs-TAH ehn-gah-NYAHN-doh) I'm not interested. No me interesa. (noh meh een-teh-REH-sah) OK, I'll take it. De acuerdo, me lo llevaré. (deh ah-KWEHR-doh, meh loh yeh-bah-REH) Can I have a bag? ¿Tiene una bolsa? (TYEH-neh OO-nah BOHL-sah) Can you ship it to my country? ¿Puede enviarlo a mi país? (PWEH-dah ehn-BYAHR-loh ah mee pah-EES?) I need... Necesito... (neh-seh-SEE-toh) ...batteries. ...pilas/baterías (PEE-lahs/bah-teh-REE-ahs) ...cold medicine. ...medicamento para el resfriado. (meh-dee-kah-MEHN-toh PAH-rah ehl rehs-FRYAH-doh) ...condoms. ...preservativos/condones. (preh-sehr-bah-TEE-bohs/ kohn-DOH-nehs) ...English-language books. ...libros en inglés. (LEE-brohs ehn een-GLEHS) ...English-language magazines. ...revistas en inglés. (reh-VEES-tahs ehn een-GLEHS) ...an English-language newspaper. ...un periódico/diario en inglés. (oon peh-RYOH-dee-koh/DYAH-ryoh ehn een-GLEHS) ...an English-Spanish dictionary. ...un diccionario inglés-español. (oon deek-syoh-NAH-ryoh een-GLEHS-ehs-pah-NYOHL) ...pain reliever. (e.g., aspirin or ibuprofen) ...analgésico (Aspirina, Ibuprofeno). (ah-nahl-HEH-see-koh (ahs-pee-REE-nah, ee-boo-proh-FEH-noh)) ...a pen. ...una pluma/ un bolígrafo. (OO-nah PLOO-mah/ oon boh-LEE-grah-foh) ...postage stamps. ...sellos (SEH-yohs)(Spain)/estampillas (ehs-tahm-PEE-yahs)(Latin América). ...a postcard. ...una postal. (OO-nah pohs-TALH) ...a razor. ...una hoja/navaja de afeitar/rasuradora (machine) (OO-nah OH-hah/nah-BAH-hah deh ah-fay-TAHR/rah-soo-rah-DOH-rah) ...shampoo. ...champú. (chahm-POO) ...stomach medicine. .... medicamento para el dolor de estómago (meh-dee-kah-MEHN-toh PAH-rah ehl doh-LOHR deh ehs-TOH-mah-goh) ...soap. ...jabón. (hah-BOHN) ...sunblock lotion. ...crema solar. (KREH-mah soh-LARH) ...tampons. ...tampones. (tahm-POH-nehs) ...a toothbrush. ... un cepillo de dientes. (oon seh-PEE-yoh deh DYEHN-tehs) ...toothpaste. ...pasta de dientes. (PAHS-tah deh DYEHN-tehs) ...an umbrella. ...un paraguas/una sombrilla (oon pah-RAH-gwahs/ OO-nah sohm-BREE-yah) ...writing paper. ...papel para escribir. (pah-PEHL PAH-rah ehs-kree-BEER) I want to rent a car. Quiero alquilar un coche (Spain)/carro (South America). (KYEH-roh ahl-kee-LAHR oon KOH-cheh/KAHR-roh) Can I get insurance? ¿Puedo contratar un seguro? STOP (on a street sign) STOP (stohp) (Spain), ALTO (AHL-toh) (México), PARE (PAH-reh) (Chile, Argentina, Perú, Colombia, Puerto Rico) one way dirección única (dee-rehk-SYOHN OO-nee-kah) no parking no aparcar (noh ah-pahr-KAHR), no estacionar (noh ehs-tah-syoh-NAHR) speed limit límite de velocidad (LEE-mee-teh deh beh-loh-see-DAHD), velocidad máxima (beh-loh-see-DAHD MAHK-see-mah) gas/petrol station gasolinera (gah-soh-lee-NEH-rah), estación de bencina (ehs-tah-SYOHN deh behn-SEE-nah) (Chile), estación de servicio (ehs-tah-SYOHN deh sehr-BEE-syoh) (Argentina) gas/petrol gasolina (gah-soh-LEE-nah), bencina (behn-SEE-nah) (Chile), nafta (NAHF-tah) (Argentina) diesel gasóleo (gah-SOH-leh-oh), diesel (DYEH-sehl) (Latin America), gasóil/diésel (gah-SOIL/DYEH-sehl) (Spain) I haven't done anything wrong. No he hecho nada malo. (NOH eh EH-choh NAH-dah MAH-loh) Please, there has been a mistake. Por favor, hubo un malentendido. (pohr fah-BOHR OO-boh oon mahl-ehn-tehn-DEE-doh) It was a misunderstanding. Fue un malentendido. (fweh oon mahl-ehn-tehn-DEE-doh) Where are you taking me? ¿Adónde me lleva? (ah-DOHN-deh meh YEH-bah?) Am I under arrest? ¿Estoy arrestado/da? (ehs-TOY ahr-rehs-TAH-doh/dah?) I am an American/Australian/British/Canadian citizen. Soy ciudadano(a) estadounidense/australiano/inglés/canadiense. (soy syoo-dah-DAH-noh(ah) ehs-tah-doh-oo-nee-DEHN-see/ ows-trah-LYAH-noh/ een-GLEHS/ kah-nah-DYEHN-seh) I want to talk to the American/Australian/British/Canadian embassy/consulate. Quiero hablar con la embajada/el consulado estadounidense/australiano/inglés/canadiense. (KYEH-roh ah-BLAHR kohn lah ehm-bah-HAH-dah/ ehl kohn-soo-LAH-doh ehs-tah-doh-oo-nee-DEHN-see/ ows-trah-LYAH-noh/ een-GLEHS/ kah-nah-DYEHN-seh) I want to talk to a lawyer. Quiero hablar con un abogado(a). (KYEH-roh ah-BLAHR kohn oon ah-boh-GAH-doh(ah)) Can I just pay a fine now? ¿Puedo pagar la multa ahora? (PWEH-doh pah-GAHR lah MOOL-tah ah-OH-rah?) I confess. Yo confieso (yoh kohn-FYEH-soh) Help! ¡Socorro!, ¡Ayuda! (soh-KOHR-roh, ah-YOO-dah) Look out! ¡Cuidado!, ¡Ojo! (kwee-DAH-doh, OH-hoh) Fire! ¡Fuego! (FWEH-goh) Go away! ¡Márchese!, ¡Váyase! (MAHR-cheh-seh, BAH-yah-seh) Thief! ¡Ladrón! (lah-DROHN) Stop thief! ¡Para ladrón! (PAH-rah lah-DROHN) Police! ¡Policía! (poh-lee-SEE-ah) Call the police! ¡Llame a la policía! (YAH-meh a lah poh-lee-SEE-ah) Take cover! ¡Cúbranse! (KOO-brahn-say) There's a shooting! ¡Hay disparos! (eye dees-PAH-rose) Where is the police station? ¿Dónde está la comisaría? (DOHN-deh ehs-TAH lah koh-mee-sah-REE-ah?) Can you help me please? ¿Puede usted ayudarme por favor? (PWEH-deh oos-TEHD ah-yoo-DAHR-meh pohr fah-BOHR?) Could I use your telephone/mobile/cell phone? ¿Podría yo usar su teléfono/móbil/celular? (poh-DREE-ah yoh oo-SAHR soo teh-LEH-foh-noh/MOH-beel/seh-loo-LAHR?) There's been an accident! ¡Hubo un accidente! (OO-boh oon ahk-see-DEHN-teh) Call a... Llame un... (YAH-meh oon) ...doctor! ...¡doctor/ra! (dohk-TOHR/dohk-TOH-rah) ...an ambulance! ...¡una ambulancia! (OO-nah ahm-boo-LAHN-syah) I need medical attention! ¡Necesito la asistencia médica! (neh-seh-SEE-toh lah ah-sees-TEHN-syah MEH-dee-kah) I'm ill. Estoy enfermo./Me siento mal. (ehs-TOY ehn-FEHR-moh/meh SYEHN-toh mahl) I'm lost. Estoy perdido. (ehs-TOY pehr-DEE-doh) I've been raped! ¡He sido violada/do! (eh SEE-doh byoh-LAH-dah/doh) Bản mẫu:Guidephrasebook Bản mẫu:Phrasebookguide",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Kharkiv",
"role": "user"
},
{
"content": "Kharkiv là thành phố thuộc tỉnh Kharkiv, Ukraina. Kharkiv (tiếng Ukraina: Ха́рків; tiếng Nga: Ха́рьков) thành phố lớn thứ hai của Ukraina. Đây là trung tâm hành chính của tỉnh Kharkov đồng thời cũng là trung tâm hành chính của vùng Kharkivsky Raion xung quanh. Vị trí địa lý: Đông Bắc Ukraina, tọa độa 49°54'60\" Bắc, 36°18'60\" Đông. Dân số năm 2006: 1.461.300 người. Thành phố được thành lập năm 1654 và là một trung tâm lớn về văn hóa Ucraina trong Đế quốc Nga. Kharkiv trở thành thành phố đầu tiên ở Ukraine thừa nhận sức mạnh Xô Viết vào tháng 12 năm 1917 và sau đó trở thành thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết Ukraina. Kharkiv vẫn là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết Ukrainacho đến khi năm 1934, khi thủ đô đã được chuyển tới Kiev. Hiện nay, nó là trung tâm hành chính của khu vực Kharkiv cũng như trung tâm hành chính của huyện Kharkiv xung quanh, trong khi thành phố chính nó có một địa vị đặc biệt trong khu vực. Thành phố này nằm ở phía đông bắc của đất nước. Kharkiv là văn hóa, khoa học lớn, trung tâm giáo dục, giao thông vận tải và công nghiệp của Ukraina, với 60 viện nghiên cứu khoa học, 30 cơ sở giáo dục đại học, 6 viện bảo tàng, 7 nhà hát và 80 thư viện. Công nghiệp chủ yếu là nghiên cứu và chế tạo vũ khí và máy móc. Có hàng trăm công ty công nghiệp đóng tại thành phố, có thể kể đến: Morozov Design Bureau và Malyshev Tank Factory (Zavod Malysheva, một công ty chế tạo xe tăng hàng đầu kể từ thập niên 1930), Hartron (Điện tử hạt nhân và không gian) và Turboatom (Sản xuất turbine). Hệ thống tàu điện ngầm dài 35 km với 28 ga. Quảng trường Tự do (Ploshcha Svobody) là quảng trường ở thành phố rộng nhất Châu Âu và chỉ xếp sau Quảng trường Thiên An Môn ở Trung Quốc.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Sân bay quốc tế Los Angeles",
"role": "user"
},
{
"content": "Sân bay quốc tế Los Angeles (Los Angeles International Airport) (IATA: LAX, ICAO: KLAX), là sân bay phục vụ Los Angeles, California. Người dân California thường gọi sân bay này là LAX với việc đánh vần từng chữ riêng. Sân bay có 4 đường cất hạ cánh dài: 3382 m, 3135 m, 2720 m và 3382 m. LAX phục vụ khách bay thẳng 2 tuyến điểm (không phải transit) nhiều hơn bất kỳ sân bay bận rộn nhất trên thế giới. LAX là sân bay bận rộn thứ 5 thế giới nếu tính lưu lượng khách phục vụ – 61.895.548 hành khách năm 2007. LAX đứng thứ 3 về lượng khách thông qua ở các sân bay Hoa Kỳ. Nếu tính riêng lượng khách quốc tế, LAX là sân bay bận rộn thứ 2, chỉ sau Sân bay quốc tế John F. Kennedy ở Thành phố New York nhưng chỉ xếp thứ 20 thế giới về tiêu chí này. Trước 11 tháng 9, đây là sân bay bận rộn thứ 3 thế giới. LAX là sân bay trung tâm của hãng hang không United Airlines. LAX phục vụ các điểm đến của Bắc Mỹ, Mỹ Latin, châu Á và châu Đại Dương. Các hãng hang không nổi tiếng ở sân bay này là: United (19.57% lượng khách, kết hợp với số khách của United Express), American chiếm (15%) và hãng Southwest (12.7%). [3]. LAX cũng là một focus city của Alaska Airlines và là một cửa ngõ cho hãng Delta Air Lines. Diện tích sân bay là 3.425 a (14 km2), nằm bên bờ Thái Bình Dương của Los Angeles, cách trung tâm thành phố này 15 dặm (24 km) về phía tây nam trung tâm Los Angeles. Vị trí của sân bay này ở bên bờ biển nên thường phải chịu cảnh sương mù dày đặc, lúc đó các chuyến bay buộc phải chuyển qua Sân bay quốc tế Ontario (Ontario International Airport) ở Hạt San Bernardino các LAX 47 dặm (76 km) về phía đông. Dùn LAX là sân bay lớn nhất ở thành phố Los Angeles, khu vực này vẫn phải phụ thuộc vào nhiều sân bay khác do quy mô của vùng đô thị Đại Los Angeles rộng lớn. Nhiều tuyến điểm du lịch của vùng này gần các sân bay thay thế khác trong khu vực hơn LAX như Hollywood và Công viên Griffith gần Sân bay Bob Hope hơn (toạ lạc tại Burbank thuộc Quận Los Angeles (Los Angeles County (county có thể là đơn vị tương đương cấp tỉnh, không phải cấp quận của Việt Nam - người dịch chú thích). Sân bay quốc tế Los Angeles và là một điểm nhập cảnh lớn vào Hoa Kỳ cho các chuyến bay từ Châu Á và Châu Đại Dương. LAX là một sân bay lớn và một trong những bận rộn nhất trên thế giới, với chín nhà ga được xây dựng trong thời kỳ khác nhau trong một loạt các phong cách kiến trúc, trong đó các yếu tố chung là tất cả họ có vẻ chật chội bên trong (có nghĩa là, liên quan đến kích thước và tầm quan trọng của sân bay). Một số nhà ga đã được cải tạo gần đây và nhìn tương đối hiện đại, trong khi những nhà ga khác chắc chắn cho sự cũ kỹ của chúng. Hầu hết được xây dựng trước khi Cơ quan Quản lý An ninh Giao thông vận tải thực hiện các trạm kiểm soát an ninh hiện đại, có nghĩa là các trạm kiểm soát đã được shoehorned vào các tòa nhà hiện có với kết quả rất khó xử. Nếu bạn thấy mình trong một trong nhữngnhà ga cũ, hãy nhớ rằng đổi mới toàn diện cuối cùng và mở rộng LAX là ngay trước khi Thế vận hội mùa hè năm 1984. Kể từ đó, thực hiện kế hoạch tổng thể hiện tại LAX đã bị đình trệ trong nhiều năm bởi các vụ kiện bởi bởi những cá nhân đơn vị láng giềng của sân bay này. Nhà ga hàng không 1 - Có mười lăm cửa ra vào máy bay tại nhà ga 1, năm 2013 đang trải qua một cuộc cải tạo nâng cấp tốn 400 triệu USD. Nhà ga này phục vụ các hãng hàng không AirTran Airways, Southwest Airlines và US Airways. Nhà ga hàng không 2 - Có mười một cửa ra vào máy bay tại nhà ga 2, chủ yếu phục vụ các hãng hàng không nước ngoài không sử dụng Tom Bradley International. Các hãng hàng không sử dụng nhà ga hàng không này bao gồm Aeromexico, Air Canada, Air China, Air France, Air New Zealand, Alitalia, Arkefly, Avianca Airlines, Hawaiian Airlines, KLM Royal Dutch Airlines, hãng hàng không Lacsa, Sun Country Airlines, TACA International Airlines, Virgin Atlantic, Volaris và WestJet. Nhà ga hàng không 3 - Có mười hai cửa ra vào máy bay này ở nhà ga hàng không phục vụ hãng hàng không JetBlue, Spirit Airlines. Virgin America và Virgin Australia. Nhà ga hàng không quốc tế Tom Bradley (TBIT) - Nhà ga hàng không quốc tế Tom Bradley phục vụ các chuyến bay quốc tế nhất và nằm giữa nhà ga hàng không 3 và 4. Như năm 2013 nó đang trải qua một mở rộng 1,5 tỷ USD để thêm mười tám cửa ra vào máy bay, 150.000 ft 2 ăn uống, không gian bán lẻ, và phòng chờ và an ninh lớn hơn đáng kể, bán vé, và các khu vực hành lý. Nhà ga hàng không 4 - Nhà ga hàng không 4 có mười bốn cửa ra vào máy bay phục vụ hãng hàng không American Airlines và American Eagle. Nhà ga hàng không 5 - Nhà ga hàng không 5 có mười bốn cửa ra vào máy bay phục vụ hãng hàng không Delta Airlines. Nhà ga hàng không 6 - ga 6 có mười bốn cửa ra vào máy bay phục vụ hãng hàng không Alaska Airlines, Allegiant Air, Copa Airlines (Panama), Frontier Airlines, Great Lakes Airlines và United Airlines (Premier, First Class, kinh doanh Chỉ Class). Nhà ga hàng không - ga 7 có mười một cửa ra vào máy bay phục vụ hãng hàng không United Airlines. Nhà ga hàng không - ga 8 có chín cửa ra vào máy bay chủ yếu phục vụ hãng hàng không máy bay phản lực nhỏ hơn, và được sử dụng bởi Kỳ Express. Lưu ý rằng nhiều chuyến bay quốc tế không rời từ hoặc đến Nhà ga hàng không quốc tế Tom Bradley. Để tránh các chuyến bay mất tích, luôn luôn xác định trước đó nhà ga hàng không (s) các chuyến bay quốc tế của bạn sẽ được bay trong hoặc ngoài, đặc biệt là nếu bạn đang kết nối thông qua LAX. Hãy chắc chắn để đến sân bay ít nhất 1 1/2 - 2 giờ trước khi chuyến bay của bạn (2-3 giờ nếu đi du lịch quốc tế) do làm thủ tục lên máy bay và kiểm tra an ninh có thể kéo dài và tốn thời gian. Tầng trên của nhà ga sử dụng để khởi hành trong tầng thấp hơn được sử dụng để làm sảnh đến. Các tuyến đường tầng thấp hơn được chia thành một đường bên trong và bên ngoài, với phương tiện cá nhân bằng cách sử dụng bên ngoài (bên phải) đường bộ và xe thương mại (bao gồm cả tàu con thoi), quanh các đường bên trong (bên trái) và dừng lại ở hòn đảo mà chia hai lòng đường. Khi rời sân bay, các khu vực bên ngoài của mỗi thiết bị đầu cuối được chia thành các khu vực cho thấy các tùy chọn giao thông vận tải có sẵn. Khu đón khác nhau được đánh dấu rõ ràng bởi các dấu hiệu màu sắc rực rỡ tương ứng với các loại hình giao thông vận tải bạn đang tìm kiếm: Xanh biển - xe của hãng hàng không LAX Đỏ - Khách sạn và nơi đỗ xe buýt con thoi Cam - Xe khách nhỏ dùng chung Tím - xe cho thuê Xanh lá cây - Long distance vans and FlyAway buses Vàng - Taxi",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Buenos Aires",
"role": "user"
},
{
"content": "Buenos Aires là thủ đô và là thành phố lớn nhất và thương cảng lớn nhất của Argentina. Thành phố Buenos Aires có 48 quận được gọi là barrio. Những khu vực được du khách lưu ý là: Microcentro - trung tâm thành phố, vị trí lý tưởng cho du khách gần các thắng tích lịch sử của thủ đô Argentina. Phố Florida nằm trung tâm thành phố và là một con đường cho người đi bộ nổi tiếng của thành phố, nơi du khách có thể tản bộ ngắm cảnh, ngắm người. Cửa hiệu buôn bán ở đây có đủ các mặt hàng thường dụng chứ không phải chỉ bán quà cáp lưu niệm nên khách du lịch ghé đây có thể coi đường Florida là bộ mặt hiện thực của giới trung lưu thành phố. San Telmo - quận này có nhiều biệt thự và tư gia mang phong cách cổ. Ngõ ngách và đường phố lát đá cuội, về đêm hai bên thắp đèn một loại măng-sông sáng lung linh, cổ kính nhưng chân chất. Bao trùm San Telmo là bầu không khích lịch sử của Buenos Aires. La Boca - khu này là phố thợ thuyền, phu bến bình dân ngày xưa, nhà cửa sơn phết màu mè sặc sỡ, rõ phong cách phóng túng của xóm nghèo. Palermo - khu dân cư thanh nhã, đường phố rợp bóng cây, tiện đường giao thông, bốn bề thông lộ lớn với nhiều hàng quán, cửa hàng. Trong Palermo còn có những \"tiểu khu\" như Palermo-Viejo, Palermo-SoHo, Palermo-Hollywood. Recoleta - một trong những khu vực tốt nhất và đắt tiền nhất của thành phố. Nó tự hào có nhiều tòa nhà theo phong cách Pháp, không gian xanh lớn, và nhà hàng hạng nhất. Nổi tiếng Nghĩa trang Recoleta cũng có giá trị một lần. Belgrano - một khu dân cư thanh bình với con đường im lặng dẫn đến cửa hàng khác nhau, nhà hàng, di tích kiến trúc và không gian xanh lớn. Belgrano của một trong những huyện nổi bật nhất, và đó là lý tưởng cho ngày đi dọc theo vỉa hè gạch cây cối rậm rạp. Almagro - một khu phố trung lưu gốc, không phục vụ cho khách du lịch, Almagro là nhà nguyện nằm ở rất trung tâm của thủ đô, với empanadas giá rẻ, siêu thị Trung Quốc, và bán rau quả của, mùi thịt nướng từ parillas phong phú, và một công viên tròn rất lớn mà biến thành một thị trường vào ngày chủ nhật. Boedo - một trong những Tango chính và các điểm lịch sử trong thành phố, các đường phố của Boedo phục vụ cho công chúng bản địa và khách du lịch một loạt lớn các quán cà phê trong là tốt nhất \"Porteno\" phong cách, trung tâm văn hóa, nhà tango, thư viện, rạp chiếu phim, quán rượu tốt đẹp, và nhà hàng. Nơi mà xin mọi người từ tất cả các lứa tuổi và sở thích. Caballito - khu phố trung lưu, các Barrio có cả tiện nghi phong phú, công viên rộng rãi, và một lựa chọn tốt của các cửa hàng. Mặt khác, có những khu vực cluterred, rất bận rộn, và không thể đoán trước của Caballito đó nên cần phải suy nghĩ nhiều hơn cho các du khách trung bình đến đó. Nói chung, nó là một trung tâm dân cư và thương mại dễ chịu. Congreso - một khu vực trung tâm thành phố dày đặc mà nhà chi nhánh lập pháp của chính phủ, nó nằm ở phía bên kia của Avenida de Mayo từ Casa Rosada (Nhà Rosy, hay \"hồng nhà\" như một số sẽ gọi nó là) chỗ ngồi của ngành hành pháp. San Cristobal Puerto Madero - giống như Docklands London, cảng cổ của Buenos Aires đã được gia hạn và bây giờ đại diện cho các xu hướng kiến trúc mới nhất của thành phố. Nó có một hỗn hợp của nhà hàng, khác nhau, từ cao cấp đến chuỗi Mỹ như Hooters và TGIF. Nó cũng có các tòa nhà căn hộ và một số khách sạn đắt tiền. Các Reserva Ecologica Costanera Sur, một thay thế tuyệt vời cho những người yêu thiên nhiên, nằm gần đó. khi - một dân nhập cư lớn, chủ yếu là từ các nước láng giềng Argentina Bolivia và Paraguay, gọi Khi về nhà. Các đường phố luôn luôn bận rộn với mọi người, thị trường, và người bán hàng ngoài trời. Retiro - lưu trữ nhà ga xe lửa chính của thành phố, một khu vực đầy bận rộn với những hành khách, mà còn nhà của một trong những nhà hàng sang trọng nhất, mua sắm, và tiệc tùng, trong biên giới người nước ngoài thân thiện của Microcentro. Retiro đã thu hút mọi người từ các loại khác nhau của lối sống, mà không có bất kỳ sự hấp dẫn mạnh mẽ đối với bất kỳ nhóm người cụ thể. Tribunales - này của thành phố có nhiều chương trình sân khấu, đặc biệt là trên Avenida Corrientes. Trên đường phố Libertad có Nhà hát Colon lớn đáng kinh ngạc, một trong những có uy tín nhất trên thế giới. Urquiza - Nằm giữa barrio của Villa Pueyrredon, Belgrano, Villa Ortúzar, Coghlan, Saavedra, và Agronomía. Giới hạn của nó là đường phố và những con đường Constituyentes, Crisólogo Larralde, Galván, Núñez, Tronador, Roosevelt, Rómulo S. Naón, và La Pampa. Nó là một khu dân cư của cả hai ngôi nhà cổ và các tòa nhà chung cư, đường phố yên tĩnh, và một vài nhanh giao thông, con đường đông đúc. Nó có một số các công viên mà làm cho nó rất dễ chịu. Trong suốt mùa hè, nó không phải là lạ khi nhìn thấy hàng xóm nói chuyện với nhau, thoải mái ngồi trên ghế của họ trên vỉa hè. Nó cũng là nhà của một số tổ chức quan trọng đối với nền văn hóa Buenos Aires, như tango và milonga phòng khiêu vũ Sunderland và Câu lạc bộ Sin Rumbo, Melopea ghi đá Argentina tiên phong Litto Nebbia của, và người chiến thắng cuối cùng ba futsal đô thị giải đấu, câu lạc bộ Pinocho. Buenos Aires là thủ đô và là thành phố lớn nhất và cảng lớn nhất của Argentina. Thành phố tọa lạc bên bờ nam của Río de la Plata, duyên hải đông nam của Nam Mỹ, đối diện với Colonia del Sacramento, Uruguay, tại tọa độ 34°40′N, 58°24′T (-34.667, -58.40). Chịu ảnh hưởng mạnh văn hóa châu Âu, Buenos Aires đôi lúc được mệnh danh là \"Paris phương Nam\" hay \"Paris của Nam Mỹ\"[1][2]. Đây là một trong những thành phố tinh tế nhất của Mỹ Latinh nổi tiếng với các kiến trúc, cuộc sống về đêm và các hoạt động văn hóa. Đây cũng là một trong các thành phố thịnh vượng nhất Mỹ Latin với đông cư dân trung lưu và có giáo dục đại học. Sau khi có xung đột nội bộ vào thế kỷ 19, Buenos Aires bị liên bang hóa và được tách khỏi tỉnh Buenos Aires năm 1880; ranh giới thành phố được mở rộng ta bao gồm các thành phố nhỏ: Belgrano và Flores — cả hai hiện nay thuộc Barrios trong thành phố. Buenos Aires giáp với phía đông và dông bắc là Rio de la Plata, phía nam và đông nam giáp với Riachuelo và phía tây bắc, tây và tây nam giáp với Avenida General Paz. Thành phố Buenos Aires nằm trong vùng pampa, trừ một vài khu giống như khu bảo tồn sinh thái Buenos Aires, Boca Juniors \"thành phố thể thao\", sân bay Jorge Newbery, Puerto Madero và cảng chính; tất cả các khu này đều được xây dựng trên các đất san lấp lấn biển dọc theo bờ biển Río de la Plata (sông rộng nhất thế giới). [3] Khu vực này trước đây bị chắn bởi các lạcj thủy triều và các vũng vịnh, một vài khu đã bị san lấp. Các lạch quan trọng nhất là Maldonado, Vega, Medrano, Cildañez và White. Năm 1908 một số lạch đã được cải tạo và khai thông khi lũ tàn phá cơ sở hạ tầng của thành phố. Bắt đầu từ năm 1919, phần lớn các lạch đã bị đóng kín. Nổi tiếng là lạch Maldonado đã bị lấp tạo thành cống năm 1954, và hiện chạy bên dưới đại lộ Juan B. Justo. Buenos Aires có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, đặc trưng là đới khí hậu nóng, ẩm trong mùa hè và lạnh vào mùa đông, (theo Köppen Cfa), với 4 mùa rõ rệt và nhiệt độ trung bình hàng năm là 177 °C (350,6 °F). Tháng 1 là tháng ấm nhất với nhiệt độ trung bình hàng ngày là 251 °C (483,8 °F). Hầu hết các ngày có nhiệt độ dao động 28 đến 31 °C (82 đến 88 °F) ban đêm khoảng 16 đến 21 °C (61 đến 70 °F). Độ ẩm tương đối khoảng (64–70%) trong mùa hè, vì thế chỉ số nhiệt cao hơn nhiệt độ thực của không khí. Nhiệt độ cao nhất từng được nghi nhận là 433 °C (811 °F) vào 29 tháng 1 năm 1957. [4] Mùa xuân (tháng 9 đến tháng 11) và mùa thu (tháng 3 đến tháng 5) thường là mát với nhiệt độ trung bình khoảng 17 °C (63 °F) và thường có sấm, đặc biệt trong suốt mùa xuân. Mùa đông thì ôn hòa mặc dù các khu vực ngoại ô thường có sương giá từ tháng 5 đến tháng 9, ngược lại với khu trung tâm thường chỉ có các hiện tượng này vài lần trong mùa. Độ ẩm tương đối trung bình trên 70s%. [5] Tháng 7 là tháng lạnh nhất với nhiệt độ trung bình 109 °C (228,2 °F). Khí lạnh thổi từ Nam Cực xuất hiện hầu như mỗi năm, và kết hợp với độ ẩm cao trong mùa đông nên trong mùa đông có cảm giác lạnh hơn nhiệt độ đo được. Nhiệt độ cao nhất trong ngày vào mùa đông từ 12 đến 17 °C (54 đến 63 °F) và giảm xuống 3 đến 8 °C (37 đến 46 °F) vào ban đêm. Các luồng gió phía nam có thể làm cho nhiệt độ dưới 10 °C (50 °F) trong một vài ngày, trong khi các luồng gió phía bắc có thể làm cho nhiệt độ tăng trên 20 °C (68 °F) trong vài ngày; sự dao động này diễn ra thường xuyên. Nhiệt độ thấp nhất từng được ghi nhận ở trung tâm Buenos Aires là −54 °C (−65 °F) vào 9 tháng 7 năm 1918 Buenos Aires là cửa ngõ quốc tế của Argentina và dễ dàng truy cập từ Bắc Mỹ, châu Âu và Úc, cũng như các thành phố thủ đô khác ở Nam Mỹ. Các sân bay chính được sử dụng cho các chuyến bay quốc tế đi du lịch đến và đi từ Buenos Aires là sân bay quốc tế Ezeiza, khoảng 35 km về phía nam Buenos Aires. Các chuyến bay nhất trong nước sử dụng Aeroparque Jorge Newbery sân bay, một khoảng cách ngắn từ trung tâm thành phố Buenos Aires. Thông tin chuyến bay cho cả hai sân bay quốc tế Ezeiza và Aeroparque Jorge Newbery, có sẵn trong tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha 5480-6111 hoặc http://www.aa2000.com.ar/. Buenos Aires cũng có rất nhiều các sân bay nhỏ dành riêng cho các chuyến bay điều lệ và máy bay tới. Các chuyến bay từ Buenos Aires và phần còn lại của Argentina thường đắt hơn cho người nước ngoài. Điều này có thể gây ra vấn đề cho du khách ngắn hạn do những người khách này không có thời gian để đi xe buýt đến những nơi như Iguazu Falls, Bariloche, Ushuaia, vv. Khách nên tìm các công ty du lịch nhỏ / đại lý có thể giúp họ tìm thấy giá thấp hơn trên các chuyến bay thấp, giao dịch mà các trang web du lịch trực tuyến lớn hơn sẽ không có quyền truy cập vào. Khách thuộc quốc tịch khác phải trả một khoản phí có đi có lại khi vừa đến sân bay quốc tế EZE, số tiền phụ thuộc vào bao nhiêu nước xuất xứ tính phí cho Argentinans để được nhập cảnh. Ezeiza là một sân bay hiện đại với các dịch vụ tốt như máy ATM, nhà hàng, miễn phí wifi và cửa hàng miễn thuế. Một số chuyến bay nội địa và quốc tế sử dụng sân bay Ezeiza quốc tế (gọi là Aeropuerto Internacional Ministro Pistarini /Sân bay quốc tế General Pistarini), nằm ở khu vực ngoại ô có tên là Gran Buenos Aires, khoảng 30 - từ trung tâm thành phố bằng đường cao tốc 45 phút. Máy bay bay từ và đến hầu hết các nước ở Nam Mỹ, châu Âu và Bắc Mỹ.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bắc Kinh 2022",
"role": "user"
},
{
"content": "Bài viết Bắc Kinh cung cấp hướng dẫn chi tiết hơn cho những người đến thành phố và bài viết Trung Quốc cung cấp hướng dẫn chi tiết về khu vực rộng lớn hơn Bài viết Thế vận hội mùa hè Bắc Kinh 2008 có thể cung cấp thêm các điểm thể thao quan tâm từ Thế vận hội cũng được tổ chức tại Bắc Kinh Thành phố Bắc Kinh, Trung Quốc sẽ là thành phố đăng cai Thế vận hội mùa đông Olympic vào năm 2022, đây sẽ là thành phố đầu tiên đăng cai cả Thế vận hội mùa hè và mùa đông. Bắc Kinh sẽ tổ chức lễ khai mạc và bế mạc cũng như các sự kiện băng. Các môn trượt (bobsled, luge, bone) và một số môn trượt tuyết trên núi cao sẽ được tổ chức tại núi Xiaohaituo ở Huyện Diên Khánh, cách trung tâm thành phố khoảng 80 km (55 dặm) về phía tây bắc. Các môn trượt tuyết khác sẽ diễn ra tại khu trượt tuyết Taizicheng ở Trương Gia Khẩu, cách Bắc Kinh khoảng 220 km (140 dặm). Các môn thi đấu sẽ diễn ra từ ngày 4 đến ngày 20 tháng 2 năm 2022 và tiếp theo là Thế vận hội dành cho người khuyết tật mùa đông, từ ngày 4 đến ngày 13 tháng 3 năm 2022. Tokyo 2020 – Thế vận hội Mùa hè trước",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Vườn quốc gia Bạch Mã",
"role": "user"
},
{
"content": "Vườn quốc gia Bạch Mã nằm ở Thừa Thiên - Huế, Việt Nam, cách thành phố Huế 40 km. Vườn quốc gia này có diện tích 22.030 ha, chủ yếu nằm trên 2 huyện Phú Lộc và Nam Đông thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế. Đỉnh Bạch Mã với độ cao 1.450 m so với mực nước biển là đỉnh núi cao nhất của vườn. Năm 1932, người Pháp xây dựng Bạch Mã thành khu nghỉ mát. Địa hình của vườn quốc gia nổi trổi bởi dãy núi chạy theo hướng tây đông với nhiều đỉnh cao trên 1000m. Địa chất gồm các đá granit, sa thạch, thạch anh và gơ nai. Kiểu rừng chủ yếu ở vườn này là rừng thường xanh đất thấp phân bố ở độ cao dưới 900m và rừng thường xanh núi thấp phân bố ở độ cao trên 900m. Sinh cảnh ưu thế là đất trống cỏ và cây bụi. Vườn quốc gia Bạch Mã có 16.900 ha rừng, với 1.406 loài thực vật, trong đó hơn 30 loài thuộc loại quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Ở đây có 83 loài thú, 333 loài chim và rất nhiều loài bò sát, ếch nhái. Khí hậu vào mùa hè từ 18 - 23oC và mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau với lượng mưa lớn nhất Việt Nam, 8000mm/năm. Từ thành phố Huế theo quốc lộ 1A hướng về Đà Nẵng khoảng 40 km, trước khi đến hầm Hải Vân, rẽ vào con đường nhỏ lên Vườn Quốc gia Bạch Mã nằm ngay cạnh chợ Cầu Hai, đi tiếp khoảng 3 km bạn sẽ đến cửa chính vào vườn. Thác Đỗ Quyên Kinh nghiệm du lịch Vườn Quốc gia Bạch Mã: Nếu là người yêu thiên nhiên và thích sự trải nghiệm thì Bạch Mã chính là địa điểm lý tưởng mà bạn không thể bỏ qua khi tới Huế. Bạn muốn khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn của Vườn quốc gia Bạch Mã? Bạn không có nhiều thời gian và chỉ muốn trải nghiệm nơi này trong ngày? Vậy thì bài viết này chính là cẩm nang du lịch Bạch Mã hữu ích nhất mà mỗi du khách nên \"gối đầu giường\". Bạch Mã Village cũng là điểm vô cùng hot tại đây. Chinh phục đỉnh Bạch Mã (1.450m so với mực nước biển), từ đỉnh núi, bạn có thể thu tầm mắt toàn cảnh đèo Hải Vân, núi Tùy Vân, cùng với ánh đèn lung linh của thành phố Huế về đêm. Có 4 nhà nghỉ tại khu vực đỉnh gồm Bạch Mã gồm Đỗ Quyên, Sao La, Kim Giao và Bạch Mã. Có thể thuê trại dành cho 2 người hay 6 người để dựng trại nghỉ qua đêm ở bãi Thông Nàng. Phong Nha-Kẻ Bàng - hệ thống hang động hùng vĩ Bà Nà - khu du lịch thuộc Đà Nẵng có cảnh quang hùng vĩ và khí hậu mát mẻ.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Danh ngôn học hành",
"role": "user"
},
{
"content": "Đi một ngày đàng học một sàng khôn Học mà không chơi là chôn vùi tuổi trẻ Chơi mà không học thì mất cả tương lai Học trong quá khứ, sống trong hiện tại, tiên đoán tương lai Học hay không bằng hay học Học tập tốt lao động tốt. - Hồ Chí Minh",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Tristan da Cunha",
"role": "user"
},
{
"content": "Tristan da Cunha là một quần đảo của quần đảo khá nhỏ ở giữa vùng Nam Đại Tây Dương. Nó là một lãnh thổ của Vương quốc Anh, được quản lý bởi chính phủ của St Helena, nằm vài trăm dặm về phía bắc. Tristan da Cunha hay Đảo Inaccessible là một ngọn núi lửa đã tắt (phun trào lần cuối cùng cách đây 6 triệu năm) với đỉnh Cairn cao 449 m. Hòn đảo này có diện tích 14 km2 (5,4 sq mi), nằm ở Nam Đại Tây Dương, cách Tristan da Cunha 45 km (28 mi) về phía Tây nam. Đảo là một phần của quần đảo Tristan da Cunha thuộc lãnh thổ hải ngoại Saint Helena, Ascension và Tristan da Cunha của Anh Quốc. Cùng với đảo Gough, đảo Inaccessible cũng là một khu bảo tồn động vật hoang dã được bảo vệ, được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Tristan da Cunha là hòn đảo có người ở xa nhất trên thế giới - mảnh đất gần nhất, St Helena, cách đó 2.430 km, và đó là hơn 2800 km về phía lục địa gần nhất, châu Phi. Toàn bộ dân số khoảng 270 người dân tập trung ở một mảnh đất bằng phẳng duy nhất của vùng đất rộng lớn này của núi lửa, các làng Edinburgh của Seven Seas trên các hòn đảo chính. Có một vài hòn đảo khác trong quần đảo, tất cả không có người ở: Đảo không thể tiếp cận, đảo Nightingale, Middle Island và đảo Stoltenhoff. Đảo Gough, khoảng 300 km, chủ một thời tiết và trạm nghiên cứu khoa học. Hòn đảo là nơi sinh sống của các loài bò sát trên cạn, động vật lưỡng cư, bướm, ốc. Hòn đảo có 64 loài thực vật bản địa, trong đó có 20 loại thực vật có hoa và 17 loài dương xỉ. Ngoài ra, 48 loài không xương sống tồn tại trên hòn đảo, 10 trong số đó đã được biết đến. Arctocephalus tropicalis và Mirounga leonina cũng đã được nhìn thấy ở hòn đảo với số lượng ngày càng tăng cùng với các loài cá voi sống trong các vùng biển lân cận. Hòn đảo có số lượng nhiều nhất loài gà nước đảo Inaccessible cùng với rất nhiều loài chim đặc hữu khác bao gồm: chim cánh cụt Rockhopper phương Bắc (27.000 cặp), hải âu Tristan , hải âu bồ hóng (200 cặp), Hải âu vàng mỏ lớn Đại Tây Dương (1.100 cặp), Pachyptila vittata (500.000 cặp), hải bão lông mịn (50.000 cặp), hải âu lớn (2 triệu cặp), hải bão bốn mắt, hải âu nhỏ (50.000 cặp), hải bão mặt trắng (50.000 cặp), hải bão bụng trắng (50.000 cặp), Nhàn Nam Cực, gà nước đảo Inaccessible (5.000 cặp), Nesocichla eremita và sơn ca đảo Inaccessible. Không có sân bay ở đây. Du lịch đến Tristan da Cunha yêu cầu lập kế hoạch cẩn thận. Thời gian chuyến đi cần năm đến mười ngày (tùy thuộc vào thời tiết và tàu) để đi du lịch 2810 km từ Cape Town. Tàu nghiên cứu cực Nam Phi SA Agulhas và tàu cá Edinburgh và Baltic Trader làm chuyến đi giữa Cape Town và Tristan da Cunha nhiều lần mỗi năm. Một vé khứ hồi trên Agulhas là khoảng 1300 USD một vé khứ hồi trên một trong những tàu đánh cá là 800 USD. Lịch trình và các thông tin có sẵn trên trang web chính thức Tristan da Cunha.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "William Arthur Ward",
"role": "user"
},
{
"content": "William Arthur Ward (1921 – 1994) là nhà giáo dục người Mỹ. Ông là một trong những tác gia người Mỹ được trích dẫn nhiều nhất về những câu nói truyền cảm hứng. Bạn là người ta cảm thấy thoải mái khi ở cùng, ta sẵn lòng trung thành, đem lại cho ta lời chúc phúc và ta cảm thấy biết ơn vì có họ trong đời. A friend is one with whom you are comfortable, to whom you are loyal, through whom you are blessed, and for whom you are grateful. Ba chiếc chìa khóa dẫn tới cuộc sống mãn nguyện: quan tâm tới người khác, dám làm vì người khác, chia sẻ cùng người khác. Three keys to more abundant living: caring about others, daring for others, sharing with others. Bốn bước dẫn tới thành tựu: Lên kế hoạch có mục đích. Chuẩn bị chuyên tâm. Tiến hành tích cực. Theo đuổi bền bỉ. Four steps to achievement: Plan purposefully. Prepare prayerfully. Proceed positively. Pursue persistently. Chúng ta có thể ném đá, phàn nàn về chúng, vấp vào chúng, trèo lên chúng, hoặc xây dựng với chúng. We can throw stones, complain about them, stumble on them, climb over them, or build with them. Cơ hội thường khó để nhận ra; thế mà chúng ta lại thường chờ mong nó mời gọi ta với tiếng còi và bảng hiệu. Opportunity is often difficult to recognize; we usually expect it to beckkon us with beepers and billboards. Có một điều mà chúng ta có thể làm được tốt hơn bất cứ ai khác: chúng ta có thể là chính mình. There is one thing we can do better than anyone else: we can be ourselves. Cuộc sống không có sự tha thứ chỉ là tù ngục. A life lived without forgiveness is a prison. Chuyến phiêu lưu của đời là học hỏi. Mục đích của đời là trưởng thành. Bản tính của đời là thay đổi. Thách thức của đời là vượt qua. Tinh túy của đời là quan tâm. Cơ hội của đời là phụng sự. Bí mật của đời là dám làm. Hương vị của đời là giúp đỡ. Vẻ đẹp của đời là cho đi. The adventure of life is to learn. The purpose of life is to grow. The nature of life is to change. The challenge of life is to overcome. The essence of life is to care. The opportunity of like is to serve. The secret of life is to dare. The spice of life is to befriend. The beauty of life is to give. Con người chẳng bao giờ lên kế hoạch để thất bại; chỉ đơn giản là họ đã thất bại trong việc lên kế hoạch để thành công. Men never plan to be failures; they simply fail to plan to be successful. Cái giá của sự vượt trội là kỷ luật. Cái giá của sự tầm thường là thất vọng. The price of excellence is discipline. The cost of mediocrity is disappointment. Chúng ta phải im lặng trước khi có thể lắng nghe. Chúng ta phải lắng nghe trước khi có thể học hỏi. Chúng ta phải học hỏi trước khi có thể chuẩn bị. Chúng ta phải chuẩn bị trước khi có thể phụng sự. Chúng ta phải phụng sự trước khi có thể dẫn đường. We must be silent before we can listen. We must listen before we can learn. We must learn before we can prepare. We must prepare before we can serve. We must serve before we can lead. Chúng ta càng hào phóng, chúng ta càng vui vẻ. Chúng ta càng hợp tác, chúng ta càng có giá trị. Chúng ta càng nhiệt tình, chúng ta càng có năng suất. Chúng ta càng sẵn lòng phụng sự, chúng ta càng thịnh vượng. The more generous we are, the more joyous we become. The more cooperative we are, the more valuable we become. The more enthusiastic we are, the more productive we become. The more serving we are, the more prosperous we become. Chấp nhận thất bại với lòng kiêu hãnh, chấp nhận lời phê bình bằng tư thế đĩnh đạc, nhận vinh dự với sự nhún nhường - đó là dấu hiệu của sự trưởng thành và độ lượng. To bear defeat with dignity, to accept criticism with poise, to receive honors with humility - these are marks of maturity and graciousness. Cơ hội giống như bình minh. Nếu bạn chờ quá lâu, bạn sẽ bỏ lỡ nó. Opportunities are like sunrises. If you wait too long, you miss them. Cảm thấy biết ơn và không thể hiện điều đó giống như gói quà mà không trao. Feeling gratitude and not expressing it is like wrapping a present and not giving it. Dạy học bao gồm nhiều việc hơn là chỉ trao đi tri thức, nó đòi hỏi truyền cảm hứng cho thay đổi. Học hỏi bao gồm nhiều việc hơn là chỉ tiếp thu kiến thức, nó đòi hỏi sự thấu hiểu. Teaching is more than imparting knowledge, it is inspiring change. Learning is more than absorbing facts, it is acquiring understanding. Hãy học khi người khác ngủ; lao động khi người khác lười nhác; chuẩn bị khi người khác chơi bời; và có giấc mơ khi người khác chỉ ao ước. Study while others are sleeping; work while others are loafing; prepare while others are playing; and dream while others are wishing. Khi chúng ta tìm kiếm để phát hiện những điều tốt nhất ở người khác, chúng ta tìm được những điều tốt nhất ở bản thân. When we seek to discover the best in others, we somehow bring out the best in ourselves. Khen ngợi tôi, và tôi có thể sẽ không tin bạn. Chỉ trích tôi, và tôi có thể sẽ không thích bạn. Tảng lờ tôi, và tôi có thể sẽ không tha thứ cho bạn. Khuyến khích tôi, và tôi có thể sẽ không quên bạn. Yêu mến tôi, và tôi có thể sẽ bị buộc phải yêu mến bạn. Flatter me, and I may not believe you. Criticize me, and I may not like you. Ignore me, and I may not forgive you. Encourage me, and I will not forget you. Love me and I may be forced to love you. Kẻ thù của tự do là lãng phí, thờ ơ, phóng đãng, và thái độ xảo quyệt muốn có mà chẳng bỏ công. Freedom's enemies are waste, lethargy, indifference, immorality, and the insidious attitude of something for nothing. Kỹ năng lắng nghe là phương thuốc tốt nhất cho sự cô đơn, tính ba hoa và bệnh viêm thanh quản. Skillful listening is the best remedy for loneliness, loquaciousness, and laryngitis. Không gì giới hạn thành tựu hơn là suy nghĩ tủn mủn; không gì mở rộng những khả năng hơn là trí tưởng tượng được giải phóng. Nothing limits achievement like small thinking; nothing expands possibilities like unleashed imagination. Khắc ghi một sự thật lớn lao vào trí nhớ là đáng nể; khắc ghi nó vào đời mình là khôn ngoan. Committing a great truth to memory is admirable; committing it to life is wisdom. Khả năng dí dỏm tốt là cây gậy để giữ thăng bằng khi bạn bước trên sợi dây đời. A well-developed sense of humor is the pole that adds balance to your steps as you walk the tightrope of life. Lòng nhiệt huyết là que diêm thắp lên ánh sáng của ngọn nến thành tựu. Enthusiasm is the match that lights the candle of achievement. Lạc quan là hạt giống gieo trồng trên mảnh đất của niềm tin; bi quan là hạt giống cất giữ dưới căn hầm ngờ vực. Optimism is a seed sown in the soil of faith; pessimism is a seed hoarded in the vault of doubt. Một nụ cười ấm áp là thứ ngôn ngữ chung của lòng tốt. A warm smile is the universal language of kindness. Một lượng nhỏ lời khen đáng giá bằng cả mớ khinh miệt. Một giọt khuyến khích có ích hơn cả gàu bi quan. Một chén lòng tốt tốt hơn cả tủ phê phán. A pinch of praise is worth a pound of scorn. A dash of encouragement is more helpful than a dipper of pessimism. A cup of kindness is better than a cupboard of criticism. Mỗi người đều có quyền năng đem lại hạnh phúc cho người khác Có người làm điều đó chỉ đơn giản bằng cách bước vào phòng - người khác bằng cách rời khỏi phòng. Có người để lại sau lưng những bước chân ủ dột; người khác, dấu vết của niềm vui. Có người để lại sau lưng vệt hận thù và cay đắng; người khác, dấu vết của tình yêu và sự hài hòa. Có người để lại sau lưng những hoài nghi và bi quan; người khác, dấu vết của niềm tin và sự lạc quan. Có người để lại sau lưng những chỉ trích và bỏ cuộc; người khác, dấu vết của lòng biết ơn và hy vọng. Còn bạn, bạn để lại gì sau lưng mình? Every person has the power to make others happy. Some do it simply by entering a room - others by leaving the room. Some individuals leave trails of gloom; others, trails of joy. Some leave trails of hate and bitterness; others, trails of love and harmony. Some leave trails of cynicism and pessimism; others trails of faith and optimism. Some leave trails of criticism and resignation; others trails of gratitude and hope. What kind of trails do you leave? Người thắng cuộc hỏi, \"Tôi có thể giúp được gì?\" - Kẻ thua cuộc hỏi, \"Anh tưởng tôi sẽ làm điều đó à?\" The winner asks, \"May I help?\" - The loser asks, \"Do you expect me to do that?\" Người thầy tầm thường tường thuật. Người thầy tốt giải thích. Người thầy giỏi thể hiện. Người thầy vĩ đại truyền cảm hứng. The mediocre teacher tells. The good teacher explains. The superior teacher demonstrates. The great teacher inspires. Những người lạc quan làm giàu hiện tại, gia cố tương lai, thách thức điều không chắc chắn và vươn tới điều không thể. Optimists enrich the present, enhance the future, challenge the improbable and attain the impossible. Người lạc quan vui sướng kinh ngạc con diều của mình bay cao đến thế nào; người bi quan ủ rũ sầu lo bao giờ con diều của mình sẽ rớt. The optimist pleasantly ponders how high his kite will fly; the pessimist woefully wonders how soon his kite will fall. Người lạc quan sống trên bán đảo của những khả năng vô tận; người bi quan kẹt trên hòn đảo của những do dự vô cùng. The optimist lives on the peninsula of infinite possibilities; the pessimist is stranded on the island of perpetual indecision. Niềm tin thấy đóa hoa yêu kiều trong một cái nụ, khu vườn xinh đẹp trong một hạt giống, và cây sồi lớn trong một quả sồi. Faith sees a beautiful blossom in a bulb, a lovely garden in a seed, and a giant oak in an acorn. Người bạn thực sự biết điểm yếu của bạn nhưng chỉ cho bạn thấy điểm mạnh; cảm nhận được nỗi sợ của bạn nhưng củng cố niềm tin; thấy được những lo lắng của bạn nhưng giúp bạn giải phóng tinh thần; nhận ra những điều bạn bất lực nhưng nhấn mạnh những điều bạn có thể làm. A true friend knows your weaknesses but shows you your strengths; feels your fears but fortifies your faith; sees your anxieties but frees your spirit; recognizes your disabilities but emphasizes your possibilities. Người khôn ngoan là người học được những sự thật này: Rắc rối là tạm thời. Thời gian là thuốc bổ. Khổ đau là ống nghiệm. Wise are they who have learned these truths: Trouble is temporary. Time is tonic. Tribulation is a test tube. Nỗ lực nửa vời là thất bại đích đáng. A second-class effort is a first-class mistake. Nếu bạn muốn trở nên thú vị, hãy thích thú, nếu bạn muốn được hài lòng, hãy làm người khác hài lòng, nếu bạn muốn được yêu, hãy tỏ ra đáng yêu, nếu bạn muốn được giúp đỡ, hãy sẵn lòng giúp đỡ. If you would be interesting, be interested, if you would be pleased, be pleasing, if you would be loved, be lovable, if you would be helped, be helpful. Người bi quan phàn nàn về cơn gió; người lạc quan chờ đợi nó đổi chiều; người thực tế điều chỉnh lại cánh buồm. The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails. Nếu bạn có thể tưởng tượng, bạn có thể đạt được nó. Nếu bạn có thể ước mơ, bạn có thể trở thành nó. If you can imagine it, you can achieve it. If you can dream it, you can become it. Người thắng cuộc bền bỉ lập trình những điểm cộng; kẻ thua cuộc ủ rũ khuếch đại những điểm trừ. The winner persistently programs his pluses; the loser mournfully magnifies his minuses. Ngày hôm nay Chúa đã cho bạn món quà là 86,400 giây. Bạn đã dùng giây nào để nói 'cảm ơn' chưa? God gave you a gift of 86,400 seconds today. Have you used one to say 'thank you?' Ngày hôm nay là ngày lạ lùng nhất, bởi chúng ta chưa bao giờ sống nó trước đây; chúng ta sẽ không bao giờ sống lại nó; nó là ngày duy nhất mà ta có. Today is a most unusual day, because we have never lived it before; we will never live it again; it is the only day we have. Phạm phải sai lầm là con người; vấp ngã là chuyện bình thường; có thể cười vào mặt chính mình là sự trưởng thành. To make mistakes is human; to stumble is commonplace; to be able to laugh at yourself is maturity. Sự tò mò là ngọn bấc trong cây nến học hỏi. Curiosity is the wick in the candle of learning. Sự kiên nhẫn của ngày hôm nay có thể biến những nản lòng của ngày hôm qua thành khám phá của ngày mai. Những mục đích của ngày hôm nay có thể biến những thất bại của ngày hôm qua thành quyết tâm của ngày mai. Today's patience can transform yesterday's discouragements into tomorrow's discoveries. Today's purposes can turn yesterday's defeats into tomorrow's determination. Sự tha thứ là chìa khóa mở cánh cửa oán trách và chiếc còng tay của hận thù. Nó là thứ sức mạnh có thể phá vỡ xiềng xích của cay đắng và gông cùm của lòng ích kỷ. Forgiveness is the key that unlocks the door of resentment and the handcuffs of hate. It is a power that breaks the chains of bitterness and the shackles of selfishness. Sự vĩ đại không nằm trong tài sản, quyền lực, danh vọng hay tiếng tăm. Nó được phát hiện trong lòng tốt, sự nhún nhường, sự phụng sự và tính cách. Greatness is not found in possessions, power, position, or prestige. It is discovered in goodness, humility, service, and character. Sẽ khôn ngoan nếu bạn hướng sự tức giận của mình vào vấn đề - không phải vào con người; tập trung năng lượng vào câu trả lời - không phải vào phân trần. It is wise to direct your anger towards problems - not people; to focus your energies on answers - not excuses. Tình bạn tươi tốt bên suối nguồn tha thứ. Friendship flourishes at the fountain of forgiveness. Tha thứ là một điều thật buồn cười. Nó làm ấm con tim là và làm mát cơn đau. Forgiveness is a funny thing. It warms the heart and cools the sting. Tài lãnh đạo dựa trên sự truyền cảm hứng, không phải sự chi phối; dựa trên sự hợp tác, không phải sự dọa dẫm. Leadership is based on inspiration, not domination; on cooperation, not intimidation. Trước khi bạn nói, hãy lắng nghe. Trước khi bạn viết, hãy nghĩ. Trước khi bạn tiêu pha, hãy kiếm được. Trước khi bạn đầu tư, hãy tìm hiểu. Trước khi bạn phê phán, hãy chờ đợi. Trước khi bạn cầu nguyện, hãy tha thứ. Trước khi bạn bỏ cuộc, hãy thử. Trước khi bạn nghỉ hưu, hãy tiết kiệm. Trước khi bạn chết, hãy cho đi. Before you speak, listen. Before you write, think. Before you spend, earn. Before you invest, investigate. Before you criticize, wait. Before you pray, forgive. Before you quit, try. Before you retire, save. Before you die, give. Trước lời chỉ trích vô căn cứ, chúng ta có thể cảm thấy chua chát hoặc trở nên tốt đẹp hơn, bực bội hoặc thấu hiểu, thù địch hoặc nhún nhường, tức giận hoặc tha thứ. In the face of unjust criticism we can become bitter or better; upset or understanding; hostile or humble; furious or forgiving. Thay đổi, giống như tia nắng, vừa có thể là bạn vừa có thể là thù, là lời chúc phúc hay lời nguyền rủa, là ánh bình minh hay bóng hoàng hôn. Change, like sunshine, can be a friend or a foe, a blessing or a curse, a dawn or a dusk. Tương lai thuộc về người tin vào vẻ đẹp trong những giấc mơ của mình. The future belongs to those who believe in the beauty of their dreams. Thật may mắn cho ai học được cách khâm phục mà không ghen tị, đi theo mà không bắt chước, khen ngợi mà không tâng bốc, và dẫn đường mà không thao túng. Blessed is he who has learned to admire but not envy, to follow but not imitate, to praise but not flatter, and to lead but not manipulate. Thất bại không chết người. Thất bại nên là thầy của ta, không phải người làm tang lễ. Nó nên là thách thức để ta vươn tới những tầm cao thành tựu mới, không phải để lôi ta xuống vực thẳm tuyệt vọng. Từ thất bại, ta có thể có được những trải nghiệm đáng giá. Failure is not fatal. Failure should be our teacher, not our undertaker. It should challenge us to new heights of accomplishments, not pull us to new depths of despair. From honest failure can come valuable experience. Tin tưởng là biết ngoài kia là đại dương bởi mình nhìn thấy suối. Faith is knowing there is an ocean because you have seen a brook. Thất bại là sự trì hoãn, nhưng không phải thua cuộc. Đó là đoạn quanh co tạm thời, không phải ngõ cụt. Failure is delay, but not defeat. It is a temporary detour, not a dead-end street. Yêu không chỉ là một danh từ - nó là một động từ; nó không chỉ là cảm xúc - nó là quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ, hy sinh. Love is more than a noun - it is a verb; it is more than a feeling -- it is caring, sharing, helping, sacrificing.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Gwangju",
"role": "user"
},
{
"content": "Gwangju là một thành phố của Hàn Quốc. Gwangju được biết đến với cuộc thảm sát Gwangju ngày 18 tháng năm 1980, trong đó có ít nhất 207 (hoặc cao hơn tùy thuộc vào người mà bạn hỏi) sinh viên đã bị giết bởi lực lượng quân đội đàn áp một cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ. Điều này có nghĩa là Gwangju đã đi đầu trong phong trào dân chủ ở Hàn Quốc. Người dân thành phố rất tự hào về các cuộc nổi dậy và có xu hướng đi đầu trong bất kỳ biến động chính trị trong nước. Văn hóa nghệ thuật thanh niên Gwangju phát triển mạnh và thậm chí là một cái nhìn xuống các đường phố của Geumnamno người ta sẽ thấy người dân có ý thức về thời trang nói chung. Thêm vào đó, thành phố có nhiều phòng trưng bày nghệ thuật và tổ chức một lễ hội Bienalle hai năm một lần. Thành phố có bến xe buýt lớn nhất và hiện đại nhất và có khu uống rượu, ăn uống và hộp đêm cho người đi bộ lớn nhất trong cả nước. Đây là phản ánh của thành phố nói chung, hiện đại và sạch sẽ hơn bất cứ nơi nào khác trong cả nước, có lẽ ngoài Busan ra. Ở Hàn Quốc, Gwangju nổi tiếng với ẩm thực của nó cũng như tỉnh Jeolla. Toàn bộ khu vực được coi là vựa lúa mì của Hàn Quốc. Sân bay Gwangju (IATA: KWJ) có các chuyến bay đến Seoul và đảo Jeju. Nếu không đi bằng tiền của công ty gấp gáp về thời gian, hầu hết du khách không bao giờ bước chân vào sân bay vì nó chỉ cung cấp các chuyến bay đến Seoul Gimpo và sân bay Jeju. Hầu hết du khách tìm thấy dễ dàng hơn và rẻ hơn khi đón xe buýt đi thẳng từ sân bay quốc tế Incheon (4 1/2 giờ) hoặc thậm chí sân bay Gimhae (Busan - 3 giờ) nếu cần thiết. Có 1-2 chuyến khởi hành hàng giờ đến / từ Incheon và chi phí là 29.600 ₩. Đi từ sân bay Gimhae có một chút khó khăn hơn. Tuyến đường nhanh nhất sẽ được đi xe buýt đến Gimhae, sau đó đi taxi đến sân bay Gimhae (김해 공항 - Kim-Hey Gonghang). Đảo ngược chuyến đi qua Gwangju. Cuối cùng, toàn bộ sân bay Gwangju sẽ được loại bỏ và chỉ còn lại một căn cứ không quân Hàn Quốc với một đội nhỏ các binh sĩ Mỹ. Sân bay phục vụ Gwangju sẽ sớm được chỉ sân bay quốc tế Muan, khoảng một giờ tây của Gwangju. Tàu của Korail và KTX chạy từ Seoul nhiều lần một ngày và là lựa chọn nhanh nhất cho du khách muốn đi đến Gwangju từ Seoul. Chuyến đi kéo dài 3 giờ và chi phí là 33.000-39.000 won. Lưu ý rằng tất cả các chuyến tàu khởi hành từ ga Yongsan ở Seoul, không trạm chính Seoul. Một tuyến Honam KTX riêng biệt đang được xây dựng và khi hoàn thành vào khoảng năm 2014, đi từ Seoul đến Gwangju sẽ mất 90 phút. Công viên tưởng niệm 5.18 tưởng niệm vụ nổi dậy ngày 18 tháng 5 năm 1980. Có hai đài tưởng niệm cho thời điểm này trong lịch sử của nó. Khu tưởng niệm chính ở trong công viên 5.18 xinh đẹp, ở trung tâm Sangmu. Có một phòng triển lãm cung cấp cho du khách thông tin đến sự kiện dẫn đến cuộc nổi dậy dân chủ bất bạo động. Trong khi đó, theo con đường đi bộ lên đỉnh đồi nơi bạn có thể leo lên một ngôi chùa ba tầng và mất trong một cái nhìn tốt đẹp của phần hiện đại hơn của Gwangju. Khu tưởng niệm khác dịp này là nghĩa trang 5.18, nằm ở phía đông bắc của thành phố, khoảng 50 phút từ trạm xe buýt. Nghệ thuật đường phố Một đường phố cách trung tâm thành phố kéo dài khoảng ba khối. Nó có đầy đủ các nghệ sĩ và tác phẩm của họ trong phòng trưng bày và cửa sổ cửa hàng trang trí độc đáo. Vào các buổi tối, nó được thắp sáng đặc biệt là đẹp và cung cấp một đi bộ cổ kính đẹp một quãng ngắn từ khu vực cho người đi bộ bận rộn nhất trong thành phố. Cho các nghệ sĩ tìm kiếm nguồn cung cấp vật liệu vẽ, nhiều cửa hàng cũng mang vật liệu rất phải chăng. Từ YMCA, băng qua đường, vượt qua KEB, và rẽ trái khi bạn nhìn thấy những mái vòm trắng và đá sỏi đường (tiếp tục đi thẳng đến một nhà hàng chay ngon miệng bên phải của bạn). Chợ Yangdong Kể từ năm 2005, khu vực sông đã thay đổi bộ mặt nhanh chóng đáng ngạc nhiên, trải dài từ chợ thực phẩm, quần áo và đồ nội thất nổi tiếng nhất của Gwangju, chợ Yangdong (양동 시장 - Yangdong Shijang), tất cả các cách ra khỏi thành phố theo hướng đông nam. Cạnh sông được chiếu sáng đẹp vào ban đêm, và với đèn màu và khu vực mua sắm gần đó, nhanh chóng trở thành một biểu tượng của Gwangju - thành phố của ánh sáng và văn hóa Món ăn Hàn Quốc Min Sok Cheon - Đối diện Megabox Cinema trung tâm thành phố. Nolboo Bosam - Chuỗi với một số địa điểm trong các huyện trung tâm thành phố. Món ăn quốc tế Trung tâm *First Nepal (phong cách Nepal/Ấn Độ) First Alleyway (phong cách Mỹ/Canada) Demarcantes (món Ý) Valance Burger - chuỗi bánh mì thịt kẹp Hàn Quốc bán bánh mì kẹp thịt chất lượng tốt, khoai tây chiên kiểu ớt và sa lát. Xuống các đường phố mà là Migliore đối diện và để bên trái. Ngoại ô Món ăn Thái - Đi bộ Khoảng cách từ Ga Tàu điện ngầm Seong-Jeong-Ri. Phở Việt (Vietnamese Pho) - Tầng thượng của Lotte Department Store. Món ăn Việt Nam - Đằng sau Cinema Columbus trong Sang-Mu Quán buffet thức ăn chay - Ja.yeon Ju.ui 자연주의 Địa chỉ: 1032-1010 Pungam-dong, Seo-gu, Gwangju (Điện thoại: 062-681-5800)",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Ca dao Việt Nam châm biếm, hài hước",
"role": "user"
},
{
"content": "Những câu hát châm biếm thể hiện nét đặc trưng và đặc sắc của nghệ thuật của dân tộc Việt Nam. Những câu hát châm biếm dùng những từ ngữ đặc biệt để phơi bày các sự việc mâu thuẫn, phê phán thói hư tật xấu của những hạng người và sự việc đáng cười trong xã hội.. Chồng người đánh giặc sông Lô Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần Chồng người cưỡi ngựa bắn cung Chồng em ngồi bếp cầm chun bắn ruồi. Con cò chết rũ trên cây, Cò con mở lịch xem ngày làm ma. Cà cuống uống rượu la đà, Chim ri ríu rít bò ra lấy phần, Chào mào thì đánh trống quân Chim chích cởi trần,vác mõ đi rao. Cái cò lặn lội bờ ao Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng chú tôi hay tửu hay tăm Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa Ngày thì ước những ngày mưa Đêm thì ước những đêm thừa trống canh Cậu cai nón dấu lông gà, Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai Ba năm được một chuyến sai, Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê Đàn ông tập tạ thì đô Đàn bà không tập hơn voi nữa là Đồn rằng quan tướng có danh, Cưỡi ngựa một mình chẳng phải vịn ai. Vua khen rằng:Quan tướng có tài, Ban cho cái áo với hai đồng tiền. Đánh giặc thì chạy trước tiên, Xông ra trận tiền cởi khố giặc ra. Giặc sợ, giặc chạy về nhà, Trở về gọi mẹ mổ gà khao quân. Học hành ba chữ lem nhem Thấy gái thì thèm như chửa thèm chua Hai tay cầm hai quả hồng, Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai Ca dao Việt Nam về tình yêu quê hương, đất nước, con người Ca dao Việt Nam về chống áp bức phong kiến và chống thực dân, đế quốc Ca dao Việt Nam về quan hệ xã hội Ca dao Việt Nam về tình cảm gia đình Ca dao Việt Nam về tình yêu Ca dao Việt Nam về lao động và văn hóa Ca dao Việt Nam về chủ đề than thân Đồng dao Ca dao Việt Nam",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Tục ngữ Hà Nội",
"role": "user"
},
{
"content": "Thăng Long Hà Nội đô thành Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ. Cố đô rồi lại tân đô Ngàn năm văn vật bây giờ là đây Sông Tô một dải lượn vòng Ấy nơi liệt sĩ anh hùng giáng sinh. Sông Hồng một khúc uốn quanh Văn nhân tài tử lừng danh trong ngoài. Ai về Hà Nội, ngược nước Hồng Hà Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui. Đường về xứ Lạng mù xa... Có về Hà Nội với ta thì về. Sông Tô nước chảy quanh co Cầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya... Nước sông Tô vừa trong vừa mát Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh. Dừng chèo muốn tỏ tâm tình Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu. Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn. Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn Hỏi ai gây dựng nên non nước này. Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Hỡi cô thắt lưng bao xanh Có về Kẻ Bưởi với anh thì về. Làng anh có ruộng tứ bề Có hồ tắm mát, có nghề quay tơ... Hỡi cô mà thắt bao xanh Có về Kim Lũ với anh thì về. Kim Lũ có hai cây đề Cây cao bóng mát gần kề đôi ta. Hỡi cô thắt lưng bao xanh Có về Kẻ Vẽ với anh tìm về. Kẻ Vẽ có thói có lề Kẻ Vẽ lại có nhiều nghề đâu hơn. Hỡi cô thắt dải lưng xanh Có về Phú Diễn với anh thì về. Phú Diễn có cây bồ đề Có sông tắm mát, có nghề ăn chơi... Làng tôi có lũy tre xanh Có sông Tô Lịch chảy quanh xóm làng. Bên bờ vải nhãn hai hàng Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng. Ai về Đào Xá vui thay Xóm Bắc có chợ, xóm Tây có chùa. Xóm Đông có miếu thờ vua Xóm Nam có bến đò đưa dập dìu... Thứ nhất Hội Gióng, Hội Dâu Thứ nhì Hội Bưởi, Hội Vó chẳng đâu vui bằng. Thứ nhất là Hội Cổ Loa Thứ nhì Hội Gióng, thứ ba Hội Chèm. Ai ơi mồng chín tháng tư Không đi hội Gióng cũng hư mất đời. Tháng giêng giỗ Thánh Sóc Sơn Tháng ba giỗ Tổ Hùng Vương nhớ về. Bỏ con bỏ cháu, không bỏ mồng sáu tháng giêng. Mồng sáu tháng giêng là ngày hội Cổ Loa, hội đền Sóc. Cha đánh mẹ treo cũng không bỏ chùa Keo ngày rằm. Mỗi năm vào dịp xuân sang Em về Triều Khúc xem làng hội xuân... Nhớ ngày hăm ba tháng ba Dân Trại ta vượt Nhị Hà thăm quê... Là hội làng Lệ Mật. Lạy trời cho cả gió lên Cho cờ vua Bình Định bay trên kinh thành. Nhong nhong ngựa ông đã về Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn. Đống Đa ghi để lại đây Bên kia Thanh Miếu, bên này Bộc Am. Long thành bao quản nắng mưa Cửa Ô Quan Chưởng bây giờ còn đây... Trời cao biển rộng đất dày Núi Nùng, sông Nhị, chốn này làm ghi. Làng Đam bán mắm tôm xanh Làng Họa đan đó, làng Tranh quay guồng. Đông Phù cắp thúng đi buôn Đông Trạch bán thịt, làng Om vặn thừng. Tương Trúc thì giỏi buôn sừng Tự Khoát đan thúng, Vẹt từng làm quan... Hỏi người xách nước tưới hoa Có cho ai được vào ra chốn này. Và ướm lời hò hẹn: Hỡi cô đội nón ba tầm Có về Yên Phụ hôm rằm lại sang. Phiên rằm cho chính Yên Quang Yêu hoa, anh đợi hoa nàng mới mua... Văn minh đèn điện sáng lòe Thông thương kỹ nghệ mọi bề chấn hưng. Chỉ cánh áo ngắn khốn cùng Làm lụng suốt tháng vẫn không đủ dùng. Bữa cơm, bữa cháo nhạt nhùng Thôi đành nheo nhóc bọc đùm lấy nhau. Ông quan ở huyện Thanh Trì Miếng mỡ thì lấy, miệng bì thì chê. Cha đời lính Tẩy, lính Tây Hễ trông thấy gái giở ngay xì xồ... Đốc Hà áo gấm, áo hoa Mẹ tôi váy đụp đã ba, bốn tầng... Trèo lên cây gạo cao gao Lệ cheo làng Nhói độ bao nhiêu tiền? Cheo thời có bẩy quan hai Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ. Thôi thôi tôi giã om cô Tiền cheo cũng nặng trăm vồ cũng đau! Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu chưa thanh lịch cũng người Tràng An. Chẳng thơm cũng thể hoa mai Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh. Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Chẳng thanh lịch cũng là người Thủ đô. Hoa thơm, thơm lạ thơm lùng Thơm cành, thơm rễ, người trồng cũng thơm. Với cô hàng bỏng kẹo làng Lủ: Mình từ làng kẹo mình ra Nên mình nói ngọt cho ta phải lòng. Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ Xem cầu Thê Húc xem chùa Ngọc Sơn Đài Nghiêng Tháp Bút chưa mòn Hỏi ai gây dựng nên non nước này Và cả đến gánh rau làng Láng cũng phải: ... Mượn người lịch sự gánh lên Kinh kỳ.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Cuba",
"role": "user"
},
{
"content": "Cuba [1] là đảo Caribbea lớn nhất, giữa biển Caribbea và Bắc Đại Tây Dương. Cuba có cự ly 145 km về phía nam Key West, Florida, giữa quần đảo Cayman và Bahamas, về phía tây của Haiti, và tây bắc của Jamaica. Cuba là một quốc gia thuộc Caribe Trung Mỹ. Thủ đô là La Havana. Cuba, tên gọi chính thức là Cộng hòa Cuba (tiếng Tây Ban Nha : Cuba hay República de Cuba, IPA: [re'puβlika ðe ˈkuβa]) là Quốc gia bao gồm đảo Cuba (hòn đảo hình con cá sấu vươn dài trên biển Caribe, cũng là hòn đảo lớn nhất của quần đảo Đại Antilles), cùng với đảo Thanh Niên (Isla de la Juventud) và các đảo nhỏ xung quanh. Cuba nằm ở phía bắc Vùng Caribe ở giao điểm của của ba miền biển lớn: Biển Caribe, Vịnh Mexico và Đại Tây Dương. Cuba nằm ở phía nam miền đông Hoa Kỳ và Bahamas, phía tây Quần đảo Turks và Caicos và Haiti và phía đông Mexico. Quần đảo Cayman và Jamaica ở phía nam. Cuba là quốc gia đông dân nhất vùng Caribe. Dân chúng và văn hóa Cuba kết hợp từ nhiều nguồn dựa trên quá trình nhân chủng, lịch sử và địa lý: bộ tộc người bản xứ Taíno và Ciboney, lịch sử thời kỳ Tây Ban Nha thống trị, chế độ đồn điền nhập cư nô lệ Châu Phi, và vị trí địa lý gần Hoa Kỳ. Hòn đảo này có khí hậu nhiệt đới nhưng điều hòa bởi vùng biển bao quanh; tuy nhiên vì nhiệt độ cao của Biển Caribe và địa thế hầu như chắn ngang Vịnh Mexico, Cuba hằng năm thường hứng chịu những trận bão lớn. Cuba là một quần đảo nằm tại Biển Caribbean, với tọa độ địa lý 21°3N, 80°00W. Cuba là hòn đảo chính, được bao quanh bởi bốn nhóm đảo lớn. Chúng gồm Colorados, Camagüey, Jardines de la Reina và Canarreos. Hòn đảo chính Cuba chiếm hầu hết diện tích đất nước (105.006 km2 hay 40.543 dặm vuông) và là hòn đảo lớn thứ 17 trên thế giới theo diện tích. Hòn đảo lớn thứ hai tại Cuba là Đảo Thanh niên (Isla de la Juventud), tên cũ là Đảo Thông (Isla de la Pinos) ở phía đông nam, với diện tích 3056 km2 (1180 dặm vuông). Cuba có tổng diện tích đất liền 110.860 km2. Hòn đảo chính gồm chủ yếu các đồng bằng phẳng tới hơi dốc. Ở cực phía đông nam Sierra Maestra, một rặng núi dốc đứng với điểm cao nhất là Pico Real del Turquino 2.005 mét (6.578 ft). Khí hậu địa phương là nhiệt đới, dù được điều tiết ôn hòa bởi gió mậu dịch. Nói chúng (với biến thiên theo địa phương), có một mùa khô từ tháng 11 tới tháng 4, và một mùa mưa từ tháng 5 tới tháng 10. Nhiệt độ trung bình 21 °C vào tháng 1 và 27 °C vào tháng 7. Cuba nằm trên đường đi của các cơn bão và chúng thường xảy ra nhất trong khoảng từ tháng 9 tới tháng 10. Havana là thành phố lớn nhất và thủ đô Cuba; các thành phố lớn khác gồm Santiago de Cuba và Camagüey. Những thị trấn nổi tiếng khác gồm Baracoa từng là khu định cư đầu tiên của người Tây Ban Nha tại Cuba, Trinidad, và một di sản thế giới của UNESCO, and Bayamo. Havana - thủ đô quốc gia với cuộc sống về đêm sôi động Baracoa - một thành phố bãi biển phía cổ kính, và thủ đô đầu tiên của Cuba Pinar del Rio - trung tâm của ngành công nghiệp thuốc lá Santa Clara - quê hương của cuộc chiến thành công nhất Ernesto \"Che\" Guevara của trong cuộc Cách mạng, một lăng mộ được dựng lên ở vùng ngoại ô của thành phố và hiện đang nắm giữ phần còn lại của mình, thu hồi từ Bolivia trong những năm 1990 Santiago de Cuba - thành phố ven biển ảnh hưởng Caribbe Trinidad - Di sản thế giới các tòa nhà thuộc địa quyến rũ Varadero - khu vực bãi biển nổi tiếng, phía đông Havana, đầy chủ yếu là khách du lịch Công dân Việt Nam mang hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ, hộ chiếu phổ thông đi công vụ và hộ chiếu thuyền viên được miễn visa. Cấp thị thực cho các loại hộ chiếu khác miễn thu lệ phí. Một thẻ visa du lịch (visa de tarjeta del turista) là cần thiết cho du khách từ hầu hết các quốc gia. Thị thực này, mà thực sự là ít hơn một mảnh giấy mà bạn liệt kê các số liệu thống kê quan trọng, chi phí khoảng 15-25 CUC (hoặc € 15-25), tùy thuộc vào nơi mua. Nó có thể được mua tại các sân bay ở Cuba khi đến, tuy nhiên cần lưu ý rằng nhiều hãng hàng không sẽ yêu cầu một thẻ visa du lịch hợp lệ trước khi chuyến bay nội trú. Nó thường có giá trị trong 30 ngày và có thể được gia hạn một lần không quá 30 ngày tại bất kỳ văn phòng di trú ở Cuba (25 CUC) - ngoài này, bạn sẽ cần một chuyến bay ra khỏi Cuba trong thời hạn thị thực mở rộng. Canada là ngoại lệ, nhận được 90 ngày khi đến và có thể áp dụng cho một phần mở rộng 90 ngày. Hộ chiếu của bạn cần phải có giá trị ít nhất sáu tháng qua khi kết thúc trở lại kế hoạch của bạn. Hộ chiếu Canada phải có giá trị ít nhất một tháng sau ngày khởi hành dự kiến (). Từ Canada, thẻ du lịch thường được cung cấp trên các chuyến bay. Nó có thể được mua tại sân bay Cancun (250 MXN) nếu khởi hành từ đó, và tương tự như ở hầu hết các sân bay khác cửa ngõ Châu Mỹ La tinh. Xin lưu ý rằng nếu rời Vương quốc Anh và nhiều nước Châu Âu ít nhất (có thể áp dụng đối với các quốc gia khác), bạn sẽ cần phải có visa trước khi lên máy bay. Bạn có thể bị từ chối cho lên máy bay (điều này là bởi vì các hãng hàng không sau đó sẽ bị cơ quan di trú phạt 1.000 USD) và vé máy bay mất. Tại Anh, xin thị thực là một quá trình rất đơn giản và có thể được thực hiện qua đường bưu điện hoặc trực tiếp tại Đại sứ quán Cuba tại London. Xin vui lòng lưu ý rằng nếu nộp đơn xin visa đối với Cuba Lãnh sự quán qua bưu điện, thì phải trả tiền mới được giới thiệu trong năm 2011 đó là một £ 25 cho một giao dịch không phải cá nhân. Nếu bạn không thể đi đến Lãnh sự quán Cuba thì hãy sử dụng VisaCuba bởi vì giá rẻ hơn. Thông qua loại này mất £ 20 cho mỗi người. Nếu bạn nộp đơn trực tiếp đến Lãnh sự quán Cuba, bạn sẽ có được thị thực ngay lập tức. Điều này cũng có thể được thực hiện thông qua các cơ quan trực tuyến như đã đề cập trước mặc dù họ có thể là hơi đắt tiền hơn (thường là £ 15 £ 15 + lệ phí quản trị và phụ phí bưu điện). Khách du lịch thường xuyên xin lại thị thực 30 ngày của họ có đủ điều kiện để rời quốc gia này (đến bất kỳ điểm) và quay trở lại ngay lập tức được hưởng thêm 60 ngày (30 ngày cộng với một phần mở rộng 30 ngày). Bạn chỉ được phép ở lại hai liên tiếp theo cách này. Nếu bạn muốn ở lại với bạn bè hoặc gia đình ở Cuba, bạn phải đi với chủ nhà dự định của bạn trong vòng hai ngày sau khi đến văn phòng di trú và nộp 40 CUC cho visa gia đình 30 gia đình. Công dân của Antigua và Barbuda (28 ngày), Barbados (28 ngày), Benin, Bosnia và Herzegovina, CIS (trừ Ukraine và Uzbekistan), Dominica, Grenada (60 ngày), Liechtenstein (90 ngày), Macedonia, Malaysia (90 ngày ), Mông Cổ, Montenegro (90 ngày), Namibia, Singapore, Slovakia, Saint Kitts và Nevis, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadines, Serbia (90 ngày), Turkmenistan người có thể ở lại 30 ngày mà không cần thị thực. (Nguồn gốc của câu trước đó là không rõ. AeroMexico nhân viên tại sân bay Cancun tuyên bố rằng chỉ có công dân của Trung Quốc và Nga không cần thị thực.) Điều quan trọng cần lưu ý rằng rằng cũng có thuế xuất cảnh 25 CUC, thanh toán bằng tiền mặt khi rời Cuba bằng máy bay, điều này là không cần thiết cho chuyến tàu thủy. Thuế này là không được công bố, nhưng nó là điều cần thiết để ghi nhớ nó. Bạn sẽ gặp khó đáng kể nếu bạn không có đủ tiền mặt để trả thuế này khi rời khỏi đất nước. Máy ATM hiện có sẵn tại sân bay nhưng các cơ sở này là không đáng tin cậy ở Cuba như ở những nơi khác. Hải quan Cuba có thể nghiêm ngặt, mặc dù đôi khi họ dễ dàng đối với khách du lịch. Đại sứ quán Việt Nam tại Cu-Ba, ☎ +53-7-2041501, e-mail: emvicu@mofa.gov.vn. địa chỉ : 5ta Ave. esq. a 18, Miramar, Playa, La Habana, Cuba",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Varaždin",
"role": "user"
},
{
"content": "Varaždin là một trong những trung tâm du lịch quan trọng nhất của miền Bắc Croatia. Pháo đài khu phố cổ, trung tâm thành phố, nhiều viện bảo tàng, phòng trưng bày và các bộ sưu tập cũng như Varaždin nghĩa trang, bảo vệ như một di tích làm vườn, đại diện cho các điểm du lịch chính của thành phố này Trung Âu Baroque và kinh đô Croatia cổ đại. Varaždin nằm trên bờ phải của sông Drava ở tây bắc Croatia, 79 km về phía bắc của Zagreb. Tài liệu tham khảo bằng văn bản đầu tiên Varaždin ngày trở lại vào năm 1181, khi gần nhiệt suối Varaždinske Toplice đã được đề cập bởi vua Bela III trong một tài liệu pháp lý. Năm 1209 Varaždin được công nhận là quận tự do hoàng gia bởi vua Croatia-Hungary Andrew II cho phép nó để phát triển thành trung tâm kinh tế và quân sự của miền bắc Croatia. Do Ottoman các cuộc tấn công thường xuyên, thị trấn đã được gia cố phòng thủ xung quanh pháo đài cũ, do đó có được hình dạng của một Wasserburg thời trung cổ điển. Ngay từ thế kỷ 13 các Hiệp sĩ Hospitaller (trong Croatia Ivanovci) đến Varaždin, nơi họ xây dựng một nhà thờ và một tu viện. Vào cuối thế kỷ 14 pháo đài Varaždin được chuyển sang tay của Earls của Celje. Qua nhiều thế kỷ sau Varaždin có nhiều chủ sở hữu, có ảnh hưởng nhất là Beatrice Frankopan, bá tước Juraj Brandenburg, đã xây dựng tòa thị chính, cuối cùng là Nam tước Ivan Ungnad, ai củng cố công sự hiện có. Khi vào cuối thế kỷ 16 Lượt Toma Bakač Erdödy đã trở thành chủ nhân của nó, giả sử các vị trí di truyền của Varaždin trưởng (Zupan), pháo đài vẫn thuộc sở hữu của gia đình của mình cho đến năm 1925. Năm 1756, Ban Franjo Nadasdy chọn Varaždin như nơi ở chính thức của mình quay Varaždin vào vốn của tất cả các của Croatia. Nó tổ chức Croatia Sabor và Hội đồng Hoàng gia Croatia được thành lập bởi Hoàng hậu Maria Theresa của Áo. Cải cách và chống cải cách để lại một dấu lâu dài trên Varaždin. Với sự xuất hiện của dòng Tên, trường học và tu viện đã được thành lập. Hơn nữa, một số nhà thờ và tu viện được xây dựng theo phong cách Baroque. Varaždin như là nơi ở của nhiều quý tộc Croatia năm 1756 nó trở thành trung tâm hành chính của Croatia. Tuy nhiên, khi đám lửa lớn năm 1776 bị phá hủy nhất của thị trấn, cơ quan hành chính chuyển về Zagreb. Đến thế kỷ 19 Varaždin đã được hoàn toàn xây dựng lại và mở rộng. Thủ công mỹ nghệ và thương mại, và sau đó là sản xuất lụa và gạch phát triển mạnh mẽ dẫn đến việc tạo ra các nhà hát của thị trấn, trường học âm nhạc, và sở cứu hỏa. Do vị trí địa lý thuận lợi của nó, thành phố có thể dễ dàng tiếp cận với nhiều nước láng giềng. Xe buýt chạy rất thường xuyên từ Zagreb và mất khoảng 90 phút - kiểm tra thời gian biểu hoặc trang web của Zagreb Bến xe của [1] cho lần. Dịch vụ vào khu vực lân cận là khá thường xuyên, một số đi qua biên giới vào Hungary. Xe buýt cũng chạy từ các thành phố lớn khác Croatia hầu như hàng ngày đến Varaždin. Thông tin trực tuyến cho xe buýt để Varaždin có thể được tìm thấy tại trang Varaždin Giao [2]. Khởi hành quốc tế (đặc biệt là Áo, Đức, Hungary và hơn thế nữa) thường dừng chân trong thị trấn, và nếu có một chiếc xe buýt sau ngày hôm đó, các công ty thường danh dự là \"phá vỡ cuộc hành trình 'ghé thăm thị trấn trong một vài giờ. Lưu ý trong Varaždin rằng trạm xe buýt nằm ở phía tây của thành phố, và nhà ga xe lửa nằm ở phía đông, với khoảng cách khoảng 2 km giữa. Những người đi từ Graz trong Áo nên tiến hành Maribor lấy đường M3 Ptuj mà từ đó họ có thể vượt qua thành Croatia. Du khách đến từ Nagykanizsa hay Budapest nên sử dụng đường cao tốc A4 một khi họ nhập Croatia nối Varaždin với Hungary biên giới. Du khách từ Zagreb có thể sử dụng đường cao tốc A4 đó sẽ đưa họ đến đích của họ trong ít hơn một giờ. Đi xe lửa có thể ngắm phong cảnh đẹp nhất và rẻ nhất (nhưng chậm nhất) để đến Varaždin từ Zagreb là một đoàn tàu địa phương (2h20) dừng lại ở mỗi trạm giữa hai thành phố. Giá của một vé khứ hồi là 80kn (khoảng 10 euro), với mức giảm giá cho người có thẻ ISIC. Gần đây, tốc độ của cuộc hành trình cải thiện đáng kể với việc bổ sung một nhanh hơn (mặc dù đắt hơn) thay thế của tốc độ cao kết nối tàu nghiêng điều hành bởi Hrvatske željeznice (Croatia đường sắt) . Dịch vụ xe lửa cũng hoạt động phía bắc đến Čakovec và Koprivnica (với các kết nối hơn nữa để Slavonia và Hungary), và có một dịch vụ hàng ngày để Chia và Budapest ở Hungary. Tính đến tháng 5 năm 2008, nhà ga xe lửa trong Varaždin đã được đóng cửa để tu bổ. Tàu vẫn chạy, nhưng thông tin lịch trình và vé cần thiết để được mua ở nơi khác.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Jack Benny",
"role": "user"
},
{
"content": "Jack Benny (14 tháng 2 năm 1894 – 26 tháng 12 năm 1974), tên lúc sinh Benjamin Kubelsky, là một diễn viên hài, diễn viên ca nhạc, diễn viên đài phát thanh, truyền hình, và điện ảnh. Ông là một trong những ngôi sao lớn nhất trên đài phát thanh Mỹ cổ điển và cũng là một người làm truyền hình lớn. Đối với người là bậc thầy không thể chối cãi của hài kịch định giờ (comedy timing), phải công nhận rằng đây là lần duy nhất Jack Benny thực hiện sai thời điểm. Ông ấy rời bỏ chúng ta quá sớm. Ông ấy bủn xỉn đến cùng. Ông ấy chỉ cho chúng ta tám mươi năm và nhiêu đó vẫn chưa đủ. Bob Hope tại lễ tưởng niệm Jack Benny; được kể lại trong William Robert Faith, Bob Hope: A Life In Comedy (2003), trang 392. Trong suốt buổi độc tấu vĩ cầm của Jack tại Hollywood Bowl, khán giả đã bị dán vào chỗ ngồi của họ. Đó là cách duy nhất để họ ngồi xuống. Zubin Mehta tại Irving Fein, Jack Benny: an Intimate Biography (1976), quyển 2, trang 154. Wikipedia có bài viết về: Jack Benny Wikimedia Commons có phương tiện liên quan tới: Jack Benny The best of Jack Benny (Youtube)",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Lima",
"role": "user"
},
{
"content": "Lima là thủ đô, thành phố lớn nhất của Peru, đồng thời là thủ phủ của tỉnh Lima. Đây là trung tâm văn hoá, công nghiệp, tài chính và giao thông của Peru, nằm tại vùng thung lũng bao quanh cửa sông Chillón, sông Rímac và sông Lurín. Thành phố có diện tích 804,3 km2 dân số chiếm 2/3 tổng số dân cả nước. Sự tập trung của cải và quyền lực ở Lima càng lớn hơn. Thành phố chiếm 2/3 GDP cũng như thu thuế, đầu tư tư nhân, tiền gửi ngân hàng, số lượng thầy thuốc và sinh viên của Peru. Dù có các nỗ lực phi tập trung hoá, Lima vẫn là nơi tập trung các cơ sở chính của các cơ quan chính phủ. Trung tâm lịch sử của Lima được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Năm 2003, Lima có dân số 7,9 triệu, sinh sống tại 33 quận. Thành phố tăng thêm hơn 2,5 triệu người kể từ năm 1981 khi dân số của thành phố là 4,1 triệu. Hơn 90% dân số của Lima là người mestizo, người có dòng máu châu Âu pha trộn với người thổ dân châu Mỹ và cộng đồng thiểu số da trắng, da đen, châu Á, trong đó người gốc Nhật Bản là đông nhất. Từ thập niên 1940, Lima đã trải qua những đợt tăng trưởng nhanh về dân số, khoảng 7% mỗi năm kể từ thập niên 1960, 5% thập niên 1970 và 4% thập niên 1980. Sự tăng dân số nhanh do dòng dân di cư từ các vùng nông thôn và đô thị nhỏ của Andes đã khiến cho tình hình vùng đô thị này trở nên ngày càng nghiêm trọng, thành phố không thể cung cấp đủ nước, nhà ở và các dịch vụ công công cộng khác. Xung quanh thành phố đang hình thành những khu nhà lụp xụp, ổ chuột. Lima được thành lập tháng giêng năm 1535 và được đặt tên là Ciudad de los Reyes, có nghĩa là Thành phố của các vua. Sau khi Pizarro xâm lược Đế quốc Inca, Lima trở thành thủ đô của Phó vương Peru, một vùng hành chính bao gồm phần lớn các khu vực lãnh thổ ở Nam Mỹ. Trong suốt ba thế kỷ thuộc địa, phần lớn việc buôn bán của Tây Ban Nha với Nam Mỹ được thực hiện thông qua Callao. Lima đã bùng phát và trở thành một trung tâm chính trị, văn hoá, thương mại của Nam Mỹ thuộc Tây Ban Nha, và giàu lên nhờ các nguồn dự trữ vàng và bạc của Andes. Tầm quan trọng của Lima có phần giảm sút sau khi giai đoạn thuộc địa kết thúc. Trong những cuộc chiến giành độc lập của châu Mỹ Latin, đây là thành trì của lực lượng hoàng gia phản đối việc chia tách khỏi Tây Ban Nha. Tướng José de San Martín, một trong những lãnh đạo của phong trào độc lập đã chiếm lĩnh thành phố vào năm 1821 và năm năm sau đó, thành phố trở thành thủ đô của nước Peru độc lập. Lima vẫn giữ được vai trò ưu thế vượt trội của Peru và là một thủ đô lớn của Nam Mỹ trong thế kỷ 19. Từ năm 1881 đến 1883, thành phố bị quân Chile chiếm đóng trong cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương, buộc chính phủ Peru phải tháo chạy lên Cao nguyên Andes. Dân số tăng nhanh từ thập niên 1950 đã khiến cho Lima lớn gấp 10 lần so với thành phố lớn thứ hai của Peru. Các khu ổ chuột mọc xung quanh thành phố là nơi sinh sống của gần 1/3 dân số Lima. Trong thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, thành phố xảy ra các vụ đánh bom, ám sát và tấn công của nhóm khủng bố Sendero Luminoso (Con đường Ánh sáng). Tháng 12 năm 1996, một nhóm cách mạng khác mang tên Phong trào cách mạng Tupac Amarú (MRTA), đã chiếm giữ khu nhà ở của đại sứ Nhật Bản khi đang diễn ra một buổi tiệc trong kỳ nghỉ, có 500 người bị bắt làm con tin. Trong cuộc bao vây kéo dài bốn tháng, những kẻ phiến loạn đã đưa yêu sách phải thả những thành viên của họ đang bị giam tù và phải cải thiện điều kiện trong nhà tù, họ đã thả một số con tin và giữ lại 72 người. Vụ việc kết thúc vào tháng 4 năm 1997, khi những người lính Peru đã giải cứu con tin và giết tất cả các thành viên của MRTA, khi đó có một con tin thiệt mạng. Khí hậu của thành phố ôn hoà, dù vị trí của thành phố ở vùng nhiệt đới, nhờ dòng khí lạnh của Dòng hải lưu Peru, Thái Bình Dương chảy theo hướng Bắc, dọc theo bờ biển từ Bắc Cực. Mưa ở Lima hiếm hoi do dòng hải lưu duyên hải lạnh và hiệu ứng mưa chặn mưa của Dãy Andes chặn dòng khí ấm chứa hơi ẩm từ phía Đông. Bờ biển thường bị phủ lớp màn sương mù nặng được gọi là garúa, đặc biệt dày đặc vào những tháng mùa đông, mát hơn từ tháng 4 đến tháng 10. Đặc trưng khí hậu của thành phố ừ tháng 11 đến tháng 3 là ban ngày ấm nắng và buổi tối mát. Thành phố nằm trong khu vực địa chấn, các trận động đất lớn đã xảy ra các năm 1687, 1746. Sân bay quốc tế Jorge Chavez (IATA: LIM, ICAO: SPIM) (còn gọi là Sân bay Jorge Chavez Lima-Callao). Thông tin chuyến bay - ☎ +51 1 511-6055 [1], là ở thành phố cảng Callao và trong thành phố Lima. Sân bay cũng được kết nối với hầu hết các thành phố trong Nam Mỹ. Có các chuyến bay thường xuyên đến Ft. Lauderdale, Miami, Newark, Atlanta và Houston ở Mỹ. Có các chuyến bay hàng ngày từ Amsterdam, Madrid, Miami, Bogotá, Medellín, Quito, Santiago de Chile và Toronto. Lima là trung tâm của nhiều chuyến bay trong khu vực trong nước và được phục vụ bởi mạng LAN Peru, LC Busre, TACA Peru, và sao tại Peru. Bạn có thể tìm wifi miễn phí trong Starbucks nằm trong khu vực dịch vụ. Aerolíneas Argentinas (Bogotá, Buenos Aires-Ezeiza) Aeroméxico (Mexico City) Air Canada (Toronto-Pearson) Air Europa (Madrid) Air France (Paris) American Airlines (Miami) Avianca (Bogotá) Copa Airlines (Panama City) Delta Air Lines (Atlanta) Iberia (Madrid) KLM Royal Dutch Airlines (Amsterdam) LAN Airlines [2](Los Angeles, New York-JFK, Santiago, Easter Island) LAN Perú (Arequipa, Bogotá, Brasília, Buenos Aires-Ezeiza, Cajamarca, Cali, Caracas, Cartagena de Indias, Chiclayo, Cordoba, Cusco, Guayaquil, Iquitos, Iquique, Juliaca, La Paz, Los Angeles, Madrid, Medellín, Mexico City, Miami, Piura, Pucallpa, Puerto Maldonado, Punta Cana, Quito, Santa Cruz de la Sierra, Santiago, São Paulo-Guarulhos, Tacna, Tarapoto, Trujillo, Tumbes. LC Busre (Andahuaylas, Ayacucho, Cajamarca, Chimbote, Huancayo, Huánuco, Huaraz) Spirit Airlines (Fort Lauderdale) Star Perú (Ayacucho, Cajamarca, Cusco, Iquitos, Pucallpa, Puerto Maldonado, Tarapoto) TACA [3] Lacsa (Buenos Aires-Ezeiza, San José (CR)) TACA Peru (Asunción, Bogotá, Brasília, Buenos Aires-Ezeiza, Caracas, Cusco, Havana, Guatemala City, Guayaquil, La Paz, Medellín, Montevideo, Quito, Rio de Janeiro-Galeão, San José (CR), San Salvador, Santa Cruz de la Sierra, Santiago, São Paulo-Guarulhos) TAM Airlines (São Paulo-Guarulhos) United Airlines (Houston-Intercontinental, Newark) Khu vưc đến sân bay có thể là hỗn loạn. Hầu hết các chuyến bay từ nước ngoài đến hàng loạt hoặc vào buổi sáng sớm hoặc rất muộn vào ban đêm, có nghĩa là việc nhập cảnh và hải quan có thể được rất nhiều thời gian, sự khác biệt giữa xuất tại các cửa khẩu và hải quan xuất cảnh có thể nằm trong khoảng 20-90 phút. Khu vực ngay bên ngoài của hải quan thường đông đúc, đầy ắp khách đến sắp hàng chờ đợi.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Québec",
"role": "user"
},
{
"content": "Québec (tiếng Anh: Quebec; phát âm là kê-béc, không phải là quê-béc), có diện tích gần 1,5 triệu km2 - tức là gần gấp 3 lần nước Pháp hay 7 lần xứ Anh - và là tỉnh bang lớn thứ hai của Canada. Bằng ngôn ngữ, văn hoá và thể chế của nó, Quebec có hình thức là một quốc gia trong Canada. Về phía tây của Québec là tỉnh bang Ontario và vịnh Hudson, về phía đông là tỉnh bang New Brunswick và vùng Labrador (phần đất nội địa của tỉnh bang Newfoundland và Labrador), về phía nam là các tiểu bang Maine, New Hampshire, Vermont và New York của Hoa Kỳ. Hơn 90% diện tích của Québec nằm trên một nền đá lớn gọi là Canadian Shield. Chữ québec có nguồn gốc từ chữ gepèèg của người thổ dân Mi'kmaq. Gepèèg có nghĩa là \"eo biển\", dùng để ám chỉ chỗ thắt nhỏ lại của sông Saint-Laurent gần Thành phố Québec (tiếng Pháp: Ville de Québec, tiếng Anh: Quebec City). Hiện nay (2004) hơn 7,5 triệu người đang sinh sống tại Québec (tỉnh bang thứ nhì trong Canada về dân số, sau Ontorio), trong đó 80% tập trung ở các trung tâm đô thị nằm dọc theo sông Saint-Laurent (tiếng Anh: Saint Lawrence). Thành phố Montréal (tiếng Anh: Montreal), với một dân số vào khoảng 3 triệu, là một hòn đảo khá lớn nằm giữa sông Saint-Laurent và rất nổi tiếng về lịch sử, kiến trúc và các hoạt động văn hoá. Cho đến đầu thập niên 1980, Montréal vẫn còn là thành phố nổi tiếng nhất và đông dân nhất của Canada. Nằm ngay phía bắc của Montréal là thành phố đông dân thứ hai của Québec: Laval. Thành phố Québec, nằm cách 300 km về phía đông-bắc của Montréal là thủ phủ của tỉnh bang và là thành phố lớn thứ ba. Người Âu Châu đầu tiên đến Québec là nhà thám hiểm Jacques Cartier, khi ông đi thuyền ngược lên sông Saint-Laurent đến một ngôi làng nhỏ có tên là Stadacona (một địa điểm trong Thành phố Québec hiện nay) của thổ dân Iroquois vào khoảng 1535. Theo sau đó là nhà thám hiểm Samuel de Champlain vào khoảng 1608. Từ đó Québec thành thuộc địa của Đế quốc Pháp, dưới thời vua Louis XII, và được đặt tên là Nouvelle-France (tiếng Anh: New France); sang đến 1663 thì vua Louis XIV sắc phong Nouveau France thành một tỉnh (province) của Pháp. Năm 1763 Pháp thua Anh và vua Louis XV phải nhượng xứ Québec cho Đế quốc Anh. Phần đất từ đó chính thức mang tên Quebec. Người Anh cai trị Québec nhưng vẫn cho dân chúng giữ các phong tục và luật lệ của người Pháp kể cả việc cho họ đạo Công giáo La Mã hoạt động mà không bắt dân đổi sang Anh giáo. Khi 13 thuộc địa tại châu Mỹ nổi lên chống Đế quốc Anh để giành độc lập vào thập niên 1770 và thập niên 1780, một số người trung thành với Đế quốc Anh bỏ Mỹ chạy sang Québec. Để giúp đỡ nhóm Trung Dân này định cư dễ dàng, Đế quốc Anh ra một đạo luật vào năm 1791 chia Québec làm hai phần: Upper Canada ở phía tây theo luật lệ của Anh (Common Law) và Lower Canada ở phía đông theo luật lệ của Pháp (la Codes civiles). Đến năm 1837 một số người Pháp tại Lower Canada nổi lên chống lại Đế quốc Anh. Sau khi dẹp tan cuộc nổi loạn này, người Anh lại sát nhập Upper Canada và Lower Canada trở lại thành một thuộc địa gọi là Tỉnh Canada (Province of Canada) vào năm 1841. Sang đến năm 1867 thì ba thuộc địa Canada, New Brunswick và Nova Scotia gia nhập với nhau thành một liên bang gọi là Canada. Sau khi liên bang được thành lập, mỗi thuộc địa được gọi là một tỉnh bang (province) và được giữ tên cũng như luật lệ cũ. Riêng Tỉnh Canada thì lại một lần nữa bị chia làm hai: tỉnh bang Québec theo luật Pháp và tỉnh bang Ontario theo luật Anh. Ba thành phố lớn nhất ở Quebec là Montréal, Québec City và Gatineau. Thành phố Quebec - Thủ phủ Quebec và trung tâm văn hóa. Gaspé - Thành phố nhỏ trên bán đảo Đại Tây Dương đẹp đẽ cùng tên. Gatineau - Tất cả những lợi thế của một thành phố lớn mà không có sự bất tiện. Ngay bên ngoài Ottawa. Magog - Thị trấn nghỉ mát nổi tiếng trên hồ Memphrémagog, căn cứ để khám phá Eastern Townships Montreal - Thành phố lớn nhất của Quebec, trung tâm văn hóa và tài chính. Mont-Tremblant - Trượt tuyết, cắm trại và đi bộ đường dài tại thị trấn nghỉ mát trên núi này. Saguenay - Cửa ngõ phía Bắc. Từ đây, đi về phía tây để thu thập quả việt quất xung quanh Lac St. Jean hoặc phía đông để xem cá voi từ Tadoussac. Sherbrooke - Thành phố lớn nhất trong Eastern Townships. Trois-Rivières - Nằm giữa Montréal và Thành phố Quebec trên sông St. Lawrence.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Prosanta Chakrabarty",
"role": "user"
},
{
"content": "Prosanta Chakrabarty (1978) là một nhà sinh vật học người Mỹ. Tưởng tượng sự sống là quyển sách, tất nhiên là còn đang dở. Chúng ta chỉ đang nhìn vào vài trang cuối của từng chương. Khi nhìn vào tám triệu sinh vật sống trên hành tinh này với ta, hãy hiểu rằng chúng đều đã trải qua bốn tỷ năm tiến hóa. Tất cả đều là kết quả của tiến hóa. Hãy coi ta như lá non trên cây đời cổ thụ khổng lồ, những cành cây vô hình nối chúng ta không chỉ với nhau, mà còn với họ hàng đã tuyệt chủng và với tổ tiên mình. Là một nhà sinh vật học, tôi và những người khác vẫn đang tìm hiểu xem mọi người liên hệ với nhau thế nào và ai có liên hệ với ai. Có thể vẫn là tốt hơn nếu coi ta là một chú cá rời nước. Một người biết đi, biết nói, nhưng vẫn cần học thêm rất nhiều, về ta là ai và ta từ đâu tới. Bốn tỷ năm tiến hóa tóm tắt trong sáu phút (Tháng 4 năm 2018)",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Sổ tay tiếng Mã Lai",
"role": "user"
},
{
"content": "Tiếng Mã Lai (/məˈleɪ/; Bahasa Melayu; chữ cái Jawi: بهاس ملايو ) là một ngôn ngữ chính của ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian). Tiếng Mã Lai là ngôn ngữ quốc gia của Indonesia (với tên tiếng Indonesia), Malaysia (với tên tiếng Malaysia), và Brunei, và là một trong bốn ngôn ngữ chính thức của Singapore. Tiếng Mã Lai là tiếng mẹ đẻ của 40 triệu người hai bên eo biển Malacca, bao gồm các vùng ven biển của bán đảo Mã Lai của Malaysia và vùng ven biển phía đông đảo Sumatra của Indonesia, và cũng trở thành ngôn ngữ bản địa tại một phần vùng bờ biển phía tây của Sarawak và Tây Kalimantan trên đảo Borneo. Tổng số người nói tiếng Mã Lai là trên 215 triệu người. Do là ngôn ngữ quốc gia của một vài nước, tiếng Mã Lai tiêu chuẩn cũng có vài tên chính thức. Tại Singapore và Brunei, nó được gọi là Bahasa Melayu (tiếng Mã Lai); tại Malaysia, Bahasa Malaysia (tiếng Malaysia); và tại Indonesia, Bahasa Indonesia (tiếng Indonesia). Tuy nhiên, ở các khu vực trung bộ và nam bộ của đảo Sumatra, tức những nơi mà tiếng Mã Lai là ngôn ngữ bản địa, người dân Indonesia tại đó gọi ngôn ngữ của họ là Bahasa Melayu và xem nó là một ngôn ngữ khu vực. Tiếng Mã Lai tiêu chuẩn dựa theo tiêu chuẩn văn chương của các các Vương quốc Hồi giáo Malacca và Johor và thời kỳ tiền thuộc địa, và ngôn ngữ này đôi khi cũng được gọi là tiếng Mã Lai Malacca, Johor, hay Riau (hay kết hợp các tên này) để phân biệt với các biến thể khác của hệ ngôn ngữ Mã Lai. Theo Ethnologue 16, một vài biến thể của tiếng Mã Lai nay được liệt vào danh sách các ngôn ngữ riêng biệt, bao gồm các biến thể Orang Asli của tiếng Mã Lai Bán đảo. Cũng có một vài ngôn ngữ bồi hay ngôn ngữ pha trộn dựa trên cơ sở tiếng Mã Lai. Xin chào. Helo. (Hello) Xin chào. (thân mật) Hai. (Hi) Xin chào. (\"Hồi giáo\") Assalamualaikum (AH-Ssal-ah-moo AAH-la-ee-koom). Lưu ý: Nếu có ai nói điều này với bạn, cho dù bạn là người Hồi giáo hay không, trả lời 'Alaikum wassalam', do đó đáp lễ lại lời chúc hòa bình đã được ban tặng cho bạn. Không làm như vậy là vi phạm nghiêm trọng nghi thức. Bạn khỏe không? (nghĩa sát: tin tức gì?) Apa khabar? (AH-puh KAH-bar?) Khỏe. Khabar baik. (nghĩa sát: tin tức tốt.) (KAH-bar BAEE[glottal stop].) Bạn tên gì? Siapa nama awak? (see-AH-puh NAH-muh AH-wah[glottal stop]?') Tên tôi là ______ . Nama saya ______ . (NAH-muh SAH-yuh _____ .) Tôi vui mừng khi gặp bạn. Saya gembira berjumpa awak. (SAH-yuh gum-BEER-uh buhr-JOOM-puh ò-wah[glottal stop]) Hãy. Sila. (SEE-luh) As in \"Hãy ngồi xuống\" (\"Sila duduk\") Xin hãy Tolong. (TOH-long) Chú ý: \"Tolong\" nghĩa là \"giúp\". \"Tolong\" có sắc thái khác với Sila Cảm ơn Terima kasih. (TREE-muh KAH-seh) You're welcome. Sama-sama. (SAH-muh SAH-muh) Vâng/Có Ya. (YUH) Không Tidak. (TEE-dah[glottal stop]) or tee-DAH[glottal stop], Tak (TAH[glottal stop]) Đừng (câu mẹnh lệnh) Jangan (JAH-ngahn) Not Bukan (boo-KAHN) Có lẽ Boleh jadi. (BO-leh JAH-dee) Xin lỗi. (xin phép trước khi làm gì đó) Maaf. (mah'AHF) Xin lỗi. (do phạm sai lầm) Maafkan saya. (mah'AHF-kahn SAH-yuh) Xin chào Selamat tinggal. (SLAH-maht tin-GAHL), Selamat jalan (SLAH-maht JAH-lahn) Usage note: `Selamat tinggal' means `Safe stay', while `Selamat jalan' means `Safe trip', so whoever is leaving uses the former expression and whoever is staying replies with the latter expression. Tôi không nói tiếng Malaysia. Saya tidak boleh cakap Bahasa Malaysia/Bahasa Melayu [baik]. (SAH-yuh TEE-dah[glottal stop] bo-leh CHAH-kahp ba-HAH-suh muh-LAY-shuh [BAY(glottal stop)]) Bạn có nói tiếng Anh không? Cakap Bahasa Inggeris? (CHAH-kahp ba-HAH-suh ING-grees) Có ai nói tiếng Anh ở đây không? Ada sesiapa yang boleh cakap Bahasa Inggeris disini? (AH-duh SUH-si-YA-puh yahng BOH-leh CHAH-kahp ba-HAH-suh ING-grees dee-SEE-nee) Cứu! Tolong! (TOH-lohng) Nhìn kìa! Awas! (AH-wahs) Buổi sáng tốt lành!. Selamat pagi. (SLAH-maht PAH-gee) Buổi chiều tốt lành!. Selamat tengah hari. (SLAH-maht teng-ah-HAH-ree) Buổi tối tốt lành. Selamat petang. (...puh-TAHNG) Buổi đêm tốt lành. Selamat malam. (...MAH-lam) Chúc ngủ ngon Selamat tidur. (...TEE-dor) Tôi không hiểu Saya tak faham. (...SAH-yuh tah[glottal stop] fah-HAHM) Toa-lét ở đâu ạ? Dimana tandas? (dee-MAH-nuh TAHN-dahs); ở miền Đông (như, Kelantan, Terengganu): Dimana jamban? (...JAHM-bahn) vì ở những vùng này, từ \"tandas\" nghe khá gượng gạo còn từ \"jamban\" mang nghĩa thô tục ở miền Tây.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Changwon",
"role": "user"
},
{
"content": "Changwon là thành phố Hàn Quốc. Changwon (Hán Việt:Xương Nguyên) là một thành phố Hàn Quốc, thuộc tỉnh Gyeongsangnam-do. Changwon là thành phố đông dân thứ 8 ở Hàn Quốc, năm 2010 dân số là 1.089.039 người. Thành phố có diện tích 743 km2, nằm về phía đông nam của Hàn Quốc. Thành phố được coi là thuộc Vùng Đông Nam Hàn Quốc, bao gồm các thành phố Busan với dân số là hơn 6.478.000 người. Changwon là một thành phố công nghiệp nặng. Changwon diện tích chỉ có 7% diện tích tỉnh Nam Gyeongsang nhưng dân số chiếm tới 33,6%, thành phố chiếm 38,5% tổng thu nhân sách của tỉnh.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Đức",
"role": "user"
},
{
"content": "Đức là một quốc gia thuộc Trung Âu. (Quốc danh chính thức hiện nay là Cộng hoà liên bang Đức, (tiếng Đức: Bundesrepublik Deutschland) là một quốc gia liên bang nằm ở Trung Âu và có chung đường biên giới với các nước Đan Mạch (về phía Bắc), Ba Lan và Séc (phía Đông), Áo và Thụy Sĩ (về phía Nam), Pháp, Luxembourg, Bỉ và Hà Lan (về phía Tây). Lãnh thổ Đức trải rộng 357.021 km vuông và có khí hậu ôn đới. Với gần 82 triệu người, Đức là nước có dân số lớn nhất trong Liên minh châu Âu và là nước có số dân nhập cư lớn thứ ba trên thế giới. Danh xưng \"Đức\" trong tiếng Việt là giản xưng của Đức Ý Chí (Trung văn: 德意志), dịch danh Trung văn của quốc hiệu nước Đức. Nước Đức nằm trong Trung Âu, giữa 47°16′15′′ và 55°03′33′′ vĩ độ bắc và 5°52′01′′ và 15°02′37′′ kinh độ đông. Về phía bắc Đức có ranh giới với Đan Mạch (có chiều dài 67 km), về phía đông-bắc là Ba Lan (442 km), về phía đông là Séc 811 km), về phía đông nam là Áo (815 km không kể ranh giới trên hồ Bodensee), về phía nam là Thụy Sĩ (316 km, với biên giới của lãnh thổ bên ngoài (tiếng Anh: exclave) Büsingen nhưng không kể ranh giới trên hồ Bodensee), về phía tây nam là Pháp (448 km), về phía tây là Luxembourg (135 km) và Bỉ (156 km) và về phía tây bắc là Hà Lan (567 km). Chiều dài ranh giới tổng cộng là 3.757 km. Trong khi ở phía Tây-Bắc bờ biển của biển Bắc và ở phía Đông-Bắc là biển Baltic tạo thành biên giới quốc gia tự nhiên thì về phía Nam nước Đức là một phần của dãy núi Anpơ. Lãnh thổ bên ngoài duy nhất của Đức là Büsingen nằm trong vùng thượng lưu sông Rhein thuộc về huyện Konstanz của bang Baden-Württemberg. Büsingen có diện tích là 7,62 km2 và được bao bọc hoàn toàn bởi 3 bang là Schaffhausen, Thurgau và Zürich. Ngoài ra còn có Kleinwalsertal thuộc Áo và nếu bằng đường bộ hay bằng đường thủy thì chỉ xuyên qua lãnh thổ quốc gia Đức mới có thể đến được. Vùng đất Germania nơi nhiều man tộc German sinh sống đã được biết đến và có trong các tài liệu cổ từ trước năm 100. Họ được tôn vinh vì khát vọng độc lập dân tộc cao cả, dù gần sát Đế quốc La Mã hùng cường. Bắt đầu từ thế kỷ 10, lãnh thổ của Đức là phần giữa của Đế quốc La Mã Thần thánh cho đến năm 1806. Thế kỷ 16, miền Bắc Đức trở thành trung tâm của cuộc cải cách Kháng Cách, với cuộc cải cách tôn giáo của Thánh Martin Luther. Vào thế kỷ 18, một Vương quốc Kháng Cách là Phổ, dưới triều đại của vị anh quân, đánh thắng được người Áo đứng đầu Đế quốc, để rồi vươn lên thành một trong những liệt cường Âu châu, mang lại niềm vinh quang cho dân tộc Đức. Vị Thủ tướng kiệt xuất Otto von Bismarck đã tiến thành công cuộc thống nhất nước Đức với chiến thắng trong các cuộc chiến tranh chống Đan Mạch và Áo, để rồi nước Đức lần đầu tiên được thống nhất vào giữa cuộc chiến tranh Pháp-Phổ vào năm 1871 trở thành một quốc gia dân tộc lớn mạnh vào thời kỳ cận - hiện đại. Sau Chiến tranh thế giới lần hai, năm 1949, nước Đức bị chia cắt thành hai quốc gia, Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) và Cộng hòa Liên bang Đức cũ (Tây Đức). Vào năm 1990, với sự sụp đổ của bức tường Berlin, nước Đức thống nhất. Tây Đức là thành viên sáng lập của Các cộng đồng Châu Âu (EC) vào năm 1957, trở thành Liên minh Châu Âu năm 1993. Đức thuộc khu vực Schengen và dùng đồng Euro năm 1999. Nước Đức thuộc về vùng khí hậu ôn hòa Trung Âu, trong khu vực của vùng gió Tây và nằm trong khu vực chuyển tiếp giữa khí hậu biển trong Tây Âu và khí hậu lục địa trong Đông Âu. Ngoài những yếu tố khác, khí hậu chịu ảnh hưởng của dòng hải lưu Golfstream tạo nên những trị khí hậu ấm áp khác thường so với vị trí vĩ độ này. Điều kiện thời tiết khắt nghiệt như hạn hán kéo dài, gió xoáy (Tornado), băng giá lạnh với nhiệt độ cực thấp hay nóng cao độ tương đối hiếm. Thế nhưng thỉnh thoảng vẫn xuất hiện giông bão mà đã gây ra nhiều thiệt hại nặng như trong năm 2000 và 2002. Tại Đức cũng thường hay xảy ra nước lũ sau thời gian mưa nhiều trong mùa hè (lũ lụt Oder năm 1997, lũ lụt Elbe năm 2002) hay sau khi tan tuyết trong mùa đông mà có thể dẫn đến lụt và gây tàn phá nặng. Việc hay có nước lũ tại sông Rhein có thể là do việc đắp đập và đào thẳng sông Rhein trong thế kỷ 19 dưới sự lãnh đạo của Tulla đã xóa bỏ các vùng ngập nước tự nhiên trước kia của con sông này. Hạn hán chủ yếu chỉ xảy ra ở vùng đông bắc nước Đức nhưng đôi lúc cũng ảnh hưởng đến trên toàn nước Đức như lần cuối cùng là trong đợt nóng năm 2003. Nước Đức là một liên bang, điều đó có nghĩa là hệ thống chính trị của Đức được chia ra làm hai cấp: cấp liên bang, đại diện cho quốc gia về mặt đối ngoại, và cấp tiểu bang của từng bang một. Mỗi cấp đều có cơ quan nhà nước riêng của hành pháp, lập pháp và tư pháp. Quốc hội Liên bang và Hội đồng Liên bang cùng quyết định về luật lệ của liên bang và có quyền sửa đổi Hiến pháp với đa số 2/3 trong cả hai cơ quan. Quốc hội tiểu bang quyết định về luật lệ cho từng tiểu bang. Mặc dầu các nghị sĩ không phải tuân theo chỉ thị nhưng những quyết định trước đó trong các đảng phái chiếm ưu thế trong việc ban hành luật lệ. Hành pháp ở cấp liên bang được hình thành bởi chính phủ liên bang do thủ tướng liên bang lãnh đạo. Thủ hiến tiểu bang (Ministerpräsident) lãnh đạo hành pháp ở cấp tiểu bang. Các cơ quan hành chính ở cấp liên bang và tiểu bang được điều hành bởi các bộ trưởng đứng đầu các cơ quan nhà nước. Đức là một nước cộng hòa liên bang gồm 16 bang (gọi là \"Bundesländer\" hoặc rút ngắn \"Länder\" trong tiếng Đức). Ba Bundesländer là thực sự thành bang: Berlin, Bremen và Hamburg. Các quốc gia có thể được tạm chia theo địa lý như liệt kê dưới đây, mặc dù có những nhóm khác. Theo truyền thống, sự phân chia giữa phía bắc và phía nam là đáng chú ý nhất, vì 1945-1990 nowadys kỳ sự phân chia giữa phía đông và phía tây có thể được. Berlin — thủ đô Đức, thành phố bị chia cắt trong chiến tranh Lạnh. Bremen — một trong những thành phố quan trọng nhất ở miền bắc nước Đức, khu phố cổ của nó sẽ khiến du khách quan tâm lịch sử ưa thích Köhn (Cologne) — thành phố này được thành lập bởi những người La Mã 2000 năm trước đây và được biết đến với nhà thờ của nó rất lớn (số 5 thế giới), nhà thờ La Mã, và địa điểm khảo cổ Dresden — từng được gọi 'Florence trên Elbe', nổi tiếng với Frauenkirche và trung tâm lịch sử xây dựng lại của nó đã bị phá hủy trong chiến tranh Düsseldorf — thủ đô thời trang và mua sắm Đức Frankfurt, thủ đô tài chính Đức Hamburg — thành phố lớn thứ nhì Đức và là thành phố có nhiều cầu nhất thế giới München (Munich) — thủ phủ Bavaria, nổi tiếng với Oktoberfest và cửa ngõ vào Alps. Nürnberg — Phố Cổ được xây lại, bao gồm cả lâu đài Gothic Kaiserburg. Bãi biển Baltic - hàng dặm bãi biển cát trắng và khu nghỉ dưỡng với hòn đảo đẹp như tranh vẽ như Rügen Bavarian Alps - nơi có cung điện Neuschwanstein nổi tiếng thế giới, và điểm trượt tuyết tốt nhất của Đức và khu nghỉ mát trượt tuyết. Đi bộ đường dài vô tận và xe đạp leo núi Black Forest - một khu vực với những đỉnh núi rộng, tầm nhìn toàn cảnh, nó là một thiên đường cho khách du lịch và đi bộ đường dài Đông Frisian Islands - mười hai hòn đảo ở Biển Wadden; Borkum là hòn đảo lớn nhất cả về diện tích và dân số Franconian Thụy Sĩ - một trong những điểm đến du lịch lâu đời nhất ở Đức, nó được đặt tên của các nghệ sĩ lãng mạn, người đã nói cảnh quan của nó là vẻ đẹp thẩm mỹ của Thụy Sĩ Harz - một dãy núi thấp ở miền núi Trung ương Đức, nổi tiếng với các mỏ bạc lịch sử của nó và của thị trấn, danh lam thắng cảnh của Quedlinburg, Goslar và Wernigerode Lake Constance - một góc cực kỳ xinh đẹp của Trung Âu, nó tự hào là nơi có hoạt động thể thao dưới nước và thị trấn xinh đẹp Thung lũng Trung Rhine - một phần của sông Rhine là một Di sản giữa Bingen / Rüdesheim và Koblenz, thung lũng nổi tiếng với loại rượu vang của nó Romantic Road - một tuyến đường chủ đề với chiều dài 400 km (250 dặm) ở miền nam nước Đức mà đi qua nhiều lâu đài lịch sử, giữa Würzburg và Fussen. Đức là một thành viên của Hiệp ước Schengen. Sân bay Frankfurt là sân bay lớn nhất Đức. Vietnam Airlines và Lufthansa có tuyến bay thẳng giữa Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh với Frankfurt. Từ Frankfurt có thể đi máy bay hoặc tàu lửa tốc độ cao đến các thành phố lớn của Đức. Các sân bay quan trọng nhất là Frankfurt (IATA: FRA), Munich (IATA: MUC) và Düsseldorf (IATA: DUS). Berlin-Tegel (IATA: TXL), Cologne (IATA: CGN), Hamburg (IATA: HAM) và Stuttgart (IATA: STR) phục vụ một số chuyến bay quốc tế. Sân bay Frankfurt là sân bay lớn nhất Đức, và là một trong bốn trung tâm và lớn của châu Âu là điểm đến của hầu hết các chuyến bay liên lục địa. Munich là một trung tâm thứ cấp phát triển. Du khách có thể dễ dàng bay từ hầu hết các nơi trên thế giới và sau đó kết nối với các hãng hàng không lớn nhất và uy tín nhất của Đức 'Lufthansa' [1] mà là một thành viên của Star Alliance. Hãng hàng không lớn thứ hai của Đức là Air Berlin [2], mà còn phục vụ rất nhiều địa điểm trên khắp nước Đức và châu Âu (và một số trên toàn thế giới) từ một số sân bay. Các sân bay Frankfurt, Düsseldorf và Köln / Bonn được kết nối với tuyến đường sắt tốc độ cao InterCityExpress. Những sân bay khác đều có kết nối với đều có kết nối với tuyến đường sắt đến các nhà ga của thành phố chính tương ứng. Hành khách của Lufthansa đi từ Sân bay Frankfurt có tùy chọn để kiểm tra, trong hành lý của họ tại Cologne hoặc ga xe lửa Stuttgart và kết nối với sân bay bởi ICE. Nếu làm như vậy, hãy chắc chắn để đặt các chuyến tàu như một nối liền chuyến bay Lufthansa (tức là trước cùng với các chuyến bay), nếu không bạn được coi chịu trách nhiệm cho một kết nối bị nhõ. Bay có thể là cách rẻ nhất đi từ đến Đức và từ đó đến các nước châu Âu khác, đặc biệt là nếu các chuyến bay được đặt chỗ trước. Trước khi đặt một chuyến bay ngân sách, so sánh một cách cẩn thận như điểm đến của họ và nhớ cộng tất cả các chi phí chưa bao gồm như thuế, vé xe buýt thêm để đến sân bay của họ, bạn có thể kết thúc với giá còn cao hơn bạn sẽ phải trả cho một vé Lufthansa giảm giá hoặc vé máy bay Berlin. Sân bay chính cho ngân sách du lịch là Berlin-Schönefeld (IATA: SXF), Frankfurt-Hahn (IATA: HHN) (130 km đến Frankfurt) và Weeze (IATA: NRN) (85 km Düsseldorf) cũng như các sân bay nhỏ hơn với sự lựa chọn ít hơn các điểm đến như Lübeck (IATA: LBC) (70 km đến Hamburg) hoặc Memmingen (IATA: FMM) (110 km đến Munich). Có các chuyến bay ngân sách cho hầu hết các thành phố ở châu Âu từ Đức. Các hãng hàng không ngân sách lớn ở Đức là 'easyJet' [3], 'Ryanair [4], 'Germanwings '[5] (đối với các chuyến bay ở Đức, quá) và Wizz Air '[6] (đối với các chuyến bay đến Đông Âu) mà tất cả các nơi phục vụ một số kết nối cho nhiều quốc gia trên khắp châu Âu. Các trung tâm chính của easyJet là Berlin-Schönefeld và Dortmund, cho Ryanair Frankfurt-Hahn và Weeze và cho Germanwings Cologne / Bonn và Stuttgart - tất cả trong số họ ngoài sân bay hơn được phục vụ, nhưng với sự lựa chọn nhỏ hơn của các điểm đến. Đối với các chuyến bay giá rẻ tới các điểm đến kỳ nghỉ châu Âu, ví dụ quanh Địa Trung Hải, tàu sân bay lớn của Đức, bên cạnh Air Berlin là 'Condor (Thomas Cook) [7] (cũng cho điểm du lịch chính trên toàn thế giới) và 'TUIfly [8]. Germania, InterSky và OLT cũng có một số giới hạn các điểm đến quốc tế. Các tuyến tàu hỏa thường xuyên kết nối Đức với tất cả các nước láng giềng. Hầu như tất cả các nước láng giềng (đặc biệt là Thụy Sĩ, Ba Lan, Hà Lan, Đan Mạch, Cộng hòa Séc và Áo) và thậm chí cả một số quốc gia không giáp giới với Đức (ví dụ như Ý) được khá tốt kết nối bằng tàu lửa \"EuroCity\". Chúng hơi chậm hơn và kém tiện nghi hơn so với tàu cao tốc châu Âu nhưng vẫn đạt tốc độ tới 200 km/h. Đó là một cách đáng giá để đi du lịch - không chỉ cho du khách tiết kiệm (mặc dù các hãng hàng không có thể rẻ hơn) hoặc người xem cảnh quan (đặc biệt là thung lũng dòng sông Rhine). Một số tàu cao tốc châu Âu chạy qua Đức: ICE chạy với tốc độ tối đa 320 km/h từ Frankfurt (3 giờ 15), Cologne (2h 30) hoặc Düsseldorf (2h 15) đến Amsterdam. Các chuyến tàu từ Frankfurt để Paris (320 km / h) bằng cách sử dụng ICE' sẽ mất khoảng bốn giờ; đi từ Hamburg để Paris có thể tám và một tiếng rưỡi đồng hồ. Ngoài ra còn có một ICE line từ Frankfurt đến Brussels qua Cologne. Thalys chạy từ Cologne (Köln) đến Paris trong khoảng bốn giờ và đến Brussels trong khoảng hai giờ. Tàu cao tốc TGV đưa bạn từ Marseille, Lyon và Strasbourg đến Frankfurt. Từ Stuttgart và Milano bạn có thể đi Zurich, tàu qua núi nhanh nhất. Giá vé đường sắt tiêu chuẩn là khá cao, nhưng có một số giá vé đặc biệt và giảm giá có sẵn - xem \"Đi lại\" để biết thêm thông tin. Đặc biệt, Bahncard giảm giá áp dụng cho toàn bộ hành trình miễn là nó bắt đầu hoặc kết thúc tại Đức. Có dịch vụ phà quốc tế, đặc biệt là kết nối với Scandinavia. Một số các kết nối phổ biến nhất được liệt kê dưới đây: Lübeck và Sassnitz được kết nối với Kaliningrad, Saint Petersburg, Nga. Sassnitz cũng kết nối với Ronne, Đan Mạch, Riga, Latvia và Trelleborg, Thụy Điển. Kiel có kết nối đến Gothenburg, Thụy Điển, Klaipeda, Lithuania và Oslo, Na Uy. Rostock có kết nối đến Helsinki (Phần Lan), Trelleborg (Thụy Điển), Liepaja (Latvia), và Gedser (Đan Mạch). Travemuende có kết nối đến Helsinki (Phần Lan), Malmo (Thụy Điển) và Trelleborg (Thụy Điển). Puttgarden được kết nối với Rødby, Đan Mạch. Đức có một hệ thống đường sắt và giá cả phải chăng nhanh (nếu đặt trước) tới nhiều nơi trên đất nước. Trừ khi bạn đi du lịch bằng xe hơi, đường sắt có khả năng là phương tiện giao thông chính của bạn. Đi qua nước Đức từ Munich ở phía nam tới Hamburg ở phía bắc thường sẽ mất khoảng 6 giờ, trong khi lái xe sẽ mất khoảng 8 giờ. Hầu như tất cả các tàu trong khu vực đường dài và nhiều được điều hành bởi Deutsche Bahn (\"đường sắt Đức\"), công ty đường sắt nhà nước. Trang web của DB GB US, có sẵn trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, là một nguồn tài nguyên tuyệt vời để xây dựng phương án giao thông vận tải không chỉ ở Đức (nói chung là tất cả các chế độ, ngoại trừ du lịch hàng không, xe buýt, thời gian chạy tàu đường nhánh không đầy đủ). Ngôn ngữ nói và viết chính thức là tiếng Đức. Bên cạnh tiếng Đức là các ngôn ngữ của những dân tộc thiểu số đã sống lâu đời tại Đức mà đã được công nhận là ngôn ngữ chính thức như tiếng Đan Mạch và các tiếng nói của người Sorben và Friesen. Martin Luther đã góp phần vào việc phát triển của tiếng Đức chuẩn trong thế kỷ 16 với việc dịch Kinh Thánh của ông. Jahann Christoph Adelung xuất bản năm 1871 quyển tự điển lớn đầu tiên. Đột phá lớn tiến tới một cách viết tiếng Đức thống nhất là quyển \"Tự điển chính tả tiếng Đức\" của Konrad Duden (1080) là quyển sách đã được chấp nhận là cơ sở của chính tả của cơ quan nhà nước trong cuộc cải tổ cách viết chính tả năm 1901 sau vài thay đổi nhỏ. Mãi đến năm 1996 mới có cuộc cải tổ cách viết mới. Tiếng Đức đã từng một thời là ngôn ngữ chung (lingua franca) ở trung tâm Châu Âu, Bắc Âu và Đông Âu. Ngày nay tiếng Đức là một trong những ngôn ngữ được dạy nhiều nhất trên thế giới, và là ngoại ngữ được yêu chuộng thứ hai sau tiếng Anh ở Châu Âu. Ngoại ngữ được dạy ưu tiên trong trường học là tiếng Anh, kế tiếp theo đó là tiếng Pháp và sau đó là tiếng La tinh. Trong những năm gần đây tiếng Tây Ban Nha ngày càng được ưa chuộng hơn. Khi nghĩ đến Đức, bạn thường nghĩ ngay đến bia, lederhosen và mũ Alpine, nhưng những thứ này chủ yếu là liên quan đến văn hóa Bayern và không đại diện cho toàn thể nước Đức. Đức là một đất nước rộng lớn và đa dạng với 16 bang về văn hóa độc đáo mà chỉ tạo thành một liên minh chính trị kể từ năm 1871. Con đường lãng mạn là một con đường danh lam thắng cảnh nổi tiếng cùng lâu đài lãng mạn và làng đẹp như tranh vẽ. Với sự xuất hiện câu chuyện cổ tích của nó, là Lâu đài Neuschwanstein có thể được coi là mang tính biểu tượng nhất của lâu đài Đức. Thành phố có tường bao quanh của Rothenburg ob der Tauber có một trung tâm thời trung cổ đẹp mà dường như bị ảnh hưởng bởi thời gian qua. Một số thị trấn điển hình tương tự như Đức có thể được tìm thấy ở những nơi khác trong cả nước, như Augsburg, Bamberg, Celle, Heidelberg, Lübeck và Quedlinburg. Bưu thiếp của bạn truy cập hình ảnh Đức sẽ được hoàn thành với một chuyến viếng thăm quán bia của Munich và một cái nhìn của dãy núi Alps ở Garmisch-Partenkirchen. Bạn cũng có thể đi với người đẹp, nhưng ít khi đến thăm thành phố thời Trung cổ Schwäbisch Hall. Đức là một quốc gia công nghiệp hiện đại, và Wirtschaftswunder được thể hiện tốt nhất bởi các di sản công nghiệp của Ruhr. Hamburg là một cường quốc kinh tế với cổng thứ hai bận rộn nhất của châu lục này. Frankfurt là trung tâm tài chính của Đức và châu Âu nói chung, vì nó là cơ sở của Ngân hàng Trung ương châu Âu. Đường chân trời của nó đến gần với những người tìm thấy ở phía bên kia Đại Tây Dương. Thành phố thời trang của Düsseldorf, ngành công nghiệp phương tiện truyền thông của Cologne, và các công ty xe hơi trong Stuttgart mỗi đại diện cho một khu vực hưng thịnh của phép lạ kinh tế của Đức. Đồng Euro là tiền tệ của Đức chính thức từ năm 2002. Đồng Euro có 7 mệnh giá €5, €10, €20, €50, €100, €200 và €500. Ngoài ra còn có tiền xu mệnh giá €1, €2. Đến Đức bạn rất dễ dàng tiêu nhiều tiền. Nếu bạn ở trong nhà trọ có lan can và giới hạn mình bạn thì rẻ hoặc tự chuẩn bị thức ăn của mình, nó có thể mất khoảng €50.00 một ngày. Những người có tiền mong được ăn tại nhà hàng trung bình mỗi ngày, thăm bảo tàng, du lịch bằng phương tiện công cộng và ở trong một khách sạn giá trung bình, phòng có chăn bông phải mất ít nhất 100$ một ngày. 3 người hoặc hơn 3 người đi một chiếc xe ô tô là rẻ hơn đi tàu hỏa. Giá phòng ở Đức thấp nhất là €20-80, trung bình là €80-130, cao là €130-200, sang trọng là trên €200. Giá bữa ăn thấp nhất là €4-8, trung bình là €8-16, cao là €16-30, sang trọng là trên €30 Tại nhà hàng, tiền trả dịch vụ thường bao gồm như trong hóa đơn và tiền bo là không bắt buộc. Ẩm thực ở Đức rất đa dạng và thay đổi tùy theo vùng. Ẩm thực Đức nổi tiếng trước tiên là các món ăn \"nặng\" như giò heo luộc với bắp cải ngâm chua (Sauerkraut). Ở phía nam người ta còn dùng nhiều mì sợi các loại. Các món ăn đặc sản còn có xúc xích trắng (Weißwurst) ở Bayern hay bao tử heo (Saumagen) ở vùng Pfalz. Ngoài ra người Đức rất yêu thích bia (cũng khác nhau tùy theo vùng) và rượu vang. Vì theo điều kiện khí hậu nên trồng và uống rượu vang phổ biến ở phía tây và Nam của Đức nhiều hơn là ở phía bắc và Đông. Ở Đức có trên 200 loại Wurst, tức là xúc xích làm từ thịt bê, thịt lợn, óc heo, mù tạc, gia vị và bột cà ri. Mỗi vùng lại có một loại xúc xích riêng của mình, từ loại xúc xích trắng của Bavaria với rau mùi tây và hành cho đến xúc xích Chipolata nướng trên than hồng. Có rất nhiều loại bánh mì khác nhau được phục vụ tại các nhà hàng và có thể mua hàng ngày ở các cửa hàng bánh. Nhiều người thích loại bánh mì Pumpernickel nhiều hương vị làm bằng lúa mạch đen, hơi có chút vị đắng sau khi ăn. Ở một số vùng, nhất là Baden-Wüttermberg, Moselle, Frankfurt và Bayern, người ta đặc biệt quan tâm đến chất lượng thực phẩm. Đây cũng là những vùng sản xuất rượu vang. Những đặc sản địa phương ở đây gồm có lươn, xúp mận và rau, cá lục tươi ở Hamburg; món Hoppel Poppel, trứng ốp lết với khoai tây và thịt xông khói ở Berlin; heo sữa và giò heo quay ở Bavaria; thịt xông khói ăn với bánh mì Pumpernickel ở Westphalia; cá luộc hoặc chiên có phủ vụn bánh mì, đặc biệt là cá trê sông Donau gần Passau; xúc xích đủ các kiểu ở Nürnberg; nước xốt rau xanh với thịt heo bằm hoặc thịt bò ở Frankfurt. Tuổi uống rượu hợp pháp là 18 cho rượu mạnh (đồ uống có chứa cồn chưng cất) và 16 cho mọi thứ khác (ví dụ như bia và rượu). Trong nhiều thế kỷ, sản xuất bia ở Bayern đã được điều chỉnh bởi Reinheitsgebot (luật tinh khiết) đã được thực hiện chính sách quốc gia với sự thống nhất của Đức trong năm 1871, trong đó quy định rằng bia Đức chỉ được chế biến từ hoa bia, mạch nha, men và nước. Reinheitsgebot đã đi xuống với sự hội nhập châu Âu, nhưng nhà máy bia Đức vẫn phải dính vào nó vì đối với họ, pháp luật quốc gia áp dụng. Thị trường bia trong nước không bị chi phối bởi một hoặc một chỉ có một vài nhà máy bia lớn. Mặc dù có một số nhà sản xuất lớn, sự đa dạng trong khu vực là rất lớn, và có hơn 1200 nhà máy bia với hầu hết trong số họ chỉ phục vụ thị trường nội địa. Thường quán bar và nhà hàng phục vụ các giống địa phương khác nhau từ thị xã đến thị trấn. Khi ngồi trong một Kneipe Đức, một ly bia địa phương luôn luôn là một lựa chọn, và thường là lựa chọn duy nhất. Đặc sản bao gồm Weizenbier (hoặc Weissbier trong Bavaria), một bia đầu lên men làm mới được phổ biến ở miền Nam, Alt, một loại bia đen tối đó là đặc biệt phổ biến trong và xung quanh Düsseldorf, và Kölsch, một bia đặc biệt ủ trong Cologne. \"Pils\", tên Đức Pilsner là loại bia màu ánh sáng vàng đó là cực kỳ phổ biến ở Đức. Ngoài ra còn có các loại bia theo mùa, được thực hiện ở những thời khác nhau trong năm (như Bockbier trong mùa đông và Maibock tháng năm, cả hai có chứa một số lượng lớn rượu, đôi khi gấp đôi so với một Vollbier bình thường). Bia thường được phục vụ trong vại 200 hoặc 300ml kính (ở phía bắc) hoặc 500ml ở miền Nam. Trong Biergartens ở Bavaria, 500ml là một bia nhỏ (\"Halbe\") và một lít là bình thường (\"Maß\"). Ngoại trừ trong các quán rượu Ailen, lon hoặc bình đựng không phổ biến. Đối với người Đức, rất nhiều bọt là cả một dấu hiệu của tình trạng tươi và chất lượng, do đó, bia là luôn luôn phục vụ với rất nhiều đầu. Ngoài ra, người Đức không ngại kết hợp bia với thức uống khác (mặc dù thế hệ cũ có thể không đồng ý). Bia thường được trộn với nước chanh có ga (thường theo tỷ lệ 1:1) và được gọi là \"Radler\" (hoặc tay đua xe đạp, được đặt tên như vậy bởi vì nó thường được kết hợp với một thức uống làm mới một tay đua xe đạp có thể thưởng thức vào mùa xuân hoặc mùa hè trong một chuyến đi xe đạp) (hoặc \"Alsterwasser\" / \"Alster\" (theo con sông trong Hamburg) ở phía bắc), \"Cocktail\" của Pilsener / Altbier và nước giải khát như Fanta, một \"Krefelder\" / \"Colaweizen\" cola và bia lúa mì sậm. Pils được trộn với Cola là rất phổ biến đặc biệt là ở giới trẻ Đức và có các tên gọi khác nhau - tùy thuộc vào khu vực của bạn - ví dụ như \"Diesel\", \"Schmutziges\" hay \"Schweinebier\". Một món ăn địa phương nổi tiếng là \"Berliner Weisse\", một loại bia lúa mì chua đục khoảng 3% cồn được trộn với xi-rô (truyền thống là xi rô mâm xôi) và là rất mới mẻ trong mùa hè. Những thức uống hỗn hợp với bia khá phổ biến và có thể được mua như chai trước khi pha trộn (thường là trong sáu gói) bất cứ nơi nào bia thường xuyên được bán. Quán rượu được mở ra ở Đức cho đến 2 giờ sáng hoặc sau đó. Thực phẩm thường có sẵn cho đến nửa đêm. Đức thường đi ra ngoài sau khi 08:00 (nơi phổ biến đã được lấp đầy tại 6:00). Thủ phủ không thể tranh cãi của rượu táo \"Apfelwein\" ở Đức là Frankfurt. Người dân địa phương yêu rượu táo của họ và nó là rất phổ biến ở đây. Thậm chí có những bar đặc biệt (\"Apfelweinkneipe\") sẽ chỉ phục vụ \"Apfelwein\" và một số đặc sản ẩm thực. Rượu táo thường được phục vụ trong một ly đặc biệt gọi là \"Bembel\". Hương vị hơi khác nhau từ các loại rượu táo ở các nước khác và có xu hướng khá mới mẻ. Trong mùa thu khi táo được chế biến thành rượu táo bạn có thể tìm thấy \"Frischer Most\" hoặc \"Süßer\" ở một số nơi. Đó là sản phẩm đầu tiên trong chuỗi sản phẩm \"Apfelwein\"; uống một ly thì ổn, nhưng sau hai hoặc ba ly, bạn sẽ có một vấn đề, trừ khi bạn đi toa lét rất nhiều. Trong Saarland và xung quanh khu vực \"Apfelwein\" được gọi là \"Viez\". Nó thay đổi từ đây \"Suesser Viez\" (ngọt), đến \"Viez Fein-Herb\" (trung bình ngọt) đến \"Alter Saerkower\" (chua). Thủ phủ Viez của khu vực đó là Merzig. Trong suốt mùa đông nó cũng là khá phổ biến để uống rượu táo nóng (cùng với một số đinh hương và đường). Nó được coi là một biện pháp hiệu quả chống lại một lạnh sắp tới. Người Đức uống nhiều cà phê. Hiện nay, cảng Hamburg là nơi nhộn nhịp nhất trên thế giới về kinh doanh cà phê. Người ta luôn luôn nghiền hạt cà phê và pha ngay - không uống loại cà phê bột pha sẵn. Tuy nhiên, những người đến từ các nước có truyền thống cà phê lớn (như Ý, Bồ Đào Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp hay Áo) có thể cảm thấy cà phê được phục vụ trong các nhà hàng bình thường một chút nhàm chán. Một đặc sản của Đức, có nguồn gốc từ Bắc Frisia nhưng ngày nay cũng phổ biến ở Đông Frisia, là \"Pharisäer\", một hỗn hợp của cà phê và một loại rượu mạnh, thường là rượu rum, rưới lớp kem trên cùng dày. Một biến thể của món này là \"Tote Tante\", cà phê thay thế bằng sô cô la nóng). Trong vài năm qua, chuỗi quán cà phê Mỹ Starbucks đã mở rộng sang Đức, nhưng chủ yếu là bạn sẽ gặp phải \"quán cà phê\", mà thường cung cấp một lựa chọn nhiều món bánh dùng chung với cà phê. Khách đến thăm Đức vào tháng? Sau đó đi xem một trong những chợ Giáng sinh nổi tiếng [9] (nơi đang nổi tiếng nhất trong Nuremberg, Dresden, Leipzig, Münster, Bremen, Augsburg và Aachen) và đây là nơi mà bạn tìm thấy Glühwein (rượu nghiền hâm nóng), một loại rượu gia vị phục vụ rất nóng để làm ấm bạn trong cái lạnh của mùa đông. Kirschwasser có nghĩa là nước anh đào; nó chắc chắn có vị anh đào nhưng mặt khác nó không phải là nước uống thường xuyên. Có một truyền thống lâu dài trong việc đưa ra tinh thần ở Baden, và Kirschwasser có lẽ là sản phẩm chủ lực và nó có thể khuyến khích bạn thưởng thức đặc sản khác như Himbeergeist (từ quả mâm xôi), Schlehenfeuer (hương vị quả cây mân hoang), Williamchrist (lê) và Apfelkorn (táo). Enzian xứ Bayern như bia của họ cũng Enzian của họ. \"Korn\", được làm từ ngũ cốc, có lẽ là rượu mạnh phổ biến nhất ở Đức. Trung tâm sản xuất chính của nó (Berentzen) nằm trong Haselünne, nơi các tour du lịch và nếm có thể được người ta sắp xếp trong các nhà máy chưng cất. Thị trấn nằm gần Ems sông ở phía tây bắc Đức, vì dịch vụ đường sắt để Haselünne (rất thưa thớt) thấy Eisenbahnfreunde Hasetal. Ở Bắc Frisia, Kom (rượu mạnh ca-rum), hoặc tinh khiết hoặc hỗn hợp với trà (Teepunsch), là rất phổ biến. Eiergrog là một hỗn hợp nóng của rượu trứng và rượu rum. Trà cũng rất phổ biến, và một sự lựa chọn có sẵn. Khu vực Đông Frisia đặc biệt có truyền thống trà lâu đời, và có lẽ là nơi duy nhất ở Đức, nơi trà là phổ biến hơn so với cà phê. Trà đạo Đông Frisian bao gồm trà đen phục vụ trong một tách sứ phẳng với đường đá đặc biệt ( Kluntje) được đặt trong cốc trước khi rót trà. Kem được thêm vào sau đó, nhưng không được khuấy vào trà. Một số người Đứcđam mê rượu vang của họ như những người khác mê bia vậy. Những điểm tương đồng không dừng lại ở đây, cả hai sản phẩm thường được sản xuất bởi các công ty nhỏ và các loại rượu vang tốt nhất được tiêu thụ nội địa và chỉ có những loại còn lại được xuất khẩu. Sản xuất rượu vang có một lịch sử 2.000 năm ở Đức như có thể được học từ Rheinisches Landesmuseum trong Trier nhưng, tất nhiên, đây là một khu định cư La Mã tại thời điểm đó. Thiếu ánh nắng mặt trời là yếu tố hạn chế để sản xuất rượu vang ở Đức và, do đó, sản xuất rượu vang được giới hạn phía nam. Rượu vang trắng đóng vai trò chính trong việc sản xuất rượu vang, nhưng một số khu vực sản xuất rượu vang đỏ (Ahr, Baden Württemberg). Rượu vang trắng được sản xuất từ Riesling, Kerner và Müller-Thurgau nho (có rất nhiều, nhưng để đặt tên cho họ tất cả sẽ là quá nhiều), và sản xuất các loại rượu vang thường tươi và trái cây. Các loại rượu vang của Đức có thể giàu axit và khá mới mẻ. Nó thường được chấp nhận rằng Riesling nho sản xuất các loại rượu vang tốt nhất của Đức, nhưng chúng đòi hỏi rất nhiều của ánh nắng mặt trời và chúng phát triển tốt nhất trong khu vực rất tiếp xúc như Mosel, Rheingau, Bergstraße, Kaiserstuhl và Pfalz. Cách tốt nhất để tìm hiểu về các loại rượu vang là đi đến nơi mà chúng được phát triển và thưởng thức chúng ngay tại chỗ. Điều này được gọi là \"Weinprobe\" và nói chung là miễn phí - mặc dù trong khu vực du lịch bạn phải trả một khoản phí nhỏ. Các loại rượu vang tốt thường đi cùng với thực phẩm tốt để bạn có thể muốn ghé thăm khi bạn đang đói cũng như khát nước. Cái gọi là Straußenwirtschaft, Besenwirtschaft hoặc Heckenwirtschaft là ít \"quán rượu\" hoặc khu vườn, nơi một loại rượu vang sản xuất bán rượu vang của riêng của họ, thông thường với các bữa ăn nhỏ như bánh mì hoặc pho mát và giăm bông. Thông thường, họ chỉ mở cửa vào mùa hè và mùa thu, và không dài hơn 4 tháng một năm (do quy định của pháp luật). Như đôi khi chúng được đặt trong vườn nho hoặc trong một số đường phố trở lại, họ không phải luôn luôn dễ dàng để tìm thấy, vì vậy bạn tốt nhất nên hỏi một người địa phương địa điểm tiếp theo (hoặc tốt nhất)Straußenwirtschaft mà anh ta biết. Trong mùa thu, bạn có thể mua Federweisser ở tây nam Đức. Đây là một loại rượu trắng lên men một phần và có chứa một số rượu (tùy theo độ tuổi), nhưng hương vị rất ngọt ngào. Nó cũng có sẵn từ nho đỏ, được gọi là Roter Sauser. Khu vực sản xuất rượu vang là: Ahr là thiên đường của rượu vang đỏ Đức. Một nửa số sản xuất là dành riêng cho loại rượu vang đỏ và nó được đông dân cư bởi \"Gaststätten\" và \"Strausswirten\". Một câu nói: Bất cứ ai đã đến thăm Ahr và nhớ mình đã có, thì coi như không thực sự ở đó. Baden với c. 15.500 ha bãi rượu và sản xuất 1 triệu hectoliters, Baden là khu vực phát triển rượu vang lớn thứ ba của Đức. Đó là khu vực phát triển rượu vang Đức phía nam nhất và là thành viên duy nhất của Đức của rượu vang châu Âu loại B cùng với khu vực nổi tiếng của Pháp Alsace, Champagne và Loire. Baden dài hơn 400 km và được chia thành chín nhóm khu vực: Tauberfranken, Badische Bergstraße, Kraichgau, Ortenau, Breisgau, Kaiserstuhl, Tuniberg, Markgräflerland và Bodensee. Các Kaiserstuhl và Markgräflerland là những khu vực nổi tiếng nhất đối với rượu vang từ Baden. Một trong những hợp tác xã rượu vang lớn nhất là Badischer Winzerkeller trong Breisach. Franken: Franconia là ở phần phía bắc của Bayern và bạn có thể tìm thấy ở đó các loại rượu vang rất tốt đẹp. Một số loại rượu vang được sản xuất tại Franconia được bán trong một chai đặc biệt gọi là \"Bocksbeutel\". Hessische Bergstraße: nằm trên sườn thung lũng Rhine nó là một khu vực sản xuất rượu nhỏ yên tĩnh và rượu vang thường được tiêu thụ trong khu vực trong và xung quanh Heppenheim. Mosel-Saar-Ruwer: những vườn nho mạnh nhất ở Đức có thể được nhìn thấy khi lái xe trong thung lũng Mosel từ Koblenz để Trier. Pfalz: khu vực sản xuất rượu vang lớn nhất ở Đức. Có một số loại rượu vang tuyệt vời để hương vị và rất nhiều ngôi làng đẹp nhúng trong vườn nho. Nếm rượu trong Deidesheim là một ý tưởng tốt và một số nhà sản xuất chính của rượu vang của Đức đều nằm trên con đường chính. Muốn nhìn thấy những thùng rượu lớn nhất thế giới sau đó đi đến Bad Dürkheim. Rheingau: là khu vực sản xuất rượu vang nhỏ nhất, nhưng nó tạo ra các đánh giá rượu vang Riesling cao nhất tại Đức. Đến Wiesbaden và thực hiện một chuyến đi trên sông Rhine cho đến Eltville và Rüdesheim. Rheinhessen cũng là đặc biệt nổi tiếng với Riesling của nó. Đến thăm Mainz và thực hiện một chuyến đi trên sông Rhine cho đến Worms, Oppenheim, Ingelheim hay Bingen. Saale-Unstrut: nằm ở bang Saxonia-Anhalt trên bờ sông Saale và Unstrut là rượu vang phía bắc nhất khu vực sản xuất ở châu Âu. Sachsen: Một trong những vùng trồng nho nhỏ nhất ở Đức, nằm dọc theo sông Elbe gần Dresden và Meissen. Württemberg: Như đã đề cập trước đây, ở đây các quy tắc mà các rượu vang tốt nhất được người dân địa phương uống, được áp dụng nghiêm ngặt, tiêu thụ rượu bình quân đầu người cao gấp đôi như trong phần còn lại của Đức, bất kể cho dù đó là màu đỏ hoặc rượu vang trắng. Các đặc sản của khu vực này là rượu vang đỏ được gọi là Trollinger và nó có thể được khá tốt đẹp theo tiêu chuẩn Đức.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Israel",
"role": "user"
},
{
"content": "Israel (phiên âm: Ixraen; cũng được gọi là Nhà nước Do Thái) là một quốc gia theo chế độ cộng hòa ở vùng Trung Đông bên cạnh Địa Trung Hải. Tên \"Israel\" có nghĩa là \"đã được Thiên Chúa sửa\", nhưng do phiên âm sai nên đã thành ra \"đã đấu với Thiên Chúa\", và tên đó bắt nguồn từ đoạn Sáng thế ký 32:28 của Kinh Thánh, trong đó Jacob được đổi tên là Israel sau khi đấu với một người tấn công thần bí vô danh. Tên Israel trong tiếng Do Thái là מְדִינַת יִשְׂרָאֵל (không có niqqud:מדינת ישראל; chuyển tự: Medinat Yisra'el), và trong tiếng Ả Rập là دَوْلَةْ إِسْرَائِيل (chuyển tự: Dawlat Israil). Dân tộc Do Thái bắt đầu định cư ở vùng đất Israel ngày nay từ khoảng 1800 năm TCN, sau đó di cư sang Ai Cập trong 1 thời gian. Đến khoảng 1255 TCN, nhà tiên tri Moses dẫn dắt dân tộc Do Thái trở về đất nước Israel. Trong thời gian sau đó, người Israel liên tục phải chiến đấu chống lại quân du mục Philistine khi bộ tộc này bị đuổi khỏi quê hương của họ là đảo Crete. Cái tên Israel có lẽ lúc ban đầu được nhắc tới để chỉ một nhóm dân tộc chứ không phải một địa điểm, nhóm dân đó là người Merneptah Stele Ai Cập từ khoảng năm 1210 TCN. Trong hơn 3.000 năm, người Do Thái đã coi Vùng đất Israel là quê hương của họ, nó vừa là Đất thánh và là miền Đất hứa. Vùng đất Israel là vùng đất thiêng liêng đối với người Do Thái, gồm chứa những vị trí quan trọng nhất của Do Thái giáo - gồm cả những phần còn sót lại của Đền thứ nhất và Đền thứ hai, cũng như những nghi thức liên quan tới các đền đó[6]. Bắt đầu từ khoảng năm 1200, một loạt vương quốc và quốc gia Do Thái đã tồn tại liên tục trong vùng trong hơn một thiên niên kỷ. Vào năm 1028 TCN, Saoul, một quý tộc quân sự được các bộ tộc Hebrew tôn làm vua. Triều vua David (1012 - 972 TCN). Dưới thời cai trị của Babylonia, Ba Tư Achaemenes, Hy Lạp, La Mã, Đông La Mã và (một thời gian ngắn) Ba Tư Sassanid, sự hiện diện của người Do Thái trong vùng bị thu hẹp vì các đế chế này đã trục xuất người Do Thái hàng loạt. Đặc biệt, thất bại của cuộc khởi nghĩa Bar Kochba chống lại Đế quốc La Mã đã dẫn tới sự trục xuất hàng loạt người Do Thái ở quy mô lớn. Chính trong giai đoạn này, người La Mã đã đặt tên Syria Palaestina cho mảnh đất này để cố gắng xoá bỏ các mối liên hệ của người Do Thái với nó. Mishnah và Jerusalem Talmud, hai bản kinh tôn giáo quý giá nhất của Do Thái giáo, đã được viết ra ở vùng này và cũng trong giai đoạn này. Những người Hồi giáo chinh phục vùng đất từ tay Đế chế Byzantine năm 638. Vùng này nằm dưới sự cai trị của nhiều quốc gia Hồi giáo (chỉ bị ngắt quãng ở thời Thập tự chinh) trước khi trở thành đất thuộc Đế quốc Ottoman của người Thổ Nhĩ Kỳ năm 1517. Làn sóng di cư cận đại đầu tiên của người Do Thái tới Israel, hay Aliyah (עלייה) bắt đầu năm 1881 khi họ trốn chạy khỏi sự ngược đãi, hay đi theo những tư tưởng xã hội Zion của Moses Hess và những người khác về \"sự cứu rỗi của đất đai\". Những người Do Thái mua đất đai từ Ottoman và những chủ đất người Ả Rập khác. Sau khi người Do Thái đã lập nên những khu định cư nông nghiệp, căng thẳng nảy sinh giữa người Do Thái và người Ả Rập. Sự thành lập chủ nghĩa phục quốc Do Thái dẫn tới Aliyah thứ hai (1904–1914) với số người Do Thái lên tới khoảng 40.000. Năm 1917, Bộ trưởng ngoại giao Anh Arthur J. Balfour đưa ra Tuyên bố Balfour \"ủng hộ việc thành lập tại vùng đất Do Thái cũ đã bị người Palestine chiếm một nhà nước quê hương cho những người dân Do Thái\". Năm 1920, vùng này được giao cho Hội Quốc Liên và được quản lý bởi Anh. Làn sóng di cư của người Do Thái lại tiếp tục lần thứ ba (1919–1923) và lần thứ tư (1924–1929) sau Thế chiến thứ nhất. Những cuộc bạo động ở Palestine năm 1929 của người Ả Rập đã giết chết 133 người Do Thái, gồm 67 người ở Hebron. Sự trỗi dậy của Chủ nghĩa Phát xít năm 1933 dẫn tới làn sóng Aliyah thứ năm. Người Do Thái trong vùng tăng từ 11% của dân số năm 1922 lên tới 30% năm 1940. Việc tàn sát người Do Thái có tính chất diệt chủng ở châu Âu của Adolf Hitler khiến người dân Do Thái ở mọi miền châu Âu trốn chạy tạo nên làn sóng tỵ nạn mới. Tới cuối Thế chiến thứ hai, số lượng người Do Thái ở Palestine đã lên tới xấp xỉ 600.000. Năm 1939, Anh đưa ra Sách trắng năm 1939, hạn chế sự tỵ nạn của người Do Thái trong thời gian diễn ra chiến tranh là 75.000 và hạn chế không cho người Do Thái mua nhiều đất, có lẽ nguyên nhân do có cuộc Khởi nghĩa Ả Rập vĩ đại (1936-1939). Cuốn sách trắng này bị cộng đồng Do Thái và những người theo chủ nghĩa phục quốc coi là phản bội, họ cho rằng nó trái ngược với Tuyên bố Balfour năm 1917. Người Ả Rập cũng không hoàn toàn hài lòng, họ muốn cuộc di cư của người Do Thái phải dừng lại vĩnh viễn. Tuy nhiên, chính sách của Anh vẫn bám chặt vào cuốn sách này cho tới tận cuối thời kỳ uỷ trị của họ. Năm 1947, khi xung đột vũ trang ngày càng gia tăng với các nhóm quân sự Do Thái và những nỗ lực hoà giải không thành công giữa người Do Thái và người Ả Rập, chính phủ Anh quyết định rút khỏi Lãnh thổ ủy trị Palestine của Hội Quốc Liên. Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua Kế hoạch phân chia năm 1947 của Liên hiệp quốc chia lãnh thổ đó làm hai quốc gia, với vùng Do Thái chiếm khoảng 55% diện tích và vùng Ả Rập khoảng 45%. Theo kế hoạch, Jerusalem sẽ trở thành một vùng do Liên hiệp quốc quản lý để tránh xung đột về trạng thái của nó. Ngay sau khi kế hoạch phân chia của Đại hội đồng Liên hiệp quốc được thông qua ngày 29 tháng 10 năm 1947, David Ben-Gurion chưa dứt khoát chấp nhận nó, trong khi Liên đoàn Ả Rập từ chối nó. Nhiều cuộc tấn công của người Ả Rập vào dân cư Do Thái nhanh chóng biến thành xung đột khắp nơi giữa người Ả Rập và người Do Thái, các xung đột này là giai đoạn đầu tiên của Chiến tranh giành độc lập năm 1948. Ngày 14 tháng 5 năm 1948, trước khi hết thời hạn uỷ trị của Anh tại Palestine vào lúc nửa đêm ngày 15 tháng 5 năm 1948, nhà nước Israel được tuyên bố thành lập. Hoa Kỳ, Liên Xô và nhiều nước khác đã công nhận sự độc lập của Israel. Israel có chung biên giới với Liban ở phía bắc, Syria, Jordan và Bờ Tây ở phía đông, Ai Cập và Dải Gaza ở phía tây nam. Nó có đường bờ biển trông ra Địa Trung Hải ở phía tây và Vịnh Eilat (cũng được gọi là Vịnh Aqaba) ờ phía nam. Trong cuộc Chiến tranh sáu ngày năm 1967, Israel chiếm Bờ Tây của Vương quốc Hashemite ở Jordan, Cao nguyên Golan của Syria, Dải Gaza (lúc ấy nằm dưới sự chiếm đóng của Ai Cập) và Sinai của Ai Cập. Israel rút toàn bộ quân đội và những người định cư khỏi Sinai năm 1982 và ra khỏi Dải Gaza vào ngày 12 tháng 12 năm 2005. Tương lai của tình trạng của Bờ Tây, Dải Gaza và Cao nguyên Golan vẫn còn chưa được xác định. Tổng diện tích lãnh thổ Israel — không bao gồm những vùng đất Israel chiếm đóng năm 1967 — là 20.770 km2 hay 8.019 mi2 (dặm vuông); (1% nước). Tổng diện tích vùng nằm dưới quyền cai trị của luật pháp Israel — gồm Đông Jerusalem và Cao nguyên Golan — là 22.145 km2 hay 8.550 mi2; với chưa tới một phần trăm diện tích nước. Tổng diện tích vùng nằm dưới quyền kiểm soát của Israel — gồm cả kiểm soát quân sự và vùng đất thuộc quyền quản lý của người Palestine ở Bờ Tây — là 28.023 km2 hay 10.820 mi2 (~1% nước). Israel sở hữu một vài khu vực, có nhiều cảnh quan khác nhau bao gồm bờ biển, núi, thung lũng và sa mạc. Ngoài các thị trấn và thành phố, mỗi khu vực ở Israel luôn có những nét hấp dẫn riêng của nó. Vùng lãnh thổ của Israel được chia như sau: Jerusalem - thành phố thủ đô của Israel, một thành phố thiêng liêng cho thiên niên kỷ để ba tôn giáo: Do Thái, Kitô hữu và người Hồi giáo Akko (Acre) - một thành phố cổ với một cảng lịch sử các trang web Baha'i thiêng liêng nhất Beer Sheva - thủ đô trên thực tế của các khu vực Negev Eilat - của Goa của Trung Đông, cửa sổ của Israel trên Biển Đỏ, một thành phố nghỉ dưỡng sôi động Haifa - trung tâm của Đức tin Bahá'í, nơi có đền của Bab và Terraces và Quý Đức Nazareth - quê hương của Chúa Giêsu, nay là thành phố Ả Rập lớn nhất ở Israel Tel Aviv - thành phố sôi động nhất trong cả nước và khu vực, bao gồm các thành phố trắng, một địa điểm kiến trúc Bauhaus và nhà đại sứ quán nước ngoài nhất Tiberias - một thị trấn nghỉ mát hiện đại có nguồn gốc cổ xưa trên bờ phía tây của biển Galilee Safed (Tzfat) - thành phố hấp dẫn đầy với các nghệ sĩ và thần bí, nơi ARI người thành lập Kabbalah trường phái tư tưởng Người nước ngoài của quốc gia / vùng lãnh thổ sau đây có thể nhập Israel miễn thị thực cho đến 3 tháng: thành viên tất cả các quốc gia Liên minh châu Âu , Andorra, Argentina, Úc, Bahamas, Barbados, Bolivia, Brazil, Canada, Cộng hòa Trung Phi, Chile, Colombia, Costa Rica, Croatia, Dominica, Cộng hòa Dominica, Ecuador, El Salvador, Eswatini, Fiji, Grenada, Guatemala, Haiti, Tòa Thánh, Honduras, Hồng Kông, Jamaica, Nhật Bản, Lesotho, Liechtenstein, Macedonia, Malawi, Mauritius, Mexico, Micronesia, Monaco, Mông Cổ, Montenegro, New Zealand, Na Uy, Panama, Paraguay, Peru, Philippines, Nga, Saint Kitts và Nevis, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadines, San Marino, Serbia, Singapore, Nam Phi, Hàn Quốc, Suriname, Thụy Sĩ, Trinidad và Tobago, Ukraina, Hoa Kỳ, Uruguay và Vanuatu. Tuy nhiên, nếu bạn đang bị nghi ngờ là các hoạt động công khai và bất hợp pháp, có nguồn gốc Ả Rập, Hồi giáo, hoặc một nhà hoạt động chính trị, có một khả năng bạn sẽ bị hỏi các câu hỏi bổ sung, truy vấn và/hoặc bị từ chối nhập cảnh, nếu họ không hài lòng sau khi đặt câu hỏi, theo quy định của Bộ Ngoại giao Mỹ. Lưu ý rằng quốc tịch trong một trong những quốc gia được liệt kê ở trên không đảm bảo nhập cảnh. Những quyết định này là trái với ý của nhân viên di trú. [1]. Lưu ý rằng công dân Đức sinh ra trước ngày 01 Tháng Một 1928 phải xin thị thực trước. Thị thực này sẽ được cấp nếu bạn không tham gia sâu vào các sự kiện trong thời kỳ Đức Quốc xã và sẽ có hiệu lực trong toàn bộ thời gian hộ chiếu của bạn là hợp lệ. (Đức quốc xã cam kết tội diệt chủng chống lại người Do Thái trong Thế chiến thứ hai, lý do cho sự hạn chế này.) Đối với một số quốc gia Ả rập thì nước họ nhập cảnh vào Israel thì sẽ cấu thành tội phạm. Thậm chí nếu bạn là một công dân Ả rập công dân châu Âu và Bắc Mỹ sinh ra tại Ả Rập, sau khi bước vào Israel có thể có hậu quả khi trở về nước nơi sinh của bạn. Chú ý đến thực tế là nhiều quốc gia Ả Rập và Hồi giáo từ chối nhập cảnh vào bất kỳ người nào đã tới Israel. Nếu đến bằng đường hàng không hoặc đường biển và có nhu cầu đi đến các quốc gia Ả Rập với cùng hộ chiếu thử hỏi nhân viên nhập cảnh Israel để đóng con dấu của họ vào một tờ giấy riêng. Tùy thuộc vào tình hình hiện nay, họ thường sẵn sàng để làm điều này. Sau đó, bạn đang an toàn không bị từ chối nhập cảnh của quốc gia Ả rập có tên nêu trên. Tuy nhiên, điều này có thể không đủ nếu bạn đã nhập vào Israel bằng đường bộ: trong nước hoang tưởng nhất (đặc biệt là Syria và Lebanon), hộ chiếu của bạn sẽ được xem xét kỹ lưỡng không chỉ đối với tem của Israel, mà còn tem quốc gia lân cận từ cửa khẩu biên giới đất Israel như Taba (Ai Cập) và Arava / Aqaba (Jordan). Họ cũng sẽ kiểm tra nhãn hành lý (hoặc dư lượng của họ) được dán vào mặt sau của hộ chiếu tại các cửa khẩu của Israel. Trong trường hợp này, bạn sẽ phải nộp đơn xin hộ chiếu thứ hai, cho phép bạn có một dấu Israel trong một hộ chiếu và đi du lịch đến các quốc gia Ả rập với nhau. Hỏi tại đại sứ quán của riêng bạn. Sân bay quốc tế chính của Israel là sân bay quốc tế Ben-Gurion của Tel Aviv [2] (mã IATA: TLV, ICAO: LLBG) có cự ly khoảng 40 km từ Jerusalem và 12 km từ trung tâm Tel Aviv, và phục vụ cả hai thành phố. Ben Gurion hoạt động như một trung tâm cho ba hãng hàng không quốc tế chính của Israel, El Al [3] hãng hàng không có chuyến bay cung cấp trên toàn cầu, hãng hàng không quốc gia và là hãng hàng không lớn nhất của Israel, Arkia Israel Airlines co.il /, hãng hàng không nội địa lớn nhất của Israel còn phục vụ một số điểm đến châu Âu, và Israir [4] mà còn phục vụ nhiều điểm đến châu Âu. Khoảng 50 hãng hàng không quốc tế bay đến sân bay Ben Gurion từ khắp nơi trên thế giới, bao gồm Delta, United Airlines, US Airways, Turkish Airlines, Malev Hungarian Airlines, British Airways, Air France, Lufthansa, Alitalia, Iberia, LOT, Aegean Airlines, Austrian Airlines, Brussels Airlines, Transaero, Royal Jordanian, Egypt Air (vai Air Sinai), Ethiopean Airlines, Korean Air, Cyprus Airways, Air Canada, AeroSvit, Tandem Aero, Swiss, CSA, JAT và các hãng khác. Bạn cũng có thể bay vào sân bay Ben Gurion thông qua các hãng hàng không chi phí thấp từ London (Luton Town), Manchester, Basel và Geneva trên Easyjet [5] và từ Berlin, Cologne, Düsseldorf hoặc Munich (trực tiếp) và nhiều thành phố khác ở châu Âu trên Air Berlin [6] hoặc Germanwings [7]. Một số hãng hàng không chi phí thấp sử dụng nhà ga của sân bay 1, vì vậy nếu bạn cần để có được nhà ga xe lửa của sân bay - bạn sẽ cần phải sử dụng đưa đón miễn phí thiết bị đầu cuối 3, nơi mà các nhà ga xe lửa tọa lạc. Sân bay quốc tế thứ hai của Israel (được sử dụng chủ yếu là các hãng bay thuê chuyến) nằm ở Ovda [8], và phục vụ nam Israel, chủ yếu là, Eilat (mã IATA:VDA, ICAO:LLOV) Từ sân bay, bạn có thể đi xe buýt, xe lửa, xe taxi (không đặc biệt là giá rẻ) hoặc taxi ngồi chung (sherut). Để đến: Jerusalem-đi xe buýt tuyến 947 từ El Al ngã ba (7:00-21:00, 20 phút, 20 NIS đến trạm xe bus trung tâm) hoặc taxi chia chỗ chung ( sherut) từ nhà ga số 3 (hoạt động 24/7, 63 NIS cho mỗi hành khách cho dịch vụ đưa đến cửa). Xe lửa đến Jerusalem nổi tiếng là chậm và không hiệu quả. Tel Aviv, Netanya, Akko (Acre), Nahariya, Beer Sheva và nhiều các điểm khác, đón tàu lửa trực tiếp Tel-Aviv [http:// www.rail.co.il/EN/Stations/Pages/8600.aspx] (3:53-23:23, mỗi nửa giờ trong ngày, từng giờ trong đêm, 14 NIS). Từ Tel-Aviv đến các điểm đến khác, tiếp tục bằng tàu hỏa hoặc xe buýt. Nhà ga xe lửa là trên thiết bị đầu cuối 3. Haifa-ngoài tàu lửa, bạn có thể đi taxi chia chỗ (sherut) (hoạt động 24/7 cấp phát chính thức về số lượng hành khách, khoảng 50 NIS cho mỗi hành khách).",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bulgan",
"role": "user"
},
{
"content": "Bulgan là một thành phố ở tỉnh Bulgan, miền bắc Mông Cổ. Bulgan là một thành phố nhỏ với dân số khoảng 12.000 người. Nơi này đã được định cư từ thế kỷ 17. Ngày nay thành phố có một số bảo tàng nhỏ và một tu viện nhỏ được xây dựng từ năm 1876. Thời điểm tham quan thích hợp nhất là từ tháng 6 đến tháng 8. Bulgan có khí hậu cận Bắc Cực với mùa hè ôn hòa trong khi mùa đông rất lạnh. 48.85718203373252Sân bay Bulgan1 Sân bay Bulgan (IATA: UGA) (nằm ở phía tây nam thành phố, ven tuyến đường cao tốc đến Hutag-Ondor). Sân bay có một đường băng không trải nhựa, với các chuyến bay thường kỳ đến Ulaanbaatar, Hovd và Mörön. Nếu muốn đến Bulgan, bạn cần lên xe buýt liên tỉnh ở bến xe Trung tâm Rồng (trên đại lộ Hòa bình, thủ đô Ulaanbaatar). Xe sẽ khởi hành vào buổi trưa. Bạn cũng có thể đến đây bằng các phương tiện công cộng từ hai thành phố gần đó là Erdenet và Mörön. 48.8010710424838Tu viện Dashchoinkhorlon Khiid1 Tu viện Dashchoinkhorlon Khiid (nằm ở phía nam thành phố). Tu viện ban đầu đã bị phá hủy bởi chính quyền Cộng sản vào năm 1937. Đến năm 1992, nó đã được xây dựng lại. 48.482173Lăng mộ Khatanbaatar Magsarjav2 Lăng mộ Khatanbaatar Magsarjav (nằm cách Bulgan khoảng 40 km về phía tây nam). Magsarjav được coi là anh hùng của trận chiến Hovd, nơi ông đã giúp đánh đuổi người Trung Quốc ra khỏi thành phố này vào năm 1912 trong cuộc chiến giành độc lập của Mông Cổ. 48.81425239237543Bức tượng Đô vật Namkhai3 Bức tượng Đô vật Namkhai (nằm ngay cạnh công viên trẻ em). 48.813469730312576Bảo tàng Lịch sử Quốc gia4 Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (gần nhà hàng Jaran). Bảo tàng có các hiện vật về cuộc chiến chống lại Bạch vệ Nga, J Gurrangchaa (người Mông Cổ đầu tiên đi vào vũ trụ) và các cổ vật trong lịch sử địa phương. 48.98004190574788Khu bảo tồn thiên nhiên Uran Togoo & Tulga Uul5 Khu bảo tồn thiên nhiên Uran Togoo & Tulga Uul (cách Bulgan 60 km về phía tây). Với diện tích khoảng 5.800 hecta, khu vực này bao gồm những ngọn núi lửa đã ngừng hoạt động. 48.800354347643285Siêu thị Naran teeg1 Siêu thị Naran teeg (Наран тээг) (nằm ở phía nam thành phố Bulgan). 48.808129293906795Siêu thị Az Hur2 Siêu thị Az Hur (nằm gần ngân hàng Haan). 20:00–00:00 hàng ngày (Chủ nhật mở cửa từ 08:00 đến 12:00). 48.81287829401714Khaliun khünsnii delgüür3 Khaliun khünsnii delgüür (Халиун хүнсний дэлгүүр) (gần bưu điện). 48.814093606748436Siêu thị Altan4 Siêu thị Altan (nằm rất gần bến xe buýt), ☎ +976 9581 6116. 09:00–23:30 hàng ngày. 48.81851309632969Siêu thị Javkhlant Khudaldaany Töv5 Siêu thị Javkhlant Khudaldaany Töv (жавхлант худалдааны төв). 48.82724657923037Nhà hàng Arwai1 Nhà hàng Arwai (nằm ở phía tây bắc khu trung tâm thành phố). 48.81454367254198Nhà hàng Nutgiin Zoog2 Nhà hàng Nutgiin Zoog (нутгийн зоог), ☎ +976 7034 4307. 10:00–23:30 hàng ngày (thứ Năm mở cửa sớm hơn một tiếng). 48.81352495567817Nhà hàng Jaran3 Nhà hàng Jaran. 48.81442938144932Nhà hàng Dream Lounge4 Nhà hàng Dream Lounge, ☎ +976 9550 5904. 10:00–19:00 hàng ngày (đóng cửa vào Chủ nhật). 48.81372078526945Quán rượu Undram1 Quán rượu Undram (Ундрам паб) (nằm rất gần siêu thị Altan và bến xe buýt), ☎ +976 9103 3353. 48.81219597977221Khách sạn Bulgan1 Khách sạn Bulgan (nằm sau công viên trẻ em), ☎ +976 8616 9716. Khách sạn này có phòng tắm hơi. 48.81210428081878Khách sạn Khantai2 Khách sạn Khantai (Хантай зочид буудал) (tòa nhà gạch đỏ nằm gần khách sạn Bulgan), ☎ +976 7034 2964. Khách sạn khá sạch sẽ, đồng thời cũng có phòng tắm hơi. 48.81618140159555Bệnh viện Trung ương tỉnh Bulgan1 Bệnh viện Trung ương tỉnh Bulgan (Булган аймгийн Нэгдсэн Эмнэлэг). 48.81384012760441Hiệu thuốc Trung ương2 Hiệu thuốc Trung ương. 48.81357090643068Hiệu thuốc Monos3 Hiệu thuốc Monos (gần nhà hàng Dream Lounge). Từ Bulgan, bạn có thể lên xe buýt liên tỉnh để đến Erdenet, thành phố lớn gần đó.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Vườn quốc gia Pribaikalsky",
"role": "user"
},
{
"content": "Vườn quốc gia Pribaikalsky (tiếng Nga: Прибайкальский национа́льный парк) là một vườn quốc gia ở phía tây hồ Baikal, tỉnh Irkutsk, Nga. Vườn quốc gia này được thành lập vào năm 1986 và đón khoảng 400.000 khách du lịch mỗi năm. Vườn quốc gia là một dải đất ở ven hồ Baikal. Địa hình phân bố không đều giữa các sông và núi non. Tại đây có bốn con sông nhỏ với chiều dài hơn 25 km, 150 dòng suối vĩnh viễn, 60 trong số đó chảy vào các hồ. Các suối và hồ tại đây được cho là hình thành bởi những cơn mưa và có độ mặn thấp, ngoại trừ 20 hồ tại karst và thảo nguyên. Một dòng sông quan trọng khác trong khu vực này là sông Sarma. Chỉ có một vài đầm lầy được tìm thấy tại khu vực đồng bằng ngập nước thấp. Về phía tây của vườn quốc gia là các đỉnh núi cao chạy theo chiều bắc-nam với chiều cao tối đa dao động từ 1.100-1500 mét. Các sườn núi đối diện với hồ Baikal có rừng thông thảo nguyên và đường tùng. Những ngọn núi ẩm ướt hơn thì có linh sam thông Siberia. Trong các thung lũng, các loài thực vật bao gồm vân sam, thông rụng lá, cây trăn, hoàn diệp liễu, và bạch dương. Tính đa dạng sinh học và đặc hữu rất cao: Pribaikalsky và các khu vực lân cận đã ghi nhận được 1.385 loài thực vật và phụ thực vật có mạch, 339 loài rêu, 676 loài địa y và 655 loài nấm. Trong số này, 557 thuộc nhóm loài đặc hữu. Cũng như các loài thực vật, tính đa dạng sinh học của hệ động vật trong vườn quốc gia rất cao. Hơn 2.500 loài đã được xác định, trong đó có nhiều loài đặc hữu. Các loài động vật móng guốc bao gồm hươu Caspi, hươu Siberia và nai sừng tấm. Các loài động vật ăn thịt bao gồm chồn zibelin, chồn ecmin và chồn Siberia. Các khu vực thảo nguyên của Pribaikalsky là nơi sinh sống của mèo sào thảo nguyên, sóc đất đuôi dài, chim sơn ca và diều đen. Ở những tảng đá khó tiếp cận và trên các hòn đảo có loài bồ câu đá và cò Siberia. Động vật có vú lớn nhất trong hồ là hải cẩu Baikal. Pribaikalsky có khí hậu lục địa ôn hòa (phân loại khí hậu Köppen Dwb). Nó được đặc trưng bởi bốn mùa rõ rệt, chênh lệch nhiệt độ giữa mùa đông và mùa hè cao, mùa đông khô kéo dài và mùa hè ngắn, ấm áp và mưa nhiều. Lượng mưa trung bình hàng năm là 24,5 inch. Bạn có thể lái ô tô từ Irkutsk (2 giờ 48 phút), Listvyanka (3 giờ 54 phút) và Ust-Ordynsky (1 giờ 49 phút). Hành trình tuy dài nhưng bạn sẽ được chiêm ngưỡng cảnh quan taiga độc đáo của vùng Đông Siberia. Bạn có thể ghé thăm vườn quốc gia bất cứ lúc nào. Các hạn chế chỉ được áp dụng trong trường hợp khẩn cấp như cháy rừng (chủ yếu xảy ra vào mùa hè). Phí vào cửa Pribaikalsky như sau: 150 rúp (đối với công dân Liên bang Nga) và 300 rúp (đối với khách du lịch nước ngoài). Những cách đi lại phổ biến nhất trong vườn quốc gia là đi bộ, chèo thuyền và chèo xuồng. Giống như nhiều vườn quốc gia khác trong khu vực, Pribaikalsky có cảnh quan thiên nhiên độc đáo cũng như nhiều địa điểm khảo cổ. 52.652265399573466Vịnh Krestovaya1 Vịnh Krestovaya (Бухта Крестовая) (nằm ở phía đông của vườn quốc gia, trên bờ hồ Baikal). Tên gọi của vịnh này có nghĩa là \"chữ thập\" trong tiếng Nga. 53.15967486498368Đảo Borokchin2 Đảo Borokchin (Остров Борокчин) (cách làng Kurma khoảng 2,75 km về phía đông nam). 53.160561598402246Mũi Uyuga3 Mũi Uyuga (Мыс Уюга) (cách Kurma chừng 24 phút đi bộ). Một mũi đất nhỏ, dài và hẹp với tầm nhìn hướng ra các hòn đảo trên hồ Baikal. 52.68159615300767Vách đá Sagan-Zaba4 Vách đá Sagan-Zaba (Утес Саган-Заба). Có nhiều bức vẽ trên đá của người tiền sử. Chúng thể hiện các loài chim, các loài thú vật khác và cuộc sống địa phương. Đạp xe địa hình. Vườn quốc gia Pribaikalsky có cảnh quan dốc và do đó khá phù hợp cho hoạt động này. 52.791026176090014Leo núi1 Leo núi. Pribaikalsky có nhiều ngọn núi. Núi Ekhe-Erdo (nằm gần bờ sông Anga) là một trong những điểm leo lý tưởng nhất. Đi bộ đường dài. Có một số khu vực đi bộ trong công viên như Zateryannaya bukhta, Bukhta Mangatu-Nugo hay Mys Unshuy. 53.039757063989654Câu cá2 Câu cá. Hồ Baikal có nhiều loại cá lớn như Omul. Một trong những điểm câu cá ở Pribaikalsky là Shchuka, gần các khách sạn và khu nghỉ dưỡng. 53.016508322943615Cửa hàng Baykal1 Cửa hàng Baykal (Байкал) (cách cửa hàng Khoroshiy khoảng 218 m về phía tây nam). 53.016843855088446Cửa hàng Khoroshiy2 Cửa hàng Khoroshiy (Хороший). 53.01736027170898Cửa hàng Solnechnyy3 Cửa hàng Solnechnyy (Солнечный), ☎ +7 908 662-08-29. Bán nhiều loại nông sản địa phương. 52.796914171218454Siêu thị giảm giá Khleb Sol'4 Siêu thị giảm giá Khleb Sol' (Хлеб соль). 52.7972511126379Cửa hàng tạp phẩm Edem5 Cửa hàng tạp phẩm Edem, 18 đường Pronkina, ☎ +7 914 929-31-64. 52.79802997916767Cửa hàng Tele26 Cửa hàng Tele2, ☎ +7 977 555-16-11. 10:00–18:00 hàng ngày (trừ cuối tuần). Chuyên bán điện thoại di động. 52.79681026775364Cửa hàng Rybka7 Cửa hàng Rybka, 17 đường Lenin. 53.029297190927124Quán cà phê Feniks1 Quán cà phê Feniks (Кафе Феникс), 15 đường Moskovskaya, ☎ +7 914 915-73-37. 53.03303767724744Quán cà phê Poznaya2 Quán cà phê Poznaya (Позная). 53.03589740262333Quán cà phê Fairy Tale3 Quán cà phê Fairy Tale (Кафе \"Сказка\"). 53.04236563175427Quán cà phê Mandarkhan Siti4 Quán cà phê Mandarkhan Siti. 53.04641418517396Khách sạn Fregat Turbaza1 Khách sạn Fregat Turbaza, ☎ +7 395 226-11-45. Nhận phòng: 17:00, trả phòng: 14:00. Một khách sạn tiêu chuẩn 3 sao với quán cà phê nhỏ. Nó còn phục vụ bữa sáng, phát Wi-Fi và có dịch vụ giặt ủi. 53.037770732046994Khách sạn Villa Baikal Prestige2 Khách sạn Villa Baikal Prestige, ☎ +7 902 569-89-98. Có một bể bơi ngoài trời nhỏ. 53.03974167189511Khách sạn Olimp-Baykal3 Khách sạn Olimp-Baykal (Олимп-Байкал), ☎ +7 950 081-90-90. Mỗi phòng có TV màn hình phẳng, ghế sô pha, móc treo quần áo, nhà tắm và hai giường đôi. 53.02109715406242Khách sạn Turbaza Sokhtor4 Khách sạn Turbaza Sokhtor (Турбаза Сохтор), ☎ +7 952 631-19-11. Có dịch vụ giặt ủi, đồng thời phù hợp với trẻ em. 53.03127706969366Khách sạn Barun-Khagun Turbaza5 Khách sạn Barun-Khagun Turbaza (Барун-Хагун Турбаза) (gần vịnh Mukhor trên bờ hồ Baikal). 53.03143199525053Nhà khách Kovcheg6 Nhà khách Kovcheg, ☎ +7 395 563-84-07. Nhà khách có thể cung cấp xe đưa đón ra sân bay nếu bạn cần. Nếu đi du lịch vào mùa đông, bạn không nên trượt băng trên mặt hồ Baikal vì nó có thể vỡ ra, khiến bạn rơi xuống dưới mặt hồ. Vườn quốc gia Zabaykalsky nằm ở phía bên kia của hồ Baikal, do nước Cộng hòa Buryatia quản lý. Các loài động vật ở đây mang nét đặc trưng của rừng núi Nam Siberia. Olkhon, hòn đảo lớn nhất trên hồ Baikal. Hãy đến đây nếu bạn muốn quan sát những lễ hội shaman truyền thống. Listvyanka, một thị trấn nhỏ ở rất gần vườn quốc gia. Nó có một khu chợ với rất nhiều cá Omul. Khu bảo tồn thiên nhiên Baikal-Lena, cũng nằm trong tỉnh Irkutsk. Hệ sinh thái chủ yếu tại đây là Đông Siberia.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Nguyễn Xuân Hồng",
"role": "user"
},
{
"content": "Nguyễn Xuân Hồng là Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật (Bộ NN&PTNT) khoảng năm 2014 So với quy định, loại nhiều nhất cũng chỉ cao hơn 2-3 lần. Mức này là cực kỳ an toàn và người tiêu dùng đã sử dụng số hoa quả mà chúng tôi phát hiện nhiễm độc vẫn đang còn rất an toàn. - Nói về 300 tấn hoa quả nhiễm độc nhập từ Trung Quốc hồi cuối 2013, nửa đầu năm 2014. ^ Cục trưởng BVTV: Hoa quả Trung Quốc nhiễm độc... vẫn an toàn Wikipedia có thể loại liên quan Nguyễn Xuân Hồng",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Lạc Dương",
"role": "user"
},
{
"content": "Lạc Dương (giản thể: 洛阳, phồn thể: 洛陽; bính âm: Luòyáng) là một thành phố trực thuộc tỉnh (địa cấp thị) nằm ở phía tây tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Thành phố này giáp tỉnh lỵ Trịnh Châu về phía đông, Bình Đỉnh Sơn về phía đông nam, Nam Dương về phía nam, Tam Môn Hiệp về phía tây, Tế Nguyên về phía bắc, và Tiêu Tác về phía đông bắc. Tọa lạc trên đồng bằng trung tâm của Trung Quốc, một trong những cái nôi văn minh Trung Hoa, Lạc Dương là một trong bốn cố đô vĩ đại của Trung Hoa. Ban đầu thành phố này được Triệu Khang công hay Thiệu công Thích theo lệnh của Chu Công (周公) xây dựng vào thế kỷ 11 TCN và được đặt tên là Thành Chu (成周). Nó trở thành kinh đô của nhà Đông Chu kể từ năm 770 TCN. Thành phố này đã bị phá hủy trong nội chiến vào năm 510 TCN và được xây dựng lại vào những năm sau đó và còn tiếp tục là kinh đô của nhà Chu cho đến khi nhà Tần đánh bại nhà Chu vào năm 256 TCN để sau này thống nhất Trung Quốc, với tên gọi Lạc Ấp. Từ năm 25 tới năm 190, Lạc Dương trở thành kinh đô của nhà Đông Hán, từ Hán Quang Vũ Đế cho tới đầu thời kỳ trị vì của Hán Hiến Đế. Năm 68, Bạch Mã tự, ngôi chùa Phật giáo đầu tiên ở Trung Quốc, đã được xây dựng tại Lạc Dương. Ngôi chùa này hiện nay vẫn còn tồn tại, mặc dù các kiến trúc của nó là thuộc các thời đại sau này, chủ yếu thuộc thế kỷ 16. An Thế Cao (?-168) là một trong những hòa thượng đầu tiên quảng bá Phật giáo tại Lạc Dương. Năm 190, thái sư Đổng Trác đã ra lệnh lục soát và cướp bóc thành phố này trước khi san phẳng phần lớn các công trình xây dựng. Kinh đô được chuyển về Trường An, do đây là nơi thích hợp hơn cho Đổng Trác để đẩy lùi liên minh chống lại ông ta. Từ thời Tam Quốc, năm 221 khi Ngụy Văn Đế (Tào Phi) lên ngôi cho đến thời Tấn Mẫn Đế nhà Tây Tấn (năm 316), Lạc Dương vẫn tiếp tục là kinh đô. Trong nhiều thế kỷ, Lạc Dương là trung tâm kinh tế-xã hội của Trung Hoa cổ đại. Khi nhà Tây Tấn dưới sức ép của các lực lượng nổi dậy buộc phải di chuyển kinh đô tới Kiến Khang (ngày nay là Nam Kinh) thì kinh đô này đã gần như bị phá hủy hoàn toàn. Năm 493, hoàng đế Ngụy Hiếu Văn Đế nhà Bắc Ngụy lại di chuyển kinh đô từ Đại Đồng, Sơn Tây về Lạc Dương và bắt đầu cho xây dựng Long Môn thạch quật (hang đá Long Môn) nhân tạo. Trên 30.000 bức tượng Phật từ thời kỳ của triều đại này đã được tìm thấy trong hang. Đến năm 534 khi nhà Bắc Ngụy kết thúc thì Lạc Dương không còn là kinh đô của các triều đại kế tiếp, cho đến tận năm 909 khi hoàng đế nhà Hậu Lương là Hậu Lương Thái Tổ Chu Ôn lại chuyển kinh đô về đây với tên gọi Tây Đô và nó là kinh đô cho tới năm 913 đầu thời Hậu Lương Mạt Đế. Năm 923 khi nhà Hậu Đường nắm quyền thì một lần nữa nó lại là kinh đô với tên gọi Đông Đô. Năm 936 nhà Hậu Tấn đổi tên nó thành Tây Kinh và đóng đô ở đây khoảng 2 năm. Thời kỳ Minh, Thanh thì Lạc Dương là thủ phủ tỉnh Hà Nam. Sân bay Lạc Dương (IATA: LYA) [1] nằm khoảng 10 km về phía bắc của trung tâm thành phố. Chuyến bay có sẵn từ Bắc Kinh, Thượng Hải và Thâm Quyến. Có hai nhà ga xe lửa ở Lạc Dương: Lạc Dương Trạm (cuối phía bắc của Jinguyuan Road) và Lạc Dương Long Môn (phía nam Lạc Dương). Ga Lạc Dương: Bắc Kinh - mất khoảng 11 giờ Quảng Châu - mất khoảng 24 giờ Thượng Hải - mất khoảng 17 giờ Vũ Hán - mất khoảng 8 giờ Từ Lạc Dương Long Môn: Tây An - mất khoảng 1,5-2 giờ bằng xe lửa tốc độ cao tại trạm Long Môn Lạc Dương của Trịnh Châu - chỉ mất khoảng 40 phút bằng tàu cao tốc tại ga Long Môn Lạc Dương của, 2 giờ đi tàu thường xuyên. Xe buýt đi đến trạm này là: 28, 33, 49, 67, 71, 75, 76 (cập nhật tháng 9 năm 2011). Trạm xe buýt là trên quảng trường từ ga xe lửa, ở góc Jinguyuan đường và Daonan đường. An Dương - mất khoảng 4 giờ Quảng Châu - mất khoảng 27 giờ Tế Nam - mất khoảng 9 giờ Khai Phong - mất khoảng 4 giờ Thái Nguyên - mất khoảng 8 giờ Tây An - mất khoảng 4 giờ Trịnh Châu - mất khoảng 2 giờ Hang đá Long Môn (tiếng Trung: 龍門石窟) hay Long Môn động, phiên âm Hán-Việt Long Môn thạch quật tọa lạc cách thành phố Lạc Dương 12 km về phía nam, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Các hang động này, chủ yếu mô tả các chủ đề về Phật giáo, được chạm khắc rải rác dọc theo hai núi Xiangshan (về phía đông) và Long Môn sơn (về phía tây). Sông Y Hà chảy theo hướng bắc giữa chúng. Vì lý do này, khu vực này thường được gọi là Y Khuyết (Cổng của sông Y). Từ phía bắc đến phía nam, khoảng cách có hang đá là 1 km. Bảo tàng các lăng mộ nhà Hán. Bảo tàng hấp dẫn với các ngôi mộ được xây dựng lại và khai quật từ các nhà Hán phương Tây triều đại Bắc Tống. Chùa Bạch Mã (白马寺; Báimǎsì; lit. White Horse Temple) (12km east of the city centre, take bus 56). 7:30AM-5:30PM. Đây là ngôi chùa Phật giáo đầu tiên được chính thức phê chuẩn ở Trung Quốc và là một trong những lâu đời nhất trên thế giới. Nó được thành lập gần 2000 năm trước, nhưng xây dựng lại nhiều lần kể từ. ¥50. Miếu Quan Lâm. (关林庙, xe buýt 81 từ ga xe lửa dừng lại ở đây và sau đó tiếp tục đến các hang động Long Môn) thờ Quan Vũ, vị tướng vĩ đại của nước Thục thời Tam Quốc. Longmen National Park (Longmen Shiku (Dragon Gate Grottoes)) (On the banks of Yi River). Considered to be one of the the great sculptural treasure sites in China and a UNESCO World Heritage Site. See individual article here. Luoyang Museum, 298 中州中路 (Zhongzhou Zhonglu) (across the street from Wangcheng Park). Very well done museum featuring an extensive collection of ancient Zhou Dynasty bronzes as well as Han and Tang Dynasty porcelains, nearly all of which were made and found in the area, giving a sense of the former grandeur of the ancient capital. The museum itself a sparkling new building, having just opened in 2011 and featuring broad, uncrowded exhibit rooms as well as efficient air conditioning, making it a good way to beat the summer heat after the Longmen Caves. Even those with only a passing interest in porcelain will be satisfied. At time of writing the museum is free, though a ticket price may already have been re-instated. Wangcheng Park (望城公园). Site of the Luoyang Peony Festival in April, something not to be missed. Du Fu's tomb In Luoyang city about 23 kilometers east of Yanshi Du Village north.The tomb was octagonal, around build with brick. The tombstone is inscribed with\" Tang ministry gleaning Shaoling Du Wenzhen Tomb of the public.\" a few words. The original Du Fu's grandfather, the North Tomb tomb, now destroyed, only have the ancestors of Du Fu, Jin Hou Duyu tombstone. Shangqing Gong. Located 4 kilometers northwest of Luoyang City Mangshan Mountain emerald Yunfeng, was built in the Tang Dynasty, said early laojunmiao. Qian Feng the first year (AD 666), made me as too Xuan Yuan emperor, it is also known as the temple of Emperor Xuan yuan. After avoiding Xuanzong taboo, renamed the Yuan emperor temple, finally changed to the palace.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Antigua và Barbuda",
"role": "user"
},
{
"content": "Antigua và Barbuda [1] là một quốc đảo ở phía đông biển Caribe, trong khu vực Bắc Mỹ, thuộc địa phận Châu Mỹ. Antigua và Barbuda gồm 2 đảo chính là Antigua và Barbuda. Quốc đảo nằm giữa quần đảo Leeward, gần với Trinidad và Tobago, Montserrat và Anguilla. Các đảo này do Cristoforo Colombo khám phá năm 1492. Thực dân Tây Ban Nha không quan tâm đến các đảo này vì không có nguồn tài nguyên và bắt dân cư ở các đảo này sang quần đảo Đại Antilles để tìm và khai thác vàng. Năm 1632, thực dân Anh chiếm các đảo này để làm thuộc địa, đưa nô lệ Da đen từ châu Phi sang để phát triển các đồn điền mía. Từ năm 1674, thực dân Anh muốn thực hiện liên kết các đảo này thuộc quyền sở hữu của Anh, nhưng tính đặc thù của mỗi đảo đã cản trở tiến trình sáp nhập này. Liên bang Leeward Islands ra đời năm 1871 nhưng không được chấp nhận. Năm 1956, Liên bang Antilles thuộc Anh được thành lập nhưng cũng thất bại. Năm 1967, các đảo trong quần đảo Tiểu Antilles thuộc quyền sở hữu của Anh trở thành một nước liên kết với Anh. Năm 1981, các đảo này giành được độc lập và thuộc Khối Liên hiệp Anh. Từ năm 1999, Toàn quyền Beethoven Carlisle đại diện cho Nữ hoàng Anh ở Antigua, đồng thời là phụ tá cho Lester Bryant Bird, người đứng đầu chính phủ. Quyền hành tập trung ở Antigua, tuy nhiên người dân ở đảo Barbuda phản đối và thường đe dọa đòi li khai. Antigua và Barbuda là quốc gia năm ở khu vực Trung Mỹ, thuộc quần đảo Tiểu Antilles; nằm về phía Đông và Đông Nam đảo Puerto Rico; gồm ba đảo: Antigua (280 km2), Barbuda (160,5 km2) và Redonda (1,5 km2). Các đảo đá vôi này không có nguồn tài nguyên khoáng sản và năng lượng, đất đai ít màu mỡ và cũng không có dòng sông nào. Các bãi biển đẹp nằm trong miền khí hậu nhiệt đới trở thành địa điểm thu hút khách du lịch. Dân cư phân bố không đồng đều: đảo Redonda không có người ở, đảo Barbuda chỉ có khoảng 2.000 người, phần dân cư còn lại tập trung phần lớn ở thủ đô Saint John's thuộc đảo Antigua. [2] Khí hậu nhiệt đới, ôn hòa nhờ gió biển. Nhiệt độ giữa các mùa ít thay đổi. Antigua và Barbuda theo chính thể Dân chủ nghị viện. Đứng đầu nhà nước là Nữ hoàng Anh, được đại diện bởi Toàn quyền. Đứng đầu chính phủ là Thủ tướng. Theo chế độ quân chủ cha truyền con nối; Toàn quyền do Nữ hoàng chọn; Thủ tướng do Toàn quyền bổ nhiệm. Cơ quan lập pháp gồm hai viện: Thượng viện (17 ghế do Toàn quyền bổ nhiệm) và Hạ viện (17 ghế, được bầu, nhiệm kỳ 5 năm). Cơ quan tư pháp là Tòa án Tối cao Đông Caribe (đặt tại Xanh Luxia). Từ trước năm 1960, nền kinh tế chủ yếu dựa vào việc trồng mía, nhưng do giá thành thấp và đất đai bị xói mòn khiến cho ngành này không thể tồn tại. Hiện nay, du lịch giữ vai trò đáng kể trong kinh tế của đảo quốc này. Ngành dệt và các nhà máy lắp ráp dây chuyền các thiết bị điện tử cũng bị hạn chế. Ngành đánh bắt cá thủ công và nông nghiệp không đáp ứng đủ nhu cầu trong nước. Du lịch có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, chiếm hơn nửa thu nhập quốc dân. Sản xuất nông nghiệp đáp ứng nhu cầu nội địa. Công nghiệp chủ yếu là tái xuất khẩu dầu mỏ và sản xuất các linh kiện điện tử. Antigua và Barbuda có dân số 86.754, chủ yếu là người dân Tây Phi, người Anh, và gốc Bồ Đào Nha. Sự phân bố dân tộc bao gồm đen hoặc nước da ngâm ngâm chiếm 91%, 4,4% chủng tộc hỗn hợp, người da trắng 1,7%, và 2,9% chủ yếu là người gốc Trung Đông và người châu Á. Hầu hết các người da trắng gốc Ireland hoặc Anh, Kitô giáo là tôn giáo chính của nhóm sắc tộc này. Người gốc Trung Đông đa số là người Ả Rập, và một số lượng nhỏ người châu Á và người Do Thái Sephardic tạo nên phần còn lại của dân số. Đằng sau sự phục hồi dân số cuối thế kỷ 20 và xác định lại vai trò của người Phi-Antigua và Barbuda trong đời sống văn hoá của xã hội là một lịch sử dài của sự của căng thẳng chủng tộc, dân tộc có truyền thống thù ghét va muốn loại trừ người da trắng. Trong khuôn khổ thành lập chế độ thuộc địa bởi người Anh ngay sau khi chiếm Antigua và Barbuda năm 1623, là phân chia sự khác biệt và cẩn thận xếp hạng các nhóm chủng tộc/dân tộc có khả năng nổi lên chống lại sự cai trị của Anh. Người Bồ Đào Nha ở Antigua và Barbuda có nguồn gốc từ sự di cư của 2.500 người người lao động từ Madeira (một quần đảo của Bồ Đào Nha ở phí Bắc Đại Tây Dương, phía Tây Nam của bán đảo Iberia) giữa 1847 và 1852 vì một nạn đói nghiêm trọng ở đó. Nhiều người gốc Bồ Đào Nha này thành lập các doanh nghiệp nhỏ và gia nhập hàng ngũ của lớp nước da ngâm ngâm. Người Anh cai trị không bao giờ thực sự coi là người Bồ Đào Nha là người da trắng và đã không cho phép họ vào hàng ngũ của người Anh. Người gốc Trung Đông đã bắt đầu di cư đến Antigua và Barbuda từ đầu thế kỷ 20. Bắt đầu là thương nhân và dân lao động, họ nhanh chóng hòa nhập vào xã hội Antigua và Barbuda. Mặc dù người gốc Trung Đông đến từ nhiều quốc gia khác nhau, lớn nhất là nhóm người Syria. Người gốc châu Phi tới Antigua và Barbuda do sự cưỡng bức làm nô lệ, người gốc châu Phi bắt đầu đến Antigua và Barbuda với số lượng lớn trong năm 1670. Rất nhanh chóng, họ đã phát triển thành các nhóm chủng tộc/dân tộc lớn nhất Antigua và Barbuda. Trong thế kỷ 20, cơ cấu xã hội thuộc địa dần dần bắt đầu được loại bỏ với sự giới thiệu của giáo dục phổ cập và cơ hội kinh tế tốt hơn. Quá trình này cho phép người da đen tăng lên các cấp cao nhất của xã hội và thành lập chính phủ. Nhà thờ Thánh Saint John'sTrong thập kỷ 90 vừa qua, người nhập cư từ Cộng hòa Dominica, người nhập cư từ Guyana và Dominica nói tiếng Tây Ban Nha đã được thêm vào sự đa dạng dân tộc ở Antigua và Barbuda. Ngày nay, một tỷ lệ ngày càng lớn dân số Antigua và Barbuda định cư sống ở nước ngoài, đáng chú ý nhất là ở Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và Canada. Một số ít cư dân Antigua và Barbuda là những người nhập cư từ các nước khác, đặc biệt là từ Dominica, Guyana, Jamaica, và, ngày càng tăng, từ Cộng hòa Dominica, Saint Vincent và Grenadines và Nigeria. Một ước tính khoảng 4.500 công dân Mỹ cũng làm nhà của mình ở Antigua và Barbuda. Saint John's - là thành phố thủ đô của Antigua và Barbuda, nằm trên Antigua. Codrington - là một thành phố trên đảo Barbuda. Dickenson Bay English Harbour Falmouth Half Moon Bay Tất cả các công dân EU có thể nhập cảnh không cần thị thực. Công dân của các quốc gia sau đây cũng có thể nhập mà không cần thị thực: Albania, Argentina, Armenia, Úc, Azerbaijan, Bahamas, Barbados, Belarus, Belize, Botswana, Brazil, Brunei, Canada, Chile, Cuba, Eswatini, Dominica, gi, Georgia, Grenada, Guyana, Jamaica, Nhật Bản, Kazakhstan, Kenya, Kiribati, Kyrgyzstan, Lesotho, Liechtenstein, Malaysia, Malawi, Maldives, Mauritius, Mexico, Moldova, Monaco, Namibia, New Zealand, Nauru, Na Uy, Papua New Guinea, Peru, Nga, Saint Kitts và Nevis, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadines, Samoa, Seychelles, Singapore, Quần đảo Solomon, Nam Phi, Hàn Quốc, Suriname, Thụy Sĩ, Tajikistan, Tanzania, Tonga, Trinidad và Tobago, Tuvalu, Thổ Nhĩ Kỳ, Turkmenistan, Uganda, Ukraine, Hoa Kỳ, Uzbekistan, Vanuatu, Venezuela, Zimbabwe, và các công dân của vùng lãnh thổ hải ngoại của Anh. Nếu bạn cần một visa, bạn phải có hộ chiếu hợp lệ ít nhất 6 tháng sau khi thời gian của chuyến thăm, một hình thức ứng dụng hoàn tất, và 1 ảnh cỡ hộ chiếu. Một thị thực nhập cảnh đơn giá chi phí đầu vào 30GBP và nhiều 40GBP. Lưu ý rằng nếu bạn đang có một quốc tịch mà thường đòi hỏi phải có thị thực và bạn đang bước vào Antigua và Barbuda như một cảng cho một tàu du lịch, bạn không cần phải có thị thực cung cấp tàu sẽ rời ngày nó đến. 'Sân bay quốc tế V.C. Bird ', (IATA: ANU) (ICAO: TAPA) nằm ở phía bắc đông Antigua ở vùng ngoại ô St John, là sân bay quốc tế chính của nước này. Các sân bay phục vụ các chuyến bay vào Hoa Kỳ, Canada, Châu Âu và các đảo Caribbean khác. LIAT (Leeward Islands Air Transport Services), [2] trụ sở tại Antigua, có các chuyến bay tới các điểm đến khác nhau ở phía Đông Caribbean. Các hãng hàng không quốc tế sau đây phục vụ sân bay: Đi Mỹ: American Airlines / American Eagle (Miami và San Juan, Puerto Rico), Delta Airlines (Atlanta, GA và New York JFK), United Airlines (Newark, NJ), US Airways (Charlotte, NC) Đi Canada: Air Canada (Toronto, Ontario) Đi Châu Âu: British Airways (London-Gatwick), Condor (Frankfurt, Đức), Livingstone (Milan, Italy), Virgin Atlantic (London-Gatwick) Đi Caribê: American Airlines / American Eagle (San Juan, Puerto Rico), Caribbean Airlines (Barbados, Trinidad và Kingston, Jamaica)",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Neubrandenburg",
"role": "user"
},
{
"content": "Neubrandenburg thuộc quận Mecklenburg. Thông tin du lịch Neubrandenburg, Stargarder Str. 17, ☎ +49 395 19433. Neubrandenburg chỉ cách A 20, cách Berlin khoảng 180 km về phía bắc, cách Stralsund 100 km về phía nam. Nhà ga đường sắt nằm ở giao lộ của các tuyến Berlin – Stralsund and Lübeck – Stettin lines. Town wall. Bức tường thị trấn được bảo tồn hoàn toàn với bốn cổng thị trấn Brick Gothic có từ thế kỷ 14 và 15. Marienkirche (Nhà thờ thánh Mary). Gạch đỏ Bắc Đức thế kỷ 13. Regionalmuseum Neubrandenburg (Bảo tàng khu vực Neubrandenburg). Airport flight (Sân bay Neubrandenburg). Các chuyến bay ngắn quanh khu vực từ sân bay. Burgerkult, Turmstraße 14. Zur Lohmühle, Stargarder Tor 4, ☎ +49 395 5442843. Hotel Badehaus, Parkstraße 3, ☎ +49 395 5719240. Radisson Blu Hotel, Treptower Str. 1, ☎ +49 395 55860. Rostock Szczecin",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Trà Vinh",
"role": "user"
},
{
"content": "Trà Vinh [1] là tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Trà Vinh nằm ở phần cuối cù lao kẹp giữa sông Tiền và sông Hậu. Địa hình chủ yếu là những khu đất bằng phẳng với độ cao trên dưới 1m so với mặt biển. Trung tâm tỉnh lỵ là thành phố Trà Vinh, nằm trên Quốc lộ 53, cách Thành phố Hồ Chí Minh gần 200 km và cách thành phố Cần Thơ 100 km. Thành phố Trà Vinh có quyết định thành lập trên cơ sở thị xã Trà Vinh từ tháng 3 năm 2010. Thời nhà Nguyễn, Trà Vinh là tên 1 huyện (trước đó là phủ) thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long được lập ra năm 1832. Năm 1876, Pháp chia tỉnh Vĩnh Long cũ thành 3 tiểu khu (hạt tham biện): Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre. Trà Vinh được thành lập theo Nghị định ngày 20/12/1899 của Toàn quyền Đông Dương trên cơ sở đổi tên gọi tiểu khu hay hạt tham biện thành tỉnh, kể từ ngày 1/1/1900. Trà Vinh là 1 trong 20 tỉnh ở Nam Kỳ lúc bấy giờ. Dưới thời Pháp thuộc, Trà Vinh gồm 8 quận. Ngày 27/6/1951, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định nhập 2 Vĩnh Long và Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Trà. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã nhập tỉnh Tam Cần vào tỉnh Trà Vinh, lập ra tỉnh Vĩnh Bình theo Sắc lệnh 143-NV của Tổng thống vào ngày 22/10/1956. Tuy nhiên, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi này mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Trà Vinh. Tháng 2 năm 1976, Trà Vinh hợp nhất với Vĩnh Long thành tỉnh Cửu Long mãi cho đến ngày 26/12/1991 mới tách ra như cũ [2]. Nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Trà Vinh cũng có những thuận lợi chung như: có điều kiện ánh sáng bức xạ dồi dào, nhiệt độ cao và ổn định, Tuy nhiên, do đặc thù của vùng khí hậu ven biển tỉnh Trà Vinh có một số hạn chế về mặt khí tượng như gió chướng mạnh, bốc hơi cao, mưa ít. Trà Vinh nằm trong vùng nhiệt đới có khí hậu ôn hòa, nhiệt độ trung bình từ 26 - 27OC, độ ẩm trung bình 80 - 85%/năm, ít bị ảnh hưởng bởi bão, lũ. mùa mưa từ tháng 5 - tháng 11, mùa khô từ tháng 12 - tháng 4 năm sau, lượng mưa trung bình từ 1.400 - 1.600 mm có điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư sản xuất, kinh doanh và du lịch. Hàng năm Hạn hán thường xảy ra gây khó khăn cho sản xuất với số ngày không mưa liên tục từ 10 đến 18 ngày, trong đó các huyện như Cầu Kè, Càng Long, Trà Cú là các huyện ít bị hạn. Huyện Tiểu Cần hạn đầu vụ khoảng tháng 6 và tháng 7 là quan trọng trong khi các huyện còn lại như Châu Thành, Cầu Ngang, Duyên Hải hạn giữa vụ nhưng tháng 7 và 8 thường nghiêm trọng hơn. Bằng xe máy hoặc ôtô riêng Trà Vinh cách Thành phố Hồ Chí Minh 200 km. Có hai hướng di chuyển từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Trà Vinh là theo quốc lộ 53 hay cao tốc Trung Lương (đường rộng hơn, ngắn hơn so với QL53 khoảng vài chục km). Lưu ý: Nếu phượt bằng xe máy thì chú ý mang theo đầy đủ giấy tờ xe, bằng lái, bảo hiểm xe. Người ngồi trên xe phải đội mũ bảo hiểm. Nên tuân thủ tốc độ quy định. Bằng xe khách Tại Thành phố Hồ Chí Minh, bạn có thể mua vé xe đi Trà Vinh tại bến xe miền Tây hay liên hệ đặt vé ở các hãng xe uy tín như Mai Linh, Tân Cường, Thanh Thúy... Nội dung được tham khảo từ: Kinh nghiệm du lịch Trà Vinh Có ba phương án qua đêm ở Trà Vinh là cắm trại, ngủ nhờ nhà dân và thuê phòng ở khách sạn. Mỗi phương án đều có ưu, khuyết điểm riêng, vì thế tùy vào sở thích, độ tuổi, túi tiền của đoàn mà lên kế hoạch. Các tuyến đường trung tâm của thành phố Sóc Trăng là Điện Biên Phủ, Hùng Vương, Phạm Thái Bường, Lê Lợi, Lê Thánh Tôn. Dưới đây là địa chỉ một số khách sạn, nhà nghỉ đáng tin cậy Khách sạn Cửu Long (Trà Vinh, Trà Vinh) Địa chỉ: 999 Nguyễn Thị Minh Khai, P.7, Trà Vinh, Trà Vinh ĐT cố định: (074) 3 866 867 Khách sạn Duy Phương (Trà Vinh, Trà Vinh) Địa chỉ: Khóm 5 P.8, Trà Vinh, Trà Vinh ĐT cố định: (074) 3.848.171 Khách sạn Gia Hòa 1 (Trà Vinh, Trà Vinh) Địa chỉ: 75 Nguyễn Thị Minh Khai, P.7, Trà Vinh, Trà Vinh ĐT cố định: (074) 38.696.66 Khách sạn Hoa Anh Đào (Trà Vinh, Trà Vinh) Địa chỉ: Khóm 4 Phạm Ngũ Lão, P.1, Trà Vinh, Trà Vinh ĐT cố định: (074) 3.846.286 Nhà Nghỉ Bến Có (Châu Thành, Trà Vinh) Địa chỉ: Ấp Bến Có, X.Nguyệt Hóa, Châu Thành, Trà Vinh ĐT cố định: (074)3842729 Nhà nghỉ hoa phượng (Duyên Hải, Trà Vinh) Địa chỉ: khóm 1, TT Duyên Hải, Duyên Hải, Trà Vinh ĐT cố định: (074) 3833338. ĐTDD: 0982400030 Trích từ: Kinh Nghiệm du lịch Trà Vinh",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bangladesh",
"role": "user"
},
{
"content": "Bangladesh là một quốc gia thuộc vùng Nam Á giáp với Ấn Độ và Miến Điện. Bangladesh (phiên âm Tiếng Việt: Băng-la-đét, Hán Việt: Mạnh Gia Lạp), tên chính thức: Cộng hoà Nhân dân Bangladesh, là một quốc gia ở vùng Nam Á. Địa giới Bangladesh giáp Ấn Độ ở phía tây, bắc, và đông nên gần như bị bao vây trừ một đoạn biên giới giáp với Myanma ở phía cực đông nam và Vịnh Bengal ở phía nam. Cùng với tiểu bang Tây Bengal của Ấn Độ, quốc gia này là một thành phần của khu vực chung của dân tộc-ngôn ngữ Bengal. Địa danh Bangladesh có nghĩa \"Đất nước Bengal\" và được viết thành বাংলাদেশ và đánh vần là ['baŋlad̪eʃ] trong tiếng Bengali chính thức. Biên giới của Bangladesh được xác định theo sự Phân chia Ấn Độ năm 1947, khi nó trở thành nửa phía đông của Pakistan (Đông Pakistan), chia cách 1.600 km (1.000 dặm) với nửa phía tây. Dù cùng có tôn giáo chính là Hồi giáo, sự ngăn cách về ngôn ngữ và dân tộc giữa phía đông và phía tây cộng với một chính phủ chủ yếu của Tây Pakistan, khiến nước này tuyên bố độc lập dưới sự lãnh đạo của Sheikh Mujibur Rahman năm 1971 sau một cuộc Chiến tranh giải phóng Bangladesh đẫm máu, với sự trợ giúp của Ấn Độ. Những năm sau độc lập là giai đoạn bất ổn chính trị của đất nước, với mười ba chính phủ và ít nhất bốn cuộc đảo chính quân sự. Dân số Bangladesh xếp hạng thứ bảy trên thế giới, nhưng với diện tích chỉ gần 144.000 km2 nó đứng hàng thứ 94, biến nước này trở thành một trong những nước có mật độ dân số cao nhất thế giới. Đây là quốc gia có cộng đồng Hồi giáo lớn thứ ba thế giới, nhưng số tín đồ Hồi giáo vẫn hơi ít hơn so với số tín đồ Hồi giáo tại Ấn Độ (dù Hồi giáo chỉ là tôn giáo phụ tại Ấn Độ). Về mặt địa lý, nước này chủ yếu gồm Đồng bằng sông Hằng-Brahmaputra, nước này cũng có những trận lụt theo gió mùa hàng năm, và thường có lốc xoáy. Bangladesh là một thành viên sáng lập Hiệp hội Nam Á vì sự Hợp tác Khu vực (SAARC), BIMSTEC, và là một thành viên của Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC) và D-8. Những tàn tích của nền văn minh tại vùng đại Bengal có niên đại từ 4.000 năm trước, khi vùng này là nơi sinh sống của người Dravida, Tạng-Miến và Nam Á. Nguồn gốc chính xác của từ Bangla hay Bengal hiện vẫn chưa được biết, dù mọi người tin rằng nó xuất phát từ bộ lạc Bang nói tiếng Dravida đã từng sống ở vùng này khoảng năm 1000 TCN. Sau khi người Ấn-Arya tới đây, vương quốc Gangaridai được thành lập từ ít nhất thế kỷ thứ 7 TCN, sau này vương quốc này thống nhất với Bihar thuộc Đế chế Magadha. Ở thời triều đại Maurya được Chandragupta Maurya thành lập, Đế chế Magadha trải dài hầu như một nửa tiểu lục địa Ấn Độ và nhiều phần của Ba Tư cũng như Afghanistan. Bengal sau này trở thành một phần của đế chế Gupta từ thế kỷ 3 tới thế kỷ 6. Sau khi đế chế này sụp đổ, một triều đại Bengal khá rực rỡ tên gọi Shashanka được thành lập nhưng không tồn tại lâu. Sau giai đoạn quân chủ, triều đại Pala Phật giáo cai trị vùng này trong hơn 400 năm, tiếp sau là một giai đoạn cầm quyền ngắn của triều đại Sena Hindu. Đạo Hồi bắt đầu du nhập vào Bengal ở thế kỷ 12 nhờ các nhà truyền giáo Sufi và những cuộc chinh phục sau này của Hồi giáo giúp tôn giáo này phát triển ra toàn vùng. Bakhtiyar Khalji, một vị tướng người Thổ Nhĩ Kỳ, đánh bại Lakshman Sen của triều đình Sena và chinh phục nhiều vùng rộng lớn tại Bengal. Vùng này nằm dưới sự cai trị của nhiều triều đại Hồi giáo và các vị lãnh chúa phong kiến trong 500 năm sau đó. Tới thế kỷ 16, đế chế Mughal kiểm soát Bengal, và Dhaka trở thành một trung tâm tỉnh lỵ quan trọng của chính quyền Mughal. Những thương nhân châu Âu tới đây từ cuối thế kỷ 15, và ảnh hưởng của họ dần tăng lên tới khi Công ty Đông Ấn của Anh giành quyền kiểm soát Bengal sau trận Plassey năm 1757[6]. Cuộc nổi dậy đẫm máu năm 1857, được gọi là cuộc binh biến Sepoy, dẫn tới việc quyền lực được giao cho hoàng gia Anh, với một vị phó vương người Anh quản lý bộ máy hành chính. Trong thời thuộc địa, nạn đói nhiều lần xảy ra trên tiểu lục địa Ấn Độ, gồm cả nạn đói Bengal năm 1770 khiến 3 triệu người chết. Trong giai đoạn từ 1905 đến 1911, một nỗ lực phân chia tỉnh Bengal thành hai vùng, với Dhaka là thủ phủ vùng phía đông đã sớm thất bại. Khi Ấn Độ bị chia sẻ năm 1947, Bengal được chia theo vùng tôn giáo, với vùng phía tây thuộc Ấn Độ và vùng phía đông trở thành lãnh thổ Pakistan với tên gọi là tỉnh Đông Bengal (sau này được đổi tên thành Đông Pakistan), với thủ phủ tại Dhaka[8]. Năm 1950, cuộc cải cách ruộng đất hoàn thành ở Đông Bengal với việc bãi bỏ hệ thống phong kiến Zamindar. Tuy nhiên bất chấp sức mạnh kinh tế và nhân khẩu của phía đông, chính phủ Pakistan và quân đội vẫn bị thống trị bởi tầng lớp thượng lưu phía tây. Phong trào ngôn ngữ năm 1952 là dấu hiệu đầu tiên về sự xích mích giữa hai vùng của Pakistan. Sự bất mãn với chính phủ trung ương về các vấn đề văn hóa và kinh tế tiếp tục tăng lên trong thập kỷ tiếp theo, trong thời gian ấy Liên đoàn Awami nổi lên trở thành tiếng nói chính trị của dân cư nói tiếng Bengal. Liên đoàn đã kêu gọi quyền tự trị trong thập niên 1960, và 1966, chủ tịch phong trào Sheikh Mujibur Rahman bị tống giam; ông được thả năm 1969 sau một vụ nổi dậy chưa từng thấy của người dân. Bangladesh - có thể hiện hệ thống đường bộ và đường sắtNăm 1970, một cơn lốc đã tàn phá vùng bờ biển Đông Pakistan, chính phủ trung ương phản ứng chậm chạp. Sự tức giận của người dân Bengal càng gia tăng khi Sheikh Mujibur Rahman cùng với Liên đoàn Awami của mình giành đa số tại Nghị viện trong cuộc bầu cử năm 1970, bị ngăn cản nhậm chức. Sau những cuộc đàm phán thất bại với Mujib, Tổng thống Yahya Khan đã bắt ông trong đêm ngày 25 tháng 3 năm 1971, và tiến hành Chiến dịch Đèn pha[9], một cuộc tấn công nhằm duy trì quyền kiểm soát quân sự với phía Đông Pakistan. Những biện pháp của Yahya gây đổ máu rất lớn, và bạo lực của cuộc chiến dẫn tới cái chết của nhiều dân thường. Các mục tiêu chủ yếu là tầng lớp trí thức và những người theo đạo Hindu, với khoảng 10 triệu người tị nạn phải bỏ chạy sang quốc gia láng giềng là Ấn Độ. Những con số ước tính về số người bị thảm sát lên tới từ hàng trăm nghìn tới 3 triệu người[12][13]. Đa số lãnh đạo Liên đoàn Awami phải bỏ trốn và lập ra một chính phủ hải ngoại tại Calcutta, Ấn Độ. Chiến tranh giải phóng Bangladesh kéo dài 9 tháng. Du kích Mukti Bahini và quân chính quy Bengal nhận được sự hỗ trợ từ phía Các lực lượng vũ trang Ấn Độ tháng 12, 1971. Dưới sự chỉ huy của Trung tướng J.S. Arora, quân đội Ấn Độ đã giành được thắng lợi quyết định trước Pakistan ngày 16 tháng 12 năm 1971, bắt 90.000 tù binh trong cuộc chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm 1971. Sau khi giành được độc lập, Bangladesh trở thành một nhà nước dân chủ nghị viện, Mujib làm Thủ tướng. Trong cuộc bầu cử nghị viện năm 1973, Liên đoàn Awami giành được đa số tuyệt đối. Một nạn đói toàn quốc diễn ra trong năm 1973 và 1974[7] và đầu năm 1975, Mujib đưa ra sáng kiến một đảng xã hội chủ nghĩa cầm quyền với tổ chức BAKSAL mới được thành lập của ông. Ngày 15 tháng 8 năm 1975, Mujib và gia đình bị các sĩ quan trung cấp ám sát[15]. Một loạt các cuộc đảo chính và phản đảo chính đẫm máu diễn ra trong ba tháng tiếp theo, lên tới cực điểm khi tướng Ziaur Rahman, người tái lập chế độc chính trị đa đảng và đồng thời là người thành lập đảng Quốc gia Bangladesh (BNP), lên nắm quyền. Thời kỳ cầm quyền của Zia kết thúc khi ông bị ám sát năm 1981 bởi những sĩ quan không quân trong quân đội[15]. Người cầm quyền chủ yếu tiếp sau của Bangladesh là tướng Hossain Mohammad Ershad, người giành được quyền lực sau một cuộc đảo chính đẫm máu năm 1982 và tại vị đến năm 1990, khi ông bị gạt ra rìa sau một cuộc nổi dậy của dân chúng. Từ đó, Bangladesh chuyển thành một chế độ dân chủ nghị viện. Vợ góa của Zia, Khaleda Zia, lãnh đạo BNP giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 1991 và 2001 và trở thành Thủ tướng từ năm 1991 tới 1996 và một lần nữa từ năm 2001 tới hiện tại. Sheikh Hasina, một trong những người con gái còn sống của Mujib và là lãnh đạo Liên đoàn Awami, nắm quyền từ năm 1996 đến 2001. Dù Bangladesh nằm dưới sự lãnh đạo của hai nhà nữ chính trị khác nhau nhưng nước này vẫn ở tình trạng tham nhũng tràn lan, hỗn loạn và bạo lực chính trị. Bangladesh nằm ở vùng thấp của đồng bằng sông Hằng-Brahmaputra hay Đồng bằng sông Hằng. Đồng bằng này được hình thành nhờ hợp lưu sông Hằng (tên địa phương Padma hay Pôdda), Sông Brahmaputra (Sông Jamuna jau Jomuna), và Sông Meghna tại các nhánh của chúng. Đất phủ sa lắng đọng do các con sông trên mang lại đã tạo nên một trong những đồng bằng màu mỡ nhất thế giới. Đa phần Bangladesh nằm thấp 10 mét dưới mực nước biển, và mọi người cho rằng 10% đất đai sẽ bị ngập chìm nếu mực nước biển dâng thêm 1 mét. Điểm cao nhất Bangladesh nằm tại dãy Mowdok ở độ cao 1.052 m (3.451 ft) tại vùng đồi Chittagong phía đông nam đất nước. Một phần chính vùng duyên hải có các rừng nhiệt đới nhiều đầm lầy. Sundarbans, một trong những khu rừng tràm đước lớn nhất thế giới là nơi sinh sống của nhiều hệ động thực vật, gồm cả hổ Bengal. Năm 1997, vùng này được xếp vào danh sách các khu vực đang nguy cấp]. Dọc theo Hạ chí tuyến, khí hậu Bangladesh là khí hậu nhiệt đới với mùa đông dễ chịu từ tháng 10 tới tháng 3, mùa hè nóng ẩm từ tháng 3 tới tháng 6. Mùa gió mùa ấm và ẩm kéo dài từ tháng 6 tới tháng 10 mang tới đa phần lượng mưa của nước này. Các thảm họa thiên nhiên, như lũ lụt, lốc nhiệt đới, lốc xoáy, và lở đất do thủy triều xảy ra hầu như hàng năm cộng với những hậu quả của nạn phá rừng, thoái hóa đất và xói lở. Cox's Bazar, phía nam thành phố Chittagong, có một bãi biển trải dài liên tục hơn 120 kilômét (75 dặm); đây là một trong những bãi biển tự nhiên còn ở tình trạng hoang sơ dài nhất thế giới. Bangladesh là một nước dân chủ nghị viện. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, một chức vụ có tính nghi lễ. Quyền lực thực sự do thủ tướng, là lãnh đạo chính phủ nắm giữ. Tổng thống được cơ quan lập pháp bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm và thông thường có các quyền lực hạn chế chỉ được tăng quyền trong thời kỳ có chính phủ lâm thời, đa phần để kiểm soát sự chuyển tiếp sang một chính phủ mới. Bangladesh đã thiết lập một hệ thống chuyển giao quyền lực duy nhất; vào thời điểm hết nhiệm kỳ chính phủ, quyền lực được trao lại cho các thành viên của một chính phủ lâm thời trong 3 tháng, tổ chức này sẽ tổ chức tổng tuyển cử và chuyển giao lại quyền lực cho những đại diện được bầu ra. Hệ thống này lần đầu được áp dụng năm 1991 và được đưa vào thành quy định trong hiến pháp năm 1996, là lần sửa đổi thứ 13 của hiến pháp. Dhaka - thủ đô với 12 triệu dân. Chittagong - trung tâm thương mại tấp nập và có cảng biển quốc tế lớn nhất quốc gia này Mymensingh - thành phố lịch sử nằm bên cạnh sông Brahmaputa, đa dạng về văn hóa và lịch sử chính trị có hơn 200 năm tuổi Khulna - nằm cạnh sông Rupsha, nổi tiếng với các đầm tôm Rajshahi - thành phố tơ lụa Rangpur - thành phố quan trọng nằm ở tây bắc với nông nghiệp và thương mại Barisal - Thành phố phía nam nổi tiếng với các ruộng lúa và nhiều sông Sylhet - thành phố lớn nhất đông bắc Jessore Cox Bazar - khu nghỉ mát và bãi biển hàng đầu của đất nước, có nhiều người nghỉ náo nhiệt Bangladesh. Bagerhat - một trung tâm lịch sử quan trọng và địa điểm của một số nhà thờ Hồi giáo trong đó có Shait nổi tiếng Gumbad Masjid. Bogra - một trong những thị trấn lâu đời nhất ở miền bắc Bangladesh. Char Atra - một hòn đảo nằm thấp nằm trong sông Hằng. Paharpur - tàn tích của một tu viện Phật giáo cổ đại. Rangamati - Để có những trải nghiệm đầy màu sắc bộ lạc của Bangladesh. Đảo Saint Martins - chỉ hòn đảo san hô của đất nước với người dân địa phương thân thiện, một sự rung cảm lại bị sa thải và dừa để phụ tùng. Sundarbans - rừng ngập mặn lớn nhất thế giới, với rất nhiều loài chim và một số rất khó nắm bắt con hổ Bengal. Các công dân của các nước sau đây không cần thị thực cho thời gian lưu trú trong vòng 90 ngày: Antigua và Barbuda, Bahamas, Bhutan, Dominica, Fiji, Gambia, Grenada, Guinea-Bissau, Jamaica, Guyana, Honduras, Lesotho, Malawi, Maldives, Montserrat, Papua New Guinea, Saint Kitts and Nevis, Saint Lucia, Saint Vincent and the Grenadines, Seychelles,, Quần đảo Solomon, Uruguay, Thành phố Vatican và Zambia. Công dân Úc, theo để các cơ sở dữ liệu visa hiện tại có thể trả tiền 50 USD cho một thị thực 90 ngày trên khi đến. Hành khách quá cảnh tiếp tục cuộc hành trình của họ trên các máy bay kết nối đầu tiên cũng không yêu cầu thị thực, miền là họ có tài liệu chứng minh đi hoặc về hợp lệ và không rời sân bay. Đôi khi, khách du lịch và khách du lịch kinh doanh đến tại các sân bay trong Dhaka và Chittagong có thể được cấp 'giấy phép hạ cánh' bởi các chức Giám đốc Bộ xuất nhập cảnh đối với đợt nghỉ của lên đến 15 ngày, kể, như lâu như mà họ nắm giữ vé máy khứ hồi. Mặc dù phương pháp này là khá chính thống, và không có sẵn cho các du khách trung bình. Công dân của tất cả các các quốc gia khác cần một thị thực để nhập Bangladesh. Bạn nên xin visa ở đất nước của bạn, nhưng nó cũng có thể để xử lý một thị thực tại đại sứ quán và cơ quan lãnh sự trong các nước láng giềng. Thị thực là có sẵn trên khi đến chỉ nếu với trường hợp không có cơ quan ngoại giao Bangladesh trong vòng đất nước của bạn, hoặc nếu bạn là một 'nhà đầu tư đặc quyền đặc lợi' mời bởi một cơ thể thương mại xuất khẩu Bangladesh. Được sẵn sàng để hiển thị lời mời chỉ ra thủ tục giấy tờ từ các tổ chức chính phủ cho biết. Cửa ngõ hàng không chính của đất nước là sân bay quốc tế Shahjalal ở Dhaka, (IATA: DAC, ICAO: VGZR) (Bengali: শাহজালাল আন্তর্জাতিক বিমানবন্দর) mặc dù cũng có những giới hạn các chuyến bay quốc tế từ các trung tâm khu vực Chittagong và Sylhet. Hãng hàng không quốc gia của Bangladesh là Biman Bangladesh Airlines [1], mặc dù các hãng hàng không có một danh tiếng ít hơn sao cho đúng giờ, sạch sẽ, an toàn và duy trì các tuyến đường. Nó gần đây đã trải qua một cải tổ lớn để bù đắp thiệt hại tài chính và nhiều đường bay đã được hủy bỏ. Xem Wikipedia cho một danh sách khá cập nhật. Hãng tư nhân United Airways [2] đã đưa ra những lợi thế của dịch vụ kém Biman và đã mở rộng để phục vụ cho nhiều trung tâm lớn trên toàn châu Á. Có kết nối tốt đến Dhaka từ Trung Đông với Qatar Airways [3], Emirates [4] và Etihad Airways [http:/ / www.etihadairways.com/] mà qua đó nó có thể kết nối với các thủ đô châu Á và hầu hết châu Âu và một số trung tâm Bắc Mỹ. Hồng Kông, Bangkok, Kuala Lumpur và Singapore là trung tâm Châu Á lớn khác có các chuyến bay đến đất nước và xa hơn nữa. Một con đường phổ biến của việc đến Bangladesh là thông qua các hãng hàng không Ấn Độ, trong đó có Air India [5] hoạt động một chuyến bay thẳng giữa London và Dhaka. Mặc dù hãng hàng không này thường cản với quản lý yếu kém và hủy chuyến. Các địa điểm như khu vực gần đó Kathmandu trong Nepal, Paro trong Bhutan, Côn Minh trong Trung Quốc và tất cả các thành phố của Ấn Độ có thể dễ dàng đến Dhaka ở dưới ba giờ và được phục vụ bởi một số lượng lớn các hãng hàng không tư nhân. Ngôn ngữ chính, tại Tây Bengal, là tiếng Bengal, một ngôn ngữ Ấn-Arya có nguồn gốc tiếng Phạn và có bảng ký tự riêng. Bangla là ngôn ngữ chính thức của Bangladesh. Tiếng Anh được sử dụng như ngôn ngữ thứ hai trong tầng lớp trung và thượng lưu và trong giáo dục cao học. Từ Nghị định Tổng thống năm 1987, tiếng Bangla được dùng trong mọi văn bản nhà nước trừ đối ngoại.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Nguyễn Tấn Dũng",
"role": "user"
},
{
"content": "Nguyễn Tấn Dũng (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1949 tại Cà Mau, Việt Nam) là nguyên thủ tướng của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời là trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và từ năm 1997, cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam các khóa X, XI, XII, XIII thuộc đơn vị bầu cử khu vực 3 Thành phố Hải Phòng (huyện Tiên Lãng), trưởng ban Ban Chỉ đạo thi hành án phần tài sản vụ án EPCO - Minh Phụng từ năm 2002. Ông là nhà lãnh đạo cấp cao đầu tiên của Việt Nam thuộc thế hệ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 và cũng là Thủ tướng trẻ nhất khi nhậm chức (57 tuổi). Tôi kiên quyết và quyết liệt chống tham nhũng. Nếu tôi không chống được tham nhũng, tôi xin từ chức ngay. Trong lễ nhậm chức thủ tướng. Tôi nhớ đồng chí Phạm Văn Đồng, có lẽ làm thủ tướng lâu nhất, có lần nói chưa xử lý kỷ luật một đồng chí nào. Hơn ba năm nay tôi làm thủ tướng cũng chưa xử lý kỷ luật một đồng chí nào, chắc là cũng phải học theo đồng chí Phạm Văn Đồng. Tôi trình bày chất vấn tại kỳ họp sáu là như vậy, nhưng có lẽ diễn đạt chưa đầy đủ. Khi phát hiện sai phạm thì lãnh đạo phải có kiểm tra. Không có kiểm tra không có quản lý. Mà khi phát hiện sai phạm thì phải xử lý. Nhưng không thể xử lý theo ý muốn cá nhân được mà phải theo quy định của pháp luật, của Đảng, có lý có tình và đúng bản chất sự việc. [...] Xin trình bày là không thể, với một vụ việc mà mới nghe một thông tin mà Thủ tướng đã ra quyết định kỷ luật được. Luật không cho phép làm như thế. Trong phần trả lời chất vấn đại biểu tỉnh Tây Ninh Nguyễn Thị Bạch Mai tại Quốc hội vào ngày 24 tháng 11 năm 2010. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ rộng rãi, nhất là dân chủ trực tiếp, xây dựng xã hội đồng thuận, cởi mở. Tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường. Là người đứng đầu, tôi xin nhận trách nhiệm về Vinashin! \"Thủ tướng nhận trách nhiệm cá nhân về Vinashin\", VietNamNet, ngày 24 tháng 11 năm 2010. Tôi nhận trách nhiệm chính trị với tư cách người đứng đầu Chính phủ, chứ tôi cũng không ra quyết định nào sai. Trả lời về trách nhiệm với vụ Vinashin, \"Thủ tướng Dũng 'không sai' về Vinashin\", BBC tiếng Việt, ngày 8 tháng 12 năm 2011. Nguyên nhân chính là tiêm chủng thì vừa qua có khuyết điểm tuyên truyền chưa tốt. Không trách dân được, mà phải thấy khuyết điểm của chúng ta. Làm việc với Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến, ngày 23 tháng 4 năm 2014, \"Thủ tướng Chính phủ: “Bùng phát dịch sởi có khuyết điểm của chúng ta”\" của Nghĩa Nhân, Báo điện tử Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 4/ năm 2014. Chúng tôi luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó. Có lẽ như tất cả các nước, Việt Nam chúng tôi đang cân nhắc các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp lý, theo luật pháp quốc tế. Trả lời phỏng vấn ngày 21 tháng 5, tại Philippines về căng thẳng với Trung Quốc, \"Thủ tướng: Không đánh đổi độc lập, chủ quyền lấy hòa bình, hữu nghị viển vông\", VOV, ngày 22 tháng 5 năm 2014. Thủ tướng và Chính phủ sẽ tập trung sức đẩy mạnh cải cách toàn diện nền hành chính quốc gia theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền và thực hiện dân chủ; xây dựng hệ thống hành chính, trước hết là Chính phủ, trong sạch vững mạnh, sâu sát và gắn bó với dân, hết lòng phục vụ nhân dân Phát biểu trong lễ nhậm chức ngày 27 tháng 6 năm 2006, \"10 phát ngôn ấn tượng của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng\", Nguyentandung.org, ngày 4 tháng 4 năm 2016. Năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII (25 tháng 11 năm 2011). Không bao giờ quên cuộc chiến biên giới 1979. Hội nghị bàn về quy chế phối hợp giữa Mặt trận tổ quốc và Chính phủ (19 tháng 2 năm 2014). Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó. Trả lời phỏng vấn Hãng thông tấn AP và Reuters về tình hình Biển Đông cũng như các biện pháp giải quyết của Việt Nam trong chuyến thăm Philippines vào cuối tháng 5/2014. Nguyễn Thiện Nhân Wikipedia có bài viết về: Nguyễn Tấn Dũng Tiểu sử Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng 10 phát ngôn ấn tượng của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Sa Đéc",
"role": "user"
},
{
"content": "Sa Đéc là một thành phố, phía nam tỉnh Đồng Tháp, nơi đây nổi tiếng với làng hoa Sa Đéc và nhà người tình Huỳnh Thủy Lê. Thành phố Sa Đéc là một thành phố trực thuộc tỉnh của tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam, là trung tâm kinh tế, tài chính, giáo dục và văn hóa của tỉnh. Sa Đéc được Chính phủ Việt Nam công nhận là thành phố trực thuộc tỉnh Đồng Tháp vào ngày 14 tháng 10 năm 2013 theo Nghị quyết số 113/NQ-CP. Thành phố Sa Đéc được công nhận là đô thị loại II ngày 10/2/2018. Sa Đéc lại từng là tỉnh lỵ của tỉnh Sa Đéc cũ vào thời Pháp thuộc trước năm 1956 và trong giai đoạn 1966-1975 dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Đặc biệt, thị xã Sa Đéc cũ lại giữ vai trò là tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Tháp trong suốt giai đoạn 1976-1994, và sau đó theo Nghị định số 36-CP ban hành ngày 29 tháng 4 năm 1994, tỉnh lỵ tỉnh Đồng Tháp lại dời về thị xã Cao Lãnh (ngày nay là thành phố Cao Lãnh) cho đến nay. Hướng dẫn đi đến Sa Đéc tại Thành phố Hồ Chí Minh: Xe Phương Trang. Tp.Hồ Chí Minh – Sa Đéc; Tp.Hồ Chí Minh – Cao Lãnh. Điện thoại: (08)3837.5570, (08)3830.9309. Xe Mai Linh. Tp.Hồ Chí Minh – Cao Lãnh. Điện thoại: (08)3939.3939. Xe Quốc Hoàng. Điện thoại: (08)3955.1472. Xe Phú Vĩnh Long: Tp.Hồ Chí Minh – Sa Đéc; Tp.Hồ Chí Minh – Cao Lãnh. Điện thoại tại Tp.Hồ Chí Minh: (08)3866.0378, (08)3866.0789, (08)3868.6035, (08)3868.6036. Làng hoa kiểng Sa Đéc, một trong những trung tâm hoa kiểng của miền Nam. Rộng khoảng 60ha với 600 hộ dân và 3.600 lao động chuyên trồng hoa và cây cảnh. Du khách có thể thấy, ở đây các loại cây kiểng quí hiếm, tuổi thọ hàng trăm năm. Có những loại cây rất bình dị gần gũi với đời sống người lao động như: khế, cau, bùm sụm, sung, si, mai... qua bàn tay khéo léo, cần mẫn, tài hoa, với tâm hồn nghệ sĩ của các nghệ nhân đã trở thành những cây kiểng quí, có hình dáng đẹp, lạ. Cat Moc Hotel: 82A Đường Tôn Đức Thắng, Phường An Hoà, Sa Đéc. Điện thoại: 02773863555. Khách sạn Sa Đéc: 499 Đại lộ Hùng Vương, Phường 1, Sa Đéc. Điện thoại: 02773861430. Khách sạn Phương Nam: 384 Đường Nguyễn Sinh Sắc, Phường 1, Sa Đéc. Điện thoại: 02773867867 Khách sạn Bông Hồng: 251 Đường Nguyễn Sinh Sắc, Phường 1, Sa Đéc. Điện thoại: 02773868288",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Sổ tay tiếng Nga",
"role": "user"
},
{
"content": "Tiếng Nga (русский язык; phát âm theo kí hiệu IPA là /ruskjə: jɪ'zɨk/) là ngôn ngữ được nói nhiều nhất của những ngôn ngữ Slav. Đây là ngôn ngữ chính thức của Nga. Tiếng Nga có 300 triệu người nói trên toàn thế giới. Hầu hết mọi người sống ở Nga sử dụng tiếng Nga làm ngôn ngữ thứ nhất, và nhiều người khác ở Trung Á, vùng Kavkaz, và Đông Âu biết tiếng Nga như một ngôn ngữ thứ hai. Tiếng Nga giữ địa vị chính thức tại Liên bang Nga, Belarus, Kazakhstan và Kyrgyzstan, cũng như các quốc gia không được công nhận Abkhazia, Nam Ossetia, và Transnistria. Ở các nước tiếng Nga thiếu địa vị được xác định chính thức, như Ukraina và các nước vùng Baltic (nơi học tiếng Nga là bắt buộc theo chế độ Liên Xô), một đa số vững chắc của người dân có thể nói nó như một ngôn ngữ thứ hai, ngoài việc có thiểu số người bản xứ đáng kể. Tiếng Nga cũng vẫn là ngôn ngữ chung của sự lựa chọn trong suốt phần còn lại của các nước thành viên Liên Xô cũ Trung Á và Kavkaz, nơi mà trên thực tế tiếng Nga là ngôn ngữ của thương mại điện tử, chính phủ, và du lịch (mặc dù thiếu tình trạng chính thức). Ở một mức độ thấp hơn, tiếng Nga một ngôn ngữ quan trọng trong Mông Cổ, nơi mà nó là một ngôn ngữ thứ hai bắt buộc trong trường học, và là tiếng nước ngoài sử dụng rộng rãi nhất, và có dấu hiệu vẫn còn trong Cyrillic. Đáng ngạc nhiên, tiếng Nga cũng đã trở thành ngôn ngữ sử dụng rộng rãi nhất thứ ba tại Israel, do một cuộc di cư lớn của người Do Thái từ Đông Âu trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 cuối. Tiếng Nga vẫn có lẽ là ngôn ngữ du lịch quan trọng nhất Á-Âu vì tiếng Anh là rất hiếm khi nói chuyện trong các nước nói tiếng Nga. Tiếng Nga thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, nghĩa là nó liên quan với tiếng Phạn, tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh, với những ngôn ngữ trong nhóm Giécman, nhóm gốc Celt và nhóm Rôman, kể cả tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Gaeilge (tiếng Ái Nhĩ Lan). Mẫu chữ viết của tiếng Nga có từ thế kỷ 10 đến nay. Dù cho nó vẫn còn giữ nhiều cấu trúc biến tố tổng hợp cổ và gốc từ một tiếng Slav chung, tiếng Nga hiện đại cũng có nhiều phần của từ vựng quốc tế về chính trị, khoa học, và kỹ thuật. Tiếng Nga là một trong những ngôn ngữ chính của Liên Hiệp Quốc và là một ngôn ngữ quan trọng trong thế kỷ 20. Xin chào. Здравствуйте. (ZDRAHST-vooy-tyeh) Xin chào. (thân mật) Привет. (pree-VYEHT), Здорово. (Zduh-ROH-vuh) Bạn khỏe không? Как дела? (kahg dee-LAH?) Khỏe, cảm ơn. Хорошо, спасибо. (khah-rah-SHOH spah-SEE-buh) Bạn tên gì? Как Вас зовут? (kahk vahs zah-VOOT?) Tên tôi là ______ . Меня зовут ______ . (mee-NYAH zah-VOOT ___) Vui lòng được gặp bạn. Очень приятно. (OH-cheen' pree-YAHT-nuh) Làm ơn/xin vui lòng. Пожалуйста. (pa dao nui ta) Cảm ơn. Спасибо. (s ba s bo) Không có gì/chi. Не за что. (NYEH-zuh-sshtoh) (Literally \"It's nothing\", can use \"Пожалуйста\" again) Vâng/đúng. Да. (dah) Không/không phải. Нет. (nyeht) Xin lỗi (thu hút chú ý) Извините. (eez-vee-NEET-yeh) Xin lỗi (xin thứ lỗi) Простите. (prah-STEET-yeh) Tôi xin lỗi. Простите. (prah-STEET-yeh) Tạm biệt До свидания. (duh svee-DAH-nyah.) Tạm biệt (thân mật) Пока. (pah-KAH) Tôi không thể nói tiếng Nga [tốt]. Я не говорю по-русски (хорошо). (yah nee guh-vah-RYOO pah ROO-skee [khah-rah-SHOH]) Bạn nói được tiếng Anh không? Вы говорите по-английски? (vyh guh-vah-REE-tyeh pah ahn-GLEES-kee?) Có ai ở đây nói được tiếng Anh không? Кто-нибудь здесь говорит по-английски? (KTOH-nee-bood' zdyehs guh-vah-REET pah an-GLEES-kee?) Giúp tôi với! Помогите! (puh-mah-GEE-tyeh!) Coi chừng! Осторожно!! (uhs-tah-ROH-zhnuh!) Chào (buổi sáng). Доброе утро. (DOH-bruh-yeh OO-truh) Xin chào (buổi tối) (to sleep) Chúc ngủ ngon/tạm biệt [ban đêm] (đi ngủ) Спокойной ночи! (spah-KOY-nuy NOH-chee) Tôi không hiểu. Я не понимаю. (yah nee puh-nee-MIGH-yoo) Tôi không biết. Я не знаю. (yah nee ZNAH-yoo) Tôi không thể. Я не могу. (yah nee mah-GOO) Nhà vệ sinh ở đâu? Где туалет? (gdyeh too-ah-LYEHT?) Tốt Хороший (khah-ROH-shee) Xấu Плохой (plah-KHOY) Lớn Большой (bahl'-SHOY) Nhỏ Маленький (MA len ki) Nóng Горячий (gahr-YAH-chee) Lạnh Холодный (khah-LOHD-nyh) Nhanh Быстро (BYH-struh) Chậm Медленно (MYEHD-lee-nuh) Đắt Дорогой (duh-rah-GOY) Rẻ Дешёвый (dyee-SHYOH-vyh) Giàu Богатый (bah-GAH-tyh) Nghèo Бедный (BYEHD-nyh) Hãy để tôi yên. Отстань. (aht-STAHN’!) Đừng động vào tôi! Не трогай меня! (nee-TROH-guy mee-NYAH!) Tôi sẽ gọi cảnh sát! Я вызову полицию! (yah VYH-zah-voo poh-LEE-tsyh-yoo!) Cảnh sát! Полиция! (poh-LEE-tsyh-yah!) Dừng lại! Kẻ trộm! Держите вора! (deer-ZHEE-tyeh VOH-rah!) Tôi cần bạn giúp. Мне нужна ваша помощь. (mnyeh noozh-NAH VAH-shah POH-muhsh) Đây là một trường hợp khẩn cấp. Это срочно!. (EH-tuh SROHCH-nuh) Tôi lạc đường. Я заблудился/заблудилась - (m/f). (yah zah-bloo-DEEL-suh / zah-bloo-DEE-luhs’) Dưới (а) là cho nữ: Tôi mất túi xách của tôi. Я потерял(а) свою сумку. (yah puh-teer-YAHL(-ah) svah-YOOH SOOM-kooh) Tôi mất ví/bóp của tôi. Я потерял(а) свой бумажник. (yah puh-teer-YAHL(-ah) svoy boo-MAHZH-neek) Tôi ốm/bệnh. Я болен (m.) / Я больна (f.) (yah-BOH-leen (masculine) / yah-bahl’-NAH (feminine)) Tôi bị thương. Я ранен(а) (yah RAH-neen(-ah)) Tôi cần một bác sĩ. Мне нужен врач. (mnyeh NOO-zhyhn vrahch) Tôi có thể sử dụng điện thoại của bạn không? Можно от вас позвонить? (MOH-zhnuh aht vahs puhz-vah-NEET’?) (điều này chỉ có thể được sử dụng cho điện thoại cố định, không cho điện thoại di động. Đề nghị sử dụng điện thoại di động từ người không quen biết là không lịch sự.)",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Abraham Lincoln",
"role": "user"
},
{
"content": "Abraham Lincoln (phát âm: /ˈeɪbrəhæm ˈlɪŋkən/ (12 tháng 2, 1809 – 15 tháng 4, 1865), còn được biết đến với tên Abe Lincoln, tên hiệu Honest Abe, Rail Splitter, Người giải phóng vĩ đại, là Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ từ tháng 3 năm 1861 cho đến khi bị ám sát vào tháng 4 năm 1865. Ông được xem là một nhân vật lịch sử tiêu biểu hàng đầu của Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ, với tài nghệ chính trị tầm cỡ George Washington. Hãy quyết tâm sống chân thật trong mọi sự; nếu bạn thấy mình không thể trở thành một luật sư trung thực, thì hãy cố sống trung thực mà không cần phải làm luật sư. .. \"Một nhà tự chia rẽ thì nhà ấy không thể đứng vững được\". Tôi tin rằng chính quyền này không thể trường tồn trong tình trạng một nửa nước nô lệ, một nửa nước tự do. Tôi không mong chờ chính quyền liên bang bị giải thể - tôi không mong đợi ngôi nhà bị sụp đổ - nhưng tôi thực sự trông mong đất nước này sẽ không còn bị chia cắt. Đất nước chúng ta sẽ trở thành một thực thể như thế này hoặc sẽ hoàn toàn khác đi. Hoặc là những người chống chế độ nô lệ sẽ kìm hãm được tệ nạn này, và khiến công chúng tin rằng cuối cùng nó sẽ không còn tồn tại; hoặc là những người ủng hộ chế độ nô lệ sẽ phát triển và biến nó thành hợp pháp tại mọi tiểu bang, mới cũng như cũ – miền Bắc cũng như miền Nam.... —Trích dẫn từ diễn văn Một nhà tự chia rẽ Quốc gia này, dưới Thượng Ðế, sẽ khai sanh ra tự do và một chính quyền vì dân, của dân, và cho dân, sẽ không thể mất đi trên mặt địa cầu. Mục tiêu chính của tôi trong cuộc tranh đấu này là duy trì Liên Bang, không phải là duy trì hay tiêu hủy chế độ nô lệ. Nếu tôi có thể duy trì Liên Bang mà không giải phóng một người nô lệ nào, tôi sẽ làm điều đó, và nếu tôi có thể duy trì Liên Bang mà lại giải phóng tất cả các nô lệ, tôi cũng sẽ làm điều đó. — 6 tuần lễ sau ngày nhậm chức hay vào ngày 12 tháng 4 năm 1861, khi mà cuộc nội chiến đã bắt đầu và khi ông phải đảm nhiệm trọng trách đưa các tiểu bang ly khai trở về với đại gia đình quốc gia và duy trì sự thống nhất Bài viết bách khoa Abraham Lincoln tại Wikipedia",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Somalia",
"role": "user"
},
{
"content": "Somalia tên chính thức Cộng hoà Liên bang Somalia, trước kia có tên là Cộng hoà Dân chủ Somali, là một quốc gia nằm ở Vùng sừng Châu Phi. Nước này giáp với Djibouti ở phía tây bắc, Kenya ở phía tây nam, Vịnh Aden và Yemen ở phía bắc, Ấn Độ Dương ở phía đông, và Ethiopia ở phía tây. Thời cổ đại, Somalia từng là một trung tâm thương mại quan trọng với phần còn lại của thế giới cổ đại. Các thuỷ thủ và thương gia của họ là những nhà cung cấp hương trầm, nhựa thơm và gia vị lớn, những mặt hàng có giá trị và được coi là đồ xa xỉ tại Ai Cập cổ đại, Phoenicia, Mycenaean và Babylon, những nơi người Somalia có quan hệ buôn bán. Theo hầu hết các học giả, Somalia cũng là nơi Vương quốc của Punt tồn tại.Người Puntite cổ đại là một nhà nước của những người dân có những quan hệ gần gũi với Ai Cập Pharaon trong thời Pharaoh Sahure và Nữ hoàng Hatshepsut. Các cấu trúc kim tự tháp, đền đài và những ngôi nhà cổ được phủ đá nằm rải rác xung quanh Somalia được cho là có niên đại từ giai đoạn này.Trong thời cổ đại, nhiều thành bang cổ như Opone, Mosyllon và Malao cạnh tranh về sự giàu mạnh với Sabaean, Parthia và Axumite. Thương mại Ấn Độ-Hy Lạp-La Mã cũng phát triển ở Somalia. Sự ra đời của Đạo Hồi ở bờ đối diện Somalia trên Biển Đỏ đồng nghĩa với việc các nhà buôn, thuỷ thủ Somalia và những người di cư sống tại bán đảo Ả Rập dần rơi vào ảnh hưởng của tôn giáo mới thông qua các đối tác thương mại người Ả Rập đã cải theo Hồi giáo của họ. Với cuộc di cư của những gia đình Hồi giáo từ thế giới Hồi giáo tới Somalia ở những thế kỷ đầu tiên của Đạo Hồi và sự cải đạo hoà bình của dân cư Somali bởi các học giả Hồi giáo Somalia trong các thế kỷ sau đó, các thành bang cổ dần chuyển theo Hồi giáo Mogadishu, Berbera, Zeila, Barawa và Merka, chúng đều là một phần của nền văn minh Berberi. Thành phố Mogadishu được gọi là Thành phố của Đạo Hồi,và kiểm soát việc buôn bán vàng của Đông Phi trong nhiều thế kỷ. Trong thời Trung Cổ, nhiều đế chế Somalia mạnh đã thống trị thương mại trong vùng gồm cả Nhà nước Ajuuraan, có biệt tài trong cơ khí thuỷ lợi và xây dựng pháo đài,Vương quốc Hồi giáo Adal, mà vị tướng Ahmed Gurey là vị chỉ huy Châu Phi đầu tiên trong lịch sử sử dụng chiến tranh pháo binh trên lục địa trong cuộc chinh phục Đế chế Ethiopia,và Triều đại Gobroon của Adal, sự thống trị quân sự của họ đã buộc các thống đốc của Đế chế Oman ở phía bắc thành phố Lamu phải nộp cống vật cho Quốc vương Hồi giáo Somalia Ahmed Yusuf. Ở cuối thế kỷ 19 sau hội nghị Berlin, các đế chế Châu Âu đã gửi quân đội của mình tới Vùng sừng Châu Phi. Mối đe doạ đế quốc với Somalia buộc lãnh đạo Dervish Muhammad Abdullah Hassan, phải đứng lên hô hào các binh sĩ Somalia từ khắp Vùng sừng Châu Phi và lãnh đạo một trong những cuộc kháng chiến chống thực dân lâu dài nhất.Somalia đã không bao giờ chính thức bị thực dân hoá. Nhà nước Dervish đã thành công trong việc bốn lần đẩy lùi các cuộc tấn công của Đế chế Anh và buộc họ phải rút về vùng ven biển. Nhờ danh tiếng có được ở Trung Đông và Châu Âu, nhà nước Dervish được công nhận như một đồng minh của Đế chế Ottoman và Đế chế Đức, và vẫn tiếp tục giữ quan hệ này trong suốt Thế chiến I quốc gia Hồi giáo độc lập duy nhất trên lục địa. Sau một phần tư thế kỷ kìm hãm người Anh ở một khu vịnh, cuối cùng người Dervish đã bị đánh bại năm 1920 khi Anh lần đầu tiên sử dụng máy bay ở Châu Phi ném bom vào thủ đô của Dervish là Taleex. Sau thất bại này, các lãnh thổ cũ của Dervish được chuyển thành vùng bảo hộ của Anh. Italia tương tự cũng phải đối đầu với sự phản đối từ các quốc vương Hồi giáo và các đội quân Somalia và không thể kiểm soát hoàn toàn các vùng Somalia hiện đại cho tới tận thời kỳ Phát xít cuối năm 1927. Sự chiếm đóng này kéo dài tới năm 1941 và bị thay thế bởi một cơ quan hành chính quân sự Anh Quốc. Bắc Somalia tiếp tục là một vùng bảo hộ trong khi Nam Somalia trở thành một lãnh thổ uỷ trị. Liên minh của hai vùng năm 1960 đã thành lập nên Cộng hoà Dân chủ Somali. Vì những quan hệ lâu dài của họ với thế giới Ả Rập, năm 1974 Somalia được chấp nhận như một thành viên của Liên đoàn Ả Rập. Để tăng cường mối quan hệ với phần còn lại của lục địa Châu Phi, Somalia đã cùng các quốc gia Châu Phi khác tham gia thành lập Liên minh Châu Phi, và bắt đầu hỗ trợ ANC ở Nam Phi chống chế độ apartheid và những lực lượng ly khai Eritrean ở Ethiopia trong Chiến tranh Độc lập Eritrean. Là một nhà nước Hồi giáo, Somalia là một trong những thành viên sáng lập Tổ chức Hội nghị Hồi giáo và cũng là một thành viên của Liên hiệp quốc và NAM. Dù gặp khó khăn từ cuộc nội chiến và tình trạng bất ổn, Somalia vẫn tìm cách duy trì một nền kinh tế thị trường tự do mà, theo Liên hiệp quốc, có hiệu quả hơn hẳn nền kinh tế của các quốc gia Châu Phi khác. Mogadishu - thủ đô, và thường được coi là thành phố vô luật lệ nhất trên thế giới. Hargeisa - thủ đô của Somaliland và, theo tiêu chuẩn Somalia, một nơi khá an toàn. Kismayo - một thành phố cảng ở phía nam của đất nước Đi máy bay có thể là vấn đề đến / từ Somalia, do các vụ đánh bom gần đây ở các sân bay bởi các lực lượng Ethiopia. Tuy nhiên, hàng không có thể là phương tiện an toàn nhất để đi và đến Somalia. Cách đáng tin cậy nhất là đáp máy bay hãng African Express, với các tuyến bay với Dubai, Nairobi Trung Đông và các sân bay Đông Phi nhỏ hơn. Vé có thể đặt chỗ trước, nhưng không mua, trừ khi bạn đang ở văn phòng bán vé của họ - kiểm tra lại để đảm bảo bạn có một chỗ ngồi được đặt nếu bạn sẽ không được trong thành phố bạn sẽ nổi xung trước chuyến bay của bạn! African Express [1] là một hãng hàng không Kenya có đường bay đến/từ Berbera, Bossaso, Galkacyo và Mogadishu chủ yếu từ Nairobi và Dubai, nhưng cũng ít thường xuyên hơn từ các địa điểm nhỏ hơn như Sharjah, Entebbe hay Jeddah. Các tuyến bay chính sử dụng MD-82 của máy bay phản lực, các tuyến bay ngắn hơn có thể là máy bay DC-9 hoặc 120-ER. Jubba Airways [2] là một hãng hàng không Somali hoạt động từ Mogadishu đến/từ: Dubai, Bossaso và Jeddah. Các chuyến bay cũng có thể được cung cấp đến/từ: Galkayo, Hargeisa và Sharjah. Hãng sử dụng một chiếc máy bay Ilyushin-18 do Liên Xô chế tạo. Hãng này là hãng hàng không duy nhất đến/từ Somalia hiện đang chấp nhận đặt phòng trực tuyến, nhưng xác nhận với họ bảy (7) ngày trước khi bay. Daallo Airlines [3] trước đây là hãng hàng không quốc tế duy nhất bay tới Somali. Hãnh hiện (tính đến tháng sáu năm 2011) không bay và có dịch vụ không liên tục ngay cả khi mở. Hãnh có 2-3 chuyến bay mỗi tuần từ Djibouti cũng sử dụng một máy bay Ilyushin-18. Tất cả các chuyến bay đến Mogadishu sử dụng Sân bay quốc tế Aaden Cabdulle Cismaan (cũng có tên Sân bay quốc tế Aden Adde) được mở cửa lại tháng 8 năm 2006.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Kudo Shinichi",
"role": "user"
},
{
"content": "Kudo Shinichi (工藤, くどう 新一 (Công Đằng Tân Nhất) Kudō Shin'ichi) là nhân vật chính trong loạt truyện tranh và anime Thám tử lừng danh Conan (名探偵コナン Meitantei Conan). Sự thật luôn chỉ có một mà thôi Suy luận không phải là để phân thắng thua hay so hơn kém, vì sự thật luôn luôn chỉ có một mà thôi. Sau khi đã loại bỏ được những thứ vô lý, thì điều còn lại, dù khó tin đến đâu vẫn là sự thật. Thám tử điều tra ra hung thủ mà lại để hắn chết ngay trước mắt thì chằng khác gì một đồng phạm. Số 0 là nơi bắt đầu tất cả. Nếu không xuất phát từ đó, sẽ chẳng có cái gì được sinh ra và chẳng có cái gì đến đích được cả. Người mạnh mẽ không thắng, chỉ có người thắng mới mạnh mẽ. Nghề thám tử là để đưa kẻ có tội ra ánh sáng và giải oan cho người vô tội chứ không phải là để khoe tài và dồn ép họ tới con đường cùng. Nghiệt ngã là luật pháp không có chốn dung thân cho tình cảm. Trước pháp luật, mọi người đều được đối xử bình đẳng như nhau. Ai gây tội ác phải bị trừng phạt. Không có chỗ cho tình cảm chen ngang. Dù có đang chịu đựng điều đắng cay trong cuộc đời này, ma túy và giết người là không được phép với bất kì lí do nào. Tôi chẳng biết vì sao người ta lại giết hại lẫn nhau, nhưng đâu cần lí do chính đáng để cứu một ai đó? Wikipedia có bài viết về: Kudo Shinichi",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Duyên hải Eritrea",
"role": "user"
},
{
"content": "Duyên hải Eritrea là một khu vực thuộc Eritrea. Nó giáp với Biển Đỏ về phía đông và Trung Eritrea về phía tây. 15.59968Massawa1 Massawa–thành phố cảng quan trọng nhất của Eritrea, nằm gần quần đảo Dahlak 16.66635Nakfa2 Nakfa–đơn vị tiền tệ của Eritrea được đặt tên theo thành phố này 13.013661592585796Assab3 Assab–thành phố lớn thứ 6 của Eritrea 13.232711190799867Beylul4 Beylul–một thị trấn cảng nhỏ, nằm khá gần Assab 13.930406890448603Edd5 Edd–trong thế kỷ 19, người Pháp từng chiếm giữ thị trấn này 15.329950455604614Tu viện Debre Bizen1 Tu viện Debre Bizen–một tu viện Chính thống giáo gần thị trấn Nefasit. Nơi này có một thư viện với nhiều văn bản tôn giáo cổ. 15.643112493554181Quần đảo Dahlak2 Quần đảo Dahlak–một trung tâm thương mại quan trọng trong lịch sử, nằm khá gần Yemen 15.316647765306714Vườn quốc gia Semenawi Bahri3 Vườn quốc gia Semenawi Bahri–có nhiều ngọn núi và thung lũng lớn Vùng duyên hải Eritrea được biết đến vì là một trong những nơi nóng nhất thế giới (nhiệt độ có thể lên đến 40,8 °C ở Massawa trong mùa hè). Vùng này cũng có nhiều bến cảng và là một trung tâm buôn bán thịnh vượng với Trung Đông và nhiều vùng khác ở châu Phi. Các ngôn ngữ phổ biến nhất ở Duyên hải Eritrea là tiếng Ả Rập, tiếng Afar và tiếng Tigrinya. Tuy nhiên, một số người dân địa phương có thể nói được cả tiếng Anh và tiếng Ý. Trung Eritrea, nơi có thủ đô Asmara và thành phố lớn Keren. Các nước láng giềng Sudan, Ethiopia và Djibouti.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Hoa (thực vật)",
"role": "user"
},
{
"content": "Loài hoa là những thứ ngọt ngào nhất mà Thượng đế đã tạo ra và quên ban cho chúng một linh hồn. Henry Ward Beecher, Life Thoughts (năm 1858), trang 234. Nơi nào hoa suy tàn thì con người không thể sống. Napoleon, trích dẫn từ The table talk and opinions of Napoleon Buonaparte (năm 1868), trang 148.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Calabria",
"role": "user"
},
{
"content": "Calabria là một vùng của Ý. Calabria được chia thành 5 tỉnh: Catanzaro, Cosenza, Crotone, Reggio di Calabria và Vibo Valentia. Badolato Camigliatello Isca Marina Praia a Mare Reggio di Calabria Roccella Ionica Santa Maria Del Cedro Sant' Andrea Apostolo dello Jonio Scalea Trebisacce Tropea Vibo Valentia",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Nguyễn Tiến Đạt",
"role": "user"
},
{
"content": "Nguyễn Tiến Đạt là phó giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng năm 2014. Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta! Phát biểu trong buổi làm việc với huyện Bình Chánh sáng 13 tháng 1 năm 2014. \"Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta!\" của Ph. Anh, Lao Động, 13 tháng 1 năm 2014. Bài viết bách khoa Nguyễn Tiến Đạt tại Wikipedia",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Ecatepec de Morelos",
"role": "user"
},
{
"content": "Ecatepec de Morelos là một thành phố của Mexico. Ecatepec de Morelos là một đô thị thuộc bang México, Mexico. Năm 2005, dân số của đô thị này là 1688258 người. Ecatepec de Morelos, từng có tên chính thức San Cristóbal Ecatepec de Morelos là thủ phủ của khu tự quản Ecatepec de Morelos; Tuy nhiên, cả hai thành phố và khu tự quản thường được gọi đơn giản là \"Ecatepec\". Tên gọi \"Ecatepec\" là bắt nguồn từ tiếng Nahuatl, và có nghĩa là \"đồi gió\". Đó là một tên thay thế hoặc gọi đến Quetzalcoatl. \"Morelos\" là tên cuối cùng của José María Morelos, một anh hùng của cuộc chiến tranh Độc lập của Mexico. Thành phố này là sự mở rộng trên thực tế cùng với chính quyền khu tự quản với dân số năm 2005 của thành phố của 1.687.549 người, chiếm 99,9% dân số khu tự quản 1.688.258 người. Dân số tạm thời điều tra dân số năm 2010 là 1.658.806. Thành phố hình thành vùng ngoại ô đông dân nhất của Ciudad de Mexico. \"San Cristóbal\" (Thánh Christopher) là vị thánh bảo trợ của thành phố, có ngày lễ được tổ chức vào 25 tháng 7 hàng năm. Địa điểm đáng chú ý bao gồm các nhà thờ Công Giáo mới nhất ở Mexico, Sagrado Corazon de Jesús, một số nhà thờ thời kỳ thuộc địa và các dinh thự của đại tá Casa de los virreyes.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Nassau",
"role": "user"
},
{
"content": "Nassau là thủ đô của Bahamas, một thành viên của Khối thịnh vượng chung Anh. Đây là thành phố lớn nhất trong quần đảo Bahamas và sự mở rộng thấp tầng của nó thống trị nửa phía đông của đảo New Providence. Được thành lập vào khoảng 1650 bởi người Anh với tên Charles Town, thị trấn đã được đổi tên vào năm 1695 theo Fort Nassau. Do vị trí chiến lược của Bahamas gần các tuyến đường thương mại và nhiều của hòn đảo, Nassau nhanh chóng trở thành sào huyệt nổi tiếng của hải tặc biển, và cai trị của Anh đã sớm bị thách thức bởi những người tự xưng là \"Cộng hòa hải tặc\" dưới sự lãnh đạo của Edward Teach, được biết đến nhiều hơn với tên Blackbeard. Tuy nhiên, người Anh đã sớm kiểm soát chặt, và năm 1720 những tên cướp biển đã bị giết hoặc đuổi ra khỏi khu vực. Ngày nay, với dân số 260.000, Nassau chứa gần 80% dân số của Bahamas. Tuy nhiên, nhà cửa ở đây vẫn còn khá thấp tầng và thoải mái, với các tòa nhà chính phủ màu hồng phấn xinh đẹp và các tàu du lịch khổng lồ lờ mờ rằng bến tàu hàng ngày. Định hướng trong trung tâm Nassau là khá dễ dàng. Bay Street, chạy song song với bờ biển, là đường phố mua sắm chính, đầy với một sự pha trộn kỳ lạ các cửa hàng đồ trang sức đắt tiền và cửa hàng lưu niệm. Đồi nhô lên sau Bay St chứa hầu hết các tòa nhà chính phủ của Bahamas và trụ sở chính của công ty, trong khi quận Over-the-Hill dân cư bắt đầu ở phía bên kia. Sân bay Quốc tế Lynden Pindling của Nassau (IATA: NAS, ICAO: MYNN) là sân bay lớn nhất ở Bahamas. Hãng hàng không lớn nhất của Mỹ (với ngoại lệ đáng chú ý của Southwest) có các chuyến bay đến Quốc tế Nassau. Dịch vụ bay hạn chế từ Toronto và London cũng tồn tại.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Georgetown",
"role": "user"
},
{
"content": "Georgetown có thể chỉ: Georgetown (Queensland) Georgetown (South Australia) George Town (Tasmania) Georgetown (Ontario) Georgetown (đảo Prince Edward) George Town (Quần đảo Cayman) - thủ đô Georgetown (Guyana) - thủ phủ Georgetown (Malaysia) - thủ phủ đảo/bang Penang Georgetown (Ascension) - thủ phủ đảo Ascension Georgetown - một thị xã ở Saint Vincent George - thị xã ở tỉnh Western Cape Georgetown (Arkansas) Georgetown (California) Georgetown (Colorado) Georgetown (Connecticut) Georgetown (Delaware) Georgetown (Chatham County, Georgia) Georgetown (Quitman County, Georgia) Georgetown (Idaho) Georgetown (Illinois) Georgetown (Floyd County, Indiana) Georgetown (St. Joseph County, Indiana) Georgetown (Kentucky) Georgetown (Louisiana) Georgetown (Maine) Georgetown (Massachusetts) Georgetown Township (Michigan) Georgetown (Minnesota) Georgetown Township (Minnesota) Georgetown (Mississippi) Georgetown (New York) Georgetown (Ohio) Georgetown (Pennsylvania) Georgetown (South Carolina) Georgetown (Tennessee) Georgetown (Texas) Georgetown (Seattle, Washington) Georgetown (Washington, D.C.) Georgetown (Berkeley County, West Virginia) Georgetown (Lewis County, West Virginia) Georgetown (Marshall County, West Virginia) Georgetown (Monongalia County, West Virginia) Georgetown (Polk County, Wisconsin) Georgetown (Price County, Wisconsin)",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Jamie Lee Curtis",
"role": "user"
},
{
"content": "Jamie Lee Curtis (sinh ngày 22 tháng 11, năm 1958) là một trong hai người tham dự giải thưởng Quả cầu vàng cùng với Emmy, giải thưởng được đề cử nữ diễn viên điện ảnh người Mỹ và một nhà văn thành công của cuốn sách cho trẻ em. Mọi người có được thực sự thoải mái với các tính năng của họ. Không ai có được thoải mái với mái tóc của họ. Chấn thương tóc. Đó là điều phổ quát. Trích dẫn trong Những người phụ nữ hài hước: Sự hài hước tốt nhất từ những người phụ nữ hài hước nhất nước Mỹ của Bill Adler tr. 36",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Salalah",
"role": "user"
},
{
"content": "Salalah là một thành phố Oman. Salalah là thành phố thủ phủ của vùng miền nam Zufar và Dhofar. Nó thường được coi là \"thành phố thứ hai\" của Vương quốc Hồi giáo, mặc dù một số trong khẳng định này có lẽ là do sự khác biệt của nó là nơi sinh Sultan Qaboos. Khu vực này nổi tiếng với Khareef (mùa mưa) của nó, và Liên hoan Khareef là một sự kiện hàng năm ở đây. Nó còn được gọi là \"Thụy Sĩ của Ô-man\" và \"Thiên đường của Arabia. Salalah và Dhofar trong lịch sử nổi tiếng với hoạt động thương mại trầm hương. Khu vực có xu hướng khá độc lập trong lịch sử, mặc dù điều này đã thay đổi kể từ Qaboos lên ngôi. Các bộ tộc Jibbali (tiếng Ả Rập: những núi) vẫn duy trì một lập trường hơi không tin tưởng vào chính phủ trong Muscat, mặc dù điều này là hơn một lập trường của các phong tục hơn bất cứ điều gì khác. Điều thú vị là, các bộ lạc nói một ngôn ngữ khác với tiếng Ả Rập nói khắp bán đảo, mặc dù du khách không có khả năng gặp phải điều này. Có thể lái xe từ Muscat đến Salalah. Chuyến đi kéo dài khoảng 12 giờ (mặc dù có rất nhiều nơi có giá trị tham quan trên đường đi). Từ điểm khởi đầu của nó chắc chắn là một chuyến đi vui vẻ, nơi bạn có thể thưởng thức vẻ đẹp hoang dã. Rusayl, Nizwa, Haima, Thumrait và tiếp theo là Salalah đẹp nhất. Coi chừng những đụn cát nổi loạn trên đường! Khi bạn nhận được đói, khát hoặc mệt mỏi, bạn nên chờ cơ hội tiếp theo để dừng lại - có thể không có một điểm dừng trong khác cho hàng chục dặm. Lái xe đến Salalah từ Muscat có thể là một trải nghiệm tuyệt vời và đáng nhớ, hoặc một trong một rất khó chịu phụ thuộc vào loại hình du lịch bạn đang có. 5 giờ đầu tiên sẽ có rất nhiều danh lam thắng cảnh, như bạn vượt qua Nizwa và các thị trấn. Tuy nhiên, đó là sa mạc cằn cỗi và các mỏ dầu cho hầu hết các phần còn lại của chuyến đi. Đi du lịch vào ban đêm thường là tốt hơn so với lái xe trong cái nóng của ngày (đến trong Salalah vào ban đêm là một lựa chọn phải thực hiện - đèn thành phố từ các điểm vào cao độ cao là tuyệt đẹp). Có một số điểm dừng trên đường để ăn, thức uống, nghỉ ngơi thuốc lá, hoặc các cuộc gọi tự nhiên. Có xe buýt hàng ngày giữa tất cả các thành phố Oman, rất rẻ so với chi phí taxi, vé máy bay. Trong tháng tám năm 2011, giá vé Muscat-Salalah là 6 RO (và 11 RO cho vé khứ hồi) - đó là một chuyến đi 12 giờ. Có ít nhất một nhà công ty dịch vụ tại Muscat phục vụ vận chuyển khách bằng đường thủy đến Salalah. Salalah là khá một thành phố nhỏ về du lịch, như hầu hết các nơi quan tâm gần gũi với nhau. Trong thời gian ấm của năm, mặc dù, đi bộ có thể không có ý tưởng tốt nhất. Thông thường taxi Oman không có đồng hồ cây số khi hoạt động ở đây. Giá vé taxi trung bình để đi du lịch trong thành phố là 500 baiza. Cung điện Vua Hồi giáo Qaboos Al-Hisn Souq và Haffa Souq Al-Maghsail Nhà thờ Hồi giáo Sultan Qaboos'Grand Mt.Jabal Samhans Khor-Rori (công viên khảo cổ học Sumhurram) Bảo tàng Al Baleed (Bảo tàng Khảo cổ học và lịch sử) Ayn Razat Tawi Attir Tháp Đồng hồ Burj al-Nadha (cn được gọi là Tháp Đồng hồ nhà Haffa) Thành phố cổ được giới hạn trong các khu vực được gọi Haffa. Haffa Souq (chợ) có bán nhiều loại đồ thủ công mỹ nghệ, đồ lưu niệm etc.You sẽ cần phải thực hành kỹ năng thương lượng của bạn trước khi bạn đi mua sắm ở đó. Tốt hơn là nên có một người dân địa phương đi cùng bạn trong khi bạn mua sắm, để bạn biết bạn đang trả tiền cho những điều thực tế. Al Maghsail (hoặc Al Mughsail) là một khu vực giống hang ngoài trời với các tảng đá cực kỳ lớn và hố nước kỳ diệu từ nơi các tia nước nhỏ phun ra. Ngoài ra còn có trải dài bãi biển hoang sơ. Núi Jabal Samhans là điểm cao nhất trong Salalah. Công viên khảo cổ học Sumhurram là một UNESCO Di sản thế giới locted trong, thành phố lịch sử cổ đại Khor Rori mà phát triển mạnh mẽ trong thương mại trầm hương frankincense giữa thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Đó là khu định cư thời kỳ tiền Hồi giáo quan trọng nhất ở bán đảo Ả Rập và giao dịch trầm hương frankincense và đồng với Ấn Độ, Trung Quốc, các nền văn minh Ả Rập khác và nền văn minh Lưỡng Hà. Ayn Razat và Tawi Attir là nơi nên tham quan nếu bạn đi trong Khareef. Tawi Attir nghĩa đen là 'hố con chim' là một thung lũng xinh đẹp với một hố và hồ gần đó. Trong Khareef Tawi Attir là tất cả xanh và tự nhiên! Trong suốt mùa giải cũng có chèo thuyền hàng ngày trong hồ. Ayn Razat nổi tiếng với các vườn hoa hồng của nó, kênh đào và nhiều hang động. Tháp đồng hồ Burj al-Nadha có thể không phải là nhà chọc trời nhưng nó thực sự là biểu tượng của Salalah. Nó là đặc trưng trong các huy hiệu của tỉnh Zufar (Dhofar Governorate). Tháp trông tuyệt đẹp trong đêm do màn hình hiển thị ánh sáng đầy màu sắc. Siam Kitchen[1] là một nhà hàng Thái nhỏ tuyệt vời ở Dahariz, một lựa chọn tốt các món ăn thuần túy của Thái Lan. Đây là nhà hàng Thái duy nhất trong Salalah và tất cả các món ăn được chuẩn bị bởi một đầu bếp Thái Lan tài năng. Tất cả các món ăn được phục vụ với cơm thơm và khoảng 1,5-3 OMR. Mở sáu ngày mỗi tuần và nằm trong khoảng cách đi bộ Crown Plaza. Mở cho bữa trưa và bữa tối. Hassan Bin Thabit Restaurant phục vụ Ả Rập, Lục địa và Ấn Độ và Trung Quốc. Họ có hai chi nhánh tại Salalah. Nằm ở phố @ 23 tháng 7 ở Salalah và vòng xoay Al Awqadayn đổi tên thành Khareef Salalah Restaurant, Awqad. Điện thoại 23291010 & 23210030 nhấp chuột vào xem thực đơn [2] Bawarchi Restaurant phục vụ món ăn thuần túy Ấn Độ và Trung Quốc. Giá đặc biệt cho đặt bàn theo nhóm. Tọa lạc ở phố Al Salam, gần Bin Qasim Transport, Telephone Nos 00968-23297750/ 23297740. Al Khutaini nhiều món ăn lục địa nhưng chuyên về món ăn Pakistan. Tọa lạc ở phố 23 tháng 7. Chinese Cascade và Chopsticks là các nhà hàng Trung Hoa phục vụ món ăn tao nhã. Không có tiệc buýt phê. Indian Cascade nhiều món Ấn Độ. Ittin Cafe nằm trên đường đến Ittin - Garziz, đi ô tô khoảng 10 phút từ Salalah. AnnaPoorna (Al-Saf Saf) ấm thực Nam Ấn Dộ truyền thống chỉ phục vụ đồ chay.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Paraguay",
"role": "user"
},
{
"content": "Paraguay là một quốc gia thuộc Châu Mỹ. Thủ đô là Asunción. Bị Tây Ban Nha chiếm làm thuộc địa trong 3 thế kỷ, từ những năm 1500, Paraguay đã có thể gìn giữ rất nhiều bản sắc bản địa của mình. Ngày nay, tiếng mestizo (Tiếng Tây Ban Nha + tiếng Anh Điêng Mỹ) chiếm hơn 80% số người sử dụng trong 6 triệu dân của đất nước và tiếng Guarani là, bên cạnh tiếng Tây Ban Nha, ngôn ngữ chính thức của đất nước. Nhưng Paraguay cũng có một lịch sử của máu và nước mắt. Là một trong những nước giàu nhất trong những năm 1800 (và là quốc gia duy nhất ở Mỹ có giao thông vận tải đường sắt tại thời điểm đó) trước khi cuộc chiến tranh thảm họa của Liên minh Tay Ba (1865-1870). Paraguay, bị tấn công bởi các lực lượng đồng minh của Argentina, Brazil và Uruguay, đất nước bị mất hai phần ba số đàn ông trưởng thành và phần lớn lãnh thổ của mình bao gồm cả bờ biển của họ với biển. Đây cũng là nơi diễn ra các nỗ lực đầu tiên tại Cộng sản khi 700 người khởi hành từ Balmain, Sydney, Úc vào năm 1893 để tìm thấy \"Úc Mới\" Một sự chia rẽ xảy ra ngay sau khi xuất hiện khi một số khách bắt đầu trộn lẫn với các phụ nữ địa phương đang phải chịu thiếu người do cuộc chiến tranh của Liên minh Tay Ba. Hai phần ba của những người nhập cư cuối cùng trở về Úc nhưng khoảng năm 2000 người Paraguay có thể truy gốc tích của họ từ Úc. Trong chiến tranh Chaco 1932-1935, các khu vực quan trọng về kinh tế và lớn đã giành chiến thắng từ Bolivia. Chế độ độc tài quân sự 35 năm của Alfredo Stroessner bị lật đổ vào năm 1989, và mặc dù sự gia tăng đánh dấu trong cuộc đấu đá chính trị trong những năm gần đây, thống đốc dân chủ đã lên nắm quyền kể từ đó. Sau khi Chiến tranh Thế giới II Paraguay nhận được rất nhiều người nhập cư, những người cảm thấy trong tình yêu với sự hiếu khách và quyết định ở lại và xem Paraguay nhà của họ. Vì vậy, người ta thường được tìm thấy các khu vực người Đức, Nga, Ý, Pháp và Tây Ban Nha người trong các khu vực ở Paraguay. Paraguay hiện đại chủ yếu dựa trên bất ổn chính trị và kinh tế khó khăn - Kể từ đầu những năm 1980, Paraguay đã ra các quyết định khó khăn để di chuyển một nền kinh tế thị trường hiện đại hơn. Trong khi Asuncion là đầy triển vọng kinh tế mới và xây dựng, phần lớn quốc gia vẫn còn kém phát triển, bao gồm cơ sở hạ tầng thiếu. Tham nhũng ở đây là phổ biến so với các nước láng giềng Bolivia, Brazil và Argentina. Trong những năm gần đây, mặc dù, phúc lợi kinh tế đã được báo cáo và các cuộc bầu cử dân chủ đã diễn ra với rất ít các sự kiện không chắc chắn. Paraguay là quốc gia nằm ở khu vực Nam Mỹ, Nam và Tây giáp Argentina, Tây Bắc giáp Bolivia và Đông Bắc giáp Brasil. Địa hình tương đối bằng phẳng, vùng thảo nguyên Chaco (2/3 diện tích lãnh thổ) ở phía Tây, khí hậu lục địa khô, dân cư thưa thớt, chăn nuôi trên các đồng cỏ là hoạt động chính trong vùng; vùng lãnh thổ phía Đông gồm vùng cao nguyên thấp và các vùng đồng bằng thuộc lưu vực sông Paraguay và Paraná. Sông Paraguay và sông Alto Paraná là hệ thống đường thủy chính trong nước. Sông Paraguay chia đất nước thành phần phía đông, thường gọi là Đông Paraguay và được biết đến là vùng Paraná; vùng phía tây, chính thức được gọi là Tây Paraguay và thường được biết đến với tên gọi Chaco. Địa hình Paraguay gồm có các đồng cỏ và đồi rừng ở phía đông và phía tây chủ yếu là các đầm lầy và đồng bằng thấp. Paraguay có khí hậu từ cận nhiệt tới ôn hòa tùy theo độ cao, phần phía đông có lượng mưa lớn và phần cực tây có khí hậu bán khô cằn. Asunción - thủ đô Ciudad del Este - biên giới bận rộn và là cửa ngõ vào Iguazu Falls Encarnación Filadelfia - thủ phủ của Boquerón Concepción Villeta Pilar Aregua Trước khi vào Paraguay, bạn cần kiểm tra các yêu cầu về visa ở nước bạn. Chỉ có công dân các nước sau có thể vào Paraguay chỉ với hộ chiếu: Andorra, Argentina, Áo, Bỉ, Bolivia, Brasil, Bulgaria, Chile, Colombia, Costa Rica, Croatia, Séc, Síp, Đan Mạch, Ecuador, El Salvador, Estonia, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Guatemala, Honduras, Hungary, Ireland, Iceland, Israel, Ý, Nhật Bản, Latvia, Liechtenstein, Litva,Luxembourg, Malta, Mexico, Hà Lan, Nicaragua, Na Uy, Panama, Peru, Ba Lan, Romania, Slovakia, Slovenia, Nam Phi, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraina, Vương quốc Anh, Uruguay, Venezuela [1] trong khi công dân các nước còn lại kể cả Hoa Kỳ, Canada, Úc, và New Zealand phải có visa.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Tỉnh Irkutsk",
"role": "user"
},
{
"content": "Tỉnh Irkutsk (tiếng Nga: Ирку́тская о́бласть) là một chủ thể liên bang ở Đông Siberia, Nga. Nó giáp với vùng Krasnoyarsk về phía tây, Evenkia về phía tây bắc, Yakutia về phía bắc, vùng Zabaykalsky về phía đông bắc, Buryatia về phía đông nam và Tuva về phía tây nam. 52.28313Irkutsk1 Irkutsk — trung tâm hành chính của tỉnh Irkutsk. Đây là một trong những điểm dừng chính trên tuyến đường sắt xuyên Siberia, cũng như cửa ngõ đến hồ Baikal 52.56646Angarsk2 Angarsk — thành phố lớn thứ hai, với Bảo tàng Đồng hồ 56.16648Bratsk3 Bratsk — một thành phố tương đối lớn trên tuyến đường sắt Baikal-Amur 51.85341Listvyanka4 Listvyanka — nằm trên bờ hồ Baikal 51.65924Slyudyanka5 Slyudyanka - nằm trên điểm cực nam của hồ Baikal 54.89981Nizhneudinsk6 Nizhneudinsk — một thành phố nhỏ trên tuyến đường xuyên Siberia với một nhà thờ khá đẹp 55.93315Tayshet7 Tayshet — điểm giao quan trọng giữa nhiều tuyến đường sắt 52.7498Usolye-Sibirskoye8 Usolye-Sibirskoye — một thành phố cỡ trung bình với khu nghỉ dưỡng tắm bùn và nhiều địa điểm khảo cổ 52.81647Ust-Ordynsky9 Ust-Ordynsky — quê hương của người Buryat bản địa 54.2262Khu bảo tồn thiên nhiên Baikal-Lena1 Khu bảo tồn thiên nhiên Baikal-Lena 53.30258Hồ Baikal2 Hồ Baikal — nằm giữa tỉnh Irkutsk và Buryatia, đây là hồ nước sâu nhất và cổ nhất thế giới 51.72845Đường sắt vòng quanh Baikal3 Đường sắt vòng quanh Baikal 53.1498Olkhon4 Olkhon — nằm trên hồ Baikal, hòn đảo này được biết đến với những lễ hội Shaman độc đáo 51.8529Vườn quốc gia Pribaikalsky5 Vườn quốc gia Pribaikalsky 57.20269Khu bảo tồn thiên nhiên Vitim6 Khu bảo tồn thiên nhiên Vitim Tỉnh Irkutsk (đặc biệt là thành phố Irkutsk và bờ hồ Baikal) có lẽ là điểm đến du lịch hàng đầu ở Siberia. Hầu hết người dân trong vùng nói tiếng Nga. Tuy nhiên, ở khu vực xung quanh thị trấn Ust-Ordynsky, tiếng Buryat (có quan hệ gần gũi với tiếng Mông Cổ) cũng được sử dụng. Sân bay Irkutsk (IATA: IKT, ICAO: UIII) là một trong những sân bay quan trọng nhất của Nga. Nó phục vụ cả các chuyến bay quốc tế (từ Mông Cổ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan và Uzbekistan) lẫn nội địa (từ Saint Petersburg, Moskva, Khabarovsk, Yekaterinburg, Vladivostok,...). Phần lớn du khách vẫn thích đến tỉnh Irkutsk bằng tàu hỏa trên tuyến đường sắt xuyên Siberia. Các điểm dừng trong tỉnh (được liệt kê từ tây sang đông) bao gồm: Tayshet, Nizhneudinsk, Usolye-Sibirskoye, Angarsk và Irkutsk. Tuyến đường cao tốc Baikal (Aвтородога Байкал) đi ngang qua tỉnh Irkutsk theo chiều tây–đông. Cắm trại trên những hòn đảo của hồ Baikal. Câu cá, tôm và cua. Chèo xuồng vượt thác trên sông Irkut. Các loại vodka của tỉnh Irkutsk như Baik, Slava, Baikal'skaya, Zvezda Baikala Một số loại trà thảo mộc của người Buryat Bạn có thể gặp phải rắn hoặc bọ ve nếu bị lạc giữa rừng. Nếu bị chúng cắn (vết cắn thường gây nhiễm trùng), bạn cần phải điều trị cấp tốc. Các điểm đến tiếp theo trên tuyến đường sắt xuyên Siberia: Kansk, Krasnoyarsk (về phía tây), Ulan Ude (về phía đông) Các điểm đến tiếp theo trên tuyến đường sắt Baikal-Amur: Severobaikalsk (về phía đông) Yakutia với Công viên cột thiên nhiên Lena, Verkhoyansk, Oymyakon, thành phố lớn Yakutsk và nhiều đô thị khai thác mỏ.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Luang Namtha",
"role": "user"
},
{
"content": "Luang Namtha thuộc tỉnh Luang Namtha Lào. Luang Namtha ở Bắc Lào. Nó nằm trên bờ sông Nam Tha, và ý nghĩa của tên là \"Khu vực (luang) xung quanh các sông Tha (Nam Tha)\". Được người biết đến nhiều nhất như một điểm dừng chân trên đường mòn du lịch bụi từ Trung Quốc sang Lào, và như một thay thế cho các chuyến vượt biển dài và chật chội ở giữa Huay và Luang Prabang, Luang Namtha ngày càng trở nên phổ biến như là một điểm khởi đầu cho những chuyến đi đồi bộ lạc, đặc biệt là những vào Khu bảo tồn quốc gia Luang NamTha NPA. Dù là một điểm tham quan ngắn trên hành trình, đó là một thị xã nhỏ nhỏ gọn và khá dễ chịu, mặc dù một chia thành hai phần riêng biệt: \"cũ\" hoặc ban thị trấn gần sân bay (bị đánh bom trong chiến tranh những năm 1970), và \"mới\" hoặc thay thế thị trấn ở phía bắc, nơi các công ty đi bộ và hầu hết nhà nghỉ có thể được tìm thấy. Hai khu cũ mới cách nhau khoảng hơn 6 km. Thị xã \"cũ\" nằm sang một bên quốc lộ 3 - con đường hiện đại hóa từ Trung Quốc đến Thái Lan. Phố \"mới\" nằm dọc theo quốc lộ 17A phục vụ để kết nối Muang Sing.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Washington (tiểu bang)",
"role": "user"
},
{
"content": "Washington [1] là một tiểu bang thuộc Hoa Kỳ. Thủ phủ là Olympia. Thường được gọi theo tên đầy đủ của nó, tiểu bang Washington, để phân biệt với thủ đô quốc gia Washington, D.C. ở phía bên kia của Mỹ, Washington là nơi có bờ biển gồ ghề, sa mạc, rừng, núi, núi lửa, và hàng trăm hòn đảo ven biển khám phá. Dãy núi Cascade chẻ đôi tiểu bang, với các khu vực ẩm ướt rừng ven biển về phía tây, và pineforests, sa mạc và đất nông nghiệp tưới tiêu của Columbia River cao nguyên ở phía đông. Có rất nhiều thành phố ở Washington, đây là một số trong những thành phố phổ biến hơn. Olympia — thủ phủ tiểu bang nằm ở khu vực South Sound phát triển nhanh chóng. Bellevue - anh em họ ngoại ô Seattle qua hồ Washington, một trung tâm thương mại với diện tích trung tâm thành phố ngày càng tăng. Bellingham - nơi có Đại học Tây Washington. Gần biên giới Canada và Vancouver, BC Seattle - thành phố lớn nhất trong Tây Bắc Thái Bình Dương. Nơi có Đại học Washington. Spokane - Trung tâm của Đông Washington, vốn không chính thức của Đế quốc nội địa. Tacoma - thành phố cảng với một số viện bảo tàng tốt trung tâm thành phố. Vancouver - Chỉ cần qua sông Columbia từ Portland, Oregon. Không nên nhầm lẫn với các thành phố lớn của Canada Vancouver. Walla Walla - thành phố phía đông nhỏ ở trung tâm của xứ sở rượu vang bùng nổ của Washington. Yakima - nằm trong thung lũng Yakima, khu vực nông nghiệp và rượu vang lớn của tiểu bang. Khu bảo tồn lịch sử quốc gia Ebey's Landing giữ gìn và bảo vệ một ghi chép lịch sử liên tục thăm dò Puget Sound và khu định cư từ thế kỷ 19 đến nay. Trang trại lịch sử, vẫn canh tác trong các thảo nguyên của Whidbey Island, tiết lộ cách sử dụng đất không thay đổi kể từ khi định cư tuyên bố đất trong những năm 1850. Công viên lịch sử quốc gia Klondike Gold Rush - Seattle Unit - Công viên lịch sử quốc gia Klondike Gold Rush bảo tồn câu chuyện của vụ giẫm đạp 1897-1898 đến các mỏ vực vàng Yukon và vai trò của Seattle trong sự kiện này Đường mòn lịch sử quốc gia Lewis và Clark - Giữa tháng 5 năm 1804 và tháng 9 năm 1806, 32 người đàn ông, một phụ nữ và một em bé đi du lịch từ các đồng bằng miền Trung Tây đến bên bờ Thái Bình Dương. Họ tự xưng là Quân đoàn Khám phá. Vườn quốc gia Mount Rainier - núi lửa 14.410 foot. Chứa nhiều tuyết và băng hơn tất cả các núi lửa của dãy Cascade khác kết hợp lại Đài tưởng niệm núi lửa quốc gia núi St Helens - Lúc 08:32 sáng chủ nhật 18 tháng 5, năm 1980, núi St Helens phun trào và cuộc sống trong khu vực này đã bị thay đổi cho tốt hơn và tồi tệ hơn Công viên lịch sử quốc gia Nez Perce [2] - bao gồm 38 địa điểm ở phía đông của Lewiston, hầu hết trong Idaho, nhưng một số ở Washington. Vườn quốc gia North Cascades - Nơi có đến 50% của tất cả các sông băng ở 48 tiểu bang thấp hơn Vườn quốc gia Olympic - rừng mưa ôn đới, núi Olympic gồ ghề và bờ biển hoang dã Công viên lịch sử quốc gia đảo San Juan - đây vào năm 1859 Hoa Kỳ và Anh dường như đã đi đến chiến tranh vì một con lợn chết",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Ca dao Việt Nam về tình cảm gia đình",
"role": "user"
},
{
"content": "Bài ca dao về tình nghĩa vợ chồng và ơn nghĩa cha mẹ Có tát cạn biển Đông mới tỏ tường lòng mẹ Không trèo qua non Thái sao thấu hiểu tình cha Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông Núi cao biển rộng mênh mông Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi ! Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều. Gối nghiêng ai sửa,chén trà ai dâng ? Đố ai đếm được lá rơi Đố ai đếm được hết từng trời cao Đố ai đếm được vì sao Đố ai đếm công cha nghĩa mẹ Đi khắp cả cuộc đời, khi con khôn lớn Mang cả tấm thân gầy cha che chở đời con Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc Dẫu rằng da trắng tóc mây Đẹp thì đẹp vậy, dạ này không ưa Vợ ta dù có quê mùa Thì ta vẫn cứ sớm trưa vui cùng. Đã rằng là nghĩa vợ chồng Đói no một vợ một chồng Một miếng cơm tấm, giàu lòng ăn chơi. Đốn cây ai nỡ dứt chồi Đạo chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thương. Dì ruột thương cháu như con Rủi mà không mẹ cháu còn cậy trông vào ai Gió mùa thu mẹ ru con ngủ Năm canh dài, mẹ thức đủ năm canh. Gió thúc cội dinh nhánh tùng khua rúc rắc Nhớ cha mẹ ruột da thắt gan teo. Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền. Lời kinh vang dạy ngân nga Chạm vào lòng nhớ đến đạo lí làm con Lênh đênh chiếc bách giữa dòng Thương thân goá bụa, phòng không lỡ thì Gió đưa cây trúc ngã quỳ Ba năm trúc tiết còn gì mùa xuân Mẹ ơi! Đừng đánh con đau, Để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ. Mẹ ơi! đừng đánh con hoài, Để con bắt cá, hái xoài mẹ ăn. Mẹ ơi! Đừng gả con xa, Chim kêu gà gáy biết nhà mẹ đâu. Chim đa đa đậu nhánh đa Chồng gần không lấy, lại lấy chồng xa. Một tay bế lũ con thơ Một tay giành lấy mà đưa xuống bùn Một mai cha yếu mẹ già, Chén cơm ai xới, chén trà ai dâng Mỗi đêm con thắp đèn trời Cầu cho cha mẹ sống đời với con Mẹ già ở tấm lều tranh Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con Một ngày ba bữa cơm đèn Còn gì má phấn răng đen hỡi chàng? Trai mà chi, gái mà chi Sinh ra có nghĩa có nghì là hơn Sinh con ai nỡ sinh lòng Sinh con ai chẳng vun trồng cho con Ngó lên nuộc lạt mái nhà, Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương. Những khi trái nắng trở trời, Con đau là mẹ đứng ngồi không yên. Trọn đời vất vả triền miên, Chăm lo bát gạo vàng bạc nuôi con. Nuôi con mới biết sự tình Thầm thương cha mẹ nuôi mình hồi xưa. Nuôi con cho được vuông tròn Mẹ thầy đầu gãi xương mòn gối cong. Nuôi con khó nhọc đến giờ Trưởng thành con phải biết thờ hai thân Ngày nào em bé cỏn con Bây giờ em đã lớn khôn thế này Cơm cha, áo mẹ, công thầy Nghĩ sao cho bỏ những ngày ước ao. Ơn cha nặng lắm ai ơi! Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang Sống thì con chẳng cho ăn Chết thì xôi thịt, làm văn tế trời. Thà ăn bắp hột chà vô Còn hơn giàu có mồ côi mẹ già. Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi, Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già, Thương con tần tảo sớm hôm, Cơm đùm chéo áo, cháo đùm lá môn. Thương mẹ nhớ cha như kim châm vào dạ, Nghĩ đến chừng nào, lụy hạ tuôn rơi Thuyền không bánh lái thuyền quầy Con không cha mẹ ai bày con nên. Tay nâng khăn gói sang sông Mồ hôi ướt đẫm, thương chồng phải theo. Thật thà cũng thể lái trâu Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng. Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền Thương chồng phải lụy cùng chồng Đắng cay phải chịu, mặn nồng phải cam. Tu đâu cho bằng tu nhà Thờ cha kính mẹ, mới là chân tu. Từ ngày em về làm dâu Thì anh dặn trước bảo sau mọi lời Mẹ già dữ lắm em ơi! Nhịn ăn, bớt ngủ mà nuôi mẹ già Nhịn cho nên cửa nên nhà Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông Nhịn cho nên vợ nên chồng Thì em coi sóc lấy trong cửa nhà. Trai mà chi, gái mà chi Sinh con có nghĩa có nghì là hơn. Trăm năm giữ vẹn chữ tòng Sông sao thác vậy một chồng mà thôi. Tay bưng chén muối chén gừng Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn. Ví dầu con phụng bay qua Mẹ nói con gà con cũng nói theo Vì chồng nên phải gắng công Nào ai da sắt xương đồng chi đây. Ví dầu cầu ván đóng đinh Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi Con đi trường học mẹ đi trường đời Ví dầu mẹ chẳng có chi Chỉ con với mẹ chẳng khi nào rời. Vợ chồng là nghĩa cả đời Ai ơi nhớ nghĩ những lời thiệt hơn. Xin người hiếu tử lắng khuyên kịp thì nuôi nấng cho tròn đạo con Kẻo khi sông cạn, đá mòn Phú nga phú ủy có còn ra chi.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Port-Vila",
"role": "user"
},
{
"content": "Port-Vila là thủ đô của Vanuatu. Đó là trên đảo Efate trong tỉnh Shefa. Port Vila là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Vanuatu. Nằm trên bờ biển phía nam của đảo Efate , thuộc tỉnh Shefa , dân số thành phố trong cuộc điều tra dân số cuối cùng (1999) là 29.356 tăng 55% so với kết quả điều tra dân số trước đây (1989). Dân số năm 2007 là khoảng 40.000 hoặc khoảng 65% dân số của tỉnh Shefa. Port Vila là trung tâm kinh tế và thương mại của Vanuatu. Port Vila là thủ đô của Vanuatu. Nó thường được sử dụng như một điểm khởi đầu cho khách du lịch và thợ lặn sẽ khám phá những hòn đảo khác nhau, bãi biển và các điểm lặn ở Vanuatu, nhiều trong số đó được coi là tốt nhất trên thế giới. Với Vanuatu là một đất nước rất phổ biến cho các thợ lặn thăm do nhiều rạn san hô tự nhiên và đắm tàu rải rác trên khắp đất nước. Các khu vực mà nay là Port Vila là nơi sinh sống của người Melanesia cách đây hàng ngàn năm. Năm 1606, những người châu Âu đầu tiên đến hòn đảo, dẫn đầu là Pedro Fernández de Quirós và Luis Váez de Torres . Trong thế kỷ 19, những người định cư Pháp đã thành lập đô thị Franceville , và tuyên bố độc lập vào năm 1889 , trở thành quốc gia tự trị đầu tiên thực thi phổ thông đầu phiếu không phân biệt giới tính hay chủng tộc. Mặc dù dân số vào thời điểm đó chỉ bao gồm khoảng 500 đảo bản địa và ít hơn 50 người da trắng, chỉ người da trắng được phép nắm giữ các chức vụ. Một trong những tổng thống được bầu là một công dân sinh ra ở Mỹ , RD Polk . [2] Sau năm 1887, Đế quốc Pháp và Đế quốc Anh cũng nhau quản lý lãnh thổ . Điều này đã được chính thức hóa vào năm 1906 trong một hiệp ước giữa Anh-Pháp . Trong Chiến tranh thế giới II , Port Vila là một căn cứ không quân của Mỹ và Úc. Năm 1987, cơn bão Uma làm hư hại thành phố. Một trận động đất mạnh vào tháng 1 năm 2002 gây thiệt hại rộng lớn ở thủ đô và các khu vực xung quanh. Air Vanuatu bay vào Vanuatu từ nhiều địa điểm xung quanh [[Úc}} và các đảo phụ cận Vanutu của. Nó có thể được dễ dàng hơn để bay vào một trong hai Noumea, New Caledonia hay Suva, Fiji và sau đó đi một chuyến bay kết nối với Port Vila. Nhiều tàu du lịch ghé Port Vila và du lịch trên biển là một cách rất phổ biến của khám phá Vanuatu và quần đảo xung quanh. Ở Port Vila các xe buýt có xe van và xe mini buýt với một B màu đỏ ở phía bên trái của biển số. Chúng chủ yếu đi qua các con đường chính đưa bạn trực tiếp đến đích của bạn. Không có các dịch vụ theo lịch trình và taxi đi chung có lẽ tốt nhất coi là giá rẻ.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "John Adams",
"role": "user"
},
{
"content": "John Adams, Jr. (30 tháng 10 năm 1735 – 4 tháng 7 năm 1826) là phó tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ (1789–1797) và là Tổng thống thứ 2 của Hoa Kỳ (1797–1801), cũng là tổng thống đầu tiên được ở tại Nhà Trắng mới xây dựng ở Washington D.C. và việc xây dựng được hoàn thành vào năm 1800. Adams là người đỡ đầu cho Cách mạng Mỹ ở Massachusetts. Ông là một trong những người dẫn hướng cho sự độc lập năm 1776; Jefferson gọi ông \"Người khổng lồ của Nền độc lập\". Ông là đại diện cho Đại hội Liên bang ở Châu Âu. Hạnh phúc, cho dù dưới chế độ chuyên quyền hay dân chủ, cho dù trong sự nô lệ hay tự do, không bao giờ đạt được nếu ta không có đạo đức. Hạnh phúc của xã hội là kết thúc của sự cai trị. Con gái! Hãy tìm cho con một người đàn ông trung thực làm chồng, và hãy giúp anh ta mãi trung thực. Anh ta giàu hay không không quan trọng, miễn là anh ta độc lập. Hãy coi trọng niềm kiêu hãnh và sự đức hạnh của anh ta hơn bất cứ điều gì khác. Đừng nghĩ về bất cứ sự ưu việt nào ngoài sự ưu việt của linh hồn, và bất cứ sự giàu có có nào ngoài sự giàu có của con tim. Một người trung thực, biết xét đoán và nhân đức, vượt lên trên những điều nhỏ mọn của thói hão huyền và sự ngông cuồng của trí tưởng tượng, coi trọng việc làm điều tốt đẹp hơn sự giàu sang, trở nên hữu ích hơn là khoe mẽ, sống đơn giản khiêm tốn trong khả năng của mình và không mắc nợ nần, đó là người đáng kính nhất trong xã hội. Hãy làm anh ta và tất cả những gì về anh ta trở thành người hạnh phúc nhất. Chúng ta hãy dịu dàng và tử tế nâng niu những phương tiện của tri thức. Chúng ta hãy dám đọc, nghĩ, nói và viết. Quyền sở hữu chắc chắn cũng là quyền của con người như quyền tự do. Tin tất cả mọi người đều trung thực là ngu xuẩn. Không tin có người trung thực là điều còn tồi tệ hơn. Trí óc già nua cũng như những chú ngựa già nua; bạn phải để chúng luyện tập nếu bạn muốn chúng hoạt động được tốt. Thế giới không có tôn giáo hẳn sẽ là thế giới tốt đẹp nhất có thể có được. Hãy để trí óc con người tự do. Nó phải được tự do. Nó sẽ được tự do. Sự mê tín và giáo điều không thể giam cầm được nó. Cách bảo vệ tự do là đặt nó vào tay nhân dân, cũng có nghĩa là cho họ sức mạnh trong mọi lúc để bảo vệ nó một cách hợp pháp và trước các tòa án công lý. Hạnh phúc, cho dù dưới chế độ chuyên quyền hay dân chủ, cho dù trong sự nô lệ hay tự do, không bao giờ đạt được nếu ta không có đạo đức. Không thể bảo vệ tự do trong khi nhân dân không nhận thức được nó. Chúng ta không thể đảm bảo thành công, nhưng chúng ta có thể xứng đáng với thành công. Sự sợ hãi là nền tảng của hầu hết các bộ máy chính quyền. Tôi đã đi đến kết luận rằng một người đàn ông vô dụng là sự hổ thẹn, hai người trở thành một công ty luật, và ba người hay nhiều hơn sẽ trở thành quốc hội. Nên giáo dục và hướng dẫn trẻ em những nguyên tắc của tự do. Tri thức trong đầu và đạo đức trong tim, thời gian cống hiến để nghiên cứu và lao động thay vì hình thức và lạc thú, đó là cách để trở nên hữu dụng, và nhờ vậy, có được hạnh phúc. Chúng ta không thể đảm bảo thành công, nhưng chúng ta có thể xứng đáng với thành công. Tôi càng sống lâu, đọc nhiều, kiên nhẫn hơn và lo lắng tìm hiểu nhiều hơn, tôi dường như càng biết ít đi... Hãy biết vừa phải. Có lòng khoan dung. Sống nhún nhường. Như thế là đủ. Tôi quyết tâm kiểm soát sự việc, chứ không để nó kiểm soát mình.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Paris/Quận 1",
"role": "user"
},
{
"content": "Quận 1 của Paris (còn có tên là arrondissement du Louvre - quận Louvre, nhưng tên gọi này ít được dùng trong đời sống thường nhật) là một trong những khu phố cổ nhất của Paris: khu phố Halles từ thời Trung Đại. Quận 1 được bao quanh bởi Quận 7 và Quận 6 ở phía nam, Quận 8 ở phía ở phía tây, Quận 2 ở phía bắc và các quận 3 và 4 ở phía đông. Nằm ở bờ phải sông Seine, Quận 1 bao gồm cả phần phía đông của Île de la Cité. Theo cuộc điều tra dân số năm 1999, dân số của quận là 16.888 người trên diện tích 1.83 km2, tức mật độ dân số 9.228 dân/km2. Dân số quận chiếm 0,8% dân số Paris.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Trung Eritrea",
"role": "user"
},
{
"content": "Trung Eritrea là một khu vực thuộc Eritrea. Nó bao gồm thủ đô Asmara, vùng cao nguyên trung tâm và vùng đất thấp phía tây. 14.83302Adi Keyh1 Adi Keyh–nằm rất gần Asmara 14.63801Adi Quala2 Adi Quala–có một lăng mộ, nơi chôn các binh sĩ người Ý 15.54968Agordat3 Agordat–có một nhà thờ Hồi giáo lớn 15.33301Asmara4 Asmara–thủ đô đồng thời là thành phố lớn nhất Eritrea 15.11635Barentu5 Barentu–thủ phủ vùng Gash-Barka 15.06968Dekemhare6 Dekemhare–được biết đến với ngành sản xuất rượu nho 15.78301Keren7 Keren–thành phố lớn thứ hai của Eritrea 14.88301Mendefera8 Mendefera–thủ phủ vùng Debub 15.05329Segeneiti9 Segeneiti–nằm gần biên giới với Ethiopia 14.69968Senafe10 Senafe–có địa điểm khảo cổ Metera 15.10968Teseney11 Teseney–một thành phố thương mại trên sông Gash 14.6744Metera1 Metera–địa điểm khảo cổ bị phá hủy một phần trong cuộc chiến 1998-2000 với Ethiopia. 14.86568Qohaito2 Qohaito–một thành phố cổ đại quan trọng, có người ở từ thiên niên kỷ thứ 5 trước Công nguyên. 17.204850760234798Khu bảo tồn động vật hoang dã Yob3 Khu bảo tồn động vật hoang dã Yob–quê hương của loài dê núi Nubia quý hiếm 15.068861338033056Khu bảo tồn động vật hoang dã Gash-Setit4 Khu bảo tồn động vật hoang dã Gash-Setit–một vùng đất màu mỡ gần thành phố Teseney Các ngôn ngữ phổ biến nhất ở Trung Eritrea là tiếng Ả Rập và tiếng Tigrinya. Tuy nhiên, do từng là thuộc địa của Ý nên tiếng Ý cũng được một số người sử dụng. Đây là cách nhanh nhất để đến Trung Eritrea. Vùng này có Sân bay quốc tế Asmara (điểm trung chuyển hành khách chính, phục vụ các chuyến bay từ Addis Ababa, Cairo, Jeddah, Khartoum, Dubai và Istanbul), Sân bay Teseney và Sân bay Agordat. Các chuyến tàu sẽ chạy từ thành phố cảng Massawa (ở duyên hải Eritrea) đến thủ đô Asmara và các thị trấn lân cận trong vùng. Chúng sẽ đi qua tuyến đường ray dài 117,6 km. Keren cũng từng có một ga tàu nhưng hiện được sử dụng làm chợ và bến xe. Các thành phố và thị trấn trong vùng được kết nối với nhau bằng xe buýt và taxi. Trước khi khởi hành, bạn nên đặt vé sớm do các chuyến đi có nguy cơ cháy vé trong mùa hè. Duyên hải Eritrea, giáp với Biển Đỏ. Các nước láng giềng Sudan, Ethiopia và Djibouti.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Luang Prabang",
"role": "user"
},
{
"content": "Luang Prabang là thành phố cố đô Lào. Luangprabang (phiên âm kiểu Việt Nam là Luông Pra Băng, Luông Pha Băng hay Luổng Phạ Bang; phiên âm Latinh kiểu phương Tây: Luang Prabang, hay Louangphrabang), là một huyện ở miền Bắc Lào. Các trụ sở chính quyền của tỉnh Luang Prabang được đặt ở huyện này. Theo các thư tịch cổ Việt, địa điểm này còn có tên gọi là Nam Chưởng, và theo Đại Nam chính biên liệt truyện, nó còn có tên là Lao Long quốc, tục gọi là Lào Qua Gia hay Mường Luổng. Trước kia nó từng là kinh đô của một vương quốc tên Lan Xang (\"vương quốc triệu voi\") từ thế kỉ 14 đến năm 1946. Trước năm 1975, nó vẫn là thủ đô hoàng gia, trung tâm của Vương quốc Lào. Ngày nay, nó là tỉnh lỵ của tỉnh Luông Pra Băng. Luangprabang được UNESCO công nhận là một di sản thế giới (văn hóa). Luangprabang nằm cách Viêng Chăn 425 km về phía Bắc, bên sông Mê Công. Dân số của thành phố này khoảng 22.000 người. Luang Prabang trở thành thủ đô của Lào vương quốc đầu tiên (Lạn Xạng - đất nước triệu voi) từ 1353 trở đi. Thành phố có tên hiện tại của nó là Pha Bang, một hình ảnh Phật được sùng kính (nay trong Bảo tàng Cung điện Hoàng gia) đó đã được đưa đến thành phố của vua Visoun trong thời kỳ vàng son của Lan Xang trong đầu những năm 1500. Sự phân mảnh của vương quốc Lào vào cuối thế kỷ 16 đã khiến Luông Pha Băng trở thành một thành phố-quốc gia độc lập yếu kém quân sự phải cống nạp cho các vương quốc xung quanh. Cuối cùng là việc thành phố bị chiếm đóng năm 1887 bởi đoàn quân do người Hoa chỉ huy tên Haw khiến vua Luang Prabang chấp nhận sự bảo hộ của Pháp, có ảnh hưởng dẫn đến việc xây dựng những biệt thự thuộc địa tốt mà ngồi hài hòa cùng với kiến trúc truyền thống Lào. Thành phố rơi vào suy giảm trong nửa sau của thế kỷ 20 sau sự rút lui miễn cưỡng của người Pháp, và cuộc cách mạng năm 1975 đã mang lại sự kết thúc của chế độ quân chủ Luang Prabang. Nước Lào mới được độc lập khá nghèo có lẽ đã giúp gìn giữ Luang Prabang khỏi bị tàn phá của quy hoạch thành phố thế kỷ 20. Việc mở lại Lào để du lịch trong năm 1989 dẫn đến một sự thay đổi đáng kể trong vận may của thành phố, như do các căn nhà gỗ và biệt thự thuộc địa đổ nát đã được phục hồi một cách tế nhị và chuyển thành nhà nghỉ vô nhiễm và khách sạn boutique. Năm 1995, thành phố đã được đưa vào danh sách di sản thế giới của UNESCO. Sân bay quốc tế Luang Prabang. Vietnam Airlines và Laos Airlines có tuyến bay với Hà Nội. Có thể bay từ Đà Nẵng đến Pakse (Laos Airlines), từ Tp Hồ Chí Minh bay đến Pakse (Laos Airlines) nối chuyến đến Luang Prabang, Viêng Chăn (Vietnam Airlines) rồi đi tiếp đến Luang Prabang bằng đường bộ hoặc đường hàng không. Sân bay ở ngay phía bắc thành phố và có các chuyến bay thường lệ đi / đến Bangkok, Chiang Mai, Hà Nội, Jinghong, Pakse, Siem Reap và Vientiane. Bangkok Airways [1] có chuyến bay với Bangkok. Laos Airlines [2] có chuyến bay với Bangkok, Chiang Mai, Hà Nội, Jinghong, Pakse và Vientiane. Vietnam Airlines [3] có chuyến bay với Hà Nội và Siem Reap. Visa được cấp khi đến có sẵn tại sân bay, chi phí 35 USD cho công dân của hầu hết các nước phương Tây vào tháng 1 năm 2013, nhưng cao hơn một chút cho nước đang phát triển. Trong mọi trường hợp, mang theo thêm $ 1 cho lệ phí xử lý trên đầu trang này để lót tay. Bạn cần một hình ảnh hộ chiếu để có được một thị thực. Nếu bạn không có một, họ sẽ quét hình ảnh của bạn từ hộ chiếu của bạn và tính phí cho bạn một đô la bổ sung. Công dân ASEAN không cần thị thực vào Lào cho những chuyến du không quá 30 ngày. Gia hạn visa là có thể tại Văn phòng xuất nhập cảnh đối diện với Rama Hotel. Chi phí là $ 2/ngày cộng với một khoản phí dạng $ 2. Quá trình này rất dễ dàng, bật lên vào buổi sáng với hộ chiếu và một ảnh, điền vào một biểu mẫu (ở Luang Prabang họ làm điều này cho bạn) và trở lại vào buổi chiều cho mở rộng của bạn. Tỷ giá hối đoái tại sân bay là hợp lý cạnh tranh với giá bên ngoài hiện hành không giống như trong các sân bay quốc tế khác. Taxi vào thành phố chi phí khoảng 6 USD, cho dù bạn là một mình hoặc với 3 người khác. Có một quầy taxi ngay bên ngoài sảnh đến sân bay. Hwy 13 kết nối Luang Prabang tới Vang Vieng và Vientiane ở phía nam và qua Hwy 1 ở phía bắc. Hwy 13 trong hình dạng tương đối tốt trong mùa khô tất cả các cách đến Viêng Chăn. Nó là tuyến đường dài và quanh co gập ghềnh.Đây là tuyến đường u tịch, có nhiều ổ gà. Mặc dù đã có sự cố bạo lực dọc theo dải này đường trong quá khứ, hiện nay nó là an toàn. Có ba trạm xe buýt, mỗi một chút ra khỏi thành phố, phục vụ các hướng khác nhau. Lái xe tuk-tuk biết trạm xe buýt để đi đến mà đích. Hỏi xung quanh cho lịch trình xe buýt. Vé có thể mua tại tất cả các đại lý du lịch trong thành phố, có ý nghĩa nhiều hơn mua chúng tại các trạm xe buýt như chỉ có một sự khác biệt của khoảng 20.000 kíp, mà trả tiền cho xe tuk-tuk từ nơi ăn nghỉ của bạn đến trạm xe buýt. Chọn những hãng có cả xe đưa đón do một số hàng không bao gồm trong giá chào. So sánh báo giá trước khi đặt phòng. Đặt vé trước, đặc biệt đối với xe buýt VIP như họ có chỗ ngồi dành riêng. Bạn không muốn kết thúc bằng cách ngồi bên cạnh nhà vệ sinh. Chiang Mai - xe buýt này trực tiếp đến Chiang Mai giá vé 1.200 baht một chiều. Hành trình xe thông qua Udomxai và Luang Nam Tha trước khi được vận chuyển qua sông Mê Kông bằng thuyền và tiếp tục đến Chiang Mai. Tổng số thời gian hành trình là 18 giờ. Bắt đầu từ năm 2013, xe buýt sẽ sử dụng cầu Hữu nghị Thái-Lào mới từ Huay Xai đến Chiang Kông và giá vé sẽ tăng lên 1.500 baht. Vang Vieng - các xe máy lạnh VIP có giá vé khoảng 150.000 kip, cùng một mức giá như xe buýt Viêng Chăn. Xe buýt nhỏ để lại từ Vang Vieng lúc 09:00 và chi phí 100.000 kip. Trạm xe buýt nhỏ là phía bắc của thị trấn. Chuyến đi kéo dài 6-7 giờ (không phải là 5, đại lý du lịch quảng cáo). Rte 13, dọc theo đó xe buýt đi, đi qua những ngọn núi và xoắn và biến khó chịu cho hầu hết các cuộc hành trình. Đây không phải là một chuyến đi đến thực hiện trên một dạ dày đầy đủ hoặc nếu bạn cảm thấy buồn nôn. Viêng Chăn - xe máy lạnh VIP với ghế ngả giá 150.000 kip trong khi một máy lạnh VIP xe buýt ngủ có giá 165.000 kíp nếu đặt thông qua một đại lý. Xe buýt nhanh (không máy lạnh) mua tại các trạm là 110.000 kip. Vé mua tại Vientiane đến Luang Prabang có nhiều tốn kém hơn so với mua ở Luang Prabang. Xe buýt sau thông qua Rte 13 nam là con đường với mặt đường đầy ổ gà. So sánh mặt được, chưa cho VIP ngủ / ghế VIP để Thể hiện cho các chuyến đi đêm, không có nhiều khác biệt. Nếu việc chụp các chuyến đi vào ban đêm, không có nhu cầu cho máy lạnh và người ta không thể ngủ trên đi xe này để nó vô dụng để đi xe buýt ngủ do rock và lăn. Những người dễ bị say tàu xe nên biết rằng chuyến đi này đi một con đường núi quanh co. Muang Xay - mất khoảng 5 giờ. Chi phí 40.000 kíp và điểm trở đi, chẳng hạn như Luang Namtha, là đi du lịch bằng xe minibus chỉ công cộng. Ba lô lớn được thực hiện trên mái nhà. Đặt thường là không cần thiết. Chỉ cần chăm sóc để đi sớm để đảm bảo một chỗ ngồi tốt. Luang Namtha - mất 8-9 giờ và chi phí 90.000 kíp. Các bộ phận của con đường dẫn từ Oudomxay (dừng trung gian giữa Luang Prabang và Luang Namtha) vẫn còn đang được xây dựng và khá gập ghềnh. Xe buýt địa phương trực tiếp qua Muang Xay lúc 09:00. Nếu không đi xe buýt đến Muang Xay và chuyển đổi đó. Nông Khiaw - 3 giờ đi bằng xe buýt công cộng từ Bến xe phía Bắc hoặc 8-10 giờ bằng thuyền khoảng 110.000 kip. Từ đó tàu thuyền kết nối với danh lam thắng cảnh Muang Ngòi Neua. Huay Xai - lên đến 15 giờ đi. Xe buýt công cộng để lại lúc 09:00 (đến 24:00) hoặc 17:00 (đến 08:00. Một chiếc xe buýt ngủ bình thường, không phải là ngủ). Chi phí 135.000 kip. Xe buýt VIP để vào những ngày xen kẽ, vé mua tại Bến xe phía Bắc sẽ có giá 35.000 kíp, ít hơn so với mua tại một đại lý ở thị trấn. Phonsavan - xe buýt mất khoảng 8 tiếng đồng hồ và chi phí 100.000 kip lá Bến xe phía Nam khoảng 08:00. Minibus mất khoảng 6 giờ và rời khỏi lúc 09:00 một Bạn có thể mua vé tại nhà khách của bạn và sắp xếp để được thu gom và đưa đến trạm xe buýt nhỏ. Bạn có thể ở lại trên xe buýt nhỏ cho đến khi nó xếp dọn thực người dân địa phương ở trung tâm của Luang Prabang mặc dù lái xe tuk-tuk có thể cố gắng làm cho bạn nhận ra trước đó tại trạm xe buýt.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Quần đảo Solovetsky",
"role": "user"
},
{
"content": "Đảo Solovetsky là một nhóm đảo thuộc Nga. Quần đảo Solovetsky bao gồm 6 hòn đảo với diện tích khoảng 300 km2 nằm ở phía tây Bạch Hải.Cảnh quan văn hóa lịch sử của đảo Solovetsky bao gồm những dấu vết quan trọng của sự sống con người có từ 3000 năm TCN. Từ thế kỷ 15, quần đảo có sự xuất hiện của các tu viện và các nhà thờ được xây dựng trong khoảng thời gian từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19 vẫn còn được bảo tồn nguyên vẹn. Các tu viện và nhà thờ trên đảo chính là biểu hiện rõ nét cho đức tin tôn giáo trong môi trường khắc nghiệt của cộng đồng tôn giáo thời trung cổ. Cảnh quan văn hóa lịch sử trên đảo được công nhận là Di sản văn hóa thế giới năm 1992.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Quế Lâm",
"role": "user"
},
{
"content": "Quế Lâm là thành phố Trung Quốc. Quế Lâm (tiếng Tráng: Gveihlaem, chữ Hán: 桂林; bính âm: Guìlín; Wade-Giles: Kuei-lin, bính âm bưu chính: Kweilin; tiếng Tráng: Gveilinz) là một địa cấp thị ở phía đông bắc Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc, phía tây sông Li Giang. Tên thành phố có nghĩa là rừng quế đặt theo tên cây quế (Osmanthus spp.) mọc ven và trong nội thành của địa cấp thị. Người Trung Quốc xem Quế Lâm là nơi tuyệt nhất dưới thiên đường. Phía tây tiếp giáp Liễu Châu, phía tây nam là Lai Tân, phía nam là Ngô Châu, phía đông nam là Hạ Châu. Các địa cấp thị này đều thuộc Quảng Tây. Phía tây bắc là Hoài Hóa, phía bắc là Thiệu Dương và phía đông là Vĩnh Châu đều thuộc tỉnh Hồ Nam. Tĩnh Giang Vương Thành là một hoàng thành có từ thời nhà Minh nằm gần trung tâm Quế Lâm. Những danh lam thắng cảnh khác quanh Quế Lâm còn có: Công viên Thất Tinh Động Thất Tinh và động Lô Địch Núi Lạc Đà và núi Tượng Tị Núi Điệp Thái Đồi Trăng Khuyết Núi Phục Ba Núi Nam Khê Erlang khẩu Bãi Huangbu Núi Nguyệt Lượng Ẩm thực Quế Lâm được biết đến là các món ăn nhẹ, dùng gia vị, đặt biệt là ớt. Tương ớt nổi tiếng của Quế Lâm được làm bằng ớt tươi, tỏi và đậu hủ. Mì Quế Lâm đã là món ăn sáng chính của dân địa phương từ thời nhà Thanh và nổi tiếng với hương vị tuyệt vời. Truyền thuyết kể rằng khi quân Thanh bị tiêu chảy ở vùng này, một đầu bếp đã chế ra món mì này cho quân sĩ ăn vì họ không quen ăn thức ăn địa phương. Đặc biệt là món mì thịt ngựa, nhưng cũng có thể gọi món mì không có thịt ngựa. Bánh tống tử (粽子), làm từ nếp và đậu xanh gói bằng lá chuối hay lá tre) là một món ăn tuyệt phổ biến khác ở Quế Lâm. Những món ăn đặc trưng khác còn có canh thịt rùa và thịt chuột đồng.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Chicago",
"role": "user"
},
{
"content": "Chicago thuộc (nhiều người Việt phát âm sai như là \"Chi-ca-gô\"; \"Si-cá-gồ\" mới đúng giọng Mỹ) là thành phố đông dân thứ ba của Hoa Kỳ, sau Thành phố New York và Los Angeles. Chicago nằm trong tiểu bang Illinois của miền Trung Tây Hoa Kỳ, ven bờ tây nam của hồ Michigan. Khi tính vào các ngoại ô và chín quận chung quanh ở Illinois, Wisconsin, và Indiana, khu vực đô thị dưới tên Chicagoland bao gồm gần 10 triệu dân cư. Được thành lập năm 1833 là thị xã ở biên giới Lãnh thổ Tây Bắc, Chicago phát triển thành một trong những thành phố hạng nhất của thế giới. Chicago là nơi của nhà chọc trời đầu tiên của thế giới, Tòa nhà Bảo hiểm Nhà cửa (Home Insurance Building), và ngày nay là trung tâm kiến trúc, tài chính, và văn hóa của miền Trung Tây. Nó là trung tâm vận tải của nước Mỹ, có nhiều đường xe lửa và đường xuyên bang nhất của thành phố nào trong nước. Chicago cũng đứng đầu về số hội chợ được đăng cai hàng năm. Thành phố đã nổi tiếng toàn thế giới lâu năm về tài chính, công nghệ, vận tải, và dân tộc. Các nhà chọc trời, món ăn, truyền thống chính trị, và đội thể thao của Chicago cũng nổi tiếng. Nó có nhiều tên hiệu, bao gồm \"Thành phố thứ hai\" (tiếng Anh: \"Second City\"), \"Thành phố lắm gió\" (\"Windy City\"), \"Thành phố vai lớn\" (\"City of Big Shoulders\"), và \"Chi-town\". Khoảng một phần ba của dân cư thành phố là người Mỹ gốc Âu, một phần ba là Mỹ gốc Phi, khoảng một phần tư là người Hispanic, và một phần 20 là Mỹ gốc Á, có một số người khác còn lại. Chicago được chia thành 77 khu chính thức. Chicago tạo ra GDP vùng đô thị là 390 tỷ USD và có quận kinh doanh trung tâm lớn thứ 2 Hoa Kỳ.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Sanyo-Onoda",
"role": "user"
},
{
"content": "Sanyo-Onoda (山陽小野田市 Sanyō-Onoda-shi) là một thành phố thuộc tỉnh Yamaguchi. 33.9595825Đền Akasaki1 Đền Akasaki (赤嵜神社), Onoda 4365. (cập nhật vào tháng 2 2018) Lễ hội Hoa Anh Đào. (cập nhật vào tháng 2 2018) Ube Shimonoseki Yamaguchi Mine Nagato Hagi Ato Hofu Kitakyushu",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Juan Luis Cipriani Thorne",
"role": "user"
},
{
"content": "Juan Luis Cipriani Thorne (sinh 1943) là một Hồng y người Peru của Giáo hội Công giáo Rôma. Đất nước này rất đa dạng, về địa lý, và sắc tộc, vì vậy thực tế va chạm của các giám mục Peru dọc bờ biển, trên núi, hoặc trong rừng rất khác nhau. Với 50 giám mục đại diện cho những khu vực rất khác biệt này, cố gắng kết hợp tất cả mọi thứ vào một cuộc họp thường không phải là dễ dàng. ĐGH Phan-xi-cô thăm Pê-ru từ (2018) Wikipedia có bài viết về: Juan Luis Cipriani Thorne Wikimedia Commons có phương tiện liên quan tới: Juan Luis Cipriani",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Quảng Nam",
"role": "user"
},
{
"content": "Quảng Nam thuộc Nam Trung Bộ, Việt Nam. Tỉnh lỵ là Tam Kỳ. Tỉnh này có hai di sản văn hoá thế giới là phố cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn. Tam Kỳ - thành phố tỉnh lị Hội An - di sản văn hoá thế giới Thánh địa Mỹ Sơn, cố đô của Vương quốc Chăm Pa với nhiều tháp Chàm, di sản thế giới UNESCO. Đèo Hải Vân, đèo nằm trên quốc lộ 1A, ranh giới giữa Quảng Nam và Thừa Thiên- Huế. Cù lao Chàm, đảo gần Hội An. Quảng Nam còn là nơi có nhiều làng nghề truyền thống được hình thành và phát triển từ nhiều đời nay. Trải qua hàng trăm, hàng ngàn năm, nghề và làng nghề đã tồn tại và phát triển ở đây như một phần không thể tách rời lịch sử mỗi làng quê, thôn xóm của vùng đất này. Lễ hội ở Quảng Nam cũng hết sức phong phú và đa dạng. Các lễ hội của người dân miền núi, miền biển, lễ hội nông nghiệp, lễ hội tôn giáo,... tất cả đều mang yếu tố tín ngưỡng, tâm linh, được tổ chức đều đặn hàng năm để cầu mong cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an; để ngợi ca những bậc tiền nhân; hướng về cội nguồn, truyền thống của dân tộc và thể hiện khát vọng vươn tới chân - thiện - mỹ của con người nơi đây... Trên 220 di tích lịch sử cách mạng trong đó có 17 di tích xếp hạng quốc gia được giữ gìn và tôn tạo; xây dựng thêm hàng trăm nhà làng truyền thống (nhà Gươl, Rông...) cho đồng bào các dân tộc. Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao như: hội thi, hội diễn, lễ hội, giao lưu văn hóa, văn nghệ làng xã,... nhất là Lễ hội Quảng Nam - Hành trình di sản, Lễ hội Văn hóa - Thể thao các huyện miền núi được tổ chức thường kỳ, góp phần giữ gìn, tôn tạo, phát huy, giao lưu và quảng bá giá trị văn hóa xứ Quảng, đồng thời đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Đường bộ theo quốc lộ 1A Đường sắt bắc nam tại ga Đà Nẵng hoặc ga Tam Kỳ. Sân bay quốc tế Đà Nẵng hoặc sân bay Chu Lai. Lễ hội Cầu Bông - được tổ chức vào một ngày đẹp trời của mùa xuân hằng năm tại sông Hội An, gần biển Cửa Đại. Lễ hội rước Cộ chợ Được - được tổ chức vào ngày 10, 11 tháng Giêng Âm lịch, tại chợ Được thuộc xã Bình Triều, huyện Thăng Bình. Lễ hội Bà Thu Bồn -được tổ chức hằng năm vào ngày 12 tháng 2 Âm lịch, tại dinh bà Thu Bồn thuộc xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên. Lễ vía Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu, được tổ chức vào ngày 23 tháng 3 Âm lịch hàng năm do người Hoa kiều sinh sống ở Hội An tổ chức tại Hội quán Phúc Kiến và hội quán Ngũ Bang. Lễ hội Long Chu, được tổ chức vào rằm tháng Giêng Âm lịch, rằm tháng Bảy Âm lịch hằng năm. Lễ tế cá Ông, được tổ chức tại lăng Ông vào ngày kỵ (ngày mất) của cá Ông hoặc nơi có cá Ông chết. Lễ cúng tổ Minh Hải, được tổ chức vào ngày 7 tháng 11 Âm lịch hàng năm tại chùa Chúc Thánh (Hội An). Lễ hội đêm Rằm phố cổ Hội An, được tổ chức vào những đêm 14 Âm lịch hằng tháng trên khắp Hội An Lễ hội \"Quảng Nam - Hành trình Di sản\", được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2003, từ đó được tiếp nối định kỳ 2 năm một lần. Khám phá Địa Đạo Kỳ Anh, thuộc xã Tam Thăng, thành phố Tam Kỳ cách trung tâm thành phố khoảng 7 km về phía Đông Bắc. Mì Quảng Cao lầu Bánh dừa nướng: là món bánh được làm từ cơm dừa, bột vani, đường trộn đều và nướng lên cho đến khi bánh giòn thì đóng gói. Đây là món ăn được rất nhiều khách du lịch tìm mua khi ghé Đà Nẵng hoặc Quảng Nam vì độ ngon và nổi tiếng của món bánh này. Món bánh này từng lên một kênh truyền hình nổi tiếng Hàn Quốc. Cơm gà Tam Kỳ Wikipedia:Quảng Nam Thông tin tham khảo về món bánh dừa nướng: bánh dừa nướng Quảng Nam",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Lombardia",
"role": "user"
},
{
"content": "Lombardia là một vùng của Ý. Lombardia (tiếng Ý: Lombardia, Tây Lombard: Lumbardìa, Đông Lombard: Lombardia) là một trong 20 vùng của Ý. Thủ phủ là thành phố Milano. Một phần sáu dân số Ý sống ở Lombardia và khoảng một phần năm GDP của quốc gia này được tạo ra ở vùng này. Các ngôn ngữ được sử dụng trong vùng là tiếng Ý, Tây Lombard và Đông Lombard. Milano (Milan, thủ phủ) - cùng Paris là kinh đô thời trang thế giới. Bergamo - có piazza đẹp nhất Ý. Brescia Lecco- thành phố nhỏ bên hồ Como. Mantova Monza Sondrio",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Hà Nam",
"role": "user"
},
{
"content": "Hà Nam [1] là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng của Việt Nam. Phía bắc tiếp giáp với Hà Nội, phía đông giáp với tỉnh Hưng Yên và Thái Bình, phía nam giáp tỉnh Ninh Bình, đông nam giáp tỉnh Nam Định và phía tây giáp tỉnh Hòa Bình. Hà Nam nổi tiếng nhiều đặc sản ngon và độc đáo như món cá kho làng Vũ Đại, chuối ngự Đại Hoàng, bánh đa nem làng Chều. Đây là những món quà rất ý nghĩa khi du khách đến với Hà Nam",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Bắc Cực",
"role": "user"
},
{
"content": "Bắc Cực là điểm cực Bắc của Trái Đất. Có nhiều định nghĩa về \"Bắc Cực\",nhưng nổi tiếng nhất là theo địa lý, nằm ở vĩ tuyến 90°Bắc (kinh tuyến không được nhắc tới). Khác với Nam Cực, thuộc lục địa Nam Cực, vị trí địa lý của Bắc Cực ở giữa những tảng băng trôi thuộc bề mặt Bắc Băng Dương. Không có gì dùng để đánh dấu vị trí vì băng trôi từ năm này qua năm khác. Ngoài ra cũng có Cực từ Bắc. Một điểm mà trên là bàn từ chỉ đến. Vị trí này đang trôi dần dần, và đang ở trên đảo Ellef Ringnes (thuộc Quần đảo nữ hoàng Elizabeth ở bang Nunavut, Canada), và tại Qaanaaq, Greenland. Còn có định nghĩa về Cực Bắc xa nhất, điểm xa nhất về phía Bắc so với tất cả các bờ biển. Địa điểm đó tại 84°03'B 174°51'T. Chỉ có thể đến Bắc Cực trong các cuộc thám hiểm với các mục đích đăc biệt. Đa số đi bằng máy bay, một số người có các chuyến đi bọ thám hiểm dài ngày. Ngoài ra có thể đi băng tàu, thuyền phá băng qua Bắc Băng Dương. Các chuyến thám hiểm thường diễn ra vào thắng 4 khi băng còn tốt. Arctic Direct, [1]. Arctic Odysseys. [2]. Deutsche Polarflug, [3]. €555-€1190 hạng phổ thông, gọi điện đặt trước để đi hạng nhất. Global Expedition Adventures, [4]. Tối thiểu $12,000 mỗi người. Icetrek, [5]. €7,900-€13,900. Northwest Passage, [6]. Voyage Concepts, [7]. £12,000 ++. Polar Challenge, [8]. Phí vào hội £17,500 một người. North Pole Adventures, [9]. Chuyến đi trung bình khoảng €10,000 một người,những người đi trăng mật có thể có ưu đãi. Có rất thứ thú vị để ngắm ở Bắc Cực, ngắm hoàng hôn, bình minh, chụo ảnh băng, tuyết, câu cá, bơi hay kí tến lên băng. Dù có tên là gấu Bắc Cực nhưng hiếm khi loài này lên vung cực (chúng thích ở những đảo xung quanh, gần các lục địa. Là điều không thể để mua được bất kì thứ gì tại Bắc Cực; bạn nên mang mọi thứ cần thiết cho chuyến thám hiểm Dù không có nơi ăn chốn ở đàng hoàng gần cực nhưng bạn có thể dựng lều tạm thời cho 1 hay nhiều đêm. Trạm nghiên cứu Barneo có chỗ trú có máy sưởi, nơi thường được các nhà thám hiểm có chuyến đi hơn một ngày sử dụng. Trưởng đoàn sẽ mang tất cả đồ ăn cho bạn. Ăn trứng cá tầm ở Cực Bắc là một truyền thống. Băng ở Bắc Cực được hình thành từ nước biển Bắc Băng Dương, nên không thể uống được kể cả khi giã đông và lọc. Ăn mừng bằng sâm panh là một truyền thống hay rượu vodka ở nhiệt độ -40° khi đang đứng trên chỏm băng cũng khá phổ biến. Tất cả mọi người sau khi tới Bắc Cực đều đi về phía Nam",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Khu tưởng niệm hòa bình Hiroshima",
"role": "user"
},
{
"content": "Khu tưởng niệm Hòa bình Hiroshima (広島平和記念碑 Hiroshima Heiwa Kinenhi) ban đầu là Triển lãm thương mại tỉnh Hiroshima, và bây giờ thường được biết đến với tên Vòm bom nguyên tử, Atomic Bomb Dome hoặc A-Bomb Dome (原爆ドーム Genbaku Dōmu) là một phần của Công viên tưởng niệm hòa bình Hiroshima nằm ở thành phố Hiroshima, Nhật Bản. Được công nhận là Di sản thế giới của UNESCO từ năm 1996, đây là đài tưởng niệm để tưởng nhớ đến những người đã thiệt mạng trong Vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima vào ngày 6 tháng 8 năm 1945. Hơn 70.000 đã chết và 70.000 người khác bị thương nặng do ảnh hưởng của phóng xạ. Vào lúc 8:15 ngày 6 tháng 8 năm 1945, quả bom nguyên tử Little Boy phát nổ gần như ngay phía trên Mái vòm Bom nguyên tử. Thành phố Hiroshima ngay lập tức trở thành một cánh đồng cháy. Những người không chết tại thời điểm vụ nổ xảy ra đã nhảy xuống sông để làm mát cơ thể bị bỏng của họ. Những người sống sót cũng bị tổn thương da và rụng tóc. 34.395483Vòm bom nguyên tử (Khu tưởng niệm hòa bình Hiroshima)1 Vòm bom nguyên tử (Khu tưởng niệm hòa bình Hiroshima) (原爆ドーム(広島平和記念碑)). (cập nhật vào tháng 7 2021) Các tài liệu liên quan đến vụ ném bom nguyên tử (trang web của Bảo tàng Tưởng niệm Hòa bình Hiroshima) 34.23338Công viên tưởng niệm hòa bình Hiroshima2 Công viên tưởng niệm hòa bình Hiroshima (広島平和記念公園). (cập nhật vào tháng 4 2021) 34.391503Bảo tàng tưởng niệm hòa bình Hiroshima3 Bảo tàng tưởng niệm hòa bình Hiroshima (広島平和記念資料館). Có một tòa nhà chính và một tòa nhà phía đông, và lối vào là tòa nhà phía đông. Đây là bảo tàng trưng bày ảnh hưởng của vụ ném bom nguyên tử xảy ra vào ngày 6/8/1945. (cập nhật vào tháng 4 2021) 34.2341Tháp tưởng niệm bom nguyên tử4 Tháp tưởng niệm bom nguyên tử (原爆供養塔). Một tháp tưởng niệm được xây dựng vào ngày 5 tháng 8 năm 1955 (Showa 30). Đó là lễ tưởng niệm những thi thể chưa được vớt lên do bom nguyên tử thả xuống. (cập nhật vào tháng 4 2021) 34.394142Đài tưởng niệm hòa bình của trẻ em5 Đài tưởng niệm hòa bình của trẻ em (原爆の子の像). Một bức tượng mô phỏng Sadako Sasaki, người đã chết vì bệnh bạch cầu do vụ ném bom gây ra. (cập nhật vào tháng 4 2021) 20 phút đi xe buýt địa phương từ Ga JR Hiroshima. Đường cao tốc Sanyo·Quốc lộ 2 70 phút đi xe buýt limousine từ Sân bay Hiroshima. Hiroshima",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Lao động sản xuất",
"role": "user"
},
{
"content": "Lao động là vinh quang. Nhai kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa. Công cấy, công bỏ, công làm cỏ, công ăn. Đất thiếu trồng dừa, đất thừa trồng cau. Khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen. Khoai to vồng tốt củ, đậu ba lá vừa vun. Mít chặt cành, chanh chặt rễ. Phân tro không bằng no nước. Thứ nhất cày nỏ, thứ nhì bỏ phân. Tốt giếng tốt má, tốt mạ tốt lúa. Trồng tre đất sỏi, trồng tỏi đất bồi. Rau ruộng lạ, mạ ruộng quen. (?) Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Salamanca",
"role": "user"
},
{
"content": "Salamanca là một thành phố thuộc vùng Trung Tây Ban Nha. Salamanca là một thành phố ở phía tây Tây Ban Nha, tỉnh lỵ của tỉnh Salamanca, cộng đồng tự trị Castile và Leon (Castilla y León). Thành cổ của thành phố này là di sản thế giới UNESCO năm 1988. Thành phố này nằm trên ngọn núi bên sông Tormes, nơi có một cây cầu dài 150 m, có 26 vòm, trong đó có 15 nhịp vòm có gốc La Mã còn phần còn lại được xây thế kỷ 16. Thành phố này được Vacceos lập vào thời tiền La Mã Cổ đại làm pháo đài phòng thủ gần sông Duero.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Yeoseodo",
"role": "user"
},
{
"content": "Yeoseo-do là một hòn đảo nằm ngoài khơi tỉnh Jeolla Nam, Hàn Quốc. Hòn đảo này có diện tích 2,51 km2 với khoảng 100 cư dân sinh sống (dân số 2001). Trên đảo có ngọn núi vô danh cao khoảng 352 mét, cư dân trên đảo sống chủ yếu bằng nghề nông và nghề đánh bắt cá, các sản phẩm chính của họ gồm có khoai lang,lúa mì, gạo, đậu và vừng.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Tục ngữ thổ dân Úc",
"role": "user"
},
{
"content": "Hãy để mắt của bạn nhìn mặt trời và bạn sẽ không thấy được bóng tối.... trừ khi đó là ban đêm. Keep your eyes on the sun and you will not see the shadows.... unless it is nightime. Folklore at rightwords.eu Những người từ bỏ ước mơ là những người bị mất tích. Those who lose dreaming are lost. Proverb at Quotes.net Càng nhiều thứ bạn biết, càng ít thứ bạn cần. The more you know, the less you need. Chúng ta đều là những người viếng thăm lúc này, nơi này. Chúng ta chỉ đi ngang qua nơi đây. Mục đích của chúng ta ở đây là tìm hiểu, học hỏi, lớn khôn, yêu thương... và sau đó ta trở về nhà. We are all visitors to this time, this place. We are just passing through. Our purpose here is to observe, to learn, to grow, to love... and then we return home. Chúng ta ở nơi đây cũng như nơi chúng ta ở. May as well be here we are as where we are. Hành trình dài 1000 dặm bắt đầu với từng bước một. A 1000 miles journey starts with a single step. Bài viết bách khoa Tục ngữ thổ dân Úc tại Wikipedia",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Antwerpen",
"role": "user"
},
{
"content": "Antwerpen Antwerpen [ˈɑntˌʋɛrpə(n)], tiếng Pháp: Anvers, tiếng Anh: Antwerp) là một thành phố và đô thị của Bỉ, thủ phủ của tỉnh tỉnh Antwerpen ở Flanders, một trong 3 vùng của Bỉ. Tổng dân số của Antwerpen là 472.071 người (thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 2008) và tổng diện tích là 204,51 km2, mật độ dân số là 2.308 người trên mỗi km2. Vùng đô thị, bao gồm khu vực xung quanh với tổng diện tích 1.449 km2 và dân số 1.190.769 người (thời điểm ngày 1/1/2008). Nguồn gốc của Antwerp đến từ \"aan de werpe\", trong tiếng Hà Lan \"nơi ném\", đề cập đến nơi con sông ném cát của nó. Tên cũng có một giai thoại hài hước nói rằng nó xuất phát từ \"Hand werpen\", mà dịch là \"tay ném\". Trong lá cờ chính thức, lâu đài \"het Steen\" và bàn tay của Antwerp được hiển thị. Trong thế kỷ 16, Antwerp là một trong những trung tâm tài chính quan trọng nhất của thế giới, nơi thương nhân từ khắp châu Âu và châu Á mua bán hàng hóa của họ. Sau khi cuộc bao vây Antwerpen năm 1585 bởi người Tây Ban Nha, vai trò này như là một trung tâm tài chính được chuyển sang Amsterdam. Tuy nhiên, từ thế kỷ 19 và đặc biệt là thế kỷ 20, Antwerp đã lấy lại tầm quan trọng kinh tế. Với dân số 506.225 (2012), nó là thành phố lớn thứ hai ở Bỉ, sau Brussels, và nó có một cảnng lớn của châu Âu. Do lịch sử lâu dài và phong phú văn hóa của nó, thành phố Antwerp có nhiều tòa nhà lịch sử thú vị từ thời kỳ lịch sử khác nhau, cũng như rất nhiều bảo tàng thú vị. Gần đây nó đã trở thành một thành phố xu hướng, thu hút rất nhiều nghệ sĩ, nhà văn, trí thức, và các diễn viên Flemish và nước ngoài. Điều này được phản ánh trong nhiều quán bar và các cửa hàng thời trang của thành phố. Antwerp là một thành phố với nhiều khuôn mặt. Trong khi nó có thể không bảo tồn về mặt lịch sử như các thành phố thời trung cổ Flemish khác, như Bruges hay Ghent, nó là một thành phố rất năng động, cung cấp một sự pha trộn hoàn hảo của lịch sử và cuộc sống hiện đại ngày nay. Trong hơn 500 năm, thành phố Antwerp đã đứng ở ngay trung tâm buôn bán kim cương, và các bậc thầy cắt kim cương. Ngày nay, tám mươi phần trăm của tất cả các viên kim cương thô trên thế giới được giao dịch qua Antwerp, trong khi năm mươi phần trăm của tất cả các viên kim cương cắt đi qua Antwerp. Sân bay Antwerpen (IATA: ANR) [1]. Chỉ có một hãng hàng không phục vụ sân bay Antwerpeny: CityJet [2], phục vụ chủ yếu cho khách du lịch kinh doanh. Hãng có 5 chuyến bay mỗi ngày tới Sân bay London City (LCY) và mỗi ngày một lần đến Manchester (MAN) ở Vương quốc Anh, với các kết nối thuận tiện đến Dublin, Dundee, Edinburgh và Jersey. Có một xe buýt thường xuyên đến trung tâm và một chi phí taxi khoảng 10 €. Sân bay Brussels (IATA: BRU) [3]. Mỗi giờ có một xe buýt trực tiếp đến và đi từ sân bay này có giá 10 € và có hai điểm dừng trong Antwerpen tại khách sạn Crowne Plaza và trong trung tâm thành phố, trước Nhà ga Trung tâm. Kể từ khi hoàn thành tuyến đường sắt Diabolo, xe lửa trực tiếp hàng giờ liên kết nhà ga trung tâm Antwerp với sân bay đã được giới thiệu, và thời gian đi lại đã được cắt giảm xuống còn 35 phút (45 phút vào cuối tuần và ngày lễ). Vé người lớn duy nhất là 8,00 €. Sân bay Schiphol (IATA: AMS) [4]. Có 2 lựa chọn để đi xe lửa từ sân bay Schiphol của Amsterdam đến nhà ga trung tâm Antwerpen. Có một tuyến tàu liên thường Amsterdam - Brussels kết nối Sân bay Schiphol trực tiếp với trạm trung tâm Antwerp trong khoảng 1 giờ 50 phút. Bạn có thể mua vé bằng thẻ tín dụng tại các gian hàng bán vé tự động trong hội trường đến Schiphol. Thanh toán bằng tiền mặt cũng có thể tại quầy. Hoặc bạn có thể đặt thông qua đường sắt Bỉ (SNCB / NMBS) [5]. Chi phí vé duy nhất khoảng € 25. Lựa chọn thứ hai, là tàu cao tốc màu đỏ tươi Thalys tàu Amsterdam - Paris, cũng kết nối sân bay Amsterdam với nhà ga trung tâm Antwerp, trong khoảng một nửa thời gian cần tàu thông thường, nhưng gấp đôi giá. Trái với tàu thông thường, phải đặt chỗ đặt trên tàu Thalys. Tốt nhất đặt chỗ một tuần hoặc lâu hơn trước, do mua vé tại chỗ sẽ thậm chí còn đắt hơn. Hãy ghi nhớ rằng liên tỉnh thường xuyên và Thalys đều do các công ty khác nhau, nhưng tàu của họ có xu hướng để lại từ cùng một sân ga. Dù bạn làm gì, không nhảy trên một chuyến tàu Thalys với một vé liên tỉnh thường xuyên hoặc ngược lại. Các vé tàu Thalys và vé tàu thường không được hoán đổi. Bỉ có một mạng lưới đường sắt rộng lớn cho đi lại liên thành phố trong nước Bỉ, xe lửa luôn là lựa chọn tốt nhất. Vé có thể được mua trên các trang web của các tuyến đường sắt Bỉ và tại các quầy vé trong hầu hết các trạm. Có kết nối tàu tốt đến và đi từ Sân bay Brussels và sân bay Schiphol ở Amsterdam. Lập kế hoạch chuyến đi của bạn, bạn có thể tham khảo trang web của NMBS [6] cho chuyến đi của quốc gia và quốc tế. Nếu bạn vượt qua nhiều biên giới, nó thường có thể đặt toàn bộ chuyến đi của bạn cùng một lúc thông qua Deutsche Bahn [7]. Antwerp-Central là một điểm dừng quan trọng trên đường tàu cao tốc Paris-Amsterdam. Từ năm 2009, xe lửa quốc tế từ Pháp và Hà Lan dừng lại ở trạm Antwerp-Central, và không dừng ở Antwerp-Berchem. Thông qua trạm Brussels-đường sắt Bắc Nam, cũng có các kết nối tốc độ cao tới các điểm đến khác ở Pháp với TGV, hoặc các điểm đến tại Đức với ICE. Thông tin thời gian thực về giao thông đường sắt, sự chậm trễ, gián đoạn, đến và khởi hành tại mỗi trạm Bỉ có thể dễ dàng tìm thấy trên RailTime [8]. Nếu bạn có một kết nối internet di động có sẵn, ứng dụng BeTrains cũng có thể được sử dụng [9]. Kể từ khi 9 tháng 12 năm 2012, các tuyến tàu cao tốc mới Fyra kết nối Antwerp và Brussels đến Rotterdam, Sân bay Schiphol và Amsterdam",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Kobe",
"role": "user"
},
{
"content": "Kobe (Nhật: 神戸市 Kobe-shi?, Thần Hộ Thị) là một thành phố quốc gia của Nhật Bản ở vùng Kinki nằm trên đảo Honshu. Kobe là trung tâm hành chính của tỉnh Hyogo và là một trong những cảng biển chính ở Nhật, cùng với Yokohama, Osaka, Nagoya, Fukuoka và Tokyo. Kobe là một thành phố cảng sầm uất với dân số khoảng 1.500.000 người. Nishi-ku (西区): Nông nghiệp ở quận Nishi rất trù phú bởi có hệ thống sông Akashigawa, là nơi thiên nhiên phong phú có quang cảnh thôn quê an bình. Đây là quận có lịch sử và truyền thống với nhiều đền chùa. Kita-ku (北区): Ngọn núi Rokko trải dài ở phía bắc của quận Kita cho thấy sự trù phú của thiên nhiên mà những đại đô thị không thể có. Trong quận, ngoài suối nước nóng Arima còn có tài sản giá trị văn hóa hoặc nghệ nhân dân tộc. Tarumi-ku (垂水区): Quận Tarumi là quận có khí hậu ôn hòa và môi trường thiên nhiên phong phú. Là nơi được biết đến qua tuyệt cảnh của eo biển Akashi và đảo Awaji. Suma-ku (須磨区): Quận Suma là quận nằm ở giữa vùng núi trù phú và vùng biển lặng sóng. Phía nam có di tích cỗ và phía bắc có khu dân cư được thành lập 40 năm trước, đã khiến cho quận Suma trở thành quận có đầy sự quyến rủ của lịch sử và thiên nhiên. Nagata-ku (長田区): Quận Nagata là quận có diện tích hẹp nhất trong 9 quận của TP Kobe nhưng lại là quận có mật độ dân số cao nhất. Quận có nhiều di tích lịch sử và có nếp sống văn hóa của khu phố đầy tình người. Hyōgo-ku (兵庫区): Quận Hyogo, nơi đã từng là thủ đô của Nhật Bản vào năm 1180. Tại đây cũng còn sót lại nhiều di tích lịch sử và truyền thống và là trung tâm lịch sử của thành phố. Chūō-ku (中央区): Vị trí của quận Chuo nằm giữa trung tâm của thành phố Kobe tạo nên sự phát triển cho Kobe. Quận có nhiều di sản mang tính lịch sử và là nơi dừng chân của rất nhiều khách du lịch. Ngoài ra, phía đông có xây dựng đô thị mới là HAT Kobe và đảo nhân tạo Port. Nada-ku (灘区): Quận Nada là khu vực bao bọc bởi biển và núi, hướng bắc giáp núi Rokko và núi Maya, phía nam giáp cảng Osaka; có nhiều cơ sở đa văn hóa, thể thao, giáo dục. Higashi nada-ku (東灘区): Quận Higashi Nada là khu phố giàu thiên nhiên có dòng sông Sumiyoshi chảy ở giữa quận. Quận còn có sự quyến rũ đa diện vì là nơi có truyền thống văn hóa cũ như Danjiri.v.v... nhưng lại có cả cái mới như đã kiến tạo đô thị trên mặt biển như đảo nhân tạo Rokko Đây là một trong những thành phố đầu tiên mở rộng thông thương với phương Tây từ năm 1868. Thành phố cảng biển quốc tế này có 45.500 cư dân nước ngoài đến từ 100 quốc gia. Kobe cũng là quê hương của món thịt bò Kobe nổi tiếng thế giới. Người dân ở đây nuôi và làm thịt gia súc theo một cách riêng để lấy được thịt ngon. Năm 1995, một cơn địa chấn ở phía nam đảo Awaji có cường độ 6,8 Mô men đã làm cho 6.434 người bị thiệt mạng (ước tính vào ngày 22 tháng 12 năm 2005); trong đó khoảng 4.600 ở Kobe. Kobe là thành phố bị phá huỷ nặng nề nhất do nó nằm gần tâm chấn nhất. Để tưởng niệm nạn nhân của trận động đất, thành phố luôn làm lễ mặc niệm vào tháng 12 hàng năm, Luminarie, lúc đó cả Tòa thị chính được trang trí với những mái vòm chiếu sáng. Các công cụ được tìm thấy ở phía Tây Kobe đã chứng minh đã có người sinh sống tại đây vào thời kỳ Jomon. Các địa lí tự nhiên của khu vực, đặc biệt là Hyōgo-ku, đã khiến cho nó trở thành trung tâm lịch sử của thành phố. Có một thời gian ngắn Kobe đã từng là thủ đô của Nhật Bản, từ tháng 6 năm 1180 đến tháng 11 năm 1180 vào thời kỳ Heian. Thành phố được thành lập vào ngày 1 tháng 4 năm 1889, và chính thức công nhận là thành phố quốc gia vào ngày 1 tháng 9 năm 1956. Trong thời kì Đệ nhị thế chiến, Kobe đã bị ném bom. Những trái bom từ máy bay B-29, vào ngày 17 tháng 3 năm 1945, giết chết 9000 người dân và đốt cháy cả thành phố. Từ những áp lực liên tiếp từ phía công dân, ngày 18 tháng 3 năm 1975, Hội đồng thành phố Kobe đã phải ra nghị quyết cấm mang vũ khí hạt nhân vào cảng Kobe. Hiệu quả của nghị quyết đó là ngăn ngừa tàu chiến Hoa Kỳ chứa vũ khí hạt nhân vào cảng. Ngày 17 tháng 1 năm 1995, một trận động đất 7,2 độ Richter, xảy ra vào 5:46 giờ sáng gần thành phố đã làm chết 6.433 người, làm 300.000 người thành vô gia cư, phá hủy phần lớn kho cảng và nhiều phần của thành phố. Đó là một thảm họa thiên nhiên tồi tệ nhất trong lịch sử hiện đại của thành phố. Cơn địa chấn đã phá hủy xa lộ Hanshin, nên còn được gọi là Cơn địa chấn dữ dội Hanshin. Kobe đã là cảng biển bận rộn nhất Nhật Bản, nằm trong 10 cảng biển Châu Á cho tới khi cơn địa chấn Hanshin xảy ra. Từ sau đó, cảng Nagoya đã trở thành cảng biển lớn nhất nước Nhật. Thứ hạng quốc tế của Kobe đã tụt xuống 29 (năm 2002). Nhưng cảng Kobe sau đó đã lại leo lên vị trí thứ 3 Nhật Bản. Nằm giữa bờ biển và dãy núi Rokko, thành phố Kobe rất dài và hẹp. Ranh giới của phần đất cảng là ngọn tháp cảng thép đỏ. Về phía đông là thành phố Ashiya, trong khi thành phố Akashi nằm ở phía tây của nó. Các thành phố lân cận khác bao gồm Takarazuka và Nishinomiyavề phía đông và Sanda và Miki về phía bắc. Hai hòn đảo nhân tạo, Đảo Cảng và đảo Rokko, được xây dựng để mở rộng phần thành phố vốn hẹp này. Cách xa bờ biển, trung tâm thành phố Kobe là phường Motomachi và Kokashita, cả khu phố Tàu Nankimachi. Núi Rokko nhìn ra Kobe ở độ cao 931 mét. Đây là nơi cao nhất ở Kobe. Sân bay Kobe (神 戸 空港, UKB), được xây dựng trên đất khai hoang lấn biển ở phía trước của bến cảng, mở cửa vào tháng 2 năm 2006. Sân bay chỉ phục vụ các chuyến bay nội địa: cả Japan Airlines (JAL) và All Nippon Airways (ANA) có các chuyến bay đến Kobe từ Tokyo Haneda, Sapporo, Sendai, Okinawa và Kagoshima. ANA cũng cung cấp dịch vụ từ Niigata, trong khi JAL có các chuyến bay từ Kumamoto. Một hãng hàng không chi phí thấp mới, Skymark, là cung cấp các chuyến bay giá rẻ đến Tokyo cũng như Naha. Từ sân bay Kobe, đường sắt nhẹ Port Liner có chuyến tàu chạy mỗi 10 phút, đến Sannomiya ít hơn 20 phút (320 yen) dễ dàng kết nối với đường sắt Nhật Bản (JR), Hanshin, Hankyu và tuyến tàu điện ngầm ít hơn 20 phút (¥ 320). Từ đó, một chuyến đi nhỏ trên tàu điện ngầm sẽ liên kết bạn đến trạm tàu cao tốc Shin-Kobe (¥ 200). Nếu đến từ Sannomiya đến sân bay, hãy chắc chắn để lên tàu được đánh dấu \"Kobe Airport\", do một số tàu chạy đi tuyến nhánh Kita Futo. Sân bay quốc tế gần nhất là sân bay quốc tế Kansai. Cách nhanh nhất để đến đó là đi trên tàu thủy cao tốc Kaijo Access từ Sân bay Kobe, chạy mỗi 45 phút hoặc lâu hơn, dùng 29 phút một chiều (¥ 1500). Tuy nhiên, nếu đến từ trung tâm Kobe, gần như nhanh chóng và ít rắc rối khi đón những sân bay xe Limousine. Xe buýt sân bay có giá ¥ 2000, và thời gian để Sannomiya mất 65-75 phút tùy thuộc vào việc xe buýt đi trực tiếp đến Sannomiya hoặc dừng đầu tiên trên đảo Rokko. Ngoài ra, JR nhanh nhanh kết nối tại Osaka về nhanh và đáng tin cậy hơn. Bởi JR, đi xe giá ¥ 2410 và kéo dài 90 phút, lấy Kanku Kaisoku (关 空 快速) nhanh chóng đài Osaka và thay đổi đó đến Shin-kaisoku (新 快速 - đặc biệt nhanh) mà chạy cho cả hai trạm Kobe Sannomiya và. Cuối cùng, nếu bạn hạ cánh tại sân bay Itami ở Osaka, xe buýt sân bay chạy đến Sannomiya trong 40 phút và chi phí ¥ 1020. Nhà ga tàu shinkansen gần nhất là Shin-Kobe. Từ ga Tokyo, đến Shin-Kobe mất 2 tiếng 50 phút nếu đi tàu Nozomi (¥14670); 3 tiếng 20 phút nếu đi tàu Hikari (¥14270; không tính phụ phí khác nếu dùng các loại tàu điện của JR trong việc chuyển tuyến). Từ ga Shin-Kobe, chuyển qua tuyến tàu điện ngầm Seishin Yamate dừng tại ga kế tiếp là Sannomiya (¥200). Nếu bạn có hành lý nhẹ bạn có thể đi bộ từ Shin-Kobe đến Sanomiya. Từ Osaka thì có nhiều cách đến Sannomiya: Các tàu trên tuyến tư nhân Hankyu và Hanshin khởi hành tại các ga Hankyu-Umeda và Hanshin-Umeda. Tuyến tàu nhanh Tokkyu (特急) sẽ mất 30 phút để đến Sannomiya (¥310). Tàu Hanshin cũng đến Kobe từ ga Namba. Kaisoku Kyuko (快速急行) khởi hành mỗi 20 phút, đến Sannomiya mất 45 phút (¥400). Trong các trường hợp gấp, bạn có thể phải đổi tàu tại Amagasaki. The best option via JR is to take the Shin-kaisoku (新快速 - Special Rapid) or Kaisoku (快速 - Rapid) service that departs from JR Osaka station, running to Sannomiya in 20 and 26 minutes, respectively (¥390, no charge with the Japan Rail Pass). From Kyoto, Sannomiya is 50 minutes away from the main train station via Shin-kaisoku (¥1050; no charge with the Japan Rail Pass). You can also make the run to the area in 30 minutes via bullet train, but it is more expensive, and if you have the rail pass, you can only take one train every hour without changing trains (the Hikari that runs through to Okayama). From the central area of Kyoto (near Gion and the shopping district), you can reach Sannomiya in 70 minutes via Hankyu limited express, changing once at Juso station (¥600). Hankyu trains depart from the Kawaramachi and Karasuma stations. Kintetsu trains run from the historical city of Nara to Sannomiya station on the Hanshin line via Namba. Direct trains leave every 20 minutes, reaching Sannomiya in 75 minutes at a cost of ¥940. Takamatsu: Jumbo Ferry, 078-327-3111. 3 1/2 giờ; ¥1,800. Kitakyushu: Hankyu Ferry, 078-857-1211 [1]. 12 tiếng; ¥7,400+. Oita: Diamond Ferry, 078-857-9525. 12 giờ; ¥8,800+. Cũng dừng ở Matsuyama. Beppu: Kansai Kisen, 06-6572-5181 [2]. 12 tiếng; ¥8,800+. Cũng dừng ở Matsuyama. Okinawa: Maruei Ferry, 078-857-3901. 3 days; ¥18,800+. Cũng dừng ở Miyazaki. Thượng Hải: Japan-China Ferry, 078-321-5791 (Nhật Bản) hoặc 021-6326-4357 (China). 45 tiếng; ¥20,000+. Thiên Tân: China Express Line, 03-3537-3107 (Nhật Bản) hoặc 022-2420-5777 (Trung Quốc) [3]. 50 tiếng; ¥22,000+. Ở Kobe có đường xe lửa xuyên từ Đông đến Tây. Ga tàu chính là ga Sannomiya, vốn là nhà ga Kobe, nằm phía Tây, và nhà ga Shinkansen Shin-Kobe nằm ở phía Bắc. Ga Sannomiya là trung tâm đi lại chính ở Kobe, phục vụ như là điểm chuyển giao cho ba đường sắt đường liên tỉnh lớn. Tuyến đường sắt khác ở Kobe bao gồm tuyến tàu điện Kobe chạy về phía bắc tới Sanda và Arima Onsen; tuyến Hokushin Kyuko kết nối từ ga Shin-Kobe đến ga Tanigami. Osaka",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Sổ tay tiếng Phần Lan",
"role": "user"
},
{
"content": "Tiếng Phần Lan, một trong các ngôn ngữ Finno-Ugric thuộc hệ ngôn ngữ Ural là ngôn ngữ được người dân Phần Lan sử dụng. Kể từ năm 1809, nó là ngôn ngữ chính thức (cùng với tiếng Thụy Điển) của Phần Lan và của cộng hòa Karelia ở Nga. Ngôn ngữ này có quan hệ gần gũi với tiếng Estonia và có quan hệ xa với tiếng Saami và tiếng Hungary. Các ngôn ngữ này tạo thành nhóm ngôn ngữ Ural. Các ghi chép bằng tiếng Phần Lan từ thế kỷ 16, khi Kinh Tân ước đã được dịch. Việc xuất bản sử thi dân gian Kalevala của Elias Lönnrot đã làm dấy lên phong trào dân tộc kêu gọi thay tiếng Thụy Điển bằng tiếng Phần Lan làm ngôn ngữ chính thức của chính quyền và giáo dục. Tiếng Phần Lan hiện có người sử dụng làm ngôn ngữ chính thức. Các khu vực có người nói tiếng Phần Lan là: Phần Lan, và các khu vực có người Phần Lan sinh sống như ở Hoa Kỳ. Các cụm từ trong danh sách cụm từ sau đây sử dụng hình thức số ít không trịnh trọng (sinuttelu), mà đến nay là hình thức phổ biến nhất trong tiếng Phần Lan hiện đại và phù hợp cho hầu hết các tình huống một khách du lịch có thể gặp. Lưu ý: Do sự dễ dàng, đặc trưng và quy luật phát âm tiếng Phần Lan, khó khăn trong việc phát âm các nguyên âm dài, và sự thiếu chính xác chung của phiên âm dựa trên tiếng Anh, bạn rất nên dành ít phút để học bảng chữ cái thay vì dựa vào các phiên âm. Tuy nhiên, người Phần Lan thường khá vui mừng khi nghe thấy người nước ngoài cố gắng nói tiếng Phần Lan và có xu hướng rất tha thứ cho sai lầm ngớ ngẩn nếu bạn phát âm sai. Một ngày tốt đẹp/xin chào Hyvää päivää (HUU-vaa PIGH-vaa) Xin chào (informal) Moi (MOI), Hei (HAY), Terve (TEHR-veh) Bạn khỏe không? Mitä kuuluu? (MEE-ta KOO-loo?) Khỏe, cảm ơn. Kiitos, hyvää. (KEE-toss, HUU-vaa) Bạn tên gì? Mikä sinun nimesi on? (MEE-ka SEE-noon NEE-meh-see ohn?) Tôi tên là ______. Nimeni on ______. (NEE-meh-nee ohn _____.) Vui được gặp bạn. Hauska tavata. (HOWS-kah TAH-vah-tah) Cảm ơn. Kiitos. (KEE-tohss) Không có gì. Ole hyvä (OH-lay HUU-va); Ei kestä. (AY KEHSS-ta) Vâng/phải Kyllä (KUUL-la), Joo (yoh) Không/không phải. Ei. (ay) Xin lỗi/bạn ơi. (thu hút chú ý) Anteeksi (AHN-tehk-see) Xin lỗi. (xin tha thứ) Anteeksi (AHN-tehk-see) Tôi xin lỗi. Anteeksi (AHN-tehk-see) Tạm biệt Näkemiin. (NAK-eh-meen.) Tạm biệt (thân mật) Hei hei (HAY-hay), Moi moi (MOI-moi) Tôi không thể nói tiếng Phần Lan En puhu suomea. (EN POO-hoo SOO-oh-meh-ah) Bạn nói được tiếng Anh không? Puhutko englantia? (POO-hoot-koh EHNG-lahn-tee-ah?) Ở đây có ai nói được tiếng Anh không? Puhuuko kukaan täällä englantia? (POO-hoo-koh KOO-kahn TAAL-la EHNG-lahn-tee-ah?) Giúp tôi với/Cứu tôi với! Apua! (AH-poo-ah!) Hãy coi chừng! Varo! (VAH-roh!) Xin chào (buổi sáng). Hyvää huomenta. (HUU-vaa HOO-oh-mehn-tah) Xin chào (buổi tối). Hyvää iltaa. (HUU-vaa EEL-tah) Tạm biệt (ban đêm). Hyvää yötä. (HUU-vaa UU-eu-ta) Chúc ngủ ngon Hyvää yötä. (HUU-vaa UU-eu-ta) Tôi không hiểu. En ymmärrä (EN UUM-mar-ra) Nhà vệ sinh ở đâu? Missä on vessa? (MEES-sa ohn VEHS-sah?) Được để ở thức mệnh lệnh. Thêm -n để có menen, tulen \"Tôi đi, tôi đến\", vv. Thêm -nko để có câu hỏi \"Tôi có...? \", ví dụ saanko... \"Tôi có thể lấy...?\". be ole (e.g. olen täällä \"I am here\") is on (e.g. se on tuolla \"it is there\") không phải ei không älä có thể voi có thể không? voiko? mua osta đến tule lái xe aja ăn syö đi mene get (receive) saa đưa anna keep pidä + noun-n like pidä + noun-sta put/place/set laita nói sano bán myy take ota đi bộ kävele Hãy để tôi yên! Anna minun olla rauhassa! (AHN-nah MEE-noon OHL-lah RAU-has-sah) Đừng động vào tôi! Älä koske! (AL-ah KOHSS-keh!) Let go! (nếu bị tóm) Päästä IRTI! (PAHS-tah EER-tee) Tôi sẽ gọi cảnh sát. Kutsun poliisin. (KOOT-soon POH-lee-sin) Cảnh sát! Poliisi! (POH-lee-see!) Dừng tại! Kẻ trộm! Pysähdy! Varas! (PUU-sa-duu! VAH-rahs!) Tôi cần bạn giúp. Tarvitsen apuasi. (TAHR-veet-sehn AH-poo-ah-see) It's an emergency. Nyt on hätä. (NUUT ohn HA-ta) I'm lost. Olen eksynyt. (OH-lehn EHK-suu-nuut) I lost my bag. Laukkuni katosi. (LAUK-koo-nee KAH-toh-see) I lost my wallet. Lompakkoni katosi. (LOHM-pahk-koh-nee KAH-toh-see) I'm sick / I've fallen ill Olen kipeä / sairastunut. (OH-lehn KEE-peh-a) I've been injured. Olen loukkaantunut. (OH-lehn LOH-ook-kahn-too-noot) I need a doctor. Tarvitsen lääkärin. (TAHR-veet-sehn LAA-ka-reen) Tôi có thể dùng điện thoại của bạn không? Saanko käyttää puhelintasi? (SAAN-koh KA-UU-dAh POO-heh-LIN-tah-sih)",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Perth",
"role": "user"
},
{
"content": "Perth là thành phố Úc. Đây là thành phố Perth là thủ phủ của bang Tây Úc với dân số hơn 1,5 triệu người (2006). Do đó thành phố lớn nhất Tây Úc này trở thành quê hương của 3/4 dân số của bang. Với tốc độ tăng trưởng 2,1% (2006), hiện nay Perth là 1 trong 4 trung tâm trọng điểm phát triển nhất nước Úc. Theo như nhận định thì năm 2007 thu nhập bình quân đầu người của thành phố này sẽ tăng 2,5% do sự bùng nổ kinh tế ở Tây Úc. Perth có khá đông số người Châu Á sinh sống Perth được sáng lập vào ngày 11 tháng 6 năm 1829 bởi James Stirling. Lúc đầu, đây là trung tâm hành chính của những người dân thuôc địa ở sông Swan. Sau đó nơi này trở thành trụ sở của chính quyền Tây Úc cho tới ngày nay. Thủ đô này nằm ở tây nam của đại lục, giữa Ấn Độ Dương và dãy Darling, một dốc đá miền duyên hải. Trung tâm buôn bán và vùng ngoại ô Perth nằm ven bờ sông Swan. Adelaide ở Nam Úc là thành phố gần Perth nhất với hơn 1 triệu cư dân và khoảng cách 2104 km làm cho Perth luôn là nơi đơn độc nhất trên thế giới. Về địa lý, Perth là vùng gần Đông Timor và Jakarta, Indonesia hơn là Sydney, Melbourne, và Brisbane. Nó đối diện với Hamilton, Bermuda qua tâm Trái Đất.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Los Angeles",
"role": "user"
},
{
"content": "Los Angeles là thành phố lớn nhất tiểu bang California, lớn nhất miền Tây nước Mỹ, là thành phố lớn thứ 2 Hoa Kỳ và là kinh đô ánh sáng, thắng cảnh đẹp, thời tiết mát mẻ, Los Angeles không hổ danh là điểm du lịch nổi tiếng thế giới. Theo âm phiên dịch từ tiếng Tây Ban Nha, Los Angeles có nghĩa là \"thành phố thiên sứ\". Trước kia, đây là nơi chăn nuôi của người Ấn Độ. Năm 1781, thực dân Tây Ban Nha đã cho xây dựng một thị trấn ở đây. Đến năm 1822, Los Angeles được người Mexico trông nom, cai quản, và năm 1846 được trả về cho nước Mỹ. Thành phố chỉ được chính thức xây dựng vào năm 1850. Vào giữa thế kỷ 19, nhờ vào việc phát triển mỏ vàng ở California, đường sắt Thái Bình Dương xuyên đại lục đã được khởi công xây dựng, tạo điều kiện cho thành phố phát triển. Trong thế chiến 2, nước Mỹ giàu lên nhờ buôn bán vũ khí, ngành công nghiệp vũ khí đạn dược phát triển mạnh. Đầu thế kỷ 20, với việc xây dựng đường ống dẫn nước dài, Los Angeles đã giải quyết được việc cung cấp nước - một vấn đề nghiêm trọng, nhờ vậy nó nhanh chóng trở thành thành phố lớn nhất dọc bờ biển phía Tây nước Mỹ. Los Angeles lớn nhưng không tập trung. Diện tích toàn khu vực thành phố là 1.024 km2, bao gồm hơn 80 thành phố và thị trấn xung quanh với tổng diện tích hơn 10.000 km2, dân số hơn 7 triệu người. Sự không tập trung này khiến cho du khách thường có cảm giác \"đến rồi mà tưởng như chưa đến\". Dân thành phố đi làm, đi học hay ra ngoài đều sử dụng xe hơi. Bình quân cứ 1,5 người có một xe hơi, và trên 80% dân có xe riêng. Người ta có thể chạy xe hơi tới các giáo đường làm lễ, nhà hàng, hiệu sách, siêu thị... Đường cao tốc và đường dẫn vào các bãi đậu xe chiếm khoảng 30% tổng diện tích toàn thành phố. Mật độ dày đặc này khiến Los Angeles còn mang thêm biệt danh \"thành phố của xe hơi\". Khu vự bờ biển Los Angeles đã được cư dân Tongva (hay Gabrieleños), Chumash, và các bộ tộc của những người Thổ dân châu Mỹ sinh sống từ hàng ngàn năm. Những người châu Âu đâu tiên đến đây năm 1592, dẫn đầu là Juan Cabrillo - một người thám hiểm Bồ Đào Nha đã tuyên bố vùng đất này cho Đế quốc Tây Ban Nha nhưng không ở lại đó. Lần có người châu Âu tiếp xúc khu vực này là 227 năm sau khi Gaspar de Portolà cùng với Franciscan padre Juan Crespi, đã đến khu vực ngày nay là Los Angeles ngày 2 tháng 8 năm 1769. Năm 1771, Cha Junípero Serra đã cho xây Mission San Gabriel Arcágel gần Whittier Narrows ở gần Thung lũng San Gabriel ngày nay. Ngày 4 tháng 9 năm 1781, một nhóm 52 người định cư từ Tân Tây Ban Nha là hậu duệ người châu Phi đã thiết lập phái đoàn San Gabriel để lập nên khu định cư dọc theo bờ của sông Porciúncula (ngày nay là sông Los Angeles). Những người định cư này có tổ tiên là người Philippines, Ấn Độ và Tây Ban Nha, 2/3 là người lai. Năm 1777, thống đốc mới của bang California, Felipe de Neve, recommended to the viceroy of New Spain that the site be developed into a pueblo (town). Khu vực này được đặt tên là El Pueblo de Nuestra Señora la Reina de los Ángeles del Río de Porciúncula (\"Thị trấn của Đức bà Nữ hoàng của các thiên thần của sông Porciúncula\"). Nó vẫn là một thị trấn nhỏ trong nhiều thập kỷ, nhưng năm 1829 dân số đã tăng lên khoảng 650, khiến nó là cộng đồng dân sự lớn nhất ở California thuộc Tây Ban Nha. Ngày nay, outline của Pueblo vẫn được gìn giữ ở một tượng đài lịch sử quen được gọi là đường Olvera, trước đây là đường Rượu, được đặt tên theo Augustin Olvera. Tân Tây Ban Nha đã giành được độc lập khỏi Đế quốc Tây Ban Nha năm 1821 và tỉnh vẫn tiếp tục là một phần của Mexico. Sự cai trị của Mexico đã chấm dứt trong Chiến tranh Mexico-Hoa Kỳ, khi người Mỹ giành được quyền kiểm soát từ người Californio sau một loạt các cuộc chiến. Trận chiến San Pascual, Trận chiến Dominguez và sau cùng là Trận chiến Rio San Gabriel năm 1847. Hiệp ước Cahuenga được ký ngày 13 tháng 1 năm 1847, chấm dứt thu địch ở California và sau đó Hiệp ước Guadalupe Hidalgo (1848), chính phủ Mexico đã chính thức nhượng Alta California và các lãnh thổ khác cho Hoa Kỳ. Những người châu Âu và Mỹ đã củng cố sự kiểm soát thành phố sau khi họ di cư đến California trong làn sóng Đổ xô đi tìm vàng California và đảm bảo sự gia nhập sau đó của California vào Hoa Kỳ năm 1850. Đường sắt đã đến khi Công ty đường sắt Nam Thái Bình Dương (Southern Pacific Railroad) đã hoàn thành tuyến đường sắt đến Los Angeles năm 1876. Dầu mỏ được phát hiện năm 1892 và đến năm 1923, Los Angeles đã cấp 1⁄4 lượng dầu mỏ thế giới. Một nhân tố góp phần phát triển thành phố là nước. Năm 1913, William Mulholland hoàn thành đường ống dẫn nước đảm bảo cho sự tăng trưởng của thành phố. Năm 1915, Thành phố Los Angeles bắt đầu sáp nhập thêm hàng chục cộng đồng dân cư xung quanh không tự cấp nước cho chính mình được. A largely fictionalized account of the Owens Valley Water War can be found in the 1974 motion picture Chinatown. Trong thập niên 1920, phim hoạt hình và ngành hàng không đã đổ xô đến Los Angeles đã giúp thành phố phát triển. Thành phố này là nơi đăng cai Thế vận hội mùa Hè năm 1932 chứng kiến sự phát triển của Đồi Baldwin as the original Olympic Village. Thời kỳ này cũng chứng kiến sự di dân đến của những người lưu vong từ các căng thẳng hậu chiến ở châu Âu, bao gồm những nhà quý tộc như Thomas Mann, Fritz Lang, Bertolt Brecht, Arnold Schoenberg và Lion Feuchtwanger. Thế chiến thứ hai mang đến phát triển và thịnh vượng mới cho thành phố này, dù nhiều người Mỹ gốc Nhật bị chở đến các trại tập trung trong thời kỳ diễn ra cuộc chiến. Thời kỳ hậu chiến chứng kiến một sự bùng nổ lớn hơn khi sự lan ra của đô thị đã mở rộng đến Thung lũng San Fernando. Những cuộc bạo loạn Watts năm 1965 và “cơn giận” của Trường trung học Chicano cùng với sự tạm đình chỉ Chicano đã cho thấy sự chia rẽ chủng tộc sâu sắc hiện hữu trong thành phố này. Năm 1969, Los Angeles đã là một trong hai “nơi sinh” ra Internet khi sự truyền ARPANET được gửi từ UCLA đến SRI ở Menlo Park. XXIII Olympad đã được Los Angeles đăng cai năm 1984. Thành phố lại được thử thách qua Bạo loạn Los Angeles 1992 và Trận động đất Northridge 1994 và năm 2002 sự cố gắng ly khai của Thung lũng Fernando và Hollywood đã bị thất bại trong cuộc bỏ phiếu. Sự tái phát triển và sự sang trọng hóa đô thị đã diễn ra ở nhiều nơi trong thành phố, đặc biệt là trung tâm. Theo Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ, thành phố có tổng diện tích 498,3 dặm vuông (1.290,6 km2), 469,1 dặm vuông (1.214.9 km2) là diện tích đất và 29,2 dặm vuông (75,7 km2) là diện tích mặt nước, diện tích mặt nước chiếm 5,86%. Khoảng các cực bắc và cực nam là 44 dặm (71 km), khoảng các giữa cực đông-tây là 29 dặm (47 km), và chiều dài của biên giới thành phố là 342 dặm (550 km). Diện tích đất lớn thứ 9 trong các thành phố của Hoa Kỳ lục địa. Điểm cao nhất của Los Angeles là Sister Elsie Peak (5.080 feet) at the far reaches of the northeastern San Fernando Valley, part of Mt. Lukens. Sông Los Angeles là một con sông phần lớn là theo mùa chảy xuyên qua thành phố có thượng nguồn ở Thung lũng San Fernando Valley. Suốt chiều dài của nó hoàn toàn bị kè bằng bê tông. Vùng Los Angeles khá phong phú về các loài thực vật bản địa. Với những bãi biển, đụn cát, vùng đất ngập nước, đồi, núi và sông, khu vực này chứa đựng một số quần cư sinh vật quan trọng. Khu vực rộng nhất là thảm thực vật bụi cây xô thơm ven biển bao bọc các sườn đồi ở chaparral dễ bắt lửa. Các loại cây bản địa bao gồm: California poppy, matilija poppy, toyon, coast live oak, giant wild rye grass, và hàng trăm loại khác. Thật không may, nhiều loài cây bản địa quá hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng như hoa hướng dương Los Angeles. Có nhiều loài hoa lạ và những cây có hoa nở hoa quanh năm với màu sắc huyền ảo, bao gồm... Mùa thu hút khách du lịch đến Los Angeles là vào tháng 7 – 8, khi ngày nào cũng có nắng và nóng nhưng giá dịch vụ rất đắt. nếu bạn thích đến nơi ít đông khách du lịch thì giá thấp hơn, mùa tốt nhất là từ tháng 3 đến tháng 5 và tháng 11 đến tháng 12, nhưng nhớ rằng tháng 6 thường có sương mù ở bờ biến. Sự thất thường của những cơn mưa hay diễn ra vào mùa đông nhưng ít sương mù và hay có những trận mưa rào nhỏ. Thành phố có hệ thống xe bus chạy quanh thành phố vào những ngày nghỉ, đặc biệt là vào Lễ Tạ ơn. Los Angeles chịu ảnh hưởng của khí hậu lục địa, sự bao phủ của khí hậu khắc nghiệt và ẩm ướt do dãy núi nằm ở phía Bắc và Tây. Tháng 10 và tháng 11 là những tháng nóng nhất, tháng Giêng và tháng 2 là những tháng lạnh nhất và khô nhất. Ngoài khơi có gió thổi nhẹ làm cho khí hậu lạnh hơn vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông hơn những hòn đảo xa hơn, đặc biệt là thung lũng San Fernando, nơi này là khu vực nóng nhất vào mùa hè và lạnh nhất vào mùa đông. Nhiệt độ trung bình ở LA dao động khoảng 21 độ C, mùa hè có ngày nhiệt độ lên đến 32 độ C, mùa đông nhiệt độ dao động khoảng 12 độ C nhưng hiếm khi diễn ra. Vùng đô thị Los Angeles có 16 sân bay. Sân bay lớn nhất phục vụ Los Angeles là sân bay quốc tế Los Angeles. Sân bay quốc tế Los Angeles (Los Angeles International Airport) (IATA: LAX, ICAO: KLAX), là sân bay phục vụ Los Angeles, California. Người dân California thường gọi sân bay này là LAX với việc đánh vần từng chữ riêng. Sân bay có 4 đường cất hạ cánh dài: 3382 m , 3135 m, 2720 m và 3382 m. LAX phục vụ khách bay thẳng 2 tuyến điểm (không phải transit) nhiều hơn bất kỳ sân bay bận rộn nhất trên thế giới. LAX là sân bay bận rộn thứ 5 thế giới nếu tính lưu lượng khách phục vụ [1] – 61.895.548 hành khách năm 2007. LAX đứng thứ 3 về lượng khách thông qua ở các sân bay Hoa Kỳ. Nếu tính riêng lượng khách quốc tế, LAX là sân bay bận rộn thứ 2, chỉ sau Sân bay quốc tế John F. Kennedy ở Thành phố New York [2] nhưng chỉ xếp thứ 20 thế giới về tiêu chí này. Trước 11 tháng 9, đây là sân bay bận rộn thứ 3 thế giới. LAX là sân bay trung tâm của hãng hang không United Airlines. LAX phục vụ các điểm đến của Bắc Mỹ, Mỹ Latin, châu Á và châu Đại Dương. Các hãng hang không nổi tiếng ở sân bay này là: United (19.57% lượng khách, kết hợp với số khách của United Express ), American chiếm (15%) và hãng Southwest (12.7%). [3] . LAX cũng là một focus city của Alaska Airlines và là một cửa ngõ cho hãng Delta Air Lines. Hệ thống xe buýt chạy đường dài có khắp các thành phố ỏ Bắc Mỹ. Tránh đến sau khi trời tối không ít một vài người có mặt ở đó gặp bạn với 1 chiếc xe ô tô. Khu vực khác của LA, trạm xe buýt đường dài nằm ở Hollywood, Pasadena, Long Beach và Anaheim Megabus, nơi quản lý tất cả hoạt động bán vé trực tuyến rẻ (www.megabus.com), sự lựa chọn đáng tin cậy với dịch vụ nhanh tới Las Vegas, Detroit, Chicago, San Francisco và hơn nữa. Mặc dù khu vực Los Angeles có rất nhiều tuyến xe buýt và một số cơ quan vận chuyển, và một tàu điện ngầm khá mới và mạng lưới đường trên cao, bao nhiêu đó vẫn không đủ so với dân số và kích thước của khu vực. Ví dụ, một vài tuyến xe buýt tốt nhất có thể chạy mỗi 15 hoặc 20 phút, trong khi những tuyến khác (đặc biệt là từ các lĩnh vực du lịch chính) có thể chạy mỗi 30 đến 90 phút. Cũng nên nhớ đó không phải là một tuyến xe buýt để đi đến mọi ngóc ngách, và như vậy, nó không phải là lạ khi bạn phải đi bộ đến một dặm hoặc hơn đến đích của bạn sau khi bạn đã nhận xuống xe buýt tại trạm gần nhất . Và bởi vì có rất nhiều công ty vận tải xe buýt trong khu vực Los Angeles, bạn có thể phải trả thêm tiền khi bạn xuống xe buýt một đơn vị trung chuyển và lên mộtị xe buýt trung chuyển của hãng khác để tiếp tục cuộc hành trình của bạn. Hãy nhớ, một số tuyến xe buýt sẽ kết thúc hoạt động vào đầu buổi tối, vì vậy bạn nên có kế hoạch chuyến đi của bạn cho phù hợp để đảm bảo rằng bạn không bị mắc kẹt trong khi trên một chuyến đi chơi, do đó phải đi xe taxi đắt tiền trở lại khách sạn của bạn-đó, tùy thuộc cách xa bạn đang có, có thể sẽ chi phí khoảng cùng một như nếu bạn đã thuê một chiếc xe hơi trong ngày ở nơi đầu tiên. Los Angeles cũng có một hệ thống tàu điện ngầm /đường sắt nhẹ cỡ trung bình, và mở rộng để giúp tăng tốc độ hành trình xung quanh thành phố. Nếu bạn có kế hoạch để được ở gần một nhà ga đường sắt Metro trong các khu vực xa trung tâm, điều này có thể đủ như mạng lưới đường sắt sẽ đưa bạn đến một số khu vực du lịch như Hollywood, Universal Studios, khu phố Tàu, và Long Beach. Tuy nhiên, những người có kế hoạch ở lại nhiều ngày trong thành phố, và sẽ ở lại hoặc đi thăm các khu vực xa trung tâm, và nếu không sẽ phải mất nhiều xe buýt trong chuyến thăm của họ, được đề nghị thuê một chiếc xe nếu ngân sách cho phép. Đối với các du khách thường xuyên đi lại chỉ là một vài dặm, và sẵn sàng lên kế hoạch cho chuyến đi dài hơn nhiều, và đối với những người ở lại chỉ một vài ngày, và không để tâm thường 20-60 phút chờ đợi xe buýt, thì có thể thấy rằng hệ thống giao thông công cộng Los Angeles có thể là vừa đủ. Về cơ bản, nếu bạn có ý định đi du lịch trong khu vực của West Side, trung tâm thành phố Los Angeles, Beverly Hills, và Hollywood, và chủ yếu là đi du lịch trong các ngày trong tuần, thì giao thông công cộng có thể đáp ứng hợp lý nhu cầu của bạn. Xe buýt Metro Rapid đến thường xuyên hơn và dừng ít hơn so với xe buýt địa phương và nên được sử dụng khi có thể. Hãy nhớ rằng nhiều thành phố trong khu vực tàu điện ngầm (bao gồm cả Santa Monica, Culver City, Long Beach, Santa Clarita, và Ontario đến tên một vài) hoạt động cơ quan xe buýt của riêng mình, độc lập với tàu điện ngầm, do đó tính giá vé khác nhau. Nếu bạn chọn thuê một chiếc xe, bạn sẽ phải cân nhắc các hệ thống đường cao tốc LA-khu vực nổi tiếng và lớn và một hương vị của ùn tắc giao thông nổi tiếng. Tuy nhiên, điều này vẫn sẽ có nhiều thuận tiện hơn đi xe buýt cho các chuyến đi đến lâu hoặc nhiều. Tàu điện ngầm tàu điện ngầm/đường sắt nhẹ tốc độ cao Los Angeles đã mở đường đầu tiên của mình trong những năm 1990. Mạng lưới này thay thế một hệ thống đường sắt được gọi là đường sắt điện Thái Bình Dương, mà hoạt động ở Los Angeles và các vùng lân cận 1902-1961. Los Angeles mạng lưới đào tạo địa phương đã mở rộng hệ thống của mình trong vòng 20 năm qua hay như vậy. Nhiều khu dân cư và các điểm đến tham quan có thể đến được bằng cách sử dụng tàu điện ngầm, bao gồm cả trung tâm thành phố, Koreatown, Los Feliz, Hollywood, Bắc Hollywood, khu phố Tàu, Pasadena, và Long Beach. Giao thông công cộng là một lợi thế, khi có thể, với sự bế tắc thường xảy ra trên đường cao tốc khu vực Los Angeles và đường phố. Ngày nay, khi nói tới Los Angles, người ta nhớ ngay tới kinh đô điện ảnh Hollywood – nơi sản xuất hơn 2/3 số lượng phim toàn nước Mỹ. Ngoại ô Tây Bắc Los Angeles là thành phố điện ảnh Hollywood, nơi xưa kia là xóm làng của những người chăn dê. Năm 1887, một ngôi biệt thự được xây dựng và được đặt tên là Hollywood. Thời tiết nơi đây dễ chịu, số ngày nắng trong năm nhiều hơn (khoảng 300 ngày), lại có đủ cảnh quan địa lý khe núi, đồng bằng, bãi biển, sa mạc... nên rất thích hợp cho việc quay phim. Vì thế, một số công ty điện ảnh miền Đông nước Mỹ ồ ạt đến xây dựng phim trường. Năm 1982, sau khi bộ phim đầu tiên Cảnh đêm ở New York được quay xong, Hollywood nhanh chóng trở thành trung tâm điện ảnh toàn nước Mỹ. Thành phố điện ảnh Hollywood hiện có trên 180 trường quay và một bộ sưu tập hầu hết các bối cảnh lịch sử của toàn thế giới. Nổi tiếng nhất trong số đó phải kể đến phim trường Universal Studio với chương trình tham quan phim trường bằng xe buýt và tham dự một số kịch bản phim như Công viên kỷ Jura, Xác ướp Ai Cập, Lao vào vũ trụ, King Kong... Ở đây còn có các sô diễn cao bồi hấp dẫn, chụp hình miễn phí với những minh tinh màn bạc tên tuổi. Ngoại thành Los Angeles có khu vui chơi giải trí nổi tiếng Walt Disney, hằng năm thu hút không dưới 20 triệu khách tham quan. Ngoại thành Los Angeles có khu vui chơi giải trí nổi tiếng toàn thế giới, Walt Disney. Khu giải trí này do nhà làm phim hoạt hình Mỹ Walt Disney khởi công xây dựng, và người ta lấy luôn tên ông để đặt cho nó. Công viên Walt Disney rộng 30 ha, được mở rộng vào năm 1955. Trong công viên, người ta đã xây và tái tạo nhiều phong cảnh hữu tình, những nhánh sông chảy giữa hai bờ lau sậy, bè gỗ thuyền hoa thế kỷ 18, rừng nguyên sinh nhiệt đới cây cối um tùm cho đến lầu các, phố cổ, sông núi... Bước vào cửa khu giải trí, du khách được một đàn chuột Mickey chạy đến đón chào và bắt tay. Trong khu giải trí Disney còn có hơn 50 khu vui chơi điện khí hóa như thế giới ảo, thế giới mạo hiểm, thế giới tương lai. Từ khi hoạt động đến nay, trung bình mỗi năm khu giải trí Walt Disney đã đón khoảng 20 triệu khách đến tham quan. Không ít nhà lãnh đạo cao cấp, các nhân vật quan trọng và nhân sĩ nổi tiếng thế giới cũng đến nơi đây giải trí. Los Angeles còn có nhiều điểm du lịch hút khách khác. Công viên hóa thạch là một khu cây cảnh được thiết kế rất khéo léo. Nó được xây dựng trên đồi của hồ Guliging, với các hóa thạch như hổ răng kiếm, khỉ lười tổng thống... còn tồn tại đến ngày nay. Tháp hòa bình được xây dựng nhân kỷ niệm thành phố tròn 200 năm và được coi là thủ phủ của California. Tháp cao 610 m, gần gấp đôi so với tháp Eiffel ở thủ đô Paris nước Pháp. Trên đỉnh tháp có đài quan sát, đài truyền hình, cục tín hiệu vô tuyến quốc tế. Mỗi năm tháp có thể đón 10 triệu khách du lịch. Ở Los Angeles còn có sân vận động Meiguibo, với 70 hàng ghế ngồi liên tục nhau được xây dựng vào vách núi trong như cái hầm khổng lồ, chứa tới 100.000 khán giả. Đây cũng là một trong những kỳ quan kiến trúc thể thao của thế giới, nơi hằng năm tổ chức những trận chung kết bóng đá giữa các đại học, tranh giải Meiguibo của Mỹ. Los Angeles còn có nhiều thắng cảnh nổi tiếng khác như: Đại lộ Hollywood- đại lộ vinh danh các tài tử nghệ sĩ điện ảnh nổi tiếng như Marilyn Monroe, Charlie Chaplin, Michael Jackson...; rạp Kodak nơi phát giải Oscar; đồi Beverly - khu biệt thự của các ngôi sao... Bạn còn được đến đại lộ Rodeo và Sunset - nơi các đạo diễn, nghệ sĩ ngồi uống cà phê, mua sắm những món hàng thời trang với giá không thể tưởng tượng nổi hay công viên hóa thạch, đến tháp Hòa Bình (cao 610m, gấp đôi tháp Eiffel), sân vận động Meiguibo với sức chứa tới 100.000 khán giả. Nhưng dù đi đâu, bạn cũng đừng quên dành thời gian đón hoàng hôn tại quán cà phê Getty Center. Ngồi ở đây, ngắm biển Thái Bình Dương ngoài xa và thành phố Los Angeles dưới chân mình, bạn sẽ có cảm giác “Thành phố thiên thần” đang cất cánh. Nếu bạn cắm trại hay ở trong nhà trọ, bắt xe bus và tự mình nấu ăn, bạn có thể tiện lợi thám hiểm đất nước với giá 50$US một ngày. Ở trong khách sạn ven đường và ăn tại một quán cà phê ven đường bạn sẽ mất khoảng 100$US, và tiện lợi nhất là thuê xe ô tô sẽ đẩy ngân quỹ của bạn hàng ngày lên đến 150$US. Đồng tiền được sử dụng ở Los Angeles là đồng đô la Mỹ. Giá một số thứ: Vé xem phim: US$ 11.00 1 chai bia nhỏ: US$ 3.50 Vé ngày đi tàu điện: US$ 3.00 Vé vào bảo tàng: US$ 5.00 Giá qua thành phố: US$ 20.00 Chụp ảnh: US$ 56.00 1 lít xăng: US$ 0.60 lít nước: US$ 1.00 Áo ngắn: US$ 7.00 Giá phòng thấp nhất là US$30–125, trung bình là US$125–250, cao là trên US$250. Giá một bữa ăn thấp nhất là US$5–10, trung bình là US$10–30, cao là US$30–60, sang trọng là trênUS$60. Nếu bạn sử dụng thẻ ATM của Mỹ khi bạn muốn rút tiền bạn không thể sử dụng nó ở bất cứ đâu. ATM có mạng lưới tốt và đưa ra quyền lựa chọn rẻ hơn nếu thẻ của bạn thuộc hệ thống của chúng. Sự ghi chú của Ngân hàng Mỹ thường xuyên nhầm lẫn khách du lịch: họ giống nhau cùng một cỡ và màu, đặc biệt là cẩn thận, họ không giao bằng tay nếu quá nhiều tiền mặt, và thường kiểm tra sự đổi của bạn cẩn thận. Thẻ rút tiền, bao gồm thẻ hộ chiếu Visa Cash được sử dụng rộng rãi. Bạn có thể lui tới hệ thống ngân hàng của bạn sử dụng thẻ ATM của Mỹ, chúng ở khắp nơi. Đồng Sec dễ đổi ra tiền mặt tại bất kỳ ngân hàng nào. Bạn sẽ chắc chắn cần mang thẻ hộ chiếu của mình để phục vụ cho sự nhận diện của bạn. Nếu bạn đi cắm trại hay ở trong nhà trọ, bắt xe bus và tự nấu thức ăn, bạn có thể tiện lợi khám phá đất nước với giá 50$ một ngày. Ở khách sạn cạnh đường và ăn trong những quán cà phê hiện đại nhất bạn phải mất 100$, và thú vị là thuê xe ô tô sẽ khiến bạn mất 150$.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Olyokminsk",
"role": "user"
},
{
"content": "Olyokminsk (tiếng Nga: Олёкминск) là một thị trấn ở Yakutia, trực thuộc Liên bang Nga. Nó nằm trên sông Lena, cách thành phố Yakutsk khoảng 651 km về phía tây nam. Thị trấn được thành lập vào năm 1635, khi đó là một pháo đài gỗ nhỏ (ostrog). Hiện nay, nơi này phát triển ngành chế biến gỗ và phát điện. Theo cuộc điều tra dân số năm 2010, thị trấn có 9.494 cư dân. Olyokminsk nằm trên độ cao 150 và có khí hậu cận Bắc Cực. 60.3968479139703Sân bay Olyokminsk1 Sân bay Olyokminsk (IATA: OLZ) (cách trung tâm thị trấn khoảng 3 km về phía đông bắc.). Bạn có thể đến đây từ Irkutsk hoặc Yakutsk. 60.3742515305596Bến xe Olyokminsk2 Bến xe Olyokminsk (Автовокзал), 50 đường Let Pobedy (cách bưu điện hơn 1 km về phía tây). Bạn có thể liên lạc với dịch vụ taxi Maxim (gần hiệu thuốc số 76) để đi lại nhanh chóng trong thị trấn. 60.372617551196306Bảo tàng Zemledeliya1 Bảo tàng Zemledeliya, 59 đường Spasskaya. Có nhiều hiện vật về lịch sử và văn hóa địa phương. 60.37329680278464Bảo tàng Skopcheskiy2 Bảo tàng Skopcheskiy, 5 đường Spasskaya (cách bảo tàng Zemledeliya gần 1 km). 60.37398478625768Nhà thờ Đấng cứu thế3 Nhà thờ Đấng cứu thế (Церковь Спаса), 25 đường Ozernaya. 60.37648570304312Đài tưởng niệm Trung Siberia4 Đài tưởng niệm Trung Siberia. Vinh danh những cư dân địa phương đã tham gia Cách mạng tháng 10 năm 1918. 60.37279009457974Công viên lịch sử Spassky5 Công viên lịch sử Spassky, 11 đường Spasskaya. 60.372642435419095Cửa hàng Yupiter1 Cửa hàng Yupiter (cách hiệu thuốc số 76 gần nửa km). 60.37077443140425Cửa hàng Mirazh2 Cửa hàng Mirazh, 94 đường Spasskaya. Thứ 2 đến thứ 6: 10:00–19:00. Thứ 7 và Chủ nhật: 10:00–18:00. 60.37455171426005Cửa hàng Kalina3 Cửa hàng Kalina (cách bưu điện hơn 150 m về phía bắc). 60.37219136827635Cửa hàng Magazin Znayka4 Cửa hàng Magazin Znayka, 52 đường Spasskaya, ☎ +7 411 384-18-40. 60.373379460667145Cửa hàng Megas5 Cửa hàng Megas, 2 đường Kirova. 60.374599322598186Cửa hàng Orion6 Cửa hàng Orion, 54 đường Stroda, ☎ +7 411 384-15-58. 60.37303200578522Cửa hàng Magazin \"Suvenir\"7 Cửa hàng Magazin \"Suvenir\", 35 đường Spasskaya, ☎ +7 924 365-85-39. 10:00–19:00 hàng ngày (đóng của vào Chủ nhật). 60.37190127263376Nhà hàng Volna1 Nhà hàng Volna, 3 đường Brovina, ☎ +7 411 384-27-44. Thứ 2 đến thứ 6: 12:00–03:00. Thứ 7 và Chủ nhật: 18:00–03:00. 60.3728346938923Nhà hàng Severyanka2 Nhà hàng Severyanka, 76 đường Let Pobedy. Phục vụ thịt băm và pizza. 60.3708923117744Nhà hàng Shchurburger3 Nhà hàng Shchurburger, 84 đường Spasskaya, ☎ +7 924 865-56-80. 60.37257872487448Quán cà phê Mesed1 Quán cà phê Mesed, 2 đường Spasskaya. 09:00–21:00 hàng ngày (đóng cửa vào Chủ nhật). 60.37193913480037Quán cà phê Uzbekskaya Kukhnya Amsay2 Quán cà phê Uzbekskaya Kukhnya Amsay, 2 đường Bazarnaya, ☎ +7 924 160-39-11. 09:00–19:00 hàng ngày (đóng cửa vào Chủ nhật). 60.37109097742973Quán cà phê Magnit3 Quán cà phê Magnit, 92A đường Spasskaya, ☎ +7 411 384-33-44. Thứ 2 đến thứ 6: 10:00–19:00 (đóng cửa vào hai ngày cuối tuần). 60.37278109489012Khách sạn Fialka1 Khách sạn Fialka, 4 đường Brovina, ☎ +7 411 384-31-53. Khách sạn chấp nhận vật nuôi và phù hợp với trẻ em. 60.37360694413695Khách sạn Kolos2 Khách sạn Kolos, 12 đường Molodezhnaya (cách khách sạn Fialka khoảng 100 m về phía đông bắc), ☎ +7 914 288-75-22.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "München",
"role": "user"
},
{
"content": "München hay Muenchen (được biết trong tiếng Anh và tiếng Pháp như Munich), thủ phủ của tiểu bang Bayern, là thành phố lớn thứ ba của Đức sau Berlin và Hamburg và là một trong những trung tâm kinh tế, giao thông và văn hóa quan trọng nhất của Cộng hòa liên bang Đức. München được nhắc đến trong các văn kiện lần đầu tiên vào năm 1158 khi Heindrich Sư tử (Heindrich der Löwe) cho xây một cầu mới qua sông Isar gần các đảo sông Isar vào chỗ cầu Ludwig (Ludwigsbrücke) ngày nay và phá hủy chiếc cầu đang tồn tại của giám mục gần Unterföhring nhằm để thu lợi qua việc buôn bán muối. Nhờ chiếc cầu này và qua đó là việc buôn bán muối München nhận được quyền họp chợ, quyền phát hành tiền và quyền thu thuế do hoàng đế Friedrich Barbarossa, hay Friedrich I (Thánh chế La Mã), ban cho. Mặc dầu trở thành nơi cư ngụ của hoàng đế từ năm 1328, München chỉ bắt đầu vươn lên trở thành thành phố lớn 450 năm sau đó. Vào cuối thế kỷ thứ 18 München bắt đầu phát triển nhanh chóng và từ năm 1806 tốc độ phát triển càng được gia tăng khi München trở thành thủ đô của Vương quốc Bayern. Nếu như thành phố München chỉ có 24.000 người vào năm 1700 thì sau đó dân số cứ tăng lên gấp đôi 30 năm một lần, năm 1871 đã có 170.000 người và năm 1933 đã có 840.000 người cư ngụ ở München. Khu phố cổ München và sông Isar nhìn từ Maximilianeum, cuối thế kỷ thứ 19Dưới quyền của vua Ludwig I (1825-1848) München trở thành một thành phố nghệ thuật nổi tiếng. Leo von Klenze và Friedrich von Gärtner đã thiết kế nhiều công trình như đường Ludwig (Ludwigstraße), Quảng trường hoàng gia (Königsplatz) và dinh thự của vua. Vào thời của Hoàng tử nhiếp chính Luitpold von Bayern (1886-1912) München đã trải qua một giai đoạn phát triển nhanh chóng cả về nghệ thuật lẫn về kinh tế. Ngoài những công trình khác, đường Hoàng tử nhiếp chính (Prinzregentstraße) và nhà hát Hoàng tử nhiếp chính (Prinzregenttheater) cùng được xây dựng trong thời gian này. Vào lúc giao thời giữa hai thế kỷ, khu vực Schwabing đã trở thành khu phố của các nhà nghệ thuật, nơi lui tới của nhiều nhà văn và họa sỹ. Tên của tờ báo nghệ thuật ở München \"Die Jugend\" (Thời thanh niên), phát hành lần đầu tiên vào năm 1896, đã trở thành tên cho thời kỳ Tân nghệ thuật trong tiếng Đức (Jugendstil, tiếng Pháp: l'art nouveau). Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất cuộc Cách mạng cộng sản cũng thất bại ở München (xem: Cộng hòa hội đồng München) và trong những năm sau đó München đã dần dần trở thành \"thủ đô\" của phong trào Hitler. Thành phố München cũng như đa số các thành phố lớn của Đức đã phải trả giá cho việc này bằng các tàn phá rộng lớn qua các lần oanh tạc trên diện tích rộng của quân đội Đồng minh trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sau khi được tái xây dựng chủ yếu theo quang cảnh đô thị trong lịch sử, thành phố München từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã phát triển trở thành một trung tâm của công nghệ cao và ngoài ra còn là nơi đặt trụ sở của nhiều công ty thuộc các ngành truyền thông, bảo hiểm và ngân hàng. Ngành du lịch cũng phát triển mạnh trong thành phố vốn có nhiều viện bảo tàng quan trọng và nhiều thắng cảnh này. Năm 1972 München là thành phố chủ nhà của Thế vận hội mùa Hè lần thứ 20, đã bị làm lu mờ bởi cuộc ám sát của nhóm khủng bố người Palestine. (xem: Thảm sát München) München là đô thị lớn cuối cùng ở cực Nam nước Đức. Điểm cao nhất của thành phố là đồi Warnberg, cao 579m trên mặt biển, điểm thấp nhất cao 482m trên mặt biển nằm trong khu Feldmoching của thành phố. Sông Isar chảy xuyên qua thành phố dài 13,7 km từ Tây Nam đến Đông Bắc. Các đảo nổi tiếng nằm trên sông là Museuminsel với Viện bảo tàng Đức và đảo Praterinsel ngay bên cạnh. Có nhiều hồ lớn nằm ở ngoài ngoại ô như Ammersee, Wörthsee hay Starnberger See. Các dòng nước khác là sông Würm bắt nguồn từ Starnberger See chảy xuyên qua phía Tây của München và nhiều kênh rạch như Eisbach hay như Auer Mühlbach là kinh đầu tiên từ Isar chảy qua Vườn bách thú München ở Hellabrunn. Phần lớn các kênh rạch được đào dọc theo sông Isar, một số chảy xuyên qua khu trung tâm thành phố. Ngày nay phần lớn các kênh rạch ở trung tâm được dẫn chảy ngầm bằng ống nước, một số được san lấp từ khi xây dựng các đường tàu điện ngầm và tàu lửa thành phố (S-Bahn). Các hồ trong thành phố München bao gồm Kleinhesseloher See trong Công viên Englischer Garten (English Garden), hồ trong khu vực Olympia và các hồ Lerchenauer See, Fasaneriesee, Feldmochinger See toàn bộ đều nằm về phía Bắc của München. Tổng diện tích của München là 31.041ha, trong đó 44% là nhà và các diện tích phụ thuộc, 16,9% là diện tích nông nghiệp, 16,5% là diện tích giao thông, 14,7% là các diện tích dùng để nghỉ ngơi, 4,4% là rừng, 1,2% diện tích nước và 2,2% dùng cho các mục đích khác. Ranh giới thành phố dài 117,4 km. Chiều dài nhất của thành phố từ Bắc đến Nam là 20,9 km, từ Đông sang Tây là 26,8 km. Thành phố München nằm trong vùng tiếp giáp giữa khí hậu Đại Tây Dương ẩm và khí hậu lục địa khô. Các yếu tố khác có ảnh hưởng quyết định đến thời tiết là núi Anpơ (Alpen) chia cắt thời tiết ở Trung Âu và sông Donau chia cắt thời tiết trong vùng. Vì vị thế này mà thời tiết ở München hay thay đổi. Gió từ phía Nam mang đến luồng không khí ấm và khô quanh năm, đem lại tầm nhìn xa rất tốt thấy rõ cả núi Anpơ của vùng Bayern. Nhiệt độ chính thức cao nhất từ trước đến nay do Cục thời tiết Đức đo được là 37,2 độ Celcius vào tháng 7 năm 1983. Với vị trí nằm trong tiểu bang Bayern có nhiều giông tố nhất, München cũng đã chịu đựng nhiều cơn giông bão dữ dội. Đáng nói nhất là cơn mưa đá vào ngày 12 tháng 7 năm 1984 đã gây thiệt hại đến 1,5 tỉ Euro. Vì gần núi Anpơ, München là thành phố lớn có nhiều tuyết nhất của Đức. Về đường sắt, München cũng được nối tiếp tốt vào mạng lưới đường sắt quốc tế. Mạng lưới xa lộ từ và đến München dầy đặc bao gồm các đường xa lộ A8 Stuttgart-Salzburg, A9 Nürnberg-München với lối rẽ A93 đi Regensburg, A92 Landshut-Deggendorf, A94 (đang xây dựng) đi Passau, A95 đi Garmisch-Partenkirchen và A96 đi Memmingen-Lindau (Bodensee). Đường xa lộ vành đai A99 bao bọc gần như toàn bộ München. Trong giao thông công cộng công ty S-Bahn München phục vụ 10 tuyến S-Bahn; các tuyến chính đều chạy qua một đường hầm trong trung tâm thành phố. Để có thể chạy thường xuyên hơn, một đường hầm song song đang được dự định xây. Công ty giao thông München (Münchener Verkehrsgesellschaft) có 7 tuyến tàu điện ngầm U-Bahn, 11 tuyến tàu điện (Tram) và 66 tuyến đường xe buýt. 45% của các tuyến đường xe buýt khác được các công ty tư nhân vận hành. Tất cả các hệ thống giao thông công cộng đều có một giá chung do Hiệp hội giao thông München quy định. Với 95 km chiều dài, mạng lưới tàu điện ngầm của München là mạng dài thứ ba của Đức (với 86 km dưới mặt đất còn là dài thứ hai), số lượng hành khách hằng ngày là 960.000 người Quảng trường Đức Mẹ (Marienplatz) được coi là trung tâm của München nằm giữa Tòa đô chính Mới (Neue Rathaus) và Tòa đô chính Cũ (Alte Rathaus), ngay trong trung tâm của khu phố cổ. Nhà thờ Đức Bà với hai tháp có hình dáng đặc biệt, tiếng Đức gọi là tháp củ hành, biểu tượng của thành phố, cũng ở gần đó. Từ chỗ này có thể dễ dàng đi đến rất nhiều nơi đáng tham quan thí dụ như Cung điện München, quán bia nổi tiếng Hofbräuhaus am Platzl và chợ Viktualien. Đường Maximilian, được xây trong thế kỷ thứ 19 để làm đường duyệt binh, bắt đầu từ phía Nam của Cung điện München, trước Nhà hát opera. Đường này chạy dài từ khu phố cổ qua sông Isar đi đến lâu đài Maximilianeum, hiện nay là trụ sở của Quốc hội tiểu bang Bayern. Ngày nay đường này là một con đường mua sắm sang trọng. Quảng trường Odeon nằm về phía Bắc của trung tâm thành phố, ngay trước Cung điện München, có Hội trường tướng quân (Feldherrnhalle – tiếng Anh: Hall of the Field Lords) và nhà thờ dòng Theatine nổi tiếng theo được xây dựng theo lối kiến trúc Baroque và bên trong được trang hoàng theo kiểu Rococo tráng lệ. Con đường lộng lẫy thứ hai của München, đường Ludwig/đường Leopold, bắt đầu từ đây đi về phía Bắc, qua Đại học Ludwig-Maximilian, Khải Hoàn Môn München (Siegestor), xuyên qua khu Schwabing ra ngoài thành phố. Nhà thờ dòng Theatine và Hội trường tướng quânMột quảng trường nổi tiếng khác mằm về phía Tây Bắc của khu phố cổ là Quảng trường vua (Königsplatz) với Viện bảo tàng Glyptothek, Cổng thờ propylaea và Viện bảo tàng cổ đại quốc gia. Cách xa trung tâm thành phố một ít về phía Tây là lâu đài Nymphenburg có kết hợp độc đáo giữa công viên và dinh cơ và đã là dinh thự mùa hè của dòng họ Wittelsbach. Ở phía Bắc thành phố là công viên Olympia được xây dựng cho Thế vận hội mùa hè 1972. Quang cảnh kiến trúc đáng xem bao gồm sân vận động Olympia, hồ bơi và hội trường Olympia nổi tiếng thế giới vì kiến trúc mái hình lều táo bạo hòa hợp với phong cảnh đồi chung quanh. Tháp Olympia cao 291m khánh thành năm 1968 cũng được xây dựng tại đây. Món xúc xích Weißwurst được chế ra vào năm 1857 tại München và có lẽ là món đặc biệt nổi tiếng nhất. Ngoài ra còn có thể kể tới chả Leberkäs, bánh mì kẹp chả Leberkässemmel, bánh mì Brezn, bánh chiên Ausgezogene (ein rundes Schmalzgebäck) và nước uống Münchner Bier.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Lai Vung",
"role": "user"
},
{
"content": "Lai Vung là một huyện phía nam thuộc vùng Sa Đéc của tỉnh Đồng Tháp. Lai Vung được mệnh danh là Vương quốc quýt hồng. Tên gọi Lai Vung ra đời trong buổi đầu khai hoang mở cõi bên bờ sông Hậu, ghi đậm dấu ấn lịch sử trong diễn trình xây dựng cuộc sống trên vùng đất mới với thành quả đầy sáng tạo trong nông nghiệp: đào mương lên liếp lập vườn trồng cau. Một trong hai hoạt động kinh tế chính của Nam kỳ lúc bấy giờ. Nhưng đến nay cả Nam kỳ có mấy nơi dùng cái tên sản phẩm nông nghiệp làm tên gọi cho quê hương mình! Cái tên Srôk Sla tamvun, xứ Cao Tầm Vung, xóm Lai Vung, chợ Lai Vung đã đi vào lòng đất, tình người từ bao đời qua. Trong diễn trình hành chánh qua nhiều chế độ chánh trị, từ thời quân chủ, qua thời thuộc Pháp, đến thời hòa bình độc lập dân chủ hiện nay, dù hai chữ Lai Vung khi hiện diện trên văn bản, khi biến mất; nhưng trong lòng người Lai Vung, người đồng bằng sông Cửu Long nó vẫn bàng bạc trong lời ăn tiếng nói, trong giao tiếp hàng ngày... Tuy chợ ngày xưa không còn mang tên Lai Vung, nhưng huyện Lai Vung đang trên đà phát triển, thị trấn Lai Vung tọa lạc ở xã Hoà Long (dân gian gọi là chợ Lai Vung mới) với tốc độ đô thị hoá nhanh chóng; người, xe khắp nơi, đến đi tấp nập, đặc sản mang tên Lai Vung (nem, quýt hồng...) theo đó đến mọi miền đất nước. Chợ Lai Vung xưa, nay được gọi là Tân Thành (dân gian gọi là Lai Vung cũ), từ năm 2009, được xây cất lại khang trang bên bờ sông Lai Vung, ngày đêm vẫn âm thầm mang phù sa tưới ruộng đồng toàn huyện như thở nào. Nếu huyện Lai Vung có làm biểu tượng, huy hiệu cho huyện, thiết nghĩ chắc không có hình ảnh nào đắc ý hơn Cây Cau. Đến xã Long Hậu, Tân Phước, Tân Thành, huyện Lai Vung, bạn sẽ như lạc vào một thiên đường quýt hồng. Từ hơn 100 năm trước, quýt hồng đã được trồng ở xứ này. Nhờ khí hậu, nước, đất phù hợp, quýt hồng nơi đây luôn cho nhiều trái to, tròn, mọng nước hơn quýt những vùng khác Khu du lịch sinh thái cam quýt Bá Chuối, địa chỉ TL 851, Cả Ngang, ấp Tân Khánh, xã Tân Thành. Điện thoại: 091 388 4294 Điểm tham quan vườn quýt Hai kiệt Du khách đến tham quan đi theo QL 80 đến công viên Thị trấn Lai Vung, huyện Lai Vung rẽ sang TL 851 hướng chạy về ngã 5 Tân Thành (Qua cầu Thong Dong) điểm tham quan cách UBND xã Long Hậu 150m. Điện thoại: 0169 995 0585. Điểm tham quan vườn quýt Lan Anh Du khách đến tham quan đi theo QL 80 đến công viên Thị trấn Lai Vung, huyện Lai Vung rẽ sang TL 851 hướng chạy về ngã 5 Tân Thành (Chưa Qua cầu Thong Dong) rẽ phải hướng chạy về cầu Long Thành điểm tham quan tại cầu Long Thành. Điện thoại: 093 561 9263. Điểm tham quan vườn quýt Út Tường, Du khách đến tham quan đi theo QL 80 đến công viên Thị trấn Lai Vung, huyện Lai Vung rẽ sang TL 851 hướng chạy về ngã 5 Tân Thành, điểm tham quan nằm trên TL 851. Điện thoại: 091 690 0097. Điểm tham quan vườn quýt Hồng Danh nằm trên TL 851 gần và đối diện với điểm Út Tường. Điện Thoại: 0165 595 0773 Điểm tham quan vườn quýt Vân Lam Du khách đến tham quan đi theo QL 80 đến công viên Thị trấn Lai Vung, huyện Lai Vung rẽ sang TL 851 hướng chạy về ngã 5 Tân Thành, tại ngã 5 Du khách rẽ trái sang QL 54 hướng chạy về khu công nghiệp Sông Hậu (Điểm tham quan cách ngã 5 khoảng 300m). Điện thoai: 02773 649 370, 091 825 8407. Điểm tham quan vườn quýt Tư Ràng Du khách đến tham quan đi theo QL 80 đến công viên Thị trấn Lai Vung, huyện Lai Vung rẽ sang TL 851 hướng chạy về ngã 5 Tân Thành, tại ngã 5 Du khách rẽ trái sang QL 54 chạy về khu công nghiệp Sông Hậu qua Cầu Cái Sơn, điểm quan tham cách Cầu Cái Sơn khoảng 1 km. Điện thoại: 093 914 1801. Di tích Chùa Bửu Hưng: Tại bến xe Lai Vung QL 80, quí khách đi vào đường huyện lộ (đường Cái Chanh) hướng về xã Long Thắng, cách Thị trấn Lai Vung 5 km. Di tích Đình và Bức Phù Điêu Tân Dương: vị trí trên đường TL 852 tại xã Tân Dương, cách Sa Đéc khoảng 3 km.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Rạch Giá",
"role": "user"
},
{
"content": "Rạch Giá là một thành phố tỉnh lỵ tỉnh Kiên Giang thuộc vùng Tây Nam Bộ Việt Nam. Rạch Giá là thành phố trực thuộc tỉnh Kiên Giang, đồng thời cũng là thành phố biển của Đồng bằng sông Cửu Long và là một trong bốn đô thị trọng điểm của Đồng bằng sông Cửu Long gồm Rạch Giá, Long Xuyên, Cần Thơ và Cà Mau. Rạch Giá là nơi có nhiều cảnh quan và tiềm năng sông nước biển đảo, và có sức hút mạnh mẽ đối với du khách khi đến thăm thành phố. Rạch Giá có nhiều đền đài, chùa chiền và các công trình thờ tự nổi tiếng khắp vùng Nam Bộ được xây dựng bởi người Việt, Hoa và Khmer. Sân bay Rạch Giá với tuyến bay Phú Quốc và Thành phố Hồ Chí Minh. Sân bay quốc tế Phú Quốc (bay Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ) cách Rạch Giá 120 km, từ sân bay này đến Rạch Giá bằng ca nô cao tốc SuperDong. Có nhiều hãng taxi để lựa chọn, như Phú Quốc, Mai Linh, Phương Trinh... Xe Máy Bạn có thể liên hệ Thuê xe máy tại Tripbike để đi lại khi đến Rạch Giá - Kiên Giang giá phù hợp với các bạn học sinh sinh viển và các du khách đi công tác hoặc đi du lịch Xe ôm thường tập trung nhiều ở những nơi đông đúc như bệnh viện... hoặc ở những con đường lớn như đường Nguyễn Trung Trực. Giá cả thường là từ 10.000 VNĐ trở lên, nên hỏi giá trước khi lên xe. 10.0117433Đình thần Nguyễn Trung Trực1 Đình thần Nguyễn Trung Trực, 7 Nguyễn Công Trứ, phường Vĩnh Thanh. Đền thờ của Nguyễn Trung Trực, thủ lĩnh của một phong trào chống Pháp thế kỷ XIX tại Việt Nam (cập nhật vào tháng 7 2017) 9.9980139Cổng Tam Quan2 Cổng Tam Quan, Gần ngã tư Nguyễn Trung Trực - Lạc Hồng. Công trình kiến trúc nổi tiếng được thiết kế theo kiểu truyền thống, có ba cửa hình vòng cung (cập nhật vào tháng 7 2017) 10.0047105Chùa Sắc Tứ Tam Bảo3 Chùa Sắc Tứ Tam Bảo (Chùa Tam Bảo), 3 Sư Thiện Ân, phường Vĩnh Bảo, ☎ +84 297 3862 439. Một ngôi chùa cổ nổi tiếng tại Rạch Giá, từng là căn cứ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm 1943-1945 (cập nhật vào tháng 7 2017) 10.0093238Bảo tàng Kiên Giang4 Bảo tàng Kiên Giang, 27 Nguyễn Văn Trỗi, phường Vĩnh Thanh Vân, ☎ +84 297 3863 727. (cập nhật vào tháng 7 2017) Có thể dễ dàng tìm thấy một quán cơm hay bún, phở bên đường. Tại đây có rất nhiều nhà hàng từ nhỏ đến lớn và quán cà phê (thường có bán đồ ăn sáng vào buổi sáng). 9.9981036Hủ tiếu Nam Vang 2221 Hủ tiếu Nam Vang 222, Đường Phạm Hùng, phường Vĩnh Lạc, ☎ +84 297 3877 215. Quán ăn bình dân. Nên thử món hủ tiếu Nam Vang. (cập nhật vào tháng 7 2017) 10.0045917Cafe Tao Ngộ1 Cafe Tao Ngộ, 65 Lâm Quang Ky, Vĩnh Bảo, ☎ +84 90 990 00 91. Một quán cà phê yên tĩnh, có phòng máy lạnh, không gian đẹp, có Wifi. (cập nhật vào tháng 7 2017) 9.992209Khách sạn Phúc Hưng1 Khách sạn Phúc Hưng, Lạc Hồng, Vĩnh Lạc, Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam. Một địa điểm tốt cạnh biển. No views. Wifi miễn phí. Phòng ốc khá tốt, cùng một TV màn hình phẳng cho mỗi phòng. Bản đồ nằm trên website của khách sạn. 350.000 VND cho phòng máy lạnh tiêu chuẩn, 550.000 VND cho phòng VIP đôi. Phượng Hồng, 05 Tự Do - P. Vĩnh Thanh, ☎ 077-3878 777NOCC. Bên cạnh cảng Phú Quốc. Mới xây nhưng phòng khá nóng. Wifi miễn phí cùng máy tính miễn phí tại sảnh đợi. Phòng sạch sẽ với tủ lạnh và ti vi. Phòng từ 12 Mỹ kim. 10.0107142Nhà trọ Lãng Du2 Nhà trọ Lãng Du, 36 Nguyễn Công Trứ, Vĩnh Thanh, ☎ 077-863672NOCC. Trả phòng: 12 giờ trưa. Phòng đôi cùng với phòng tắm riêng 200.000 VND. (cập nhật vào tháng 2 2017) Phú Quốc Hà Tiên Cần Thơ",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Câu đối chưa rõ sự tích và nguồn gốc xuất xứ",
"role": "user"
},
{
"content": "vế ra: Giáp mặt Thân Tình Tinh Thần yếu, nhất là Tính Đền Đến Tình yêu (Can Giáp, một can đầu trong mười can. Ngày xưa lấy mười can kể lần lượt, cho nên cái gì hơn hết cả đều gọi là giáp. Như phú giáp nhất hương 富甲一鄉 giầu nhất một làng. Dùng làm chữ nói thay ngôi (đại từ). Như anh giáp, anh ất, phần giáp, phần ất. Phàm không biết rõ là ai thì mượn chữ ấy làm cái tên mà gọi thay cho có chỗ mà so sánh. Ðời khoa cử, thi tiến sĩ lấy nhất giáp 一甲, nhị giáp 二甲, tam giáp 三甲 để chia hơn kém. Cho nên bảng tiến sĩ gọi là giáp bảng 甲榜. Nhất giáp chỉ có ba bực : (1) Trạng nguyên 狀元, (2) Bảng nhãn 榜眼, Thám hoa 探花 gọi là đỉnh giáp 鼎甲. Áo giáp (áo dày). Mai: như quy giáp 龜甲 mai rùa. Bảo giáp 保甲 kê tra các nhà các nhân xuất để cho cùng dò xét nhau mà phòng bị các quân gian phi ẩn núp, mười nhà gọi là một giáp) (Chi thân, một chi trong mười hai chi. Từ 3 giờ chiều đến năm giờ chiều gọi là giờ thân. Lại: như thân thuyết 申說 nói lại. Ðến: như phụng thân phỉ kính 奉申菲敬 kính dâng lễ mọn. Duỗi, cùng nghĩa với chữ thân 伸. Hàng đầu các văn thư nhà quan gọi là thân, bạc kém phân phải chịu tiền pha thêm cho đúng số bạc gọi là thân thủy 申水. Tên đất. Bầy tỏ: như thân lý 申理 người bị oan ức bày tỏ lý do để kêu oan) vế đối 1: Tân hôn Tí Ti Ti Tí khóc, nhất dạ Đêm Thâu Đau Thêm nữa (Huy Phong) (Nhất dạ: chỉ một đêm thôi mà sao thấy đêm dài thâu thẳm thao thức nên \"đau đau\" thêm, không biết đau lòng hay) vế đối 2: Canh giờ Mùi Mẫn Mẫn Mùi canh, bán dạ Ngự Sàn Ngàn Sự thanh (Mùi: còn có âm khác là Vị, chi Vị, chi thứ tám trong 12 chi. Từ một giờ chiều đến ba giờ chiều gọi là giờ vị. Chửa: như vị lai 未來 chưa lại, chưa tới. Chưa, dùng làm lời trợ từ. Như hàn mai trước hoa vị 寒梅著花未 mơ đã nở hoa chưa ? (Vương Duy 王維). Không. Lời nói chưa nhất định. Như vị khả tri dã 未可知也 chưa thể biết được) (Chỉ nửa đêm ngự sàn thôi đã cảm thấy ngàn sự thanh thoát, thanh tao....quả là cuộc sống đẹp lắm thay) vế đối 3: Quý nhau Thân Thiết Miết Thân nhau, sau mãi Thời Xa Thà Xơi sau (Can quý, một can sau chót trong mười can. Kinh nguyệt đàn bà gọi là \"thiên quý\" 天癸) vế đối khác 4: Đinh tai Tị Hiềm Hiềm Tị tiếng, Nhâm nhi Dần Dà Dà Dần tha vế đối khác 5: Kỷ vật thân hữu hữu thân thật, vân thật Vân Mộc Mộc Vân hữu (Can kỷ, can thứ sáu trong mười can. Mình, đối lại với người. Như vị kỷ 為己 chỉ vì mình, lợi kỷ 利己 chỉ lợi mình. Riêng, lòng muốn riêng) (Một vật kỉ niệm thân thiết có vân, mà là vân thật. Vân thật, Vân gỗ, gỗ có vân) vế ra: 妙人儿倪家少女 Diệu nhân nhi nghê gia thiếu nữ vế đối: 武士心志在止戈 Võ sĩ tâm chí tại chỉ qua Chữ diệu bẻ thành hai chữ thiếu nữ/ Chữ Vũ(võ) bẻ thành hai chữ chỉ qua. Ở đây khi bẻ chữ Diệu, người ta xếp chữ thiếu rồi mới đến chữ nữ, dụng ý là tạo thành từ “thiếu nữ” vế ra: Chữ Đại là cả, bỏ một nét ngang, chữ Nhân là người, chớ thấy người sang bắt quàng làm họ vế đối: Chữ Bì là da, thêm ba chấm thủy, chữ Ba là sóng, chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo Cách chuyển hóa chữ: “đại” [大] (cả, to, lớn), bỏ [一] “ngang”, thành chữ “nhân” [人] (người); chữ “bì” [皮] (da), thêm [氵] “ba chấm thủy”, ra chữ “ba” [波] (sóng) 'Vũ hậu đình tiền, miêu túc mai hoa, kê túc trúc雨後庭前猫足梅花🐔鸡足竹' (Sau cơn mưa, trước sân, dấu chân mèo in hình hoa mai, dấu chân gà in hình lá trúc) 'Dạ thanh thiên thượng, tinh hình đạn tử, nguyệt hình cung夜清天上星形弹子月形弓' (Đêm thanh, trên trời, những vì sao giống như viên đạn, mặt trăng giống như chiếc cung) Cái nhìn của tác giả thật sắc sảo, kết hợp giữa hình ảnh thực tế gần gũi ngay trước mắt là dấu chân mèo, dấu chân gà với ước lệ của thi và họa: hoa mai và lá trúc. Bầu trời vào buổi rạng sáng, thấy còn vầng trăng mỏng, thật mỏng, chỉ là một đường cong, và chỉ duy nhất một ngôi sao cạnh đó, rõ ràng là tinh hình đạn tử nguyệt hình cung) Ông thông đến gốc cây đề, ông thông không đi, là ông thông lại Ông tú đi qua cửa cống, ông tú nhảy được, là ông tú tài Theo ngữ cảnh thuận, thì “thông lại” là (ông) thông quay trở lại (kết cấu TV), cùng âm với “thông lại” (viên chức làm việc ở bàn giấy các công đường phủ, huyện thời thực dân Pháp) (HV); “tú tài” là (ông) tú có tài năng (kết cấu TV), cùng âm với “tú tài” (một học vị dưới cử nhân) (HV). Ngoài ra, “đề”, “cống” (trong “cây đề”, “cửa cống”) (TV), cùng âm với “đề” (thuộc đề, lại -viên chức), “cống” (thuộc cống (cử nhân), tú -học vị) (HV). Tí tận, thử tống mão Sửu đầu, ngưu thốn thìn “Tí”, “sửu”, về mặt biểu tượng, cùng nghĩa với “thử”, “ngưu”. Bên cạnh đó, “tí”, “sửu”, “mão”, “thìn” cùng trường nghĩa, thuộc thập nhị địa chi. Cuốc xuống ao uống nước Gà vào vườn ăn kê “Cuốc” (quốc), “kê” (HV), cùng nghĩa với “nước” (nước nhà), “gà” (TV). Trong ngữ cảnh thuận, “cuốc” là con chim cuốc, “kê” là loài cây (hạt kê thường dùng để nấu chè), “nước” là thức uống. Sửa nhà, gia đình ra sân Cứu nước, quốc hội phải họp Các cặp cùng nghĩa HV–TV: “gia” – “nhà”, ”đình” – “sân”; ”quốc” – “nước”, ”hội” – “họp”. Dưới sông, hà bá là chúa Trên đất, thổ công làm trùm Các cặp cùng nghĩa HV–TV: “hà” 2 “sông”, “bá” 2 “chúa”, “thổ” 2 ”đất”, “công” 2 “trùm”. Cháy chợ, chớ chạy Bể vò, bỏ về Ô! Quạ tha gà Xà! Rắn bắt ngoé “Ô”, “xà” (HV), cùng nghĩa với “quạ”, “rắn” (TV). Trong ngữ cảnh thuận, “ô”, “xà” là những từ cảm thán. vế ra: Thủ thỉ chén đầu lợn vế đối 1: Hung hổ vỗ bụng hùm vế đối 2: Túc tắc xơi chân gà “Thủ thỉ”, “hung hổ”, “túc tắc” (HV, cấu tạo theo ngữ pháp tiếng Việt), cùng nghĩa với “đầu lợn”, “bụng hùm” “chân gà”(TV). Trong ngữ cảnh thuận, chúng là những từ thuần Việt (“thủ thỉ”: (ăn nói) nhỏ nhẹ, từ tốn; “hung hổ”: (thái độ) nóng nảy, dữ tợn); “túc tắc”: (thái độ) chậm rãi, thong thả Học trò Phú Khê ăn cơm cháy Quan huyện Thanh Trì uống nước ao “Cháy”, “ao” (TV) cùng nghĩa với cùng âm “khê” (TV) của “Khê” (trong Phú Khê), với “Trì” (trong Thanh Trì), là những yếu tố HV (được tách ra theo cách cùng âm). Nước giếng Rồng pha chè Long Tỉnh Lửa cầu Rắn thắp hương Xà Kiều Giếng Rồng, cầu Rắn (địa danh TV), cùng nghĩa với Long Tỉnh, Xà Kiều (địa danh theo HV). Long Tỉnh, Xà Kiều đồng thời là tên chè, tên hương; nên với hai địa danh trên là cùng âm. Bươm bướm đậu cành sen, liên chi hồ điệp Gà trống mổ hạt thóc, cốc đế hùng kê “Bươm bướm”, “cành sen” (TV), cùng nghĩa với “hồ điệp”, “liên chi” (HV); “gà trống”, “thóc” (TV), cùng nghĩa với “hùng kê”, “cốc” (HV). Trong hai câu trên có bốn cặp từ thể hiện hiện tượng đồng nghĩa thuần Việt-Hán Việt: bươm bướm- hồ điệp; cành sen- liên chi; gà trống- hùng kê; thóc- cốc, bên cạnh đó là hiện tượng đa nghĩa ở các từ Hán- Việt: nếu là liên chi (連 枝) nghĩa là liền cành, nếu là liên chi (蓮 枝) nghĩa là cành sen; nếu là cốc đế (鵒 蔕) nghĩa là chim cốc, nếu là cốc đế (谷 蒂) nghĩa là già cỗi. Liên chi hồ điệp: có thể hiểu theo các nghĩa: Bươm bướm (đậu) cành sen; cành sen, bươm bướm; liên tiếp nhau (nghĩa thoát). Cốc đế hùng kê: có thể hiểu theo các nghĩa: gà trống già cốc đế (khú đế); chim cốc, gà trống. Ao Thanh Trì nước trong leo lẻo, cá lội ngắc ngư Sông Ngân Hà sao bạc chan chan, vịt nằm ấm áp. Có sáu cặp từ cùng nghĩa TV–HV: “ao”–”trì”; “trong”–”thanh”; “cá”–”ngư”; “sông”–”hà”; “bạc”–”ngân”; ”vịt”–”áp”. “Thanh”, “trì”, “ngân”, “hà” cùng âm với Thanh Trì, Ngân Hà (tên riêng); “ngư”, “áp” là từ tố của “ngắc ngư”, “ấm áp”, được tách ra trên cơ sở cùng âm để đạt yêu cầu chơi chữ. Ở đây, cũng dùng cách chơi chữ cùng trường nghĩa sở thuộc: “cá” ? “ao Thanh Trì”, “vịt” ? “sông Ngân Hà”. vế ra: Huyện Tam Dương có ba con dê, đứng núi đá trông về Lập Thạch vế đối: Quan Tứ Kì đi xe bốn ngựa, vâng mệnh trời ra trị Thừa Thiên Các cặp từ ngữ cùng nghĩa HV–TV: “tam dương”–”ba con dê”; “lập thạch” –”đứng núi đá”; “tứ kì”–”bốn (con) ngựa”; “thừa thiên” –“vâng mệnh trời” (đồng thời, “tam dương”, “lập thạch”, “tứ kì”, “thừa thiên” là bốn từ ngữ cùng âm với bốn địa danh trong câu đối). vế đối khác: XE TỨ Mà THẮNG BỐN CHÚ NGỰA, TRƯỚC DÒNG SÔNG HƯỚNG TỚI TIỀN GIANG Lộc là hươu, hươu đi lộc cộc vế đối 1: Ngư là cá, cá lội ngắc ngư vế đối 2: Long là rồng, rồng chạy long đong “Lộc”, “ngư” (HV), cùng nghĩa với “hươu”, “cá” (TV). Các từ HV này, đồng thời, cùng âm với các từ tố “lộc”, “ngư” trong “lộc cộc”, “ngắc ngư” (TV). “Long” (HV) cùng nghĩa với “rồng” (TV), cùng âm với từ tố “long” của “long đong”. Vôi tôi, tôi tôi Trứng bác, bác bác Hai “tôi” đầu là đại từ, “tôi3” là động từ (có nghĩa “làm cho tan vôi sống bằng cách đổ nước vào”), hai “bác” đầu là danh từ, “bác3” là động từ (có nghĩa “vừa đun nhỏ lửa vừa quấy cho đến khi sền sệt”). vế xuất: Đầu gối đầu gối vế đối 1: Tay cầm tay cầm vế đối 2: Chân quỳ chân quỳ vế đối 3: Tay mang tay mang Dùng cách chơi chữ cùng âm. Tiếng ở vị trí thứ hai là động từ “gối”(kê đầu), “cầm” (nắm giữ); tiếng ở vị trí thứ tư là từ tố của một danh từ song tiết: “gối” của “đầu gối” (mặt trước của chỗ ống chân khớp với đùi), “cầm” của “tay cầm” (bộ phận để cầm của một số dụng cụ, thường tròn và ngắn). Theo đó, vế trên hiểu là: cái đầu kê lên cái đầu gối; vế dưới hiểu là: cái tay nắm vào cái tay cầm. Tương tự, 2 vế đối sau tiếng ở vị trí thứ hai là động từ “quỳ” (ở tư thế gập đầu gối và đặt sát mặt nền để đỡ toàn thân), “mang” (giữ cho lúc nào cũng cùng theo với mình mà di chuyển); tiếng ở vị trí thứ tư là từ tố của một danh từ song tiết: “quỳ” của “chân quỳ” (chân thấp mà cong như dáng chân đang quỳ ở một số vật dụng), “mang” của “tay mang”. Theo đó, vế trên hiểu là: quỳ bên cái chân quỳ; vế dưới hiểu là: tay mang cái tay mang. vế xuất: Chè lam mất ngọt vế đối: Xôi vò chả ngon Dùng cách chơi chữ cùng âm. “Mứt” (âm địa phương nhiều nơi ở miền Trung và Nam cũng là “mất”), là thức ngon thuộc nhóm “mứt, ngào, cốm,...”, “chả” là thứ ngon thuộc nhóm “chả, nem, tré,...”, được hình thành trên cơ sở cùng âm: “mất (ngọt)” - hết (ngọt); “chả (ngon)” - không (ngon). Lại cũng có thể hiểu: chè lam và mứt thì ngọ, xôi vò và chả thì ngon. vế xuất: Bác cửu vế đối: Ông đui' “Bác cửu”: tám chín; đọc theo giọng Nam, ra “bác cẩu”, tức “bác chó”! “Ông đui”: onze douze (tiếng Pháp): mười một, mười hai; lại cũng có nghĩa “ông kém con mắt”! Hai nghĩa thuần Việt (TV) và nửa thuần Việt nửa Hán Việt (HV) đối nhau; hai nghĩa Hán Việt và Pháp Việt đều là những con số, chúng đối theo cách cùng trường nghĩa. Ở Điện Bàn còn lưu truyền một cặp vế đối trứ danh của hai cụ Tú thuộc hai làng Phước Chỉ và La Qua: vế ra: Con gái La Qua, qua hôn, qua hít, qua vít, qua véo, qua chọc, qua ghẹo, qua biểu em đừng có la qua vế đối: Con gái Phước Chỉ, chỉ xấu, chỉ xa, chỉ lười, chỉ nhác, chỉ bài, chỉ bạc, chỉ có chồng là may phước chỉ (Phước Chỉ là 1 xã thuộc huyện Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh) 大代表小代表大代表代表小代表 Đại đại biểu, tiểu đại biểu, đại đại biểu đại biểu tiểu đại biểu 男招待女招待男招待招待女招待 Nam chiêu đãi, nữ chiêu đãi, nam chiêu đãi chiêu đãi nữ chiêu đãi Cao nhân đối mặt, cao nhân đối Tiểu bối nhìn vào, tiểu bối xem Ông già mất nết \"khoái mây mưa\" (Phải Gió) Thằng bé chơi hoang \"huơ mủi nhọn\" (Huy Phong) Mười mấy khoa còn gì, nhờ trời có phúc phận Năm mươi tuổi thành tài, mừng ông càng dẻo càng dai Gió quyến ngọn cây, cây quyến gió Trăng lồng đáy nước, nước lồng trăng Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối xay không ngõng Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi Gió tựa tường ngang lưng gió phẳng Trăng nhòm cửa sổ mắt trăng vuông Xuân, Hạ, Thu, Đông đủ bốn mùa Mai, Lan, Cúc, Trúc đủ bốn hoa Có tật giật mình cứu bệnh như cứu hỏa Đứt tay hay thuốc, làm phúc như làm giàu Cái cò lặn lội bờ sông, rủ rỉ nuôi con mà hóa thực Gối phượng ngậm ngùi dưới suối bâng khuâng duyên chị lại từ đây Trói chan kỳ ký tra vào rọ Rút ruột tang bồng trả nợ cơm Cô gái H'mông bên bếp lửa Chàng trai Mường Tè cạnh gốc cây vế ra: Lúa tám gặt, chín tháng mười vế đối 1: Anh Ngũ đói, lục tam thất vế đối 2: Nồi tư mua, quan năm sáu Bán hàng chiều khách, khách nhớ nhà hàng, nhà hàng không nhớ khách Họp chợ lấy người, người làm nên của, của chẳng làm nên người Hổ mang bò lên núi Gà lôi lạc dưới đồng Chị Thường, nằm trên giường, dấu \"cái bình thường\" vào trong Anh Trọng, đứng trên chõng, đưa \"vật quan trọng\" ra ngoài Con trai Văn Cốc, lên dốc bắn cò, đứng lăm le, cười khanh khách Con gái Bát Tràng, bán hàng thịt ếch, ngồi chầu hẫu, nói ương ương Bài bạc thức thâu đêm, mắt thâm thì, vui như Tết Rượu chè say suốt sáng, mũi sụt sịt, đẹp tựa Xuân Ông ăn nên làm ra, xây lầu tầng ba, gần trời xa đất Tôi có sao đành vậy, ở nhà cấp bốn, gần đất xa trời Nghi quốc nghi gia tân phụ nữ Năng văn năng vũ hảo nam nhi Công an, can ông đừng uống rượu Chủ báo, bảo chú chớ ăn chè Chữ nghĩa mớm dần con trẻ hết Râu ria đâm mãi cái dài ra Đất dân chùa làng, phong cảnh phật Người đời của thế nước non tiên Hoa quả lòng thành dâng cúng phật Đèn hương cung phụng kính gia tiên Kính thành hai chữ lễ Trung hiếu một lòng thờ Phẩm quả cúng giàng nghênh phật tổ Hương hoa thành kính hiến thiên tiên Phên đan mắt cáo mèo chui lọt Nghé lội ao sen ngó nổi lên Già trẻ gần xa nương bóng phật Tuần rằm hoa quả độ sinh linh Chi thiết tu đạo muôn đời phúc Thành tâm niệm phật vạn niên khang Cửa rộng thênh thang người qua lại Đường đi thẳng tắp khách ra vào Đất nước chùa làng phong cảnh phật Của đời người thế nước non tiên Bốn trụ bốn nghê cười cười cái kẻ tranh thịt tranh xôi mà chẳng biết tranh đua cùng thế giới Hai đầu long cuốn, cuốn những ai cuốn nước cuốn mây rồi mai đây cuốn sạch lũ bồi Tây Khúc hát Tầm dương, gặp gỡ chan hòa người bốn biển Cung đàn Thúy dịch. Đi về dan díu nợ ba sinh Trời đất cũng đa tình xui bác xuân công, cứ phố yên hoa đi lại mãi Phấn son càng tủi phận, hỏi ông nguyệt lão, cùng phường khăn yếm ghét ghen chi Đi xe đạp đạp xe đi vừa đạp vừa đi là đi xe đạp Thầy toán học học toán thầy vừa học vừa thầy là thầy toán học Tết đến gượng cười, mong con cháu chăm ngoan, nhà có dư gạo thóc Xuân sang gắn vui, cầu vợ hiền mạnh khỏe, vườn đủ quả đủ rau Nợ nần theo gió lạnh bay đi, vợ lại tươi như hoa nở thắm Của cải cùng khí ấm tràn vào, lòng chồng vua tựa trống hội vang Tính ông hay, hay tửu hay tăm, hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa, tuổi ngoại sáu mươi còn mạnh khoẻ Nhà ông có, có bàu có bạn, có ván cơm xôi, có nồi cơm nếp, bày ra một tiệc thấy linh đình vế ra: U DÃI NẮNG, U DẦM MƯA, KHÔNG ĐONG ĐƯA, U VẪN ĐIỆU! (U là tiếng miền Bắc, để gọi một bà mẹ chân quê, tương tự như chữ MÁ của miền Nam. Đặc trưng của bà mẹ chân quê ấy là dãi nắng, dầm mưa, long đong, vất vả, thủy chung, vì chồng, vì con. Thử hỏi trong cảnh khốn cực ấy bà mẹ chân quê có biết làm dáng, làm điệu hay không?) vế đối 1: CỤ HỒI XUÂN, CỤ TÁI GIÁ, CHUỘNG ĐẤU ĐÁ, CỤ THƯỜNG ĐU! vế đối 2: BỐ CẦY SÂU, BỐ CUỐC BẪM, CHẲNG LẨM CẨM, BỐ CHƠI LÒ Bà Nguyễn Ngọc Trai ăn mặc nửa trai nửa gái Ông Trần Thanh Lịch nói năng nửa địch nửa ta (Báo Văn nghệ) Không sợ KHÓ, không sợ KHỔ, chỉ sợ...KHÔ! Chẳng sợ MỎI, chẳng sợ MỆT, chỉ sợ...MỀM! Cốc cốc đánh mõ rình cót thóc, thử đêm nay chuột có cắn không Tùng tùng hồi trống đào cây thông, ô cành nọ quạ không đậu được vế ra: Mặt mày người Việt, họ viết chữ Nguyễn, tiếng Mỹ nói nhuyễn, ô-kê ô-kê vế đối 1: Mồm miệng dịu dàng, đàng hoàng nghiêm trang, lên chùa cầm nhang, mô Phật mô Phật vế đối 2: Mừng lễ Độc Lập, tụ tập lai rai, nhậu món cờ tây, ê dzô ê dzô! vế đối 3: Mỗi ngày Chủ Nhật, cầu thực đồ chay, sau giờ thọ trai, thiện tai thiện tai vế đối 4: Đến mùa báo hiếu, nhưng thiếu tiền dư, chỉ gửi lá thư, mẹ khoẻ không mẹ? vế ra: Đồ ăn thì chơi, đồ chơi thì ăn vế đối 1: Cái có không muốn, cái muốn không có vế đối 2: Cái có không cần, cái cần không có vế đối 3: Cái muốn không cần, cái cần không muốn Uẩy, kìa ai vặn máy tuần hoàn đưa thoi ngọc để xoay Trời đất lại Ừ, mới biết rằng cơ tạo hoá mở then Xuân cho rạng nước non ra Mượn đất vô thường ươm hạt Đạo Hoa tình sẽ nở ngát hương Tâm vế ra: Vợ nuôi chó, chồng chén cầy; tứ đốm tam khoanh, cây còn hóa ra là nhà Tuất vế đối: Ngưòi bảo heo, kẻ kêu lợn; ba bầy bảy mối, lớn lại thành đích thị họ Trư Cô học trò bỏ cậu học trò, vì cậu học trò mò cô học trò Chàng trai tỉnh, phện em gái quê, bởi em gái quê, mê chàng trai tỉnh Hành thiền, hành thiền, thiền hành thành hiền Ông can ông can, can ông công an vế ra: CẦN TAY - CẦN MÁY - CẦN THỤT - CẦN DÀI, MUỐN CÂU ĐƯỢC CÁ PHẢI DÙNG TAY vế đối: CÂU BIỂN - CÂU SÔNG - CÂU RUỘNG - CÂU HỒ, MUỐN ĐI ĐẾN ĐÓ PHẢI DÙNG CHÂN vế đối khác: CÁ LÓC - CÁ THU - CÁ TO - CÁ NHỎ, NÊN KÉO CĂNG CẦN KHÔNG SẼ LÓC vế ra: Qua bến quán Hầu, gặp o đội nói xoáy Ốc, tay bắt Hến, miệng hát Nghêu Ngao vế đối: Đợi đò mũi Ếch, thấy ông mặc áo xã Cóc, chân bơi Nhái, mặt vểnh Ương Ương vế ra: Chợ Đồng Xuân bán bánh Trung Thu, Đông thì Đông nhưng không bán Hạ (khuyết danh) vế đối: Người miền Đông làm nhà đất Bắc, Tây thì Tây vẫn dựng kiểu Nam (khuyết danh) vế ra: Rú , rừng , núi , động , đèo , truông , Ngàn xanh cách trở , mấy luồng cũng theo. vế đối: Bể , hồ , khe , hói , lạch , rào , Sông sâu nước lội , ước ao kết nguyền. vế ra: Đại học Suối Máu, sáu tháng muối cơm vế đối: Giáo khu Thừa Thiên, cửa thiền thưa thớt vế ra: Dân nhậu Chu Lai, uống chai uống lu vế đối: Người dân Đập Đá, bị đá bị đập vế ra: Đi Chợ Búng coi chừng chúng bợ vế đối: Đến Hạ Long rát cổ họng la vế đối khác 1: Lên Bắc Cạn nghèo đành bán cặc vế đối khác 2: Vào Ba Thê cuộc sống bê tha Câu đối của Đàm Tiếu: Luồn lọt lên lương, lỗi lầm lấp liếm, luật lệ làm lơ, lũ lọc lường luôn lẩn lút! Phe phẩy phè phỡn, phân phối phập phù, phạm pháp phởn phơ, phường phản phúc phải phanh phui vế ra: Tết túng tiền tiêu tìm tớn tác (Vũ Đình Tuân) vế đối 1: Chị chưa chồng chửa chửi chanh chua (Minh Hương) vế đối 2: Nhà nhiều nho nhũn nhá nhôi nhai (Vũ Thị Song Thu) vế đối 3: Đường đầy điếm đón đứng đong đưa (Vũ Thị Song Thu) vế ra: Thật thà thẳng thắn thì thua thiệt vế đối: Lươn lẹo lọc lừa lại lên lương vế ra: Trịnh trọng chàng trâu chờ chú chuột vế đối: Choáng choàng chú chuột trốn chàng trâu Câu đối trên được viết nhân dịp tiễn năm Tý đón năm Sửu (không rõ năm nào) vế ra: Ngơ ngác ngô nghê nghĩ ngẩn ngơ, miên man mộng mị một mình mơ, thì thầm tha thiết thương thân thế, chàng chấp chuyện chi chẳng chịu chờ? vế đối: Trăn trở trách trời trong trớ trêu, ruột rà rời rã rối rong rêu, đớn đau đờ đẫn đời điên đảo, ân ái anh à em ứ yêu... vế ra: Thiết trường kỷ dĩ tôn kỳ trưởng (Bày ghế dài ra để mời những người lớn tuổi) vế đối: Lập bình phong nhi tuyển phòng binh (Đặt tấm bình phong để tuyển dụng binh sĩ) vế ra: Con bé mập ú nhờ bà mụ ấp vế đối: Thằng bé ốm tong vác cái ống tôm vế đối khác 1: Bức tranh lộng kiếng đem đi liệng cống vế đối khác 2: Chàng trai sứt môi ngồi ăn xôi mứt vế đối khác 3: Cô gái mồm to lặn lội mò tôm vế đối khác 4: Cô nàng dâu Hứa đi mua dưa hấu vế đối khác 5: Thằng rể bảnh trai ngồi cạnh bãi tranh vế đối khác 6: Người mặc áo xanh chính là anh xáo (anh Sáu, giọng Nam) vế đối khác 7: Miếng thịt băm nát trong bụng bác Năm vế đối khác 8: Cô gái muốn chồng ngó cái mống chuồng vế đối khác 9: Con chó què chân bị cái quần che vế đối khác 10: Con chim sáo sậu chê cô xấu xạo vế đối khác 11: Nhờ cái búa đỏ chẻ thành bó đũa vế đối khác 12: Cái nồi cơm thiu lại dám kêu thơm vế ra: Chiều chiều cụ Mão lên rừng cạo mũ vế đối: Sáng sớm bà Hạc đi bán bạc hà vế đối khác 1: Rượu thuốc Bạch Hổ, uống bổ như hạch vế đối khác 2: Con gái Đà Nẵng, tứ đẳng nõn nà vế đối khác 3: Thầy giáo Bản Giốc, vừa bốc vừa giảng vế đối khác 4: Tử tù Cổng Trời, bị cởi bị trồng vế ra: Con cá rô cố ra khỏi rá cô vế đối: Chú chó mực chực mó vào chõ mứt vế ra: Con cóc cái ngồi trên cái cốc vế đối: Con cầy tơ đứng dưới cờ Tây vế ra: Mài kéo cắt đuôi mèo cái vế đối: Lòn cưa cứa cổ lừa con vế ra: Con cá đối nằm trên cối đá vế đối 1: Chim mỏ kiến đậu trên miếng cỏ vế đối 2: Cái mông đầm tạ lên mâm đồng (khuyết danh) vế đối 3: Cái lò tôn đặt dưới lồn to (Trước đây, người phụ nữ Việt Nam ta thường “nằm than” trong thời gian đầu, sau khi sanh nở - chữ nằm than – than ở đây là than đốt trong lò sưởi, để sưởi ấm) vế đối 4: Mụ mèo cái nằm trên mái kèo (khuyết danh) vế đối 5: Cô láng giềng tắm bên giếng làng (khuyết danh) Câu đối không dùng chữ mà vẫn đối ý chan chát: Độc đáo nhất có lẽ là câu đối sau: Cũng hoàn toàn không dùng một chữ nào mà vẫn ... rất đối: Vế ra: “?” Vế đối: “!” Đó là một giai thoại về bức thư của nhà văn nổi tiếng thế giới, nhắc nhà xuất bản sao mãi chưa trả tiền nhuận bút (? ); giám đốc nhà xuất bản đã chơi chữ lại bằng một dấu chấm than (! ), có ý cười trừ! Đôi câu đối chỉ có một dấu ? và một dấu !, nhưng nội dung ẩn dụ trong đó, thì cả người nhận và người gửi, đều hiểu! Đây là tình cảnh của những anh nghèo rách mồng tơi mà lại thêm bỉ vận: Con heo nái của anh Hai nếu ngủm cù đeo nghẻo cù đum Chú cu mồi của bác Côi mù ngấc cẳng quay ngay cẳng quấc Những câu đối khác chưa rõ sự tích và tác giả: Chê số đời, chơi số đề, cầu giải số, cố giải sầu, càng cố càng sầu Cầm cái đuốc, cuốc cái đầm, soi đầy ốc, xốc đầy oi, càng soi càng xốc Làm giáo chức, nên phải giứt cháo Thảo chương rồi, để được thưởng chao Kỹ sư đôi lúc làm cư sĩ Thầy giáo lắm phen cũng tháo giày Chiều ba mươi, thầy giáo tháo giày ra chợ bán Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang Tháng Đầy Thầy Đáng dăm lon gạo Lương thầy Tiền Lính Tính Liền xong Thầy giáo tháo giầy, vấy đất vất đấy Thầy tu thù Tây, cầu đạo cạo đầu Nói đế chuyện xếp hàng mua tiêu chuẩn Tết thời bao cấp, có câu đối như sau: Tí mỡ, tí miến, tí mì chính, bán bìa số 9, chen bẹp ruột Lít dầu, yến củi, yến mùn cưa bán ô số 3, xô lòi gan Vẽ bức tranh Xuân: lợn béo, gà to ưng ý vợ Đề câu đối Tết: khoai sai lúa tốt đẹp tình chồng Cán bộ to đi xe nhỏ Nhân viên thấp ở nhà cao Xuân vẫn còn dài, hướng đến tương lai vùng đất mới Tết dù đã ngắn, quay nhìn dĩ vãng cảnh người xưa Giao thừa hái lộc, cung kính ông bà, rượu rót đôi ly, nghe lời chúc Mồng một đơm hoa, nhớ ơn cha mẹ, trà dâng ba chén, nhận lì xì Mừng xuân đất nước an toàn giao thông tiến Đón xuân gia đình hạnh phục lộc an khang Đón xuân, đón tết, đón đất nước vươn mình gió lặng trời trong vui mọi nẻo Mừng Đảng, mừng dân, mừng non sông đổi mới hoa thơm trái ngọt đẹp muôn nhà Tết trồng cây non nước rộ mầu xanh, xanh vạn thuở ấm tình Người vĩ đại Xuân kiến thiết quê hương bừng nét đẹp, đẹp muôn đời công đức Đảng quang vinh Cán bộ giữ chữ chính, liêm phấn đấu hy sinh, dân hạnh phúc ắt bền gốc rễ Nhân dân nhớ câu cần, kiệm quên mình lao động, nước phồn vinh do tự ngọn nguồn Mừng tết luyện quân hùng, chiến thuật tinh thông, tỉnh táo gác canh trời Tổ quốc Đón xuân rèn tướng giỏi, bài binh bố trận cơ mưu phòng vệ đất quê hương Trải nghìn năm văn hiến, đất Thăng Long từng quy tụ nhân tài Tiếp truyền thống hào hoa, người Hà Nội luôn mở mang tri thức Hai mươi tuổi trẻ măng, các cụ cũng gọi thầy nghe mà đỏ mặt Sáu chục xuân già cả, con trẻ tự xưng em nghĩ lại tươi đời Nhớ thủa rồng lên ngày mới Thăng Long, Vua Lý dâng hương tiên tổ Vào mùa én liệng, tiết xuân Hà Nội, Bác Hồ chúc Tết nhân dân Ngày xuân kiến tạo bức tranh xuân, vươn tới đỉnh cao Chân - Thiện - Mỹ Năm mới dựng xây con người mới, chói ngời gương sáng Đức - Tài - Tâm Già mẫu mực, tâm đức nêu gương, việc đạo việc đời. truyền con cháu Trẻ xông pha. nhiệt tình phấn đấu, chữ trung, chữ hiếu, học ông bà Đổi mới không đổi đường, nối gót ông cha giương cao cờ độc lập Hoà nhập chẳng hoà tan, noi gương tiên tổ mài sắc chí kiên cường Mấy nghìn năm giữ nước lấy nhân nghĩa thắng bạo tàn tết đến trời Nam xuân một cõi Bao thế hệ xây đời, biến khó khăn thành thuận lợi xuân sang đất Việt tết muôn nhà",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Doha",
"role": "user"
},
{
"content": "Doha là thành phố thủ đô Qatar. Doha (tiếng Ả Rập: الدوحة, chuyển tự: Ad-Dawḥah hay Ad-Dōḥah), dân số 400.051 (số liệu điều tra năm 2005 [cần dẫn nguồn]), là thủ đô của Qatar có tọa độ 25.3° B 51.5333° Đ, bên Vịnh Ba Tư. Doha nằm ở Ad Dawhah municipality, đôi lúc được gọi là capital municipality. Đây là thành phố lớn nhất của quốc gia này với 80% dân số của quốc gia này sống ở Doha và ngoại ô của nó. Đây cũng là trung tâm kinh tế của Qatar. Đây cũng là nơi có Thành phố đại học. Sân bay quốc tế Doha là sân bay quốc tế duy nhất của Qatar. Đây là trung tâm hoạt động của hãng Qatar Airways, và có nhiều hãng hàng không quốc tế đang hoạt động. Do sự tăng trưởng nhanh của thành phố và của hãng Qatar Airways, nhiều người cói sân bay này là quá chật hẹp và không thể phục vụ tốt các hãng hàng không qua đây. Một sân bay mới Sân bay quốc tế Doha mới đang được xây dựng để giải quyết tình trạng này. Hiện hãng hàng không Qatar Airways có tuyến bay thẳng với Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hãng hàng không Qatar Airways đang xây dựng một mạng lưới toàn cầu từ đó và đã kết nối thành phố với các điểm đến trong Phi, Châu Á, Úc, châu Âu, tiểu lục địa Ấn Độ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Wi-fi có khắp sân bay. Do sân bay này thường xuyên đông đúc, nên để dành 3-4 giờ cho check-in, đặc biệt là trong thời gian cao điểm. Nếu bạn đang đến từ bên ngoài khu vực Vịnh Ba Tư, có lẽ là cách kinh tế nhất là sử dụng Qatar như một điểm dừng chân trung gian trên đường đến địa điểm khác. Giá vé nguồn gốc hoặc chấm dứt tại Doha là giả tạo cao do sự cạnh tranh hạn chế, trong khi giá vé quá cảnh là rất cạnh tranh, do Qatar Airways tiếp tục làm việc để xây dựng Doha như một trung tâm trung chuyển toàn cầu. Nếu bạn đã có trong hoặc xung quanh khu vực Vịnh Ba Tư, cách rẻ nhất để bay đến Doha là bay với Air Arabia hoặc Flydubai , nhưng bạn sẽ gần như chắc chắn phải phá vỡ cuộc hành trình của bạn trong Sharjah hay Dubai, trung tâm của các hãng hàng không trong United Arab Emirates. Đối với một danh sách đầy đủ của các địa điểm kết nối với Thủ đô Doha. Doha có hệ thống xe bus nhưng chỉ có nhóm người thu nhập thấp sử dụng. Dân thu nhập cao thích đi xe hơi riêng hơn và điều này đã dẫn đến sự tắc nghẽn gia tăng trong thành phố dù chính quyền thành phố đã đầu tư nâng cấp đường sá. Hàng loạt đường cao tốc, nút giao thông đã được xây dựng. Doha có hàng loạt taxi đang hoạt động. 25.295322Bảo tàng Nghệ thuật Hồi giáo1 Bảo tàng Nghệ thuật Hồi giáo, Next to Doha Port, on the Corniche (Route 76 bus; shuttle bus), ☎ +974 4422 4444. 10:30 sáng-5:30 tối CN, thứ Hai, Tư, 12-8 giờ tối thứ 5, Thứ Bảy, 2-8 giờ tối thứ Sáu; đóng thứ 3. Viện bảo tàng hàng đầu của Doha. Nằm trong một tòa nhà được thiết kế bởi IM Pei, bảo tàng tổ chức các đồ tạo tác từ triều đại Hồi giáo trên toàn châu Á, châu Phi và châu Âu. Ngoài ra hiện nay là các hiện vật từ các triều đại Al-Thani, cũng như nghệ thuật từ tất cả các phần của Trung Đông. Miễn phí. 25.310540Mathaf: Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Ả Rập2 Mathaf: Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Ả Rập, Al Luqta St, Education City (xe buýt), ☎ +974 4402 8855, e-mail: mathaf_info@qma.org.qa. 11 sáng-6h chiều thứ bảy-thứ 5; 3-9h tối thứ 6; đóng cửa thứ hai. Một nhà xây dựng thiết kế đặc biệt một bộ sưu tập nghệ thuật hiện đại của thế giới Ả Rập, dựa trên một bộ sưu tập cá nhân tích lũy được của Sheikh Hamad bin Khalifa Al Thani. Bảo tàng cũng tổ chức triển lãm thường xuyên các nghệ sĩ đương đại quốc tế công nhận. Dịch vụ đưa đón hàng giờ cung cấp vận chuyển miễn phí giữa MIA và Mathaf W-Su 11:00-05:00, thời gian giữa hai bảo tàng lái xe là 20-30 phút. Miễn phí. 25.286800Bảo tàng Quốc gia Qatar3 Bảo tàng Quốc gia Qatar, End of Al Muthaf St. Hiện nay đóng cửa; do mở tháng 12 năm 2014. Bạn vẫn có thể nhìn thấy tòa nhà được thiết kế rất lạ mắt và cung điện đầu thế kỷ thứ 20 từ bên ngoài. Bảo tàng vũ khí, Al Luqta area, ☎ +974 486 7473. Bảo tàng trưng bày vũ khí và đồ tạo tác có niên đại từ thế kỷ 16. Bộ sưu tập có thanh kiếm nghi lễ tráng lệ áp đảo thuộc về các thành viên của gia đình cầm quyền của Vùng Vịnh. Noodle House, three locations, ☎ +974 4411 5063 (City Center Mall), +974 4417 5682 (Landmark Mall), +974 4495 3876 x2531 (The Pearl-QatarFORMAT, Porto Arabia)FORMATNOCC, e-mail: info@thenoodlehouse.com. noon-11pm. Nhiều món ăn Đông Nam Á. 25.281518Oishi Sushi4 Oishi Sushi, Al Sadd St (Royal Plaza Mall), ☎ +974 442 8989. Món ăn Nhật Bản. 25.242027Royal Bafilyon5 Royal Bafilyon, Salwa Rd (sau trạm xăng Al Jazeera bên kia của Quality Hypermarket), ☎ +974 7721 9865. Nhà hàng Quảng Châu. 25.324702Shanghai Garden6 Shanghai Garden, City Centre Mall (West Bay), ☎ +974 4493 3188. 11am-11:30pm. Món ăn Trung Hoa. 25.286099Sri Kebaya7 Sri Kebaya, Souq Waqif, ☎ +974 4434 0838. 11:00am-11:30pm daily. Món ăn Malaysia. 25.274816Thai Corner8 Thai Corner, The Centre, Salwa Rd (adjacent to MegaMart), ☎ +974 6640 7858. Sa-Th 10:30am-10pm, F 1:30pm-10pm. Món ăn Thái. 25.302063Thai Smile9 Thai Smile, Al Corniche (Rumaila Park), ☎ +976 4431 6466. Su-Th 11.30am-10.30pm, F-Sa noon-10.30pm. Món ăn Thái. 25.274513Thai Snack10 Thai Snack, Al-Mirqab St (near Doha Clinic, adjacent to a Thai massage parlor), ☎ +974 4432 9704. daily 10:00am-2:30pm, 5:00pm-10:30pm. Món ăn Thái",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Timişoara",
"role": "user"
},
{
"content": "Timişoara là một thành phố thuộc Romania. Timișoara (phát âm tiếng Romania: [timiˈʃo̯ara] (listen); tiếng Đức: Temeswar, tên cũ là Temeschburg hay Temeschwar, tiếng Hungary: Temesvár, tiếng Serbia: Темишвар/Temišvar, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Temeşvar), là một thành phố Romania. Thành phố thủ phủ hạt Timiş. Đây là thành phố lớn thứ 4 quốc gia này. Thành phố Timişoara có dân số 317.660 người (theo điều tra dân số năm 2002), diện tích 192,2 km2. Thành phố có độ cao 90 mét trên mực nước biển.",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Lagan",
"role": "user"
},
{
"content": "Lagan (tiếng Nga: Лагань) là một thị trấn ở nước Cộng hòa Kalmykia, trực thuộc Liên bang Nga. Nó nằm gần bờ biển Caspi, cách thành phố Elista khoảng 315 km. Thị trấn được thành lập vào năm 1870. Dưới thời kỳ Xô viết, nơi này được gọi là Kaspiysky. Trong Thế chiến thứ II, thị trấn đã từng bị quân Đức Quốc xã chiếm đóng. Theo cuộc điều tra dân số năm 2010, Lagan có 14.323 cư dân. Đây là đô thị lớn thứ hai của Kalmykia. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở khu vực này là 11 °C. Tháng ấm nhất là tháng 7, khi nhiệt độ trung bình là 25,4 °C và lạnh nhất là tháng 2, với −2,4 °C. Lượng mưa trung bình hàng năm là 233 mm. Tháng ẩm ướt nhất là tháng 6, với lượng mưa trung bình là 30 mm, và khô nhất là tháng 2 với 11 mm. Mỗi ngày có hai chuyến xe buýt khởi hành từ Astrakhan và sẽ đến Lagan sau 4 giờ. Giá vé thường ở mức 235 rúp. Bạn có thể đi ô tô từ: Elista đến Lagan (qua tuyến quốc lộ P-216), mất 3 giờ 25 phút. Astrakhan đến Lagan (qua tuyến quốc lộ E-119), mất 2 giờ 21 phút. Kizlyar đến Lagan (cũng qua E-119), mất 2 giờ 48 phút. Thị trấn này đủ nhỏ để bạn đi bộ đến các điểm tham quan khác nhau. 45.406871075635976Chùa Phật giáo Laganskiy1 Chùa Phật giáo Laganskiy (Лаганский хурул) (nằm ở phía tây bắc thị trấn), ☎ +7 847 339-30-31. 45.386469655748385Nhà thờ thánh Nicholas2 Nhà thờ thánh Nicholas, ☎ +7 847 339-29-02. 45.391651Bảo tàng Lịch sử Địa phương3 Bảo tàng Lịch sử Địa phương (Краеведческий музей), ☎ +7 847 339-16-61. 45.394767741696036Sông Laganskiy1 Sông Laganskiy (chảy qua thị trấn). Bạn có thể câu cá hoặc chèo xuồng trên sông. Các hoạt động khác bao gồm cưỡi ngựa và đi dạo ở vùng ngoại ô. 45.390674111231554Cửa hàng Magnit1 Cửa hàng Magnit, 36B đường Batashova, ☎ +7 800 200-90-02. 08:30–20:30 hàng ngày. 45.38959655043104Cửa hàng Pokupochka2 Cửa hàng Pokupochka, 4G đường Zhigul'skogo, ☎ +7 800 200-95-05. 45.39904089357217Cửa hàng Magazin Severyanka3 Cửa hàng Magazin Severyanka (Магазин Северянка). 45.391304045144516Cửa hàng Oyrat4 Cửa hàng Oyrat, 11 đường Zhigul'skogo, ☎ +7 927 899-80-00. 45.391213703272065Cửa hàng Karavan5 Cửa hàng Karavan, trên đường Sovetskaya. 45.39118669481812Nhà hàng God Food1 Nhà hàng God Food, 39G đường Batashova, ☎ +7 937 194-88-84. Chuyên phục vụ đồ ăn nhanh. 45.3909832743719Nhà hàng Bistro Kushat' Podano2 Nhà hàng Bistro Kushat' Podano. 10:00–16:00 hàng ngày. 45.39076Quán cà phê Bistro \"Kushat' podano\"1 Quán cà phê Bistro \"Kushat' podano\" (Бистро \"Кушать подано\"), trên đường Batashova. 45.39241Quán cà phê Khadris2 Quán cà phê Khadris (Хадрис), trên đường Kanokhova. 45.384508755204514Khách sạn Alenushka1 Khách sạn Alenushka (cách nhà thờ thánh Nicholas khoảng 188 m về phía nam), ☎ +7 847 339-19-76. 45.3920389124151Khách sạn Gostevoy Dvor2 Khách sạn Gostevoy Dvor, ☎ +7 927 283-57-70. 45.401597215279125Bệnh viện huyện1 Bệnh viện huyện (Районная Больница), 1 đường Gorodovikova, ☎ +7 847 339-13-65. 45.38970963912374Hiệu thuốc2 Hiệu thuốc (Аптека) (cách ngân hàng Sberbank khoảng 80 m về phía đông bắc). Từ Lagan, bạn có thể đi tới: Khu bảo tồn thiên nhiên \"Đất Đen\", cách đó 146 km về phía đông nam. Vùng này được biết đến với những bông hoa tulip đầy màu sắc Khu bảo tồn thiên nhiên Mekletinsky, cách đó 112 km Khu bảo tồn thiên nhiên Dagestan, cách đó 78 km Oranzherei, thuộc tỉnh Astrakhan",
"role": "assistant"
}
] |
[
{
"content": "You are a helpful and knowledgeable assistant. Give it a title and your task is to honestly answer information from encyclopedic knowledge.",
"role": "system"
},
{
"content": "Yerevan",
"role": "user"
},
{
"content": "Yerevan (tiếng Armenia: Երեւան or Երեւան), đôi khi được viết là Erevan, các tên cũ: Erebuni, Revan, và Erivan - là thủ đô và là thành phố lớn nhất Armenia. Thành phố này nằm bên sông Hrazdan, là trung tâm công nghiệp, văn hóa, hành chính của quốc gia này. Thành phố này đã là thủ đô của Armenia kể từ năm 1918, là thủ đô thứ 12 trong lịch sử Armenia. Lịch sử của Yerevan bắt đầu tính từ thế kỷ 8 trước Công Nguyên, với việc thiết lập pháo đài Urartia Erebuni năm 782 trước Công Nguyên tại cực tây của đồng bằng Ararat. Sau thế chiến I, Yerevan đã trở thành thủ đô của Cộng hòa Dân chủ Armenia khi hàng ngàn người sống sót sau vụ diệt chủng Armenia đã định cư tại khu vực này. Thành phố đã được mở mang nhanh chóng trong thế kỷ 20 khi Armenia trở thành một trong 15 nước cộng hòa trong Liên Xô. Trong 50 năm, Yerevan đã được phát triển từ một thị xã vài ngàn dân trong thời kỳ đầu của nước cộng hòa thành một trung tâm công nghiệp, nghệ thuật lớn, là trung tâm hành chính của quốc gia. Với sự phát triển của kinh tế Armenia, Yerevan đã trải qua một thời kỳ chuyển đổi lớn khi cả thành phố trở thành một đại công trường xây dựng vào đầu thập niên 2000. Ngày nay, các công trình mới xây dựng này đã bắt đầu xóa dần các công trình được xây trong những năm của thập kỷ 70, thời kỳ thống lĩnh của nhà nước Xô Viết. Năm 2007, dân số của Yerevan ước tính 1.107.800 người, nếu tính vùng đô thị xung quanh ước tính 1.245.700 người. ), chiếm hơn 42% dân số Armenia. Sân bay quốc tế Zvartnots (tiếng Armenia: Զվարթնոց Միջազգային Օդանավակայան) (IATA: EVN, ICAO: UDYZ) là cửa ngõ hàng không chính của Armenia, tọa lạc gần Zvartnots, cách Yerevan, thủ đô của Armenia 10 km về phía tây. Nhiều hãng hàng không bay đến Yerevan ngoài Armavia: AirFrance, Lufthansa, Iran Air, Czech Airlines, Austrian Airlines, Aeroflot và muốn. Yerevan được kết nối với tất cả các thành phố lớn của châu Âu và Trung Đông: London, Paris, Amsterdam, Athens, Moscow, Vienna, Berlin, Prague, St Petersburg, Zurich, Minsk, Riga, Kiev, Istanbul, Dubai, Aleppo, Tehran, Beirut và do đó trên. Air Arabia kết nối Yerevan đến các quốc gia vùng Vịnh, Ai Cập và Ấn Độ thông qua Sharjah. Armavia mở cửa trở lại tuyến bay Yerevan - Tbilisi - Yerevan một lần nữa, với hai chuyến bay hàng ngày (tháng 7 năm 2011) Một tuyến xe buýt công cộng N107 có sẵn trong ngày thời gian cho khoảng 0,7$, chạy đến nhà hát opera ở trung tâm Yerevan. Xe taxi từ sân bay đến thành phố sẽ có giá từ 3000 AMD 3000 (10$) đến trung tâm, và lên đến 5000 AMD (16$) cho các khu vực xa nhất của thành phố. Một số tài xế có thể cố gắng thuyết phục bạn phải trả thêm tiền, nhưng không bao giờ tin họ, và nói với họ bạn sẽ gọi cảnh sát (những người sẽ giúp bạn). Gần như 100% xe taxi đang sử dụng một đồng hồ taxi (sheochik), vì vậy, tốt nhất nếu bạn có đồng nội tệ với bạn để trả tiền cho chuyến đi.",
"role": "assistant"
}
] |